MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ CỦA CHA NGUYỄN NGỌC SƠN.

 MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ CỦA CHA NGUYỄN NGỌC SƠN.

 Phan Sinh Trần

Hôm Chúa Nhật ngày 20 tháng ba , 2016 Nhóm Cầu Nguyện chúng tôi được nghe vị khách diễn giảng về Chúa Thánh Linh, tôi cho rằng bài chia xẻ này thuộc loại kinh điển, tiêu biểu cho  gốc cổ thụ lớn trong khu vườn Thánh Linh. Điều có vẻ nghịch lý một cách thích thú khi mà Ngài chưa từng một ngày ở trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chưa từng tham dự các buổi tĩnh tâm Thánh Linh, nhưng lại rất uyên bác về nguyên lý của đời sống trong Chúa Thánh Thần, và hơn thế nữa, luôn sống trong sự sinh động, yêu thương, hòa hợp tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần trong đời sống của một người con được Chúa chọn và yêu mến.

Cha bắt đầu buổi chia xẻ bằng sự khiêm nhường cầu nguyện khi Ngài chấp nhận để cho cả nhóm chúng tôi giơ tay cầu xin ơn Thánh Thần tuôn đổ ơn xuống trên Ngài và rồi Ngài cất tiếng lên chia xẻ cho chúng tôi trong ơn biện giảng hùng hồn Chúa ban.

Cha đưa ra một dụng cụ y khoa nhỏ để đo dung lượng thở cho mọi người thử, có anh thanh niên mạnh khỏe thì có thể thở được với dung lượng đo trên máy, tới 2200 ml, trong khi đó có bác cao niên ốm yếu, chỉ thở vào máy được có 770 ml… một sự so sánh rất cụ thể và minh họa về vấn đề, thiếu không khí trong lúc thở. Cha giải thích:

⦁ Não của chúng ta có 16 tỷ nơron thần kinh, cần tối thiểu 2.000 lít khí/ngày trong 10.000 lít tối thiểu của cơ thể. Chính bộ não ấy phát ra những lệnh cho tất cả các cơ quan hoạt động. Nếu chúng ta tăng cường dung tích khí thở mỗi lần lên 1.500ml hoặc 2.000ml, 2.500ml, bộ não chúng ta sẽ phát ra lệnh gấp đôi cho các bộ phận hoạt động; chúng ta sẽ học hành, làm việc hiệu quả và thông minh hơn nhiều. Thân thể chúng ta sẽ khoẻ mạnh, xinh đẹp nhờ các bộ phận hoạt động hài hoà…Chỉ cần 4 phút không có dưỡng khí là bộ não chúng ta sẽ chết, trong khi chúng ta có thể nhịn ăn được 30 ngày, nhịn uống được 3,4 ngày. Nói như thế để từ nay chúng ta chú ý đến việc thở hít khí tự nhiên hơn và tập thở để tăng cường chất lượng sống.

Sau đó, cha đề cập đến vấn đề sống đạo:

⦁ Vì sao các Bác, các Anh Chị có một đời sống Đạo rất chuyên cần, rất chăm chú đọc kinh mà vẫn thấy mình có một cái gì đó không được ổn, vẫn còn hoang mang cho tương lai cuộc đời, vẫn còn tìm đến cầu cơ, bói toán ?

Bởi vì, Tinh thần càng cần đến hơi thở Thần Khí hơn nữa, không biết tập thở Thần Khí thì linh hồn sẽ yếu rũ.

⦁ Vì sao chúng ta thực hành các việc đạo đức đều đặn đi lễ mỗi ngày mà vẫn không có được sự linh ứng của lời cầu nguyện?

⦁ Người tín hữu giáo dân Việt Nam rất tôn kính Mình Máu Thánh Chúa, 80% tín hữu giữ lễ Chúa Nhật và rước lễ trong những dịp lễ trọng, khoảng 15-20% đi lễ thường ngày. Nhưng chúng ta thấy rằng dù đi lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa thường xuyên nhưng chúng ta lại chưa phát huy được sự sống kỳ diệu phi thường của Thiên Chúa trong con người của mình. Cuộc sống của người tín hữu chưa toát ra được niềm vui, bình an, hạnh phúc, ơn cứu độ cho mình cũng như cho người khác. Phép lạ trong đời sống người tín hữu là những gì hoạ hiếm chứ không phải là những chuyện thường ngày mà chúng ta phải thực hiện để mang lại ơn cứu độ cho những người nghèo khổ, tật bệnh, bị ma quỷ kiềm chế có mặt ở khắp nơi trên đất nước. (⦁ nguồn: hanhkhatkito.org)

Trong không khí im lặng chú ý của phòng họp, khi mà mọi người đều thấm thía về các yếu đuối, Cha tiếp tục đặt ra các vấn nạn của Ki tô hữu:

Vì sao chúng ta không có tâm tình biết ơn, không biết ơn khi ta ăn hạt cơm nóng sốt mà người nông dân đổ mồ hôi, công sức, dãi dầu mưa nắng, có khi còn phải đổ máu, hy sinh thân mình vì cày lên bom mìn sót lại từ thời chiến tranh … Còn trong gia đình mình thí sao,   Chúng ta có khi nào biết ơn người vợ đã mấy chục năm qua rửa hàng núi chén dĩa ngày qua tháng nọ dọn nhà sạch sẽ cho ta được thoải mái, … Trong đất nước thì mình ít khi nhớ ơn bao tiền nhân, chiến sĩ vô danh, đã tận tụy khai phá, đã hy sinh xương máu cho ta có được mảnh đất này để sinh sống.

Chúng ta thử đặt tình trạng mình như một người mù trong vài phút rờ rẫm, đi từ đây ra cửa thôi, sẽ thấy khổ sở thế nào, đụng chạm lủng củng ra sao, có khi còn vấp té nữa. Trong khi đó chúng ta được sáng mắt, được Chúa ban cho không khí để thở, ban cho cặp mắt để ngắm nhìn, … có bao giờ chúng ta hít sâu vào trong tâm tình biết ơn, vì Chúa ban cho mình không khí và biết bao nhiêu tạo vật, thiên nhiên mỹ miều, hữu dụng, xinh đẹp chung quanh ta.

Sau đó, Cha tóm tắt về căn nguyên của một đời sống Ki tô hữu, phong phú và tươi mát bao gồm trong hai yếu tố chính, kết hợp với Chúa Giê Su và sống trong Thần Khí của Thiên Chúa.

⦁ Một là kết hợp mật thiết với Chúa Giê Su như cành liền với cây trong cầu nguyện, đơn sơ thủ thỉ với Chúa một câu trong tâm tình yêu mến, hướng về Chúa ở mọi lúc, mọi nơi.

Cây nho, chính là Ta,các ngươi là nhánh. Ai lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy, thì nó sinh nhiều quả,vì ngoài Ta, các ngươi không thể làm gì.(Gioan 15:5)

⦁ Hai là, xin Chúa Giê Su thực hiện lời hứa “ban Thánh Thần” và xin cho bằng được ơn Chúa Thánh Thần, được tiếp nhận Thần Khí Chúa sống động trong mọi sinh hoạt của đời sống mình, cách xin được Chúa nhận lời là khi ta dám từ bỏ các quyến rũ của trần gian, ma quỉ và quyết tâm thuộc về Chúa một cách trọn vẹn, chấp nhận đi theo con đường do Chúa hoạch định.

Từ bỏ mình rất khó, từ bỏ cái tôi càng không dễ, tuy nhiên đã có nhiều người giống như ông Gia Kêu và Mát thêu, hành nghề thu thuế đã làm được, giống như cô Ma đa len na vốn sống buông thả nhưng sau, đã làm được, cũng như nhiều người khác đã làm được. Chúng ta, là Ki tô hữu có thể từ bỏ “cái Tôi” một khi ta dám chấp nhận sự dạy dỗ của Lời Chúa và kết hiệp với Chúa, được Chúa giúp sức cho.

Tập hít thở trong Thần khí Chúa:

⦁ Có lẽ chúng ta phải nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thần Khí, chúng ta cần phải gắn bó nhiều hơn với Chúa Thánh Thần và tập thở từng giây phút Thần Khí mà Chúa Giêsu thổi trên chúng ta khi Người hiện ra với chúng ta và nói rằng: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.

⦁ Mỗi lần chúng ta nhớ đến Chúa Thánh Thần và cầu xin Ngài là mỗi lần chúng ta thở Thần Khí. Một ngày chúng ta dành chừng 5 phút, ngồi ở bàn làm việc hay nằm trên giường trước khi ngủ, chúng ta nói thầm với Chúa Giêsu khi chúng ta hít khí vào: “Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho con”. Thần khí là sức mạnh, niềm vui, tình yêu, bình an, ân sủng của Người được đưa vào trong ta để biến đổi ta. Rồi khi chúng ta thở ra bằng miệng từ từ, thân xác ta thở ra thán khí thì tinh thần cũng thở ra những uế khí, tà khí ra khỏi con người mình. Đó là: buồn phiền, chán nản, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, ghen tương… Đang khi đẩy chúng ra khỏi tâm trí, chúng ta cũng nói thầm với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin xua đuổi tà khí ra khỏi lòng con”.

CHA SON

Đời sống được Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì rất tuyệt vời, cho dù trong đời ta đi qua bao nhiêu truân chuyên hay thác ghềnh khó khăn. Tôi xin được trích từ trang mạng công giáo hiện đang có nhiều người đọc nhất ở Việt Nam, có tên là “hành khất  Ki Tô” để minh họa các kinh nghiệm sống động này của Cha Nguyễn ngọc Sơn:

Chúa mời gọi ta quên đi quá khứ tội lỗi của mình hay của người khác, để thông hiệp với Đức Kitô và phát huy những ân sủng lạ lùng của cuộc đời làm con Chúa Cha và cũng là người tình, là hiền thê của Đức Kitô

⦁ … Anh chị em cho phép tôi được chia sẻ một kinh nghiệm về việc Chúa Kitô chữa lành bệnh nhân để xác tín về đời sống siêu việt của con cái Chúa. Sáng Chúa Nhật hằng tuần tôi thường giúp các người bệnh từ nhiều nơi tìm đến. Hôm đó, có người con trai dẫn bà mẹ chừng 65 tuổi đến xin tôi cầu nguyện chữa lành vì bà bị đau toàn thân, nhất là ở tim gan ruột. Các bác sĩ ở Canada khám không ra bệnh sau khi xét nghiệm đủ thứ. Con cháu đưa sang Hoa Kỳ chữa cũng không khỏi nên đưa về Việt Nam. Nghe tiến trình chữa bệnh như thế nên tôi chỉ còn biết đặt tay trên đầu bà, đọc 4 kinh tôi thuộc là Kinh Xin Ơn Đức Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, rồi tiễn bà về. Tuần sau, bà đến đưa tôi 1 vòng đeo tay bằng vàng, 1 răng nanh heo rừng cũng mạ vàng để đeo ở cổ và nói: “Thưa cha, hôm nay con đã khoẻ mạnh và hoàn toàn bình phục nên đến cảm ơn  cha và thú thực với cha về bệnh tật của con. Con là 1 bà già sống gần nhà thờ nên sáng nào cũng tản bộ đi dự lễ. Vì già yếu không nín được đường tiểu nên con thường chui vào bụi cây bên đường. Mọi khi không xảy ra chuyện gì, nhưng một hôm con thấy đôi cánh tay đen đủi ôm chân con. Con rất hoảng sợ và phát bệnh từ đó. Sau khi các bác sĩ chữa không khỏi, gia đình đưa con đến nhiều thầy pháp. Họ cho con 1 lá bùa và con đã bỏ chung với áo Đức Bà đeo ở cổ vì con là đạo gốc! Còn chiếc lắc vàng đeo tay và răng nanh đeo cổ đã được ếm bùa Lỗ Ban. Hôm nay con giao lại tất cả cho cha để làm kỷ niệm”. ( nguồn: hanhkhatkito.org)

Sự việc khiến tôi từ đó hiểu được rằng Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục chữa lành cho con người trong thời đại hôm nay.

⦁ Niềm vui và hạnh phúc đời ta chính là Đức Giêsu. Người sẽ chuyển thông cho chúng ta sự sống vĩnh hằng, quyền năng vô biên, hạnh phúc vô tận để ta cảm nghiệm được mình được là con cái của Thiên Chúa giống như Người. Tôi đã cảm nhận được niềm vui đó cách đây 2 tuần khi sang giảng tĩnh tâm cho cộng đồng người Việt thuộc Nhà thờ Thánh Polycarp, đường Chapman, California, Hoa Kỳ. Hôm đó có Ông Nguyễn Kỳ đến cám ơn vì Chúa đã chữa cho Ông khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Cách đây 3 tháng, bác sĩ cho biết ông bị ung thư và nói không thể sống quá 6 tháng. Bây giờ Chúa cho ông khỏi hẳn, không còn thấy triệu chứng của ung thư. (nguồn:hanhkhatkito.org)

Thiên Chúa chúng ta sống động vô cùng, giàu sang vô tận, đẹp đẽ vô song. Nếu chúng ta gắn bó với Chúa thì chúng ta cũng sẽ tốt đẹp, mạnh mẽ, giàu sang như thế

⦁ Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm riêng tư: Trong dịp cứu trợ đồng bào lũ lụt năm 2010, người ta yêu cầu Caritas Việt Nam hãy làm dự án xin các tổ chức nước ngoài yểm trợ. Tôi nghĩ rằng: đất nước chúng ta có nhiều người đóng góp rộng rãi và rất quảng đại… Chúng tôi cầu nguyện, và chúng tôi nhận được số thuốc trị giá khoảng 2 tỷ đồng của Công ty Rohto Mentholatum. Chị giám đốc thương mại của công ty này không có đạo, đến gặp chúng tôi và cho chúng tôi rất nhiều thuốc cần cho đồng bào lũ lụt dù chúng tôi chưa làm một đơn xin nào. Ngoài ra, bao nhiêu nhà hảo tâm khác đã góp tiền và vật dụng cho đồng bào nghèo khổ. Tôi thầm cảm tạ Chúa và cảm nhận được quyền năng vô biên của Ngài.

(nguồn: hanhkhatkito.org)

Sự kiện này nhắc nhở tôi quyền năng chữa lành kỳ diệu của Chúa Giêsu trong một số trường hợp khuyết tật vì lý do tâm linh

⦁ Tôi xin chia sẻ 1 trường hợp cụ thể. Cách đây 3 tuần một phụ nữ trung niên dẫn theo người con gái tên Hương, đang có thai hơn 7 tháng, đến xin tôi chữa cho con bà bị câm và điếc trên 2 tuần qua. Đi theo có cả người chồng, anh trai, cô và cậu của cô gái. Cô gái tỏ vẻ rất sợ hãi không muốn vào nhà nguyện, nên tôi đành tiếp tất cả trong phòng làm việc. Người mẹ cho tôi biết tình trạng của con, chạy thầy, chạy thuốc cũng đã nhiều mà bệnh không khỏi. Vì cô gái không nghe được nên tôi giải thích cho tất cả hiểu về sức khoẻ thể chất và tinh thần. Cô Hương cứ nhắm nghiền đôi mắt như ngủ.

Sau đó tôi mời mọi người có mặt vào nhà nguyện để ban bí tích Xức dầu Bệnh nhân và Xức dầu Trừ tà. Trong khi cử hành nghi thức, cô Hương không mở mắt và tỏ ra không biết gì. Nhưng cuối cùng, trước khi cho bệnh nhân rước lễ, tôi hỏi cô Hương; “Con có muốn rước Chúa không?”. Cô trả lời rõ ràng: “Con muốn”. Bà mẹ đứng bên cạnh buột miệng kêu lớn: “Con tôi nghe và nói được rồi!”..

(nguồn: hanhkhatkito.org)

CHUA

Cảm tạ Chúa, vì cho dù ở đâu, thời nào thì Thần Khí oai quyền của Thánh Phao lô, Thần Khí thiết tha,hy sinh của Thánh Tê pha nô (Stephano), Thần Khí chữa lành và an ủi ở trong Thánh An Tôn, thánh Mác ti nô xưa và Thần Khí tuôn đổ trong Cha Nguyễn ngọc Sơn hôm nay,… và rất có thể là ngay cả trong bạn và trong tôi nữa ở thời đại hôm nay, vẫn đang có một cách dồi dào từ một nguồn duy nhất.Tôi xin mượn lời chia xẻ của Ngài để kết thúc bài làm chứng này.

“Lời nói tự nhiên chỉ mang lại niềm vui bình thường, nhưng khi ta thở được Thần Khí của Chúa Giêsu thì những lời nói của chúng ta có thể soi sáng cho tâm trí mù tối của con người, vực họ dậy khỏi tình trạng tê liệt, bất động, thậm chí chết chóc, của tâm hồn. Hơn nữa, Chúa Giêsu sẵn sàng ban cả những ơn chữa bệnh thể xác cho tất cả những ai muốn làm tông đồ, làm chứng nhân cho Người. Cầu chúc anh chị em trở thành người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến vì được tràn đầy Thánh Thần tình yêu của Đấng Phục Sinh”

Phan Sinh Trần

THẬP GIÁ VÀ THÁNH GIÁ

THẬP GIÁ VÀ THÁNH GIÁ

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

     Thập giá ở khắp nơi, trên mộ bia trong nghĩa trang, trên tháp cao nhà thờ, trên bàn dâng lễ, trên ngực áo, bên vành tai, trên tường đá.  Nhiều thập giá quá.  Ðức Kitô bị đóng đanh trên thập giá.  Thập giá đã mặc nhiên được coi như biểu tượng của Kitô hữu.  Nơi nào thấy thập giá, người ta nghĩ ngay nơi ấy có đạo Chúa.  Vậy có thể nói nơi nào có thập giá, nơi ấy có Ðức Kitô không?

