CHÚA GỌI TRONG ĐÊM TỐI

CHÚA GỌI TRONG ĐÊM TỐI

 

Chúa đã gọi trong những đêm tăm tối.  Chúa đã gọi trong những hoàn cảnh tối tăm như tăm tối hãi hùng.  Đó là vấn đề đang làm tôi suy nghĩ, để sống ơn gọi hôm nay.

 

Đời tôi tương đối đã khá dài. 

Suốt dọc chuyến đi dài đó trong lịch sử, tôi đã trải qua nhiều chặng đường tăm tối.  Tăm tối như đêm.

Đêm có nhiều sợ hãi khủng khiếp.

Đêm có những cô đơn nặng nề.

Đêm có những thao thức dằn vặt.

Đêm có những trăn trở lăn mình vào thất vọng.

Nhưng chính trong một số đêm tăm tối đó, Chúa đã gọi tôi.

 

Không phải chỉ có tôi được Chúa gọi.  Số người được gọi là khá đông.  Họ khích lệ tôi.  Ở đây, tôi nhớ lại cách riêng một số nhỏ trường hợp Chúa gọi trong đêm đã được ghi trong Kinh Thánh, để tôi thêm vững tin vào Đấng đã gọi tôi.

 

Tôi nhớ tới Samuel.  Hồi đó, Samuel còn nhỏ, giúp việc trong đền thờ cho thầy cả Êli.  Một đêm, khi Samuel đang ngủ, thì Chúa gọi cậu.  Cậu không thấy ai, chỉ nghe thấy tiếng.  Tiếng gọi đến ba lần. Samuel được ơn gọi trong đêm ấy, để đi vào lịch sử với rất nhiều gian nan, nhưng luôn tin vào Chúa (x. 1Sm 3,1-18).

 

Tôi nhớ tới Thánh Giuse.  Ngài được sứ thần Chúa đến với Ngài trong lúc Ngài ngủ ban đêm tăm tối, để yêu cầu Ngài an tâm nhận Maria làm bạn trăm năm (x. Mt 1,20).  Thánh Giuse, một đêm tăm tối đang ngủ, thì được sứ thần Chúa đến, bảo Ngài hãy đem gia đình trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13).  Thánh Giuse, cũng một đêm tăm tối đang ngủ, thì lại được sứ thần Chúa đến, bảo Ngài hãy đưa thánh gia trở về Israel (x. Mt 2,19).  Thánh Giuse nhận được ơn gọi trong những đêm tăm tối, để đi vào lịch sử với rất nhiều gian nan, nhưng luôn tin vào Chúa.

 

Tôi nhớ tới Chúa Giêsu.  Đêm thứ Năm, trước cuộc thương khó, Người đã cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.  Tại đây, Người đã trải qua một cơn xao xuyến, như một cơn hấp hối đau đớn tột độ.  “Bấy giờ có thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43).  Chúa Giêsu đã nhận được sức mạnh từ Chúa Cha, trong đêm hãi hùng đó, để bước vào cuộc thương khó đầy khổ đau, với niềm tin phó thác vào Chúa Cha.  Cũng Chúa Giêsu, sau khi được an táng trong mồ đá, thì đêm đó là đêm đầy hãi hùng cho các môn đệ Chúa.  Nhưng chính trong đêm tăm tối ấy, Chúa Giêsu đã sống lại, đúng như lời Chúa đã báo trước.  Ơn gọi phục sinh cũng đã xảy ra trong một đêm đầy sợ hãi, buồn phiền, hầu như thất vọng.

 

Chúa đã gọi trong những đêm tăm tối.  Chúa đã gọi trong những hoàn cảnh tối tăm như tăm tối hãi hùng.  Đó là vấn đề đang làm tôi suy nghĩ, để sống ơn gọi hôm nay.

 

Một hôm, khi đang đi trong một xóm dân nghèo.  Cảnh nghèo, cảnh khổ, cảnh lầm than của họ là hình ảnh một đêm tăm tối.  Bỗng, tôi nhìn thấy mấy nữ tu đang ôm vào lòng những em bé nghèo, và đang âu yếm chăm sóc những người già yếu cô đơn.  Tôi chợt nghe tiếng Chúa gọi tôi qua những nữ tu đó, trong cảnh nghèo như đêm tăm tối ấy.

 

Một hôm, khi tôi đang sống trong sự sợ hãi, như mất niềm tin đối với một số những người quen biết.  Chính lúc đó tôi lại bị đau bệnh.  Tình trạng trên đây đưa tôi vào một đêm tăm tối trong tâm hồn. Ngay hôm đó, một người đến thăm tôi.  Họ đem đến cho tôi tình thương chân thành, khiêm tốn, tế nhị.  Họ giúp tôi thoát khỏi đêm tăm tối trong tâm hồn.  Tôi nhận ra Chúa nơi họ.  Chúa gọi tôi qua họ.

 

Những kinh nghiệm trên đây cùng với những gì Chúa đã làm cho tiên tri Samuel, cho Thánh Giuse, cho Chúa Giêsu, qua những sứ thần của Chúa trong những đêm tăm tối xưa đã dạy tôi hai điều:

 

Điều thứ nhất là tôi phải hết lòng cảm tạ Chúa, vì ơn Người đã cứu tôi bao lần khỏi những cảnh tăm tối như đêm hãi hùng.  Người đã sai một số người tốt đến với tôi.  Tôi nhận ra họ là người của Chúa.  Họ cứu tôi bằng tình thương tế nhị, khiêm nhường.  Họ như những sứ giả được Chúa sai đến với tôi, để cứu tôi, chứ không để kết án tôi.

 

Điều thứ hai là tôi phải hết sức khôn ngoan, khi muốn cứu cá nhân nào hay cộng đoàn nào khỏi những cảnh tối tăm như đêm giữa ban ngày.  Khôn ngoan là phải được Chúa sai đi.  Khi đến nơi, thì phải đem tình thương của Chúa đến.  Một tình thương khiêm tốn, chân thành, nhẹ nhàng, tế nhị.  Nếu người ta đón nhận tình thương đó, thì rất tốt.  Nếu người ta chối từ, thì tôi vẫn đợi chờ cũng bằng tình thương khiêm tốn kiên trì.

 

Khi thực hiện hai điều trên đây, tôi thấy tôi cần phải rất bé nhỏ.  Bé nhỏ và trở nên bé nhỏ, đó là một điều Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ nhỏ” (Lc 18,16).  Mấy ngày nay, khi nghĩ về lời Chúa trên đây, tôi liên tưởng đến ba trẻ nhỏ ở Fatima đã được xem thấy Đức Mẹ hiện ra, và đã được đón nhận các sứ điệp của Đức Mẹ Maria, để chuyển lại cho Đức Thánh Cha và cho toàn thế giới.  Tôi muốn được trở nên bé nhỏ như ba trẻ nhỏ ở Fatima, nhưng mong muốn của tôi sẽ chỉ được thực hiện nhờ ơn Chúa và theo ý Chúa mà thôi.

 

Trở nên bé nhỏ như trẻ nhỏ đã là điều khó. Trở nên bé nhỏ như một chút men, lại càng khó.  Thế mà Chúa Giêsu lại muốn tôi trở thành nắm mem, để vùi vào thùng bột.  Chúa phán: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,33).

 

Khi tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi được trở nên bé nhỏ, tôi cảm thấy bình an và hạnh phúc.  Cũng lúc đó, tôi nhìn về tương lai Hội Thánh tại Việt Nam, tôi được Chúa cho thấy: Truyền giáo tại Quê Hương tôi sẽ rất thành công với những ai bé nhỏ như men âm thầm, và sẽ thất bại với những ai tỏ mình như một quyền lực cạnh tranh ồn ào.

 

Đúng là Chúa đang gọi tôi trong đêm tối.  Vâng lời Chúa, tôi lên đường.  Chuyến đi sẽ gian nan.  Nhưng tôi tin Chúa đồng hành với tôi.  Tôi bé nhỏ phó thác mình cho Chúa.  Đó là hạnh phúc của tôi. Ánh sáng trong đêm tối chính là Chúa.

 

Gm GB Bùi Tuần

Langthangchieutim gởi

Phải Chăng Người Giầu Không Thể Được Vào Thiên Đàng?

 Phải Chăng Người Giầu Không Thể Được Vào Thiên Đàng?

  • Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích rõ về nguy cơ của tiền bạc đối với mục đích muốn được cứu rỗi để vào Nước Trời mai sau.

Trả lời:

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã gọi là thế giới tôn thờ tiền bạc (Cult of money). Và đây là nguyên nhân của mọi bất công xã hội và bất an trên thế giới vì người chỉ chạy theo tiền của và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ,và bị đối xử bất công của con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa và vô nhân đạo này. Chính vì “tôn thờ tiền bạc” nên có quá nhiều người trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,văn nghệ ở khắp nơi đã và đang nô nức nhau đi tìm tiền bạc bất chấp tiếng nói lành mạnh của lương tâm,của luân lý, đạo đức và liêm sỉ con người.

Cụ thể, bọn tài phiệt tư bản đen ở Mỹ đã dùng tiền bạc để mua cuộc, đút lót (lobby) cho giới lập pháp hành pháp và cả Tội Cao Pháp Viện để làm ngơ cho chúng, hay cho phép chúng mặc sức thao túng thị trường chứng khoán (Stock exchanges), kỹ nghệ dầu hỏa, kinh doanh ngân hàng (Wallstreeters) để vơ vết tiền bạc làm giầu cho bọn chúng, bất chấp mọi hậu quả gây ra cho giới lao động, người nghèo khó, vô gia cư, sống vất vưởng ngoài đường phố trên khắp các đô thị lớn nhỏ ở Mỹ mà không ai đoái hoài thương giúp họ!

Cụ thể là, vì ham tiền, nên giới lâp pháp và hành pháp Hoa Kỳ đã nhận tiền đút lót, hối lộ của bọn buôn bán súng đạn (NRA) và bọn chuyên nghề phá thai Planned Parenthood để làm ngơ cho bọn này tiếp tục hành nghề vô luân để kiếm tiền và làm giầu cách tội lỗi, mà không ai làm gì được chúng, vì chúng đã có chỗ dựa vững chắc trong giới lập pháp, hành pháp và cả Tư pháp (Tối cao Pháp Viện). Tệ hại nhất là bọn Planned Parenthood đã lấy các bộ phận của các thai nhi bị giết đem bán như những món hàng thương mại để kiếm rất nhiều tiền, nhưng việc làm vô luân này, vẫn không bị ngăn cấm, vì bọn này đã mua chuộc giới tư pháp làm ngơ cho chúng tiếp tục hành nghề vô luân vô đạo này, mặc cho dư luận báo chí tố cáo, và một vài dân biểu, nghị sỉ đã đòi mở cuộc điều tra. Nhưng mọi cố gắng đều không mang lại kết quả nào cho đến nay!

