“CÒN NHẢY KHẬP KHIỄNG CHO ĐẾN BAO GIỜ ?”

“CÒN NHẢY KHẬP KHIỄNG CHO ĐẾN BAO GIỜ ?”



Tuần lễ thứ 10 mùa Thường Niên và một nửa tuần 11 năm chẵn, bài đọc một trong mỗi Thánh Lễ hằng ngày kể cho chúng ta câu chuyện về Ngôn Sứ Elia trong sách Các Vua quyển thứ nhất, thuộc phần thứ hai (1V 17, tt.).

Elia là một ngôn sứ “lớn” nổi tiếng thời Cựu Ước, với thân phận Ngôn Sứ, ông đã trải qua biết bao gian khổ khi thi hành sứ mạng của mình, Khi mở ra những trang Kinh Thánh trong những ngày này, mới thấy Lời Chúa có sức mạnh sống động làm sao, chúng ta cùng nhau đọc để suy nghĩ và chọn lựa cách sống hôm nay.

Tên tuổi Elia gắn liền với tên tuổi một vị vua tên là Akháp, vị vua này nổi tiếng là gian ác và bạc nhược, triều đại của Akháp là triều đại mở màn dẫn đến cuộc lưu đày đau đớn của dân tộc Do Thái ở Babylon bởi một “con hùm xám miền cận đông” Nabucôđônôso. Dưới thời Akháp, Israel phân rã, bên trong thì kinh tế phá sản, đạo đức suy đồi, luật pháp rối loạn, luân lý xuống cấp, lòng người chán nản, phân rẽ dân tộc, bất công lan tràn, ngoài biên cương thì Babylon gầm gừ đe dọa thôn tính.

Bạc nhược, Akháp, vị vua đắm mình trong tửu sắc, ông xây dựng cung điện nguy nga với những vật liệu quý hiếm mà ông mua được bằng sưu cao thuế nặng của dân. Vàng bạc, đá quý ông thu tích về để tận hưởng sự giàu sang, tài sản của ông kếch sù, đất đai của ông rộng mênh mông…

Gian ác, Akháp là thủ phạm trong vụ án cướp đất của ông Navôt. Lòng tham không đáy của Akhap được sự tiếp ứng đầy thủ đoạn hèn mạt của hoàng hậu Isave, Họ đã dựng lên vụ án vu khống ghép tội Navôt rồi cướp vườn nho của Navôt, vườn nho là gia sản kế thừa của gia tộc Navôt, là đất thiêng, là linh vật của tổ tiên Navôt truyền lại. Điều đau đớn là “dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà Isave” (1V 21, 11).

Suy đồi, Akháp xây đền thờ cho Baal, tổ chức lễ bái, buộc dân phải cúng tế trong các đền thờ của dân ngoại mà Akháp đã xây để thỏa lòng các bà vợ dân ngoại của Akháp. Khi được nhắc nhở trở về với Chúa, ông còn lươn lẹo: “Tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7, 12).

Không quan tâm đến vận mệnh đất nước, Akháp mải mê vui thú với những trò chơi hoang tưởng của mình, say sưa bên các mỹ nhân, để mặc bọn quan quyền địa phương tung hoành ức hiếp người, gây bất công tràn lan trên cả dân tộc.

Giữa tình trạng nhiễu nhương đó, Ngôn Sứ Elia xuất hiện, dù rất cô độc nhưng ông vẫn mạnh mẽ lên tiếng cảnh báo Akháp. Kết quả là Elia phải chạy trốn quyền lực thế gian mà sống cô độc trong một khe núi. Trong cơn túng cực, Kinh Thánh nói Đức Chúa nuôi Elia bằng cách cho một con quạ đen mang bánh và thịt đến cho ông.

Ông uống nước nơi khe núi, nhưng đến một ngày, nước trong khe ấy cũng cạn khô. Dám chống lại cường quyền, Elia đã phải trả giá bằng một cuộc lẩn trốn trong gian nan (17, 2 tt.).

Không từ bỏ sứ mạng ngôn sứ của mình, một lần nữa Elia xuất hiện, trong cuộc thách đố sống còn giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và bái lạy Baal. Đứng trước một lực lượng thật đông đảo của đối phương, 450 thầy cúng của Baal, phía sau họ là thế lực của hoàng hậu Isave, Elia không khiếp sợ,

Elia cất tiếng cảnh báo toàn dân và nặng lời với sự hèn nhát, ngu xuẩn và lòng dạ hẹp hòi mà người dân cứ mãi câm lặng chịu đựng: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho đến bao giờ ?” (18, 21). Nhảy khập khiễng, cách nói về một lối sống hèn nhát, tư lợi, ích kỷ, thiếu tầm nhìn, chấp nhận thỏa hiệp với thần ngoại, thỏa thuận với sự dữ.

Giận bọn bái lạy thần ngoại một, Elia giận dân Israel mười. Tuy chiến thắng lẫy lừng hiển nhiên trong cuộc thách đố, nhưng dân vẫn không mở mắt. Một lần nữa, trong cô đơn, Elia trốn chạy cuộc truy sát của bà Isave. Trốn ở núi Carmen, ông than thở: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi, xin cất mạng tôi…” Chỉ còn Chúa cho Thần Sứ đến an ủi ông, mang bánh và sữa đến cho ông và nhắc nhở ông “phải ăn và uống, đường còn quá dài”, ông ngồi dậy, chấp nhận ăn uống và tiếp tục chấp nhận sứ mạng ngôn sứ đầy cay đắng của mình (19, 1 – 8).

Câu chuyện về một vị Ngôn Sứ còn dài, kéo theo những chi tiết chuyển tải nhiều giá trị thiêng liêng mà lúc này đây sao quá sống động với thực tế của quê hương đất nước. Mỗi người tin được mời gọi đọc và chọn lựa thái độ của mình trong xã hội. Chẳng có thể tách chuyện Đức Tin ra khỏi những vấn đề xã hội, chẳng thể tách chuyện tinh thần ra khỏi chuyện sống chết cơm áo gạo tiền, chẳng thể tách chuyện chính trị ra khỏi chuyện thiêng liêng mầu nhiệm.

Khi đọc Kinh Thánh thấy có cái gì đó cay nồng trong khóe mắt như những giọt nước của biển mặn đau thương.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

10.6.2016

“…SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”

“…SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”

Ngày 31 tháng năm là ngày lễ Đức Maria đi thăm viếng bà chị họ Elisabeth, một biến cố rất dễ thương, mang tính nhân bản và chuyển tải cho chúng ta nhiều ý nghĩa giáo dục. Khi đi thăm bà chị họ, Đức Maria không chỉ đơn thuần thực hiện một cuộc viếng thăm xã giao hay nhằm nâng đỡ khích lệ, nhưng Mẹ còn lưu lại để phục vụ người chị họ lớn tuổi trong những ngày sinh nở. Đây là một hành động tế nhị, tình cảm và hy sinh trong khiêm tốn, hẳn những ai trải qua cuộc vượt cạn đều thấu hiểu việc này. Hành động này còn quảng đại và cao cả hơn khi chính Đức Maria cũng đang mang thai, đang trong thời kỳ cũng cần được nâng đỡ và chia sẻ. Nhưng bất chấp tình trạng của mình, Đức Maria mau mắn đến miền núi đồi phía nam, Cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, còn dịch là “đon đả đi lên miền sơn cước”, để chia sẻ tình thương. (Lc 1, 39 tt.)

Bên cạnh và vượt lên trên những ý nghĩa cao đẹp về tình người, Đức Tin cho ta thấy sứ mạng của Đức Maria còn lớn lao hơn thế nữa, vì không chỉ là mang thai một sinh linh bé nhỏ, nhưng Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế trong cung lòng của mình. không đơn thuần là một người trẻ mang thai đến thăm và giúp đỡ một người lớn tuổi mang thai, mà Đức Maria mang Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế cho bà chị họ Elisabeth của Mẹ khiến hài nhi trong lòng dạ bà Elisabeth nhảy mừng vì được gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Đón nhận Chúa và mang Chúa đến cho mọi người là sứ điệp của cuộc thăm viếng trong Tin Mừng theo Thánh Luca. Hội Thánh Công Giáo hiện nay trong ánh sáng của các văn kiện Tòa Thánh: Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng… Biến Cố Đức Mria đi thăm viếng Bà Elisabeth trở thành một chứng từ minh nhiên về sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Lễ Đức Mẹ đi viếng năm nay tôi có dịp ghé thăm một mái ấm BVSS dành cho những ngươi phụ nữ làm mẹ đơn thân trong hoàn cảnh khó khăn, mái ấm này được thiết lập vào năm 2.000, khi hoàn cảnh xã hội còn đang rất khó khăn, khi luật quy định “mỗi gia đình chỉ được có hai con” còn đang là quốc sách, đang là chương trình quốc gia, gầy dựng một mái ấm để các chị em tạm lánh và sinh nở trong tình trạng kín đáo là một việc làm táo bạo và nguy hiểm. Nguy hiểm vì chạm đến chương trình quốc gia, táo bạo vì vẫn luôn có những con người trong nhiều góc độ không chấp nhận những gì đe dọa đến lợi ích bản thân họ, cho dù họ vẫn luôn miệng nói về tình thương, người nghèo và người bị bỏ rơi. Họ vẫn luôn miệng hô khẩu hiệu nhưng không bao giờ chấp nhận dấn thân và để người khác dấn thân, họ sẵn sàng ghép tội người khác với nhiều mỹ từ dị nghĩa để che dấu sự ù lì của họ.

TRE EM

Những người tham gia ban đầu xây dựng mái ấm gặp biết bao khó khăn. Nhờ ơn Chúa, sự kiên trì xác tín và sự nâng đỡ của nhiều người, mái ấm đã hiện diện gần 16 năm, có hơn 600 cháu được bảo bọc sinh nở nơi mái ấm này. Ngày họp mặt, có cháu đã “lớn tồng ngồng” theo mẹ về gặp gỡ nhau, con nít đủ mọi lứa tuổi chơi đùa, các bà mẹ nói cười rôm rả, tiếng khóc tiếng cười đan xen, ban tổ chức không chuẩn bị đủ đồ chơi khiến các quan tòa phải thi nhau phân xử.

Chúa nhật 5 tháng 6 này là Ngày Quốc Tế Môi Trường, ngoài các đường phố người ta giăng đầy các biểu ngữ nói về môi trường, kêu gọi mọi người chung tay xây dựng một môi trường sạch và xanh thân thiện, hướng dẫn mọi người xử lý phân loại rác, thu gom rác và trồng cây xanh, đó là các việc làm cần thiết. Tuy nhiên cùng với các biểu ngữ cổ võ cho viêc bảo vệ môi trường, người ta vẫn chứng kiến các nhà máy tha hồ nhả khói vào bầu trời, tuôn chảy nước thải quá nhơ bẩn và độc hại vào sông ngòi, đốn hạ cậy xanh vốn quá quý hiếm trong thành phố, và nhất là đã tròn 60 ngày ( 6.4 – .5.6.2016 ) thảm họa Vũng Áng chưa có câu trả lời cho công chúng.

Laudato Si’ chỉ ra nguyên nhân gây ra thảm họa môi trường là hậu quả của cách sống “văn hóa đào thải, văn hóa loại trừ” ( số 22 ), mọi thứ đều có thể trở thành rác thải vì người ta đặt lợi nhuận ( kinh tế, chính trị ) của phe nhóm họ làm nền tảng hành xử. Laudato Si’ nói rằng: “…con người không thể phân tích vũ trụ khi tách từng phương diện một, vì quyển sách vạn vật chỉ có một và không thể chia cắt được, nối kết môi trường, sự sống, tính dục, gia đình và các liên hệ xã hội lại làm một” ( số 6 ).

Điều đó cho ta hiểu tệ nạn phá thai liên kết với thảm họa môi trường như thế nào, vì cách hành xử với vạn vật biến thành cách hành xử với chính con người, mạng sống của người khác đã bị xem là rác thải khi không phục vụ cho lợi ích của họ. “Việc buôn bán hay sử dụng các bộ phẩn cơ thể của người nghèo, hoặc việc ‘quăng’ đi các em bé, chỉ vì không đáp ứng đươc các mong muốn của cha mẹ chúng. Đấy là cách suy nghĩ ‘sử dụng và quăng đi’, tạo quá nhiều rác thải, gây ra do khao khát vô độ, tiêu thụ nhiều hơn như con người cần thiết” ( số 123 ).