Tôi không nghĩ như vậy.

THAP GIA VA THANH GIA

Trước khi Ðức Kitô bị đóng đanh đã có thập giá rồi.  Người Rôma dùng thập giá để lên án tử hình cho các tội nhân.  Bấy giờ, ở đâu có thập giá là có sự chết.  Người ta sợ hãi thập giá.  Bóng thập giá là tử thần.  Thập giá tới đâu có khóc than ở đó.  Bởi thế, nếu nói đâu có thập giá là có Chúa thì kiểu nói ấy e rằng rất hàm hồ.  Hôm nay, nếu nói nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có vết chân người Kitô hữu thì có thể đúng.  Nhưng làm sao dám khẳng định nơi nào có Kitô hữu là có Chúa hiện diện?  Người ta có thể dùng thập giá để đấu tranh.  Ðã chẳng có những xứ đạo mất bình an chỉ vì xây cất nhà thờ đó sao.  Không phải cứ có bóng thập giá là có sự hiện diện của Chúa.

Biểu tượng và ngẫu tượng

Những gì tôi thấy hôm nay, thập giá trên tháp chuông cao, thập giá trên bàn thờ nhà tôi, thập giá ở cổng giáo đường, nhiều khi rất là vô nghĩa.  Tôi quá quen thuộc với biểu tượng nên biểu tượng có thể dễ trở thành ngẫu tượng.  Khi tôi mặc nhiên cho rằng nơi nào có thập giá là có Chúa thì tôi có thể chỉ nỗ lực xây dựng nhiều thập giá.  Ðiều này dễ rơi xuống hố sâu nguy hiểm.  Biểu tượng bao giờ cũng mang hai đặc tính.  Ðặc tính thứ nhất của biểu tượng là cần nhìn thấy.  Vì thế, thập giá có thể bằng xi măng, bằng đá, bằng đồng, bằng vàng.  Ðặc tính thứ hai là biểu tượng ấy phải diễn tả một thực tại không nhìn thấy ở đàng sau.  Ðiều này gian nan chứ không đơn giản.  Một thực tại vắng mặt thì có thể diễn tả bằng một biểu tượng.  Nhưng không phải cứ có biểu tượng là có thực tại vắng mặt.  Và bi đát hơn nữa là người ta có thể đánh lừa bằng biểu tượng.  Gởi tặng cánh hoa là gởi biểu tượng để chuyển ngữ một tình cảm không nhìn thấy.  Biểu tượng ấy chỉ đúng nghĩa khi có tình yêu ở phía sau.  Như thế phải có tình yêu trước.  Biết bao người tặng hoa nhưng không tặng tình yêu.  Biết bao người nhận hoa mà trao lầm trái tim vì ngỡ rằng có tình yêu ở đàng sau cánh hoa.

Ðiều đó cũng đúng với thập giá.  Thập giá là biểu tượng thì tôi phải đi tìm thực tại đàng sau biểu tượng.  Nếu tôi gọi thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa mà thật sự không có Chúa thì lòng yêu mến biểu tượng ấy thành ôm giữ ngẫu tượng.  Quá quen với não trạng thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa, nên ta ít tự hỏi nếu không có sự hiện diện của Chúa thì tôi đang ôm giữ gì.  Không còn là biểu tượng hiện diện của Chúa, nếu không là ngẫu tượng thì ta gọi là chi?

Lý do các thượng tế đưa ra để kết tội Chúa là vì Ðức Kitô nhận mình là Con Thiên Chúa.  Theo họ, Ðức Kitô đã phạm thượng vì xúc phạm đến Thiên Chúa.  Còn họ thì phải bảo vệ Thiên Chúa (Mc 14:60-64).  Chính trong hành động nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thiên Chúa họ đã kết án Thiên Chúa.  Chính hành động họ nói Ðức Kitô phạm thượng, họ đã phạm thượng.  Gian nan là ở đấy.  Quá gần Thiên Chúa nên ngỡ Thiên Chúa ở rất xa.  Càng đợi trông một Thiên Chúa ở xa mà Ngài lại ở gần thì sự xa cách ấy lại càng xa hơn nữa.

Do đấy, kẻ ôm giữ thập giá là biểu tượng chứ chưa chắc có sự hiện diện của Chúa mà họ cứ khăng khăng tin rằng họ đang ôm giữ Chúa thì làm sao mà nhận ra sự xa cách ấy.  Cho nên họ tưởng rất gần Chúa mà thật sự rất xa.  Từ biểu tượng đến ngẫu tượng, họ tưởng rất xa, mà lại hóa quá gần.

Từ thập giá đến THÁNH giá

Ba cây thập giá dựng lên trong chiều ấy.  Ðức Kitô ở giữa hai tội nhân.  Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là THÁNH giá.  Khi Ðức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Ngài đi vào Phục Sinh thì cây thập giá khốn khó ấy thành cây cứu rỗi và trở nên THÁNH.  Chất THÁNH ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết, là vinh quang.  Không có tình yêu thì thập giá không là THÁNH giá.

Nhìn lại những bến bờ đã đi qua của thập giá và THÁNH giá, ta thấy ngay khi thập giá trở thành THÁNH giá rồi cũng không có nghĩa cứ thoáng nhìn là nhận ra THÁNH giá.  Vẫn có một khác biệt rất lớn.  Câu chuyện hai người trộm bị đóng đanh cùng với Chúa chứng minh điều đó.  Một người nhục mạ Chúa:

“Ông không phải là Ðấng Kitô sao?  Hãy tự cứu mình đi, và cứu chúng tôi với.” Một người thì nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!  Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.  Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Ðức Giêsu nói với anh: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23:39-43)

Một người nhìn thấy thập giá là THÁNH giá.  Một người nhìn thấy THÁNH giá chỉ là thập giá.

Phân biệt thập giá và THÁNH giá không đơn giản.  Lại càng không giản đơn khi ta quá quen biểu tượng trong một não trạng mù mờ.  Trước THÁNH giá thật mà còn không nhận ra THÁNH giá thì trước những THÁNH giá giả vấn đề còn gian truân tới đâu.  Nếu không biết yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không tìm yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không sống yếu tố làm nên chất THÁNH thì ta không có THÁNH giá.  Cả một bến bờ cuộc sống chỉ là ngẫu tượng.

Trong xã hội hôm nay, từ tâm lý quảng cáo đến các tổ chức chính trị, văn hóa, thể thao, nghệ thuật, từ cá nhân đến tập thể, chỗ nào cũng thấy có những biểu tượng cho sinh hoạt của tổ chức đó.  Mặc dầu Chúa bảo: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy thương yêu nhau (Ga 13:34-35).  Nhưng chúng ta cũng vẫn có một biểu tượng cho sự hiện diện của đạo Chúa, đó là THÁNH giá.

Biểu tượng là để người khác nhìn.  Tôi sống trên quê hương tôi thì biểu tượng là ngôn ngữ nói với những người cùng một quê hương ấy.  Tôi phải dùng ngôn ngữ nào dễ hiểu và chính xác cho thực tại là Chúa ở sau biểu tượng?  Trên một quê hương nghèo đói thì biểu tượng để nói về Chúa là bác ái, chia xẻ cảnh khốn cùng.  Giữa cảnh các bé thơ thất học không có trường lớp, thầy cô thiếu lương, thì sự hiện diện của Chúa không là biểu tượng thập giá to hay nhỏ, mà phải là THÁNH giá có tình yêu, dấn thân cho Tin Mừng bằng con tim tận tụy như chính một rung cảm chiều nọ bên đồi vắng: “Ta thương đoàn dân này… Ta không muốn để họ đói… Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15:32).

**************************

Lạy Chúa, không có bác ái, không có THÁNH giá, chỉ có thập giá thì con chẳng nói gì về Chúa cho những người cùng một dân tộc mà Chúa sai con tới cả.  Một biểu tượng sai về Chúa sẽ làm cho Chúa còn khổ tâm hơn nữa.  Có khi người ta càng nhìn thấy thập giá mà càng xa Chúa.  Có khi càng nhiều bóng thập giá càng làm người ta khó chịu những kẻ xây dựng nên nó.  Ðiều đó cũng đúng thôi, vì thập giá không là THÁNH giá.  Có THÁNH giá phải có bác ái.

Lạy Chúa, nhưng nếu con không hiểu rõ con đang có THÁNH giá hay chỉ có thập giá trong giáo xứ, trong gia đình, trong đời sống của con thì làm sao con biết nói với dân tộc con về Chúa qua biểu tượng THÁNH giá.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

trích trong “Viết Trong Tâm Hồn”

HỒNG ÂN LÃNH BÍ TÍCH RỬA TỘI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

HỒNG ÂN LÃNH BÍ TÍCH RỬA TỘI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Một buổi chiều mùa hè năm 1992, nơi một tiệm hớt tóc ở thành phố Dreux (Bắc Pháp), một thanh niên bước vào tiệm.  Trong tiệm lúc bấy giờ có cô thợ Valérie Baptiste và cô chủ Pascale.
Thanh niên – khách lạ đến tiệm lần đầu – có mái tóc quăn và dài.  Đến tiệm hớt tóc vào ngày thứ ba trong tuần hẳn chàng phải là công nhân của một hãng xưởng nào đó!  Khi tò mò hỏi thăm thì thanh niên cho biết chàng tên Patrick và là cha Sở mới về nhậm chức!
RUA TOI

Nghe vậy, Valérie vui mừng kêu lên:

–        May quá, con đang muốn đến gặp cha!

Dĩ nhiên cha Sở vui vẻ ghi nhanh một cuộc hẹn.

Cuộc đời Valérie Baptiste là chuỗi dài những biến cố đau thương.  Valérie chào đời năm 1968. Năm lên 4 tuổi, ông thân sinh ra đi vui sống với tình nhân mới, một phụ nữ khác, bỏ rơi vợ trẻ với ba đứa con thơ.  Bà mẹ trẻ quá buồn nên lâm cảnh nghiện rượu và không còn khả năng chăm sóc ba đứa con nhỏ dại nữa.  Người ta liền giao ba đứa trẻ cho một gia đình săn sóc.  Nhưng gia đình này không khá giả mà cũng không tốt.  Valérie lại được giao cho một gia đình khác và sau cùng được giao cho một ký túc xá do các nữ tu trông coi tại thành phố Chartres, cách thủ đô Paris khoảng 100 cây số.  Nơi đây Valérie may mắn gặp những con người tốt có trái tim quảng đại và có đức tin Công Giáo chân chính.
Suốt thời gian sống xa mẹ ruột, Valérie không bao giờ quên hình ảnh mẹ và vẫn giữ nguyên tình thương dành cho mẹ, một người mẹ kém may mắn!
Valérie luôn luôn bênh vực mẹ tránh khỏi những lời trách cứ.  Mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Valérie đều đặn đến thăm mẹ.
Hơn 10 năm sau ngày bị chồng bỏ rơi và bị nghiện ngập, bà mẹ đáng thương từ trần, để lại nơi Valérie một nỗi niềm đau đớn không kể xiết.
Điều đáng nói là trong quãng đời thơ trẻ bơ vơ này, Valérie vẫn nuôi dưỡng tâm tình tôn giáo tự nhiên.  Lúc mẹ còn sống cũng như sau ngày mẹ từ trần, Valérie luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho hiền mẫu dấu yêu.
Rồi đến ngày Valérie kết hôn với Éric, chàng thanh niên sống cạnh nhà và là tín hữu Công Giáo.  Valérie không ngờ rằng từ đây cuộc đời nàng chuyển sang khúc quanh mới.  Khúc quanh trên cả hai bình diện tâm lý và tôn giáo.
Thật thế.  Mẹ đỡ đầu của Éric chồng nàng là tín hữu Công Giáo sống đạo chân thành.  Bà tỏ dấu mong ước trông thấy đôi vợ chồng trẻ được kết hôn theo phép đạo Công Giáo.  Mong ước đồng nghĩa với việc Valérie phải lãnh bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Valérie vui vẻ chấp thuận đề nghị vì hai lý do.  Trước tiên vì nàng muốn làm vui lòng mẹ đỡ đầu của chồng.  Khi yêu, người ta muốn làm vui lòng người mình yêu.  Thứ hai, vì nàng linh cảm rằng, bí tích hôn phối sẽ mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống vợ chồng.  Tận thâm tâm Valérie vẫn luôn tin tưởng vững chắc nơi tình yêu Thiên Chúa.
Và những ước nguyện trên đây được thực hiện khi cha Sở mới bất ngờ xuất hiện vào một buổi chiều thứ ba nơi tiệm hớt tóc mà Valérie Baptiste đang làm việc.  Sau khi trình bày và được cha Sở đồng ý, Valérie vui vẻ nhập cuộc.  Con đường chuẩn bị đưa nàng đến việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội kéo dài hai năm.
Tiếp xúc đầu tiên của Valérie với Kitô Giáo là học hỏi Lời Chúa cùng với các tín điều buộc phải tin.  Nhưng Valérie không đơn độc.  Nàng thuộc về nhóm dự tòng, được hướng dẫn và được tháp tùng.  Valérie rất thích đọc Phúc Âm và sung sướng khám phá ra Cuộc Đời của Đức Chúa Giêsu Kitô nơi dương thế.
Sau cùng, ngày chờ mong đã đến.  Nghi lễ rửa tội diễn ra vào một Chúa Nhật tháng 5 trong Thánh Lễ nơi nhà thờ xứ đạo.  Mọi người thân thuộc gia đình nhà chồng đều hiện diện, đặc biệt là mẹ đỡ đầu của chồng.

Nhắc lại kỷ niệm đáng nhớ của ngày trọng đại này, Valérie Baptiste tâm sự:

– Một Người nào đó, một sức mạnh nào đó đã đi vào cuộc đời tôi, đi vào trái tim tôi.  Tôi không còn tỉ-tê khóc cho riêng mình nhưng tự chủ hơn và can đảm hơn.  Tôi cũng hiểu người khác hơn.  Tôi cầu nguyện cùng Thiên Chúa thường xuyên hơn.  Tôi không đợi Chúa Nhật mới đến nhà thờ.   Trái lại, bất cứ lúc nào cần hoặc mỗi khi gặp khó khăn, tôi tức tốc chạy đến nhà thờ.  Nhà thờ là nơi nương ẩn vững vàng nhất cho tôi.  Tôi thân thưa mọi sự cùng Thiên Chúa.  Không có Ngài, tôi cảm thấy thật bơ vơ và thật đáng thương!

“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.  Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.  Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.  Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.  Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.  Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.  Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh con thầm thĩ với Ngài.  Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài con hớn hở reo vui.  Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Thánh Vịnh 63, 2-9).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

“Xác loài người ngày sau sống lại” – Là xác nào sống lại?

“Xác loài người ngày sau sống lại” – Là xác nào sống lại?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

dongten.net

Xin cho con hỏi trong kinh Tin Kính, có tín điều “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Cha xứ dạy chúng con rằng chúng ta sẽ không sống lại với thân xác hiện nay vì nó đã bị hoen ố bởi tội lỗi rồi nhưng thân xác sẽ phục sinh là một thân xác khác đang do chính Chúa Thánh Thần cất giữ. Xin cho con biết có đúng như thế không ạ?

Chào bạn,

Nhiều người trong chúng ta cho rằng chỉ có linh hồn ta là được về trời, còn thân xác là thứ nhơ nhuốc, đầy những xấu xa, nên không thể được cứu. Vào những thế kỷ đầu, có rất nhiều trường phái triết học cho rằng thân xác chính là tù ngục của linh hồn, là cái đã giam hãm linh hồn con người. Hồn lìa khỏi xác cũng hệt như một cuộc giải thoát. Bởi thế, việc phải trở lại kết hiệp với xác chẳng khác nào đưa hồn vào tù ngục. Chính vì lý do này mà thánh Phaolo đã thất bại khi rao giảng về việc người chết sống lại tại Aten, một thành phố đậm mùi triết coi thường thân xác và chỉ tin vào sự bất tử của linh hồn (x.Cv 17,16-34). Ngoài ra, thật khó để có thể tưởng tượng được là khi thân xác phục sinh thì nó sẽ thế nào. Thân xác phục sinh của tôi sẽ là thân xác lúc tôi bao nhiêu tuổi? Những người đã chết từ hàng ngàn năm trước, xương cốt đã thành tro, họ sẽ sống lại thế nào? Thậm chí, có những người đã chết không toàn thây, bị thú dữ ăn thịt, xé xác… thì phục sinh ra sao? Còn nữa, chẳng lẽ những người có thân hình xấu xí, bị thương tật, bị khiếm khuyết gì đó lại phải sống thân xác tồi tệ này khi phục sinh? Nếu thế thì thà chẳng phục sinh còn hơn!