Cũng vậy, – ở bên kia thái cực- bọn tư bản đỏ, là bọn bề ngoài bô bô với khẩu hiệu phục vụ cho giới vô sản, cho người lao động bị bóc lột, nhưng thực chất họ lại là những kẻ bóc lột mọi tầng lớp nhân dân, nhất là dân lao động thấp cổ bé miệng, để tiếp tục làm giầu cho bọn chúng và tạo ra lớp người gọi là “đại gia” đang phè phỡn với tiền của đầy tay, đầy túi. Bọn này đã cấu kết và đút lót nặng túi cho kẻ cầm quyền để được tự do làm ăn phi pháp, vô lương tâm, vô luân khiến chúng trở thành giầu xụ và đang ngạo nghễ chế nhạo những người nghèo khó, đói rách, nạn nhân của chế độ cai trị vô luân, vô nhân đạo đã làm phát sinh ra mọi tệ nạn bất công xã hội và tụt hậu thê thảm về luân lý, đạo đức.

Mặt khác, cũng vì ham mê tiền bạc mà một số không nhỏ, những kẻ đã bỏ nước ra đi để tìm tự do,tìm cơ hội sống tốt hơn, nhưng nay đã vội quên lý do chậy trốn đó để trở cờ quay lại ca tụng chủ mới, trời mới đất mới để làm ăn kiếm tiền và vui chơi tội lỗi, vô liêm sỉ. Rõ nét nhất là giới văn nghệ sĩ, đa số từng bỏ trốn vì không được tự do viết lách, ca hát một thời, nhưng nay lại trơ trẽn trở về góp tiềng, góp giọng ca ngượi những người mà mình đã sợ hãi phải chậy trốn trước kia và nay đang làm ngơ cho mình đi về làm ăn, ca hát để kiếm tiền, mặc cho dư luận chê cười, phỉ nhổ là những kẻ vô liêm sỉ, chỉ vì ham mê tiền bạc và vui chơi tội lỗi !

Tóm lại, chỉ vì giầu lòng yêu mến tiền của, nhưng nghèo tình người, nghèo ý thức luân lý, đạo đức,và vô liêm sỉ, mà con người thuộc mọi giới ở khắp nơi đang cười nhạo chính lương tâm của mình, chà đạp mọi nguyên tác công bình, bác ai, nhân đạo, liêm sỉ để lao đầu vào việc tìm kiếm tiền bạc, rồi ăn chơi mất nết.

Nhưng khốn cho chúng, nếu đêm nay mà chúng phải từ giã cuộc sống này, thì thử hỏi chúng có thể đem theo những của cải kia về đời sau hay không,- và nhất là – có thể mua sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc bất diệt với của cải và tiền bạc chúng kiếm được ở đời nay hay không ?

Đây là câu hỏi đặt ra cho ai còn chút lương tâm và niềm tin có thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, Đấng đã dọn sẵn bàn tiệc Nước Trời với thực phẩm hảo hạng để khỏan đãi những ai đã vì tin có Người, nên đã sống một đời sống công bình, bác ái, trong sạch thánh thiện ở đời này, giữa những kẻ chỉ biết chạy theo, tôn thờ tiền của và mọi thú vui vô luân vô đạo hiện nay.

Nói thế không có nghĩa là phải khinh chê tiền bạc thì mới được cứu rỗi để vào Nước trời.

Thật vậy, sống thân phận con người trên trần gian này, ai ai cũng phải cần đến tiền bạc để chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu, như cơm ăn, áo mặc, nhà ở và phương tiện di chuyển và trả bills hàng tháng. Do đó, không ai có thể ngây thơ và thiếu thực tế để nói rằng mình không cần tiền của, chỉ cần tinh thần thôi.

Nhưng tại sao Chúa Giê su lại nói những lời sau đây với các môn đệ Người :

“Thầy bảo thật anh em : người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết : Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19: 23- 24; Mc 10:25).

Chúng ta phải hiểu thế nào cho đúng về lời Chúa trên đây ?

Chúa đã nói với các môn đệ những lời trên đây trong hoàn cảnh một thanh niên giầu có đển gặp Chúa để xin Chúa cho biết anh phải làm gì thêm nữa để được cứu rỗi mà vào Nước Trời. Nhưng khi Chúa bảo anh về bán hết tài sản, lấy tiền bố thí cho người nghèo rồi đi theo Chúa, thì anh đã buồn rầu bỏ đi, và không thể thi hành lời khuyên của Chúa được chỉ vì anh có nhiều tài sản và tiền của (Mc 10: 17-22). Chính vì anh không thể từ bỏ sang giầu ở đời này để đổi lấy kho tàng phú quí vĩnh cửu trên Trời, nên Chúa mới nói thêm với các môn đệ như sau “Những người giầu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (cf Mc 10:23)

Như vậy có phải Chúa lên án những người giầu có ở thế gian này không ?

Chắc chắn là không. Ngược lại, Chúa nói những lời trên để dạy chúng ta biết phải làm gì với tiền bạc để vừa có phương tiện sống chính đàng vừa theo đuổi mục đích tìm kiếm giầu sang, phú quí trên Nước Trời, là “nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12: 33)

Thật vậy, đời sống con người bao gồm cả hai mặt tinh thần và thể xác. Do đó, không thể chú trọng về mặt này mà bỏ quên mặt kia. Không thể chỉ chú trọng đời sống tinh thần mà quên lãng hay lơ là nhu cầu chính đáng của thân xác, đòi hỏi có cơm ăn, áo mặc nhà ở và phương tiện di chuyển. (ở Mỹ, phải có xe hơi để đi làm và di chuyển, không thể đi bộ hay đi xe đạp được).

Do đó, thỏa mãn những nhu cầu trên là điều chánh đáng và phù hợp với đạo đức. Nghĩa là phải có tiền và những phương tiện vật chất cần thiết cho một đời sống hợp với nhân phẩm. Cho nên, không có gì là sai trái khi mọi người phải làm việc, hoặc buôn bán để kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Giáo Hội cũng cần phải cố tiền để chi phí cho biết bao chương trình cần thiết như phúc âm hóa thế giới, đào tạo chủng sinh, trợ giúp các xứ truyền giáo, các địa phận nghèo ở Phi Châu và Á Châu v.v.

Như thế, không ai có thể ngây thơ nói rằng chỉ cần tinh thần chứ không cần tiền hay của cải vật chất. Sự thật phải nhìn nhận là con người nói chung và Giáo Hội nói riêng đều cần có tiền và phương tiện vật chất tối thiểu để chi phí và xử dụng cho những nhu cầu rất thiết yếu của đời sống con người và của Giáo Hội.

Nhưng cần phân biệt rõ là có tiền để chi dùng vào những mục đích chinh đáng, thì khác xa với lòng ham mê tiền đến mức làm nô lệ cho tiền bạc, khiến tôn thờ nó như Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh cáo về nguy cô “tôn thờ tiền bạc = cult of money” của con người thời đại hôm nay. Nếu tôn thờ tiền bạc thì sẽ không thể nâng tâm hồn lên tới Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giấu sang bất tận. Đó là lý do tại sao Chúa Giê su đã nói với các môn đệ là “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6:24).

Nghĩa là không thể yêu mến tiền của hơn cả những giá trị tinh thần và nhất là hơn cả yêu mến Thiên Chúa là chính mọi phú quý giầu sang vĩnh cửu. Người không có tín ngưỡng thì tiền bạc, của cải vật chất và danh vọng trở thành mục đích tôn thờ, yêu mến của họ. Người tín hữu Chúa Kitô, ngược lại, phải tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự, và chỉ coi tiền bạc, của cải vật chất kể cả danh vọng như phương tiện tốt để sống hữu ích cho bản thân và làm việc bác ái mà thôi.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã chúc phúc cho “những ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3).

Chính vì muốn cho con người đi tìm phú quý, giầu sang của Nước Trời mà Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.”như Thánh Phao lô đã dạy (2Cor 8: 9)

Không phải chỉ người tín hữu giáo dân cần có tâm hồn nghèo khó, mà cách riêng, các giáo sĩ và tu sĩ phải là những người nêu gương sáng trước tiên về tinh thần khó nghèo của Phúc Âm để không còn đua nhau đi tìm tiền bạc hăng say hơn là lo rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, dạy dỗ chân lý và luân lý cho giáo dân để giúp họ sống đức tin vững vàng và làm nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô trước mặt bao người chưa nhận biết Chúa và Phúc Âm của Người.

Trở lại vấn đề nghèo khó nội tâm, người có nhiều tiền bạc và của cải vật chất vẫn có thể sống nghèo khó vì không tôn thờ hay làm nô lệ cho tiền bạc. Trái lại, chỉ dùng tiền bạc và của cải vật chất làm phượng tiện sống hữu ích cho mình, cho người thân trong gia đình, và thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn. Cụ thể là chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khó thực sự về vật chất như không đủ cơm ăn, áo mặc và vô gia cư. Xử dụng tiền của vào những mục đích này chắc chắn là điều đẹp lòng Chúa và mưu ích thiêng liêng cho những ai giầu có mà biết khôn ngoan dùng tiền của để mua lấy “Kho tàng Nước Trời” như Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên giầu có trong Tin Mừng Marcô (Mc 10: 21).

Để chỉ rõ mối nguy hại của sự giầu có mà thiếu bác ái, Phúc Âm thánh Luca kể dụ ngôn về người giầu có bị phạt xuống hỏa ngục trong khi người nghèo Lazarô được vào Thiên Đàng bên Tổ Phụ Abraham (Lc 16: 19-26). Người giầu bị phạt không phải vì tội giầu có, phú quý khi còn sống, mà bị phạt vì không có lòng bác ái, không chút thương người nghèo La-za-rô hằng ngày ngồi ăn xin trước cửa nhà mình mà không được bố thí cho chút của ăn dư thừa.

Cụ thể hơn nữa là Dụ ngôn ngày Phán xét chung trong Phúc Âm Thánh Matthêu, Chúa (Đức Vua) nói với những người ở bên trái như sau:

Quân bị nnguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và sác sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các người đã không cho ăn; Ta khát các người đã không cho uống… Ta trần truồng các người đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom” (Mt 25: 41-43).

Như thế rõ ràng cho thấy, về một phương diện, Chúa Kitô thực sự hiện diện nơi những người khèo khó, đói rách, bệnh hoạn và tù đầy. Và Người mong đợi những ai giầu có, sẵn phương tiện vật chất hãy mở lòng bác ái thương giúp những anh chị em xấu số, đang sống kiếp nghèo hèn trong mọi xã hội chuộng vật chất, ích kỷ, vô luân và phi nhân bản ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.

Chúa đến trần gian để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội, nhưng Người không tiêu diệt hết tội, bệnh tật, tai ương và nghèo đói trong trần gian này. Những thực tại này còn tồn tại đó để cho con người phải chiến đấu chống lại tội lỗi mà lập công, cũng như có dịp tốt để thi hành bác ái đối với những người nghèo khó, đau yếu bệnh tật, hoặc gặp những tai biến như động đất, sống thần (Tsunami) bão lụt, hỏa hoạn…

      Những người bị Chúa quở phạt trên đây là những kẻ, khi còn sống, có tiền và phương tiện vật chất dồi dào, nhưng đã không biết chia sẻ, thương giúp những người nghèo khó. Cho nên sự giầu có đã trở thành trở ngại cho họ được vào Nước Trời để hưởng vinh phúc giầu sang bất diệt với Chúa.

Điều nguy hại lớn nhất của lòng ham mê tiền của và sang giầu ở đời này là nguy cơ khiến con người trở nên ích kỷ, lãnh cảm (numb, incensitive) trước sự đau khổ vì nghèo đói của biết bao đồng loại ở khắp mọi nơi trên thế giới – và tệ hại hơn nữa- là bóc lột người khác cách tàn nhẫn để làm giầu cho mình. Ham mê tiền của cũng dẫn đưa con người đến chỗ phản bội, quên tình quên nghĩa với người khác kể cả ân nhân của mình.