CA CHET

Dưới cái nhìn của Laudato Si’, “…tất cả thọ tạo đều liên kết với nhau, cần phải nhìn nhận mọi sự với cái nhìn tình yêu và thán phục, tất cả như những hữu thể mà chúng ta đều cần đến” ( số 42 ). Vậy Ông Trịnh Công Sơn có lý để viết rằng “sỏi đá cũng cần có nhau”.

Thông điệp của Hội Thánh cần đưa ra mạnh mẽ trong ngày Quốc Tế về môi trường là: “Mỗi chính quyền mang trách nhiệm không thể chuyển nhượng để bảo vệ môi trường cũng như những tài nguyên khác của quốc gia mình, mà không bán cho những cơ quan chỉ tìm lợi lộc bất chính địa phương hay quốc tế” ( số 38 ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 3.6.2016 (theo Ephata 696)

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Viết nhân mùa Phục Sinh (*)

Viết nhân mùa Phục Sinh (*)

Theresa Phạm Thanh Nghiên (Danlambao)Viết tặng bố Trần Thúc Lân, người họa sĩ già kể chuyện Quê Hương qua nét vẽ.

Tôi từng ghét, và ác cảm với đạo Công giáo.

Ghét một cách hiển nhiên (và hồn nhiên) như việc tôi từng tin yêu cộng sản vậy. Tôi chưa bao giờ đi tìm nguyên cớ vì sao có cái sự yêu-ghét kỳ quặc, bất công và bất bình thường như thế. Cứ như một lập trình, ai tin cộng sản đều thù ghét tôn giáo. Sản phẩm giáo dục trong môi trường xã hội chủ nghĩa cứ cho ra đời những con người yêu- ghét theo quán tính vậy thôi. Vì sao yêu? Không biết. Vì sao ghét? Cũng không biết.

Trong suy nghĩ của tôi, người Công giáo không cần tổ quốc, không cần anh em, bằng hữu. Theo Đạo, là chối bỏ cha mẹ, anh em, họ tộc. Giờ nghĩ lại, tôi vẫn thấy ghê sợ cái lối tư duy kỳ quặc trong quá khứ của mình.

Hồi ấy, cô bạn học cùng lớp hay rủ tôi đến Nhà thờ. Thảo Ni không phải người Công giáo. Cô nàng đến nhà thờ chỉ vì thấy “hay hay”, Ni bảo thế.

Tôi đi cùng Ni vì chiều bạn, và vì tò mò xem Linh Mục ngoài đời có giảng đạo như Linh mục trong phim không. Tôi mê bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” lắm. Đó là một trong những bộ phim truyền hình nhiều tập đầu tiên được phát trên kênh VTV3, khoảng những năm 95, 96 ở thế kỷ trước. “Thì ra đạo Công Giáo không xấu như mình tưởng.” Những cảnh “Thánh lễ” trong phim là những hình ảnh tôi mong chờ nhất khi dán mắt vào màn hình vô tuyến.

Tôi lại đi theo Thảo Ni đến nhà thờ.

Hôm ấy, nhà thờ đông lắm, người ngồi chật ních cả ngoài sân. Sau này nhớ lại, tôi đoán đó là ngày Lễ Phục Sinh.

Ông Linh mục (hồi đó tôi gọi như thế) bắt đầu động chạm đến chính trị, đúng đề tài tôi thích.

– …Và như thế, Stalin là một tên đồ tể, một kẻ giết người hàng loạt.

Gương mặt vị linh mục vẫn tự nhiên và bình thản như không phải mình đang nói những điều “nhạy cảm”.

Như điện giật, tôi đứng phắt dậy, mặc cho Thảo Ni níu tay tôi lại. Tôi luồn lách qua đám giáo dân đông đúc vẫn đang ngồi nghe ngoài sân. Vị linh mục vừa xúc phạm đến niềm tin của tôi. Tôi yêu quý Stalin như yêu quý những lãnh tụ cộng sản khác.

Tôi giận Thảo Ni mất mấy ngày.

Từ lần ấy, tôi lại tiếp tục ghét người Công giáo. Và không bao giờ trở lại nhà thờ nữa.

Mấy năm sau tôi đi làm. Cùng làm với tôi có một anh người Huế tên là Phong. Tôi quý mến anh mọi thứ, trừ việc anh là người Công Giáo.

Hôm ấy anh đến nhà tôi, mang theo cuốn Kinh Thánh. Đấy là lần đầu tiên tôi chạm tay vào một cuốn Kinh Thánh. Giở một trang bất kỳ, tôi đọc:

“Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù,

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục

Đem an hoà vào nơi tranh chấp,

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Tim tôi như đập nhanh hơn. Phúc chốc tôi thấy hơi thở ấm lại và có điều gì đó giống như làn gió nhẹ len lỏi trong óc tôi.

Tôi vội vàng đem cuốn sổ tay ra chép. Như thể những ý tứ ấy sẽ bay biến nếu không tranh thủ lưu giữ lại. Tôi không biết đó là kinh gì, nhưng từ ấy, tôi không bao giờ ghét đạo Công Giáo nữa.

Năm 31 tuổi, tôi đi tù.

Tôi từng nếm trải hơn hơn bốn tháng biệt giam. Đó là một buồng giam rộng chưa đầy 6 mét vuông. Tôi có thói quen ghé mắt qua 6 cái lỗ nhòm của cửa buồng giam, dù chỉ để nhìn thấy khoảng sân chật chội và hàng rào kẽm gai sắc lạnh. Để bớt đi cảm giác ngục tù.

Tối nào tôi cũng hát. Nhưng chỉ hát thôi thì chưa đủ. Tôi cần một điều gì đó giá trị hơn, để nâng đỡ tinh thần mình.

“Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù,

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục.”

Lời kinh hôm nào lại văng vẳng trong trí não. Tôi không nhớ nguyên văn những điều mình đã đọc hơn mười năm về trước. Những câu kinh chắp vá, không nguyên vẹn trong trí nhớ ngày nào đã trở thành lời cầu nguyện mỗi ngày của tôi. Thiên Chúa, chắc không trách tội một kẻ ngoại đạo là tôi. Tôi đã tin như thế. Và tôi dần thấy mình được gần Thiên Chúa, tinh thần tôi đã có nơi để bám víu, tựa nương.

Ra tòa được ít hôm, tôi bị chuyển lên Trại giam số 5, Thanh Hóa. Mười một tháng cuối cùng của chặng đường tù, tôi bị chuyển vào ở hẳn trong Phân trại, không phải đi ra ngoài hiện trường lao động nữa dù ra ngoài đó tôi cũng không làm gì. Bạn tù bảo, tại tôi hay chặn đường các đoàn kiểm tra để kiếm chuyện, hay “săm soi” bắt lỗi cai tù nên tôi bị “tống” vào trong trại ngồi chơi xơi nước. Đi tù “được” ngồi chơi là điều không người tù nào nghĩ đến. Với lại, đi đội tôi cũng có làm gì đâu, cai tù mang tiếng đày ải tôi ra.

Buồng bên cạnh có một chị tên Bẩy theo đạo Công Giáo, người Nghệ An. Chị có gương mặt đẹp và phúc hậu như Đức Mẹ. Nhiều lần tôi tự hỏi, tại sao người phụ nữ có gương mặt đẹp và nhân từ như thế lại có gan đi buôn ma túy để bị kết án những 20 năm tù?

Mà chị Bẩy hiền lành thật. Tôi chưa thấy chị cãi vã với ai bao giờ. Thi thoảng gặp tôi ở sân giếng, chị tâm sự với tôi về nỗi ấm ức chị phải chịu. Chị bảo, theo Chúa là phải biết nhường nhịn và khiêm nhường.

Chiều hôm ấy, chị rỉ tai tôi:

– Nghiên ơi, mấy lần chị để ý thấy trong các lần sục buồng, cán bộ không bao giờ tự ý lục lọi đồ của em, phải không?

– Vâng. Họ muốn thì phải được sự đồng ý của em, và phải lập biên bản em mới cho kiểm tra chị ạ. Tôi trả lời, mặt tỉnh bơ trước thái độ dè dặt của chị.

– Thế nếu họ cố tình thì sao? Chị hỏi tiếp, nét mặt trông nghiêm trọng lắm.

– Em không biết. Nhưng họ chưa cố tình lần nào chị ạ.

– Vậy chị nhờ em một việc được không?

– Vâng, chị nói đi, giúp được em sẽ giúp.

– Em giữ giúp chị cuốn Kinh Thánh nhé. Chị sợ lúc cán bộ đột xuất sục buồng, thấy được là chết chị.

Từ hôm ấy, sáng nào trước khi đi làm chị cũng kín đáo mang cuốn Kinh Thánh sang gửi tôi. Hôm thì giấu trong vạt áo, hôm thì lấy thứ gì đó như cái khăn, tập giấy để che cuốn Kinh Thánh. Buổi chiều trước khi điểm buồng, tôi lại kín đáo đưa cuốn Kinh Thánh trả lại cho chị.

Tôi được đọc Kinh Thánh từ ấy.

Ban đầu, nhìn cuốn sách bé xíu, dầy khộp với chi chít những chữ, tôi cũng ngại. Đọc từ đầu, không hiểu gì cả. Tôi bỏ. Thi thoảng tôi lại giở những trang bất kỳ ra xem. Không bao giờ tôi nhớ nổi một câu nào trọn vẹn.

“Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy”.

Tôi nhớ rất rõ câu Kinh Thánh ấy ngay khi vừa mới đọc. Hôm ấy tôi đang ở ngày đầu tiên của cuộc tuyệt thực thứ 2 trong trại 5 Thanh Hóa. Tuyệt thực, để các tù nhân được trải nệm xuống nằm vào mùa đông, để được nhận chăn ấm từ gia đình gửi vào. Có dịp, tôi sẽ kể về cuộc tuyệt thực này trong một lần khác. Tại sao lại là lời Kinh ấy, tại khoảnh khắc ấy chứ không phải trong bao nhiêu lời Kinh khác?

Đến bây giờ, tôi vẫn tin rằng Thiên Chúa đã nâng đỡ, tiếp sức cho tôi trong những thời khắc khó khăn nhất của cuộc tù đày.

Tôi về hết án, chị Bẩy sụt sịt nói với tôi ngoài sân giếng:

– Em về, ai giữ cuốn Thánh Kinh cho chị?

Tôi không biết trả lời thế nào, buồn rũ người.

Tôi đã về nhà, tháng 9 này được tròn bốn năm. Bốn năm ấy, không biết ai niu giữ cuốn Kinh Thánh giúp chị Bẩy?

Phạm Thanh Nghiên

danlambaovn.blogspot.com

Chú thích:

(*). Viết dịp Phục sinh nhưng tháng 6/2016 mới đăng.

Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

“Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

Trước dung-nhan Thượng-Đế, xét tội/công.

Xin tha-thứ bao tội lỗi chất-chồng

Những chối bỏ, khinh chê người tật/bệnh.

Kẻ già nua, thơ trẻ Ngài truyền lệnh

Người bơ-vơ hèn mọn chính là Ta.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mai Tá lược dịch.

Bơ vơ hèn mọn. Tật bệnh, lũ trẻ thơ. Và, người nữ-phụ chất-chồng nhiều tội-lỗi, Chúa thứ tha. Chúa tha thứ, Ngài thẩm-định mọi việc không do quá-khứ, hệ-lụy mà do biết từ-bỏ những gì lôi kéo người người xuống bùn đen. Bùn đen hôm nay, mon men đến gần với Chúa, để được tha-thứ. Tin Mừng cho thấy diện-mạo hai nhân-vật: một Biệt-phái tên Simôn, một nữ-phụ gọi tắt là Maria. Biệt-phái theo ngôn-ngữ Do-thái-giáo, là “người tách riêng”. Vào thời của Chúa, người Biệt phái như thế rất đông. Đông đến 6 ngàn người. Và, họ ở rải-rác trên toàn cõi Palestine.