Vậy tại sao Giáo Hội lại tin rằng thân xác cũng phải phục sinh? Là bởi vì chúng ta chỉ có thể là con người trọn vẹn khi có cả hồn (phần linh thiêng) và xác (phần vật chất). Nếu chỉ có hồn hoặc chỉ có xác thôi thì không phải là ta. Thân xác là một phần của ta, hay thậm chí có thể nói, nó chính là ta. Ta sẽ không thể nhận ra, tiếp xúc, đụng chạm với ai nếu người đó không có thân xác, và ngược lại. Trong khi đó, Đức Giêsu đến thế gian này là để cứu con người của ta một cách trọn vẹn, chứ không chỉ cứu linh hồn ta mà thôi. Nếu Ngài chỉ cứu linh hồn ta thì Ngài đang cứu “cái gì đó”, chứ không phải là ta. Đấng Cứu Thế đã muốn mặc lấy xác phàm và trở thành một con người thực thụ chính là muốn cứu lấy cả “xác phàm”, phần vật chất của con người, chứ không chỉ là phần thiêng liêng. Bởi thế, nếu thân xác không được phục sinh thì việc xuống thế làm người của Đấng Cứu Thế trở nên vô nghĩa. Tin vào sự phục sinh của thân xác chính là tin vào phẩm giá cao quý của thân xác và tin vào ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người xét như một tổng thể đầy đủ của hồn và xác.

Nhưng phải làm sao để giải quyết những vấn đề khúc mắc ở trên liên quan đến thân xác? Hay nói cách khác, chúng ta cần phải hiểu như thế nào về sự phục sinh của thân xác? Dựa vào mặc khải của Kinh Thánh và dựa vào lý trí, chúng ta có thể tìm được câu trả lời dù rằng trong chúng ta, chưa ai trải nghiệm được điều này. Hơn hết, chúng ta có một mẫu gương rõ ràng và khả tín nhất là chính Đức Giêsu phục sinh. Căn cứ vào những gì Kinh Thánh nói với chúng ta về Đức Giêsu sau khi Ngài đã phục sinh, chúng ta có thể biết chắc hai điều:

Thứ nhất, thân xác được phục sinh phải là một thân xác đã chết vì nếu không chết thì cũng sẽ không có chuyện phục sinh. Đó cũng phải là thân xác mà ta đang sở hữu đây vì nếu hồn của ta kết hợp với một thân xác khác thì sẽ trở thành người khác, chứ không phải là ta. Nếu Thiên Chúa làm nên một cái xác khác hoặc sử dụng cái xác của ai đó để kết hợp với hồn của ta thì càng không phải là ta. Quả vậy, khi Đức Giêsu phục sinh, thân xác phục sinh của Ngài là chính thân xác Ngài đã sống trước đó, với tất cả những dấu đinh, vết sẹo (x. Lc 24,39). Thân xác Ngài phải như trước thì các môn đệ mới nhận ra Ngài được. Nếu Đức Giêsu phục sinh với một thân xác khác thì hẳn là xác chết của Ngài vẫn còn trong mộ. Nhưng thực tế là từ sau ngày phục sinh, không ai – kể cả những kẻ thù của Ngài – có thể tìm thấy xác Ngài. Ngoài ra, thân xác được phục sinh phải là thân xác mà ta có thể đụng chạm được cách cụ thể, chứ không phải là một cái bóng mờ mờ ảo ảo. Đức Giêsu cũng khẳng định với các môn đệ rằng Ngài vẫn “có xương có thịt”, chứ không phải ma (x.Lc 24,39). Chính Tôma là người đã được Đức Kitô phục sinh cho đụng chạm vào cạnh sườn mình (x. Ga 20,27).

Thế nhưng – điều thứ hai và điều rất quan trọng – thân xác phục sinh là một thân xác được biến đổi theo một cách thức mà thánh Phaolo gọi là “mầu nhiệm” (1Cr 15,51), bởi vì “xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cr 15,50). Ngài còn nói thêm: “…tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát… Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1Cr 15,52-53). Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolo nói: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,31). Ở đây, ta thấy thánh nhân nói rằng Đức Giêsu sẽ biến đổi “thân xác chúng ta” (chứ không phải một thân xác lạ lẫm nào khác), và thân xác được biến đổi ấy sẽ giống như “thân xác vinh hiển của Người”, nghĩa là thân xác phục sinh của Đức Giêsu thế nào thì thân xác phục sinh của chúng ta cũng sẽ giống như vậy.

Như thế, thân xác phục sinh của chúng ta sẽ là một thân xác không còn bị huỷ hoại, không còn vết tích của sự dữ, không còn lệ thuộc vào thời gian không gian, không phải chịu một giới hạn nào, không bị lão hoá, không bệnh tật…Thân xác ấy sẽ như thân xác của Đấng Phục Sinh. Chúa sẽ thanh tẩy thân xác hư nát này của chúng ta thành một thân xác thanh thiết và ngập tràn ân sủng. Thân xác ấy trông như thế nào, chẳng ai trong chúng ta biết được, nhưng với mạch suy tư này, ta có quyền đi đến kết luận rằng vào lúc phục sinh, người khác nhìn vào ta thì sẽ thấy ta và nhận ra ta (vì ta có thân xác) và sẽ nhìn thấy nơi ta một sự sáng láng tuyệt đẹp, thanh khiết đến lạ kỳ (vì những hậu quả xấu xa của sự dữ và tội lỗi làm cho thân xác của chúng ta bị huỷ hoại và xấu đi đã bị ơn cứu độ của Đức Giêsu gỡ bỏ).

Thánh Phaolo cũng lấy hình ảnh hạt giống gieo vào đất và nảy mầm thành một cây mới để minh hoạ cho sự phục sinh này. Khi chẻ đôi một hạt lúa, ta không hề thấy trong đó có cây lúa nào. Vậy mà khi gieo xuống đất, tưới nước, bón phân, ta lại thấy chính tại nơi ta gieo hạt lúa nảy sinh một cây lúa. Cây lúa này chính là hạt lúa lúc trước chứ không phải từ một hạt gì khác, hay thậm chí là hạt lúa khác. Ta biết chắc rằng cây lúa này từ hạt lúa kia mà ra, nhưng ta không biết được là tại sao hạt lúa lại trở thành cái cây như vậy. Hạt lúa trước kia chính là cái cây mà ta đang thấy lúc này đây. Hạt lúc không còn nữa, chỉ còn lại cây lúa. Nói cách khác, hạt lúa ấy đã được biến đổi để trở nên một cái gì đó khác đi, hoàn hảo hơn, tràn đầy sức sống hơn.

Hình ảnh minh hoạ này giúp chúng ta hiểu về sự biến đổi thân xác diệu kỳ mà ơn phục sinh của Thiên Chúa sẽ thực hiện trên chúng ta. Chúng ta chỉ đang ở trong giai đoạn “hạt lúa”, cần phải chết đi trong niềm tin vào Đấng Phục Sinh, để Đấng ấy làm nơi ta một sự biến đổi lạ thường chỉ “trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên.” (1Cr 15,52).

Đề tài này vẫn còn nhiều chi tiết cần bàn đến nhưng hy vọng một vài gợi mở nhỏ bé này đã đủ để giải đáp thắc mắc của bạn cũng như khơi lên niềm hy vọng trong lòng bạn.

Thân ái,

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

CHUYỆN TÌNH BUỔI BÌNH MINH

CHUYỆN TÌNH BUỔI BÌNH MINH

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Các bạn trẻ thân mến,

Sau một đêm vất vả nhưng không bắt được con cá nào, các tông đồ chèo thuyền vào bờ trong tâm trạng u buồn về tinh thần, đói lả về thân xác.  Nghe theo lời khuyên của một người lạ, họ quyết định thử thả lưới lần cuối với chút hy vọng mong manh.  Ai ngờ, chỉ một mẻ lưới tình cờ đã có thể bắt được rất nhiều cá.  Nhạy cảm trước sự kiện lạ này, Gioan đã nhận ra Thầy chính là người lạ đã đưa ra lời chỉ dẫn kia.  Thế rồi họ cũng vào bờ, mang ít cá mới bắt được đến bên bếp lửa đã được Thầy nhóm sẵn.  Cùng với chút bánh Thầy mang tới, tất cả dùng chung với nhau bữa ăn sáng đạm bạc nhưng chan chứa niềm vui.

Trời lúc ấy mới hừng đông.  Ánh mặt trời con non nớt, chiếu qua những hạt sương long lanh. Tiếng sóng vỗ rì rào theo chiều gió thổi.  Có lẽ đã lâu lắm rồi, Thầy với trò mới có được một bữa ăn nhẹ nhàng và an bình như thế.  Từ sau khi Thầy bị bắt, ngày nào họ cũng phải sống trong lo sợ và u ám.  Cái chết kinh khiếp của Thầy như vẫn còn đâu đây.  Tiếng la hét, tiếng khóc than, tiếng búa gõ vào đầu đinh sắt… những hình ảnh thê lương ấy sao dễ có thể phai nhạt được.  Nhưng giờ đã qua hết rồi, những khoảnh khắc u sầu tăm tối.  Phút yên bình bên bếp lửa đỏ, với miếng cá nồng vừa bắt được và chút bánh thơm phức hương men, Thầy và trò cùng chia sẻ với nhau sự ung dung tự tại, hệt như những ngày vừa gặp gỡ.

Ăn sáng vừa xong, mỗi người một việc.  Chỉ còn lại Phêrô và Giêsu bên bếp lửa.  Khoảng không gian thanh tịnh đến lạ kỳ.  Phêrô hẳn là nghẹn ngào lắm.  Vui vì được nhìn thấy Thầy, bình an vô sự; nhưng cũng buồn vì nhớ lại lầm lỗi của mình chỉ vài ngày trước đây thôi.  Nhớ lại đêm cuối cùng trước khi Thầy chịu khổ nạn, Phêrô luôn mồm khẳng định yêu Thầy, yêu hơn hết mọi người, yêu đến nỗi sẵn sàng chết vì Thầy.  Ấy vậy mà khi sự cố xảy đến, ông đã thề độc, chối bỏ mối tương quan gắn bó sâu sắc giữa mình với Thầy.  Sợ mạng sống của mình bị đe dọa, ông đã gạt Giêsu ra khỏi cuộc đời mình. Cái nhìn của Giêsu đã thấu chạm đến tim ông, gợi nhớ lại trong ông những ân tình đã có.  Bất chợt, bao cảm xúc ùa về, ông đã khóc như chưa từng được khóc, những ngọt nước mắt của hối lỗi, của ăn năn.  Ông khóc cho thân phận kém cỏi của mình, khóc cho những lần kiêu ngạo của mình, khóc cho một cuộc tình bị ông chối từ vì sợ hãi.

Giờ đây, chỉ còn hai người – Thầy và ông – trên một bãi biển hồ vắng.  Ông nghẹn ngào chẳng biết nói điều chi.  Ông tự cảm thấy mình phải thu nhỏ người lại trước Thầy, không còn dám vỗ ngực xưng tên, không còn tự cho mình là người thánh đức nữa.  Nhưng dẫu sao, ông vẫn thấy mình có lỗi với Giêsu, ông nợ Giêsu một lời xin lỗi.  Là một người Thầy thấu cảm tâm tư của trò, Giêsu đã lên tiếng trước. Giêsu không muốn nghe từ ông lời xin lỗi, vì những giọt nước mắt kia đã nói lên tất cả rồi.  Giêsu cũng không cần nghe từ ông lời cam kết sẽ không tái phạm, vì phận người yếu đuối, có ai biết được ngày sau.  Giêsu chỉ muốn ông cho Giêsu biết, chỉ một điều duy nhất thôi: Sau biết bao những biến cố ấy, ông có còn yêu mến Giêsu không?  Ba lần hỏi của Giêsu là ba lần làm ông nghẹn ngào khó tả.  Phêrô không còn dám nói là mình yêu Chúa hơn các anh em khác nữa.  Phêrô thú thật với Thầy là Thầy biết con yêu mến Thầy; chỉ có điều tình yêu ấy còn mong manh quá, còn yếu đuối quá, nên đã bao lần khiến Thầy thất vọng và buồn phiền.  Nhưng thật sự là có, có một tình yêu dành cho Thầy, có một sự lôi kéo trái tim hướng về Thầy.  Tình yêu dành cho Thầy và sự yếu đuối đi song đôi trong trái tim của Phêrô, Phêrô nhận ra điều đó.

Các bạn trẻ thân mến,

Tâm trạng của Phêrô cũng là tâm trạng của mỗi người chúng ta mỗi khi chúng ta phạm tội.  Ta thấy hổ thẹn với bản thân, vì dù đã nhiều lần ta đã nỗ lực không muốn phụ tình yêu Giêsu dành cho mình, nhưng sao ta vẫn chứng nào tật ấy, không sao chừa được.  Sự yếu đuối và tội lỗi cứ đeo bám ta, khiến ta thấy mình như bất lực trong cuộc chiến chống lại chúng.  Nhưng Thầy Giêsu của chúng ta là một người thầy rất tuyệt vời.  Ngài không bao giờ hạch họe ta, không bao giờ khoét sâu trong trái tim ta những nỗi đau vốn đã sẵn có.  Ngài biết ta yếu đuối, Ngài biết ta mỏng dòn, Ngài biết là sẽ có ngày ta bội phản Ngài, bội phản lại tình yêu Ngài dành cho chúng ta.  Nhưng không bao giờ Ngài đối xử với ta một cách tồi tệ.  Điều duy nhất là Ngài muốn ta trả lời khi đến với Ngài là “con có còn yêu mến Thầy không?”  Chỉ một câu hỏi ấy thôi.  Ngài muốn biết trong ta có còn tình yêu dành cho Ngài hay không, muốn biết trái tim ta có còn chỗ cho Ngài không.  Chỉ cần ta trả lời có, bấy nhiêu cũng đủ rồi.

Vâng, tình yêu của Chúa vượt trên những tội lỗi của ta.  Mỗi khi ta vì yếu đuối và vấp ngã, ta đừng tra tấn mình bằng những cảm xúc tiêu cực, hãy tự vấn mình: Ta có còn yêu mến Giêsu không, ta có còn vì Ngài mà cố gắng sống tốt hơn không.  Giêsu chỉ cần ta yêu mến Ngài.  Mọi sự khác, Ngài chẳng quan tâm, vì Ngài biết, tình yêu của Ngài sẽ giúp ta chiến thắng.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Này người ơi! Ghé bến sang sông,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh năm C 17/4/2016

 “Này người ơi! Ghé bến sang sông,”

Lên đường đi tới, bõ công em chèo thuyền.

Mừng người đi, tìm thấy Tình Duyên,

Con đường đất nước, nối liền lòng dân.”

Phạm Duy – Con Đường Cái Quan)

(1 Tim 1: 3-6)

Trần Ngọc Mười Hai

Có thể nói, đây là lần thứ hai trong chuỗi ngày dài những phiếm và phiếm, bần đạo lại cứ trích và dẫn những câu hát của nhạc sĩ họ Phạm, tương-tự giòng chảy đầy thương yêu, như sau:

 “Sông Thương ơi! Nước chảy (ý) đôi ba giòng,

Anh về Hà-Nội một lòng…(thương) yêu em!

Sông Thương ơi! Nước đục người đen,

Anh về Thành-phố… không quên cô mình.”

(Phạm Duy – bđd)

Tìm hiểu lý do sao lại có chuyện như thế, có bạn đạo cứ cho rằng: có thể, điều ấy do bởi bần đạo đây sinh ra tại đất “Hà-thành” ngàn-năm-văn-vật, nên mới thế. Có bạn khác, lại vẫn nói: sở dĩ người viết phiếm cứ hay trích-dẫn giòng dân-ca có bát-âm hoặc ngũ-cung rất gần lòng người/lòng mình, như vậy.

Có thể là như thế. Như thế, tức như thể: bạn bè gần/xa lại cứ cho rằng: bầy tôi đây, những muốn kết-duyên Đạo/đời bằng địa-danh hay tên gọi của một cõi rất “lòng người” có yêu thương vần vũ, như “sông Thương nước chảy đôi ba giòng”, như là “giòng thương/yêu” trữ-tình gì đó chăng? Yêu thương “đôi ba giòng”, còn là lòng thòng những là “tình người nhà Đạo” thấy ở Kinh/Sách, mỗi khi  quay về, đến hôm nay.

Cũng có thể, đây là: lời gọi/mời gửi đi khắp chốn để người người quay về với Kinh/Sách rất “sông Thương” có những giòng êm-ả chảy mà bậc thày ở đây đó từng nhắc nhớ. Nhắc và nhớ, bắt đầu bằng “lời cuối” của nhân-vật rất tiếng-tăm ngành vi-tính tên Steve Jobs, như sau:

“Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tưởng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.

 Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.

 Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.

 Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xe lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống.

Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn.” (Bản dịch của bạn bè trên mạng)

Và, thêm một lời “trần tình” khác cũng từ một bậc thày ở đâu đó, rất Úc Châu như sau:

 “Ngày nay, lại thấy nhiều chiều-hướng quyết quay về học-hỏi những điều hàm-ẩn nội-dung đích-thực của Kinh-thánh hơn là ấp-ủ một số luận-điểm như ta vẫn làm trong quá-khứ. Bởi thế, cũng nên quảng-diễn các luận-điểm cốt-thiết và đích-thực của thời-đại qua đó Kinh thánh được viết, theo đúng nghĩa…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, Re-Reading the Bible, ACU hôm 6/9/2008 ở Sydney)

Với nghệ-sĩ ngoài đời, thì sự/việc về với nguồn mạch của Kinh/Sách, được diễn-tả theo cung-cách rất khác biệt. Cung và cách của thể-loại âm-nhạc đi vào lòng người như giòng chảy thân thương của “Cưu Long Giang”, sau đây:

“Cửu Long Giang! Gió về vui trên sóng sông,

Uốn quanh như 9 con rồng, ôm chặt đứa con.