Đó là trường hợp của Giuđa It-ca-ri-ôt, một trong 12 môn đệ của Chúa Giêsu đã bán Thầy lấy 30 đồng bạc và thất vọng đi treo cổ tự tử sau đó (Mt 27: 5).

Và chính vì mối nguy hại đó mà Chúa phải cảnh giác chúng ta chớ nên ham mê tiền của ở đời này đến nỗi không còn mong muốn tìm kiếm sự sang giầu đích thực của Nước Trời, nơi trộm cắp không thể lấy được. Nói khác đi, chỉ những ai giầu có mà không biết dùng của cải vào việc mưu ích cho phần rỗi của mình và giúp ích cho người khác thì mới đáng bị chê trách mà thôi. Ngược lai, nếu biết dùng tiền của như phương tiện hữu ích để thực thi đức ái thì chắc chắn không có gì phải phiền trách.

Tóm lại, Chúa không lên án những người giầu có chỉ vì họ giầu có mà vì có những người giầu làm nô lệ cho tiền của đến nỗi tôn thờ nó, thay vì phải tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự, như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa như sau:

Phần anh em, đừng lo tìm cho có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn, vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước Thiên Chúa, còn những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12: 29-31).

Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan của Phúc Âm để biết dùng tiền của và phương tiện vật chất để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho mình và cho người khác. Amen.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Anh chị Thụ & Mai gởi

Học sống hiền lành và khiêm nhượng với Chúa Giê-su

 
Học sống hiền lành và khiêm nhượng với Chúa Giê-su

(Suy niệm Tin Mừng Matthêu (11, 25-30) trích đọc vào Chúa Nhật 14 thường niên)

Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù… Nhưng suy nghĩ như thế là thiển cận và sai lầm.

Lịch sử loài người cho thấy những bạo chúa hung tàn bậc nhất như Nê-rô thời xưa, Hitler,   Polpot thời nay hay bất kỳ một thế lực bạo tàn nào… tuy họ nắm được quyền lực trong tay và dùng bạo lực cường quyền để uy hiếp người khác, nhưng rốt cuộc, họ đều bị hạ bệ, bị người đời lên án và chuốc lấy thất bại não nề. 

Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King và nhiều hiền nhân khác đã biết dùng sự hiền hậu, dịu dàng để chiến thắng sự hung bạo một cách hiệu quả và vẻ vang. Nhân loại qua bao thời vẫn nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng “nhu để thắng cương”, biết “dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).

Thế nên, mặc dù Chúa Giê-su có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Ngài kêu gọi mọi người nên học với Ngài là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. Qua Tin mừng Mát-thêu chương 11 câu 29, Chúa Giê-su mời gọi: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).

Hiền hậu là lợi khí của người khôn

Trong vườn Dầu, khi Phê-rô tuốt gươm ra để bảo vệ Chúa trước đám đông binh lính xông đến bắt Ngài, Chúa Giê-su bảo ông: “Hãy xỏ gươm vào bao. Ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm.” (Mt 26,52)

Bạo lực không là giải pháp khôn ngoan, nên người khôn không bao giờ dùng bạo lực để kháng cự bạo lực, không dùng hận thù để trả đũa hận thù, nhưng biết dùng tính khiêm nhường hiền hậu để ứng xử với mọi người, ngay cả khi bị người khác đối xử tàn ác, thô bạo với mình.

Khi búa tạ tấn công vào đá; đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Đá thất bại hoàn toàn.

Khi búa tấn công nước; nước sẽ dùng sự mềm mại dịu hiền của mình để đối lại. Bằng cách nầy, nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Thế là nước thắng lớn, búa thua to.

Khi búa hung hăng đập vào tường; bức tường sẽ dùng sự cứng rắn của mình chống lại sự thô bạo của búa; thế là bức tường cao sẽ bị sập xuống. Tường thất bại.

Thế nhưng, khi búa đập vào bức màn; tấm màn sẽ dùng sự dịu dàng của mình né tránh sự thô bạo của búa. Màn bình yên vô sự, còn búa sẽ bị mất thăng bằng và bị lao vào khoảng không. Thế là màn chiến thắng.

Như thế, với tấm lòng hiền hậu, khiêm nhường, dịu dàng, mềm mại… người ta có thể thắng được sự thô bạo, hung hăng của người khác.

Ngoài ra, với đức tính khiêm nhường hiền hậu, người ta không chỉ thắng được những lực đối kháng bên ngoài mà còn chinh phục được lòng người. Như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, thì lòng yêu thương quý mến của nhiều người khác cũng dồn về cho những người có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhường.

Gương hiền hậu, khiêm nhường của Chúa Giê-su

Trong cuộc khổ nạn, tấm gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã được nêu cao: Mặc dù là Thiên Chúa quyền năng cao cả, là Con Một của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận cho người đời hèn mọn nhạo cười, phỉ báng, lăng nhục, khạc nhổ vào mặt, đánh đập tơi bời, lại còn chịu vác thập giá, chịu đóng đinh và chết ô nhục trên thập giá… mà vẫn không oán hờn hay kháng cự; hơn nữa, còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ cho mình. 

Lạy Chúa Giê-su,

Khiêm nhường và hiền hậu là tính cách nổi bật nhất nơi con người và cuộc đời của Chúa.

Khiêm nhường và hiền hậu là nhân đức được toả sáng trong cuộc thương khó của Ngài.

Khiêm nhường và hiền hậu là một trong những bài học quan trọng nhất mà Chúa kêu mời chúng con phải học với Chúa từng ngày.

Lẽ nào chúng con là những môn đệ đã chọn Chúa làm Thầy và là mẫu mực cho mình, lại gạt bỏ ra khỏi tâm hồn mình bài học quý báu nầy sao!

Xin cho chúng con luôn noi gương bắt chước Chúa để sống khiêm nhường hiền hậu như Chúa đã nêu gương. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Mattheu 11, 25-30

27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
28 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.29 Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.30 Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng

“Tôi ngao ngán thờ ơ, khinh bỉ hết”

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 13 thường niên năm A 02/7/201

 Tin Mừng (Mt 10: 37-42)

Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy.39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.

“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.

“Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
“Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

 *      *     *     *       *

 “Tôi ngao ngán thờ ơ, khinh bỉ hết”

Ôm khối hận gia đình, trĩu nặng

Tôi căm hờn, thù ghét hôn nhân

Lang thang sống, giữa vùng im lặng

Chuỗi ngày tan tác, mảnh phù vân.

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Ghét hôn nhân – Hận gia đình. Lang thang. Căm hờn. Thù ghét. Có là, tình tự khiến nhà thơ thấy lòng trĩu nặng, tan tác mảnh phù vân? Im lặng – tan tác, có là tình cảnh xảy đến nếu không bắt chước Phêrô tuyên xưng Đức Chúa, trong trình thuật?

Trình thuật hôm nay, kể về việc Chúa mặc khải rằng sở dĩ thánh Phêrô nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa Hằng Sống, là nhờ Chúa Cha. Chúa mặc khải, đúng vào lúc Giáo hội vẫn ngờ ngợ về vai trò của đấng chủ quản Hội thánh, lúc ấy.

Là chủ quản, thánh Phêrô còn là ảnh hình của sự ổn định trong Giáo Hội. Hơn nữa, thánh nhân cũng duy trì được truyền thống của cộng đoàn dân Chúa, ngay từ đầu. Truyền thống hiệp nhất. Truyền  thống không lung lạc. Hiệp nhất không lung lạc, nay lan rộng tới dân gian, ở nhiều nước. Cả các nước có bản sắc văn hoá đa dạng. Rất đặc thù. Riêng lẻ. Ở nhiều nơi. Và hôm nay, Đức Giáo Hoàng hiện thân như thánh Phêrô, là đấng bậc quản cai duy trì sự hiệp nhất dài lâu ấy, trong Giáo hội.

Hôm nay, các giáo hội cùng tin vào Chúa, dù không mang sắc mầu hiệp nhất như giáo hội Công giáo La Mã, cũng đã và đang hiệp thông với ta, để rồi sẽ trở thành Hội thánh duy nhất. Một cộng đoàn đa năng, quyết thực hiện hiệp nhất đại kết Chúa đã khuyên vào bữa tiệc Tạ Từ, chiều hôm ấy.

Từ buổi ấy, Hội thánh đã và đang hoạt động đến cùng mút sức lực của mình, hầu đẩy lùi làn ranh biên thuỳ đến mọi nơi. Ranh biên, không theo địa dư nhiều hạn chế, nhưng theo ưu tư kiếm tìm vùng bị bỏ rơi trong quên lãng. Hội thánh nay đạt đến phương trời dồi dào ân đức bằng phương tiện truyền thông, rất mới.

Chính vì thế, Hội thánh nay cũng canh tân chuyển biến. Rất liên hồi. Rất đổi mới. Canh tân, tiếp cận thế giới đang đổi thay đến chóng mặt. Đổi thay tận gốc rễ. Đổi thay, không chỉ mặt kỹ thuật tân kỳ, mà cả về nhận thức lẫn tâm tưởng để sẽ trỗi dậy, trong tinh mơ. Rộng khắp. Cùng với thế giới đã đổi và có thay, Giáo hội nay mời gọi dân con nhà Đạo cũng hãy thay đổi theo phương hướng thích hợp. Tân kỳ

Một thần học gia Châu Á nọ có nói: “Thế giới hôm nay đang lập nghị trình mới để Giáo hội thực thi, mà thay đổi”. Nói thế, ông không có ý bảo: Giáo hội phải đi theo hướng của thế giới đã đổi mới, mà thích nghi. Nhưng, nên hiểu là: việc rao truyền Lời Chúa hôm nay cần làm sao cho tương xứng với đường hướng sống động của thế giới, đã biến đổi. Rủi thay, nhiều vị trong Hội thánh vẫn mang lối sống chẳng buồn đổi thay. Chẳng tha thiết nhận ra bản chất của thế giới mình đang sống. Để từ đó, cần có những bước cải tiến, trong:

*cách chuyển tải thông điệp;

*tái cấu trúc cơ chế;

*có phong thái biết tiếp cận thông điệp một cách chính xác; và,

*thực hiện đối thoại một cách thực tiễn với thế giới đương đại.

Rất có thể, thế giới hôm nay không còn muốn nghe những gì Hội thánh nói, nhưng vẫn hiểu Hội thánh đang nói gì. Từ đó, mới nắm bắt điều Hội thánh đề nghị; ngõ hầu sống hứng khởi. Hạnh phúc.   

Thế giới đã biến đổi, nay kéo theo sau nhiều thách thức mới. Thách thức, trong nhận định về những gì sai – đúng. Thách thức, về quyết tâm cần đổi thay. Bởi, có thay đổi mới nắm bắt được các vấn đề mới. Các yếu tố mới, nơi xã hội đang trở mình. Yếu tố mới ấy, sẽ đậm nét hơn khi ta nhìn vào cảnh nghèo khó, trong xã hội. Về những bất công, kỳ thị. Về hành vi bóc lột. Thiếu tự do. Về cách sống Đạo và cả những lo toan cho một nền hoà bình thế giới, rất chung. Có như thế, Hội thánh mới tạo phong cách đã biến đổi trong rao truyền Lời Chúa. Hầu, làm chứng cho yêu thương, công bằng. Tự do. Và an bình.

