Anh vất áo choàng, đứng phắt dậy

Anh vất áo choàng, đứng phắt dậy

danchuahiepthong

Chỉ trong niềm tin vào Chúa, người ta mới tìm được niềm vui và ơn giải thoát thực sự…

Bà Jo Scaggs, giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành, được mời đến dự lễ Giáng sinh được tổ chức ngoài trời tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi ở Nigeria. Đó là lần đầu tiên bà thấy được một số rất đông người cùi. Nhìn đâu cũng thấy người cùi, rất nhiều người bị bệnh cùi gặm nhấm và hủy hoại thân thể, nhưng khuôn mặt ai cũng bày tỏ niềm vui, mắt họ sáng lên khi hát thánh ca.

Đến phần công bố Lời Chúa, một người cùi không còn ngón tay nào lên đọc Sách Thánh. Ông phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, vị mục sư mời mọi người chia sẻ về các ân phúc Chúa ban cho mình. Người không còn ngón tay đứng lên nói rằng: “Tôi muốn cảm tạ Chúa vì Ngài đã cho tôi bị cùi”.

Trước sự ngạc nhiên của bà Jo Scaggs, anh giải thích thêm: “Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi qua biết bao người đang săn sóc cho tôi…”

Bước vào cuộc đời, ai cũng phải đối diện với nhiều đau khổ từ thân xác đến tâm hồn. Đau khổ dường như không buông tha cho ai, cả người tin vào Chúa: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi” (Tv 12,2-3)?

Nhưng chỉ trong niềm tin vào Chúa, người ta mới tìm được niềm vui và ơn giải thoát thực sự, “Vì Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Ít-ra-en!” Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31,7-8).

Tin Mừng Đấng Cứu Thế đem đến cho nhân loại chỉ đơn giản là rao giảng tình yêu muôn đời Thiên Chúa đã dành cho họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3). Tình yêu đó nối kết nhân loại với Thiên Chúa trong mối tình thân mật của một người cha dành cho con mình: “Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31,9).

Vâng, Ngôi Lời đã làm người, sống giữa nhân loại, để “chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. (…) Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,14-16).

Tin Mừng cho nhân loại là được mạnh dạn đến gần Chúa, vì chính Người đã gọi, đã đến với sự cùng cực của mỗi người: “Người ta gọi anh mù và bảo: “ Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy” (Mc 10,49).

Vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu là dấu chỉ của một niềm tin mạnh mẽ. Niềm tin của anh đã cứu anh, anh nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Đó là niềm tin đem ơn cứu độ đến cho nhân loại hôm nay, niềm tin đó làm cho mỗi người nhìn thấy và phân định được điều thực sự có giá trị trong dòng đời để vất bỏ ngay, vất bỏ dứt khoát và mạnh mẽ những gì thế gian coi trọng để đi theo Đức Kitô trên con đường Người đi.

Dọc miền sông Rhine, một trong những con sông dài và quan trọng nhất Âu châu, truyện xưa kể lại chuyện một thanh niên đói lử, quần áo mong manh, cực nhọc, suốt ngày làm việc trên những con đường lổn nhổn, gồ ghề. Đêm đó, mắt anh nhìn thấy cánh cửa sáng ngời của toà lâu đài gần đó, tai anh lắng nghe âm thanh lễ hội với những dòng nhạc từ đó phát ra như cảnh thiên đàng đối với cuộc đời lao khổ của anh.

Anh bỏ nhà ra đi từ khi còn trẻ, và từ nhiều năm đã không còn nghe biết gì về nhà của mình nên không biết rằng lâu đài lộng lẫy đó là của cha anh mà anh là người thừa kế.

Anh đánh liều đến hỏi xin cho được trú qua đêm. Ở cổng, anh gặp lão giúp việc. Lão nhận ra anh ngay và dẫn anh vào buổi liên hoan. Tại đó, anh được mặc áo người thừa kế với một di sản lớn lao. Cuộc đời anh thay đổi, bóng tối khép lại sau lưng!

Còn lớn lao hơn thế là gia sản quí báu và hạnh phúc vĩnh cửu của tôi. Không có niềm tin, tôi không thấy gì cả.

Sao tôi không vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu để được nhìn thấy?

Lm. HK

“LUNG LINH, LUNG LINH, HAI TIẾNG GIA ĐÌNH…”

“LUNG LINH, LUNG LINH, HAI TIẾNG GIA ĐÌNH…”

 Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 669

 Giáo Hội Việt Nam cử hành lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày 24 tháng 11

hàng năm, sở dĩ ngày 24 tháng 11 được chọn vì đó là ngày thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tuy nhiên những ngày này trùng vào những ngày cuối cùng của Năm Phụng Vụ nên việc

kính nhớ các Thánh Tử Đạo Việt Nam mang sắc thái Việt Nam một cách đặc biệt.

Người Việt Nam trong những ngày cuối năm là những ngày lo thu vén, tổng kết những

công việc cả năm để chuẩn bị mừng năm mới. Trong các việc không bao giờ được bỏ qua đó

là kính nhớ ông bà tổ tiên, những người cuối năm người ta sẽ ra mộ thắp những nén nhang

tưởng nhớ ông bà cha mẹ, dọn dẹp mộ phần sạch sẽ gọn ghẽ như sẽ dọn nhà cửa đón mừng năm mới, dọn bàn thờ tổ tiên, thay hoa, bày biện them hoa trái, xin lễ cầu nguyện cho ông bà, thậm chí còn tổ chức họp mặt gia đình để làm giỗ kỵ, chưa kể ngày mồng hai Tết sẽ là ngày đặc biệt cho việc thiêng liêng này.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được xem là tổ tiên của các Kitô hữu Việt Nam, chính các ngài đã làm khai sinh ra Giáo Hội Việt Nam bằng chính những giọt máu đào làm chứng cho Đức Tin của các ngài. Những ngày cuối Năm Phụng Vụ là cơ hội tốt để chúng ta tưởng nhớ, cầu nguyện, tạ ơn Chúa và vinh danh các ngài.

Khi chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, chúng ta không chỉ thực hành một hành vi thiêng liêng,

nhưng còn thi hành một công việc mang tính xã hội và giáo dục. Ngày kính nhớ ông bà là ngày con cháu quy tụ, hội họp và chia sẻ với nhau, ngày kính nhớ ông bà tổ tiên cũng là ngày chúng ta nhắc nhau về công ơn và gương lành của các vị, từ đó chúng ta soi rọi đời sống của từng thành viên trong gia đình cũng như toàn gia đình và điều chỉnh cách sống sao cho xứng đáng với công ơn và gương sáng của các vị để lại.

Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không nằm ngoài những suy tư và sinh hoạt như một ngày kính nhớ tổ tiên của người Việt, nhưng còn hơn thế nữa vì được Lời Chúa chiếu sáng và dẫn đường cho chúng ta điều chỉnh cuộc sống của chúng ta. Bài đọc 1 trích trong sách Macabê quyển thứ hai ( 2Mcb 7, 1.20-23.27b-29 ) kể lại câu chuyện một bà mẹ và 7 người con trai chịu chết vì đạo trong cùng một ngày.

Sách Macabê chỉ cho chúng ta nghe câu chuyện nhưng không nói rõ bà mẹ tên gì và những con trai của bà tên gì, phải chăng Kinh Thánh muốn đưa ra cho chúng ta một chứng tá điển hình của một cuộc làm chứng, mà gia đình là nền tảng của Đức Tin và sự hy sinh.

Trước hết chúng ta thấy thật là khủng khiếp khi trong môt gia đình, tai họa ấp đến trong vòng

một ngày cho cả mẹ và 7 con trai, chắc chắn họ phải dựa vào sức mạnh thần linh để chấp nhận và sẵn sàng chết một cách can đảm, sức con người không thể vượt qua. Vì thế ơn chịu chết vì đạo là một ơn mà chúng ta phải khẩn cầu, nếu không có ơn chịu chết vì đạo, con người mỏng dòn của chúng ta không thể đảm đương.

Từ suy nghĩ này có lẽ chúng ta cần có cái nhìn cảm thông hơn cho sợ nhát hèn của những con

người khi đứng trước thử thách đã không thể bước qua. Cuộc tàn sát đạo ở Việt Nam trải dài ba thế kỷ danh sách của Giáo Hội có bao nhiêu Kitô hữu nhưng chỉ có hơn 300.000 người chịu chết và chỉ có 117 vị được tuyên phong !

Đó là con số nhỏ, rất nhỏ so với dân số Công Giáo, vì không phải ai cũng được gọi, và khi gọi rồi không phải ai cũng được chọn. Con số nhỏ bé này trong Kinh Thánh đã từng được nhắc đi nhắc lại với danh xưng “số sót của Israel”. Đã là số nhỏ thì chắc chắn là không đươc ủng hộ rồi, thậm chí còn bị bỏ rơi và kết án nữa, càng làm cho thêm giống Thầy Chí Thánh.

Trong chuyến công du đang thực hiện ở Phi Châu, Đức Thánh Cha có nói với các Linh Mục rằng

đừng đi tìm công danh, giàu sang, phú quý. Chọn Chúa sẽ mất tất cả, có chấp nhận đánh đổi không ?

Điều khác chúng ta dễ nhận ra đó là vai trò của người mẹ trong câu chuyện xưa của sách

Macabê. Là phụ nữ, đứng trước mất mát lớn lao như vậy bà đã không hoảng loạn, đã không xử sự theo cảm tính, nhưng rất bình tĩnh, bản lĩnh và khôn ngoan trong ngôn ngữ của mình để dẫn cuộc chịu chết vì đạo của cả gia đình mình đến nơi đến chốn.