Người từ Tiền giang đi về xa xăm cuối con đường say đắm

Là miền rộng thênh thang…”

(Phạm Duy – bđd)

Là gì đi nữa, “miền rộng thênh-thang” hay chốn miền có những “luận-điểm cốt-thiết và đích-thực” của Sách và Kinh đi nữa, vẫn là những luận-cứ rất nên tìm đọc. Đọc để hiểu, rằng: văn-bản, dù là Kinh/là Sách vẫn có những điều cần tìm-hiểu/học-hỏi xem thực/hư ra sao, như lập-trường của một bậc thày thần-học khác, từng xác-chứng bằng lời lẽ chân-tình sau đây:

“Một trong những điều dị-kỳ rất nực cười của đạo-giáo tân-thời hôm nay, là: việc ký-thác vào sự thật biểu-hiện ra bên ngoài qua một vài hình-thức của Đạo Chúa chuyên chú rao-giảng Tin Mừng thật triệt-để; đồng thời kèm theo tầm nhìn bảo rằng sự thật mang tính khách-quan có thể kiểm-chứng được bằng bất cứ nhà quan-sát vô-tư lâu nay từng đưa dẫn nhiều tâm-hồn người đi Đạo tuân theo sự thật ở bất cứ nơi nào nó dắt đến. Và nơi đến, nhiều lúc lại cũng “xa vời” với Đạo của Chúa rất triệt-để hoặc đầy tính giảng rao.

 Thành thử, nếu trên lý-thuyết ta có khả-năng kiểm-chứng được sự thật “khách-quan” của đạo-giáo và rồi thấy rằng: hoá ra, đạo-giáo đang kiểm-chứng lại sai trái một cách có thể kiểm-chứng được, thì sự việc ấy đưa ta đi về đâu?…

 Càng học hỏi sự thật của Kinh Sách về Đạo Chúa, đặc biệt là về Kinh/Sách, bản thân tôi càng nhận ra rằng: “Sự thật” lại đã dẫn đưa tôi về chốn miền nào đó tôi không đi đến… Và tôi đi đến một cảm-nghĩ hiểu rằng Kinh Sách xưa nay không thể là những gì tôi từng nghĩ. Kinh Sách cũng chứa đựng nhiều sai sót. Và nếu là sách mà lại chứa đựng sai sót, thì đó không thể hoàn toàn đúng thật được. Và đây là vấn-đề đối với tôi, do bởi tôi cứ muốn tin vào sự thật, sự thật thần thiêng thánh ái và tôi đã đạt giai-đoạn thấy được rằng Kinh Sách không là sự thật thần thiêng mà lại không có tàn dư. Kinh Sách thật là sách rất con người.

 Nhưng vấn-đề không dừng lại ở đó. Cuối cùng ra, tôi đạt đến tư-duy nhận ra rằng: Kinh Sách không chỉ chứa đựng những sự-không-thật hoặc các lỗi sai sót bất chợt xảy đến mà thôi, nhưng Kinh Sách cũng chứa đựng những gì mà gần như bất cứ ai sống vào thời này có thể gọi đó là sai lầm. Và đó là những gì tôi muốn viết, ở sách này. Hôm nay. (Gs Bart D. Ehrman, Forged, Why the Bible’s Authors Are Not Who We Think They Are, HarperOne 2011 tr. 3-5)

Thoạt nghe những lời trần tình hoặc trần-thuật rất tình người ở trên, hẳn rằng nhiều người lại sẽ nhớ đến Lời Vàng khi xưa Phaolô thá`nh-nhân từng căn-dặn thừa-tác-viên đồng-hành và là đệ-tử thân thương, rằng:

“Khi đi Makêđônia, tôi đã khuyên anh ở lại Êphêsô

để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác,

cũng đừng chú ý đến những chuyện hoang đường

và những gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận,

chứ không đóng góp vào kế-hoạch của Thiên-Chúa mà đức tin cho chúng ta biết.

Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch,

lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình.

Vì đi trệch đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch.

Họ muốn làm thầy dạy luật, nhưng lại không hiểu cả điều mình nói lẫn điều mình xác quyết.”

(1 Tim 1: 3-6)

Nói như thế, là nói theo bài-bản của những Kinh và Sách, rất công-khai. Nói về những điều hệt như thế, giống như kiểu nói của người ngoài luồng, ở đời, là nói bằng truyện kể dân-gian có những ý và tình như sau:

“…Rất may mắn, tôi đã gặp cậu và được cố vấn nên sau vài lần xin việc bị từ chối khéo, tôi điền đơn tại bệnh viện Montford theo đúng lời cậu chỉ dẫn. Lý lịch khai rất gọn, phần học vấn bỏ trống, không ghi tốt nghiệp đại học VN. Xin làm Pharmacy Attendant, công việc sai vặt trong khoa dược.

 Bà trưởng phòng nhân viên bệnh viện đọc hồ sơ, ngước mắt nhìn tỏ vẻ thương hại rồi nói, được rồi, anh cứ về, khi nào có chỗ trống sẽ gọi phỏng vấn. Vừa định đứng dậy thì bà ra dấu cho tôi ngồi xuống, ngập ngừng… Tôi biết bên hospice, nhà an dưỡng của bệnh nhân cận tử, đang cần một orderly nam, tức y công đàn ông. Nếu anh không ngại tôi sẽ giới thiệu. Đang đói việc, tôi bằng lòng ngay, bất cứ việc gì.

Y tá trưởng của hospice vui mừng đón nhận tôi.

Bà cho biết công việc không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự nhẫn nại hơn bình thường. Chỉ phục vụ một bệnh nhân đặc biệt và khó tính. Gia đình bệnh nhân này là ân nhân của bệnh viện, đã hiến tặng toàn bộ xây cất và các trang thiết bị cho hospice nên tên của người chồng quá cố, “J.D. Steinberg” được vinh danh trên bảng đồng.

 Bà thành thật cho biết đã có 2 nữ y công bị trả lại vì bệnh nhân không hài lòng và thêm một nữ nữa bỏ việc vì không chịu nổi áp lực.

Tuy nhiên lương bổng rất hậu hĩnh. Bệnh nhân này sẵn sàng trả thêm tiền thưởng tương đương với tiền lương của bệnh viện.

Bà muốn thay đổi, đề nghị tuyển nhân viên nam, hy vọng nam có sức chịu đựng tốt hơn nữ.

 Bệnh nhân là bà Steinberg, khoảng gần bảy chục tuổi, bị ung thư buồng trứng, đã di căn, giai đoạn cuối. Đẹp lão, mập mạp, tướng mệnh phụ. Bà tiếp tôi lạnh lùng, sau khi cô chuyên viên trang điểm rút lui. Hỏi vài câu vắn tắt lấy lệ, rồi cho tôi kiếu.

 Quả thật công việc rất nhàn hạ, nhưng không thơm tho. Bác sĩ, y tá thăm bệnh và cho thuốc men theo thời khoá biểu. Cô quản gia kiêm thư ký công ty của gia đình trình diện vào buổi trưa mỗi ngày, đem thức ăn khoái khẩu của bà và quần áo mới. Tôi chỉ giúp bà làm vệ sinh tiêu tiểu buổi sáng, ngay trên giường và đổ phân vào cầu. Buổi chiều, sửa soạn bồn tắm, giúp bà làm vệ sinh thân thể và đẩy xe đưa bà đi dạo. Ngoài ra, chùi rửa phòng, thay bọc trải giường, mang quần áo chăn mền qua phòng giặt ủi…v…v… Thỉnh thoảng ghé mắt xem bà có cần sai bảo gì không. Khẩn cấp thì phải chạy tìm y tá bác sĩ trực.

 Tôi được sắp xếp cho ở góc cuối phòng, ngăn bằng chiếc màn kéo, đủ kê chiếc giường đơn, ghế nằm và bàn viết. Một ngày chỉ thật sự làm việc độ 3 hoặc 4 tiếng, ăn uống ở câu lạc bộ. Thời giờ quá dư thừa nên tôi mượn sách chuyên môn của thư viện đọc, mơ một ngày nào đó sẽ lấy lại được bằng hành nghề.

Một buổi tối, bà rên khò khè đau đớn, tôi chạy lại thì nghe bà quát, đi lấy cho ta cái “donut” ngay. Ta cảm thấy khó chịu quá!

 Tôi cuống quít nói, thưa bà giờ này quá khuya, e không có tiệm bánh donut nào mở cửa, bà có thể chờ đến sáng sớm mai không? Bà nổi quạu, phán, đồ ngu! Xuống bảo y tá trực đưa. Tôi răm rắp chạy báo cáo bà y tá già. Bà cười ngặt nghẽo, đưa cho tôi cái vòng cao su mầu cam trông giống như ruột xe vespa, bảo, đấy, donut là cái này này. Tôi vỡ lẽ, té ra donut cũng là tên gọi của cái vòng đệm cao su, dùng để kê dưới bàn tọa cho êm.

 Mấy ngày sau, khi đã hơi khoẻ, bà ngoắc tôi lại, ra lệnh, ê thằng Tầu con, xuống kêu con nhỏ làm tóc lên chải đầu cho ta. Hôm nay ta có khách lại thăm. Bị chạm nọc nhưng tôi vẫn đủ bình tĩnh, khẽ thưa, xin bà đừng gọi tôi là Tầu con. Tôi đã 36 tuổi rồi và là người Việt Nam không phải Tầu. Trái với sự mong đợi của tôi, bà tỏ vẻ thân thiện, ngồi thẳng dậy, tròn mắt, hỏi lại, Việt Nam? Việt Nam? Con trai của ta chiến đấu ở VN và đã mất tích từ năm 1970, cũng trạc tuổi của mi.

 Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ngờ ngợ có sự liên quan tới Bác sĩ John Steinberg mà tôi quen biết khi còn trong quân đội. Kể từ đó, mỗi khi có dịp, tôi gạ gẫm bà kể thêm về người con trai. Bà rất hứng khởi. Sự nghi ngờ ban đầu đã dần dần sáng tỏ. Gom góp các chi tiết và đối chiếu các sự kiện, tôi đã chắc đến 99.99% John Steinberg, con trai của bà, và BS John Steinberg, bạn tôi, là một người bạn quí.

 Theo bà, John là một đứa trẻ có nhiều cá tính ngay từ nhỏ. Thông minh, bướng bỉnh, tinh thần tự lập cao. Nhiều tự ái, nóng tính, hơi cố chấp và đặc biệt xung khắc với cha.

Ông Steinberg muốn hướng chàng thành một doanh gia. John, trái lại, thần tượng BS Albert Schweitzer. Ước vọng trở thành thầy thuốc giỏi, từ bỏ thế giới văn minh, đến các xứ nghèo Phi châu, mang tài năng và nhiệt tâm phục vụ không điều kiện.

 Sau khi tốt nghiệp y khoa Mc Gill, lúc chuẩn bị nội trú chuyên ngành tại bệnh viện Ottawa thì xảy ra một cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con. John giận cha, bỏ qua Mỹ, tình nguyện nhập ngũ. Được huấn luyện quân sự tại Fort Bragg và tu nghiệp chuyên môn tại Womack Army Medical Center NC. Y sĩ Đại uý John Steinberg sau đó được gửi qua Việt Nam, bổ sung toán quân y thuộc liên đoàn 5 lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang.

John vẫn thư từ liên lạc với bà mẹ đều đặn. Cho đến một buổi chiều ảm đạm mùa thu năm 1970, ba sĩ quan đồng ngũ của binh chủng gõ cửa báo tin con bà đã mất tích khi đang thi hành nhiệm vụ, được ghi vào danh sách M.I.A.

Ông Steinberg bị nỗi hối hận dầy vò, tự đổ lỗi cho chính mình, đã đưa đẩy con trai vào chỗ chết. Ông qua đời ba năm sau.

 Thời gian John công tác, tôi đang làm việc tại bệnh xá gia đình binh sĩ cũng đồn trú Nha Trang.

Chúng tôi cùng đi làm dân sự vụ thường xuyên tại các bản thượng hẻo lánh nên quen biết rồi thân nhau. Thỉnh thoảng tụ tập ăn uống nhậu nhẹt tại các quán bờ biển hoặc đi nghe nhạc phòng trà.

 Khi tin John tử trận bay đến phòng làm việc, tất cả ban quân y chúng tôi đều bàng hoàng. John và toán dân sự vụ Việt Mỹ chết bỏ xác khi máy bay trực thăng trục trặc kỹ thuật, đáp tạm xuống bãi đất hẹp gần nhánh sông chảy xiết. B40 bắn rớt ngay lúc vừa cất cánh trở lại. Duy có một y tá VN tên Công thoát hiểm một cách kỳ diệu. Hắn ngụp lặn, bơi ngược dòng nước, băng rừng suốt đêm đến được nơi an toàn.

Quá hoảng loạn trong nỗi kinh hoàng tột độ, y tá Công bị hậu chấn thương nặng, chuyển về khoa tâm thần tổng y viện Cộng Hoà điều trị vài tháng rồi được cho giải ngũ. Hắn vẫn đến xin thuốc an thần và thuốc ngủ đều đặn nên từ đó anh em đổi biệt danh “Công ngủ” thành “Công không ngủ”.

 Những năm cuối của thập niên 70 và đầu thập niên 80, tôi hay lang thang khắp chợ trời. Tình cờ gặp lại “Công không ngủ”. Hắn đã lột xác, trông bảnh bao, da dẻ hồng hào, ra dáng công tử vườn. Hắn khoe buôn bán thuốc tây, thu nhập khấm khá. Hắn bỏ một buổi buôn bán, mời tôi đi nhậu ở tiệm ăn sang trọng trên đường Nguyễn Huệ. Đãi rượu Martell và thuốc thơm ba số. Lúc đã ngà ngà, hắn nhắc lại chuyện cũ. Bật mí tất cả những gì chưa từng bật mí.

Chiếc trực thăng chao đảo vì phi công bị B40 xuyên nát cổ. Đủ loại súng thi nhau nhả đạn, mọi người nhốn nháo chen nhau nhảy xuống. Đạn đan tròng tréo, có người rớt lịch bịch, có người nằm xuống khi chân chưa chạm đất. Bác sĩ Steinberg cùng hắn và vài người nữa chạy thẳng xuống sông. Các người kia bơi theo dòng nước. Ông bác sĩ Mỹ to cồng kềnh, bơi hoặc lặn cũng không ổn nên tìm chỗ ẩn nấp dưới đám lau sậy. Vốn là dân xóm Cồn, giỏi bơi lội, lại nhỏ con nên “Công không ngủ” nhanh như chớp, phóng xuống giữa dòng, vớ một ống sậy dài, ngậm thở, lặn ngược dòng, đánh lạc hướng của nhóm du kích chạy xuôi trên bờ đang truy đuổi từng người. Nghe tiếng súng AK nổ ròn rã, hắn biết những bờ bụi chắc chắn là những mục tiêu bị nhắm bắn. Hắn tự khen mình thông minh, không trốn theo ông bác sĩ cũng không bơi xuôi giòng. Rất có thể nhiều người đã lãnh đủ những tràng đạn vừa qua.

Đợi khi bóng dáng đám du kích đã hoàn toàn mất hút, hắn bơi đến chỗ ông bác sĩ thăm dò. Vùng máu loang lổ đang lan rộng chứng tỏ ông đã trúng đạn. Sờ mũi, vạch mắt, nghe tim, biết ông đã chết, hắn chỉ kịp mở nút gài túi áo trên lấy chiếc ví dầy cộm, lột chiếc đồng hồ trên tay.

Tiếng đám du kích vui cười nghe rõ dần, có lẽ họ trở lại thu nhặt chiến lợi phẩm. Hắn đẩy xác ông bác sĩ ra giữa dòng để gây sự chú ý, giúp hắn có thêm thì giờ lặn ngược dòng trốn càng xa càng tốt.

Nằm ếm dưới nước, chờ trời tối, hắn bước nhanh vào khu cây cối rậm rạp, nhắm hướng sao đi tới. Rạng sáng, hắn gặp một người đàn bà thượng đeo gùi sau lưng, địu con phía trước đi làm rẫy. Hắn bập bẹ vài tiếng thượng học được, xin chỉ đường đến đồn bót gần nhất.

Bài học mưu sinh thoát hiểm, cộng với may mắn cùng sự giúp đỡ của người dân tốt bụng đã đưa hắn trở về bình yên.

Lợi dụng việc sống sót hy hữu sau tai nạn, hắn đã đóng kịch rất khéo, giả bệnh, qua mặt được mọi người và giải ngũ.

 Hắn cho biết trong chiếc ví của ông bác sĩ, ngoài số tiền mặt khá lớn, đủ để hắn sửa sang nhà cửa và mua chiếc xe Honda 90 đời mới, còn có một lá thư, một tấm hình, vài thứ giấy tờ linh tinh.

Hắn cho tôi địa chỉ nếu muốn đến xem. Tôi không có dịp vì còn mải lo chuyện vượt biển.