Hôm nay, Biệt Phái Simôn mời Đức Kitô đến nhà, phải chăng để huênh hoang khoe chòm xóm: mình quen lớn. Hay, chỉ muốn thách thức thái độ và lời dạy của Đức Kitô, thôi? Điều này, không rõ. Nhưng, chúng ta đều biết, Đức Giê-su không chọn người để đến thăm. Ngài nhận lời đến với người giàu – kẻ nghèo, dù Biệt Phái. Với giới kinh sư, thu thuế, và người phạm tội, rất đáng ghê. Vào nhà Biệt Phái Simôn, ta thấy dường như ông ta cố ý để ngỏ cửa, và tiếp đón hời hợt như muốn đặt Đức Kitô vào tình trạng lúng túng, khó xử. Cửa để ngỏ, khiến người nữ phụ tội lỗi dễ đi  thẳng vào bên trong, để gặp Chúa. Dù không đuợc mời, nhưng chị vẫn đến. Chị đến, để xem Đức Kitô đối xử ra sao với đám tội phạm. Lạm dụng tình.

Cử chỉ của người nữ phụ tội lỗi, những là: xõa tóc, đổ dầu thơm lên chân. Rồi còn, hôn chân Chúa và khóc lóc, làm đẫm ướt chân Ngài. Cảnh tượng này, có lẽ đã gây xúc phạm đối với những người công chính hiện diện, buổi hôm ấy. Trình thuật kể rõ chi tiết, để nêu lên hai thái cực của hai loại người tội lỗi. Hai thái cực này, có thể gây khó chịu cho nhân vật chính được mời, là Đức Kitô.

Lỗi của Biệt Phái Simôn, là: tuy mời Đấng Thiên Sai Đức Chúa, nhưng ông lại không làm thủ tục xã giao đúng với qui cách của nhà chủ, tức: ông ta đã không rửa chân, không ôm hơn hoà bình. Không đổ dầu lên tóc. Cả đến cử chỉ sám hối – ăn năn, cũng không. Cảnh trí trong truyện, còn dẫn đến tình huống gay hơn: khi Chúa quay về phía người nữ phụ từng phạm lỗi khi trước, Ngài nói: “Tội của chị nhiều thật đấy, nhưng đã được tha; bằng chứng là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7: 47)

Trình thuật Phúc âm, ngay từ đầu cho thấy: các xử sự của Đức Kitô rất nhẹ nhàng. Tự do. An bình. Ngài không tỏ dấu hiệu bất an. Lúng túng. Cũng chẳng ra lệnh cho người nữ phụ phải ngưng ngay các hành vi dễ gây ngộ nhận, ra như thế. Bởi, với người đời, chị luôn bị coi là người tội lỗi, mà lại dám có cử chỉ khiếm nhã, với Đấng Hiền Từ, Yêu Thương là Đức Kitô, sao? Thay vì nổi giận hoặc ngượng ngùng trước những động tác hơi xỗ sàng ấy, Đức Kitô đã không khiển trách chị; trái lại, Ngài tuyên bố: tội của chị đã được tha. Tuyên bố như thế, chẳng phải là: Chúa muốn chứng tỏ quyền uy của Ngài, là tha tội. Nhưng, qua hành động ấy, Ngài muốn nói với mọi người, rằng: lòng tin-yêu và hối cải của người phạm lỗi đã đem lại cho họ sự thứ tha. Tha thứ ấy, nay được thể hiện qua việc đổ tràn tình thương tiếp diễn, ngay sau đó.

Tình yêu và tội lỗi, hai điều không thể đi chung, cùng sống tương hợp với nhau. Càng không thể hiện diện trong cùng một nhân vị. Nhưng ở đây, người nữ phụ đã bày tỏ lòng chị đã tin-yêu Chúa thật sự. Nên, vì tình thương ấy, mọi lỗi phạm của chị đã trở thành những sơ xuất chị làm trong quá khứ. Hiện tại, khi được thứ tha, tâm hồn chị trở nên trong trắng. Rất nhiều. Xem thế thì, tình thương yêu xóa bỏ được mọi tì vết dù rất lớn, trong quá khứ. Quá khứ, không quan trọng. Hiện tại, mới cần quan tâm.

Thời nay, người đời thường chú trọng đến những gì người khác đã làm trong quá khứ. Vẫn cứ chụp lên đầu những người làm điều sai quấy bằng các nhãn hiệu/tên gọi rất khắt khe. Dù, họ đã biết đổi thay. Khắt khe quá, khiến đương sự dù có muốn, cũng không thoát khỏi các tai tiếng về các lỗi phạm, thời quá khứ. Và cứ thế, tiếng xấu cứ đeo bám họ suốt chuỗi ngày còn lại. Với Chúa, quá khứ tội lỗi không còn là vấn đề. Điều Ngài quan tâm, là: biết hối hỗi. Và, từ nay không làm thế.

Trong tâm tình này, tay trộm nghèo treo cạnh Chúa trên đồi cao hôm ấy, cũng đã ý thức. Hắn biết kêu gọi tình thương Chúa tha thứ. Nên, được Chúa hứa cho về với Ngài, nơi cõi phúc. Có lẽ, nhiều người sẽ cho đây là chuyện bất công, Chúa đã làm? Nhưng hãy nhớ rằng: ý niệm công bằng của Chúa, không là công bằng trần gian, ta vẫn hiểu. Thử hỏi: nếu Chúa không tha thứ; không đặt nặng đến hành vi ta làm trong hiện tại, thì e rằng người người sẽ không khỏi lúng túng về các lỗi phạm thời đã qua, của mình.

Đây còn là ý chính ở bài đọc 1. Nếu chỉ kể những việc mình làm trong quá khứ, thì Đavít sẽ là tay tội phạm tày trời. Hết cướp vợ người khác, lại giết người không gớm tay, không buông tha cả những đầu xanh vô tội. Nhưng, Đavít đã biết sám hối và đổi thay, nên ông được Yavê Chúa thứ tha. Nhờ sám hối – đổi thay, Đavít đã đi vào vòng tay ôm thương yêu của Chúa. Đúng như lời tiên tri Nathan nói: “Về phía Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài rồi.” (2Sm 12: 13).

Một lần nữa, Thiên Chúa cho thấy: Ngài muốn cải hóa người phạm lỗi, chứ không xử phạt. Xử phạt là hành vi hủy hoại. Chúa chẳng bao giờ hủy hoại ai. Một thứ gì. Ngài muốn mọi người trở nên một. Một thân mình. Một cộng đoàn yêu thương. Cộng đoàn biết sống hài hoà. Bình an. Trong nội tâm.

Tư tưởng này, thánh Phao lô cũng bộc bạch ở bài đọc 2. Tất cả mọi người hãy củng cố niềm tin vì đã có tình thương yêu tha thứ của Chúa, với mình. “Người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô.” (Gl 2: 16). Đó là khác biệt giữa lối hành xử của Simôn Biệt Phái và Maria, người nữ phụ đầy lỗi phạm.

Hôm nay, tất cả mọi người, công chính cũng như có tội, nhờ có niềm tin thương mến nơi Chúa, nên đã được cứu rỗi. Tin, không là động thái của tri thức. Tin, cũng không phải là mớ tín điều mọi người cần giữ. Nhưng, trước hết và trên hết, tin chính là hành động của những người biết yêu thương. Tin tưởng vào điều gì. Vào người nào.

Nếu agapè (lòng mến) là ngôn từ chỉ định tình Cha thương yêu, thì pistis (lòng tin), là đường lối để ta đáp lại tình yêu thương ấy. Ta không thấy Chúa, cũng không bao giờ biết được Ngài, nhưng vẫn tin vì đã dựa vào các trình thuật/truyện kể, nơi Phúc Âm. Ở nơi đó, Chúa đến với ta,qua xác hèn phàm trần bằng xương bằng thịt, của Đức Kitô. Nhờ đó, ta có bước dài củng cố lòng tin mà dâng hiến trọn mình để Ngài chăm sóc. Mến thương. Tựa như người nữ phụ tội lỗi đã làm, hôm nay. Và như thánh Phaolô khuyên nhủ, tin vào Đức Kitô đã cải hoán cuộc đời của chúng ta.

Như thánh Phaolô, luật lệ không còn mang ý nghĩa gì, đối với ta. Luật lệ, sẽ không là chuyện cần thiết ta phải có, khi cuộc sống của mọi người đã có tình thương yêu hướng dẫn. Ai yêu thật sự, chẳng bao giờ làm điều sai quấy. Ác độc. Dù họ có vi phạm những chấm phết của luật lệ. Và, khi đã yêu, thì luật lệ tự khắc sẽ được tuân thủ. Nói khác đi, nếu chỉ giữ luật mà không yêu thương, thì kết cuộc cũng sẽ đưa đến những hậu quả thảm khốc, không ngừa trước.

Chính vì thế, mà thánh Phaolô  -người Biệt Phái hăng say săn bắt người phạm luật Do Thái thuở trước-  đã biết từ bỏ luật lệ của nhóm mình để trở về hiến tặng trọn đời mình cho Đức Chúa. Và khi đã hiến trọn chính mình, thánh nhân dám nói lên câu để đời: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2: 20). Hôm nay, cuộc sống và lời rao giảng của thánh nhân đã trở thành gương sáng, cho ta theo.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

MỘT LINH MỤC VIỆT NAM ĐƯỢC BỔ NHIỆM LÀM GIÁM MỤC TẠI CANADA

MỘT LINH MỤC VIỆT NAM ĐƯỢC BỔ NHIỆM LÀM GIÁM MỤC TẠI CANADA

Tác giả:  Minh Đức – WHĐ

 

Đức cha David Monroe –

nguyên giám mục Kamloops-

và Đức Tân giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương
WHĐ (02.06.2016) – Ngày 01 tháng Sáu 2016 Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Thế Phương -Tổng đại diện Tổng giáo phận Vancouver (Canada)-, làm Giám mục chính toà giáo phận Kamloops, Canada, thay thế Đức cha David Monroe, mãn nhiệm theo giáo luật (75 tuổi). Đức cha Monroe đã coi sóc giáo phận Kamloops từ năm 2002, và cũng như vị giám mục kế nhiệm, ngài cũng là nguyên Tổng đại diện của Tổng giáo phận Vancouver.

Đức Tân giám mục Nguyễn Thế Phương sinh ngày 25 tháng 3 năm 1957 tại Việt Nam, là anh cả trong một gia đình có 10 anh chị em. Từ năm 1969, học Tiểu chủng viện Lê Bảo Tịnh ở Ban Mê Thuột. Ngài từng bị bắt giam hai lần vì dạy giáo lý. Sau đó vượt biên đến Palawan, Philippines và sống ở trại này một năm. Năm 1987 đến Vancouver, Canada và làm thợ sơn để có tiền học tiếng Anh vì khi đến Canada ngài không hề biết một chữ tiếng Anh. Sau đó, học triết học tại Chủng viện Chúa Kitô Vua ở Mission, British Columbia và học thần học tại Chủng viện thánh Phêrô ở London, Ontario. Thụ phong linh mục ngày 30 tháng Năm 1992 cho Tổng giáo phận Vancouver.

Sau khi chịu chức linh mục, ngài đã đảm nhận các chức vụ: phó xứ các giáo xứ: Thánh Giuđa ở Vancouver (1992-1993), Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Delta (1993-1995) và Thánh Thể ở Vancouver (1995-1997); chánh xứ các giáo xứ: Đức Mẹ Thương xót ở Burnaby (1997-2001) và Thánh Anrê ở Vancouver (2001-2010); Giám đốc đặc trách ơn gọi linh mục (2010-2013); Tổng đại diện (từ năm 2013).

Một người em trai của ngài cũng là linh mục của giáo phận của Hamilton, Ontario, và hai người em gái là nữ tu.

Đức cha J. Michael Miller, CSB, Tổng giám mục Vancouver đã chúc mừng giáo phận Kamloops có một Tân giám mục là một vị giảng thuyết lôi cuốn, một người có tinh thần phục vụ và cổ vũ mạnh mẽ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đức cha Miller nói: “Sự cống hiến của ngài cho chức linh mục là hết sức phong phú: từ việc thành lập Nhà Vianney (dành cho các thanh niên phân định ơn gọi linh mục), phát hành tờ thông tin về đời sống linh mục và tu sĩ, đến việc mở triển lãm về ơn gọi, ngài thực sự đã làm hết mình để cổ vũ ơn gọi linh mục.

