TIN LÀ MỞ CỬA TÂM HỒN…

TIN LÀ MỞ CỬA TÂM HỒN…

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43

Họa sĩ Holman Hunt (1827 – 1910) vẽ xong bức tranh Đức Giêsu đang đứng gõ cửa một ngôi nhà nhỏ. Ông mời bạn bè đến góp ý xem có gì sai sót.

Thấy bức họa, các bạn trầm trồ khen ngợi và không thấy có gì sai. Ông Hunt cứ thúc dục các bạn xem kĩ lại. Cuối cùng, một hoạ sĩ còn rất trẻ lên tiếng : “Thưa Ngài, tôi thấy có một sai lỗi trên bức danh hoạ. Ngài đã quên không vẽ tay cầm hay ổ khoá nơi cửa”.

Hunt đáp: “Này bạn, khi đức Giêsu gõ cửa nhà bạn, thì cửa phải mở từ bên trong”.

Bà góa mắc bệnh băng huyết và của ông trưởng hội đường tên là Giarô có người con bệnh nặng sắp qua đời đã mở cửa tâm hồn mình bằng niềm tin như Tin Mừng Mc 5,21-43 ghi lại:

  • Bà góa bị bệnh băng huyết, quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi, cho nên coi như bà là người đã chết. Hơn thế nữa, theo luật Môisen (Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng:  bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Messia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà “chạm đến áo Người”, chạm đến áo Người trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào luật lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
  • Ông Giarô đã không hề ngại đến thân thế của trưởng hội đường, khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng: “Xin Ngài đặt tay trên nó” (Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x.Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng : Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy – Đấng Messia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b),  dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giarô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định: “Niềm tin của con đã cứu chữa con”  (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Ðược lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý nhưng còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng.

Còn ông Giarô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai: “Con ông đã chết rồi ” (Mc 5,35).

Sống đức tin là mở cửa tâm hồn dám sẵn sàng đi ra khỏi chính mình để gặp Chúa tin và đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp, sờ áo Chúa và ông Giarô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.

Thánh Augustinô đã suy niệm: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin”. Bà góa tin rằng sờ vào áo thầy thôi là được khỏi, và bà đã được như lòng tin muốn, ông Giarô tin rằng Thầy sẽ chữa lành con ông đang bị bệnh, còn lạ lùng hơn, ngay cả con ông đã chết vẫn được sống như ông mong ước khi tin vào Thầy.

Ngày hôm nay, với cái nhìn tổng quát cuộc sống, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn… Thế nhưng chúng ta lại có vẻ bề ngoài như người mạnh khỏe, có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của mình và vì thế cơn bệnh luôn hiện diện và hoành hành trong chúng ta thầm lặng, có lúc bùng phát như cơn bệnh ung thư. Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giarô xin Thầy đến bên con gái đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.

Thật thế, mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy: “Như trẻ thơ đặt hết  niềm tin  nơi Chúa” (Tv 131,1)

Và xác tín rằng: “Ai tin ở Người thì được  sống…” (Ga 3,15)

Lm. Vinh Sơn,

Sài Gòn, 27/06/2015

CHÚA GIÊSU TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ

CHÚA GIÊSU TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 647

Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hiroshima nước Nhật thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.

Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng Thánh Lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng Thánh Lễ. Nhà Nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn.

Tôi bắt đầu dâng Thánh Lễ giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự Thánh Lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các Linh Mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng !

Vài phút sau, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giêsu Kitô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết, “Không biết Ngài ở giữa họ” ( Ga 1, 26 ). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài.

Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”.

Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này !” ( Mt 9, 36; Mc 6, 34 ). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” ( 1Tm 2, 4 ).

Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã Nhà Dòng chúng tôi ( chỉ có hai người đã chết ở đó ), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Tất cả họ đều nhận ra Đức Ái Kitô Giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. ( Phêrô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi ).

Tin Mừng Chúa Nhật 13 thường niên hôm nay, Thánh Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.

Chạm tay

Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.

Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Pharisêu mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các Bí Tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Kitô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.

Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa.

“Từng ngàn bệnh nhân trong nhà Thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 232 ).

Cầm tay

Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi”. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.

Trong ba phép lạ cho sống lại, như Ladarô ( Ga 11, 43-44 ), con trai bà góa thành Nain ( Lc 7, 12-15 ) và con gái ông Giaia ( Mc 5, 41 ), thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt ( Mc 1, 31 ), cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt ( Mc 8, 23 ), cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám ( Mc 9, 27 ).

Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” ( Tv 23 ).

Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán ghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.

“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em ( 1Ga, 3, 16 ). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân ?” – “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình”, “dấn thân thương mại.” ( Đường Hy Vọng, số 612 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già”

“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già”
Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
Lời tôi xây cho vững tay cầy
Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy
Lời ca êm ru giấc ngủ say.”

(Phạm Duy – Tiếng Hát To)

(Êphêsô 4: 29 tt)

Trần Ngọc Mười Hai

Cái “Tôi” đó, có hát to hơn cả bầy “tôi” đây là bần đạo, thì cũng vẫn lạo khạo/lào xào, nhưng chẳng bao giờ “nổ bạo” như ở trên.

Quả thật, trên đời này là gì có ai lại tự hào rằng mình hát to hơn cả sung đạn, lẫn thuốc “nổ” bạo, bên bờ ruộng già kia chứ? Thôi thì, ta cứ để nhạc-sĩ già nhà mình cứ hát thêm đôi lời lẽ đượm nhoè giòng lệ, vẫn như sau:


“Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa

Một miền quê, một miền quê tim héo và khô

Lời tôi ca khâu vá tình thương

Lời hôm qua chắp nối Con Ðường (1)

Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn (2)

Lời mai đây cao ngút Trường Sơn (3).

(Phạm Duy – bđd)

Tuy hát thế, nào đã to bằng những lời nho nhỏ vẫn còn vang vọng ở đâu đó, như bảo rằng:

“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù

Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu

Lửa âm u ai đốt từ lâu

Miền quê tôi khan tiếng kêu gào

Lời tôi ca như nước nhiệm mầu

Thành mưa rơi cho dứt niềm đau

Lời tôi ca, lời tôi ca xua hãi hùng đi

Mùa xuân qua ai mất tuổi thơ

Lời tôi ca hôn má xuân già

Còn yêu nhau xin cứ mặn mà

Ðừng cho ai ăn cướp tình ta”…

(Phạm Duy – bđd)

Thế đó, là giọng hát to/nhỏ ở ngoài đời, thật thấm-thiá. Còn đây, là những lời nhỏ/to nơi nhà Đạo. Nơi, vẫn có bậc thánh-nhân hiền-lành tuy không hát, nhưng vẫn nhắn và nhủ những lời rất như sau:

Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,

nhưng nếu cần,

hãy nói những lời tốt đẹp,

để xây dựng và làm ích cho người nghe.

Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa,

vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em,

để chờ ngày cứu chuộc.

Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn,

hay la lối thoá mạ,

và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.

Trái lại, phải đối xử tốt với nhau,

phải có lòng thương xót

và biết tha thứ cho nhau,

như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.”

(Thư Êphêsô 4: 29tt)

Thật ra thì, có hát hoặc nói những lời to nhỏ, không phải để thốt ra những lời độc địa”, mà chỉ muốn bà con mình “nói những lời tốt đẹp”, ở trên đời. Thật sự thì, cứ nói nhỏ nói to hoặc biểu-tỏ những điều hay/lẽ phải ở đâu đó trong nhà Đạo, không bằng lời. Nhưng đôi lúc lại cứ như tiếng khóc được nghệ-sĩ diễn-tả ở câu tiếp:

Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang ngồi vỉa hè

Trẻ bơ vơ, trẻ bơ vơ đi giữa vườn hoa

Hỏi thăm em, em có mẹ cha

Hỏi thăm em, em có ông bà

Hỏi thăm em, em có cửa nhà

Một ngày qua em mất cả bạ

Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang tìm nụ cười

Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, xin đến gần tôi

Cùng em côi tôi có bàn tay

Và đôi môi tôi hát ăn mày

Chia hạt cơm rơi hay bát gạo đầy

Cùng ngủ ven sông hay gối bụi câỵ

Tôi sẽ khóc cho em gái nhỏ theo mụ chủ nhà

Một chiều mưa, một chiều mưa đi trong ngõ bùn nhơ

Từ vườn quê ra chốn phồn hoa

Người em xua dĩ vãng đen nhoà

Rồi đêm đêm son phấn nhạt mờ

Mới nhận của tôi dâng mấy lời thơ

(Phạm Duy – bđd)

Hôm nay đây. Bần đạo này, có nói hoặc có khóc những lời to/nhỏ, hay sao đó, cũng chỉ để thưa và thốt với bạn bè người thân đang đọc giòng chảy văn hoa đầy ý nhạc, cũng là có ý muốn trích thêm những điều được đấng bậc ở chốn trên cao, nhà Đạo Úc Châu từng nói và có khi khóc ròng, những giòn viết như sau:

“Lần họp cuối cùng vừa rồi ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma dạo tháng 10 năm 2014, có nhiều vị vẫn tìm cách nhìn vào gia-đình thời hiện-đại ngang qua viễn-kính mục-vụ; thành thử, mới thấy rằng có quan-ngại đặc-biệt về cảnh-tình trong đó, xem như vẫn có một tranh-chấp hoặc còn gọi là xung-đột giữa tín-điều của Hội-thánh và nhu-cầu mục-vụ cho chúng dân. Ở đây, lại thấy nảy sinh hai chủ-đề chính khiến ta cần tìm đến.