 Sự sống của bà Steinberg kéo dài hơn ước tính của các bác sĩ. Bà cho là lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe và hy vọng phép mầu nhiệm sẽ đến qua ơn cứu rỗi. Một tuần trước sinh nhật, bà điện thoại cho hai cô con gái lớn nhắc nhở. Năn nỉ các con cháu sẽ đến và ở chơi với bà một buổi. Bà dặn tôi đến ngày đó phải thu dọn căn phòng trống kế bên sạch sẽ, kê thêm bàn ghế và phụ giúp nhà hàng chăm lo phần ẩm thực.

 Tôi chợt có ý nghĩ nhân dịp này sẽ tặng bà một món quà sinh nhật bất ngờ. Đánh điện tín nhờ vợ tôi mang đến “Công không ngủ”, hẹn giờ ra bưu điện nói chuyện điện thoại viễn liên.

Tôi ngỏ ý muốn mua cái ví của BS Steinberg cùng tất cả các thứ trong đó. Thỏa thuận xong giá cả, tôi yêu cầu hắn tạm thời fax ngay cho tôi những thứ có trong chiếc ví.

Ngày hôm sau, chỉ nhận được bản fax của lá thư và tấm ảnh, nhìn không rõ lắm nhưng chữ có thể đọc mò được.

 Tiền thì hắn nhận đủ nhưng chiếc ví không bao giờ được gửi. Về sau nghe chú hắn nói, hắn đang tìm đường vượt biên và cái ví sẽ là lá bùa khi xét ưu tiên định cư Mỹ.

Sau nhiều năm không ai nhận được tin tức về chuyến tầu của hắn. Có lẽ cái ví cũng theo hắn định cư dưới lòng đại dương.

 Buổi sáng sinh nhật, bà dậy thật sớm tuy cả đêm trằn trọc. Người làm tóc, người trang điểm bận tíu tít. Người ta thay cho bà một bộ đầm sang trọng. Trông bà tươi tỉnh, cười nói huyên thuyên, không ai nghĩ rằng đó là một bệnh nhân sắp từ giã cõi trần. Bà nói đã lâu lắm rồi, không thấy mặt mấy đứa cháu ngoại, không biết chúng nó cao lớn thêm và xinh đẹp như thế nào. Bà tưởng tượng sẽ ôm từng đứa, sẽ phủ mưa hôn trên từng phân vuông của những khuôn mặt thiên thần. Sau đó nếu Chúa có bắt đi ngay bà cũng an lòng. Chỉ tưởng tượng thôi mà cảm xúc đã dâng trào trên niềm hạnh phúc ảo.

 Các tiếp viên nhà hàng mang thức ăn bầy biện đẹp mắt, chiếc bánh sinh nhật hấp dẫn đặt giữa bàn. Tất cả kiên nhẫn chờ được phục vụ.

Suốt từ sáng đến quá trưa, bà bồn chồn, đứng ngồi không yên. Vẫn không thấy con cháu xuất hiện. Toàn thể nhân viên hospice không chờ đợi được nữa, bàn nhau tụ tập vây quanh bà, vỗ tay hát bài mừng sinh nhật. Bà gắng gượng ngồi nghe đến câu cuối, xua tay ra dấu mệt mỏi, để nguyên quần áo nhờ tôi đỡ lên giường.

 Cô thư ký lăng xăng lên xuống, liên tục điện thoại khắp nơi, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Buổi chiều, cô trở lại buồn bã báo tin, cả hai gia đình của hai con gái bà đang vui chơi ở Disney World Orlando Florida từ vài ngày nay.

 Bà Steinberg suy sụp tinh thần thấy rõ. Không ăn uống. Đóng cửa, không tiếp bất cứ ai. Tôi trở thành liên lạc viên duy nhất của bà với bên ngoài. Rất khó khăn ép bà uống thuốc đúng giờ.

 Tối hôm đó, cơn đói đánh thức, bà sai tôi mua một tô súp gà và ly sữa. Tôi mua thêm một chiếc bánh chocolate donut và một cây đèn cầy. Bà chỉ húp vài muỗng súp và một phần ly sữa. Tôi mở bao lấy chiếc donut để trên đĩa giấy, thắp cây đèn cầy, bưng về phía bàn ngủ. Run run hát nho nhỏ, happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to Mrs Steinberg…

 Bà há hốc miệng ngạc nhiên, im lặng vài khoảnh khắc rồi quay mặt vào tường. Tôi ngỡ bà phản ứng giống như khi nghe nhân viên bệnh viện hát chúc mừng trước đó. Ngờ đâu bà quay lại với đôi mắt ướt, giơ hai tay ôm chầm lấy tôi. Líu lưỡi cám ơn, cám ơn. Bà thổi đèn cầy rồi ăn hết chiếc bánh bình dân một cách ngon lành, nói, đây mới chính là cái “donut” mà ta muốn. Bà cám ơn tôi lần nữa, đã cho bà một sinh nhật tuyệt vời và độc đáo.

 Bà vui vẻ trở lại nhanh chóng. Kể đủ mọi chuyện ngày cũ, toàn những chuyện về John. Trong ba người con chỉ có John nhớ sinh nhật của bà, dù đi đâu xa cũng quay về vào ngày ấy. Bà nhất định cho rằng, bằng cách nào đó, chính John đã mượn tôi thực hiện sáng kiến sinh nhật donut.

 Tôi nói có một món quà sinh nhật và trao cho bà chiếc phong bì đựng bản fax của lá thư và tấm hình. Thêm một lần ngạc nhiên thích thú, bà mở ra. Mới lướt qua tấm hình và đọc vài hàng của lá thư, bà thở hổn hển. Những thứ này ở đâu ở đâu ra? Đúng là nét chữ của ta, đây là lá thư ta gửi John cám ơn lời hỏi thăm sức khỏe khi ta bị té gẫy chân và cho biết tình trạng đã ổn định. Làm sao mi có được? Nói ngay, nói ngay! Còn tấm hình mờ nhưng ta biết đó là hình chụp ta và con chó Buddy.

Tôi cho bà biết chuyện thật đời tôi, tất cả những gì tôi nghe về bạn quá cố của tôi, lúc còn sống, lúc lâm nạn và tại sao tôi có được những thứ đó. Bà nhờ tôi kê gối đẩy lưng cao lên. Đọc kinh tạ ơn Chúa. Bà càng tin rằng John đã nhập vào tôi và mang thông điệp của tin mừng đến cho bà. Bà đã mệt lắm rồi. Linh tính những ngày giờ cuối cùng đã điểm, tôi ở lại bên cạnh bà.

 Thấy bà không ngủ, tôi hỏi có cần gọi y tá không? Bà không trả lời, cầm tay tôi đặt lên ngực phía trái tim, cặp mắt lạc thần, nhìn vào hư không, nói lẩm bẩm như người mộng du.

Baby John của mẹ, con có biết 12 năm nay không có ngày nào mẹ ngưng thương nhớ con? Mẹ nhớ từ tiếng con khóc lúc chào đời…, mẹ nhớ lúc con chập chững những bước đi…. Mẹ nhớ những ngày tuyết đổ mẹ dẫn con vào lớp học giao cho cô giáo vườn trẻ, con níu áo mẹ không rời, mẹ phải ở với con suốt buổi rồi đem con về…. Mẹ nhớ những đêm con ho cảm lạnh, mẹ thức trắng đêm ôm ru con ngủ…. Mẹ nhớ…Mẹ nhớ…. Mẹ khóc mừng ngày con tốt nghiệp đại học…. Mẹ tưởng con của mẹ sẽ mãi mãi êm ấm trong vòng tay mẹ. Nhưng con, con… đã đi và đi không trở lại. Lúc sinh thời, cha con nếu có lỗi với con thì cũng chỉ vì yêu con. Hai cha con bây giờ đã xum họp ở thế giới khác, đâu còn giận hờn. Mẹ cũng sắp sửa gặp cha con và con đây. Con ngoan nhé. Mẹ yêu của con. Tôi lặng yên quỳ xuống đầu giường để bà vuốt tóc. Ước gì thật sự là John để bà trút hết nỗi niềm chất chứa bấy lâu và để cho tình mẫu tử thăng hoa.

 Bà chợt tỉnh, nhận ra tôi nhưng vẫn tiếp tục xoa đầu. Ta thấy hình ảnh của John qua con, con cũng là con ta. Bà dí ngón trỏ lên trán tôi, mỉm cười, nụ cười nhân ái nhất nhận được trong đời, mắng yêu, “THẰNG TẦU CON CỦA MẸ”. Chúa ơi! Bà gọi tôi là con và xưng mẹ! Không biết ai xúc động nhiều hơn ai. Có lẽ không phải là bà mà là tôi. Tôi bỗng buột miệng vô thức…Mẹ, Mẹ… rồi á khẩu. Dòng nước mắt tôi chảy, giọt nước mắt bà lăn dài. Cả hai ôm nhau hoà tan trong nước mắt.

 Trưa hôm sau bà lệnh cho cô thư ký mời luật sư gia đình gặp bà thảo luận chuyện quan trọng. Ông đang có việc ở Âu châu nên chỉ nói chuyện qua điện thoại và hứa sẽ đổi vé, bay về trên chuyến gần nhất.

Bác sĩ được triệu đến khẩn cấp. Bà Steinberg yếu dần, bỏ ăn từ chiều hôm trước, môi khô. Nuốt khó khăn. Mũi thuốc morphine giảm đau liều cao chỉ giúp bà thiếp đi một chốc. Đắp thêm chăn, xoa bóp chân tay, vẫn còn lạnh. Bà đã bị ảo giác, mất định hướng thời gian và không gian. Liên tục thì thào gọi tên John. Tôi nắm bàn tay lạnh của bà vuốt nhẹ, khẽ gọi, mẹ ơi! mẹ ơi!.

Bà thở không bình thường nữa, hắt ra rồi bất động. Bác sĩ vạch mắt, rọi đèn pin soi đồng tử, nhìn đồng hồ lắc đầu. Xong một kiếp người!

 Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mọi người đã có mặt trong phòng. Hai người con gái đi cùng hai luật sư của họ, luật sư gia đình, giám đốc các công ty kinh doanh của gia đình, các đại diện và luật sư của các hội từ thiện, một vài họ hàng thân cận.

 Tất cả yêu cầu luật sư gia đình công bố di chúc. Họ tranh cãi khá lâu, không ồn ào nhưng rất gay gắt. Không đi đến kết quả nên đồng ý giải quyết sau tang lễ.

Nghe thoang thoáng có người đề cập đến tên mình nhưng tôi để ngoài tai vì nghĩ không có gì liên hệ.

Luật sư yêu cầu giải tán để nhân viên nhà quàn làm phận sự. Nhiều người trước khi bước ra khỏi cửa ném cho tôi cái nhìn khó chịu, có người đi ngang tôi với vẻ thù hận ra mặt. Tôi không hiểu tại sao. Không lẽ kỳ thị chủng tộc?

 Những gì xảy ra trong những ngày vừa qua khiến cho tôi chán ngán tình đời. Một quyết định xẹt trong đầu. Đi thật xa. Phải, sẽ đi thật xa để khỏi nhìn thấy những con diều hâu bạc tình bạc nghĩa đang rỉa xác một người đàn bà nhân hậu. Tôi bước vào phòng, đặt một nụ hôn trìu mến trên trán bà mẹ nuôi. Nói nhỏ, lạy mẹ, con đi.

 Tôi về nhà nhét vội vài bộ quần áo vào va li, bỏ lại tất cả đồ đạc, ra bến xe đò Greyhound mua vé đi thẳng Toronto. Cuộc đời lưu lạc bắt đầu từ đó.

 Ông luật sư đãi tôi ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố vắng. Chuyện xảy ra 32 năm trước được giải mật. Khi ông đang ở Paris, bà Steinberg điện thoại, muốn sửa di chúc. Ông chấp hành chỉ thị, thâu băng cuộc đối thoại, soạn thảo văn bản ngay trên chuyến bay khứ hồi. Không may, bà đã không kịp duyệt ký trước khi ra đi.

Các cuộc tranh cãi sau khi bà chết bùng nổ giữa các luật sư. Di chúc chính thức qui định rõ, gia tài được chia làm 3 phần đồng đều, cho 3 người con. Riêng phần của John Steinberg có ghi chú thêm. Vì đã được liệt kê trong danh sách quân nhân mất tích, nên nếu 5 năm sau khi bà mất, vẫn không nhận được tin tức mới, phần này sẽ được chia 50/50. 50% giành cho các cơ quan từ thiện đã chỉ định. 50% sẽ thuộc về 2 người con còn lại.

 Theo bản dự thảo di chúc mới, phần của John được sửa lại, sau 5 năm phần này sẽ được trao cho tôi thay vì chia 50/50 cho các cơ quan từ thiện và 2 người con gái.

 Ông luật sư yếu thế, không thuyết phục được mọi người chấp nhận lời di chúc phi văn bản. Nếu đưa ra toà án phân xử cũng không hy vọng thắng. Kiện cáo có thể kéo dài, sẽ rất tốn kém. Điều quan trọng nhất, người có quyền lợi là tôi thì biệt tích giang hồ, không tìm thấy địa chỉ liên lạc. Bản di chúc cũ được thi hành. “Định mệnh đã an bài”, không thể thay đổi.

Ông trao cho tôi cuốn băng. Giữ lại như một kỷ niệm, ghi nhận tình thương và lòng hào hiệp của bà mẹ nuôi đối với tôi.

– Là triệu phú hụt, cậu có tiếc không?

– Không, không bao giờ. Tôi vẫn nhớ chuyện tái ông thất mã. Trong cái rủi luôn luôn có cái may đền bù. Trong cái may luôn luôn ẩn nấp cái rủi. Nếu lúc đó là triệu phú, nhiều phần đã biến tôi hư hỏng. Tiền không do công sức của mình làm ra là tiền…lèo. Xài tiền lèo thì mình cũng trở thành lèo. Sẽ ỷ lại, không cầu tiến. Vì đã không là triệu phú nên tôi mới là tôi như bây giờ. Bằng lòng với hiện tại.

 Tôi có hai bà mẹ. Bà mẹ da vàng để lại vết tích đậm nét da vàng trên thân xác tôi. Bà mẹ da trắng để lại nhiều dấu ấn khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi yêu cả hai.

Nếu đến lễ Vu Lan hay Ngày Của Mẹ có ai hỏi tôi, bông hồng hay bông trắng cài áo? Tôi sẽ bảo, vui lòng cài cho tôi hai bông trắng.

-Xin cạn ly mừng cậu có hai bà mẹ trong đời. Chúc cậu đêm nay ngủ thật ngon, sẽ mơ hội ngộ BÀ MẸ TÂY…có con là “thằng Tầu con”. (Truyện ngắn của Nguyễn Cát Thịnh, Bà Mẹ Tây, 1/4/2014)

Nói, bằng truyện kể về nhân-sinh-quan/lập-trường sống của người này người khác, thì như thế. Nói như thế cũng có thể không hài-hoà với đề-tài mình bàn-luận. Nhưng, có nói bằng sách, mách bằng chứng rất lớp-lang, lai-lịch một bài dạy của Kinh Sách, phải nói thêm nhiều điều khác rất khó nói. Bởi, đó chỉ toàn những nói và nói, thôi.

Hôm nay, người viết thấy ít hứng-thú để nói, chỉ muốn về với giòng chảy thi-ca và âm nhạc, bèn hát một đoạn làm câu kết, như sau:

“Này người ơi! Ghé bến sang sông,”

Lên đường đi tới, bõ công em chèo thuyền.

Mừng người đi, tìm thấy Tình Duyên,

Con đường đất nước, nối liền lòng dân.”

(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, bây giờ mời bạn và mời tôi, ta cứ tiến bước hân hoan mà sống sao cho xứng hợp danh tánh của một “Kitô-khác” rất thân thương, bình thường, không sai lạc. Tiến bước rồi, hạ hồi sẽ tính.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng muốn tính

Những chuyện dân-gian bàn luận

Hay chuyện của chính mình

Cũng không xong.

CON CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?

CON CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi.  Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn.  Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy.  Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.

Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác.  Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).

Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)

Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)

Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)

Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).

Con co yeu men

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần.  Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy.  Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn.  Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối.  Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến.  Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca.  Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay.  Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria.  Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.

Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây.  Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.

Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không?  Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.  Chúa hỏi ba lần.  Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn.  Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu.  Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ.  Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy.  Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý.  Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn.  Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào.  Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy.  Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao.  Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.”  Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên.  Đó là vai trò mục tử của Phêrô.  Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy.  Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.  Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.” (1Pr 5:2-4).

Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt.  Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình.  Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác.  Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu.  Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông.  Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống.  Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt.  Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường.  Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt.  Chính đó là ân sủng.

Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.

Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt.  Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định?  Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa.  Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.”  Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.

Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó.  Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.

Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau?  Thích chở nhau đi chơi?  Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau?  Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại!  Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu!  Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ!  Phải không?  Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha!  Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế.  Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình.  Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ.  Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa.  Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân.  Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.

Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không?  Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

nguon: langthangchieutim

Cho tôi hát cùng em bài hát cũ,

 Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Ba Phục Sinh năm C 10/4/2016

 Tin Mừng (Ga 21: 1-19)

Bấy giờ, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông:”Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!“Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giê-su nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?” vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Si-môn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp:”Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu nói với ông:”Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi:“Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” Ông đáp:“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba:”Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần:”Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp:”Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu bảo:”Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông:“Hãy theo Thầy.”

 

“Cho tôi hát cùng em bài hát cũ”,

Bài ngợi ca Thiên Chúa ở trên trời.