Một chi tiết thú vị trong câu chuyện đó là bà dùng tiếng mẹ đẻ mà nói chuyện với các con của

mình. Đức Tin của Thiên Chúa ban cho mọi dân tộc, không cho riêng một dân tộc nào, Thiên Chúa làm người để Đức Tin Ngài ban nẩy nở sinh hoa kết trái trong từng dân tộc. “Ngôn ngữ” của dân tộc là phương thức tuyệt hảo mà Thiên Chúa dùng để ngỏ với từng người, từng dân tộc, Thiên Chúa cũng muốn lắng nghe từng dân tộc cất lời ngợi ca Ngài bằng chính ngôn ngữ của dân tộc ấy. “Ngàn dân ơi nào hát lên ca tụng Thiên Chúa. Muôn dân tộc tiến vào chầu…” Vay mượn và say mê ngôn ngữ ngoại lai trong phụng tự có làm cho Thiên Chúa hài lòng chăng ?

Một điều nữa chúng ta nhận ra đó là mối tương quan trong cuộc tử đạo này. Chính người mẹ đã

ươm trồng Đức Tin cho con mình, “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”, giờ đây bà nâng đỡ Đức Tin ấy và mạnh mẽ củng cố Đức Tin ấy bằng những lời lẽ mang đầy tính tình cảm gia đình thân thương.

Trong thư của Thánh Phaolô, chúng ta nhận ra đầy dấu vết Đức Tin ban đầu được loan truyền từ

“kênh” gia đình, Thánh Phaolô nhắc gia đình này gởi lời thăm gia đình kia… Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng bắt đầu từ những gia đình đón tiếp, giúp đỡ và che chở các Thừa Sai như vậy. Và lịch sử Giáo Hội Việt Nam đã được viết tiếp, âm thầm nhưng bền bỉ, cũng bằng những hạt mầm được ươm từ mảnh đất gia đình. Có thể nói: từ đơn vị gia đình nhỏ bé mà dần dần hình thành Giáo Điểm, rồi từ Giáo Điểm mà vun đắp nên Giáo Xứ, Giáo Phận, Giáo Hội…

Chúng tôi có lần đã được nghe một Linh Mục trẻ bộc bạch tâm sự rằng: rất sẵn sàng, rất khao

khát, rất hứng khởi khi có dịp được dâng Lễ Cưới và Lễ Tang, đặc biệt là những nố chuẩn hôn nhân khác đạo, bởi chính trong những dịp Lễ mang tính gia đình như thế, ngoài chiều kích dọc hướng lên Thiên Chúa, thì chiều kích ngang được tràn ra cho phần đông quần chúng rất ít khi hoặc chưa bao giờ bước qua ngưỡng cửa Nhà Thờ. Linh Mục qua bài giảng Tin Mừng có thể gây được ý thức rất thấm thía xúc động cho người trong đạo là đương nhiên, mà còn cho cả những anh chị em vô thần hoặc khác đạo có mặt trong những Lễ như thế. Và sau đó, từ khởi điểm ấy, những thành viên Công Giáo, có thể rất ít,

rất yếu trong các gia đình ấy sẽ làm tiếp nhiệm vụ lan tỏa Tin Mừng cho chính những người thân không phải là Công Giáo của mình…

Ngày hôm nay, khái niệm “tử đạo” còn được mở ra thành… “sinh đạo”. Chết cho đạo, cho Tin

Mừng của Chúa Giêsu là một ơn lớn lao. Thế nhưng, để “sinh đạo”, sống cho đạo, cũng là một

cách “tử đạo”, chết cho đạo từng ngày, từng tháng, từng năm, trong từng chọn lựa, từng quyết định, từng xác quyết theo sát Tin Mừng giữa một xã hội đang bị duy vật hóa, vô thần hóa của chúng ta hiện tại, thiết nghĩ, lại là một ơn lâu dài, bền bỉ và luôn luôn, vì lằn ranh giữa Tin Mừng và Sự Dữ bây giờ quá mong manh, sảy một ly đi một dặm ngay. Và trách nhiệm để gìn giữ cho “sinh đạo” ấy xin đừng dồn hết cho Nhà Thờ, cho các cha, các dì phước, nhưng chính là của gia đình, từ gia đình.

Gia đình còn giữ được Lửa Tin Mừng thì Giáo Hội sẽ còn có thể tiếp tục tiến bước, chậm nhưng

chắc. Xin các Thánh đã chết vì đạo ngày xưa cầu bầu cùng Chúa những ơn cần thiết cho chúng con là những… Thánh đang sống cho đạo hôm nay. Amen.

 Lm. VĨNH SANG, DCCT,

24.11.2015

( Tựa đề lấy theo một câu trong bài hát của Phương Thảo – Ngọc Lễ )

Đời lạnh lùng trôi theo giòng nước mắt,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Vọng Năm C 6/12/2015

 “Đời lạnh lùng trôi theo giòng nước mắt”,

Với bao tiếng tơ xót thương người.

Vì cuôc tình đã chết một đêm nao

Lúc trăng hãy còn thơ ấu.”

(Phạm Duy – Tiếng Đàn Tôi)

2Côrinthô 6: 13-15)

 Tiếng đàn tôi, ư? Tiếng đàn đây, là đàn gì mà sao anh/chị lại hát những câu nghe thảm-thiết thế? Nào là: “đời lạnh lùng”, “giòng nước mắt”, rồi lại: “vì cuộc tình đã chết một đêm nào”. Ôi chao! Cuộc tình nào lại thảm-thiết đến như vậy?

Cũng may là, bậc anh bậc chị còn hát những ca-từ rất yêu đời, như sau:

“Dù đời tàn trên cánh nhac chơi vơi.

Vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời.

Lúc bao nhiêu tiếng cười.

Rộn ràng chảy về xuôi.”

(Phạm Duy – bđd)

 Vâng. Chính là thế. Hễ có tiếng cười ở đâu đó rồi thì tình/huống/sự việc lại cũng “chảy về xuôi thôi.”

Vâng. Chuyện đời người, thường vẫn như vậy. Chuyện Đạo trong đời lại cũng không hẳn như thế đâu. Đây, nào bạn hãy cùng tôi, ta cứ xem xét cuộc đời người ở ngoài đời, được kể như thế nào để mình còn đi vào nhà Đạo mà tìm hiểu tiếp.

Chuyện đời người, cũng tựa như chuyện nhà văn nọ ở xứ Đài từng hồi tưởng về ngày thơ ấu, khi ông còn là học trò nhỏ, rất như sau:

“Nhà văn Đài Loan – Lâm Thanh Huyền hồi còn là học sinh cấp hai, học lực và hạnh kiểm của ông đều là xếp loại kém, còn nhớ ông có hai lần mắc lỗi nghiêm trọng và hai lần lỗi nhẹ, cho nên đã bị lưu ban, thậm chí còn bị đuổi ra khỏi ký túc xá của trường.

 Rất nhiều thầy/cô đã không còn hi vọng gì vào ông, nhưng thầy giáo dạy văn Vương Vũ Thương lại không hề ghét bỏ ông, thường hay đưa ông về nhà ăn cơm, khi thầy bận việc phải nghỉ, còn bảo Lâm Thanh Huyền mang bài lên lớp cho các bạn.

Thầy giáo Vương nói với Lâm Thanh Huyền rằng:

 “Thầy đã dạy học 50 năm, liếc mắt đã nhận thấy con là một học sinh có tài năng”.

Những lời nói này đã khiến cho Lâm Thanh Huyền vô cùng cảm động và bị chấn động sâu sắc trong lòng. Để không phụ lòng nỗi khổ tâm của thầy giáo, ông từ đó về sau nỗ lực cố gắng, quyết tâm làm một người có ích cho xã hội.

 Quả nhiên, mấy năm sau, Lâm Thanh Huyền đã trở thành một phóng viên, trong một bài báo viết về tên tội phạm trộm cắp, ông cảm thấy tên trộm này có một tư duy rất tinh tế, thủ pháp gây án rất tinh vi tỉ mỉ, sau cùng không kìm được lòng mình ông đã viết ra rằng:

 “Một tên trộm với tư duy tinh tường, thủ pháp khéo léo

và một tác phong đặc biệt như vậy,

 nếu hắn làm bất luận việc gì cũng sẽ thành công”.

 Khi viết những câu này hẳn ông cũng không nghĩ rằng lại ảnh hưởng đến cuộc đời của một thanh niên. Hai mươi năm sau, tên trộm năm đó đã lột xác, hắn đã làm lại từ đầu, trở thành một vị chủ doanh nghiệp có chút tiếng tăm.

 Trong một lần bất ngờ gặp Lâm Thanh Huyền, ông chủ doanh nghiệp này đã chân thành nói:

 “Bài viết đặc biệt của Lâm tiên sinh ngày đó đã thắp lên điểm sáng trong cuộc đời tôi, nó khiến tôi nghĩ rằng, ngoài việc làm tên trộm ra, tôi còn có thể làm được việc đúng đắn”.

 Người kể, hôm nay, lại dùng câu truyện cũng khá thường-tình, để rồi đi đến kết luận như thế này:

Khi đối mặt với một người đang lầm lỗi, đang bị những lời nói cay độc vây quanh, một câu nói chứa đựng sự quan tâm, yêu thương che chở và khích lệ sẽ tựa như một ngọn lửa bùng cháy… nó đem lại cho người ta sự ấm áp, và nhen nhóm lên trong sâu thẳm nội tâm người ta một ngọn lửa của sự tự tin và tự tôn. Nó khiến người ta được tái sinh mà cố gắng hăm hở, tích cực hướng lên.