Có vị quan-ngại về tình-huống của những người con ở Giáo-hội đã lớn lên nên mới khám-phá ra rằng: bản-chất tự-nhiên của họ vẫn cứ hướng chiều về tính-dục như người đồng-tính nam hay nữ, cả những người lưỡng-tính hoặc những kẻ chuyển giới.

Tín-lý với giáo-điều từng bảo rằng: bất cứ hành-xử tình-dục nào thực-hiện ngoài phạm-vi giữa nam-nhân và nữ-giới đã hôn-phối và mở ra để cùng kiến-tạo đều méo-mó và vi-phạm tội trọng đến chết người. Nhu-cầu mục-vụ lại bảo rằng: hôn-nhân khác phái không là điều để những người như thế sử-dụng mà thay-thế. Và, mấy người này lại cảm thấy không phải là lời mời gọi nhẹ nhàng nhất cho cuộc sống độc-thân hoàn-toàn mà lời giáo-huấn như thế đòi hỏi họ phải chịu sự trừng-phạt đớn đến muôn đời.

Quan-ngại thứ hai, là: tình-cảnh của các người Công-giáo từng thất-bại trong hôn-nhân và sau đó lại đã tái-giá. Tín-lý trong Đạo từng dạy rằng: hôn-nhân là điều ta không thể phân-cách/giải-toả, thế nên cặp phối ngẫu ấy phải cố sống trong tình-trạng tội trọng vẫn kéo dài. Trong khi nhu-cầu mục-vụ lại bảo rằng: những người như thế vẫn cảm thấy mình luôn bị đẩy lùi ra khỏi Thánh hội và không được hiệp-thông rước Chúa vào lòng.

Nhiều vị đã phát-biểu ở Thượng Hội-Đồng Giám Mục vừa rồi từng cố-gắng tìm cách có giải-pháp mục-vụ nằm trong khuôn-khổ tín-lý/giáo-điều; nhưng, lại phải nói rằng điều các vị làm vẫn chưa đạt kết quả là bao nhiêu. Một số vị khác lại kiên-quyết chống lại các động-thái tựa hồ như thế, nên đã nhấn mạnh nhiều vào tính-cách xít-xao trọn vẹn của giáo-huấn trong Đạo.

Với tôi, chừng như đa số các nghị-phụ đều rất chân-phương khi các ngài lo-lắng làm sao phải đạt nhu-cầu mục-vụ mới được. Tuy thế, các vị này lại tin rằng bất kỳ giải-pháp mục-vụ nào cũng phải nằm trong khuôn-khổ của truyền-thống giáo-huấn có tín-lý/giáo-điều hẳn hoi và các ngài lại đã thực sự không biết mình sẽ đi về đâu.

Riêng tôi, có đề-nghị là giả như nghị-trình thứ hai của Thượng Hội-đồng Giám Mục Rôma năm 2015 là kiếm tìm câu giải-đáp, thì việc đầu tiên các nghị-phụ phải làm cho được là nghiêm-chỉnh nhìn vào giáo-huấn của Hội-thánh có liên-quan ngõ hầu xem các ngài có thể cho phép mở ra con đường mà tiến về phía trước trong kiếm tìm các giải-pháp mục-vụ, thì hơn. Đó là điều, riêng tôi vẫn muốn làm trên cương-vị của mình, ở đây, bây giờ.

Tôi đây, không tìm cách áp-đặt mọi người phải thông-hiểu điều này điều nọ, cho bằng mở ra cho thấy còn có nhiều thứ phải tính đến hơn là chỉ mỗi hai chủ-đề hiện có trong giáo-huấn của thánh hội mình.

Thế nên, đề nghị với bạn đọc phần “Mở Đầu” gọn nhẹ theo bối-cảnh ấy của cuốn “The 2015 Sydnod, The crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015 đã xuất-bản)

Xem thế thì, bạn và tôi đây, ta cũng nên tìm đọc cho biết cuốn sách của đấng bậc có tên ở trên đã xuất bản, nhưng chưa kịp dịch. Giả như, tôi và bạn có trong người đầy tính thi-ca/âm nhạc theo lối nói ở trên, chắc sẽ phải hát tiếp những câu sau:

“Tôi hát tiễn đưa dăm thiếu phụ quay về đường nhà

Lời tôi ca, lời tôi ca hun bếp lạnh tro

Lời như tơ như tóc tìm nhau

Giường thơm tho chăn gối tươi mầu

Mảnh gương to rơi vỡ ngày nào

Còn lại bao nhiêu vẫn soi rõ mặt nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Ấy! Ấy! Hỡi ngài nghệ-sĩ già của tôi ơi. Ngài có hát gì thì hát, cũng đừng hát những câu buồn rầu như thế. Mà, chỉ nên nói và nhắn nhủ với bà con người đọc cùng người nghe, những lời lẽ như sau:

“Trong các bài giáo lý vừa rồi, chúng ta đã nói về vấn-đề gia-đình sống có tính-chất mỏng dòn ở thân-phận con người, như nghèo khổ, bệnh hoạn, chết chóc.

Hôm nay, chúng ta chia sẻ về các vết thương thực sự xảy ra trong cuộc sống chung của gia-đình. Đó là những tai hại xảy đến trong chính gia-đình, một điều đáng sợ hơn cả. Chúng ta đều rõ là đời sống của bất cứ gia-đình nào cũng không thiếu các giây phút xảy đến các hành-xử của các phần-tử chạm đến những tình-cảm thân-mật chí-thiết. Có những lời nói và hành động cùng những việc bỏ qua không làm, thay vì tỏ bày tình yêu thương, thì lại làm giảm-sút hay tệ hơn nữa, còn sát-hại tình yêu thương, nữa…

Mọi sự đều liên-hệ với nhau trong cuộc sống gia-đình, khi tinh-thần của nó bị thương-tích ở nơi nào đó, thì mọi người đều bị cảm-nhiễm. Và khi người nam và nữ dấn thân để trở nên một xác-thịt hình thành gia đình, mà chỉ nghĩ đến nhu-cầu tự-do và thoả-mãn nhu-cầu tư riêng của mình, thì việc lệch-lạc này sẽ tác-hại sâu xa đến cõi lòng và đời sống của con cái. Rất nhiều lần con cái cứ phải âm-thầm khóc than…” (x. bài Giáo-lý số 23 Đức Phanxicô nói về Gia-đình hôm 24/6/2015, do bạn bè dịch và gửi qua vi-tính.)

Thế mới biết, tiếp tục cuộc sống gia-đình trong hoàn-cảnh khó-khăn, lạ lùng hơn khi trước, cũng không phải là chuyện dễ. Rất không dễ, nên nhiều đấng bậc trong Đạo lại đã tỏ bày bằng nhiều cách rất như sau:

“Trong một thế-giới đầy những giá-trị kiểu “bóng xà-phòng” cùng những thói giả-hình và lừa-bịp, thì Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khuyên các người trẻ hãy biết chiến-đấu “đánh trả”  bằng tình thương-yêu đích-thực, đồng thời hợp-tác dựng-xây nền kinh-tế mới mẻ dựa trên đức tính sáng-tạo và dũng-cảm.

Ngài cũng xin các bạn đạo ở Waldensia hãy tha thứ cho Hội thánh Công-giáo khi xưa đã xúc-phạm họ bằng việc “dứt phép thông công” và hành-quyết một số trong các vị tiên-tổ của họ từ nhiều thế-kỷ đến hôm nay.

Ngài có nói: “Tôi yêu-cầu quý vị tha-thứ cho các động-thái thiếu chất Kitô, có khi còn vô-nhân-đạo cùng những hành-xử mà trong quá khứ Hội thánh chúng tôi đã làm chống lại tiên-tổ của quý vị trong lịch-sử. Nhân danh Đức Giêsu Kitô, xin thứ lỗi cho chúng tôi…

Và cũng cùng ngày hôm ấy, 21 đến 22 tháng 6 năm 2015, trong chuyến viếng thăm thị thành ở miền Bắc nước Ý, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ cử chỉ có một không hai trong lịch-sử. Đức Giáo Hoàng thăm viếng khu tàng-trữ di-tích khăn Turin và cũng nhân dịp mừng kính 200 năm ngày sinh của thánh Gioan Bosco, ở đây.

Trong chuyến này, Đức Phanxicô còn kêu gọi tín-hữu Đức Kitô thuộc các giáo-phái khác nhau hãy hiệp nhất để đảm-bảo là từ nay mọi người trong chúng ta sẽ tập-trung nhấn mạnh vào Thiên Chúa trước nhất và sau đó mới để ý đến các khác-biệt của nhau. Việc tỏ-bày xin lỗi đại-diện những người anh em Waldensia và các Giáo-phái lâu nay vẫn cách-biệt, như: nhóm bạn đạo thuộc phái Mê-tô-đi, giáo-phái Tin Lành Truyền Đạo, Giáo-hội Luther và cộng-đoàn các giáo-hội bạn cùng tin vào Đức Kitô.

Ngài cũng đã thêm, rằng: vốn dĩ là anh em, chị em trong niềm tin, cũng tương-tự như anh chị em trong cùng một gia-đình, điều đó không có nghĩa là chúng ta giống nhau hoàn toàn như giọt nước, nhưng lại có nghĩa là: ta có cùng một số điều giống nhau, cũng xuất tự một nguồn gốc.