Để tôi về cầu nguyện với Ngôi Hai

Cho ta sống một ngày như mấy kiếp.”

                                                       (Dân từ thơ Du Tử Lê)

Mai Tá lược dịch. 

Sống một ngày như mấy kiếp, là lời cầu của bà con người người, với Ngôi Hai. Và, ngày dài như mấy kiếp, lại cũng là hạnh-phúc mà thánh hội thời tiên-khởi, đã có được.

Phụng vụ hôm nay kể về hạnh phúc mà cộng đoàn Hội thánh đã và đang cảm nghiệm vào những ngày giờ, sau Phục Sinh. Hạnh phúc mà Hội thánh cảm nghiệm, là hạnh phúc có Thầy trở về.

Thầy trở về, Hội thánh tiên khởi nay sống thành cộng đoàn nhỏ, rất thân thương. Về với môn đệ, Thầy sống với công việc bình thường của đồ đệ, như khi trước. Sống có chài, có lưới, có nỗi gian lao phấn đấu, tự bao giờ.

Cuộc sống của Hội thánh sau Phục Sinh, nay thấy đồ đệ Thầy mỗi ngày một đông hơn. Đồ đệ Thầy, nay không còn hãi sợ bất cứ ai. Nhưng vững tin hơn, vì có Cha ở cùng. Cha là Bình an. Là, tình Thương yêu luôn đỡ đần.

Kể từ nay, Hội thánh chứng tỏ lòng chung thủy với Cha, và với Thầy như đã dặn. Lời Thầy dặn, nay thành hiện thực. Qua hy sinh, đùm bọc và ủi an. Đùm bọc và ủi an, trên bước đường rao truyền Tình yêu của Chúa với dân gian người đời. Đùm bọc và ủi an, dù phải trải qua những tháng ngày “dài như mấy kiếp”.

Ngày dài Hội thánh luôn có sự hiện diện, đỡ nâng của Thầy. Về với thuyền và với lưới, Hội thánh đại diện cho Chúa, không về để hiện diện, mà thôi. Nhưng, còn hoạt động trong Thầy với dân con của Thầy. Về với Hội thánh, là về với người thân vì Thầy không bỏ đàn con.

Như Phêrô thánh nhân, Hội thánh đã điều chỉnh cách thế ăn mặc, lối sống để tỏ lòng yêu thương chính Đấng mà mình tôn kính. Tỏ lòng yêu thương tôn kính Chúa, Hội thánh cũng san sẻ bẻ bánh với Thầy, với dân Chúa sau Phục Sinh. Hội thánh nay sẻ san yêu thương/tôn kính, qua tiệc thánh ngày cuối tuần, tiệc agapè tương kính.

Cùng bẻ bánh với Chúa Phục Sinh, Hội thánh nay chẳng còn hỏi: Ngài là ai? Vì, nay đã rõ: đó là Thầy. Là, Chúa Phục Sinh vinh hiển. Và, đồ đệ Chúa nay vững tin. Và, cũng biết rằng: từ nay Thầy sẽ xuất hiện nơi diện mạo, của người khác. Có lúc, là hình hài của bạn bè thân thương. Có khi, là người nghèo hèn, đói khổ. Có thể, là kẻ thù mà mình vẫn giữ trong tâm tưởng, trong cuộc sống.

Về với Hội thánh, Thầy không chỉ có mặt vào khoảnh khắc sôi nổi, nhiệt náo vào ngày hội lễ. Mà, Thầy còn hiện diện chốn biển khơi, nơi bờ hồ hoặc bãi biển. Thầy hiện diện, là ở với đồ đệ thân thương trên đường Emmaus và cuộc đời.

Thầy hiện diện nơi phòng chật hẹp, cửa kín then cài vì âu lo. Biết có Thầy ở cùng và ở với, đàn con Hội thánh sẽ ngợi ca Thiên Chúa, như thánh Gioan bày tỏ trong sách Khải Huyền: “Tất cả đều tung hô: xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Chiên Con lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 5: 13-14)

            Cùng ngợi ca với đàn con thân thương, Hội thánh không chỉ vui mừng vì đã thấy rõ Thầy đã trở về. Nhưng, nay còn chứng tỏ cho người người đều rõ cho cả người trong cuộc, cùng kẻ ở ngoài rằng: từ nay, mình sẽ là Kytô khác. Và, Kytô khác, tức đồ đệ Chúa là: những người nói được như thánh Phêrô, sau lần chối Chúa:“Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21: 16)

Khi nói lời yêu mến, mọi xa cách/chối bỏ, được hóa giải, hàn gắn và thứ tha. Và, đây là lúc Hội thánh gánh vác sứ vụ chăm sóc đàn chiên trong cùng ràn: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy!” (Ga 21: 17).

Chăm sóc chiên, là trách vụ lớn lao không chỉ là nguyện cầu trong hân hoan, hạnh phúc như Thầy để lại. Mà cả trong thực thi trách vụ. Tức, chăn dắt chiên con cho đúng hướng. Chiên con, là những người vẫn ở lại với nhà Đạo hay còn ở ngoài. Chiên con, là những người biết phấn đấu ngợi ca. Thầy trở về, ở với chiên, là thông điệp hân hoan, hạnh phúc.

Tham dự Tiệc hôm nay, ta hiệp lòng cảm tạ ân huệ Cha ban cho mỗi người, mùa Phục sinh. Tràn đầy sức sống. Cảm tạ, vì nay ta được giải thoát khỏi mọi xích xiềng trói buộc của thân xác, rất yếu mềm.

Cảm tạ, vì nhờ có Phục Sinh, ta được giải thoát khỏi mọi hãi sợ như đồ đệ thời trước. Cảm tạ, vì được dẫn dắt theo đường lối, rất Phục sinh. Cảm tạ, để sống cuộc đời có tình thương yêu, đỡ đần, hy sinh và có cứu độ. Một ân huệ, mà lẽ đáng ra, ta không đáng được nhận. Nếu Thầy không yêu thương và cứu rỗi. Cảm tạ, vì Thầy đã ủy thác sứ mệnh rao truyền tình thương yêu Phục sinh với mọi người.

Trong bầu khí hăng say đầy cảm-tạ, ta sẽ cùng với mọi người, nghệ-sĩ cũng như dân con nhà Đạo hân-hoan hát mừng bài ca yêu-thương thuở trước, rằng:

“Đừng sợ bạn ơi, hãy đứng thẳng lên!

Cuộc đời đang giang tay đón ta,

Bằng yêu thươngta đi xoá tan mọi căm hờn.”

(Lê Hựu Hà – Bài hát cho người tuổi trẻ)

 Đúng thế. Đức Chúa Phục Sinh nay đã xoá tan đi mọi hãi sợ, và hờn căm. Và, cuộc đời nay đang giang tay chờ đón những bước chân nhân hiền, để mọi người làm ngay một việc, là: yêu thương ra đi xoá tan màn đêm của hờn căm, với hãi sợ. Và, cũng để em “hát bài hát cũ” ngợi ca Thiên-Chúa ở trên trời, và nguyện cầu Ngôi Hai cho tất cả mọi người cứ thế mà hát. Cứ thế mà yêu thương loan truyền tình thương-yêu cứu-độ, của Đức Chúa, cho mỗi người và mọi người.

Lm Richard Leonard, sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

RƯỚC LỄ VỚI NGƯỜI NGOẠI ĐẠO VÀ NGƯỜI LY DỊ

RƯỚC LỄ VỚI NGƯỜI NGOẠI ĐẠO VÀ NGƯỜI LY DỊ

Hỏi : xin cha giải đáp 2 thắc mắc sau đây;

  1. Đức Thánh Cha Phanxicô đã rửa chân cho hết mọi người, kể cả phụ  nữ và người ngoại Đao, như vậy những người không phải là Công Giáo có được rước Lễ khi họ tham dự Thánh Lễ hay không ?
  2. Những người li dị từ nay được rước lễ phải không ?

Trả lời:

  1. Việc rửa chân và rước Mình Thánh Chúa là hai việc hoàn toàn khác nhau.  Rửa chân chỉ là nghi thức nhắc lại việc Chúa Giêsu xưa đã rửa chân cho 12 Tông Đồ trong Bữa ăn sau cùng với họ, trước khi Chúa nộp mình cho những kẻ đến bắt bớ và hành hình Chúa ngày hôm sau. Đây không phải là việc cử hành một bí tích nào của Giáo hội đòi buộc tín hữu phải tham dự để được lãnh ơn cứu độ của Chúa.

Nghĩa là không có luật nào buộc phải tham dự nghi thức rửa chân cử hành trong khuôn khổ Lễ kỷ niệm Chúa lập Phép Thánh Thể và Chức linh muc ngày Thứ năm tuần thánh. Tuy nhiên, nghi thức rửa chân cũng không buộc phải làm vào ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phụng vu trong Tuần Thánh chỉ buộc phải cử hành Lễ Chúa lập Phép Thánh Thể và Chức linh mục cùng làm phép Dầu Thánh (Chrism) trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh mà thôi, Nhưng ở Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, vì nhu cầu mục vụ,  Lễ này được làm ngày Thứ ba Tuần Thánh, thay vì Thứ Năm và không có nghi thức rửa chân. Việc này được tùy nghi làm ở các giáo xứ.

Việc Đức Thánh Cha Phanxicô cho rửa chân cả phụ nữ và tội phạm (năm qua tại một nhà tù ở Ý) là sáng kiến riêng của ngài. Ngài có lý do để làm như vậy, chúng ta không dám có ý kiến. Nhưng ngài cũng không buộc Giáo Hội phải làm theo gương của ngài. Nơi nào muốn làm thì tùy ý.

Nhưng không thể suy luận là Đức Thánh Cha rửa chân cho mọi người, không phân biệt nam nữ và tôn giáo, để từ đây cho phép hết mọi người được rước Mình Thánh Chúa, không phân biệt họ có Đạo và đang sạch tội trọng hay không.

Việc rước Mình Thánh Chúa trong Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) là việc-tự bản chất- hoàn toàn khác biệt với việc rửa chân nói trên.

Rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô là một việc đạo đức đòi hỏi phải có đức tin và sạch tội trọng. Phải có đức tin để tin rằng Chúa Kitô thực sự hiện diện trong hai chất thể là bánh và rượu nho. Có tin như vậy thì việc rước Mình , Máu Thánh Chúa mới sinh ích thiêng liêng cho người lãnh nhận. Không tin thì không có ích lợi gì cho dù là người công giáo hay người ngoại.

Phải có đức tin cũng có nghĩa là người muốn lãnh nhận phải là tín hữu Công giáo đang hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội. Như thế, các Kitô hữu thuộc các giáo phái bên ngoài Giáo hội Công Giáo như các nhánh Tin Lành và Anh giáo ( Englican) kể cả tín đồ của các tôn giáo khác như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Không Giáo, Hồi giáo… thì không được mời rước Mình, Máu Thánh Chúa Kitô, nếu họ vì xã giao đến tham dự Lễ với các tín hữu Công Giáo. Lý do là họ không cùng chia sẻ một niềm tin với Giáo Hội về Phép Thánh Thể nói chung và, cách riêng,  về việc Chúa Kitô thực sự hiện diện trong hai chất thể bánh và rượu nho như Giáo Hội tin không sai lầm.

Đây không phải là sự kỳ thị nào đối với các tín hữu bên ngoài Giáo Hội, mà là vì kỷ luật bí tích của Giáo hội đòi buộc người tín hữu phải cùng chung niềm tin với Giáo Hội về Phép Thánh Thể, tức là tin có sự biến đổi bản thể (substance) của chất thể hay tùy thể (accident) là bánh và rượu nho thành bản thể Chúa Kitô. Các anh em Tin Lành và tín hữu các tôn giáo khác đều không chia sẻ niềm tin này, nên họ không thể được mời lãnh nhận MÌnh Máu Chúa Kitô – nếu họ đến tham dự Thánh Lễ với người Công Giáo hay Chính Thống Giáo Đông Phương. ( Eastern Orthodox Churches)

Mặt khác, muốn lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô cách xứng hợp, thì ngoài yếu tố phải là ngươì Công Giáo ra, còn yếu tố quan trọng nữa là phải đang  sống trong tình trạng ơn phúc, tức là đang không có tội trọng (mortal sin), vì theo giáo lý và giáo luật thì:  “ ai đang có tội trọng thì không được làm lễ (linh mục) và rước Lễ (giáo dân). “ ( x.SGLGHCG số, 1415; giáo luật số 916).

Như vậy, không thể trao Mình Thánh Chúa cho hết mọi người, không phân biệt tôn giáo và tình trạng tâm hồn được, vì bất cứ lý do nào.

Rửa chân cho người ngoài Công Giáo thì không vi phạm giáo lý hay tín lý nào của Giáo Hội, vì đó là hành động chủ yếu mang tính chất bác ái, và phục  vụ;  giống như bố thí cho người nghèo, thăm viếng người bệnh, thăm tù nhân thì không cần phân biệt tôn giáo, nam nữ hay đẳng cấp xã hội. Ngược lại rước Mình Máu Chúa Kitô thì phải là người Công Giáo đang sống trong tình trạng ơn phúc, nghĩa là không có tội trọng trong linh hồn như nói ở trên. Hai việc này hoàn toàn khác nhau về bản chất, nên không thể loại suy việc này để làm việc kia được.

  1. Về câu hỏi thứ hai, cần phân biệt hai trường hợp đươc hay không được rước lễ của người ly dị như sau:
  2. Nếu sau khi li dị ngoài tòa dân sự, mà  không sống chung với người khác như vợ chồng thì không có gì ngăn trở  họ đi xưng tội và rước Lễ.
  3. Ngược lại, nếu sau khi li di ngoài tòa dân sự và trong khi chờ phán quyết xin tiêu hôn (annulment) nơi  Tòa hôn phối (Tribunal) của Giáo Phận , mà lại chung sống với người khác như vợ chồng, thì tạm thời không được phép xưng tội và rước lễ, vì lý do sau đây:

Bao lâu hôn phối cũ chưa được tháo gỡ theo giáo luật, thì bấy lâu vợ chồng vẫn còn bị ràng buộc với hôn phối mà hai người đã thành hôn trong Giáo Hội. Nghĩa là việc li dị ngoài tòa án dân sự không có giá trị tiêu hôn cho  hai người đã giao kết thành hôn ở nhà thờ. Do đó, bao lâu việc xin tiêu hôn (annulment) nơi tòa hôn phối của Giáo phận chưa được giải quyết thỏa đáng, thì bấy lâu hai vợ chồng vẫn bị ràng buộc với hôn phối cũ, dù hai người đã li dị ngoài tòa dân sự.

Do đó,  trong khi chờ đợi phán quyết của tòa hôn phối Giáo phận, mà tự ý sống chung với người khác như vợ chồng thì tạm thời không được xưng tội và rước Lễ. Sở dĩ thế, vì khi tự ý sống chung với người khác kể cả việc tái kết hôn với người khác ở ngoài tòa dân sự sau khi li dị, thì bị coi là phạm tội ngoại tình (adultery) vì hôn phối cũ chưa được tháo gỡ nơi Tòa hôn phối giáo phận.  Và đây mới là trở ngại cho việc xưng tội và rước lễ của người li dị. Phạm tội ngoại tình là tội trọng nên không được rước lễ theo giáo lý và giáo luật của Giáo Hội (x. giáo luật số 916, SGLGHCG số  1415).

Nói tóm lại, những người đã li dị ngoài tòa dân sự hay bỏ nhau để đi lấy người khác trong khi hôn phối cũ chưa được tiêu hôn (annulled), thì tạm thời không được xưng tội và rước lễ.

Gần đây, có dự luận cho là Giáo Hội muốn đón mời (welcome) những người li dị vào hiệp thông với Giáo Hội. Nghĩa là cho họ rước lễ như mọi người khác. Điều này không đúng, vì cho đến nay Tòa Thánh chưa hề nói gì về việc này, mà chỉ có chỉ thị mới cho các Tòa án hôn phối các giáo phận phải đơn giản hóa thủ tục xin tiêu hôn, để rút ngắn thời gian cứu xét tiêu hôn và có thể miễn hay giảm lệ phí cho các người xin tháo hôn phối. Ở Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, thì lệ phí này đã được giảm từ 500 dollars xuống còn 100 dollars kể từ nay.

Sau hết, nếu hôn phối cũ chưa được thẩm quyền giáo phận cho tiêu hôn, thì tính bất khả phân ly (indissolubility) và thành sự (validity) của hôn phối cũ còn tồn tại và đang được cứu xét. Nên tự ý sống chung với người khác như vợ chồng,  thì đã vi phạm tính bất khả phân này, và đó là tội ngoại tình như đã nói ở trên. Phạm  tội này,  thì không thể xưng tội để xin tha được. Muốn tha thì phải từ bỏ việc sống chung bất hợp pháp nói trên, bao lâu hôn phối cũ chưa được tháo gỡ bởi thẩm quyền giáo phận.

Ước mong  những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

A! Này bé, con dế nó đậu cành tre,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm C 10/4/2016

 “A! Này bé, con dế nó đậu cành tre,”

Em bắt đem về, hát xẩm mà nghe.

Đừng bắt đem về, đánh lộn làm chi.

Loài giun dế nó mang tội tình gì???”