Đức cha Miller nói ngài rất tiếc vì mất một người bạn và người đồng sự, nhưng “giáo phận Kamloops sẽ được hưởng nhiều ơn ích từ vị mục tử tận tuỵ, thương người và có tinh thần cầu nguyện này. Là người đã thực sự chịu bách hại vì đức tin, Đức Tân giám mục sẽ là tấm gương khích lệ người Kitô hữu can đảm làm chứng trong thế giới của chúng ta”.

Ngày lễ tấn phong Tân giám mục Kamloops chưa được ấn định.

Minh Đức – WHĐ

LỄ ÐỨC MẸ THĂM VIẾNG

LỄ ÐỨC MẸ THĂM VIẾNG

Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác

Ngày hôm nay là một ngày rất đặc biệt, có một không hai trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại.  Ngày đánh dấu sự gặp gỡ huyền diệu giữa hai người đàn bà thánh thiện được cưu mang những Đấng mà nhân loại hằng mong đợi: đó là Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, và người chị họ là Elizabeth, mẹ của Thánh Gioan Tẩy giả.

LE DUC ME THAM VIENG

Như đã được thuật lại trong Phúc Âm của Thánh Luca, chính Đức Mẹ Maria đã khởi đầu cuộc hành trình thăm viếng Elizabeth ở một nơi rất xa làng Nagiarét của Mẹ.  Bởi vì vừa khi Thiên thần truyền tin việc thụ thai nhiệm mầu cho Đức Mẹ Maria, thì Thiên Thần cũng báo cho Đức Mẹ biết là bà Elizabeth, “người đàn bà có tiếng là son sẻ” cũng đang mang thai một con trai trong “tuổi già của bà.”  Câu chuyện muốn nói lên rằng sự thụ thai một cách mầu nhiệm của bà Elizabeth là một đảm bảo cho những lời hứa của Thiên Chúa đối với Đức Mẹ Maria: vì rằng “Không có sự gì mà Thiên Chúa không thể làm được.”  Đó có lẽ là động lực đầu tiên thúc đẩy Đức Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elizabeth để tự chính mình trông thấy người đàn bà đã được liên kết một cách lạ lùng với kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Khi bà Elizabeth vừa nghe lời chào mừng của Maria thì hài nhi trong bụng bà nhảy mừng.  Elizabeth liền thốt: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và con lòng bà gồm phúc lạ.”  Vừa khi nghe lời chúc phúc của Elizabeth thì bỗng chốc Maria liền cảm nghiệm được Thiên Chúa soi sáng cho mình ý thức được sự bày tỏ và thực hiện những lời hứa của Thiên Chúa, đặc biệt là những lời hứa nầy có liên quan đến những người nghèo khổ và những kẻ bị áp bức.  Do đó Đức Mẹ Maria đáp lại bằng một ca vịnh tuyệt vời, “Magnificat”:

Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa,
Và thần trí tôi hớn hở mừng vui trong Chúa Đấng cứu độ tôi,
Vì Người đoái thương nhìn phận tôi tớ mọn hèn…
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
Kẻ nghèo đói Chúa ban đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay không.

Đây là một viễn tượng phi thường và có tính cách phá đổ trong đó ân huệ của Thiên Chúa đối với hai người phụ nữ khiêm tốn được xem như là để báo trước cho một đảo ngược toàn diện thể chế xã hội: vinh thăng kẻ nghèo hèn!  Hạ bệ kẻ thù của họ!

Niềm vui chan chứa của cuộc thăm viếng nầy làm tan đi bất cứ điềm báo nào về cái giá mà họ phải trả sau nầy.  Vả lại, cũng không có dấu hiệu gì về viễn tượng biểu lộ trong ca vịnh của Maria dẫn đến cái chết của hai hài nhi đang nhảy mừng trong lòng mẹ.  Tuy nhiên ngày đó còn xa vời lắm.  Hôm nay, nhân ngày lễ trọng để kính nhớ Đức Mẹ Maria Thăm Viếng Bà Thánh Elizabeth” chúng ta nhớ đến sự vui mừng gặp gỡ và tình chị em của hai phụ nữ liên kết niềm tin của họ trong Thiên Chúa Toàn Năng.

Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác

Giờ đây bạn ra đi, đến phương trời xa xa.

“Giờ đây bạn ra đi, đến phương trời xa xa”.

“Nhìn con tàu chia ly, vấn vương lòng ta.

Tàu đêm lạnh buốt giá, lạnh đến tận tim ta.

Lạnh cho người đi xa, xa quê nhà”.

(Minh Kỳ – Tiễn Bạn)

Trần Ngọc Mười Hai

(Ga 14: 19-20/Ga 1: 1-4)

Lời ca trên, sao cứ văng-vẳng mãi trong đầu bần đạo, suốt mấy ngày. Cứ như thể, nghệ-sĩ viết nhạc có tên là Minh Kỳ lại đã dùng lời lẽ rất thi-tứ để cùng tôi/cùng bạn, ta nói với nhau những lời da-diết như sau:

“Mai đây, khi buồn đến sân ga. Êm mơ con tàu mấy đêm qua.

Mà rồi giờ đây, tìm đâu thấy bóng, chung vui hòa ca.

Rồi lòng buồn mơ, chậm lê nhịp bước, mang theo tình ta.” (Minh Kỳ – bđd)

Vâng. Con tàu cuộc đời của bạn tôi, nay chuyển bánh/rời sân ga đời người, để đi về chốn miên-trường xa mù-tắp, rất nhân-trần. Con tàu mà bạn tôi đặt chân lên đó, có những lời lẽ buồn-bã hơn cả là khi bạn còn ngoái cổ nhìn lại người thân đang ở gần, để tìm thêm đôi lời hát rất như sau:

 “Mai đây, khi bạn sống nơi xa. Mai đây, sông bờ cách đôi ta.

Bạn ơi có biết, đời ta sẽ sống, trong bao chờ mong.

Chờ một ngày mai, bạn cùng tôi hát, khúc ca tương phùng.”

(Minh Kỳ – bđd)

Vâng. Vào ngày “N” hôm ấy, bạn trẻ của tôi tên là Phêrô Nguyễn Đình Khâm ở Yagoona, Sydney có nhắn với bần đạo bầy tôi đây đôi lời, rằng: “Có thể nào, sau chuyến ra đi của đàn em cùng trường Dòng là Nguyễn Thành Thông, anh cho bọn này đôi ba tâm-tình rất “phiếm” để cảm-thông, nhung-nhớ chứ?”

 Vâng. Thoạt nghe tin bạn Nguyễn Văn Thành (tự là Thành-Thông) đã nhẹ-nhàng/thanh-thản về với thế-giới bên kia, đã thấy buồn. Giờ, còn lại chỉ đôi lời nhắn của bạn hiền hôm ấy, bần đạo càng thấy thấm-thía hơn về nỗi buồn xa cách, đến độ thế.

Dù buồn cách mấy, thôi thì bạn cũng hãy cùng tôi, ta dắt-dìu nhau đi vào khu vườn Lời Chúa có những lời-lẽ vàng/ngọc, sau đây:

“Chỉ một ít thời gian nữa các con không còn thấy Thày.

Phần các con, các con thấy Thày. Vì Thày sống và các con cũng sẽ sống.” (Ga 14: 19-20)

Đoạn Tin Mừng trên, do anh Mai Văn Thịnh, linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế trích-dẫn ngày hôm ấy, đã khiến bần đạo thấy cảm-kích bèn có tâm-tình sẻ san cùng gia-đình nhà hiếu, những câu sau đây:

“Đời người, ai cũng gặp cơn phong ba bão táp. Nhưng, sóng gió cuộc đời mà Thành và Thủy từng gặp, cũng không ít. Tuy là thế, nhưng Thành-Thủy vẫn lướt vượt để qua cơn biến-động, đến thời thái-lai.

 Nay sóng gió cuộc đời của gia-đình Thủy đang trờ tới tưởng chừng như là tột-đỉnh. Nhưng, như Tin Mừng tối hôm qua anh Mai Văn Thịnh đọc và san-sẻ trong buổi lễ tiễn chân Thành có nói: chỉ một ít nữa thôi, Thày sẽ giã từ các con. Và, chỉ một ít nữa Thày lại sẽ gặp các con…

 Hôm nay cũng thế. Chỉ một ít nữa thôi, sóng gió tột-đỉnh trong đời sống của gia-đình Thủy rồi cũng qua đi. Và, chỉ một ít nữa thôi, Thủy và các cháu cũng sẽ đạt bình-an trong tâm-hồn và cuộc sống, mà thôi.

 Thế nên, lời cuối cùng của anh hôm nay, là: Thủy và gia-đình hãy tin vào Lời Chúa nói. Hãy vui lòng phó thác mọi sự trong tay Chúa và chấp-nhận. Cũng chỉ một ít nữa thôi, mọi sự rồi sẽ tốt đẹp. Cả trong lẫn ngoài.

 Anh em đây, chúc Thuỷ và gia-đình cứ thế hiên-ngang lướt vượt mọi sóng gió, để còn sống. Sống vui, sống mạnh trong tin-tưởng vào Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu, với mọi người.” (X. www.giađinhanphong.blogspot.com Duc in Altum Quí 2/2016 số 94, phần “Giọng Cũ Xa Gần”)

Suốt gần tuần-lễ đồng-hành với người em lớp dưới trong Gia-đình An-Phong Sydney, bần đạo cảm-nghiệm được những lời sẻ-san/diễn-giải đoạn Tin Mừng tưởng rằng sẽ buồn về cuộc đời người, như đấng bậc nhà Đạo mình từng lên tiếng:

“Hành trình sống Đạo, theo ngôn ngữ Hy Lạp “Hodos”/“Con Đường”), đã xuất hiện trong bối cảnh Tin Vui An Bình, ở Tân Ước. Trình thuật về “Con Đường”, mà các tín hữu khi xưa vẫn gợi nhớ những “Người bước theo Con Đường, Chúa đi”.

 Và, vấn đề “Con Đường” cuộc đời hôm nay, là: quá nhiều người đồ đệ theo Chúa nay vẫn lạc. Lạc Đường, lạc lối vì vô tâm hay cố tình đi trệch dẫn đi xa. Hành trình Con Đường trần thế, theo thánh Luca, là tập-trung hướng về tụ điểm có cứu độ của Đức Chúa. Và, chính đó là ưu tư buồn bã, mà đồ đệ Chúa, vẫn ngộ nhận. Ngộ nhận lớn, là: sau cái chết của Thầy, dân con đồ đệ như mất hướng, rất chán nản. Tuyệt vọng. 

Họ tuyệt vọng, là bởi đã cản trở không để Chúa hiện diện đi vào đường đời của chính mình. Đức Chúa chỉ đi vào “đường đời riêng tây của mọi người một cách thầm lặng và bất ngờ”. Ngài thường đến với cuộc đời mỗi người qua hình hài người bạn thân, đồng môn hoặc đồng nghiệp. Hoặc, như một khách lữ hành, ngang qua đời mình. Cũng có thể, là người mà ta yêu thương, ngưỡng mộ, hoặc ghét bỏ sợ sệt, chỉ muốn quên.

 Đến với ta, có thể Chúa mang thân-phận hình hài của biến cố. Một sự vật. Không hình tượng, hoặc cũng chẳng định-hình. Nhưng, qua các sự vật và hình-hài ấy, Ngài muốn nói với tất cả thật nhiều điều. Nhưng có điều là: con người cứ tự che kín không nhận ra, thôi.          

 Điều quan-trọng nữa, là ta phải xác-tín rằng: trong hành-trình đường đời, chẳng khi nào ta cô-đơn, lẻ bóng hết. Bởi, Ngài vẫn luôn hiện-diện ở ngay đó, như Ngài từng nói: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày, cho đến thời sau hết”. Tuy thế, đôi lúc ta vẫn hành-xử giống hệt đồ-đệ thân/quen trên Emmaus đường đời, cứ ngỡ là Ngài bỏ rơi, để ta lại một mình, chẳng đoái thương.