Thượng-phụ phái Waldesia là Mục sư Eugenio Bernardini có n ói với Đức Phanxicô là: sự việc ngài thăm viếng đất miền này tượng-trưng cho việc vượt cao lên tường thành ngăn-cách từng dựng đứng đến tám thế-kỷ, khi phong trào của Waldensia bị kết-án là bè rối và bị dứt phép thông công khỏi Giáo hội Công giáo…” (xem phần tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 28/6/2015, tr. 12)

Nghe biết thế rồi, nay đã rõ: ở trong Đạo lẫn ngoài đời, vẫn có tình-huống khá khó xử. Bởi thế nên, để minh-hoạ một đời sống không khó mấy trong hiệp-thông đoàn-kết, tưởng cũng nên học hỏi nhiều điều từ trường đời ở đó có những người từng bày-tỏ như sau:

“-Tôi học được rằng:

Tự hiểu mình là điều quan trọng nhất.

-Tôi học được rằng:

Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v…*

-Tôi học được rằng:

Hãy xét đoán chính mình mà đừng xét đoán kẻ khác dầu họ tốt xấu thế nào đi nữa …

-Tôi học được rằng:

Đừng là gì cả… Nếu là gì đó bạn sẽ đau khổ…Vì bạn sẽ khó mà sống với con người thật, với giá trị thật của chính mình….

-Tôi học được rằng:

Ai biết lắng nghe, học hỏi, chiêm nghiệm bài học của chính đời mình, dù khổ hay vui, dù thành hay bại, người ấy đang thật sự thiền, hay đúng hơn là đang sống giáp mặt với chân lý muôn đời*

-Tôi học được rằng:

Đừng bám víu vào điều gì, vì bám víu là dính mắc, là trói buộc là đau khổ…Và là không còn thong dong tự tại nữa*

-Tôi học được rằng:

Thương và ghét, cả hai đều đau khổ bởi vì đều do tham ái gây ra. Muốn là khổ. Muốn mà không được cũng khổ. Ngay cả khi có được cái mà bạn muốn, cũng là đau khổ nữa, bởi vì khi được chúng, bạn lại lo sợ sẽ mất chúng.

-Tôi học được rằng:

Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành

-Tôi cũng học được rằng:

Mỹ phẩm tốt nhất là nụ cười. Nữ trang quý nhất là sự khiêm tốṇ. Trang phục đẹp nhất chính là sự tự tin!

-Tôi học được rằng:

Cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim

-Tôi học được rằng:

Bí quyết lớn nhất của thành công là thành thật.

-Tôi học được rằng:

Cuộc sống muôn đời vẫn đẹp chỉ có cái ta ảo tưởng mới

biến cuộc đời thành bể khổ mà thôi.

-Tôi học được rằng:

Cuộc sống vận hành khi bạn chọn những gì bạn đang có. Thật ra, những gì bạn đang có chính là những gì bạn đã chọn.

-Tôi học được rằng:

Thế giới là một sàn diễn. Ai cũng phấn đấu để có một vai. Đừng nản lòng khi gặp những điều kiện bất lợi.

-Tôi cũng học được rằng:

Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó về mình

-Tôi học được rằng:

Tâm là tên lừa đảo lớn nhất. Người khác có thể dối bạn nhất thời, tâm dối gạt bạn suốt đời.

-Tôi cũng học được rằng:

Hạnh phúc đích thực là ngay nơi thực tại đang là…

-Tôi học được rằng:

Nếu suốt đời chỉ lo chờ mưa bão, thì sẽ không bao giờ thưởng thức được nắng ấm.

-Tôi cũng học được rằng:

Đừng bao giờ so sánh cuộc đời mình với bất cứ ai, vì mỗi người là bài học nhân quả của chính cuộc đời của họ

-Tôi học được rằng:

Mỗi khi xa rời người thân yêu, hãy luôn nói lời thương yêu nhất, bởi có thể đó là lần cuối ta gặp họ.

-Tôi học được rằng:

Ngay cả khi trắng tay, ta vẫn có thể thấy được mình thật giàu có để giúp đỡ mỗi khi bạn bè cần đến.

-Tôi cũng học được rằng:

Đã là bạn thân, dù không làm gì cả…”lặng nhìn không nói năng” ta vẫn có những phút giây tuyệt vời khi bên nhau.

-Tôi học được rằng:

Tình bạn chân thành sẽ mãi lớn lên dù cho có cách xa ngàn dặm, và tình yêu đích thực cũng thế đấy.

-Tôi học được rằng:

Mỗi khi ta rơi vào tâm trạng buồn, thương, giận, ghét…v…v…chỉ nhìn vào tâm như nó đang là…Đừng đặt tên, phán xét gì cả…Chính là ta đang trải nghiệm chân lý…

-Tôi học được rằng:

Hoàn cảnh sống có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của chúng ta, nên hãy ý thức về điều đó.

-Tôi học được rằng:

Người trưởng thành có nhiều điều phải suy nghĩ với những kinh nghiệm đã qua, và có được những bài học rút ra từ đó, và không bao giờ quan tâm nhiều đến việc mình đã tổ chức bao nhiêu lần sinh nhật.

-Tôi cũng học được rằng:

Chính sự mất mát, dạy cho chúng ta giá trị của mọi thứ.

-Tôi cũng học được rằng:

Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó cũng mỉm cười với bạn…” (Như Tuệ ghi lại lời chỉ bảo của đại sư Viên Minh)

Thế đó, là giòng chảy đầy suy tư để bạn và tôi, ta thưởng lãm. Thưởng lãm, bằng và ngang qua tâm-tình trầm-lắng, thân thương, khắc-phục. Tất cả, đều trong tư-thế rất vui vẻ có đính kèm đôi lời kể cũng khá vui, làm câu truyện minh-hoạ đáng để đời, như sau:

Một hành khách hớt hơ hớt hải gọi taxi và nói vội:

-Ông làm ơn chở tôi gấp đến phi trường giùm.

Tài xế bắt chuyện:

-Ông đi chuyến bay nào mà vội thế?

-Chuyến 386 đi Paris!

-Ồ, vậy thì có gì đâu mà gấp gáp đến như thế. Bởi lẽ, truyền thanh phát sóng trên loa đài báo là: chuyến bay số 386 này bị hoãn chờ phi-hành-đoàn…đấy! Ông tài xế dõng dạc tiếp lời thông-báo ra dáng sành sỏi việc nắm bắt thông tin trong/ngoài nước.

-Giời ạ! Nhanh lên một tí có được không, tôi đây là phi công chính của chuyến đó!

Thế đó, là thông-tin xẹt lửa đầy tình-tiết như chuyện thật ở đời. Chuyện xẹt lửa hay xịt khói ở đời còn tình-tiết hơn nhiều nữa với truyện kể rất dễ nể ở bên dưới:

“Ở cửa hàng bán hoa hôm ấy, có người đàn ông trạc cỡ trung niên chọn 3 đoá hoa hồng rồi bảo bà bán hàng rằng:

-Mấy bông hoa này, là để tôi gửi cho vợ tôi làm kỷ niệm ngày cưới đấy bà ạ. Thế nên, đề-nghị bà đính kèm vào đây một dải băng lụa thật đẹp với giòng chữ: Mỗi bông này đánh dấu một năm anh được hưởng hạnh phúc vợ chồng, với em cưng!

Bà bán hàng tỏ vẻ xúc động, bèn hỏi:

-Ông mới lấy vợ được có 3 năm thôi à?

-Dạ, không phải thế đâu! Tôi lấy vợ có đến 30 năm trời cơ đấy. Nhưng hạnh-phúc ấy à, cũng chỉ nói được mỗi thế thôi!”

Hạnh-phúc trong hôn-nhân hay gia-đình, nhà Đạo hoặc giữ các đạo hoặc giáo-phái, đôi lúc cũng khó diễn-tả. Hàng trăm năm là thế, nhưng về hạnh-phúc thì, thì… ai dám bảo là nhiều nhặn, cỡ bao lăm.

Thôi thì, hôm nay và mai ngày, hạnh-phúc của bày tôi bần đạo đây chỉ muốn gửi đến bạn đọc và bạn đạo bấy nhiêu thôi. Bấy nhiêu, là để tôi và để bạn, ta cùng cười vui, dù chỉ vài ba phút rất phù-du con bươm bướm ở đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn mọi người và mọi bạn

Sẽ hạnh phúc triền miên

Suốt mọi ngày trong đời mình.

“Thiên đường có chỗ màu đen,”

Tin Mừng (Mc 6: 1-6)

Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.

“Thiên đường có chỗ màu đen,”

Anh nằm nghe thấy vẫn còn tiếng mưa.

Tiếng trời gõ nhịp tiếng trưa,

Tiêng cho sâu thẳm tiếng khuya tuyệt vời.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá, lược dịch

Nếu có lần nào, ta cần xác tín xem chúng dân thị thành thường đổi ý ra sao, hãy cứ nhớ sự việc diễn tiến trước sau cái chết của công nương Diana, là sẽ thấy. Hai tuần trước đó, báo chí ở Luân Đôn chạy nhiều hàng tít lớn, nào là: “Công nương ơi, hãy nói Không với Dodi!”, hoặc “Hỡi nữ hoàng của phim kịch, hãy bỏ nước Anh mà theo Hồi giáo”; và “Diana, kẻ bêu xấu đất nước.”

Ta còn được bảo, Diana là người nữ phụ phụ tâm thần tật bệnh, có sức quyến rũ thật ma mãnh. Và, cái chết của bà mẹ hai con vừa tròn 36, vẫn là thảm trạng lớn, của nhiều người. Nào ai đoán trước được, chỉ sau buổi tối ở Paris hôm ấy, nhiều người đã đổi hẳn lập trường, nên mới tìm đến để thấy được rằng công nương Diana thực sự trở thành “nữ hoàng của mọi con tim”. Là, thần tượng của thời đại. Phải chăng, họ đã quên những chuyện xảy ra, hai tuần trước?