(Phạm Duy – Bé Bắt Dế)

(Mt 28:18-19)           

            Trần Ngọc Mười Hai

Úi chu choa! Cái gì mà, “loài giun dế nó mang tội tình gì?” Thế còn loài người? Có tội có tình gì không thế?

Để trả lời câu hỏi, như em bé. Hãy cứ nghe câu hát tiếp, hạ hồi sẽ rõ:

A! Này bé, con dế nó nằm lỗ sâu,

            Đào lỗ đem vào cho ở hộp cao.

            Đừng bắt dế nghèo đánh bể đầu nhau,

Để nó phải buồn rầu.

 A! Này bé, con dế nó tội tình chi?

A! Này bé, con dế nó tội tình gì???

 A! Này bé, con dế nó ở đồng quê

Chinh chiến lan về, nó phải tản-cư.

Nó sống trên vỉa hè quanh-quẩn ngoại ô,

Làm thân sống nương ở nhờ!!!

 

A! Này bé, con dế nó cùng chị ve,

Trong mấy tháng hè nó chỉ hoà ca.

Mưa nắng thuận-hoà cho đẹp ruộng ta.

Con dế hát đẹp ngày mùa…

 A! Này bé, con dế nó ở miền quê!

A! Này bé, con dế nó ra kinh-đô…”

(Phạm Duy – bđd)

Chưa đâu, thân phận con dế bé nhỏ, còn bọt bèo hơn nữa, khi ta biết được rằng:

“A! Này bé, con dế nó ở nhà em,

Nên nó cũng thèm coi truyền-hình đêm.

Nó thấy phi-thuyền lên tận mặt trăng

Mà không thấy đâu chị Hằng!!!

 A! Này bé, con dế cúi đầu phục lăn.

Nó hát khen rằng: Con Người Giỏi Dang!

Nhưng vẫn chê rằng: thiếu hẳn tình thương

Lòng vẫn chứa đầy bạo cường…

 A! Này bé, Này bé! Mau thuộc bài đi,

A! Này bé! Cho dế nó coi Tivi!!!

(Phạm Duy – bđd)

Ấy! Ví thử ta thay thế cụm từ “em bé” và “con dế” bằng những chữ rất khác như: “linh mục”, Hội thánh”, hay sao đó, hẳn sẽ có người sẽ thêm vào đó cả triệu câu truyện kể rất dễ nể như sau này:

“Truyện rằng:

Hồi ấy, vào thời nước Nga còn thuộc khối Liên-Xô có đảng Cộng-sản do ông Stalin nắm trọn quyền-hành. Một hôm, ông Stalin quyết định ra đi thăm dân để biết sự tình về cuộc sống của tầng-lớp lao-động rày ra sao. Nên, ông ăn vận thật bình-thường như người dân ở huyện rồi ra khỏi điển Cẩm-Linh. Sau một ngày dài, ông trờ tới rạp chiếu bóng để xem dân chúng vui sống ra sao.

 Sau khi bộ phim kết-thúc, trên màn ảnh hiện ra hình-ảnh lãnh-tụ Stalin giơ tay vẫy chào từ biệt bà con lao-động và quốc ca Liên-xô trổi lên. Tất cả mọi người đều đứng dậy và hát theo, riêng chỉ có mỗi ông Stalin là không đứng.

 Khi ấy, có người đàn ông đứng ở phía sau hàng ghế của ông ghé vào tai ông Stalin rồi nói: “Đồng chí à, tôi cũng biết rằng: chúng ta đều nghĩ giống như nhau, nhưng để cho an-toàn hơn, tôi đề-nghị đồng chí cứ đứng lên là xong ngay! Và nghe thế, ông Stalin lưỡng-lự trong giây lát, rồi cũng đứng, chắc để… mình tiễn-biệt mình!” (Truyện kể về “Tiếu-Lâm Liên-xô” nhưng chắc gì đã đúng thật)

             Ấy chết, đừng vội nhận-định, bàn-luận hoặc nói năng sớm như thế mà làm gì. Hãy cứ nghe câu hát tiếp cũng rất hay như sau này:

“A! Này bé, theo dế ra tận bờ đê

Đất sét đem về ta nặn đồ chơi.

Nặn những tay người hay nặn bàn chân

Tặng cho những ai tàn tật.

 A! Này bé, theo dế ra trại định-cư

Coi những ông già phá rừng trồng hoa

Chia sớt ngọt bùi với trẻ mồ côi

Đời mới chúc người phục hồi…

 A! Này bé, Con dế xin vài hòn bi!

A! Này bé, Đem biếu những em xa quê!…

            (Phạm Duy – bđd)

Và những câu cuối của bài hát, còn đáng để bạn và tôi suy-nghĩ, bàn luận hoặc ít là cứ phiếm, rất như sau:

A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi

            Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…

            Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!

            Và, ca hát câu giải hoà.

 A! Này bé, có lẽ dế về miền sông,

Có lẽ lên rừng hát cùng loài công.

Hay xuống cát vàng hát cùng hàng thông,

Ở giữa cõi đời mịt mùng…

 A! Này bé, con dế đến mùa phải đi…

A! Này bé, rồi sẽ có ngày trở về…

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Đúng thế. Dế hay bé, rồi cũng có ngày phải đi. Vì khôn lớn, hơn loài thường. Vâng. Chính thế. Bạn đạo hay người đời, có ngày cũng vẫn ra đi. Đi mà tìm về nguồn để học hỏi những lời vàng rằng:

“Đức Giê-su đến gần, nói với các tông-đồ rằng:

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.

Vậy anh em hãy đi

và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ

nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”

            (Mt 28: 18-19)

Vâng. Lời vàng đầy ý-nghĩa như thế. Nhưng, xem ra thực-tế vẫn như thể: nhiều người còn thắc mắc chuyện này nọ, hoặc chưa am-tường ý-nghĩa của lệnh-truyền ấy có dành cho mình hay không, hoặc chỉ cho mỗi các tông-đồ thời đó, nhấc chân đi theo Đức Giêsu mà thôi.

Ngày nay, ở ngoài đời hay trong Đạo, cũng có những sự-kiện/hiện đáng để bạn và tôi, ta quan-tâm bàn luận, cũng rất nhiều.

Một trong các chuyện đáng bàn và đáng phiếm vẫn là chuyện Đạo ở đời, trong đó có ý-kiến về chuyện: ta có nên cùng với bạn-đạo Chính thống hoặc Cốp-tích Ai Cập định-vị lại ngày tháng cho lễ Phục Sinh hay không, như sau:

“Tổng Giám Mục Justin Welby của Canterbury, Anh Giáo hôm 16/1/2016 có loan-báo: Giáo-hội Anh sẽ tham-gia cuộc bàn luận diễn-tiến giữa Đức Phanxicô và lãnh-đạo Giáo hội Cốp-tích để định ngày tháng thống-nhất tổ-chức Lễ Phục Sinh cho hai Đạo…

 Ông nói: ông muốn được thấy thời-điểm tổ-chức Ngày Lễ này sao cho đơn-giản, đồng-thuận có lợi cho mọi người kể cả trường-học, bậc cha-mẹ đưa đón con em, các doanh-thương cũng như kỹ-nghệ du-lịch thay vì mỗi năm cứ phải xê-dịch ngày thánh, có năm có khi cách nhau đến 35 ngày. Riêng Giáo-hội Chính-thống Đông-phương lại tính toán ngày tháng cho lễ Phục Sinh cũng khác hẳn khi chức-sắc trong Đạo lại dùng lịch cũ của Julian.       

 TGm Welby còn xác-nhận là: các nhà lãnh-đạo Anh-giáo trên thế-giới cũng đã họp bàn và đồng-thuận tham-gia bàn-luận với các Giáo-hội khác, để định ngày thống-nhất. Nhưng ông cũng nói tiếp: thay-đổi thời-gian cho Lễ này cũng phải mất 5 đến 10 năm mới đưa vào hiện-thực được.

 Riêng Đức Phanxicô năm ngoái có thông-báo: ngài cũng muốn bàn-thảo với các nhà lãnh-đạo Giáo-hội Cốp-tích mà số đông tín-hữu của giáo-hội này sống ở Châu Phi và Trung Đông, để tìm ra ngày tháng thống-nhất cho sự-kiện này.” (x. tin trên Courier Mail của Queensland , Chúa Nhật 17/1/2016 tr. 11)   

 Ít hôm sau đó, Tuần báo Công-giáo ở Sydney là tờ The Catholic Weekly cũng loan tin giống như trên, nhưng lại kết thúc bài viết bằng giòng nhận-định bảo rằng:

“Phát-ngôn-viên Giáo-hội Chính-thống thuộc Nga có nói rằng: Thượng-Phụ Mạc-Tư-Khoa hân hoan nghênh-đón ý-kiến về việc cùng nhau cử-hành chung một ngày Lễ, bao lâu quyết-định này phù-hợp với lịch của Chính-thống-giáo.

 Theo linh-mục quản-hạt Nikolai Balashov phó giám-đốc thường-vụ Đại-kết thuộc Toà Thượng-phụ Mạc-Tư-Khoa nói ông đang chờ được nghe chi-tiết đề-nghị từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi nói rằng:

“Giả như Giáo Hội La Mã có ý-định hủy bỏ ngày lễ Phục Sinh tính theo lịch Grêgôriên được đưa ra vào phụng-vụ giờ lễ kể từ thế kỷ thứ 16 về với lịch cũ, sử dụng lúc Giáo-hội Đông và Tây Phương hợp-nhất dùng ngày tháng cố-định do Giáo-hội Chính-thống thiết-lập, thì chúng tôi hoan-nghênh ý của ngài. Thế nhưng, nếu thiết-lập một ngày nhất-định cho Phục Sinh là việc không thể chấp-nhận hoàn-toàn được.” (xem Catholic Weekly News ngày 24/1/2016 tr. 10)

             Xem thế mới biết: muốn định việc gì cho thống-nhất mà không chịu nhượng-bộ từ phía mình, dù là Giáo-phái hoặc Giáo-Hội đã thánh-hoá cách nào đi nữa, cũng là việc khá khó. Khó, thực-hiện. Khó, tạo niềm tin-tưởng vào nhau, rất thân-thương, nhịn nhường là chuyện rất đời thường.

Từ ý-tưởng ấy, đã nảy sinh nhiều ý-kiến có liên-quan đến chuyện đời/việc Đạo ở đâu đó, dù là xó-xỉnh, góc chợ hay bục cao chót vót của thánh hội.

Nói thế rồi, nay ta đi vào sự-kiện khác cũng đáng phiếm, như chuyện khác-biệt chánh-kiến cả về thần-học, lẫn thánh kinh giữa các giáo-phái/giáo-hội cùng thờ một Đức Chúa, ở nhiều nơi. Như, vấn-đề hoặc câu chuyện do đấng bậc nọ đề ra ở trong sách. Thế nhưng, trước khi đi vào thực-tế của chuyện đạo, mời bạn và tôi, ta trở lại câu hát cũng rất “dế” ở trên, mà hát rằng:

“A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi

            Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…

            Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!

            Và, ca hát câu giải hoà.

 A! Này bé, có lẽ dế về miền sông,

Có lẽ lên rừng hát cùng loài công.

Hay xuống cát vang hát cùng hàng thông,

Ở giữa cõi đời mịt mùng..

 A! Này bé, con dế đến mùa phải đi…

A! Này bé, rồi sẽ có ngày trở về…

(Phạm Duy – bđd)

Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha! Và, ca hát câu giải hoà”, làm sao được như thế, khi mà nhiều đấng bậc và nhiều người không chịu lắng tai nghe đấng bậc khác, người khác có nhận-định khá sâu-sắc như sau:

“Tính-cách bộ-tộc của Thượng-đế ở đạo-đức Do-thái-giáo đang lớn mạnh. Thuyết duy-vũ-trụ đang ló rạng. Thượng-đế đây khi xưa vẫn là còn như thế cho đến khi Đức Giêsu biến-đổi thành Đức Chúa trước tiên đi vào hiện-hữu và rồi thành Đấng Thánh-hoá cho đi sự sống có thẩm-thấu bộc-lộ cho mọi người thấy được thực-chất của mọi hữu-thể.

 Đức Giêsu sai-phái tông-đồ Ngài ra đi mà đến với thế-gian (Mt 28: 16-20). Các tông-đồ được lệnh vượt lằn ranh biên-giới của nước mình, bộ-tộc mình và đặc-biệt hơn, vượt khỏi đạo-giáo của mình nữa.

 Khi các ngài, cuối cùng, không thể nào thoát khỏi mọi lằn ranh nằm bên trong nhân-loại nay trải rộng và cởi mở, các ngài được lệnh rao-giảng Tin Mừng, tức là: tình thương-yêu vô bờ bến của Thiên-Chúa với mọi người mà Chúa đã thực-hiện, một tình-thương vốn không chấp-nhận một lằn ranh cách biệt nào hết.

 Tình-thương không ranh giới sẽ yêu thương cả những người khi xưa tìm cách đóng đinh Tình-Yêu của Chúa vào thập-giá. Nó bao gồm mọi loài, mọi cây cỏ, mọi hành-tinh, mọi bộ-tộc mọi người.

 Tất cả đều được Chúa chọn. Không một ai là người ngoại-cuộc, ngoài hành-tinh. Không ai bị chia-cách khỏi Chúa. Ta sống trong Chúa. Chúa sống trong ta. Ta là nhân-chứng ở Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và “cho đến mút cùng của trái đất” (Cv 1: 8). Tên của Đức Giêsu nay đã là Emmanuel, có nghĩa: Thiên-Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1: 23).

 Và, khi Ngài phán: “Này, ta sẽ ở với các anh mãi.” (Mt 28: 20) tức là Ngài đã nói lên danh-xưng Emmanuel là tính-cách rất thực. Và, khi Thiên-Chúa tự-do như Thần-khí, mọi lằn ranh cách-biệt giữa quốc-gia và thể-chế, biểu-trưng bằng các ngôn-ngữ khác-biệt, thì lằn ranh ấy bị tẩy/bỏ và mọi người được ơn Thánh-thần và bắt đầu nói thứ ngôn-ngữ của tình thương-yêu (Cv 2: 1-4). Và, thần-khí ấy thông-chuyển ngang qua lịch-sử, thì lằn ranh biên-giới lại ngã đổ.

Rồi, khi Phêrô nghe tiếng Chúa trong giấc mộng bảo rằng: “Những gì Thiên-Chúa đã tẩy sạch thì ngươi không được gọi là ô-uế” (Cv 10: 9-16) Phêrô mới trổi dậy từ thị-kiến ấy và đã tẩy/rửa cho Cornêlius, người ngoài Đạo. Sử-thi của Do-thái-giáo đã phá đổ mọi rào-cản rồi đi vào với vũ-trụ trở thành anh-hùng-ca của nhân-loại.” (x. Tgm John Shelby Spong, Jesus beyond religion, the sign of Kingdom of God, The Sins of Scripture nxb HarperCollinsPublishes 2005 tr. 295-298)

Thi-sử hay anh-hùng-ca của nhân-loại nay dàn-trải khắp mọi nơi. Trong mọi người. Thiên-sử ấy gọi là tình thương-yêu. Là Đạo-lý của đạo-giáo rất Kitô. Là, gì nữa thì bạn và tôi, ta cũng nên suy-tư mà nhận–định như thế.

Suy-tư/nhận-định không theo kiểu nghe qua rồi bỏ. Nhưng là nhận-chân ra sự thật ở đời dù nhiều khác-biệt, vẫn cứ là ảnh-hình của một sự thật tình-yêu được người diễn-tả qua văn-chương/nghệ-thuật cùng âm-nhạc, cùng mọi thứ.

Trong cảm-nhận sự khác-biệt trong yêu-thương đoàn-kết cũng rất Đạo, mời bạn mời tôi, ta vào với lối diễn-tả nhè nhẹ ở truyện kể như sau:

“Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé đáng thương.

Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi với tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?

Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? Và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

– Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…

Tôi hỏi tiếp:

– Còn con có đi học không ?

Thằng bé nói:

– Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…

Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân nhau lắm.

Có lần thằng bé hỏi tôi:

– Chú làm nghề gì vậy hả chú?

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.

Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày.

Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi.

Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang giấu giếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài.

Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.

Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi.

Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm, một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ – cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa.

Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm.

Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa.

Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết!

Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.

Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó.

Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nổi.

Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”.

Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…

Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney.

Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. (Truyện kể do Sưu Tầm siêu tầm)

             Đó chỉ là một trong muôn ngàn câu truyện đời nói điều gì đó, mà thiên hạ đời thường vẫn cứ nói và cứ kể. Kể đây, có thể để nói lên lòng bác ái/yêu thương của cá-nhân hoặc tổ-chức giúp người kém may mắn.

Về các trích-dẫn ở trên về các Đạo để tìm ra một ngày lễ chung cho Phục Sinh, là vấn đề kết-hợp/đại-kết, còn là và vẫn là kết và hợp với tất cả mọi người, không phân-biệt tôn-giáo, già/trẻ, gái/trai, tức: hết mọi người. Tất tần tật.

Kết và hợp trong đại-kết hoặc nối-kết với người khác, đạo khác, tổ-chức khác vv.. còn là và sẽ là kết và hợp hoặc kết rồi hợp trong tinh-thần nhín nhường, dành ưu-tiên cho người khác, ở trên và ở trước mình. Ưu-tiên cả trong quyền-hành, tiền bạc và/hoặc chổ đứng lẫn vị-thế ở đâu đó.