Muốn được thế, Hội thánh cần mặc lấy cho mình vai trò của ngôn sứ. Biết lo toan dựng xây trên nền tảng truyền thống, nhất quán. Biết loại bỏ phong thái tiêu cực như vùi đầu trong cát, né tránh sự thật. Cùng là phong thái lơ là chểnh mảng trong duy trì truyền thống. Hoặc, chỉ khoác lên mình những biến thái tưởng như mới mẻ, nhưng chẳng dựa trên nền tảng nào hết. Gia dĩ, có vị còn bày tỏ nhiều phản chống, không quan tâm. Hoặc, vẫn trùm mền, lặng thinh. Hành xử này, chẳng giải quyết được gì. Dù nó có xuất phát từ chính Hội thánh. Hay, chỉ là vấn đề của thời đại. Mà thôi.

Trình thuật hôm nay, nhấn mạnh nhiều đến sự hiện diện của Đức Chúa nơi Giáo hội. Bằng vào hiện diện này, Hội thánh tin và nhận rằng Đức Kitô là nền tảng vẫn giúp đỡ Hội thánh sống vững mạnh. Sống, duy trì truyền thống thương yêu, không ngơi nghỉ. Đức Kitô vẫn đỡ nâng Hội thánh, trong mọi tình huống. Trong nâng đỡ, Ngài tặng trao “chìa khoá Nước Trời”, uy lực quyền bính Ngài nhận từ Cha.

Trải qua nhiều thế kỷ, Hội thánh vẫn ngủ vùi trong lãng quên. Cũng may, Hội thánh vẫn có được ân sủng lãnh nhận từ Chúa, từng hứa ban. Hội thánh vẫn tăng trưởng và lớn rộng về con số. Vẫn trung thành với nguyên tắc nhận từ Thầy Chí Ái. Và, có được bản chất Thiên Chúa, xứng hợp với niềm khao khát sâu xa nơi bản chất người. Thế nên, Hội thánh không bao giờ ngã quỵ. Sự Thật và Tình Thương vẫn  không hề mai một.

Ở bài đọc 1, sự thật và tình thương được thể hiện qua việc thánh Phêrô bị nằm tù vì đã giảng rao thông điệp của Chúa và Nước trời. Cả Phaolô nữa, thánh nhân cũng cùng chung số phận tù đày, không thua kém. Phận tù đày, là để Lời Chúa được vinh quang, trải rộng. Khi thoát cảnh tù đày, thánh Phêrô đã trở về lại với cuộc sống giảng rao. Về người Thầy. Việc này mang ý nghĩa: Chúa vẫn duy trì bảo vệ Hội thánh như Ngài hứa. Nơi Phúc Âm.

Bài đọc 2, thánh Phaolô một lần nữa nói về cuộc sống rất phục tùng: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; đã chạy hết chặng đường; đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4: 7). Và, thánh nhân còn nói về việc Chúa đã bảo vệ ngài ngang qua thử thách, tố khổ, và bách hại: “Chúa đã phù hộ tôi và ban sức mạnh cho tôi, dùng tôi hoàn thành công việc rao giảng, và cho mọi dân tộc được nghe biết.” (2Tm 4: 17). Thánh Phaolô cũng nói: Chúa tiếp tục bảo vệ thánh nhân, rất nhiều năm.

Hân hoan mừng lễ các vị tông đồ rường cột của Hội thánh, có lẽ không gì bằng ta tập trung nguyện cầu để mọi thành viên biết thuỷ chung với truyền thống Giáo hội. Một Giáo hội, đã trải qua ngàn năm khốn khó. Đồng thời, sẵn sàng chấp nhận canh tân biến đổi. Để rồi, cuộc sống mỗi người sẽ thích hợp với thông điệp Chúa gửi đến. Nguyện cầu, cho ta còn biết khao khát tình thương và sự thật. Cầu cho những người chưa đổi thay, nhiều thế kỷ.

Vào Tiệc thánh có nguyện cầu, ta cùng với Giáo hội cử hành phụng vụ trong hân hoan chứng tỏ quyết tâm ra đi thi hành sứ vụ giảng rao. Rao giảng rằng, Chúa uỷ thác cho ta qua Đức Kitô, một cộng đoàn hiệp nhất. Tề tựu nơi đây. Quanh bàn thánh này. Để, ta sẽ làm chứng cho Chúa. Để, cộng đồng ta đang sống viết lên nghị trình hoạt động hăng say, đầy truyền thống cho giáo hội địa phương. Giáo hội sở tại.

Điều cần là, ta cử hành phụng vụ ngày của Chúa, có lòng thành và phẩm chất cao. Có niềm vui hiệp nhất. Mang ý nghĩa thực sự phản ánh cuộc đời hứng khởi ta đang sống. Sống trung thực. Sống yêu thương, như Chúa kêu mời ta uỷ thác. Rất canh tân. Thật đổi mới.

 Lm Frank Doyle sj biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch. 

Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi

Lời Cuối Cho Em   –   Vũ Khanh

httpv://www.youtube.com/watch?v=p4ugmU8rIEM

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần 13 thường niên năm A 02/7/2017

 “Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi”

(Nguyễn Vũ – Lời Cuối Cho Em)

(Thư thứ 1 Côrinthô 15: 54-57)

 Muôn kiếp yêu em” ưNhưng, sao cứ gọi đó là “lời cuối cho Em”? Phải chăng, đây lại là lời trăn trối từ các vị đang sửa soạn về nhà Cha, như vẫn bảo?

Vẫn bảo, là vẫn cứ tự nhiên ca hát những lời như:

“Đừng, đừng nhìn anh bằng đôi mắt buồn vời vợi.
Thà em nói, thà em trách rằng: anh dối gian thật nhiều.
Bây giờ chỉ còn đôi ba giây phút cuối bên nhau
Em nói đi, em nói đi,
Dù chỉ một lời làm tan nát lòng nhau.

Nếu! ngày mai nếu chúng mình xa nhau.
Anh xin hứa lời cùng em lần cuối.
Nếu! ngày mai nếu chúng mình xa nhau,
Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi.

Nếu! ngày mai nếu chúng mình xa nhau,
Anh xin hứa lời cùng em lần cuối.
Nếu! ngày mai nếu chúng mình xa nhau,
Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi.

(Nguyễn Vũ – bđd)

Hôm nay đây, mỗi khi ai đó làm lễ “xuất quân” ra trận mạc, vẫn có lời hỏi rằng: người thế ấy, có còn phát-biểu những câu tương-tự ở trên không? Hoặc, ít ra là những nhận-định khá “cứng” như Đức Giáo Tông độ nào, từng bảo ban:

“Bằng vào những nguyện-khấn sốt-sắng cho các nạn-nhân trong mọi cuộc chiến nhân-gian; và cũng để cảm ơn những người đã và đang dự-phần vàocác nỗ-lực trợ-giúp này/khác đầy nhân-ái, Đức Phanxicô đã kêu gọi mọi người hãy nguyện-cầu cho các bà mẹ của mình còn ở dưới thế-gian hoặc đã siêu-thăng trên thiên-quốc, nhân ngày Nhớ Ơn Mẹ 2017, cùng với ý-tưởng bảo rằng: Đã đến lúc con người cần có quyết tâm ăn-năn/sám hối và nguyện cầu nhiều hơn nữa, hầu chấm-dứt các cuộc chiến đang lan rộng và các xung-đột “phi lý’ khác.

 Ngày nay, mọi người chúng ta đang cần hỗ-trợ cuộc sống cũng như giùm giúp các bà mẹ ở khắp nơi để rồi ta chung-lưng xây đắp tương-lai tươi-sáng cho cộng-đồng của chúng ta vốn đang đòi hỏi mọi người biết quan-tâm cách cụ-thể đến sự sống và tình mẫu-tử nữa… (X. Catholic News Service ngày 15/5/2017 trên tờ Catholic Herald có tựa đề là Help End ‘absurd’ wars with penance and prayer, Pope Francis says”)

 Có lẽ, đúng như lời Đức Phanxicô nói: hôm nay đây, con người phàm-tục lạiđã quên mất nhu-cầu chuyện-vãn với Đấng Thánh-hiền ở trong Đạo; và ngày nay cũng chẳng còn ai bận-tâm tới chuyện sám-hối, đền-tội hoặc quyết-tâm quay trở về đời sống thánh-hiến, như khi trước.

Người thời nay, cả ở trong lẫn bên ngoài nhà Đạo –dù là Đạo Chúa hay bấtĐạo nào khác–  đã không còn “tỉnh-thức nguyện-cầu” cùng với Thần-linhThánh-ái nữa. Trái lại, ai nấy chỉ biết ê-a ba lời kinh, câu vãn, tiếng hát thanhtao để xin xỏ điều gì đó, thôi. Không tin ư? Thôi thì, ta hãy nghe tiếp lời ĐứcPhanxicô còn nói tiếp:

Ngày hôm nay, cũng thế, người người luôn có nhu-cầu khẩn-thiết trong nguyện-vãn/sám hối để nhận-lãnh ân-huệ trở về. Trở về, mà thừa-nhận kết-cuộc của quá nhiều cuộc chiến trải dài khắp thế-giới và còn lan tràn nhiều hơn nữa. Trở về, mà dứt đoạn các xung-đột lớn/nhỏ rất phi-lý đang phá tan-hoang bộ mặt của nhân-loại.

 Hãy trở về, để còn nhìn ra được rằng rất nhiều thường dân vô tội đang được xét-nghiệm một cách đau buồn, dù họ là Kitô-hữu, Hồi-giáo hoặc thành-viên sắc tộc thiểu-số như người Yaziđi đang buộc giáp mặt với bạo tàn, đau khổ và/hoặc kỳ-thị.

 Tôi đây, nay khuyến khích các cộng-đồng khác nhau, hãy men theo con lộ của đối-thoại và tình bằng-hữu hầu xây dựng một tương-lai gồm có cả sự tôn-trọng, an-ninh và hoà hoãn, xa rời cuộc chiến dù ở dưới bất cứ loại-hình nào cũng thế.” (X. Catholic News Service, bđd)

Vâng. Cuộc chiến ác-liệt ngày hôm nay, đã và đang xuất-hiện dưới nhiều hình-thức. Có khi, chỉ là xung-đột nhỏ. Cũng có lúc, lại là những tranh-giành lớn-lao, to đùng như: giành ăn, giành mối, giành cả quyền-hành và chức phận to/nhỏ.

Vâng. Cuộc chiến ác-liệt hôm nay lại đã len lỏi tận tâm-can con người. Cả, những người lâu nay không cần hoặc không còn thèm thuồng bất cứ thứ gì ngoài những cái mình đã có và đang có.  

Vâng. Quả có thế. Cuộc chiến quan-trọng hôm nay, còn là và vẫn là cuộc chiến nội-tại, bên trong con người. Chiến-đấu rất nhiều để mãi mãi còn là con người đúng danh hiệu của “người con” của Thiên-Chúa.