 Khi một người bị rơi vào cảnh tuyệt vọng, xung quanh mờ mịt không rõ phương hướng, một câu nói chỉ bảo, thăm hỏi an ủi và tán thưởng. Giống như một ngọn đèn soi đường, giúp cho họ từ trong bóng tối mà nhìn được ánh sáng của con đường phía trước, vì thế mà phá tan được màn đêm sương mù dày đặc mà bước ra thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn.

 Kinh nghiệm của Lâm Thanh Huyền cho chúng ta biết:Một lời nói có thể trở thành ánh mặt trời sưởi ấm cuộc đời người khác,  có thể đem lại cho họ một cuộc đời ấm áp và rực sáng.” (trích truyện kể trên mạng, cứ kể hoài, kể mãi rất dài dài).

             Ấy đấy. Kinh-nghiệm của một người từng kể chuyện đời là thế đấy. Thế nhưng, với nghệ-sĩ ngoài đời là những vị ít khi kể về kinh-nghiệm của riêng mình hoặc ai khác, nhưng lại cứ nói về kinh-nghiệm sống của người nghệ-sĩ qua thi-ca/âm nhạc, đại để như sau:

“Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi.

Khoan khoan hò ơi dặt dìu trong tiếng đàn tôi.

Mêng mông lả ơi thuyền về bát ngát hương trời.

Khoan khoan hò ơi nhịp sầu xa vắng mà thôi!

 Buồm về dội nắng trên khơi.

Bao nhiêu hoàng hôn đên cho yên vui người ơi!

Có tiếng hát theo đàn tôi.

Như ru như thương linh hồn đắm đuối.

 Mêng mông lả ơi, thuyền chờ mong gió lên trời

Mang theo đàn tôi chảy về đậu bến ngày mai.”

(Phạm Duy – bđd)

Thi-ca/âm-nhạc và truyện kể, bao giờ cũng đặm thêm chút mắm muối, mặn nồng đầy “hư-cấu”. Bởi, nếu không, thì người người lại cứ vào giòng thơ hay âm-nhạc mà sống đời mộng-ảo khá lạ đời, thì hỏng hết.

Với nhà Đạo, cả Đạo Chúa lẫn đạo Phật, lại vẫn có những luận-điểm mà nhiều bậc vị vọng từng có kinh-nghiệm sống, lại nhận-định khác hẳn những người ngoài cuộc, hoặc cả đến người trong Đạo nhưng không sống theo tôn-chỉ của Đạo, nên mới lạ.

Còn nhớ, thoạt vào lúc khởi-đầu thiên-niên-kỷ thứ ba có thiền-sư đạo Bụt sống ở hải-ngoại nhưng nhận-định về cuộc sống Đạo/đời, giản-dị như sau:

“Thử nhìn vào tổ chức Giáo-hội Phật-giáo hợp-pháp duy-nhất tại quê nhà mà người ta thường gọi bông đùa là Giáo-hội nhà nước. Nhìn vào đó, ta thấy những yếu-tố đã tạo ra nó, tích-cực và tiêu-cực. Trong số những yếu-tố ấy, ta thấy sự có mặt của Giáo-hội Việt nam Thống-nhất mà đại-diện phía chiều nổi đã tranh-đấu ráo-riết cho nên các thày trong Giáo-hội nhà nước mới được nhà nước cho phép dịch sách, in kinh…

 Các thày bên phía Giáo-hội thống-nhất càng tranh-đấu, càng vào tù/ra khám chừng nào, thì các thày bên phía Giáo-hội nhà nước càng có thêm không-gian để làm việc chừng nấy. Vậy, là các thày bên Giáo-hội thống-nhất là những vị đã và đang yểm-trợ Giáo-hội nhà nước một cách tích-cực nhất.” (Thích Nhất Hạnh, trích “Kẻ Thù Ta..” tr.1)

 Thiền-sư Thích Nhất Hạnh, nhiều lúc, cũng thấy “bực” vì cứ bị người đồng Đạo trách-móc điều tiêu-cực, ít thực-tế, nên lại đã thanh-minh bằng lời-lẽ sau đây:

“Ba chục năm nay, có một số người trong nước cũng như ngoài nước cứ trách cứ tôi là quá thân với người “Cơ đốc” và người Cộng sản. Họ chỉ muốn tôi thân với người Phật tử và người chống Cộng mà thôi.

 Tôi đã cố gắng nhắc cho họ nhớ là tôi chỉ có thể hành động trên cơ bản nhận thức: “kẻ thù ta không phải là con người” tôi muốn tất cả đều có cơ hội để sống và có quyền sống hạnh phúc-  nhưng không phải ai cũng đã chấp nhận được dễ dàng điều đó cho tôi” (Thích Nhất Hạnh – sđd , tr.2)

Hôm nay, nhớ lại giòng tư-tưởng của thiền-sư, bần-đạo đây thấy mình không nên bước vào cuộc tranh-cãi với một ai. Mà, chỉ muốn trưng ra ở đây, đôi lời dẫn-nhập cho một suy-tư về cuộc sống có đổi thay với nhân-sinh-quan/lập-trường khác biệt tùy vào giao-dịch với thực-tế ở đời.

            Và hôm nay, thực-tế cuộc đời mà bần đạo bắt gặp, lại là giòng chảy thời-sự xảy ra ở Đạo Chúa, đã được giới truyền-thông đặt tên cho là “vụ wikileak 2”, tức: vụ trộm tài-liệu mật của Toà Thánh Vaticăng qua hai cuốn sách mới xuất-bản ở Ý.

Đặc-biệt hơn, là phản-ứng của Đấng Chủ-quản chốn chóp bu nhà Đạo, tức Đức Phanxicô, đã có lời như sau:

“Anh chị em thân mến,

 Tôi biết rằng nhiều người trong anh chị em đang hoang mang vì những tin vừa truyền đi trong những ngày qua liên quan đến các tài-liệu mật của Tòa Thánh bị lấy cắp.

 Vì thế, tôi muốn với anh chị em rằng: trước hết việc lấy cắp tài liệu này là tội phạm. Đó là hành-vi đáng trách, chẳng giúp ích gì. Chính tôi đã yêu cầu thực hiện cuộc khảo sát này, và cả tôi cũng như các cộng sự viên của tôi đều biết rõ nội dung tài liệu ấy, và các biện pháp được đề ra và chúng đã bắt đầu mang lại thành quả, nhận thấy rất rõ.

 Do đó, tôi muốn khẳng-định lại một lần nữa, với anh chị em rằng: sự việc đau buồn này chắc chắn không ngăn cản tôi thực hiện những cải tổ đang tiến hành với cố vấn của tôi có sự hỗ-trợ của tất cả anh chị em. Đúng vậy, bằng vào hỗ trợ của toàn Giáo Hội, vì Giáo Hội được canh-tân bằng lời cầu và sự thánh thiện của mỗi tín hữu.

 Vì thế, tôi cám ơn anh chị em và xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi và cho Giáo Hội, đừng để mình bị hoang mang, xáo trộn nhưng tiến bước trong niềm tín thác và hy vọng.” (X. Lm G. Trần Đức Anh, O.P dịch từ tin Vatican trên VietCatholic 08/11/2015)

Lâu lắm mới thấy Đức Phanxicô phát-biểu về chuyện “công-bình” và công-chính ở trên đời. Quả là, sống ở đời, nhiều lúc thấy có vị đã quên bẵng đi điều đó.

Bần đạo còn nhớ ở đâu đó, trong những ngày đầu năm 1975, đã thấy có hiện-tượng nhà chức-trách từng lôi kẻ cắp/ăn trộm ra hiện-trường đường phố có đông-đảo bà con chứng-giám mà chặt ngón tay hoặc bàn tay của thủ-phạm vừa mắc lỗi, để răn đe hoặc làm trò tuân-giữ luật-lệ thật khắc khe.

Ăn cắp/ăn trộm tài-sản vật-chất của người khác, thì bị thế. Thề còn, ăn trộm tài-sản trí-tuệ của một đạo-giáo có số người đi Đạo lên đến gần cả tỷ, thì ta chặt gì đây? Đức Giáo-chủ nhà mình có dám ra lệnh như thế không, đó mới là vấn-đề.

Nay, đưa ra câu hỏi gọn/nhẹ này cốt chỉ để đề-nghị với các bạn đang đọc những giòng phiếm-luận này, có chút thì giờ để ta cùng nhau suy tư/nghĩ-ngợi về hiện-tượng công-bình/chính-trực và lòng yêu-thương trong Đạo, hoặc ngoài đời.

Nhưng, trước khi đi vào chuyện đứng-đắn có chủ-đề, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào giòng chảy lời vàng có những lời lẽ rất “để đời”, như sau:

“Thật thế,

làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính?

Làm sao ánh sáng lại dung hoà được với bóng tối?

Làm sao Đức Kitô lại hoà hợp được với Bêlia?

Làm sao người tin

lại chung phần được với người không tin?”

(2 Côrinthô 6: 13-15)

 Công-bình/chính-trực, bắt đầu bằng những ưu-tư/quan-ngại về các nhu-cầu và khát-vọng của con người. Và rồi, nỗi-niềm ưu-tư ấy diễn rộng để giúp ta biết đến nhu-cầu và khác-vọng của người khác cũng như toàn-thể xã-hội, theo tổng-thể.