 Thực-tế đời thường từng minh-chứng: Ngài vẫn ở gần bên mỗi khi ta gặp âu-sầu, bức-bách. Cả những lúc lo-âu, ta vẫn thấy như có ai hỏi: “Các anh vừa trao-đổi với nhau về gì vậy?” (Lc 24: 17). Đây, là điểm hẹn để ta có thể gặp-gỡ Chúa. Tuy nhiên, không phải như nhiều người thường nghĩ: khi cầu-nguyện, là ta có thể trút bỏ mọi yếu-đuối, buồn đau và khổ-ải. Là, dẹp bỏ được các hờn-căm, chán-chường. Mà, nguyện-cầu thực-sự là biết suy-tư ứng-nghiệm Tin Mừng; và lấy đó làm đường-hướng quyết noi theo.

 Trong thực-tế ngày thường, khi gặp khó-khăn, ta luôn tập-trung nguyện cầu. Nguyện và cầu đây, không phải để xin xỏ. Nhưng, là giáp mặt/gặp-gỡ Ngài tại nơi ta thấy khó-khăn. Vì, Ngài thường hiển-hiện, gặp ta vào lúc ấy.” (X. Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài Năm A, Chúa Nhật thứ 3 Phục Sinh, nxb Tôn-giáo 2012 tr. 76-77)

Kinh-nghiệm hiếm-quí về “con đường cuộc đời” nay thấy có ca-từ đầy kể lể về tình bạn, nhớ bạn và thương tiếc bạn ra đi về chốn trời xa, cứ là lảng-vảng trong đầu những ca-từ như sau:

“Giờ đây bạn ra đi, trên con tàu chia ly.

Giờ đây còn vui chi, kẻ ở người đi.

Ngày mai bạn biên thư, để cho lòng bớt nhớ.

Ðể cho tình đôi ta, không phai mờ.”

(Minh Kỳ – bđd)

Thật ra thì, có hát gì thì hát. Nói gì thì nói. Hát và nói, là để dấy lên những tình-tự chính-qui, chính-mạch của Đạo mình, vẫn có lời rằng:

“Anh em đừng xao xuyến!

Hãy tin vào Thiên-Chúa và tin vào Thầy.

Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở;

nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi,

vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.

Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em,

thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,

để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.

Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

(Ga 1: 1-4)

 Vâng. Xin nghe theo lời dặn của Thày Chí Thánh, để rồi bạn và tôi, ta sẽ nhắn/bảo nhau hãy lướt-vượt cơn giông bão/sóng dồn buồn/phiền mà hướng về phía trước. Bởi, phía trước mặt chúng ta, luôn còn đó ánh-sáng chói-loà một tin-yêu và hy-vọng, để ta sống quãng ngày còn lại, khi “không-gian đụng thời gian”, chứ?

Vâng. Là, bạn bè có niềm tin thương-yêu giống nhau, bạn hãy cùng tôi, ta cứ nắm tay nhau đi vào giòng chảy tâm-tình có tình-tự nâng/nhấc, đến thật vui. Còn vui hơn, khi ta lại bắt gặp câu truyện nhè-nhẹ, những kể rằng:

“Một ngày nọ, có một người hỏi một vị lão tiên sinh, mặt trời và mặt trăng, cái nào quan trọng hơn? Vị lão tiên sinh kia suy nghĩ nửa ngày, mới trả lời: “Là mặt trăng, mặt trăng quan trọng hơn. Tại sao?

 Bởi vì mặt trăng chiếu sáng vào ban đêm, đó là thời điểm chúng ta cần ánh sáng nhất, còn mặt trời lại chiếu sáng vào ban ngày mà ban ngày chúng ta đã có đủ ánh sáng rồi. Bạn có lẽ sẽ cười vị lão tiên sinh này là hồ đồ, nhưng mà bạn không biết là có rất nhiều người cũng nghĩ như thế sao? Người mà hàng ngày chăm sóc bạn, bạn cũng không cảm nhận được điều gì cả? Nhưng nếu là một người xa lạ ngẫu nhiên giúp đỡ bạn, bạn sẽ cho rằng đó là một người tốt, cha mẹ và người thân của bạn luôn luôn vì bạn mà hy sinh, mà đánh đổi nhưng bạn lại cảm thấy đó là việc đương nhiên, thậm chí có khi còn thấy phiền toái. Một khi người ngoài làm một việc na ná như thế thì bạn lại sẽ hết sức cảm kích. Đây chẳng phải là giống như đã hồ đồ “cảm kích ánh trăng mà phủ nhận mặt trời” hay sao?

 Một cô gái đã có một cuộc tranh cãi với mẹ của mình, tức giận đến mức tông cửa chạy ra ngoài và quyết định không bao giờ trở về ngôi nhà chán ghét này nữa. Cô đã đi lang thang cả ngày ở bên ngoài, đến lúc bụng đói cồn cào, nhưng lại không có một đồng tiền nào, mà lại không muốn trở về nhà để ăn cơm. Mãi đến lúc trời tối, cô mới đi vào một quán mì, ngửi thấy mùi mì thơm tỏa ra. Cô thực sự rất muốn được ăn một bát, nhưng trên người không có tiền, chỉ có thể liên tục nuốt nước miếng.

 Bỗng nhiên, ông chủ quán mì ân cần hỏi han: “Cháu gái, cháu có muốn ăn mì không?”, cô gái ngượng ngùng trả lời: “à, nhưng mà, cháu không mang tiền”. Ông chủ nghe xong cười to: “haha, không sao cả, hôm nay cứ coi như bác mời cháu đi!” Cô gái quả thực không thể tin vào lỗ tai mình, cô ngồi xuống, ngay lúc đó, một bát mì được mang ra, cô ăn say sưa, và nói: “Bác chủ quán, bác thật là một người tốt!”

 Ông chủ quán nói,: “Ồ, sao cháu lại nói vậy?”, cô gái trả lời: “Chúng ta vốn không quen biết nhau, bác lại đối xử tốt với cháu như vậy, không giống như mẹ của cháu, hoàn toàn không hiểu được những nhu cầu và ý nghĩ của cháu, thật là bực mình!”

 Ông chủ quán lại cười: “haha, cháu gái, bác chẳng qua mới chỉ cho cháu một bát mì thôi, mà cháu đã cảm kích bác như thế, thế mà mẹ của cháu đã nấu cơm cho cháu hai mươi mấy năm nay, cháu chẳng phải là càng nên cảm kích mẹ của cháu hay sao?”

 Nghe ông chủ quán nói xong, cô gái như tỉnh giấc mơ, lập tức nước mắt trào ra, cô bỏ mặc nửa bát mì còn lại mà vội vàng chạy về nhà. Mới đến ngõ trước cổng nhà, cô đã nhìn thấy bóng mẹ xa xa, đang lo lắng nhìn quanh bốn phía cổng ra vào, trái tim cô như thắt lại, cô cảm thấy muốn nói một ngàn lần một vạn lần lời xin lỗi với mẹ của mình. Nhưng cô còn chưa kịp mở miệng thì mẹ của cô đã nghênh đón và nói: “trời ơi, con cả ngày đã đi đâu thế này? Mau mau, đi vào nhà rửa chân tay, ăn cơm tối đi.”

Tối hôm đó, cô gái mới cảm nhận được sâu sắc tình yêu của mẹ đối với mình. Khi đã quen với sự hiện diện của mặt trời, mọi người đã quên mất là nó đem lại cho mọi người ánh sáng, khi đã quen với sự chăm sóc của người thân, mọi người thường quên mất họ đã cho mình sự ấm cúng, một người quen được chăm sóc từng li từng tí thì ngược lại sẽ không thấy biết ơn, vì họ cho rằng, ban ngày đã đủ ánh sáng rồi, cho nên mặt trời là dư thừa, không cần thiết.

 Hy vọng trong chúng ta mỗi người đều biết mặt trời và mặt trăng, cái nào quan trọng hơn.

Trong cuộc sống thực tại, chúng ta thường hay không để mắt đến những điều mình đã có, cho rằng chúng là lẽ đương nhiên, không có gì quan trọng với mình, mà lại đi phàn nàn số phận bất công, như thể là thế giới này thiếu nợ chúng ta rất nhiều thứ vậy.

 Kỳ thực, biết ơn cũng là một loại thái độ tích cực của cuộc sống, đúng như một số người đã nói: “Hãy cảm ơn người đã làm bạn tổn thương bởi vì họ là người đã tôi luyện ý chí của bạn, hãy cảm ơn người đã lừa dối bạn bởi vì họ đã làm phong phú thêm kinh nghiệm của bạn, hãy cảm ơn người đã coi thường bạn bởi vì họ đã làm thức tỉnh lòng tự tôn của bạn…”. Cần phải mang một tấm lòng biết ơn, biết ơn số phận, biết ơn hết thảy những người đã giúp bạn trưởng thành, biết ơn hết thảy những gì ở xung quanh mình. 

Để có một tấm lòng biết ơn, yêu cầu chúng ta cần phải để tâm quan sát, dụng tâm cảm ngộ, càng cần chúng ta phải biết yêu thương. Cỏ cây sinh trưởng phát triển mạnh mẽ là để báo đáp ân huệ của mặt trời mùa xuân, chim chóc liều mình kiếm ăn là để báo đáp ân huệ được nuôi nấng, cây mạ phát triển khỏe mạnh là để báo đáp ân huệ của dòng nước mát, con cái cố gắng học tập là để báo đáp công ơn sinh thành và dạy dỗ của cha mẹ.

 Hãy học cách biết ơn đi! Khi bạn cảm ơn cuộc đời, cuộc đời sẽ ban thưởng cho bạn ánh nắng mặt trời rực rỡ. Bạn oán trách trời đất, khả năng cuối cùng chỉ có hai bàn tay trắng mà thôi! Không phải vậy sao? Mây cuốn mây bay, hoa nở hoa tàn đều đáng để chúng ta quý trọng, cảm ơn mặt trăng, càng cần phải cảm ơn mặt trời!” (trích truyện kể ở trên mạng)

Đã gọi là truyện kể để minh-hoạ, thì có lẽ và có thể hôm nay đây, khi ai đó trong vòng thân/quen đã giã-từ bầu bạn mà ra đi về chốn miên-trường, thì ắt hẳn bạn và tôi, ta lại sẽ nghe văng vẳng thêm ca-từ nhè-nhẹ hôm ấy, những hát rằng:

 “Mai đây khi bạn sống nơi xa. Mai đây sông bờ cách đôi ta.

Bạn ơi có biết, đời ta sẽ sống, trong bao chờ mong.

Chờ một ngày mai, bạn cùng tôi hát, khúc ca tương phùng.” (Minh Kỳ – bđd)

Vâng. Có thể và có lẽ: khi giáp mặt từng chặp và từng chặp sự “ra đi” của bạn hiền, thì tôi và bạn có vững tâm cho lắm cũng chỉ nói được như đấng bậc nhân-hiền nhà Đạo, từng ủy-lạo:

“Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi.

Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.

Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính;

Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy,

và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Ngài xuất hiện.” (2Ti 4: 6-8)

Nói cho cùng, phải nói có lý-chứng mới thuyết-phục được nhau để đi tới mãi. Nói cho cùng, là còn nói bằng những lời sẻ-san một tình-tự thân-thương đầm-ấm, như đấng bậc nọi từng san sẻ, rằng:

“Theo Đường của Chúa, không là ra đi đến bất cứ nơi nào, chẳng hề định-hướng. Mà, là trở-thành người đặc biệt để nhận chân ra Sự Thật và Sự Sống, Chúa tỏ bày. Theo Đường của Chúa, là tháp-nhập vào thị-kiến-giá trị của Chúa. Tháp-nhập, để trở thành người của Sự Thật và Sự Sống. Ở đây nữa, tháp-nhập không chỉ theo nghĩa của nhận-thức, trí-tri. Bởi, Sự Thật Chúa tỏ bày, không là nhận-thức trí-tri, nhưng là những hài-hòa toàn-vẹn diễn-bày nơi sự sống và bản-chất thánh-thiêng, của chính Thầy. Sự Thật về Chúa, là cảm-xúc. Là, ý nghĩ, hành-động  lẫn tương-quan. Là, tất cả nhân-vị ở trong hay ở ngoài, Thầy vẫn có. Với mọi người, sống Sự Thật là sống năng-động, biết đáp-ứng với sự sống an-lành, Chúa ban.