Vâng. Cuộc chiến hôm nay vẫn kéo dài, khi con người thường và/hoặc người “con của Chúa” lại đã vô-tâm quên lãng, không còn lý gì đến mục-đích của sự sống nhân-lành/hạnh-đạo như đã định.

Vâng. Cuộc chiến hôm nay vẫn cứ triền miên kéo dài từng đợt và trên từng chặng đường, ở chốn lưu-đày này. Đó, là cuộc chiến nội-tâm/nội-tại giữa cái xấu/điều tốt, đến thiên thu. Tra tay xâm-nhập vào cuộc chiến ấy, ai ai cũng muốn có ngày thành-đạt. Không vấp ngã, cũng chẳng thất-bại, dù thất-bại đó có là mẹ thành công hay sao đó.

Và, ngõ hầu chiến-thắng cuộc chiến nội tại này, người người cũng cần đến sự hỗ trợ của Đấng ở Bên Trên và/hoặc của các bà Mẹ hiền còn sống hay đã khuất. Và, “lời cuối cho Em” sẽ là và phải là lời chúc để người người thành công trong chiến thắng, vẫn rất cần.

Để minh-hoạ cho quyết-tâm chiến-thắng này, cũng nên quay về vườn hoa truyện kể có những câu truyện nhè nhẹ vốn dĩ khiến mọi người “lên tinh-thần”, như sau:

“Truyện rằng:

Ba hành khách cùng đi trên một chuyến tàu tới ga Tình yêu: Sòng phẳng, Ích kỷ và Vị tha. Cả ba đều mang theo mình hai gói đồ: Nhận và Cho, nhưng độ nặng nhẹ khác nhau:

 Sòng phẳng: Cho BẰNG Nhận

Ích kỷ: Cho ÍT HƠN Nhận

Vị tha: Cho NHIỀU HƠN Nhận

 Trong lúc rỗi rãi ba người tán gẫu về hành lý của mình. Sòng phẳng lên tiếng:

-Tôi thấy hành lý của các anh lệch lạc, thật khó mang theo. Còn tôi luôn cân đối Cho và Nhận nên mang đi dễ dàng.

-Anh làm thế nào cho cân được? Ích kỷ hỏi.

-Thì tôi phải tính chớ. Tôi chỉ cho đi khi tôi chắc có thể nhận về một lượng tương đương. Cho không hay nhận không của ai cái gì, tôi đều không thích. Tính tôi là vậy, không muốn mắc nợ hay mang ơn.

 Ích kỷ:

-Anh nói nghe như thể đi mua hàng vậy: Tiền nhiều mua được nhiều, tiền ít mua được ít, không tiền không mua. Nhưng tình cảm đâu thể đong đếm theo cách đó.

Sòng phẳng cười phá lên, rung cả hai vai. Ích kỷ ngạc nhiên:

-Tôi nói vậy không đúng à?

-Quá đúng là khác. Tôi chỉ buồn cười là trông 2 gói hành lý của anh bên Cho thì nhẹ bên Nhận thì nặng, vậy mà anh cũng nói được câu đó.

Ích kỷ nhìn lại 2 gói đồ của mình, gật đầu. Sòng phẳng thoáng bâng khuâng:

-Không phải lúc nào tôi cũng sòng phẳng cả đâu. Có những người cho tôi nhiều mà tôi không cho lại được là mấy. Ví như tình yêu cha mẹ cho tôi gần như vô hạn, chẳng kể tôi có đáp lại hay không. Vậy là tôi Nhận nhiều hơn Cho. Với con cái thì tôi Cho chúng nhiều hơn Nhận về. Cũng nhờ có sự bù trừ như vậy mà 2 gánh hành lý của tôi thường cân nhau.

Ích kỷ tán thành:

-Tôi thấy kiểu hành lý của anh giờ đang thịnh hành. Nhiều người thích sòng phẳng cả trong tình yêu theo kiểu: “Ông rút chân giò, bà thò chai rượu”.

 Sòng phẳng trầm ngâm:

-Ðôi khi tôi cũng không thích sống thế này đâu. Luôn phải tính toán nhiều – ít, luôn phải dừng gánh để sẻ từ bên này sang bên kia. Tôi thấy mệt mỏi và nhiều lúc trống rỗng, vô cảm.

Ích kỷ:

-Tôi cũng giống anh, luôn phải so đo tính toán. Nhưng tôi phải tính sao cho Nhận về mình nhiều hơn. Tôi chỉ thích nghĩ cho mình thôi mà.

-Nhận nhiều như thế anh có hài lòng không? Sòng phẳng hỏi.

-Chả mấy khi tôi vừa lòng. Tôi luôn canh cánh trong lòng: Mình có bị mất mát gì không? Cho như thế có nhiều quá không?

-Anh có người yêu không?

-Có chứ. Tôi rất yêu người yêu tôi là đằng khác. Nhưng tôi luôn lo sợ. Tôi sợ mình cho nhiều quá lỡ tình yêu bỏ tôi đi thì tôi chẳng được gì. Tôi không muốn nhận về tay trắng. Ðó là nỗi ám ảnh của tôi.

 Tàu qua cầu vượt sông Âu Io. Tiếng xình xịch của đầu máy át lời tâm sự của Ích kỷ. Qua khỏi cầu, tiếng ồn dịu lại, Ích kỷ và Sòng phẳng lúc này mới nhớ tới người bạn đồng hành thứ ba. Vị tha nãy giờ vẫn yên lặng lắng nghe. Khi thấy hai bạn hướng mắt về mình mới khẽ khàng cất lời:

– Hai anh đều có lý lẽ của mình. Lập luận của anh Sòng phẳng thuần túy là của bộ óc, không có mấy liên hệ đến trái tim. Chính vì vậy anh luôn thấy căng thẳng, mỏi mệt và đôi khi trống rỗng. Còn anh Ích kỷ yêu ghét rõ ràng, nhưng tình yêu của anh là “vì mình, cho mình”. Bởi yêu mình quá mà anh thường trực lo sợ. Tôi nói vậy có phải không hai anh?

Ích kỷ và Sòng phẳng đang mải nghĩ ngợi nên không trả lời. Vị tha nói thêm:

-Anh Sòng phẳng nói đúng: Hành lý của tôi không cân – Cho nhiều hơn Nhận. Ấy là vì tình cảm xuất phát tự đáy lòng thì rất chân thành và giản dị. Nó thấy rằng Cho là lẽ tự nhiên, không gì vui bằng làm cho người mình thương yêu được hạnh phúc. Niềm vui khi dâng tặng làm vơi gánh nặng của tôi, cho tôi sự thanh thản, đủ đầy.

-Ðủ đầy? Sòng phẳng và Ích kỷ cũng thốt lên. Cho là mất chứ, cho nhiều thì phải còn ít đi mới phải.

Vị tha mỉm cười:

-Ðấy là về mặt vật chất, là quy luật trong Toán học thôi. Quy luật của tình yêu thì khác. Lát nữa đến nơi, tôi sẽ chỉ cho các anh.

Ích kỷ và Sòng phẳng nhìn gánh hành lý của Vị tha, lại nhìn hành lý của mình, lòng chưa hết băn khoăn. Cũng vừa lúc tàu đến ga Tình yêu. Tàu chạy chậm dần, chậm dần rồi dừng hẳn.

Ngước nhìn vào sân ga, Sòng phẳng và Ích kỷ đều trông thấy dòng chữ có nội dung Vị tha vừa nhắc đến. Hai người rất đỗi ngạc nhiên vì họ đi trên chuyến tàu nhiều lần, đến ga Tình yêu đã nhiều mà chưa bao giờ thấy hàng chữ đó. Thực ra quy luật của Tình yêu luôn có ở đó, nhưng chỉ những ai có trái tim nhạy cảm mới thấy và thấu hiểu.

Bạn thân mến, tôi sẽ không nói hàng chữ trên sân ga Tình yêu nói gì vì tôi chắc bạn cũng đoán ra được. Ðể kết thúc câu chuyện, tôi chỉ xin tiết lộ về những người sẽ đón 3 hành khách của chúng ta cùng hành lý Cho và Nhận của mỗi người: Ðón Sòng phẳng là Khô khan, Ích kỷ sánh đôi cùng Bất an và người đón đi Vị tha chính là Hạnh phúc.

 Hãy đếm những nụ cười, đừng đếm những giọt nước mắt.

Hãy đếm những hạnh phúc, đừng đếm những tai họa.

Hãy đếm những gì ta được, đừng đếm những gì ta mất.

Hãy đếm những niềm vui, gắng quên đi những nỗi buồn..

Hãy đếm những ngày khỏe mạnh, quên đi lúc bệnh hoạn,

Hãy đếm những bạn thân, quên đi những người thù.” (Truyện kể trích từ Mạng vi tính)

Nghe kể như thế rồi, nay mời bạn và mà tôi ta lại đi vào vườn hoa khác, có những lời lẽ khuyến-khích mọi dân con nhà Đạo như sau:

“Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt,

khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử,

thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây:

Tử thần đã bị chôn vùi.

Đây giờ chiến thắng!

Hỡi tử thần,

đâu là chiến thắng của ngươi?

Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?

Tử thần có độc là vì tội lỗi,

mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật.

Nhưng tạ ơn Thiên Chúa,

vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng

nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

(Thư thứ 1 Côrinthô 15: 54-57)

Và, khi đã toàn-thắng cái xấu-xa/tồi tệ nhất, tức là cái chết về thể-xác hoặc cái chết nội tại trong và qua lỗi/tội, nay mời bạn và mời tôi, ta lại sẽ hiên ngang, đầu cao mắt sang hát lên cả những lời buồn bã ở ngoài đời, như tác-giả ở trên từng viết:

“Em, anh xin em một lần cuối
Đừng trách anh, đừng giận anh nhé em
Em, anh van em, em nói đi
Em nói sẽ không bao giờ buồn

Nếu ngày mai lỡ chúng mình xa nhau
Anh chôn dấu đời ngàn năm lạnh giá
Nêu ngày mai lỡ chúng mình xa nhau
Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi

Đừng, đừng nhìn anh bằng đôi mắt buồn vời vợi
Thà em nói, thà em trách rằng anh dối gian thật nhiều
Bây giờ chỉ còn đôi ba giây phút cuối bên nhau
Em nói đi, em nói đi
Dù chỉ một lời làm tan nát lòng nhau.

(Nguyễn Vũ – bđd)    

Hát thế rồi, ta lại hiên ngang bước về phía trước mà thực-hiện những điều mình đã quyết, trong cuộc đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Thêm một lần

Với quyết tâm

hát mãi những lời

rất như thế.