Tổng-thể hơn cả, là gia-đình ruột thịt của mỗi người trong đó các thành-viên lại đã yêu-thương lẫn nhau cách đậm sâu. Thế nhưng, thực-tế ở đời vẫn có trường-hợp: anh nọ, chị kia lại hợp ý, hợp khẩu-vị với người em nào đó trong gia-đình, hơn em khác. Nhất thứ, là gia-đình đông-đúc như ở Đạo Chúa.

Cả đến bậc mẹ/cha cũng thế. Nhiều lúc, lắm khi cha hoặc mẹ lại thích yêu riêng bé này/em nọ hơn ai khác; chỉ vì bé biết ý của mẹ/cha nên đã nghe lời, hoặc tuân lệnh răm-rắp.

Trong sống đời thực-tế, có nhiều thứ còn quan-trọng và đáng kể hơn chuyện công-bình/chính-trực. Công-bình và chính-trực, đặt căn-bản trên việc tôn-trọng kẻ khác, người khác. Nhưng, cũng không vì thế mà, để đổi lại, mình bắt-buộc người khác tôn-trọng mình.

Tôn-trọng người khác, không chỉ mỗi bậc ngang hàng tức: những ngươi có cùng một nhu-cầu và ham muốn giống nhau. Mà, cả đến bậc trên của mình, tức: những người mà mình cứ tưởng, là: có quyền và có lực trên mình và người ngang hàng mình, kể cả các giới-chức có quyền và lực trên cả hai, hoặc mọi người.

Về phía Đạo, có đạo-hữu lại cứ nghĩ rằng: Đấng Bề Trên là Thượng-Đế , Chúa Trời đôi lúc xử-sự cũng không được công-minh cho lắm. Nhất thứ, là về trường-hợp: tiền/của, sức khoẻ/bệnh tật hoặc tài-nguyên nhân/vật/lực.

Người đi Đạo luôn tin vào Đức Chúa là Đấng thương-yêu mỗi người trên đời cách say mê, nên đã phú-ban cho mọi người sự tự do để họ vui-hưởng cuộc đời hầu dựng-xây thế-giới/xã-hội cách đại-độ, để mọi người sống vui, sống mạnh, sống đạo-hạnh với Chúa và cho Chúa.

Thật ra thì, cuộc sống có nhau và với nhau, hoặc với Chúa là sống trong tương-quan chặt-chẽ với nhau. Những gì xấu-xa/tồi-tệ xảy ra với người này không phải là đã và sẽ không xảy đến với người khác. Thành thử, khi có ai phàn-nàn về chuyện xấu sao cứ xảy ra với người tồt lành mà không phải người khác?

Công-bình/chính-trực, phải được quan-niệm như thể trong tương-quan giữa ta với người khác. Ta như mắc nợ một số điều nơi người khác. Công-bình và chính-trực, chỉ có nghĩa là khi người khác và ta đều hành-xử rất ngang bằng/đồng đều, có tôn-trọng lẫn nhau.

Công-bình và chính-trực, thực-sự diễn ra cách rộng rãi hơn là giữa hai người thôi. Nhưng, giữa nhiều người, nhiều nhóm người trong cộng-đồng nhân-loại.

Công-bình, tuỳ-thuộc vào hệ-thống tôn-trọng và sự chính-trực với cả cộng-đồng xã-hội nữa. Nếu ta muốn có một xã-hội công-bình, thì chính mình phải sống sao cho công-bình trước đã. Và cứ thế, mỗi người và mọi người đều làm giống như thế, tự khắc toàn xã-hội cũng sẽ làm như thế.

Hơn nữa, công-bình sẽ không là yếu-tố độc-nhất trong đời người. Đời con người, có nhiều thứ và nhiều sự còn quan-trọng hơn. Trong đó, phải kể đến tình thương-yêu mở rộng ra cho mọi người và với mỗi người. Xã-hội nào có được sự yêu-thương rộng-lượng, tự khắc sẽ có công-bình/chính-trực.

Cuối cùng thì, có thể nói: trong cuộc đời người, cũng có những chuyện tuy không thiết-yếu như công-bình/chính-trực, trong đối xử vì đời là một chuỗi ngày rất muôn hình vạn dạng. Trong đó, có chuyện quan-yếu hoặc lý-tưởng khiến mọi người cần để ý.

Thế nhưng, đời người còn được điểm-tô bằng các sắc mầu khác-biệt để giúp người đời sống vui, sống mạnh sống thoải mái, rất dễ chịu. Trong số đó, có truyện kể để cười vui cho qua ngày đoạn tháng, thế thôi. Tựa như truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Hai người bạn thân ở chung một phòng trong lúc rảnh-rỗi ngồi nói chuyện với nhau, như sau:

-Hôm qua, tao vừa rủ người em bé nhỏ đi chơi mà trong túi không có được đồng xu teng nào hết, thế có sợ không cơ chứ. Nhưng, tao vẫn quyết-định cứ rủ nó đi.

 Người bạn kia, hứng chí vỗ vào đùi rồi bảo:

-Ông thật là can-đảm!

Chẳng mấy chốc, người này lại được kể tiếp câu chuyện hơi lạ, rằng:

-Cũng chẳng can-đảm gì đâu. Chả là, khi tới nơi, tao mới biết là trong túi quần mình mặc lại có một đống tiền, thế là hai đứa bọn tao tha hồ xài cho hết số tiền ấy, chẳng thắc mắc, bận-tâm gì hết.

-Thế đấy. Ông Trời thường vẫn không phụ lòng người tốt bụng, ấy mà.

-Chưa hết. Khi về đến nhà, mới phát-giác ra rằng: tao lỡ mặc nhầm quần của mày đấy. Thế có chết không?”

             Chẳng chết thằng Tây còn Đầm nào hết. Truyện kể ở trên chỉ là chuyện hư cấu thuộc loại “nghe qua rồi bỏ”, cho vui đời mà thôi. Nhưng, thực-tế cuộc đời người, nhiều lúc cũng thấy xảy ra đôi ba chuyện thuộc loại “tréo cẳng ngỗng”, mà người trong cuộc nhiều lúc chẳng thấy vui.

Thôi thì, ta cứ coi đây là truyện hư-cấu chỉ để vui thoáng chốc. Vui rồi, nay xin bạn và tôi, ta về lại với nhạc-bản trích-dẫn ở trên để cùng hát chung đôi câu cho rộn rã, dù chỉ vài ba giây phút phù-du đọng lại trong đời mình. Vậy, bạn và tôi ta cứ hát, những lời rằng:

“Dù đời tàn trên cánh nhac chơi vơi.

Vẫn còn mong nhớ khúc yêu đời.

Lúc bao nhiêu tiếng cười.

Rộn ràng chảy về xuôi.

 Mênh mông lả ơi, thuyền về tới bến mơ rồi.

Khoan khoan hò ơi dặt dìu trong tiếng đàn tôi.

Mêng mông lả ơi thuyền về bát ngát hương trời.

Khoan khoan hò ơi nhịp sầu xa vắng mà thôi!

 Buồm về dội nắng trên khơi.

Bao nhiêu hoàng hôn đên cho yên vui người ơi!

Có tiếng hát theo đàn tôi.

Như ru như thương linh hồn đắm đuối.

 Mêng mông lả ơi, thuyền chờ mong gió lên trời.

Mang theo đàn tôi chảy về đậu bến ngày mai.”

(Phạm Duy – bđd)

 Ngày mai hay hôm nay, ta cứ thế mà rộn ràng để con thuyền “chờ mong gió lên trời”, chẳng về bến mơ hay cõi mộng rất mai ngày, trọn kiếp người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong và cứ chờ

Thuyền mình không lái

Chảy về bến mơ.

Thế nhân ơi, trần-gian vẫn cuộc đời.

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 2 Mùa Vọng năm C 06/12/2015

 Tin Mừng (Lc 3: 1-6)

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:”Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”

“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Ban ngày, Đức Giêsu giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.

*    *    *

 “Thế nhân ơi, trần-gian vẫn cuộc đời”

Và miên viễn, giòng đời trôi bất-diệt.”

(Dẫn từ thơ Ti-gôn)

Mai Tá lược dịch.

Vâng. Giòng đời vẫn cứ trôi. Vẫn miên-viễn làm sao dám tru-diệt. Chí ít, là giòng tìm-kiếm, của người đang mong đợi, thuở ban đầu. Từ ban đầu, cộng-đoàn dân Chúa vẫn luôn chờ và cứ đợi. Chờ và đợi, nay Tin Mừng kể lại chuyện thánh Gioan Tẩy Giả đã khích-lệ đoàn người lũ-lượt theo chân thánh-nhân: hãy bình-tĩnh nhẫn-nại, vì thời-gian chờ đón Đấng Cứu-Độ, đến rất mau.

Ngược giòng lịch-sử, ta thấy rõ: người Do-thái vẫn muốn chính mình có mặt vào ngày giờ Đấng Thiên-Sai hiện đến thêm lần nữa. Từ đó đến nay, từng thế-hệ và từng thế-hệ vẫn nối-tiếp trong mong chờ và cứ đợi. Mang hy-vọng nhờ nguyện cầu sốt-sắng, dân con nhà Chúa lại sẽ diện-kiến Đấng Thiên-Sai. Ngài sẽ đến như Người Con vinh-hiển, đã xức dầu.

Thật ra, người Do-thái vẫn mang hy-vọng hãnh-tiến, rất miên-trường. Họ cầu Chúa tái-lâm vào ngày nào đó, để còn hy-vọng sẽ lại thấy Ngài. Rõ ràng là, Đức Kitô vẫn chưa quang-lâm thực đúng ngày giờ mà mọi người chờ mong.