 Đến với Cha qua Thầy-là-Đường, còn có nghĩa là: đến với Cha qua Sự Thật và Sự Sống-của-Thầy. Bởi, nơi Thầy vẫn gồm tóm Sự Sống của Cha, rất đích-thực. Thành thử, tháp-nhập vào Sự Sống của Cha, Thầy là mẫu-mực cho ta tăng-trưởng, giống Cha Thầy. Giống Cha Thầy, để rồi ta sẽ có kinh-nghiệm sống tình yêu-thương viên-mãn, ở nơi ta.” (X. Frank Doyle Suy Niệm Lời Ngài Năm A Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh, nxb Tôn Giáo 2012 tr. 84-85)

Nói cho cùng, thì: có phân-ưu/trải-nghiệm niềm xao-xuyến nào đó, còn là và phải là nỗi-niềm của bạn bè thân/quen này/khác, cũng có tình-tự vào giờ phút “tâm tình” với nhau và cho nhau của người anh em cùng trường là đương-kim Chi-hội-trưởng Sydney, đã phát-biểu:

Em xin đại diện gia đình An phong có đôi  lời tâm sự để cùng chia sẻ về sự ra đi của anh An-Tôn Nguyễn văn Thành.

Ngoài thân bằng quyến thuộc, anh Thành còn có giađình thứ hai là Giađình AnPhong. Anh ra đi để lại bao thương nhớ và tiếc nuối cho mọi người.

 Là cựu đệ tử dòng Chúa Cứu Thế, anh cũng thuộc nằm lòng kinh nguyện  đọc trước giờ ngủ rằng:

“Lạy Chúa, con biết thật con sẽ chết. Có khi con vào giường nằm nghỉ mà sáng mai chẳng còn trỗi dậy nữa, cho nên Chúa dặn bảo con vào giường nằm nghỉ như là vào mồ chết vậy.”

Anh giãtừ trầnthế ngay sau thánhlễ cha Giuse Mai văn Thịnh cầu nguyện cho anh với sự chứngkiến của vợ con và bạn bè. Tay anh buông xuôi giãtừ trầnthế nhưng anh đã nắm chặt cây thánh giá để Chúa trao ban cho anh cuộc sống trườngsinh.

 Anh em Cựu Đệ Tử  trên lớp, cùng lớp với anh và các lớp đàn em đều có những kỷ niệm đẹp về anh. Hồi ở Việt nam, bạn bè nhớ anh qua tên Nguyễn Thành Thông, qua tiếng đàn  guitar điêuluyện của anh. Nhớ anh qua giọng nói thoảhiệp nhẹ nhàng nhưng hiệuquả, giải quyết được những xungkhắc tức thời. Em thuộc lớp đàn em, nhớ anh qua những buổi sinhhoạt thântình đầmấm trong Giađình AnPhong Sydney.

 Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, Mẹ là ngôi sao sáng, xin Mẹ đoái thương đưa dẫn linhhồn AnTôn về bến bìnhan trong tay Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Xin Mẹ chechở phùhộ cho chị Thủy và giađình tiếptục vượt qua những giông ba bão táp nơi trầnthế này.

 Sau cùng, Gia Đình An Phong Sydney xin thànhkính phânưu cùng chị Thủy và giađình.

 Nói cho cùng, còn là nói lên niềm vui hưng-phấn vượt lên trên tình-cảm/ủy-mị, để còn sống vững mạnh những ngày vui ở phía trước.

Nói cho cùng, trải-nghiệm cuộc đời người ngang qua giây phút xao-xuyến, sầu buồn mất mát. Còn là và sẽ là suy-tư nhiều hơn nói. Suy-nghĩ và tư-lự, bằng những lời vang ngọc của đấng bậc nhưy sau:

“Sống không giận, không hờn, không oán trách

Sống mỉm cười với thử thách chông gai

Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai

Sống chan hòa với những người chung sống

Sống là động nhưng lòng luôn bất động

Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương

Sống yên vui danh lợi mãi coi thường

Tâm bất biến giữa lòng đời vạn biến!”

Nói cho cùng, còn là và phải là: vừa nói vừa kể đôi chuyện vui nhè nhẹ/dí dỏm để cùng “lên tinh-thần”, rằng:

“Một con chuột nhà một hôm ghé thăm bạn ở đồng quê. Bữa trưa. Chuột Đồng dọn bữa ăn chỉ toàn là, trái cây, rễ, và lỏi bắp, với một chút nước lạnh để uống. Chuột Nhà chỉ ăn lấy lệ, nhấm nháp một chút món này, một chút món kia, và chẳng cần giấu giếm gì nó nói rằng: nó ăn với chuột đồng một chút là chỉ để cho vui thôi.

Sau bữa ăn, hai con chuột trò chuyện rất lâu, nói cho đúng là Chuột Nhà cứ kể chuyện về cuộc sống của mình ở thành phố còn Chuột Đồng thì chỉ ngồi nghe. Rồi chúng vào trong một cái tổ chuột ở bờ rào và ngủ một giấc êm ái và thoải mái cho đến tận sáng hôm sau. Trong giấc ngủ, Chuột Đồng mơ thấy mình được ở thành phố với đủ mọi tiện nghi sang trọng và sung sướng mà nó đã được nghe bạn kể.

 Thế là sáng hôm sau, khi Chuột Nhà mời Chuột Đồng về nhà với mình ở thành phố, nó sung sướng nhận lời ngay. Khi chúng về đến ngôi biệt thự mà Chuột Nhà sống, chúng thấy trên bàn ăn còn lại những thứ thức ăn thừa của một bữa tiệc rất sang trọng. Có cả bánh kẹo, mứt, phó mát, thực vậy, những thứ thức ăn hấp dẫn nhất mà Chuột Đồng chưa có thể tưởng tượng được. Nhưng ngay khi Chuột Đồng vừa sắp nhấm nháp một chút bánh ngọt, nó nghe thấy tiếng con mèo kêu thật lớn và tiếng móng vuốt của nó nghiến trên sàn nhà.

 Quá sợ hãi, hai con chuột vội vàng tìm chỗ nấp, chúng nằm im một lúc lâu, hầu như không dám thở mạnh. Khi vào lúc cuối cùng chúng đánh bạo quay trở lại bàn tiệc, cánh cửa bỗng dưng mở ra và người đầy tớ bước vào dọn bàn, theo sau là một con Chó Nhà cao lớn.

Chuột Đồng vội cầm lấy nón và bị nói: “Bạn có thể có những thứ xa xỉ và những món ăn ngon mà tôi chẳng có,” nó vừa nói vừa chạy, “nhưng tôi lại thích những thứ thức ăn thanh đạm và cuộc sống giản dị ở đồng quê luôn có sự yên bình và thanh thản hơn.

 Và, lời bình: của tuanday65vn như sau:

 “Hãy biết tự chủ. Không có sự bình thản luôn ẩn hiện nổi lo âu sợ sệt cạnh bên. Không có hạnh phúc khi mọi vật là của người mà không phải là của chính mình tạo ra nó. Vì vậy khi mình phải luôn là kẻ hưởng thụ cái của người khác, dù đó là của thừa thải, thì vẫn là bất an không thoải mái chút nào.

 Vậy ta phải làm sao đây? Hãy nhẫn nại học hỏi, để ta có thể tự mình đứng lên bằng chính thật đôi chân của mình, và hiện tại ta đang nhờ ai, thì hãy biết ơn để được trả ơn đó.”

 Và, nói cho cùng cũng bằng một nhắn-nhủ, là: ta không nên có kết-đoạn ủy-mị, sướt-mướt những giọng buồn. Trái lại, vẫn cứ vui như  truyện kể để “tiễn bạn” vừa “đáp con tàu đi về chốn miền xa xăm không ai biết, cũng chẳng ai muốn đi, như sau:

“Một cậu bé trạc khoảng 15 tuổi muốn có tiền tiêu, thay vì chìa tay ra xin mẹ, cậu ta bèn nghĩ ra cách viết 1 tờ giấy gởi đến mẹ như sau:

  1. Sáng phụ Mẹ dọn dẹp giường ngủ – $1.00
  2. Phụ Mẹ dọn dẹp bữa ăn sáng – $2.00
  3. Sau khi đi học về coi em – $3.00
  4. Phụ Mẹ dọn bữa ăn tối, sau đó dọn dẹp – $4.00 – Cộng: $10.00

Thời hạn thanh toán: Sáng sớm mai trước khi con đi học

Sáng sớm ngày mai bà mẹ đặt tờ giấy bạc $10 trên bàn cho cậu ta và sau khi cậu rời nhà đi học,

bà mẹ lật mặt sau tờ giấy lại và ghi như sau:

 Mẹ mang bầu con 9 tháng 10 ngày – Miễn phí

  1. Tiền tã lót, bệnh viện, sữa khi sinh con – Miễn phí
  2. Tiền nuôi con từ lúc sinh ra đến nay – Miễn phí.
  3. Chi phí ăn học, chữa trị cho con khi ốm đau – Miễn phí
  4. Lo đám cưới cho con hoặc phải nuôi con trọn đời nếu con tật nguyền hoặc bị bệnh nan y – Miễn phí
  5. Các khoản không thể liệt kê hết đều miễn phí cho con trai của Mẹ

Thời hạn chi trả cho con – Trọn đời Mẹ

Khi đi học về cậu chạy vô phòng, thấy tờ giấy cậu cầm lên đọc.

Rồi cậu lấy ra 1 tờ giấy khác và viết như sau:

 Thưa Mẹ, con xin lỗi Mẹ… Kể từ nay:

Phụ giúp Mẹ – Miễn phí.

Ráng ăn học thành tài – Miễn phí.

Sẵn sàng giúp đỡ mọi người – Miễn phí.

Luôn quan tâm, săn sóc Mẹ – Miễn phí.

Các khoản chi tiêu lo cho Mẹ khi về già – Miễn phí.

Thời hạn thực hiện……….. Trọn đời con.

 Sáng hôm sau khi con còn đang ngủ, bà mẹ vẫn đặt tờ giấy bạc $10.00 lên bàn cho con thì bỗng thấy tờ giấymà cậu viết. Sau khi đọc xong, những giọt nước mắt lăn dài trên má bà mẹ song miệng vẫn nở 1 nụ cười và bà nghĩ rằng có lẽ đây là nụ cười mãn nguyện nhất từ khi sanh con đến nay.”

 Nói như thế, là nói bằng tình-tự sẻ-san cho nhau và với nhau những vui/buồn của cuộc đời, cách miễn phí. Nói như thế, là nói bằng tình-tự nhẹ-nhàng, thoải mái với nhau và bên nhau một tình-huống rất “Thành Thông”, “Đình Khâm”, cùng họ Nguyễn của tôi, của bạn , của chúng ta.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những phút giây thâm-trầm

Khi chứng-kiến tận mắt giây phút

Bạn mình thở hắt rồi ra đi

Về với Chúa.

Với người Cha của chúng mình. 

“Tình đã đến trong những ngày độc dược,

“Tình đã đến trong những ngày độc dược,

Trong nhựng ngày rữ nát mọi tinh-hoa.

Trong những ngày sự sống diễn ra,

Bằng điên-dại dẫm bừa lên sự sống.

Nhìn nhau đi em để thấy những giòng xanh,

Hạnh-phúc trần-gian đang lăn từ khoé mắt.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 Mai Tá lược dịch.

Nhìn nhau đi, để thấy được giòng xanh hạnh-phúc. Giòng xánh ấy, rất dễ thấy nơi dân-gian cuộc đời có Chúa, có Mình và Máu Chúa như trình-thuật hôm nay còn diễn-tả nơi Tiệc Thánh, rất agapè.

Mừng tiệc thánh agapè mỗi tuần, cộng đoàn nơi tôi ở vừa tái thiết nguyện đường cho an toàn, hợp lý. Một trong những điều tôi cảm thấy lạ, là: cửa Nhà Tạm Chúa ngự được làm bằng kính, rất sáng trong. Trong đến nỗi, ánh sáng bên ngoài có thể lọt vào, để lộ hiện nguyên hình chén thánh. Và đây cũng là lần đầu, tôi cảm thấy yếu tố này đã đánh động, thu hút lòng Đạo nơi tôi và chắc cũng là của một số anh em.