Thế giới không có tình yêu thương là một hoả ngục

 Thế giới không có tình yêu thương là một hoả ngục

** Một thế giới không có tình yêu thương và sự chú ý săn sóc của con người đối với nhau là một hoả ngục, chứ không phải là một thế giới nhân bản. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vì ngài là Tình Yêu và Ngài yêu thương cả khi chúng ta tội lỗi.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chúng sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC cho biết buổi tiếp kiến được tổ chức ở hai nơi: trong đại thính đường Phaolô VI cho các anh chị em đau yếu, vì trời quá nóng đối với họ, và tại quảng trường cho mọi người còn lại. Chúng ta tất cả được nối kết bởi Chúa Thánh Thần là Đấng luôn luôn tạo sự hiệp nhất. Chúng ta chào các anh chị em ở trong đại thính đường Phaolô VI. Sau đó ĐTC giải thích dụ ngôn người con hoang đàng như kể trong chương 15 Phúc Âm thánh Luca và nói:

Không ai trong chúng ta có thể sống mà không có tình yêu thương. Thật là một cảnh nô lệ xấu xa trong đó chúng ta có thể rơi vào, đó là cho rằng tình yêu thương là điều được thưởng. Có lẽ phần lớn nỗi lo lắng của con người ngày nay phát xuất từ điều này: đó là tin rằng nếu chúng ta không mạnh mẽ, hấp dẫn và xinh đẹp, thì khi đó không có ai lo lắng cho chúng ta. Biết bao nhiêu người ngày nay chỉ kiếm tìm tính cách hữu hình để lấp đầy sự trống rỗng bên trong: làm như thể chúng ta là những người muôn đời cần có các xác nhận. Tuy nhiên, anh chị em có tưởng tượng được một thế giới mà trong đó tất cả mọi ngươi đều ăn mày các lý do để khơi dậy sự chú ý cuả người khác không, và trái lại không có ai sẵn sàng yêu thương người khác một cách nhưng không?  Hãy tưởng tượng một thế giới như vậy: một thế giới không có sự nhưng không của tình yêu thương! Xem ra là một thế giới nhân bản, nhưng thật ra nó là một hoả ngục. Biết bao nhiêu chủ trương chiêm ngắm chính mình của con người nảy sinh từ một tình cảm cô đơn và mồ côi. Đàng sau biết bao nhiêu thái độ hành xử không thể giải thích được có ẩn dấu câu hỏi: “Có lẽ nào tôi lại không đáng được gọi tên hay sao, nghĩa là không đáng được yêu thương sao?” Bởi vì tình yêu thương luôn luôn gọi tên…

** Khi một thanh thiếu niên không được hay cảm thấy không được yêu thương, thì bạo lực nảy sinh. Đàng sau biết bao nhiêu hình thức của thù ghét xã hội và chủ trương đập phá thường có một con tim không được thừa nhận. Không có các trẻ em xấu, cũng như không có các người trẻ  hoàn toàn hoang dại, nhưng có các con người bất hạnh. Và cái gì có thể khiến cho chúng ta hạnh phúc, nếu không phải là kinh nghiệm của tình yêu thương được trao ban và được nhận lãnh? Cuộc sống con người là một trao đổi các cái nhìn: có ai đó nhìn chúng ta và giật được từ chúng ta nụ cười đầu tiên, và chúng ta là những người trao ban nụ cười một cách nhưng không cho người bị khép kín trong buồn sầu, và như thế chúng ta mở ra cho họ một lối thoát. Trao đổi cái nhìn: nhìn vào mắt và mở ra các cánh cửa của con tim. Bước đầu tiên mà Thiên Chúa làm với chúng ta là bước đi của một tình yêu thương được đi trước và vô điều kiện. Thiên Chúa yêu thương trước. Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

Thiên Chúa yêu thương chúng ta bởi vì Ngài chính là Tình yêu, và tự bản chất của nó tình yêu hướng tới chỗ tự phổ biến và trao ban. Thiên Chúa cũng không ràng buộc lòng nhân lành của Ngài vào việc hoán cải của chúng ta: có chăng  đó là sự hoán cải là một kết quả tình yêu thương của Thiên Chúa. Thánh Phaolô diễn tả nó một cách hoàn hảo khi nói: “Thiên Chúa chứng minh tình yêu của Ngài đối với chúng ta trong sự kiện khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi, Chúa Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5,8). Trong khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Một tình yêu thương vô điều kiện. Trong khi chúng ta còn ở xa, như người con hoang đàng của dụ ngôn: “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó trông thấy nó, và cảm thương…” (Lc 15,20).  

Vì yêu thương chúng ta Thiên Chúa đã thực thi một cuộc xuất hành khỏi chính Ngài, để đến kiếm tìm chúng ta trong vùng đất, nơi thật là vô nghĩa khi Ngài phải đến sống. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cả khi chúng ta đã lầm lỗi.

Ai trong chúng ta yêu thương kiểu đó, nếu không phải là một ngưòi cha hay một người mẹ? Một bà mẹ tiếp tục yêu thương con mình cả khi nó ở trong tù. Tôi nhớ tới biết bao bà mẹ, xếp hàng để vào nhà tù trong giáo phận trước đây của tôi. Họ không xấu hổ. Đứa con họ ở trong tù, nhưng nó là con của họ. Và họ chịu biết bao tủi nhục, khi bị lục soát trước khi vào nhà tù. Nhưng “Nó là con của tôi”. “Nhưng bà ơi, con bà là một tên tội phạm!” “Nó là con tôi!” Chỉ có tình yêu của người mẹ người cha làm cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa như thế nào.

** Một bà mẹ không xin xoá bỏ công lý nhân loại, bởi vì mỗi lầm lỗi đòi hỏi một đền bù, nhưng một bà mẹ không bao giờ  thôi đau khổ cho con mình. Bà yêu thương nó cả khi nó là một tội nhân. Thiên Chúa cũng làm cùng điều đó đối với chúng ta: chúng ta là con cái của được yêu thương của Ngài! Có thể Thiên Chúa có vài người con mà Ngài không yêu không? Không đâu. Chúng ta tất cả đều là các con cái được Thiên Chúa yêu thương. Không có một lời chúc dữ nào trên cuộc sống của chúng ta, nhưng chỉ có lời nhân lành của Thiên  Chúa, là Đấng đã kéo sự sống của chúng ta ra từ hư không. Sự thật của tất cả những điều đó là tương quan tình yêu thương gắn liền Thiên Chúa Cha với Chúa Con qua Chúa Thánh Thần, tương quan trong đó chúng ta được tiếp nhận do ơn thánh. Trong Ngài, trong Đức Kitô Giêsu, chúng ta đã được muốn, yêu thương và mong ước. Có Một Người đã in trong chúng ta một vẻ đẹp nguyên thuỷ, mà không tội lỗi nào, không lựa chọn sai lầm nào có thể xoá nhoà tất cả. Trước mắt Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là các con suối nhỏ được làm để vọt lên nước ngon. Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà xứ Samaria: “Nước mà tôi sẽ cho chị, sẽ trở thành nơi chị một suối nước vọt lên cho sự sống vĩnh cửu” (Ga 4,14).

Để thay đổi con tim của một người bất hạnh, thì đâu là phương dược? Đâu là thuốc giúp thay đổi con tim của một người không hạnh phúc? Tín hữu trả lời: tình yêu. ĐTC nói: “Hãy nói to hơn”. Tín hữu la to: tình yêu. Giỏi, giỏi, tất cả đều giỏi! Và làm thế nào để cho khiến cho một người cảm nhận được là ta yêu thương họ? Trước hết cần ôm họ trong vòng tay, làm cho họ cảm nhận được rằng họ được ước mong, rằng họ quan trọng, và họ sẽ thôi buồn. Tình yêu kêu gọi tình yêu, một cách mạnh mẽ hơn thù hận mời gọi cái chết. Chúa Giêsu đã không chết và sống lại cho chính Ngài, mà cho chúng ta, để tội lỗi chúng ta được tha thứ. Vì thế đây là lúc phục sinh cho tất cả mọi người: là lúc nâng các kẻ nghèo hèn đứng dậy khỏi sự chán nản, nhất là những kẻ nằm trong mồ từ một thời gian lâu hơn là ba ngày. Ở đây một ngọn gió giải phóng thổi trên mặt chúng ta. Ở đây nẩy mầm ơn của niềm hy vọng. Và niềm hy vọng là niềm hy vọng của Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta như chúng ta là: Ngài luôn luôn yêu thương chúng ta và yêu thương tất cả mọi người.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện, trong đó có các đoàn đến từ Pháp, Bỉ, đảo Maurizitius, đặc biệt các sinh viên tham dự đại hội Olivaint tại Paris. Ngài nhắc cho mọi người nhớ tất cả đều quý báu trước mặt Chúa, và sự thật này là suối nguồn trao ban hy vọng.

Chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Thụy Điển, Hồng Kông, Pakistan, Philippines, Đại Hàn, Thái Lan, Canada và Hoa Kỳ ĐTC cầu chúc Chúa Kitô ban cho họ nhiều niềm vui và an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức, đặc biệt là cộng đoàn các cha Scolopi Illertissen, ngài nhắc cho biết tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm  Chúa Giêsu, suối nguồn vô tận của tình yêu. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu ấy của Chúa, bằng cách trao ban nó cho những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong đó có các đoàn hành hương Brasil, ngài xin Mẹ Maria giúp mọi người biết ra khỏi chính mình và noi gương Mẹ thông truyền tình yêu của Chúa cho tha nhân.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại tư tưởng của thánh Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ con người và nói: “Con người là sinh vật không thể hiểu đuợc và cuộc sống của nó vô nghĩa, nếu nó không gặp gỡ tình yêu thương và sống kinh nghiệm yêu thương, lấy đó làm của riêng mình và tham dự vào đó cách sống động” (s. 10) Chúng ta đừng sợ hãi tình yêu thương và các đòi hỏi của nó. Hãy khiến cho nó trở thành to lớn, xinh đẹp và có trách nhiệm trong cuộc sống, để là một ánh sáng hy vọng cho tha nhân.

Trong các nhóm Ý ĐTC chào các tân linh mục giáo phận Brescia bắc Italia, hiệp hội Bác ái không biên giới giáo phận San Marino Montefeltro kỷ niệm 20 năm thành lập, liên hiệp người mù Italia, hiệp hội Silvana Angelucci của nhiều vùng Italia, hiệp hội văn hóa Reatium kỷ nhiệm ĐGH Zosimo, thân nhân của các bính sĩ bị chết trong các sứ mệnh bảo hoà. ĐTC bầy tỏ sự trìu mến, gần gũi, ủi an và khích lệ họ.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc hôm qua Giáo Hội mừng kính thánh Antôn thành Padova, “vị giảng thuyết tài ba bổn mạng dân nghèo và người đau khổ.” Ngài khích lệ giới trẻ đừng mệt mỏi noi gương sống của thánh nhân; người đau yếu xin thánh nhân bầu cử cho họ trong tật bệnh; và các cặp vợ chồng mới cưới thi đua học hỏi và sống Lời Chúa trong đời hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Tác giả: Linh Tiến Khải
Nguồn: http://vietvatican.net

GÀ GÁY VÀ NGÃ NGỰA

GÀ GÁY VÀ NGÃ NGỰA

Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.  Tiếng gà gáy để phản tỉnh.  Cú ngã ngựa để hết tự mãn.  Phêrô và Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin.  Các ngài có một quá khứ lầm lỗi.  Phêrô có lần bị Chúa quở là satan; ông đã ba lần chối Thầy.  Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu; ông đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội.  Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình.  Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách.  Tiếng gà gáy và cú ngã ngựa là hai dấu ấn không phai trên hành trình nên thánh.