Quả thật, những gì xảy đến với ký ức con người về công nương nước Anh, cũng không xa lạ chuyện xảy đến với hồi niệm của người đời về Đức Giêsu đối với Hội thánh, thời tiên khởi. Đọc Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay, ta vẫn nghĩ rằng những người cùng quê thành làng mạc với Đức Giêsu sẽ giang tay chào đón Ngài. Cả những tài năng dỗ dạy, những khôn ngoan tài đức và sức mạnh hành động của Chúa, cũng bị coi là những điều sơ xuất, khiến chúng dân quay lưng lại Ngài, vì Ngài đòi hỏi quá nhiều, cho mình. Nói nôm na, thì Đức Giêsu không được trọng vọng ở quê mình.

Tin Mừng thánh Mác-cô được viết vào lúc Hội thánh tiên khởi bắt đầu bị bách hại. Nên, cộng đoàn rất cảm thông khi thấy Chúa chịu thống khổ. Bị mọi người từ khước, chối bỏ. Chuyện ấy có gì lạ? Tín hữu thời tiên khởi, cũng từng bị trục xuất/chối bỏ khỏi hội đường. Và, nhiều người cũng trải nghiệm cảnh tình tương tự, khi gia đình/bạn bè bỏ rơi, từ khước họ. Có thể, một số vị phải bỏ quê nhà thành thị, cũng nên. Trong bối cảnh ấy, thân phận của họ cũng tương tự như Chúa. Tình cảnh họ, cũng mang nặng ý nghĩa và hướng đi, tương tự. Do đó, họ mới có thêm nhiều hy vọng.

Kinh nghiệm về nỗi niềm bị ruồng rẫy, khước từ, mất cảm thông, bực tức, còn là sự thật phũ phàng của nhiều người. Ngay như hôm nay, chỉ mỗi việc sống niềm tin của mình thôi, ta cũng bị người đời cho là mình ngông cuồng/khờ dại hoặc bị đẩy lùi khỏi cộng đoàn, môi trường sống.

Trong bối cảnh này, ta cũng có thể tạo cho mình niềm hy vọng và lòng quả cảm tương tự như cộng đoàn tín hữu thời tiên khởi, đã duy trì. Tuy nhiên, ở cấp độ cao hơn, với tư cách cộng đoàn, có thể ta có nguy cơ xử sự như cư dân làng Nazarét, thuở trước. Chẳng cần biết, một số người trong cộng đoàn tín hữu ta đang sống, khôn ngoan đến độ nào, có uy quyền hoặc sống lành thánh là bao, chừng như nhiều người vẫn được cho biết là ta không chấp nhận họ. Ta đối kháng chống lại họ và khước từ trục xuất họ khỏi chốn sống của ta, nữa.

Nhiều bạn đạo phải xa rời chúng ta, chỉ vì cộng đoàn không tin rằng quà tặng Chúa ban cần nhận lĩnh ngang qua họ. Dân làng Nazarét hôm trước, không cảm nhận được giá trị của sự việc xảy đến với mình, là vì quần chúng cứ nghĩ rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều hơn ai hết.

Tin Mừng hôm nay, còn đánh động lên mái ấm cơ ngơi, ta đang sống, nữa. Cơ ngơi đó, ta chẳng thể nào bỏ đi, mang theo được gì. Và, cũng chẳng có được gì nhiều, những khẳng định. Và điều này còn dẫn đến những cực đoan không lành mạnh, khi cha mẹ và các anh chị đề cao bậc vợ chồng, con cái, hoặc các người anh/người chị cho hết mọi người, ngoại trừ người đáng được đề cao, chúc tụng. Có trường hợp, ta lo nhiều về thành viên trong nhà, được ‘bốc thơm quá mức” trong khi người ấy chưa nghe ta khuyến khích ca tụng, cho phải lẽ.

Là tín hữu, ta cũng nên tìm dịp để tìm cách mà ngợi ca những người ta quen biết, và yêu thương. Khi Diana tử nạn, thế giới có phản ứng hơi trễ, để quyết định xem bà đã làm những gì xứng đáng để thế giới có thể cất lời tụng ca. Dân làng Nazarét cũng thế, vẫn cứ coi là quá trễ khi họ khước từ Đức Giêsu, cùng một kiểu.

Tin Mừng thánh Máccô cho biết: Chúa không còn quay trở lại nơi đó nữa. Với chúng ta, không có gì là quá trễ. Cũng có thể, chẳng ai nói chúng ta coi thường người dân khôn ngoan, dám cho ta những bài học răn dạy. Chẳng ai nói, ta vùi dập/nhận chìm người có khả năng/tài cán nhận lãnh từ quyền uy, của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn nhắc nhở ta, rằng: chẳng bao giờ là quá trễ để ta có thể chấm dứt những gì mình nghi ngờ và không tin.

Cũng trong một tinh thần như thế, nhà thơ hôm ấy, lại cũng ngâm những lời rằng:

“Đêm mưa có chỗ bất ngờ,

Chỗ thêm ấm áp chỗ thờ phượng nhau.”

(Nguyên Sa – Bất Ngờ)

Chỉ thờ phượng nhau khi nhìn ra được Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu nằm ở cung lòng của người nghèo khó, đớn đau, sầu buồn. Tìm được rồi, người người lại sẽ ngâm thêm lơ rằng:

“Mai về mẹ hỏi đi đâu,

Đắp chăn trùm kín ngang đầu nghe em.”

(Nguyên Sa – bđd)

Thế thì, khi em về với Thiên-Chúa như thế, mẹ cha có tra vấn hỏi han điều gì, thì anh và em cũng chẳng còn sợ vì Thiên-Chúa đã ấp ủ chúng ta bằng Tình Yêu của Ngài, thật rất rõ. Có trùm kín chăn ngang đầu Ngài cũng vẫn tìm ra ta để mà yêu thương và đùm bọc. Như Ngài vẫn đùm bọc hết mọi người, cả những người nghèo hèn khổ sở hoặc đớn đau , rất âu sầu nhiều nỗi.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

“Chỉ cần tin thôi”

“Chỉ cần tin thôi”

CN 13 B

Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.

Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.“. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ“. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin“. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.

Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con“. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.

– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.

Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.

2. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

  • Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

  • Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

  • Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

  • Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.

Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.

Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.

Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.

Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)

Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).

Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).

Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.

  1. Niềm tin thắp sáng hy vọng

Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.

Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.

Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.

Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.

Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.

Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

ĐỤNG ĐẾN ÁO

ĐỤNG ĐẾN ÁO

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài.  Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang.  Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.  “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”  Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.  Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.  Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.

Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.  Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.  Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.  Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.

Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.

Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.  Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.

Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy chỗi dậy.”

Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.  Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.  Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.

Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).

Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).

Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.  Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.

Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.

Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

*************************************

Lạy Chúa Giêsu,

Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.  Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.  Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Trích trong “Manna”

CÁCH SỐNG NGHÈO CỦA ĐỨC THÁNH CHA VÀ ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

CÁCH SỐNG NGHÈO CỦA ĐỨC THÁNH CHA VÀ ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

Tác giả: Micae Bùi Thành Châu

Cung cách của vị Giáo Hoàng đương nhiệm chắc có lẽ cũng đã để lại những ấn tượng, những suy nghĩ. Trên những ấn tượng, những nghĩ suy có lẽ là những lời thúc bách, bài học thực tiễn cho mỗi Kitô hữu.

Đức Thánh Cha đã khẳng định Giáo Hội là Giáo Hội của người nghèo. Trong tâm tình đó và thực tiễn của cuộc sống ta thấy đó là một sự thật bởi lẽ đa phần thành viên của Giáo Hội là những người nghèo, những người buôn gánh bán bưng, những anh chị em di dân xa quê nghèo …

Người nghèo dường như lúc nào ở bên cạnh ta như Chúa nói. Đơn giản như Sài Thành này mệnh danh là “hòn ngọc Viễn Đông” nhưng còn đó quá nhiều căn nhà ổ chuột cũng như những cái chòi nhỏ chen chúc cả chục người trong một gia đình.

Sài Gòn mà còn như thế thì những tỉnh lẽ, những vùng sâu vùng xa thì cuộc sống chắc hẳn gặp nhiều khó khăn hơn nữa.

Dự Thánh Lễ ở nhiều nơi, ta vẫn thường thấy nhiều nhà thờ ở nhiều vùng xa đến để xin quyên góp về xây dựng nhà thờ của mình. Nhưng, tôi tưởng nghĩ cũng nên nghĩ đến những con người nghèo không có nơi cư ngụ, không có một mái nhà đúng nghĩa để che nắng che mưa.

Vẫn biết có nhiều nhà thờ, nhiều hội đoàn, nhiều cá nhân nữa đã làm việc bác ái rất nhiệt tình. Thế nhưng, tôi lại nghĩ đến thân phận của những con người nghèo không có chỗ dung thân. Nhiều nơi trong xã hội cũng đã nổ lực, cũng đã cố gắng có những chương trình nhà tình thương. Tôi thấy đây là một việc làm thiết thực và nên nhân rộng ra ở các xứ đạo thì chuyện chia sẻ tình thương đó được thiết thực hơn.

Đơn giản như ở Sài Gòn có hơn 200 ngôi Thánh Đường. Chỉ cần mùa Chay hay dịp nào đó cả giáo xứ cùng chung tay giảm bớt chi tiêu thì có thể làm được một số không nhỏ cho các giáo phận có nhiều người nghèo khổ.

Tính theo thời giá hiện tại thì bình quân 1 căn nhà tình thương có giá khoảng 50 triệu đồng. Và với giá như vậy, cả một giáo xứ lớn như nhiều giáo xứ ở Sài Gòn quả là điều không khó. Khó với một người nhưng dễ khi có nhiều bàn tay góp lại.