Phản ứng của anh em chúng tôi cũng đa dạng, đôi lúc thật lạ lùng. Người cho rằng: làm thế không trang nghiêm, thiếu tôn kính. Kẻ bảo là: lập trường cấu trúc cũng không tệ. Tựu trung, đa số đã bày tỏ sự đồng thuận, là: hãy nên để thế. Để như thế, vì Mình Thánh Chúa là Thực phẩm nuôi sống chúng ta, mỗi ngày.

Mỗi ngày, ta nhìn thấy Ngài, rất muốn sẻ san. Ngài là thực phẩm, nên cũng cần mang dáng dấp chào mời, dễ bẻ vụn và phải đổ tràn ra bên ngoài bằng yêu thương, vô bờ bến. Đó, chính là động tác Chúa thực hiện vào Tiệc Thánh, chiều Thứ Năm hôm trước ngày khổ nạn. Và, đó cũng là việc ta vẫn làm mỗi tuần, ngày của Chúa.

Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân  tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.

Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc. Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn.

Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Chúa, và uống Máu Chúa , như được dạy bảo. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn. Cộng đoàn tình thương. Dự tiệc lòng Mến, dự rất đông và tích cực.

Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài. Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ.

Ta đến, không phải vì sợ phạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm; và họ cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.

Đến dự Tiệc thánh, tuyệt nhiên không là đi “xem lễ” như ta lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai, đầy hưng phấn. Như Chúa từng bày tỏ: “Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệ của Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” (Yn 13: 35). Và, “Xin cho chúng nên một để thế gian biết Cha đã gửi Con đến” (Yn 17: 21-23)

Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin.

Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi. Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự “rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.

Vì thế, người dự Tiệc ngày Chúa nhật vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương.

Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.

Qua sẻ san Mình và Máu Thánh Chúa, cộng đoàn tình thương mới nhận ra rằng: không chỉ riêng có Đức Kitô đến với ta, mà thôi. Nhưng, là cả Thân Mình Ngài có cộng chung chi thể, là cộng đoàn thân thương ta sống cùng, và sống với.

Ở một số cộng đoàn, nhiều vị có thói quen bái gối trước khi đón nhận Bánh Thánh. Nếu đây là cử chỉ thông thường nhằm tỏ lòng tôn kính, tưởng cũng nên bái gối trước cộng đoàn đang xếp hàng đón nhận Thân Mình Chúa vào bên trong mọi người.

Tóm lại, hiệp thông nhận đón Chúa, không chỉ riêng Đức Kitô đến với ta mà thôi. Mà còn là, cộng đoàn tình thương đã ở trong ta. Với ta.

Thành thử, khi nhận Bánh Hằng Sống vào tay và đáp lời “Amen”, ta đã nghiêm túc nhận lời mời trở thành thân mình Chúa. Thân Mình Ngài, đã vụn thành tình thương yêu. Máu Ngài đã đổ tràn hy vọng. Nhờ đó, thế giới được cứu thoát khỏi con người mình. Khỏi cái “mình” xấu xa, đớn hèn. Và từ đó, tìm được sự sống trọn vẹn nơi Chúa.

Có Chúa ở với và ở cùng, đón rước Mình và Máu Ngài, ta ngân vang lời thơ của thi-sĩ họ Hàn, rằng:

Ta há miệng cho Nguồn Thơm trào vọt:

Từ thời Xuân! Từ Thờ Xuân non nước!

Phút thiêng-liêng nhuần gội ánh thiều-quang,

Thiên-hạ bình và Trời tuôn ơn phước,

Như triều-thiên vờn lượn khắp không-gian.

Ta cao ngân, giọng vô-cùng thanh-thoát,

Khiến châu-thân rung-động thể tơ trăng.”

(Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm)

Vâng. Đúng thế. Nguồn Thơm đã thấm-nhập vào châu thân rung-động của chính ta. Của cả cộng-đoàn và mãi mãi, ta sẽ vui vầy Tiệc Thánh mến yêu Mình Máu Chúa, rất agapè.

 Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

MÌNH MÁU THÁNH CHÚA

 MÌNH MÁU THÁNH CHÚA

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho ta:  Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực để ban sự sống cho ta, để  tiếp nhận ta vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều. Phép lạ này không phải từ “không ra có”, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Tương tự như vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn con người cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quý được dành riêng cho ta trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Ðức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp. Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn. Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.
MINH MAU THANH CHUA
Đã bao nhiêu thế kỷ qua đi, có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa. Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Ðức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em. Rước lễ là rước lấy Ðấng đã chết vì loài người, Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết va đã sống lại. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Ðấng đang sống và đang ban phát sự sống.
Dự thánh lễ là tham dự một bữa ăn, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ.  Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong những ngày qua.  Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi.  Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá.  Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh.  Ðúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến tấm bánh thành lương thực thần linh nuôi tôi.  Như thế, tấm bánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Ðịa, Nhân.  Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện vào nhau.  Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người.  Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình.  Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi.  Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất…
Mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa là Mầu Nhiệm Tình Yêu.  Chính vì thế mà Thánh Gio-an đã viết về đêm Người bị trao nộp: “Người đã yêu thương họ đến cùng.”  Vì yêu thương đến cùng nên Người cũng hiến thân đến cùng. “Này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy, các con ăn đi, và hãy làm như thế để tưởng niệm Thầy”.

******************************

Lạy Chúa Giêsu!  Có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ, nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong trắng của đôi bạn trẻ…
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, ngọn đèn màu đỏ lung linh sáng, mời gọi tha nhân dừng bước, để trầm tư và gặp được Chúa. Amen
Tổng hợp từ R. Veritas

Langthangchieutim gởi

TÔI ĐI TU!

TÔI ĐI TU!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Bà ôm tôi, bảo rằng bà hãnh diện vì tôi.

Bố trầm ngâm, chẳng nói gì, bảo rằng tôi đã lớn, hãy tự quyết định cho cuộc đời.

Mẹ rươm rướm nước mắt, lo lắng, chẳng biết tôi vào “trong đó” rồi sẽ ăn ngủ ra sao.

Có một người con gái cũng vì tôi mà nhỏ lệ.

Đám bạn thân, có đứa chúc mừng, có đứa bàng quan, có đứa cười khẩy, bảo “thằng này ngu, tự nhiên đánh mất cả đời trai phơi phới”!

TOI DI TU

Uhm, phải, “đời trai” cũng đẹp mà.  Cả cuộc đời dài đằng đẵng, chỉ có một lần duy nhất, người đàn ông sở hữu cái gọi là “đời trai.”  Ở cái tuổi đang hừng hừng sức sống này, một người con trai đang có trước mặt mình cả một vùng trời tươi sáng.  Biết bao con đường đang mở ra, nhìn đâu cũng toàn những viễn cảnh tươi đẹp.  Những phong ba bão táp dường như chẳng có gì đáng sợ cả.  Sức ta có, ý chí ta mạnh, ta chỉ biết con đường thẳng mà phóng tới, chẳng hề nghĩ ngợi hay đắn đo.  Những dự phóng, những kế hoạch, ta không hề thiếu.  Rồi công danh, sự nghiệp, tiền đồ phía trước như đang vẫy gọi ta.  Cả một hay thậm chí nhiều tình yêu đẹp sẽ đến với ta, làm con tim ta tan chảy hoặc nở rộ những cánh hồng tươi.  “Đời trai” hệt như một con sóng cuồn cuộn, tất cả sinh lực của trời đất như hừng hực trong mình.  Con đường vinh hoa, con đường thăng tiến như hiển hiện trước mắt, chỉ cần một bước nữa là tới thôi.

Thế nhưng, tôi bỗng dưng lại chọn cho mình một hướng rẽ.  Gạt đi những lời mời gọi hướng đến sự cao sang, tôi lại đặt bàn chân lên “một đoạn đường chẳng mấy ai đi,” một con đường gai góc.  Đi tu là đi đâu vậy?  Thú thật tôi cũng chẳng biết.  Phía trước tôi là một màn tối âm u.  Tôi chỉ nghe nơi đó vẳng lại một tiếng gọi mơ huyền, vây cuốn trái tim tôi và bảo tôi cứ men theo tiếng nói âm vang ấy mà cất bước.  Đi tu là chọn một con đường không biết đích đến, trong khi mọi chỗ an toàn để mình bám víu thì phải bỏ lại hết đàng sau.  Cứ liều mình bước đi như vậy, giữa một tư thế chông chênh, lấy niềm tin mà lao tới. Có đôi khi tôi tự hỏi bản thân: liệu mình có được mời gọi thật không, hay chỉ là do mình ảo tưởng, chuyện gì xảy ra khi bất chợt lúc nào đó tôi phát hiện ra mình đã nhầm.  Tôi tin vào tiếng gọi nhưng cũng có lúc tôi không khỏi lo sợ và dẫn đến nghi ngờ.

Đi tu, tôi có phải là một thánh nhân đâu.  Tôi vẫn còn đó những yếu đuối của một kiếp con người.  Tôi vẫn mong được ăn sung mặc sướng, muốn được ấp ủ chiều chuộng và thích làm theo ý riêng.  Càng đi tu, tôi càng nghiệm thấy rõ điều đó hơn, rằng tôi đến với Chúa bằng trọn vẹn một con người đầy loang lỗ, đầy vết nhơ, đầy thiếu sót.  Trước khi đi tu, tôi cũng ấp ủ nhiều lý tưởng cao đẹp, rằng tôi muốn dâng mình cho Chúa, muốn thuộc về Chúa, muốn cứu độ tha nhân.  Nhưng càng đi tu, tôi thấy mình như bị phô bày ra trước mắt biết bao nhiêu thiếu sót.  Càng sống trong đời tu, tôi càng cảm thấy xấu hổ khi nghĩ đến chuyện mình được hiến thánh, cảm thấy bất xứng khi có ai đó nói rằng tôi là người của Chúa, cảm thấy ngại ngùng khi bản thân mình còn chưa vẹn toàn, nghĩ gì đến chuyện cứu giúp người ta.  Sau bao nhiêu năm miệt mài theo Chúa, tôi vẫn còn thấy mình xa Chúa lắm, con đường thập giá tôi vẫn còn chưa ôm trọn vào người, bài học phục vụ tôi vẫn còn chưa đặt để vào con tim.  Có đôi khi, tôi còn mượn danh tu sĩ để tô vẽ cho bản thân những ánh hào quang giả tạo.

Nhưng càng đi tu, tôi càng nghiệm thấy Chúa yêu thương tôi vô điều kiện.  Ngài luôn đón nhận tôi, bất chấp những giới hạn và yếu đuối của tôi.  Bạn bè tôi không hiểu tại sao tôi huỷ hoại “đời trai” chỉ vì một lý tưởng mơ hồ nào đó.  Còn tôi, tôi cho rằng đặt đời mình vào tay Chúa thì “đời trai” của tôi mới sinh hoa kết quả dồi dào.  Chắc chắn là phải có những hy sinh, nhưng cảm nghiệm được một tình yêu lạ lùng từ Chúa giúp tôi thấy được nơi thập giá cuộc đời những cánh hoa tươi đẹp.  Đi tu, trước hết chỉ là “đến và ở lại” với Ngài, rồi sau đó mới là thoả sức tung cánh muôn phương.  Tôi không đi tu để trốn tránh cuộc đời vô thường, không tìm một chốn thanh tịnh nào đó để xa lánh thế gian.  Tôi lên núi gặp Chúa chính là để xuống núi với tha nhân, tôi tách mình ra khỏi thế giới là để có thể dấn thân vào nó nhiều hơn, sâu hơn.  Tôi đi tu là để hoà mình vào một tình yêu siêu nhiên và nhờ đó làm phong phú cho đời sống của mình.  Bởi thế, nên đời tu của tôi đẹp lắm!