  1. Tiếng gà gáy phản tỉnh

Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô.  Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: Phêrô, sao con lại chối Ta.  Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao?  Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya, nhắc nhở lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần.”  Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, cõi lòng xốn xang, mình chỉ là cát bụi, phận yếu hèn và quá dễ sa ngã!  Phêrô thổn thức. Mới hôm nào ông còn tuyên bố: “Dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.”  Thế mà, giờ đây ông lại nhát gan khi đối diện nguy nan nên đã chối Thầy đến ba lần.  Và đêm hôm ấy, tiếng gà gáy đã thức tỉnh tâm hồn Phêrô.  Xuất thân là ngư phủ với bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, nên khi lầm lỗi ngài chân thành sám hối và òa khóc như một đứa trẻ.  Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa.  Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại.  Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục.  Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài.  Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa.  Thánh Phêrô có lòng quảng đại.  Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa.  Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”  Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường.  Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức.  Khiêm nhường là mẹ các nhân đức.  Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa.  Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ngài cũng không giận Chúa.  Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa.  Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

  1. Cú ngã ngựa để hết tự mãn

Saolô ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem.  Là biệt phái nhiệt thành nên Saolô đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu.  Oai phong trên yên ngựa đang phi nước đại, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông, Saolô té nhào từ yên ngựa.  Nằm sóng soài dưới chân ngựa, Saolô nghe được tiếng gọi trong luồng ánh sáng phát ra từ trời: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?”  Saolô hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”  Tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ.”  Không thể tin vào chính mình nữa, không ngờ ông Giêsu Nadarét, người đã bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm, lại chính là Thiên Chúa quyền năng đã quật ngã mình và đã tự đồng hóa với những Kitô hữu mà mình đang lùng bắt.  Dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, đôi mắt của Saolô bị mù loà, nhờ đó ngài biết rằng trước đây mình thật là mù quáng.  Nhưng sau đó, qua trung gian của Khanania, đại diện của Giáo Hội, ngài đã được sáng mắt về phần xác và cả phần hồn để nhìn thấy con đường mình được mời gọi bước vào.

Hoàn toàn phó thác, ngài đã thưa với tất cả tâm tình phục thiện: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”  Con đường đức tin của Saolô đã hoàn toàn thay đổi kể từ lần gặp gỡ hi hữu ngoài sức tưởng tượng ấy.  Sự sống của Chúa Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông.  Được ơn trở lại từ cú ngã ngựa nhớ đời, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại.  Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.  Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi.  Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3,7-9).   Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.  Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường.  Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân.  Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12,9).  Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cor 4,8-9).  Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14).  Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).  Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ.  Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?  Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?…  Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

  1. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày.  Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma.  Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn.  Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.  Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người.  Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha.  Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự.  Chúa đã dùng hai sự kiện gà gáy và ngã ngựa để thanh tẩy các ngài.  Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng.  Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng.  Cùng chịu tử đạo.  Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo.  Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.  Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội.  Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội. 

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất.  Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo.  Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa.  Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.”  Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu!  Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương.  Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.”

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

TRÁI TIM NHÂN HIỀN

TRÁI TIM NHÂN HIỀN

Giáo Hội dành tháng Sáu hằng năm để tôn vinh Thánh Tâm Chúa Giêsu.  Thánh Tâm là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.  Thánh Gioan đã viết: “Người đã yêu thương họ (các môn đệ) đến cùng” (Ga,13,1).  Ý niệm “đến cùng” này được chứng minh qua cái chết trên thập giá, cũng như qua việc trái tim của Chúa bị đâm thâu.  Bởi trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên người nghèo khó và đau khổ như những kẻ cùng cực nhất trên thế gian.  Cũng trên thập giá, Trái tim Người đã mở ra, như một kho tàng phong phú, rộng mở để ban tặng hết những vật phẩm quý giá cho mọi người.  Chính vì vậy, Giáo Hội ca tụng tình yêu của Chúa và tung hô: Ôi Trái tim nhân hiền!

Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người.  Người đã chia sẻ phận người và đồng hành với con người còn mang nhiều khổ đau.  Trong con người của Chúa Giêsu, trái tim vô hình của Thiên Chúa cao cả, và trái tim hữu hình của con người hữu hạn đã trở nên một.  Vì vậy, trái tim của Người vừa hàm chứa tình yêu bao la của Đấng tạo thành, vừa mang những thổn thức rung động của một con người.  Trái tim ấy vừa yêu thương chúc lành, vừa đồng cảm trước nỗi khốn khó của con người.  Các tác giả Phúc âm đều diễn tả Chúa Giêsu với những cảm xúc rất nhân loại, đồng thời có những nghĩa cử rất thiên linh.  Người vỗ vai an ủi người mẹ trong đau khổ tang thương, đồng thời làm cho người con của bà đã chết được sống lại trong niềm vui của dân làng lối xóm; Người rơi lệ khi chứng kiến nỗi đau của thân nhân ông Lagiarô là người đã chết bốn ngày, đồng thời ra lệnh cho ông bước ra khỏi mồ trong sự ngạc nhiên thán phục của dân chúng.  Qua lời giảng dạy và qua những phép lạ, Chúa Giêsu bày tỏ tình thương của Thiên Chúa.  Qua con người của Đức Giêsu, chính Thiên Chúa cúi mình xuống, trở nên gần gũi con người để cảm thông và chia sẻ nỗi đau của kiếp nhân sinh.

Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, đến trần gian để đem ơn cứu rỗi cho con người.  Trong lời giáo huấn, Người lấy lại hình ảnh người mục tử của Cựu ước để diễn tả sứ mạng phục vụ con người.  Người đã khẳng định: “Tôi là mục tử nhân lành…” (Ga 10, 11).  “Mục tử nhân lành” có nghĩa là mục tử có đầy đủ mọi đức tính: bao dung, kiên trì, nhẫn nại, khiêm tốn, tận tình.  Người mục tử chân chính bao giờ cũng lo cho đàn chiên và đặt lợi ích của đàn chiên là ưu tư hàng đầu.  Trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thể hiện là một mục tử nhân lành.  Người luôn quan tâm giúp đỡ những ai đến với Người, bất luận đó là hạng người nào.  Người đón tiếp những người tội lỗi, đối thoại với những người bất đồng ý kiến, thương xót những người cơ hàn khốn khổ.  Hình ảnh một mục tử chăm sóc và chữa lành con chiên bệnh tật, nâng đỡ con chiên yếu đuối, cất công đi tìm con chiên lạc… đã thể hiện rõ nét nơi Chúa Giêsu.

Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn quan tâm săn sóc người nghèo, nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất.  Như vị Ngôn sứ thành Nagiarét đã cần mẫn rảo khắp xứ Palestina để loan báo Tin Mừng, hai ngàn năm qua, Giáo Hội không ngừng đến với mọi nền văn hóa, đối thoại với mọi hệ thống chính trị, nâng đỡ và cứu giúp những người đau khổ, là nạn nhân của chiến tranh, nghèo đói và kỳ thị.  Khi loan báo Tin Mừng qua nhiều ngả đường khác nhau, nhất là bằng những hoạt động bác ái, Giáo Hội trình bày tình thương của Thiên Chúa. Tình thương ấy thể hiện qua Đức Giêsu Kitô.  Ai đón nhận Đức Giêsu là đón nhận tình thương của Thiên Chúa.  Ai thực hành giáo huấn của Đức Giêsu là góp phần diễn tả hình ảnh của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Chúa Giêsu đã về trời sau khi hoàn tất sứ mạng Thiên Sai, nhưng Người vẫn hiện diện giữa chúng ta như lời Người đã hứa: “Này đây, Thày ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).  Người hiện diện để tiếp tục tỏ bày tình yêu thương đối với nhân loại.  Người ở giữa chúng ta để cùng vác thập giá với chúng ta giữa cuộc sống đầy lao nhọc và gian nan khốn khổ. “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.  Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.  Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).  Mỗi chúng ta đều đã hơn một lần trải nghiệm điều này, là nếu trao gửi những lắng lo cho Chúa và trông cậy tín thác nơi Người, Người sẽ nâng đỡ ủi an chúng ta.  Gánh nặng cuộc đời vì thế mà bớt đắng cay.  Cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và lạc quan hơn.

Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa không chỉ nhằm nhắc cho chúng ta một câu chuyện dĩ vãng xa xưa, nhưng mời gọi chúng ta hãy sống cụ thể sứ điệp yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.  Lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ vào lúc cuối bữa tiệc ly cũng là lời Chúa căn dặn mỗi người tín hữu chúng ta: “Nếu Thày là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14).  Đó chính là bài học yêu thương mà Chúa Giêsu muốn để lại cho chúng ta, để rồi mọi thế hệ, bất cứ nơi đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi chúng ta thực thi đức yêu thương là chúng ta làm cho người khác nhận biết Chúa.

“Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa” (Kinh cầu Trái Tim).  Lời cầu nguyện rất đơn sơ này diễn tả mong ước cho mỗi người tín hữu trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu giữa trần gian.  Hãy sống với nhau bằng trái tim, để làm cho cuộc sống này thấm đượm yêu thương.  Hãy phản ánh “Trái tim nhân hiền” của Chúa Giêsu qua lời nói và việc làm hằng ngày.  Một khi mang trong mình trái tim giống trái tim của Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng kết nối yêu thương với mọi người và làm cho yêu thương lan tỏa trong cuộc sống hôm nay.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu 2017

Langthangchieutim gởi

Nhưng Chúa hiểu tại sao con yêu người lắm

Tin Mừng (Mt 10: 26-33)

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:

“Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.

“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không?  Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

  *      *      *

“Nhưng Chúa hiểu tại sao con yêu người lắm”

“Con nguyện cầu tình con luôn đằm thắm

Chia nụ cười , an ủi lúc khổ đau

Giúp chúng con luôn nâng đỡ lẫn nhau

Và xin Chúa bảo tồn tình con nhé.” (dẫn từ thơ SC)

Trong nguyện cầu, nhà thơ mong tình yêu luôn đằm thắm. Thắm tình người, thắm cả vào lúc khổ đau. Tình người hôm nay, Chúa có nói: “đừng sợ! Chớ lo!Kẻo mất tình thân thương, cộng đoàn. Không sợ và chẳng lo nhưng vẫn giữ tình dân con, là tâm tình Chúa nhắn nhủ, ở Phúc âm.

Phúc âm hôm nay, ghi rõ lời Ngài: “ Anh em đừng sợ!” Sợ ở đây, là: sợ cho sự an toàn của cải. Sợ, cả khi mọi chuyện đang yên ổn. Với cộng đoàn tình thương, an toàn của cải không là vấn đề chính, để ta lo. Mà, chỉ nên lo lắng cho nhau; san sẻ những gì mình có, chuyển cho người thiếu thốn, đang cần.

Bài đọc hôm nay, đặt trọng tâm vào việc thiết yếu: những chuyện có thể xảy đến với ta trong khi ta sống và thực hiện Lời Chúa, một  cách nghiêm chỉnh.  Như đã biết, bước theo chân Chúa nên hiểu cho đúng, (chứ không chỉ là chuyện lo đi nhà thờ/đọc kinh), mà là gieo rắc và truyền giao thông điệp thương yêu, công bình và an lạc bằng lời nói và hành động. Thông điệp này, đã và đang bị nhiều người coi như một mối đe doạ, cần phản bác.

Điều ảo tưởng lâu nay ta vẫn có, là: người theo Chúa cách trọn vẹn, chắc chắn là những người luôn được mọi kẻ yêu thương – thán phục. Nhưng, không phải thế. Người theo Chúa, thường hay bị ghen ghét, vì Danh Ngài. Thật ra, là Kitô hữu đích thực, không hẳn là kẻ được mọi người yêu thương tìm đến, thán phục. Nhưng, chính là người, bằng vào lời nói và gương sáng, biết rao truyền thị kiến sống trọn vẹn, điều Chúa khuyên.