Trong chờ ngày Chúa đến lại, có người lại cứ liên-tưởng đến biến-cố bi-ai, rất nhẫn-nhục. Họ cứ nghĩ: nếu biết nhẫn-nhục và hy-sinh, chịu khó, ắt sẽ được giáp mặt Ngài, chẳng chờ lâu.

Liên-tưởng ngày “N” đầy kịch-tính, dân con của Chúa cùng thế-giới như chùng lại, đi vào giây phút tận-tuyệt, khó hình-dung. Có người còn tô đậm nhiều tưởng-tượng, quyết đoán rằng: Đức Chúa hẳn sẽ xuất-hiện trong vinh-quang sáng-láng giống vua/quan lãnh chúa đến tức thì. Dón chờ Ngài, chắc chắn có lễ-hội đình-đám, no say tự hồ đón-nhận lãnh-tụ/chính-trị-gia vừa thắng lớn, quyết ra tay xoá bàn cờ, dựng lại.

Đọc Tin Mừng, hẳn ai cũng nhớ lại tình-huống qua đó thánh Luca từng nhấn mạnh sự-kiện tín-hữu thời đầu vẫn chờ/mong Đức Kitô đến lại, chẳng nguôi ngoai. Bậc thánh-hiền khi ấy, vẫn ước ao được diện-kiến Đấng Thiên-Sai thêm lần nữa. Nhưng, họ lại để luột mất cơ-hội, bởi cứ dựa vào những dấu-hiệu không rõ rệt.

Thực-tế hơn, thánh Gioan Tẩy Giả là người đầu tiên gặp mặt Chúa bằng xương bằng thịt. Thánh-nhân có được diễm-phúc diện-kiến Ngài từ đầu, vào lúc Ngài gia-nhập thế-giới nhân-trần đầy êm-ả.

Thánh-nhân còn ý-thức được rằng: Đức Kitô, vốn yêu-thương thế-giới loài người rất mực, nên đã khoả-lấp hố sâu ngăn-cách người với người. Khi Ngài đến, núi đồi nào cản-ngăn sự hiệp-thông/kết-nối, đều bị Ngài san bằng cách-biệt.

Bằng vào tình thương-yêu/đùm bọc, Ngài gỡ bỏ mọi tăm-tối ở lòng giận hờn, ghét-ghen, tị nạnh. Bằng phong-cách rất nhân-hiền, Ngài vạt-phẳng mọi hố sâu chia-lìa xuất tự đố-kỵ mà người người vẫn hành-xử đối với nhau, hết mọi ngày.

Bằng lòng mến vô bờ luôn tỏ-lộ, Ngài biến-cải mọi thành-trì dù kiên-cố của những chán-ngán, lạnh căm. Để rồi, Ngài lại sẽ đưa vào chốn Nước Trời đầy sức sống cho con dân của Ngài được vui hưởng hết mọi sự. Từ nay, tâm-can con người rày sẽ trở nên con suối hiền êm ả, thẳng tắp.

Hướng vào ngày Ngài tái-lâm, chắn chắn đó là phong cách rất đặc thù của những người đang trong tâm-trạng chờ mong, mong chờ. Nhưng, Mùa Vọng không là lễ-hội phàm-trần để ta thản-nhiên mà tuyến-bố: mình không hề biết vì lễ hội trần-tục, con người sẽ cứ dửng-dưng trước ý-nghĩa của ngày Chúa tái-lâm.

Dù sao đi nữa, hướng về ngày Chúa Giáng-trần còn là mùa lễ giúp ta suy-tư, nghĩ-ngợi nhiều về tính kiên-nhẫn biết nói lời “Xin Vâng” với Chúa, với Cha. Mùa này, mỗi năm, ta vẫn cùng nhau thinh-lặng trầm-bình bước vào nguyện-đường, nhắc nhở chính mình rằng: Ơn Cứu-Chuộc Chúa ban đã kởi-đầu từ nhân-vật bé bỏng, Chúa Hài-Nhi.

Hy-vọng và hướng về ngày Chúa quang-lâm, còn là mùa lễ để ta thấy được niềm tin của những người còn chờ mong được thấy những gì ta đang thấy. Nhận-thức được điều ta đang sống có ý-thức, tin-tưởng vào những gì ta đang tin-tưởng. Hy-vọng và hướng mình vào ngày Chúa đến lại, cũng là mùa giúp ta tăng-trưởng lòng kiên-nhẫn, cố lấp đầy những hố sâu cay-đắng nơi cuộc đời cần khoả-lấp.

Ở tư-thế ngóng chờ ngày CHúa đến lại, sẽ giúp ta hiểu rằng: vẫn còn nhiều đồi núi/cách ngăn đang chờ chực ta san-bằng. Và, Mùa Vọng còn là thời-gian quí-giá để ta tưởng nhớ lại quãng đời bĩ-cực/khổ-đau khi trước. Vào lúc ta những nghĩ rằng: Ngài bỏ rơi ta, chẳng đoái-hoài; nhưng hy-vọng và hướng nhìn về quá-khứ trong chốc lát, ta lại đã nhận ra rằng: Ngài luôn kề-cận, hiện-diện bên ta suốt hành-trình gian-nan/khổ-ải , nơi trần-thế.

Chờ ngày Chúa quang-lâm giáng hạ thêm lần nữa, ta cũng nên nhớ lại lời “Xin vâng!” qua tâm-tình đáp trả tình-tự thương-yêu đang dâng-trào bằng thứ tình tư-riêng, đầy mến mộ.

Chờ và mong ngày Chúa quang-lâm giáng-hạ, còn là nói lên lời đồng-thuận sẽ vui nhận Vương Quốc Nước Trời đang diễn-biến ở chốn gian-trần, do Ngài gửi. Và như thế, ta lại sẽ thực-thi công-lý và hoà-bình, cho dân nước.

An vui ngày lễ vọng, là nói lời “Xin vâng!” đồng-thuận khi biết rõ Ngài vẫn là bạn đồng-hành với ta trong mọi lúc, ở mọi nơi. Ngài vẫn cận-kề ta trong hành-trình tin-yêu mến một đầy trắc-trở. Ta sẽ hiên-ngang nói lời “Xin Vâng!” vui nhận, cả vào lúc thất-vọng rất tràn-trề. Cả vào khi niềm thất-vọng đã chợt đến, chợt đi, thật bất ngờ.

Hãy bắt chước nhà thơ John Bell, người Tô Cách Lan từng diễn-tả tình-tự thân-thương Mùa Vọng bằng nha74ng vần thơ, tình-tứ rất như sau:

“Anh sáng cúi gập mình nhìn tăm tối rồi vội nói:

Ta phải đi, nhất-định không để thế

Hoà-bình ghé lại, thấy chiến-tranh, liền bầy-tỏ:

 Ta đi đây, quyết tái-tạo an-hoà,

Tình yêu để mắt, thấy hận-thù bèn nhất-quyết:

Ta lên đường, dù phải đợi, phải chờ.

 Tựa hồ như thế, Đức Chúa sự sáng

Là hoàng-tử An-Bình

Là Vua Cha của Tình thương yêu

Đã ghé bến nhân-trần, lưu lại cận-kề với ta mãi.”

 Vâng. Có Chúa cận kề, hẳn dân con đi Đạo sẽ hân hoan vui sướng biết bao. Hân hoan, vì đã chờ đợi biết bao năm, không mệt mỏi. Dù, kinh qua mọi khổ ải, nhiều đau thương. Vẫn cứ vui, mà đợi chờ, không quản-ngại vì biết rằng Ngài sẽ lại đến trong vinh-quang mai ngày như đã hứa. Và, Lời Ngài dặn còn đó những Mùa Vọng. Mùa, của chờ mong, yêu thương, rất nhung nhớ.

Lm Richard Leonard sj biên doạn

Mai Tá lược dịch.

SỐNG TỈNH THỨC

SỐNG TỈNH THỨC

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự.  Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.

Song Tinh Thuc

– Đây là ông A.  Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.

Ông ta bước đến xác thứ hai:

– Đây là Bo.  Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.

Đến cái xác thứ ba:

– Đây là Tom.  Ông ta chết vì bị sét đánh.

– Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?

– Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười !

Chết có muôn ngàn kiểu.  Vui quá cũng chết.  Buồn quá cũng chết.  Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết.  Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết.  Chết cũng không quy định nơi chốn.  Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường . Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường.  Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.

Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết.  Cái chết là quy luật tất yếu của đời người.  Sinh – lão – bệnh – tử.  Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.

Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ.  Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc.  Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ.  Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa.  Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra.  Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc.  Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên.  Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh.  Sự sống của linh hồn bất diệt.  Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa.  Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.

Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay.  Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn.  Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.

Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.  Hãy sống công chính trước mặt Chúa.  Sống trong ơn nghĩa của Ngài.  Sống trung thành với giáo huấn của Ngài.  Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha: ”Đừng đi tu vì tham vọng và lợi lộc”

Đức Thánh Cha: ”Đừng đi tu vì tham vọng và lợi lộc”


NAIROBI. Trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh Kenya, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ: đừng theo Chúa Kitô vì tham vọng, tiền bạc hoặc tư lợi.

Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc quá 3 giờ chiều ngày 26-11-2015 tại khuôn viên trường Công Giáo St. Mary ở thủ đô Nairobi với sự tham dự của hơn 1 ngàn LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

ĐTC đã bỏ qua bài huấn dụ dọn sẵn và ứng khẩu bằng tiếng Tây Ban Nha:

”Khi theo Chúa Giêsu Kitô, trong đời linh mục cũng như trong đời thánh hiến, hãy đi qua cửa chính là Chúa Kitô! Có một số người muốn đi vào qua cửa sổ.. nhưng làm như vậy không ích gì. Xin anh chị em, nếu có người đồng hành nào, nam hoặc nữ, đi vào qua cửa sổ, hãy ôm lấy họ, chào đón và giải thích cho họ rằng tốt hơn hãy đi nơi khác, và phụng sự Chúa ở nơi khác, vì đi vào qua cửa sổ như vậy, họ sẽ không bao giờ chu toàn được công trình mà chính Chúa Giêsu đã khởi sự”.

ĐTC nhận xét rằng ”có một số người muốn theo Chúa vì một lợi lộc nào đó. Đó là cám dỗ theo Chúa vì tham vọng: tham vọng tiền bạc, tham vọng quyền bính. Đó là một cám dỗ được gieo vào tâm hồn và nó lớn lên như cỏ dại. Trong đời sống theo Chúa Giêsu, không có chỗ cho tham vọng riêng, cũng chẳng có chỗ cho giàu sang, hoặc trở thành một người quan trọng trong thế giới.”

ĐTC cũng giải thích rằng sở dĩ như vậy vì ”Giáo hội không phải là một xí nghiệp, không phải là một ONG (tổ chức phi chính phủ), nhưng là một mầu nhiệm: mầu nhiệm cái nhìn của Chúa Giêsu trên mỗi người chúng ta và nói: ”Hãy đến! Hãy theo Thầy!”.

ĐTC cũng nhấn mạnh đức tính cảm thương mà linh mục tu sĩ phải có, đó là ”biết khóc”. Ngài nói: ”Vì thế, điều rõ ràng là: Đấng kêu gọi chúng ta là Chúa Giêsu, những người mà Chúa gọi, thì phải đi vào qua cửa chứ không phải qua cửa sổ! Rồi phải theo con đường của Chúa Giêsu.. Dĩ nhiên khi Chúa Giêsu chọn chúng ta, Ngài không phong thánh cho chúng ta.. Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, từ Giáo Hoàng trở xuống… Đừng bao giờ ngưng khóc. Khi một linh mục, một tu sĩ nam nữ khô nước mắt, thì có một cái gì đó không ổn. Khóc vì những bất trung của mình, khóc vì sự đau khổ của thế giới, khóc vì những người bị gạt bỏ, những người già bị bỏ rơi, các trẻ em bị sát hại, vì những điều mà chúng ta không hiểu; khóc khi chúng ta tự hỏi tại sao.. Không ai trong chúng ta có mọi câu trả lời”.

ĐTC không quên nhắn nhủ các LM, tu sĩ và chủng sinh đừng lơ là đời sống cầu nguyện, tương quan với Chúa Giêsu. ”Nếu một LM, tu sĩ quên Chúa Kitô, thì họ sa vào một tội rất xấu xa.”

Ngài cũng nói: ”Thưa cha, nhiều khi con thấy chán cầu nguyện quá.. Con mệt mỏi và ngủ trong giờ cầu nguyện!”. ”Không sao, cứ ngủ đi, ngủ trước Chúa, đó cũng là một cách cầu nguyện. Nhưng hãy ở lại đó, trước Chúa! Anh chị em hãy cầu nguyện, đừng bỏ cầu nguyện! Nếu một người thánh hiến bỏ cầu nguyện, thì linh hồn sẽ khô cằn, như những cành cây khô, trông thật xấu xa. Linh hồn của một nữ tu, một nam tu, một linh mục không cầu nguyệt là một linh mục xấu xa!”

ĐTC khuyến khích họ hãy bớt giờ trước máy truyền hình hoặc bớt ngủ, chứ đừng bớt giờ cầu nguyện.

Cuộc gặp gỡ của ĐTC với các LM, tu sĩ và chủng sinh, diễn ra sau buổi phụng vụ Lời Chúa: trước tiên là lời chào mừng của Đức Cha Anthony Ireri Mukobo, Chủ tịch Ủy ban GM Kenya về giáo sĩ, tu sĩ. Rồi đến chứng từ của Cha Felix Phiri, Chủ tịch Hội đồng các nam Bề trên và nữ tu Michael Marie Rottinghous, chủ tịch Hội đồng các nữ tu Kenya.

Kenya có 1.830 linh mục giáo phận, 914 linh mục dòng, 800 tu huynh, 1463 chủng sinh, 5.500 nữ tu. (SD 26-11-2015)

  1. Trần Đức Anh OP/ Vietvaticanradio

THỨC MÀ KHÔNG TỈNH – TỈNH MÀ KHÔNG THỨC

THỨC MÀ KHÔNG TỈNH – TỈNH MÀ KHÔNG THỨC

LM Minh Anh (Gp. Huế)

“Lạy Chúa, con nâng hồn lên tới Chúa.
Lạy Chúa, con nâng hồn lên tới Ngài”.

HAY SAN SANG

Các bạn trẻ thân mến,

Thánh Vịnh đáp ca của Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là một lời cầu nguyện khẩn thiết, cũng là tâm tình đúng đắn để chúng ta đi vào Mùa Vọng, khởi đầu một năm phụng vụ mới.  Bởi lẽ, là những người đang sống trên đất, dường như chúng ta đang quá lo lắng những chuyện ngang đất.  Đi giữa ban ngày, nhưng lắm lúc chúng ta đang lần khần trong đêm tối; trừng trừng mắt mở, nhưng không ít lần chúng ta lại hoá đang ngủ mê.  Ấy thế, khởi đầu Mùa Vọng, Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: “Hãy tỉnh thức, hãy cầu nguyện.”

Và thật ý nghĩa, theo Tin Mừng Luca, khi “Hãy tỉnh thức, hãy cầu nguyện” chính là câu nói cuối cùng trong Diễn Từ Chung Luận của Chúa Giêsu trước khi Ngài ra đi chịu chết.  Vậy thì tại sao “lời cuối cho nhau” lại là tỉnh thức và cầu nguyện mà không là một lời nào khác?

Phải chăng, bởi Chúa Giêsu biết có nhiều người thức mà không tỉnh; hay ngược lại, nhiều người tỉnh mà không thức?

Thức mà không tỉnh nghĩa là mê.  Ở đây không nói đến mê ngủ nhưng nói đến mê lầm, mê muội, mê đắm: tức là mê danh, mê tiền, mê việc, mê đất, mê người… mê đến nỗi quên tất cả, quên cả Chúa, quên cả người, quên cả bà con ruột rà anh em và nhất là quên cả nhân cách, quên luôn cả linh hồn mình.  Thức mà không tỉnh là vậy!

Còn tỉnh mà không thức là thấy điều lành nhưng lại không ao ước, mà có ao ước cũng không dám thực hiện.  Vì lẽ, thực hiện thì phải cố gắng, cố gắng lại phải hy sinh, hy sinh hẳn phải bỏ mình.  Bởi thế, sẽ không ngạc nhiên khi có người định nghĩa: “Hoả ngục là nơi được lát bằng những thiện chí.”  Tỉnh mà không thức là thế!

Kho tàng ngụ ngôn Ấn Độ kể rằng:  Cụ già kia có cô cháu ngoại 12 tuổi với khuôn mặt thật xinh xắn, đôn hậu; nhưng rủi thay, cô bé bị mù từ thuở mới sinh.  Bởi thế, ngày ngày cô thầm khóc vì tủi thân và nét mặt bao giờ cũng trầm buồn.  Cho đến một hôm, cụ già gọi cô lại và bảo: “Cháu ơi, trên đời này người ta khổ vì mê, người ta bất hạnh vì lầm.  Vì mê, nên người ta so; vì lầm, nên người ta sánh.  Phần cháu, cháu không mê, cũng không lầm; cháu không so, cũng không sánh nên thật hạnh phúc.”

Cô bé xem ra không hiểu nên ngoại em nói tiếp: “Người ta so sánh cái này với cái kia, người này với người nọ.  Chính cái hơn thua làm cho người ta đau khổ, chính cái đua đòi làm cho người ta u mê, để rồi họ miên man chạy theo danh, hụt hơi tìm theo lợi, rong ruổi theo cái phù hoa, bất chấp phải xâu xé, không ngại phải dẫm đạp…  Thế mà đang khi đó, mấy ai nhớ rằng, tất cả mọi sự đang qua đi, tất cả mọi sự đang tan chảy; có cái tan nhanh như bọt nước, có cái tan chậm như địa cầu.  Mỗi người quên rằng, chính thân xác họ đang tan, cuộc đời họ cũng đang chảy.  Sống thêm một ngày là một ngày bước tới gần bên huyệt mộ của mình”.

Nghe xong lời giải thích, cô cháu lặng người, những giọt lệ từ đôi mắt mù loà lăn dài trên đôi má; nhưng cũng từ đó, khuôn mặt cô bắt đầu rạng rỡ.  Cô cảm nhận mình đang thật hạnh phúc.

Các bạn thân mến,

Khởi đầu Mùa Vọng, là những lữ khách trên chốn trần ai, chúng ta không được đề nghị hãy quên những chuyện dưới thấp để sống lỏng bỏng hỏng chân cho những chuyện trên trời, nhưng mỗi người đang được mời gọi hướng lên cao đang khi chu toàn những công việc dưới thấp, mỗi người được mời gọi làm những việc bình thường một cách phi thường, nghĩa là được mời gọi nâng tâm hồn lên tới Chúa.