Có như thế, mỗi năm chia sẻ cho những giáo phận thiếu thốn thì dần dần sẽ cho những người nghèo có được mái ấm để dung thân hơn. Cứ từ từ và dần dần lên chương trình “Người nghèo có chỗ ở” chắc chắn sẽ phần nào chia sẻ nỗi đau cho những gia đình nghèo ở các giáo phận. Hay, có thể là một giáo xứ nào đó ở Sài Gòn “đỡ đầu” cho một giáo xứ, giáo điểm vùng sâu thì sẽ phần nào giúp cho những người nghèo bớt nghèo hơn.

Khi bắt tay vào chương trình này, Giáo Hội sẽ làm một cách công tâm và thiết thực, nhất là không biệt lương giáo. Khi ta làm như thế, mọi người sẽ cảm và sẽ nhận thấy thật sự là một Giáo Hội nghèo đang ở giữa lòng xã hội.

Giáo Phận Sài Gòn nói một cách nào đó có đời sống kinh tế nhỉnh hơn so với nhiều giáo phận khác. Đứng trước cung cách sống nghèo, lời mời gọi sống nghèo của Đức Thánh Cha, Giáo phận Sài Gòn nên chăng làm một điều gì đó thiết thực để hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha.

Dĩ nhiên cuộc sống còn có quá nhiều việc để làm, có quá nhiều người để chia sẻ nhưng nếu nhiều bàn tay góp sức, nhiều giáo xứ cộng lại sẽ giảm đi được nỗi đau của những người không có một nơi ở xứng đáng.

Dĩ nhiên chuyện cần hơn cả là xây dựng nhà thờ, nhà dòng, nguyện đường … nhưng có khi những người xây đã lạm dụng là xây quá hoành tráng, xây với kinh phí quá cao, xây với lòng cao ngạo hơn thua.

Tôi nghĩ đôi khi Giáo Hội cần phải hành động, cần phải tiên phong một cách thiết thực để chia sẻ với người nghèo. Có như thế, ta mới đồng hành, mới hưởng ứng, mới noi gương vị cha chung Phanxicô của chúng ta được.

Khi sống và hành động như thế, phải chăng đó là cách truyền giáo, cách chia sẻ thiết thực nhất mà Thiên Chúa muốn.

Micae Bùi Thành Châu

“Rồi mai đây có khi em quay về nơi cũ”,

“Rồi mai đây có khi em quay về nơi cũ”,

Mang trong tim mình những ước mơ đã nhoà xưa

Làm sao khi tóc ta thay màu lòng ta vẫn

Tìm lại được ra bao hình bóng đã phai mờ.”

(Nguyễn Đình Toàn – Quê Hương Thu Nhỏ)

(Thư Galát 2: 15-16)

Trần Ngọc Mười Hai

Vâng. Câu hát nghe rất quen quen. “Rồi mai đây có khi em quay về nơi cũ” đã cất lên trong buổi “Hát Cho Nhau Nghe” với chủ-đề “Những Nẻo Đường Việt Năm thực-hiện vào năm 2013. Câu hát ấy vẫn còn vang vọng đến hôm nay. Như sau này.

Hôm nay, lại vẫn thấy những chuyện tình xảy ra như câu hát thêm ở bên dưới:

Đêm có mây sầu đưa.

Trăng giấu đi tuổi thơ.

Ven con sông dài.

Quê ta thiu ngủ.

Đêm nào đó ta đứng trông xa ngọn đèn lu.

Thắp trong sương mù dáng ai ngồi co ro.

Như quê hương mình thu nhỏ.

để người viễn xứ mang cho vừa.

Ngày đau thương kia ta còn nhìn thấy mình.

Trong tấm gương đầy nước mắt (í)

Trăm muôn lời than rồi khăn tang và tiếng thét.

Với bao nhiêu đời dở dang.

Người chờ người đi.

Đã như nhang tàn.

Người bỏ người thôi.

Khác chi nợ nần.

Đã trả xong.

Rũ sạch trơn.”

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Vâng. Nợ trần đã trả xong. Nhưng, nợ đời vẫn có đó. Nợ ở đời, vẫn cứ hay, cứ tưởng mình đã mất, như câu người nghệ sĩ còn hát tiếp:

“Từ khi ta bước đi mới hay mình đã mất,

Trông ra nơi nào cũng như quê hương lượn quanh.

Một cơn gió lướt qua cũng nghe lòng tha thiết.

Tưởng một mùi hương nơi vườn cũ bay theo mình.

Và tiếng ai gọi ai.

Vọng mãi trong hồn tôi.”

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

“Tiếng ai gọi ai trong hồn tôi”, là như thế. Tiếng tôi gọi tôi ở một nơi, mọi chỗ lại có thể rất khác. Khác, như lời kể của một người, rất sau đây:

“Các Giám mục và toàn thể tín-hữu Công giáo cùng một “ràn chiên” với các ngài, nay vẫn được gọi mời “làm chứng nhân vui vẻ cho Đức Chúa đã Phục sinh-Trỗi dậy, ngõ hầu tất cả sẽ chuyển-tải niềm vui và hy-vọng đến với mọi người…

Đó là ưu-tư thấy rõ nơi lời phát-biểu của Đức Giáo Tông Phanxicô từng trần-tình với hàng Giáo-phẩm người Ý-Đại-Lợi vào hôm trước, tức ngày 18 đến 21/5/2015 ở Vaticăng.

Hôm ấy, Đức Giáo Tông còn nói thêm rằng:

Thật đáng buồn, khi tôi gặp vị giám-mục nọ, linh-mục kia hoặc tu-sĩ ấy như bị trời giáng, không động-lực hoặc mệt-mỏi. Mệt và mỏi, như thể con giếng khô ở đó chúng-dân không thể tìm thấy nước để uống vào cho đỡ cơn khát.

Và, Đức Giáo Tông Phanxicô còn kể cho các Giám-mục mình gặp để bảo rằng: trong hai năm ngài làm Giáo-Hoàng có hàng ngàn cuộc gặp gỡ với đủ người Công-giáo thuộc đủ mọi hạng, ngài đã nhận ra là bà con trong Đạo đã mất dần tính tập-thể hoặc gọi là sự hiệp-thông chân-chất giữa các giám-mục và giữa giám-mục với linh-mục tại nhiều phần đất khác nhau trên thế-giới.

Ngài có nói: một dấu-hiệu thấy rõ về việc ấy, là các vị nay để mất thói quen xét lại xem mình có thực-hiện tốt các dự-án đặt ra không, và việc thực-thi ấy có mang lại kết quả khá hiệu-nghiệm hay không và mình đón-nhận các dự-án ấy như thế nào.

Ngài cón bảo: Hội-thánh đã mất điểm tốt, tỉ dụ như: khi ai đó tổ-chức buổi hội-thảo hoặc sự-kiện nào đó, có để ý đến các tiếng-giọng thông thường ở bên dưới hay không, có làm ngưng-trệ cộng-đoàn mình chung sống không, có đáp-ứng cách bình-đẳng với các chọn-lựa, lập-trường và con người khác nhau thay vì chỉ cho phép chính mình thực-thi đến với các chân-trời mà Thánh Thần Chúa sai phái mình đi đến không.

Và, ngài cũng nói: Giống như Đức Kitô, các giám-mục không được tỏ ra “rụt rè hoặc không thích-đáng để lên án hoặc đánh-bại một não-trạng phổ-biến cách rộng rãi các hành-vi tham-nhũng cách công-khai hoặc trong chỗ riêng-tư khiến các gia-đình bình thường, giới trẻ, người hồi-hưu, cũng như đám người nghèo khổ bị đẩy lùi khỏi xã hội ngày càng trở nên nghèo và khổ hơn.

Đức Giáo Tông lại đã thúc-giục các giám-mục hãy ra đi mà đến với người của Chúa ngõ hầu bênh-vực họ khỏi mọi “cuộc đô-hộ ý-thức-hệ” lâu nay đã lấy mất đi lý-lịch và phẩm cách con người…

Đức Giáo Tông lại cũng nói với hàng giám-mục người Ý rằng: quá nhiều hội-đồng Giám-mục xem ra đã tảng-lờ thực-tại cụ-thể về dân con của các ngài khi viết ra những gì được coi như lời giảng dạy và hướng-dẫn mục-vụ cần có.” (xem Cindy Wooden, Call it as you see it, leave laity to do their job, Pope tells bishops, The Catholic Weekly 24/5/2015, tr. 29)

Lời mời gọi từ Đấng Chủ-quản ở trên cao tít, mãi tận thủ-đô của Giáo-hội, nếu diễn-tả cách bài bản bằng nhạc đời, lại thấy hơi giòng-giống giòng nhạc ở trên từng hát mãi:

“Ôi tiếng chuông chùa nào xa vói.

Thèm miếng khoai ngày đói.

Hỏi áo xưa mòn vai.

Và từng đêm nghe gió lay.

Khi nao ta về tới.

Soi trong gương sầu ấy.

Có còn ta nữa hay là ai”.

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Mời hay gọi, có lẽ cùng một nghĩa. Ới gọi hay kêu mời, nào có khác chi một ý khác, khi Đức Giáo Tông, một lần nữa, lại lên tiếng ở buổi gặp gỡ Hiệp-hội các công nhân người Ý đồng thời là tín-hữu Đức Kitô của Hiệp-Hội, những nhủ rằng:

“Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến những thách đố đang đề ra cho Hiệp hội Kitô các công nhân Italia, đặc biệt là tình trạng gia tăng mau lẹ và rộng lớn những chênh lệch trong xã hội, kèm theo những hiện tượng như công ăn việc làm bấp bênh, làm lậu, và sức ép của các tổ chức bất lương, khiến cho nhiều người trẻ thiếu công ăn việc làm, phẩm giá của họ bị thương tổn, ngăn cản họ thực hiện cuộc sống nhân bản viên mãn. Ngài cũng mạnh mẽ phê bình sự kiện ở Italia có tới 40% người trẻ dưới 25 tuổi không có công ăn việc làm.