Kết và hợp còn là và sẽ là sống cuộc đời rất Đạo ở nhà đạo hay ngoài đời. Sống như thế, còn có nghĩa đem Đạo vào đời người trong khiêm-tốn, cởi mở rất hết mình.

Trong tình-thần đó, mời bạn và tôi, ta lại sẽ hát mãi bài hát có con dế mèn và em bé đơn sơ, hiền hoà, chân-chất, rất như sau:

“A! Này bé, theo dế ra tận bờ đê

Đất sét đem về ta nặn đồ chơi.

Nặn những tay người hay nặn bàn chân

Tặng cho những ai tàn tật

A! Này bé, theo dế ra trại định-cư.

Coi những ông già phá rừng trồng hoa

Chia sớt ngọt bùi với trẻ mồ côi

Đời mới chúc người phục hồi…

A! Này bé, Con dế xin vài hòn bi!

A! Này bé, Đem biếu những em xa quê!…

            (Phạm Duy – bđd)

             Hát thế rồi, nay ta cứ thế mà sống tinh-thần thân-thương, chân-chất của các bé em hiền-lành ở đời.

                        Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn muốn sống

Như bé em

Chỉ chơi dế.

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Tư Phục Sinh năm C

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Tư Phục Sinh năm C 17/4/2016

 Tin Mừng (Ga 10: 27-30)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các người Do thái rằng:

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không AI cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không AI cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.

Mai Tá lược dịch. 

 Thông điệp Chúa Chiên Lành hôm nay, có gốc gác rất xưa cổ, thời Cựu Ước. Đặc biệt là sách Êzêkiel, trong đó sáng ngời hình ảnh vị Chúa Chên có “tình cho đi mà chẳng có về”. “Tình cho đi” của Chúa Chiên hôm nay, là sự đỡ nâng đùm bọc, đầy lòng thương xót. Lòng xót thương hai chiều giữa chiên đàn mà Ngài chăn dắt và Vị Chủ Chăn, rất Nhân Hiền. Ở chiên, luôn có sự tự nguyện dấn bước theo chân vị chủ chăn với lòng trọn vẹn tin tưởng. Ở chủ chăn, đó là “lòng kêu gọi mãi”, dù chẳng AI nghe.

Về chăn chiên, các chủ chăn ở Palestine – Trung Đông có thói quen chăn dắt chiên đàn nơi đồng cỏ xanh tươi, bằng đôi chân bước. Chủ chăn chẳng cần đến đàn chó hoặc ngựa cỡi, để lùa chiên như ở Tô Cách Lan, hay nước Úc. Chủ chăn Do Thái, luôn ở phía trước dẫn đường cho chiên con. Và cứ thế, chiên con nghe tiếng chủ kêu gọi mà bước theo sau, rất tin tưởng. Chiên là thú đàn rất hay lo. Dễ hốt hoảng, cách vô lý. Chiên âu lo, nhớn nhác chạy hỗn độn chẳng nguyên cớ. Bất kỳ chuyện tình cờ nào xảy đến, chiên đàn cũng hốt hoảng, chạy tứ tán. Tìm chủ chăn. Và, khi tìm được chủ chăn, thì chiên con cứ răm rắp bước theo đàn, về cùng hướng. Với chiên, chỉ cần nhận Ra lời kêu gọi của chủ chăn, là đã đủ.

Là thú bầy nhút nhát, hay lăng xăng tò mò. Dễ tổn thương. Âu lo. Nên, chiên đàn luôn hãi sợ. Không khôn ngoan cũng chẳng sáng ý như thú loài, nào khác. Chiên quen nghe tiếng chủ, nên khi nghe chủ gọi, chiên không chần chừ, biết tụ tập ngay thành nhóm, thành đàn, tuân lệnh chủ. Không chậm trễ. Chủ biết tính chiên. Chiên biết tính chủ.

Dựa vào đức tính này, thánh Gioan so sánh tâm lý của vị chủ chăn với chiên bầy dễ bảo. Và, thánh sử ví Đức Kitô như Chúa Chiên Nhân Hiền luôn chăm sóc chiên con, nơi đàn bầy. Đây là biểu tượng mà Hội thánh sử dụng để nói về Ơn Gọi trong nhà Đạo: hãy có quyết tâm tham gia trở thành chủ chăn dẫn dắt đàn chiên ngoan đạo.

Lời mời gọi của Hội thánh hôm nay cũng trở nên cấp thiết, khi dữ liệu cho thấy có sự thiếu cân bằng về số lượng và vai trò của các chủ chăn, trong cộng đồng Giáo hội. Chí ít, là Giáo hội ở phương Tây. Ở nhiều nơi, Giáo hội đang bắt đầu dung nạp các ứng viên cho vai trò của chủ chăn từ các nuớc mà trước đây là cánh đồng truyền giáo, đầy những chiên. Bởi thế, cần suy tư nghiên cứu phương pháp và cấu trúc trong đào tạo chủ chăn. Nói cách khác: với Phụng vụ Chúa nhật Chúa Chiên Lành, Hội thánh trở về với Ơn Kêu Gọi làm chủ chiên, lo chăn dắt linh hồn chiên đàn, tin vào Đạo.

Bàn về Ơn Gọi làm chủ chăn trong Hội thánh, là bàn về sự quan yếu của tình thân thương mật thiết trong cộng đồng dân Chúa. Trước nhất, là sự mật thiết giữa chiên con và chủ chăn, tức Đức Kitô rao giảng, vẫn được coi như sự thân mật linh thánh giữa các thành viên cùng nhà, tức Hội thánh Chúa. Gia đình Hội thánh Chúa ở đây được hiểu theo nghĩa gia đình hợp nhất. Hợp nhất không chỉ hiểu theo hệ cấp thần quyền bên trên. Mà là, sự thân mật giữa mỗi người và mọi người. Vì, tất cả thành viên trong gia đình Hội thnh đều là chi thể có cùng một thân mình, cùng não bộ chỉ huy; và, cùng nhịp đập con tim, tạo sức sống.

Sự mật thiết thân thương giữa thành viên trong Hội thánh không là sự thân thiết mang tính chai lì, thụ động. Thụ động, như thái độ vẫn thấy nơi dân thường trong hệ cấp chính quyền, ở ngoài đời. Với thế quyền ngoài đời, người dân chỉ biết có đóng thuế. Và, thi hành luật pháp, thế là đủ. Trong đạo, thực thi luật pháp và thi hành lệnh cũng tựa như giữ các điều răn, giới luật của Hội thánh. Như thế chưa đủ. Còn phải biết dấn thân hơn nữa. Tức là đáp lại lời kêu gọi mất thiết của Hội thánh.

Hội thánh thân thương mật thiết kêu gọi con dân nhà Đạo hãy luôn nguyện và cầu. Nguyện cầu cho Ơn Gọi, trong Hội thánh. Kêu gọi mỗi thành viên tham gia trở thành thừa tác viên cho công tác mục vụ của Hội thánh. Công tác này có thể là vai trò của vị chủ chăn, như linh mục, tu sĩ hoặc nữ tu. Cũng có thể là thừa tác giáo dân trong vai trò cộng tác với các linh mục tu sĩ ấy.

Hội thánh hôm nay vẫn tiếp tục kêu gọi mọi thành viên trở nên linh mục tu sĩ lo việc tu đức trong cộng đồng dân Chúa. Nhưng gọi như thế, không có nghĩa Hội thánh lọai bỏ sự trân trọng về nhu cầu cần thiết, nơi vai trò của giáo dân trong công trình hợp tác xây dựng Nuớc Chúa. Ngày nay, có lẽ nên hiểu Ơn Gọi chăn dắt đàn chiên theo nghĩa phổ cập. Nghĩa là, mỗi người một hoàn cảnh và vị thế, tất cả thành viên đều có thể hoàn thành hợp tác với Hội thánh trong công trình chăn dắt đàn chiên con Giáo hội. Mặc dù, nhu cầu trở thành linh mục/tu sĩ, hoặc nữ tu vẫn được nhấn mạnh và coi là ưu tiên hàng đầu.

Tham gia đáp ứng Ơn Gọi chăn dắt đàn chiên còn là nhận biết lời mời gọi ấy nay gửi đến chính mình, mỗi thành viên. Không phân biệt giới tính, tuổi tác hay sắc tộc. Nhận biết lời Mời Gọi của Hội thánh, đại diện Chúa Chiên Hiền Lành, cũng phải được cân nhắc theo hoàn cảnh của mỗi thành viên và Giáo hội địa phương.

Lời mời gọi của Chúa Chiên Lành, còn là quà tặng riêng lẻ mỗi người đều có thể sử dụng để làm lợi cho người khác. Thành viên khác. Trong cộng đồng Giáo hội, tức các Kitô hữu. Điều này có nghĩa: trên thực tế, ta hãy cùng nhau thực hiện công tác chung của cộng đoàn tình thương là Giáo hội. Công tác xây dựng cộng đoàn tình thương của Đức Chúa, là Chúa Chiên Lành, vẫn đang chờ sự đáp trả của mỗi thành viên. Thành thử, cầu nguyện cho Ơn Gọi, còn có nghĩa là cầu nguyện cho ta, cho người khác, cho bạn bè người thân cùng có Ơn Gọi, chứ không chỉ mình ta. Cầu cho Ơn Gọi, là cầu cho mọi người nghe được tiếng kêu. Tiếng gọi. Của vị chủ chăn đang khẩn thiết kêu mời tất cả dân con trở thành thừa tác viên – tông đồ cho cánh đồng truyền giáo chung.

Cầu, là cầu cho mỗi người. Ở một vị thế. Ta chung lưng đấu cật, cùng nhau thực hiện sứ vụ dựng xây Cộng đoàn tình thương là chính Hội thánh thân thương, ta đang sống. Cầu, là cầu cho toàn thể cộng đoàn biết nghe tiếng gọi của Chủ chăn. Biết tính của chiên đàn, đang lắng nghe tiếng gọi của người chăn dắt.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta hãy để ra nhiều khoảnh khắc mà suy tư nguyện cầu về lời gọi mời của Chúa Chiên Hiền Lành, biết ý chiên con. Nguyện cầu cho lời gọi mời của Chúa Chiên gửi đến mỗi chiên con, đem lại kết quả. Với đáp ứng của chiên con. Trong Hội thánh. Nguyện và cầu cho chiên con biết đáp lại bằng hai tiếng “Xin Vâng”. Xin vâng, theo thánh ý Chúa mà lãnh nhận bất cứ vai trị nào để phục vụ Hội thánh. Xin vâng, để nếu không làm linh mục, tu sĩ, nữ tu, ta cũng làm thừa tác viên; hoặc phó tế mở mang Nước Trời. Ở trần gian.

Lm Richard Leonard, sj biên soạn

Mai Tá lược dịch. 

GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG

 GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG

Các bạn trẻ thân mến,

Không biết có điều gì thay đổi về vẻ bề ngoài của Chúa Giêsu hay không, nhưng rất nhiều người, dù có một tương quan gắn bó rất chặt chẽ với Ngài cũng không thể nhận ra Ngài sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.  Đầu tiên là bà Maria Madalena.

EMAU

Buổi sáng ngày đầu tuần, bà cùng một số phụ nữ khác kéo nhau ra mộ, dự định là sẽ dùng dầu thơm để xức xác Chúa, nhưng không thấy xác Chúa đâu.  Bà đứng bên ngoài mà khóc, vì ngỡ là người ta đã nhẫn tâm mang xác Chúa đi giấu ở đâu rồi.  Thầy Giêsu hiện ra đứng sau lưng gọi tên bà, bà cứ ngỡ là người làm vườn.  Mãi đến khi Chúa Giêsu gọi bà bằng cái tên thân thương, bà mới thật sự nhận ra đó chính là Chúa.

Hai môn đệ Emmaus cũng vậy.  Họ đang lê bước về quê nhà sau một thời gian rong ruổi theo Chúa. Cái chết của Thầy dường như là một cú sốc rất lớn với họ.  Họ liên hồi bàn thảo với nhau những chuyện liên quan đến Ngài.  Chúa Giêsu bước tới, giả vờ hỏi han.  Họ chẳng hề nhận ra, còn trách “người khách lạ” sao vô tâm với những chuyện động trời vừa xảy ra ở Giêrusalem trong những ngày vừa rồi.  Thấy họ vẫn còn mê muội chưa hiểu chuyện gì, Chúa Giêsu lên tiếng dạy dỗ họ, giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của Thánh Kinh và những lời tiên tri nói về Đấng Mesia.  Lòng họ như bừng cháy, nhưng vẫn chưa nhận ra.  Cho đến khi Chúa Giêsu được họ mời vào nhà và làm những cử chỉ hệt như trước kia là bẻ bánh trao cho mọi người, họ mới nhận ra người đã đồng hành với mình từ chiều đến giờ là Thầy Giêsu chí thánh.

Tại bờ hồ Tiberia cũng vậy.  Suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các tông đồ, dù là những tay ngư phủ cừ khôi một thời, chẳng bắt được con cá nào.  Khi ngày vừa lên, họ mỏi mệt chèo chiếc thuyền vào bờ trong tâm trạng của những người thất bại.  Bỗng đâu xuất hiện trên bãi biển một người đàn ông lạ mặt, hỏi han các ông về thành tích lao nhọc của đêm qua.  Họ thật thà trả lời là mình tay trắng mà không hề nhận ra người hỏi đó là ai.  Nghe theo lời chỉ dẫn của người này, họ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền như một hy vọng cuối cùng, vớt vát được chút đỉnh.  Quả nhiên, mẻ cá thu được mới kinh khủng làm sao.  Mọi người tất bật lo kéo lưới để thu lượm cá bắt được, thì chỉ có một người trong số đó nhận ra chính Thầy là người đang đứng trên bãi biển kia.

Các bạn trẻ thân mến,

Nhận ra Chúa hiện diện bên chúng ta là điều không dễ tí nào.  Ngay cả các môn đệ, những người đã từng sống chung với Chúa một khoảng thời gian dài cũng không ngay lập tức nhận ra Ngài khi Ngài hiện đến, huống gì những con người xa lạ như chúng ta.

Chúa Giêsu đã phục sinh, và chắc là sau khi phục sinh, Ngài vẫn là Ngài, nhưng cũng có gì đó khác trước.  Cuộc sống với biết bao khó khăn che khuất đôi mắt của ta bằng những giọt lệ buồn như Madalena, những tranh luận như hai môn đệ Emmaus, hay những chán chường, thất vọng như các tông đồ, khiến ta không còn nhìn thấy Chúa hiện diện ngay bên chúng ta.  Những tư tưởng buồn lại nối tiếp tư tưởng buồn.  Hễ cứ gặp một chuyện không vui là ta tiếp tục suy diễn ra những hoàn cảnh khác tệ hại hơn, khiến cho tâm trí ta chỉ toàn những hố sâu của u buồn và chán nản.  Chúa ở ngay đó, nhưng có mấy khi ta nhận ra Ngài.

Maria Madalena đã được Chúa gọi đích danh mình bằng giọng nói thân quen ngày nào.  Nhờ thế mà bà như bừng tỉnh và được giải thoát khỏi những giọt nước mắt tang thương.  Các môn đệ Emmaus thấy nơi Chúa những lời giáo huấn tuyệt diệu thiêu đốt tâm tư và cử chỉ bẻ bánh mà Ngài vẫn hay làm.  Còn các tông đồ thì nhận ra Ngài qua phép lạ mẻ cá.  Ngày đầu tiên khi Giêsu kêu gọi Phêrô, Ngài cũng thực hiện một phép lạ tương tư như vậy.  Làm từ không ra có, hóa ít ra nhiều, chỉ có thể là Thầy Chí Thánh của mình mà thôi.  Chúa sẽ để lại những dấu chỉ để người ta nhận ra Ngài.  Hai người yêu thương nhau luôn có những ký ức về nhau mà chỉ cần nhìn hay nhớ đến ký ức ấy, là trọn vẹn hình ảnh của người kia sẽ được nhận ra.

Đối với chúng ta, có lẽ Chúa cũng để lại muôn vàn dấu ấn như thế để ta có thể nhận ra Ngài.  Hình ảnh về Ngài là hình ảnh của những người nghèo đang cần hơi ấm, cần chút cơm.  Hình ảnh về Ngài là hình ảnh của những người đi tha hương cầu thực, của những ông già bà lão bơ vơ, hình ảnh của những em bé ngây thơ thiếu thốn tình cảm, nơi những bệnh nhân hay những người bị gạt ra bên lề cuộc sống.  Người ta sẽ nhận thấy Chúa trong ta khi ta cũng biết gọi tên người khác bằng một giọng ấm áp yêu thương, khi ta biết dùng những lời dịu ngọt để vỗ về những con tim khô cứng, biết sống một cuộc đời sẻ chia, nâng đỡ, biết an ủi người khác và làm gia tăng những niềm vui nho nhỏ của mọi người.

Các bạn thân mến, giữa các bạn và Chúa Giêsu có dấu hiệu gì của riêng nhau không để khi bạn nhìn vào đó, bạn có thể gặp được Chúa Giêsu?  Có một ký ức nào về Chúa Giêsu hằn in trong trái tim bạn không?  Chúa Giêsu vẫn đang ở đó, chờ đợi bạn đến gặp Ngài.

Pr. Lê Hoàng Nam, S.J.

langthangchieutim gởi