Mỗi người hãy ao ước thưa lên: “Lạy Chúa, con nâng hồn con lên tới Chúa, con nâng hồn con lên tới Ngài.”  Muốn được vậy, chớ gì chúng ta cũng biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn để không phải là người lừng khừng đi giữa ban ngày mà thực tế, đang lầm lũi trong đêm; để không là những người quá quen với bóng tối đến nỗi không biết ở bên kia vẫn còn sự hiện diện của ánh sáng.

Vậy mà, tự sức chúng ta, tỉnh thức và cầu nguyện lại không dễ chút nào.  Hãy đến với Chúa Giêsu mỗi ngày trong phép Thánh Thể, vì Thánh Thể không chỉ là của ăn linh hồn nhưng còn là mặt trời cho mỗi ngày sống của chúng ta.

Càng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta càng được mạnh sức; càng đến với Ngài, chúng ta càng được khôn ngoan, tỉnh táo.  Tâm có tỉnh, trí mới khôn; lòng có cầu, ý mới nguyện.  Tỉnh thức và cầu nguyện là vậy, là ước ao nên tốt hơn mỗi ngày, là biết sống như những người con sẵn sàng đứng thẳng và ngẩng đầu lên một khi ra trước mặt Chúa.

Mỗi người chúng ta có thể cầu nguyện: “Lạy Chúa, dù làm việc, dù học hành…, mỗi chúng con cũng đang bôn tẩu ngược xuôi giữa chợ đời.  Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con… để con cũng có thể nâng hồn lên tới Chúa; cho tim con đang trĩu nặng được thư thái, cho trí xôn xao của con được lặng yên, cho thần kinh căng thẳng của con được dịu lại, cho gân cốt mệt nhoài được ngơi nghỉ.  Cho con thật tỉnh thức và chuyên chăm nguyện cầu.

Giữa bao công việc thường ngày, xin dạy con biết dừng lại năm mười phút, trầm sâu xuống lòng mình để nghe cho được tiếng Chúa, tiếng tha nhân và cả tiếng lòng con.

Xin cho con mỗi tuần, ít nữa ngày Chúa Nhật, biết dành thời giờ cho Chúa, cho linh hồn con nhiều hơn.  Từ đó, con có thể rút ra nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.  Và lạy Chúa, cho dẫu trời có sập xuống, đất có vỡ đôi khi mà mọi người phải hồn xiêu phách lạc, thì phần con, lạy Chúa, Chúa có thể gọi con bất cứ lúc nào vì con đang tỉnh thức và cầu nguyện để luôn sẵn sàng; sẵn sàng khi thức, sẵn sàng cả lúc ngủ, nhất là giấc ngủ không bao giờ chỗi dậy, giấc ngủ sau cùng, Amen”.

LM Minh Anh (Gp. Huế)

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

Chúa Nhật XXXIII Thường Niên –

Kính Trọng thể Các thánh tử đạo Việt Nam

Mt 10, 17-22

Tác giả:  Lm. Vinh Sơn, scj

“Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”, chết vì Chúa Kitô đạt được niềm hạnh phúc như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; Lc 6,22).

Suốt ba thế kỷ trong nhiều thời kỳ bách đạo khác nhau, Giáo Hội Việt Nam đã sinh ra trên 100.000 ngàn vị anh hùng tử đạo, trong số đó có 117 vị được phong thánh, một Vị Chân phước tử đạo đầu tiên cho Giáo hội Việt Nam là thầy giảng Anrê Phú Yên. Hiện nay cũng có mười vị được tôn kính như là bậc “Đáng kính” và 1.000 vị được đứng vào bậc “tôi tớ Chúa”. Các tín hữu còn sót lại trong các cuộc bách hại cũng bị nhà tan cửa nát, trốn tránh vào những nơi rừng thiêng nước độc để giữ niềm tin, như các giáo dân chạy vào vùng La Vang, Quảng Trị, giống như xưa các Kitô hữu tiên khởi đã phải trốn vào sinh sống các hang toại đạo được đào sâu trong lòng đất ở ngoại ô Rôma.

Các ngài thuộc đủ mọi thành phần Dân Chúa: Giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng sinh, giáo lý viên, trùm họ, chánh trương và anh chị em tín hữu. Về xã hội các ngài cũng thuộc mọi thành phần: Quan trong triều đình, chánh tổng, quan án, lý trưởng… quân nhân các cấp bậc, thương gia, nông dân, ngư dân hay nội trợ… Địa vị và chức nghiệp của các ngài không hề là trở ngại hay là lý do phân cách các ngài trong sứ mệnh làm chứng cho Đức Tin vào Đức Kitô, tất cả vì lòng tin và yêu mến Thiên Chúa và Đức Kitô.

Chiêm ngưỡng cha ông tử đạo để thể hiện tình yêu với Chúa Kitô, chúng ta – con cháu Rồng – Tiên biểu lộ tử đạo qua cuộc sống hằng ngày dù rằng chúng ta còn bất toàn và yếu đuối. Các ngài cũng như chúng ta cũng từng có những yếu đuối sa ngã của con người, như Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, khi làm Chánh Tổng đã có một thời gian dan díu tình cảm với cô Trung, người làng Trà Lũ; hay như thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm, một thương gia giàu có, đã từng yếu lòng đèo bồng thêm một cô vợ bé… Nhưng sau khi vị Linh hướng hay gia đình khuyên bảo nhắc nhở, các ngài ý thức được sự yếu đuối sai sót của mình và hết lòng ăn năn hối cải, quyết tâm đổi mới lại cuộc đời, sống tình bác ái Tin mừng theo gương Chúa Giêsu, trở nên gương sáng cho người khác, hết sức phục vụ Giáo Hội. Là con người bất toàn, dù yếu đuối, nhưng khiêm tốn, phó thác Thiên Chúa đã ban ân sủng, các ngài trở nên mạnh mẽ, trung kiên, can đảm nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.

Dịp mừng kính các vị anh hùng tử đạo cha ông, là thời gian và cơ hội quý báu giúp chúng ta – thế hệ con cháu, dù thuộc bất cứ thành phần nào cũng có thể nhìn vào các ngài soi chiếu để duyệt lại lại đức tin của chúng ta như Giáo Hội mời gọi: Đức tin can đảm, Tin vào Chúa là tất cả, Đức tin sống động được thể hiện qua lời nói việc làm như thánh Giacôbê xác tín “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi duyệt lại đời sống đức tin chúng ta, gần gũi và sống động nhất theo gương của các vị tiền bối mà tiến bước. Nhìn đức tin dưới ba khía cạnh cần duyệt lại, các anh hùng tử đạo nói chung và các anh hùng tử đạo Việt Nam đã làm chứng đức tin khi đổ máu đào tuyên xưng Đức Kitô:

  • Các chứng nhân Tử đạo mạnh mẽ đồng nhất từ tâm can đến cách hành xử can đảm chấp nhận gian nan và đi vào cái chết vì Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Tử đạo là chết vì Chúa Kitô, trong đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu…
  • Với anh hùng tử đạo, các ngài nhìn nhận Chúa Kitô là tất cả sự chọn lựa. Không có sức mạnh nào ngay cả cái chết có thể tách rời sự kết hợp lòng yêu mến Chúa, các ngài mặc tâm tình như Thánh Phaolô đã khẳng định: “Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”. Trong gian nguy nhưng sẽ chiến thắng như thánh Tông đồ đã xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).
  • Các anh hùng tử đạo đã tuyên xưng đức mạnh mẽ bằng cái chết , dù trước sức mạnh của bạo quyền trong các nhục hình: Xử trảm (chặt đầu), bị xử giảo (thắt cổ), bị tra tấn và chết rũ tù, bị thiêu sống, bị lăng trì (phân thây bằng sức mạnh của dã thú), bá đao (hay còn gọi là tùng xẻo, mỗi tiếng trống cắt một miếng thịt làm đủ một trăm nhát), không thể làm các Ngài tách ra khỏi niềm tin, xa cách tình yêu Thiên Chúa mà trái lại các ngài luôn thể hiện niềm xác tín và tình yêu vào Đấng mà các ngài tin thờ.

Khi duyệt lại đời sống đức tin và “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9),

Thật thế, chúng ta con cháu noi gương đức tin của cha ông – các anh hùng Tử Đạo sống theo lời dạy của Thánh Phaolô:

“Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn 14/11/2015

Nụ hôn của Đức Giáo Hoàng đã giúp teo u não bé gái 1 tuổi

Nụ hôn của Đức Giáo Hoàng đã giúp teo u não bé gái 1 tuổi

Bé gái Gianna ở Pennsylvania (Mỹ) có một khối u não ở vị trí không thể phẫu thuật được. Sau khi Giáo Hoàng Phanxico hôn lên đầu bé, kì diệu thay khối u đã teo nhỏ đi trông thấy.

 

Bấm xem Video Thánh Ca

Giáo Hoàng Francis hôn lên đầu bé gái Gianna 1 tuổi hồi tháng 9 vừa qua, trong chuyến thăm của ông tới vùng Philadelphia. Chị Kristen Masciantonio, mẹ bé trả lời trên truyền hình địa phương: “Con bé đang khỏe lên và khá hơn trước. Nó đã biết hôn gió và chỉ trỏ vào các đồ vật”.

Joey và Kristen Masciantonio nói rằng nụ hôn của Giáo hoàng thực sự là “một phép màu”. So sánh phim chụp khối u giữa tháng 8 và tháng 11 cho thấy một sự chuyển biến rõ rệt. Nhà Masciantonio coi đây là một “sự can thiệp thần thánh”.