Trong bối cảnh đó, ĐTC nhấn mạnh đến 4 đặc điểm mà lao công cần phải có. Trước tiên là lao công tự do, qua đó con người tiếp tục công trình của Đấng Tạo Hóa. ”Đáng tiếc là ngày nay nhiều khi lao công phải chịu những đàn áp từ nhiều phía, của người đè người, của các tổ chức biến con người thành nô lệ, áp bức người nghèo, đặc biệt là nhiều trẻ em và phụ nữ.”

Tiếp đến là lao công sáng tạo, giúp con người diễn tả trong tự do và sáng tạo một số hình thức xí nghiệp, lao động hợp tác trong tinh thần cộng đoàn.

ĐTC nói: ”Không thể chặt đôi cánh của những người, đặc biệt là người trẻ, có bao nhiêu điều để cống hiến nhờ trí thông minh và khả năng của họ. Cần phải giải thoát họ khỏi những gánh nặng đè nén và cản trở họ đi vào thế giới lao động với trọn quyền lợi càng sớm càng tốt”.

Đặc điểm thứ 3 ĐTC nhấn mạnh, đó là lao công tham gia, giúp con người luôn nhìn thấy nơi mục đích của lao công khuôn mặt của tha nhân và sự cộng tác với người khác trong tinh thần trách nhiệm.

Ngài nói: “Nơi nào vì quan niệm duy kinh tế, người ta nghĩ đến con người một cách ích kỷ và coi tha nhân như những phương tiện thay vì như mục đích, thì lao công mất đi ý nghĩa nguyên thủy là tiếp tục công trình của Thiên Chúa, hướng đến toàn thể nhân loại”.

Sau cùng là lao công liên đới. ĐTC nói với các thành viên hiệp hội Kitô công nhân Italia rằng: ”Mỗi ngày anh chị em gặp những người bị mất công ăn việc làm, hoặc đang phải tìm việc.. Cần mang lại cho họ một câu trả lời. Trước tiên là tỏ ra gần gũi và liên đới với họ. Bao nhiêu chi hội của anh chị em có thể là những nơi tiếp đón và gặp gỡ cũng như giúp đỡ những người ấy”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các thành viên Hiệp Hội Kitô công nhân Italia luôn lấy nguồn hứng và sự hướng-dẫn từ đạo lý Kitô, trong niềm trung thành liên lỷ với Chúa Giêsu Kitô, với Lời Chúa và học hỏi áp dụng Giáo huấn xã hội Công Giáo, để đối phó với những thách đố mới ngày nay (SD 23-5-2015). (Xem Trần Đức Anh OP, dịch bản tin trên VietCatholcis News hôm 23/5/15 dưới đầu đề: “Đức Thánh Cha tố-giác tệ-nạn trong lãnh-vực lao-động).

À thì ra, tệ nạn xã-hội không chỉ thấy trong lãnh-vực lao-động ở Ý-Đại-Lợi mà thôi, nhưng còn  ở nhiều nơi khác, kể cả Giáo-hội Công-giáo vẫn tự-hào rằng mình không thấy có tệ-nạn nào trong các hàng ngũ trên/dưới.

Thôi thì, gọi đó là gì cũng đặng. Miễn là tôi và bạn, ta vẫn hiên ngang mở tai nghe những lời dặn dò hôm trước có đấng thánh hiền lành từng bảo ban, như sau:

“Chúng ta bẩm sinh là người Do-thái

chứ không phải hạng người tội lỗi xuất thân từ dân ngoại.

Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính

không phải nhờ làm những gì Luật dạy,

nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô,

nên chúng ta cũng tin vào Đức Kitô Giêsu,

để được nên công chính,

nhờ tin vào Đức Kitô,

chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy.”

(Thư Galát 2: 15-16)

Vâng. Đúng là như thế. Tệ-nạn ở đâu đó, có bao giờ công-nhận mình là tệ-nạn. Chí ít, là ở nhà thờ, nhà Đạo rất chính-chuyên. Tệ-nạn, nhiều khi chỉ là sự ỷ y mình là người công-chính từng tin vào Đức Kitô rất Công-chính và từng nhờ cậy vào Lề-luật do thế-quyền hay thần-quyền ban ra.

Thật ra thì, gọi bằng tự-vựng “tệ-nạn” cũng hơi quá đối với thần-quyền. Thế nhưng, theo ý của đấng thánh-hiền từ-nhân thì không thế. Hiền-nhân rất thánh ở thế-quyền hay thần-quyền là người nắm được chân-lý, nằm bên ngoài luật-lệ, dù ta gọi đó là luật Đạo hay luật đời.

Chỉ là chân-lý, như người kể ở bên dưới, một lần nữa, lại minh-định bằng những lời kể như sau:

“Dưới đây là 9 câu nói rất hay về chân lý của cuộc sống:

1. Trên đường đời, ta sẽ gặp những người đối xử tệ với mình. Không ai có bổn phận phải đối xử tốt với ta, trừ bố mẹ. Đối với những người đối xử tử tế với con, hãy trân trọng và biết ơn, nhưng cũng hãy đề phòng họ. Họ có thể đối tốt với ta vì mục đích nào đó. Hãy tìm hiểu động cơ thực sự. Đừng vội kết luận một người là tốt chỉ đơn giản vì họ ưu ái ta.

2. Không ai là không thể thay thế. Không có thứ gì  trên thế  giới này ta phải bám chặt lấy hay cố sở hữu bằng mọi giá. Nếu ta hiểu điều  này, thì về sau, dù mất bất cứ điều gì trong đời, ta vẫn có thể đứng vững.

3. Cuộc đời rất ngắn ngủi. Đừng phí thời gian và năng lượng vào những người, việc, thứ không cần thiết. Nếu ta làm vậy, sau này ta sẽ nhận ra rằng ta đã lãng phí tất cả những ngày tháng qua.

4. Không có gì trên thế giới là mãi mãi, kể cả tình yêu. Tình cảm có thể thay đổi theo thời gian. Nếu một ngày nào đó ta mất đi người mà ta từng yêu tha thiết, hãy nhẫn nại. Đừng cố níu kéo những gì đã mất hay phóng đại cảm xúc của mình. Thời gian sẽ làm dịu nỗi đau. Thời gian sẽ hàn gắn tất cả.

5. Không phải tất cả những người thành công đều học hành đến nơi đến chốn, nhưng điều này không có nghĩa là ta có thể bỏ bê việc học của mình. Kiến thức ta có được là tài sản lớn nhất của ta.

6. Bố mẹ không mong đợi ta sẽ chăm lo cho bố mẹ khi các ngài về già. Cũng vậy, bố mẹ không có trách nhiệm phải bao bọc con khi con đã trưởng thành. Con có thể đi xe bus hay lái xe Benz đắt tiền. Tương tự, ta có thể ăn mì gói hay bào ngư. Lựa chọn đó thực sự do ta.

7. Ta có thể đối xử tốt với người ta nhưng đừng hy vọng họ đáp lại ta như vậy. Nếu ta không thể nhìn thấu điều này, về sau ta sẽ chỉ có thêm nhiều đau khổ, thất vọng.

8. Rất nhiều người mua vé số suốt nhiều năm nhưng cuối cùng họ vẫn trắng tay, nghèo đói. Để thành công hay giàu có, ta đều phải nỗ lực hết mình. Có một điều đơn giản cần nhớ là: Trên thế giới này không có gì miễn phí.

9. Chúng ta ở bên nhau như một gia đình chỉ trong cuộc đời này thôi, dù ta thích hay không. Vì thế, hãy trân trọng và nâng niu khi chúng ta bên nhau, chia sẻ, gắn bó. Dù muốn hay không, chúng ta sẽ không thể gặp nhau ở kiếp sau…” (Tsuki – Tổng hợp)

Nghe kể rồi, sao bạn và tôi, ta không hiên-ngang ngước mặt về phía trước hiên-ngang cả những lời dù không vui khi nghe thấy. Bởi, làm sao vui khi tâm-hồn mình còn vướng-vấn rất nhiều thứ. Cả những thứ và những sự diễn ra không theo ý mình muốn.

Vậy thì, tôi và bạn, ta cứ hiên ngang mà hát mãi những câu rằng:

“Rồi mai đây có khi em quay về nơi cũ”,

Mang trong tim mình những ước mơ đã nhoà xưa.

Làm sao khi tóc ta thay màu lòng ta vẫn

Tìm lại được ra bao hình bóng đã phai mờ.

Đêm có mây sầu đưa,

Trăng giấu đi tuổi thơ.

Ven con sông dài,

Quê ta thiu ngủ.

Đêm nào đó ta đứng trông xa ngọn đèn lu,

Thắp trong sương mù dáng ai ngồi co ro .

Như quê hương mình thu nhỏ,

để người viễn xứ mang cho vừa.

Ngày đau thương kia ta còn nhìn thấy mình.

Trong tấm gương đầy nước mắt (í)

Trăm muôn lời than rồi khăn tang và tiếng thét.

Với bao nhiêu đời dở dang.

Người chờ người đi.

Đã như nhang tàn.

Người bỏ người thôi.

Khác chi nợ nần.

Đã trả xong.

Rũ sạch trơn.”