Đường còn xa, lối đi còn muôn nẻo.  Hành trình đời tu vốn dĩ không bao giờ có sự chắc chắn và mãi mãi không có điểm dừng.  Niềm hãnh diện của bà, sự tin tưởng của bố, nỗi lo lắng của mẹ, nước mắt của cô gái kia, và cả những bỡn cợt của bạn bè, tôi khắc ghi vào tim, tôi để nó sánh bước song hành với mình.  Chẳng ai biết được tôi có trọn tình vẹn nghĩa với Chúa ở tận cuối con đường!  Chẳng ai biết được tôi có thể giữ lòng thanh thoát những trước quyến rũ của thế gian chỉ để say tình Chúa!  Chẳng ai biết được… Nhưng tôi chỉ xin cho mình biết luôn tín thác như Abraham – cất bước ra đi mà chẳng biết đi đâu, một sự sẵn sàng như Mẹ Maria – chỉ cần Chúa muốn là xin vâng mau mắn.  Đi tu, không chỉ là sửa mình, tu chỉnh mình, nhưng hơn hết, đó là một sự hiến dâng, một lời đáp cho tiếng gọi trong u tối.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

*Đại từ “tôi” được sử dụng trong bài viết có ý nói đến những người dâng hiến cách chung chứ không nhất thiết là bản thân người viết.

Tỷ phú Bill Gates: Tin Chúa là cách lựa chọn khôn ngoan

Tỷ phú Bill Gates: Tin Chúa là cách lựa chọn khôn ngoan

Tin Công Giáo

Bill Gates, người giầu nhất thế giới, gần đây đã tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn: “Tin Chúa là khôn ngoan”, và “ít nhất đó là một niềm tin đạo đức”. Một tuyên bố như thế của một trong những người nổi tiếng nhất thế giới là một tin tốt lành đối với nhân loại.

Ngày 13/03/2014, tạp chí Rolling Stone đã có một cuộc phỏng vấn dài đối với Bill Gates về nhiều vấn đề nổi cộm trong thế giới ngày nay. Kết thúc cuộc phỏng vấn là hai câu hỏi sau đây:
1.- Ông là một nhà công nghệ , nhưng rất nhiều công việc ông làm với quỹ từ thiện mang một chiều kích đạo đức. Phải chăng suy nghĩ của ông về giá trị của tôn giáo đã thay đổi trong những năm qua?

2.- Ông có tin vào Chúa không?
Câu trả lời của Bill Gates có lẽ đã làm cho những người vô thần rất thất vọng. Ngược lại, những người có đức tin tôn giáo vui mừng, đặc biệt vì ông nhấn mạnh: “ các hệ thống đạo đức tôn giáo là cực kỳ quan trọng (The moral systems of religion are super important)”.

Sau đây là bản lược dịch một trong số những bài báo tường thuật cuộc phỏng vấn của Rolling Stone: “Bill Gates Reveals Family Goes to Catholic Church: It Makes Sense to Believe in God” (Bill Gates tiết lộ gia đình ông đến nhà thờ Công giáo: Tin Chúa là khôn ngoan) của Stoyan Zaimov trên tờ The Christian Post ngày 14/03/2014.
Bill Gates tiết lộ: Tin Chúa là khôn ngoan

Bài của Stoyan Zaimov

Bill Gates, người giầu nhất thế giới, tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng gia đình của ông đi đến một nhà thờ Công giáo và rằng đạo đức tôn giáo tạo nhiều cảm hứng cho công việc từ thiện của ông. Ông cũng chia sẻ những suy nghĩ cá nhân của ông về Chúa và về những vấn đề nổi cộm mà thế giới ngày nay đang phải đối mặt.

Trả lời phỏng vấn của tạp chí Rolling Stone ngày 13/03 (đã ra mắt trên báo giấy ngày 27/03), Bill Gates nói: “Tôi nghĩ rằng các hệ thống đạo đức tôn giáo là cực kỳ quan trọng. Chúng tôi nuôi dạy con cái theo phương pháp của tôn giáo; các con tôi tới nhà thờ Công giáo nơi Melinda tới đó và tôi cũng tham gia vào đó. Tôi đã rất may mắn, và do đó tôi hàm ơn sự may mắn đó và phải cố gắng giảm thiểu sự bất công trên thế giới. Đó chỉ là một chút đức tin tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó là một niềm tin đạo đức”.

Khi được hỏi liệu ông có tin Chúa hay không, ông đáp: “ Tôi nghĩ tin Chúa là khôn ngoan, nhưng tôi không biết đích xác cái gì trong cuộc đời chúng ta làm cho chúng ta hành động khác với niềm tin đó ” [3].

Đồng thời ông nói ông tán thành với những người như Richard Dawkins rằng “nhân loại cảm thấy cần thiết phải có những tưởng tượng về sự sáng tạo của Chúa” [4]. Ông nói: “Trước khi chúng tôi bắt đầu hiểu về bệnh tật và thời tiết và về những vấn đề như thế, chúng tôi đã tin theo những giải thích sai lầm về những thứ đó. Hiện nay khoa học đã tham dự một phần – không phải tất cả – vào những lĩnh vực mà tôn giáo đã từng giải quyết”.

Ad finishes in 27 seconds

Ông nói tiếp: “Nhưng bí mật và vẻ đẹp của thế giới thật vô cùng đáng kinh ngạc, và không có một sự giải thích nào của khoa học có thể giải thích được tại sao nó xẩy ra như thế. Nói rằng điều đó hình thành bởi những con số ngẫu nhiên thì xem ra, bạn biết đấy, đó là một cách nhìn không hợp lý cho lắm” (cười).

Theo danh sách tỷ phú trên tạp chí Forbes 2014, nhà sáng lập Microsoft đã giành lại được vị trí giầu nhất thế giới với tổng giá trị tài sản lên tới 76 tỷ dollars. Tuy nhiên, người tạo nên cuộc cách mạng về công nghệ của Microsoft đã rời bỏ chức chủ tịch tập đoàn này để tập trung vào việc làm từ thiện của ông. Năm 2000, ông thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức được xếp hạng như một trong những tổ chức từ thiện quảng đại nhất thế giới.
Quỹ này đã hiến tặng tiền bạc và khởi động các chương trình vì nhiều mục đích khác nhau trên toàn thế giới. Quỹ này có một cơ quan mang tên Global Health Division (Chi nhánh Sức khỏe Toàn cầu) nhắm mục tiêu vào việc đẩy mạnh tiến bộ khoa học và công nghệ tại các nước đang phát triển, một chương trình mang tên Global Developments (Phát triển Toàn cầu) dành cho việc phát triển nông nghiệp, xử lý nguồn nước và vệ sinh, các dịch vụ tài chính dành cho người nghèo và các chương trình giáo dục tại Mỹ.

Bill Gates thể hiện niềm lạc quan rằng bệnh bại liệt, một căn bệnh mà quỹ từ thiện của ông tập trung cứu giúp nhiều nhất, sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn, và rằng về căn bản đến năm 2035 sẽ không còn có nước nghèo nữa, ông chỉ ra những bài học thành công trong vấn đề này như Brazil, Mexico, Thái Lan và Indonesia.

Điều ông lo lắng nhất trong 50 năm tới là vấn đề thế giới cần phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết tình trạng biến đổi khí hậu, chủ nghĩa khủng bố trên phạm vi rộng và giải quyết những mối lo về sức khỏe toàn cầu.

Ông nói: “ Tôi biết nếu mọi em bé được khỏe mạnh, mọi con đường được làm mới, thì sẽ đưa một đất nước đi trên một con đường tốt đẹp hơn như thế nào, nhưng tôi không phải một chuyên gia để biết làm thế nào để giải quyết vấn đề bất ổn định và chiến tranh sẽ dấy lên lúc này hoặc lúc khác. Tôi mong ước có một phát minh hoặc một tiến bộ nào đó để sửa chữa tất cả những thứ bất ổn đó. Có thể một số sự kiện thực sự tồi tệ sẽ xẩy ra trong vòng 50-100 năm tới, nhưng hy vọng là không có một sự cố nào trong số đó sẽ gây ra cái chết ở mức một triệu người (trở lên) mà bạn không dự kiến trước được từ một bệnh dịch, hoặc một vụ khủng bố hạt nhân hoặc sinh học”… ..

Năm 1995, cũng với câu hỏi “Ông có tin vào Chúa hay không?”, Bill Gates trả lời: “Tôi không biết liệu có Chúa hay không, nhưng tôi nghĩ các nguyên lý tôn giáo hoàn toàn có căn cứ vững chắc” (I don’t know if there is a God or not, but I think religious principles are quite valid) [5].

Với câu trả lời đó, giới vô thần vội vàng ghép Bill Gates vào danh sách “những người vô thần nổi tiếng” (celebrity atheists), bất chấp việc ông thể hiện một thái độ trân trọng đối với tôn giáo. Một số khác coi ông là người theo thuyết bất khả tri (agnosticist). Thậm chí có người mô tả ông như một người mê mải làm ăn, không bận tâm tới tôn giáo, vì có lần ông phát biểu: “Riêng về vấn đề phân phối dự trữ thời gian thì tôn giáo không hiệu quả cho lắm. Tôi còn hàng đống việc phải làm vào sáng chủ nhật”. Nhưng họ nhầm.

Theo Wikipedia, “khi Gates còn trẻ, gia đình ông thường xuyên tham dự lễ của Đạo Hợp nhất Tin Lành (Protestant Congregational church)”. Đó là lý do để sau này, ngay cả khi ông chưa có một quan điểm rõ ràng về Chúa, ông luôn luôn coi hệ thống tôn giáo là quan trọng. Đó là điều không bao giờ có ở một người vô thần.
Và bây giờ, Bill Gates đã thể hiện quan điểm rõ ràng hơn: “Tin Chúa là khôn ngoan”!

Căn cứ theo những gì ông tiết lộ trong cuộc phỏng vấn của Rolling Stone, có bài báo đã viết: “Bill Gates theo Đạo Công giáo La Mã” (Bill Gates follows Roman Catholicism). Không nghi ngờ gì nữa, sự thay đổi của Bill Gates theo hướng tích cực một phần lớn là kết quả của cuộc hôn nhân giữa ông với Melinda French, một người công giáo thuần thành.

Theo nhiều trang tiểu sử, họ sống với nhau hạnh phúc, đến nay đã có 3 người con. Nhưng còn hơn thế, họ là một đôi bạn tri kỷ, cùng đọc một số sách rồi thảo luận với nhau, cùng nhau theo đuổi một lý tưởng cao quý – lý tưởng chia sẻ tình yêu thương với tha nhân, đúng như lời Chúa dạy.

Năm 1994, khi nghe tin Bill Gates cưới Melinda, một nhân viên trong công ty mà ông làm chủ, tôi nói với bạn bè: “cô Melinda này may mắn quá”. Gần đây, khi biết Melinda đóng vai trò lớn lao trong việc “lôi kéo” chồng con vào những sinh hoạt tôn giáo và từ thiện, tôi lại nói với bạn bè: “ông Bill Gates này may mắn quá”.

Một người bạn vô thần nói với tôi rằng Bill Gates thay đổi chỉ vì Melinda, thay vì bởi chính Bill Gates muốn thay đổi. Tôi trả lời: “Này bạn, những người như bạn không thể hiểu được những giá trị thiêng liêng và cao quý. Người theo Đạo chúng tôi nghĩ rằng đó là ý Chúa – Chúa muốn một người như Bill Gates phải có ĐẠO, như thế sẽ có ích cho nhân loại nhiều hơn. Melinda chính là một sứ giả của Chúa đấy”.

Melinda Ann French sinh năm 1964 tại Dallas, Texas. Là con gái thứ hai trong bốn người con của ông Raymond Joseph French Jr., một kỹ sư về hàng không, và Elaine Agnes Amerland, một phụ nữ nội trợ. Melinda là một người Công giáo thuần thành, từng là học sinh xuất sắc của trường công giáo St. Monica Catholic School, có 2 bằng cử nhân của Đại học Duke, cử nhân khoa học computer và cử nhân kinh tế, và một bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh cũng của đại học đó.

Sau khi lấy chồng, bà đã dâng hiến đời mình cho sự nghiệp từ thiện, san sẻ tình yêu thương với đồng loại, thực hành tôn chỉ của công giáo là yêu thương tha nhân. Bà tự nhắc nhở mình và nhắc nhở mọi người rằng “Chúng ta phải lưu ý đến việc làm thế nào sử dụng ánh sáng này chiếu trên chúng ta” (We have to be careful in how we use this light shined on us). Đó là ánh sáng của Chúa – ánh sáng soi rọi cho chúng ta biết giá trị đích thực của con người là gì và đâu là đích để chúng ta hướng tới.

theo Khám Phá