 Kết quả giữa tháng 8 và tháng 11 phim chụp não cho thấy kết quả khác biệt hoàn toàn.

Anh Joey Masciantonio trả lời trên truyền hình: “Năm ngoái thực sự là ác mộng của con bé. Tôi tin rằng phép màu này là do Chúa ban phước. Tôi chắc chắn Giáo hoàng là một sứ giả của Chúa trời”.

Theo Quang Minh – Daily Mail (danviet.vn)

httpv://www.youtube.com/watch?v=RiXWkF02sh8

Kinh Hòa Bình – Lm.JB.Nguyễn Sang

CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi.  Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta.”  Ðó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả.  Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?

Chua Kito VuaNăm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài.   Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử.  Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.  Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ.  Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Ðavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động.  Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực.  Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá.  Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Ðây là Vua dân Do Thái.”  Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua.  Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng.  Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất.  Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh  chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua.  Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách.Chàng thanh niên này được nhận.  Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:

Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình.  Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua.  Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.

************************

Quí vị và các bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá.  Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài.  Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.

Ðọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa.  Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.  Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này.  “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng.”

Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình.  Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.

Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi.  Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự.  Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.

************************

Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người.  Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua.  Amen.

  1. Veritas

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả! – RV

ME A`

Ngày 1-4-1982 – một ngày mùa xuân – vạn vật như bừng nở, vui tươi chào đón khí trời êm ả dễ chịu. Nơi một bệnh viện ở tỉnh Québec, Canada, một thiếu nữ 18 tuổi – đang tuổi xuân mơn mởn – cũng cảm thấy lòng tràn ngập yêu thương.

Thiếu nữ đó là Edith Ferguson mắc chứng hoại huyết và đang ở giai đoạn cuối đời. Cùng hòa nhịp với niềm vui vũ trụ, Edith lấy giấy và viết tờ di chúc. Tờ di chúc tinh thần để lại cho Cha Christian Beaulieu, vị Linh Mục trẻ đồng hành với Edith trong thời gian cô thọ bệnh. Edith viết:

Thưa Cha Christian kính mến,

Vì không biết phải viết di chúc như thế nào nên con xin viết dưới hình thức một bức thư. Như con từng nói với Cha: tất cả những gì con sở hữu xin dùng để giúp anh chị em tàn tật hầu các anh chị em này trở về với cuộc sống của những người mệnh danh là ”bình thường”. Con rất ước ao sống đến ngày con hân hạnh nghe câu nói: ”Tôi sống thật sự chứ không phải chỉ hiện hữu mà thôi”. Đối với con thì thật là tuyệt diệu, ít ra là một người, hay càng nhiều người càng tốt, có cuộc sống bình thường, chứ không phải bị xã hội và thành kiến ruồng rẫy. Nhưng vì con không thể sống đến ngày đó nên xin giao phó cho Cha thực hiện ước nguyện của con. Thế nhưng, trong xã hội chúng ta đang sống, muốn thực hiện chương trình nào đó cần phải có tiền. Con không có nhiều tiền nhưng tất cả tiền của con nơi nhà băng cũng như tiền bán các vật dụng của con sẽ giúp Cha có số vốn ban đầu. Những gì không bán được – chẳng hạn những đồ lặt vặt – thì xin Cha phân phát cho những gia đình thật túng thiếu .. Con muốn yêu nhiều chừng nào có thể. Trong cuộc sống, con từng gặp những người dạy con biết yêu thương, nhưng con cũng có nhiều thiếu sót lầm lẫn nên con xin mọi người tha thứ cho con. Điều đáng buồn là con có thói xấu hay làm mất lòng người khác mặc dầu con không chủ ý. Nhưng sau đó con hối hận nhiều lắm. Con yêu mọi người và mong mọi người đừng quên con. Trên trời, con không quên ai hết. Con sẽ dõi theo cuộc sống của mọi người và yêu mến mọi người mãi mãi .. Ký tên, Edith.

Đó là di chúc của Edith Ferguson, đúng 10 ngày trước khi qua đời, 10-4-1982, hưởng dương 18 tuổi.

18 tuổi với con tim tràn đầy yêu thương, dĩ nhiên ban đầu Edith không dễ chấp nhận chết. Hai tháng trước đó, khi bác sĩ cho biết là bệnh tình vô phương cứu chữa và đang đi vào giai đoạn trầm trọng, Edith vẫn còn nuôi hy vọng sống. Cô muốn sống để thực hiện ước mơ:

– Thành lập một hội chuyên việc giúp đỡ người tàn tật, giống như hội ”Arche – Con Tàu” do ông Jean Vanier thành lập.

Để thực hiện giấc mơ Edith bắt đầu tiết kiệm từng đồng tiền túi. Vì hạnh phúc của người tàn tật, bằng mọi giá, Edith muốn sống chứ không muốn chết. Edith mở to mắt nói với mẹ:

– Mẹ à, con có một sứ mệnh phải chu toàn: con muốn thành lập một Hội chuyên việc chăm sóc người tàn tật!

Lấy hết can đảm, bà Marie-France dịu dàng nói với con gái:

– Con à, ở dưới đất này, con chỉ chăm sóc giỏi lắm là vài người tàn tật, nhưng trên trời, con có thể chăm sóc không biết bao nhiêu người tàn tật, trên toàn thế giới!

Câu nói nhẹ nhàng của hiền mẫu như một sự thật rót thẳng vào tim. Edith bỗng hiểu rõ tất cả. Cô thiếu nữ giữ thinh lặng không đáp lại lời nào. Nhưng cũng từ giây phút đó Edith can đảm đối đầu với thực tế, sẵn sàng chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA.

Khi thấy con chịu bệnh cách anh hùng bà Marie-France sung sướng nói:

– Con thật gan dạ, mẹ không thấy con rên rĩ bao giờ!

Edith tươi cười trả lời:

– Mẹ à, có biết bao bạn trẻ và người tàn tật phải chịu nhiều đau khổ mà không than thở bao giờ. Không lẽ con lại mở miệng than van sao? Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả!

Một lần khác, Edith trầm tư nói với mẹ:

– Kể từ ngày bị bệnh con mới hiểu rõ thế nào là giá trị của cuộc sống!

Suốt thời gian chịu bệnh Edith luôn giữ nét mặt trầm tĩnh và dáng điệu thanh thản. Cô gái luôn mang trong mình Kinh giải thoát và đọc Kinh này thường xuyên. Cứ sau mỗi lần bị thổ huyết, Edith nắm chặt trong tay Ảnh Đức Mẹ ban ơn (Ảnh vảy phép lạ) và ảnh thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU để cầu nguyện. Edith không muốn người khác cầu nguyện thay cho mình. Cô nói:

– Phải cầu nguyện luôn luôn. Cầu nguyện không ngừng!

Edith vào nhà thương tám ngày trước khi qua đời. Cô thiếu nữ chịu bệnh cách anh hùng. Edith từ chối không dùng thuốc giảm đau. Cô can đảm chờ đợi cái chết đến gần. Edith vẫn luôn giữ nét thanh thản cho đến đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Lễ Phục Sinh, 10-4-1982, thì êm ái đi vào cõi phúc vĩnh cửu.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng đôi mắt Edith Ferguson mở thật lớn, như muốn nói với mọi người hiện diện:

– Thật là tuyệt đẹp điều mà con đang diễm phúc trông thấy!

 … Đức Chúa GIÊSU nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ấy sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của CHA Người cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Matthêu 16,24-27).

 (Daniel-Ange, ”Les Témoins de l’Avenir”, Le Sarment FAYARD, 1989, trang 146-153)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

  1. Đạo Trời là gì ?

Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.

  1. Tại sao nhận biết có Trời ?

Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay tác tạo…

Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )

  1. Những ai tin tưởng có Trời ?

Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…

  1. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?

Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).

  1. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?

Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa – Khổng Tử )

  1. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?

Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống – theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).

  1. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?

Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.

  1. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?

Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.

  1. Đạo Trời có từ bao giờ ?

Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.

  1. Ý Trời thế nào ?

Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.

  1. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?

Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên mà lòng người khao khát.

  1. Sống đạo Trời có dễ không ?

Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).

  1. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?

Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác quỷ, luôn tìm hại con người.

  1. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?

Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3 chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.

  1. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?

Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời, nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.

  1. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa ?

Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được Xa-tan.

  1. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?

Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.

Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:

Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt sầu khổ.

Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước Công Lịch.

Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.

  1. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?

Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:

  1. Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
  2. Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
  3. Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
  4. Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.

Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.

  1. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?

Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.

Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.

  1. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?

Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.

Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.

Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.

  1. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?

Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn vẹn thì không thể không theo cho được.

Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp, như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.

Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.

  1. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?

Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi, “sinh ký tử quy” là thế.

Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối trung gian mà thôi.

  1. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?

Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.

Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.

  1. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?

Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.

Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…

PHỤ LỤC:

Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:

  1. Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius and of Christ )
  2. Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
  3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
  4. Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu thương”.

Tưởng nhớ ông bà tổ tiên

Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:

  1. Thắp hương đèn trên bàn thờ
  2. Làm dấu hình Thánh Giá
  3. Nguyện Kinh Lạy Cha
  4. Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
  5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”

Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:

Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.

  1. Nghi thức Lễ Vu Quy:

Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng thuận…

  1. Nghi thức Lễ Thành Hôn:

Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.

Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:

  1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
  2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
  3. Cô dâu chú rể thắp nến.
  4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới… “Lạy Cha chúng con…”
  5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
  6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
  7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…

Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,
Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

http://www.trungtammucvudcct.com/web/bible.php?id=353