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Hát thế rồi, ta lại sẽ mạnh mẽ bước về chốn cũ, ở nơi đó vẫn có bạn hiền còn đứng chờ những người như ta, đang miên-man tìm kiếm “Quê hương thu nhỏ” là Nước Trời ở đây. Bây giờ. Theo quan-niệm rất Đạo của Đạo mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày lại cứ thấy

Quê hương thu nhỏ

Nằm mãi trong lòng mình

Rất giống mình.

Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng,

Tin Mừng (Mc 5: 21-43)

Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.

Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi? ” Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: “Talithakum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

“Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng,

Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương.
Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng,
Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương.

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 5: 21-43

Mai Tá, lược dịch

Khạc hồn ra khỏi miệng”, là tâm trạng của nhà thơ, nay rất khổ. Nỗi xác đành câm tiếng, là tình huống người nhà Đạo, vẫn thương tâm. Chúa thương tâm cả nhà thơ lẫn người đời, như có nói ở trình thuật.

Trình thật thánh Mác-cô hôm nay, lại đã ghi về niềm thương tâm Chúa phú ban cho con ông trưởng hội đường và cho cả người đàn bà, bị băng huyết. Những 12 năm. Và thánh Mác-cô nói “bà đã bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản…mà tiền mất tật mang” (Mc 5: 21). Và, đã cả gan sờ vào gấu áo Ngài, và được khỏi.

Vào khi ấy, Đức Giêsu quay lại hỏi: “Ai đã sờ vào áo của tôi?” Hỏi như thế, Ngài biết uy lực thần thiêng vừa ra khỏi mình Ngài. Đây là điều, khiến môn đệ Chúa cứ thắc mắc với tranh luận. Ngay lúc ấy, người nữ phụ đã bước ra, mà nhận lỗi. Vì bà quá hoảng sợ. Chính ra, bà cũng không nên len lỏi vào chốn ấy, vì ô uế? Và đó là lý do mà bà chẳng dám đến, ngay phút đầu. Đây cũng là nỗi hoảng sợ của các bệnh nhân Siđa của thời đại. Một hoảng sợ, không tên tuổi, không lý do.

Từ lúc ấy, bí mật của bà bị lộ ra cho mọi người thấy. Điều này càng khiến bà hốt hoảng hơn nữa. Thế nhưng, bằng một cử chỉ khác thường, bà tiến về phía trước, phủ phục trước mặt Chúa, và nói hết sự thật với Ngài. Về phía Đức Giêsu, Ngài không mảy may nổi nóng hoặc giận dữ, nhưng nhẹ nhàng nói: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Hãy đi bình an và khỏi hẳn bệnh.” (Mc 5: 34)

Bằng việc chữa lành, Đức Chúa của sự sống và sự sống lại, đã đưa bà về lại với sự vẹn toàn của cuộc sống. Bà không chỉ được chữa lành khỏi tật bệnh thể xác thôi; nhưng, còn trở về với tháp nhập cùng xã hội nơi bà sống. Bà đã kiện toàn con người mình, theo mọi ý nghĩa. Qua tư cách cá nhân lẫn cộng đoàn. Nhưng, chính niềm tin sâu sắc vào Chúa, qua cử chỉ “sờ gấu áo Ngài”, là yếu tố chính tạo sự chữa lành.

Với câu truyện đầu ở trình thuật, Đức Giêsu đích thật là Đấng chữa lành mọi tật/bệnh. Nhưng mọi người không kỳ vọng là Ngài sẽ cho người chết được hồi sinh. Nhưng, Ngài vẫn cứ nhấn mạnh đến những câu khiến mọi người cần ghi nhớ trong đời: “Đừng sợ!”, được nhắc đi nhắc lại, trong Kinh thánh, những 399 lần.

Ở trình thuật, Đức Giêsu chỉ cho phép có 3 tông đồ, thành phần cốt lõi là Phêrô, Giacôbê và Gioan, được đi theo. Chúa muốn các Ngài nhận thấy những gì xảy ra; nhưng Ngài không muốn thoả mãn tính tò mò của đám người dễ bị kích động.

Khi mọi người kéo đến nhà bệnh nhân, lại nghe có tiếng ai oán, cùng khóc than. Ngài bèn bảo: “Sao lại náo động và than khóc đến như thế? Đứa bé có chết đâu, nó chỉ ngủ.” (Mc 5: 39) Thế là, họ cười nhạo Ngài. Nhạo và cười, vì chỉ cần nhìn thoáng, họ cũng biết ai chết, ai còn sống. Mọi người còn biết: nếu không có Chúa ở đó, cô kia chắc đã bị chôn rồi.

Chúa vào nhà người lạ, chỉ có cha mẹ cô bé và 3 môn đồ thân cận. Ngài cầm tay có bé lên rồi nói: “Này cô bé. Thầy truyền cho con hãy trỗi dậy!” (Mc 5: 41). Đứa bé lập tức trỗi dậy và đi lại như người bình thường, không có gì xảy ra. Động từ “trỗi dậy” ở đây, gợi cho người nghe nhớ về tình huống sống lại. Tình huống, Đức Giêsu cũng đã “trỗi dậy”, từ cõi chết.

Đây là cách thức thánh sử Mác-cô diễn tả sự việc rõ ràng và dứt khoát hơn thánh Tin Mừng của Gio-an: “Ta là sự sống lại và là sự sống!”. Dù bị hôn mê hay đã chết, cô bé vẫn được tái tạo vẹn toàn về với cuộc sống. Và Đức Giêsu được bộc lộ cho biết Ngài là Chúa của sự sống. Chính vì thế, những ai chứng kiến việc xẩy ra, đều đã “kinh ngạc sững sờ.”

Sững sờ đến độ, Chúa phải nhắc họ cho cô bé ăn. Điều này nói lên chỉ một phần của con người Đức Chúa. Bởi, Ngài là Đấng chỉ biết lo cho người khác. Chăm nom đùm bọc người khác, mà thôi. Với người khác, có thể sẽ xảy ra chuyện là: sẽ ngủ quên trên chiến thắng, những muốn được  bái phục. Nhưng ở đây, Chúa tập trung lo cho nhu cầu của trẻ nhỏ, thôi. Cả hai truyện trong cùng một trình thuật, cho thấy Đức Giêsu là nguồn mạch sự sống và chữa lành.

Bài đọc 1, Sách Khôn ngoan nói rõ: “Thiên Chúa chẳng vui gì, khi sinh mạng tiêu vong.” (Kn 1: 13). Và các đoạn khác còn nói tiếp: “Người đã sáng tạo muôn loài thọ tạo trên thế giời, đều hữu ích cho sinh linh.”(Kn 1: 14). Và điểm quan trọng khác, sách này cũng nói: ta được dựng nên theo hình ảnh bản tính của Thiên Chúa. Chính đây là mục tiêu của sự sống trong chúng ta là: để hiểu biết, yêu thương và san sẻ cuộc sống với Ngài mãi mãi không ngưng.

Quả thật, bằng cách này cách khác, tất cả chúng ta đều cần được Chúa chữa lành. Chữa tật bệnh, cho lành mạnh, sự toàn vẹn, lành thánh bên tiếng Anh, là những cụm từ được đan kết, nối với nhau. Khi nguyện cầu, ta xin cho được lành mạnh để có sức khoẻ, trong mọi địa hạt của cuộc đời chứ không chỉ lành và mạnh, nơi thể xác thôi.

Sự thể đem đến cho ta toàn vẹn sức khoẻ lành mạnh, là cốt trở thành con người vẹn toàn. Vẹn toàn, trong đó mỗi phần trong ta –từ tâm linh, trí tuệ, xã hội, tâm lý, cho chí thể xác—đều hoạt động theo chức năng của nó. Hoạt động trong hài hoà cả ở bên trong, với thế giới bên ngoài. Với cả môi trường chung quanh, người và vật.

Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng có nói đến sự toàn vẹn này, khi thánh nhân nhắc nhở giáo đoàn Côrinthô về Đức Giêsu: “Ngài vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo, vì anh em. Để anh em nên giàu có, từ cái nghèo của Ngài” (2Cr 8: 9). Chúa chịu mình trần trên thập giá, là để đổ tràn tình yêu xuống cho ta. Ngài ban sự sống của Ngài, để ta được sống. Và vì thế, Ngài sẽ sống mãn đời. Và nhờ đó, ta trở nên giàu sang phú quý.

Thánh Phaolô lấy đó làm mẫu mực, để giáo dân ở Côrinthô biết mà sẻ san bất cứ thứ gì làm được cho những người anh người chị nghèo khó hơn họ, trong Hội thánh. Có điều là, cả vào khi ta san sẻ cho người khác, không phải là được kỳ vọng cho đi những nhu cầu mà ta cần có cho chính mình, nhưng là những gì ta có dư. Và khi ta san sẻ của thặng dư cho người đang có nhu cầu nhiều hơn, ta sẽ hy vọng được đối xử cùng một cách như thế  những khi ta cần.

Xử sự theo cách này, cuộc sống sẽ quân bình hơn. Và, thánh Phaolô đã trích dẫn Kinh sách Cựu Ước nói rằng: ai tích tụ nhiều sẽ chẳng có được bao nhiêu, nhưng ai tích luỹ ít, cũng sẽ không thiếu hụt.

Đây chính là mẫu mực của cuộc sống cộng đoàn, trong xã hội. Xã hội Cộng sản đáng lý ra đã phải làm như thế. Nhưng ngày nay, chỉ còn mỗi cộng đoàn dòng tu mới đích thực biến phương cách sống ấy thành hiện thực. Phương cách ấy, là “làm theo khả năng, nhưng hưởng theo nhu cầu.”

Thành phần của việc chữa lành trong toàn bộ cộng đoàn ta sống, là sự toàn vẹn dựa trên sự thật, tình yêu, lòng xót thương và ý nghĩa công bằng đích thực cho mọi người. Và đây chính là sự thánh thiêng, bởi lẽ Thiên Chúa Đấng Thánh Thiêng là thành phần vẹn toàn của sự trọn vẹn. Ngài được biết với Danh hiệu Đấng tạo Dựng, Gìn Giữ và Cùng Đích của tất cả những gì ta phải là và có thể trở thành. Là, tất cả chúng ta đã, đang và sẽ trở thành, như thế.

Vào buổi tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong sao Đức Giêsu, Đức Chúa của sự sống giúp ta đạt đến mức độ ấy. Mức độ của sự lành mạnh, toàn vẹn và thánh thiêng, ta vẫn được mời gọi để đạt đến.   

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá, lược dịch

SÓNG GIÓ TRONG CUỘC ĐỜI

SÓNG GIÓ TRONG CUỘC ĐỜI

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (4, 35- 41)

Khi Chúa Giê-su cùng các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ, một trận cuồng phong nổi lên dữ dội, nước xô ập vào thuyền. Các môn đệ hoảng hốt đối phó với sóng to gió lớn. “Trong khi đó, Chúa Giê-su dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” như chẳng có gì xảy ra. (Mc 4,38)

Đối diện với tình thế vô cùng nguy khốn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Chúa Giê-su dậy và lên tiếng trách móc, như thể Chúa Giê-su là người vô cảm vô tâm: “Thầy ơi! Chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng quan tâm sao?” (Mc 4,38)

Trình thuật này gợi lên nơi chúng ta hai vấn nạn:

  1. Tại sao Thiên Chúa  để cho “sóng gió” xảy ra trong đời người?
  2. Tại sao Thiên Chúa như thể “ngủ quên” trước lời kêu cứu của con người?

Có nhiều khó khăn, thách thức, tai ương, hoạn nạn… xảy ra trong đời người, ta tạm gọi chung những thứ này là “sóng gió.” Khi gặp phải những cơn sóng gió này, nhiều người vội kêu cầu Chúa cứu giúp và nếu không được toại nguyện, thì họ quay ra oán hận Chúa, từ bỏ Chúa. Người ta oán trách Chúa đủ điều: Tại sao Chúa để cho tôi phải gặp khó khăn, gian khổ, đau thương thế này? Tại sao Chúa để cho vô vàn sóng gió xảy ra trên thế giới? Nếu Chúa là Đấng nhân từ, là Người Cha tốt lành, sao Chúa để cho sự dữ xảy ra?

Tại sao Thiên Chúa để cho “sóng gió” xảy ra?

Thiên Chúa là Người Cha nhân từ, rất mực tốt lành và hết lòng yêu thương hết mọi người. Thiên Chúa có lý do chính đáng khi để cho sóng gió, gian truân xảy ra trên địa cầu. Không ai dò thấu tư tưởng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dưới góc nhìn thiển cận của người phàm, ta nhận thấy rằng:

Trần gian là trường huấn luyện, chứ không phải là thiên đàng

Nhờ kiên trì giải những bài toán khó mà đầu óc học sinh được mở mang và các em trở thành học sinh giỏi; nhờ những khổ luyện trong quân trường mà các tân binh trở thành những chiến sĩ chiến đấu can trường và đạt nhiều thắng lợi vẻ vang; nhờ những giờ tập luyện kiên trì và nghiêm ngặt mà các vận động viên điền kinh giật được những huy chương vàng; nhờ dày công nghiên cứu liên lỉ ngày đêm mà các nhà khoa học cống hiến cho đời những phát minh tuyệt diệu…

Nếu xoá bỏ hết những bài toán khó trong các trường học, bỏ hết những rèn luyện gian khổ trong quân trường, bỏ hết những bài tập nghiêm ngặt cho các vận động viên và các nhà khoa học không còn miệt mài khổ công nghiên cứu nữa… thì còn đâu là văn minh, tiến bộ, phát triển trên địa cầu này?

Nếu trần gian này không có khó khăn, thách thức, gian khổ… mà chỉ có dễ dàng, thoải mái, cầu được ước thấy… thì trần gian này đã là thiên đàng rồi; khi đó, người ta không cần ngưỡng vọng một thiên đàng thứ hai. Khi đó, người ta không cần rèn luyện, tu tâm sửa tính để mong đạt tới thiên đàng thượng giới. Bấy giờ, phẩm chất con người sẽ thấp kém hơn nhiều.

Bấy giờ, mọi người đều tha hồ vui hưởng thiên đàng hạ giới này, đều đắm mình trong lạc thú, tha hồ ăn nhậu, chơi bời trác táng cho thoả mãn những đòi hỏi vô độ của thân xác… Như thế, chắc chắn loài người sẽ sa đoạ và lún sâu vào vũng lầy tội lỗi.

Như thế, những khó khăn, thách thức trên cõi đời này có tác dụng như những bài luyện tập cần thiết để rèn luyện con người trở nên can trường mạnh mẽ, tốt lành thánh thiện, có nhiều phẩm chất cao đẹp, xứng đáng đạt tới thiên đàng thượng giới trong tương lai.

Tại sao Thiên Chúa như thể “ngủ quên” trước lời kêu cứu của con người?

Nếu ta xin bất cứ điều gì Chúa cũng ban, thì trần gian sẽ là thiên đàng hạ giới nên không ai còn ngưỡng vọng thiên đàng thượng giới nữa và khi đó, nhiều hậu quả tai hại sẽ từ đó xảy ra như đã nói trên đây .

Nếu ta xin bất cứ điều gì Chúa cũng ban thì ai nấy đều chạy đến với Chúa để xin ăn chứ không phải khổ công làm việc. Thế là vô tình Chúa biến hết thảy mọi người thành những kẻ ăn xin.

Nếu ta xin bất cứ điều gì Chúa cũng ban thì vô số người sẽ tuôn về với Chúa và như thế, Thiên Chúa trở nên một Ông Thần Tài, chuyên dùng ân huệ, lợi lộc để dụ dỗ người ta đến đầu phục mình.

Bấy giờ, người ta sẽ tôn thờ Chúa không phải vì lòng yêu mến mà chỉ vì tìm kiếm lợi lộc cho bản thân mình.

Thiên Chúa là Người Cha khôn ngoan, nên khi chúng ta xin cá, thì thay vì cho cá, Chúa lại cho chiếc cần câu.

Ý tưởng này đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:

“Tôi xin sức mạnh… và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để trui rèn tôi nên mạnh mẽ.

Tôi xin khôn ngoan… và Ngài đã cho tôi những vấn đề (như những bài toán khó) để giải quyết, nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan.

Tôi xin tiền của… và Ngài đã cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc, nhờ đó tôi trở nên giàu có.

Tôi xin được ‘bay’… và Ngài đã cho tôi những trở ngại phải vượt qua (như máy bay phải vượt qua sức cản của không khí) nhờ đó tôi được ‘bay cao’…

Thế là, tuy không trực tiếp lãnh nhận những gì tôi xin… nhưng tôi có được tất cả những thứ tôi cần” (Khuyết danh).

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con sẵn sàng dấn thân vào thế giới này như thể tham gia vào một trường huấn luyện vĩ đại và vui lòng chấp nhận “sóng gió” trong cuộc đời như những bài luyện tập cần thiết để trui rèn chúng con thành những người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp, hầu mai sau xứng đáng được đội vòng nguyệt quế hoan hỉ bước vào thiên quốc.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

Image result for hình ảnh trái tim chúa giêsu

“Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

(Người có trái tim ở bên ngoài,

bên trong lại không có tim)

Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.

Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh: người gì mà để trái tim ra ngoài !

Quan đại thần Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác; nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : “đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”. Từ đó quan đại thần Tsukamoto đặt bức ảnh Trái Tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn.

Một hôm, người bạn tên Osaki đến chơi, hỏi :

– Bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?

Quan đại thần Tsukamoto trả lời :

– Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài… Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là chính đạo.

Ông Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục… (Trích “Phúc”)

Thánh Tâm (聖 心) còn gọi là “Rất Thánh Trái Tim” nghĩa là trái tim thuộc về Đức Chúa (hoặc Đấng thiêng liêng). Khi nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là chúng ta phải luôn luôn hiểu bao gồm cả con người Chúa Kitô. Việc tôn thờ Thánh Tâm là nòng cốt của Đạo Công Giáo, như các Đức Piô XI và Piô XII đã nói: “Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là điểm cốt yếu của đạo chúng ta (summa religionis nostrae)”. Trong việc tôn thờ này, đức tin Kitô giáo vẫn nguyên tuyền vì đưa con người tới Chúa Ba Ngôi nhờ sự hợp nhất với Chúa Kitô, Đấng Trung Gian.

Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta theo gương Người. Hiến dâng cho Thánh Tâm Chúa, vì trong Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm được tình yêu thúc đẩy chúng ta yêu mến Chúa và tận hiến hoàn toàn cho tha nhân. Đúng như câu nói của vị quan người Nhật: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu.  Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm.  Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện.  Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết.  Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế.  Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus.  Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại.  Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết.  Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ.  Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra.  Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được.  Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu.  Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả.  Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó.  Người tha thiết yêu ta.  Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn.  Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới.  Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông.  Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời.  Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai.  Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối.  Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được.  Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống.  Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước.  Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố.  Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh.  Thử thách giúp ta biết mình.  Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa.  Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn.  Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa.  Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi.  Chúa chỉ cho thử thách một thời gian.  Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng.  Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn.  Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa.  Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế.  Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách.  Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người.  Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta.  Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh.  Thử thách rồi sẽ qua đi.  Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta.  Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng cậy và lòng mến Chúa.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chị Thụ Mai gởi