Dù luôn được Chúa nhủ khuyên, nhưng Kitô hữu chúng ta lại hay mâu thuẫn khi so sánh cuộc đời mình với cuộc sống nhởn nhơ ngoài đời. Sống điều Chúa khuyên, dù rằng hiền lành, tử tế, yên hàn,bất bạo động, chẳng đụng chạm đến ai. Thế mà, vẫn bị người đời coi khinh, ghét bỏ,  thậm chí, có vị còn bị đe doạ/ trù dập nguy đến tính mạng, nữa. Trường hợp điển hình như thế, vẫn dẫy đầy nơi lịch sử nhà Đạo.

Dễ thấy nhất, là trường hợp Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero bị giết đang khi dâng lễ, ở El Salvador. Sau cái chết của ngài, sáu linh mục đồng hành cũng bị vạ lây và bị giết, lúc nửa đêm. Công việc các ngài làm, chỉ là kêu gọi phải công bình trong đối xử với giới nghèo hèn/bất lực trong xã hội. Điều tệ hại, là: sự dữ cứ xảy ra không chỉ tai Nam Mỹ, mà còn ở nơi khác nữa. Ở nhiều nơi, dân con Đạo Chúa chỉ muốn sống đời Phúc Âm thôi, cũng bị bách hại.

Phúc Âm hôm nay, gợi nhớ Lời Ngài dạy:

Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”  (Mt 10:32)

Sống Lời Chúa, ta sẽ được Ngài bảo vệ và giúp đỡ. Được Chúa giúp, ta không còn nguy cơ để luột mất sự sống của chính mình. Bởi, trên thực tế, nhiều người vẫn cứ nhượng bộ chấp nhận sự xấu để được sống thoải mái dễ chịu. Chính vì thế, Ngài đã bảo:

Anh em đừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không giết được hồn; hãy sợ Đấng có thể diệt cả hồn lẫn xác, trong hoả ngục”. (Mt 10:28).

Quả thật, lo sợ lớn đối với mọi người không là sự chết, nhưng sợ bị lôi cuốn mà phản lại các đặc trưng / đặc điểm lâu nay ta vẫn có, trong cộng đoàn. Sống có đặc trưng/đặc điểm nơi cộng đoàn, là sống biết truyền rao thông điệp của Chúa. Đó là cuộc sống của tiên tri/ngôn sứ. Sống tiên tri, không có nghĩa sống theo kiểu cách của nhà phù thuỷ, biết trước sự việc xảy đến. Sống tiên tri, là đọc được “dấu chỉ thời đại”. Là, biết hướng đi xấu của xã hội đang trên đà đi xuống. Sống tiên tri, là như Winston Churchill thập niên ‘30’, đã dám tự mình chống lại chính sách nhượng bộ, muốn quay sang với Hitler.

Sống tiên tri, là sống vai trò đã diễn tả ở bài đọc một, trong đó ông Giêrêmia lúc ban đầu chẳng muốn làm ngôn sứ. Ông nghĩ, mình không đủ tài năng và tư cách làm theo lời Chúa, cho đến khi Chúa quyết định chọn ông. Và khi ấy, ông chợt nhận ra: vai trò truyền rao thông điệp của Chúa, đã làm, đã làm mất đi nhiều bè bạn, nên ông nói:

“Hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!

Tất cả bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã.”

( Ge 20:10).

“Tố cáo và rình xem con vấp ngã”, là cách thức con người ngày nay đã đối xử với Gandhi, Martin Luther King, và nhiều ngôn sứ khác. Tố cáo và rình rập, vẫn dễ làm hơn là chịu nghe theo lời khuyên. Và ngôn sứ đã đã chịu nghe vì biết có Thiên Chúa, có Đấng –Là- Sự- Thật luôn chống đỡ:

“Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con,

như dũng tướng vạn năng;

bởi thế, những kẻ bách hại con trượt nhào không sao thắng nỗi.”

(Ge 20:11)

Hội thánh hôm nay, cũng có hai nhóm ngôn sứ. Nhóm đầu, coi như theo đúng ’hiến  pháp’ gồm giám mục, linh mục, các nhà thần học và thủ lĩnh tôn giáo, nam lẫn nữ. Vai trò của các vị này là giúp ta sống niềm tin theo đúng tinh thần Phúc Âm, ở đời thuờng. Nhóm thứ hai, là các tiên tri có “đặc sủng “ theo đúng nghĩa của thế giới gian trần. Là những Martin Luther King,những Giám mục Romero thời đại, ta vẫn thấy. Nói chung, ngôn sứ là những vị biết trao tặng đời mình cho những gì mình tin tưởng.

Cùng một chiều hướng, có thể nói không sai rằng: Mẹ Têresa Calcutta đã là ngôn sứ. Mẹ là ngôn sứ không theo nghĩa những gì mẹ nói. Nhưng là theo những gì mẹ làm. Nhất thứ, điều mẹ làm đã nhắc ta nhớ đến kẻ nghèo nhất trong số người nghèo hèn. Và, nhận ra diện mạo Đức Chúa nơi người hèn yếu. Cũng nên biết rằng, tên và tuổi chúng ta đã và đang được sắp vào danh sách các ngôn sứ Đạo Chúa ngay ngày hôm nay. Trong cộng đoàn thân thương của chính mình.

Với Tân Ước, ngôn sứ là quà tặng của Chúa Thánh Linh. Và theo ý nghĩa đích thực của danh xưng, đây chính là “ ơn gọi” rất đặc thù. Tuy nhiên, một số loại hình của vai trò ngôn sứ đã có sẵn nơi mỗi một người chúng ta. Bởi, khi thanh tẩy, ta đã đã được  mời gọi làm nhân chứng cho giá trị của Lời Chúa. Nhân chứng, bằng lời nói và bằng gương sáng trước các nghịch cảnh xảy ra ở gia đình, nơi sở làm, ngoài phố chợ và đường đời.

Giả như, ta thấy sống đời con Chúa không khác gì như đời sống của người dưng ở đời thường. Hoặc giả như cộng đoàn ta sinh hoạt chẳng để lại dấu ấn nào với xã hội quanh ta thì lúc ấy ta cũng nên tự kiểm, coi xem lối sống của ta có phản ánh điều Phúc Âm vẫn đòi hỏi không. Bởi, chúng ta tề tựu quanh nhau mỗi tuần để dâng tiến nguyện cầu thôi, chưa đủ. Cuộc sống của ta phải làm chứng cho sự công bình, phẩm cách, chính trực, tinh thần phục vụ, san sẻ nguồn lợi tức, bảo vệ kẻ hèn yếu, bị bỏ rơi, mới đúng nghĩa.

Sống làm chứng, có thể gây nhiều phản đối/chống trả từ phía bạn bè/người quen. Sống, với chủ trương ‘lương thiện’ hơn bon chen, ‘phục vụ’ hơn thao túng, ‘công minh’ hơn ngạo mạn. ‘Bảo bọc, giùm giúp’ khách lạ người dưng hơn cứng ngắc với luật lệ, vẫn là, những việc khó làm trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, sống chính trực với Đức Kitô, vẫn hơn là o bế mị dân để lôi kéo kẻ yếu về phe ta. Và, trong mọi trường hợp, vẫn cần tin tưởng nơi Chúa và nơi chính mình. Và trên hết, cần thâm tín rằng: phương cách duy nhất làm lợi cho mọi người là Đường Chúa dẫn đi.

Trong tin tưởng vào Đường Chúa dẫn đi, ta chung vui góp giọng cùng lời ca hôm trước:

“ Cho tôi được một lần

            Nhìn quê hương đợi sáng

            Một lần nhân nghĩa sống lên ngôi

            Người người cùng chung vui một lối

            Đời thôi không lừa dối

            Vì đã yêu thương rồi”

(Bảo Thu- Cho Tôi Được Một Lần)

Đúng thế. Khi, người người cùng chung một lối- lối sống, lối nhìn sự việc – thì đời người sẽ “thôi không lừa dối”, mà là yêu thương. Yêu, như Chúa vẫn dạy. Yêu, khi “chia nhau nụ cười”, và “ an ủi lúc khổ đau”. Yêu, bằng tình đằm thắm. Rất thân thương.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Em như cơn gió thu bay bay nhè nhẹ,

Video: Yêu Em Dài Lâu – Phương Vy & Lê Hiếu

httpv://www.youtube.com/watch?v=I6ejKtMcrlU

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần 12 thường niên năm A 25/6/2017

 “Em như cơn gió thu bay bay nhè nhẹ,”

Đưa anh đi tìm vần thơ.

Qua công viên lá rơi trên con đường về,

Bỗng nhiên nghe lòng đang ước mơ.

“Mơ ôm em trong tay đêm mưa thì thào,

Cho bão tố về làm chiêm bao.

Mơ yêu em thiết tha như yêu lần đầu.”

Đức Huy – Yêu Em Dài Lâu)

(Thư thứ I Phêrô 2: 10)

Yêu như thế mà đã gọi là “dài lâu” sao? Phải chăng dài và lâu bao gồm các chữ/nghĩa rất như sau:

“Yêu em cho đến khi con tim ngừng đập,

Cho thiên thu là một giây.

Yêu em cho đến khi ong thôi làm mật,

Đến khi loài chim quên lối bay.

Khi ôm em trong tay anh nghe ngọt ngào,

Nếu đời là một giấc chiêm bao.

Xin yêu em thiết tha như yêu lần đầu,

Anh muốn yêu em dài lâu.

Anh muốn yêu em dài lâu.

Anh muốn yêu em đậm sâu.

Anh đã thương em từ lâu.”

(Đức Huy – bđd)

Vâng. Có thể là như thế. Cũng có thể, là khác thế. Như hoặc khác, cũng chỉ là những đoán già, đoán non của người nghệ sĩ từng viết lên nhạc-bản. Chứ, làm sao biết được tâm-tình của người trong cuộc, có mỗi cuộc tình trăm năm!

Riêng, “người trong cuộc” ở nhà Đạo, lại có những tâm-tình riêng-lẻ của thứ tình thương-yêu gọi được là “dài lâu”, đâu đã chắc. Có chắc hay không, nay xin mời bạn và mời tôi, ta cứ thử đi một vòng tra-khảo ở miệt dưới rất Triết/thần đầy ý-nghĩa.

Trước nhất, là những ý/lời đầy ý-nghĩa như sau:

“Bên cạnh chuyện lưu-đày Babylon, kinh-nghiệm về lưu-đày và trở về từ chốn ấy là biến-cố lịch-sử khá quan-trọng trong việc định-hình cuộc sống cũng như và óc tưởng-tượng của người Do-thái-giáo, vào độ trước. Biến-cố này, tự nó đã nung-nấu ý-thức của họ và đối với họ, lại đã trở nên ẩn-dụ về tương-quan họ có với Thiên-Chúa…

 Ngày nay, ta đang sống ở vào thế-kỷ mà trong đó có đến cả triệu người trải qua nhiều lưu-đày và những người tị-nạn như thế cũng biết thế nào là kinh-nghiệm ban đầu. Và số người còn lại trong chúng ta cũng là hoa trái tốt lành để tưởng-tượng ra thế nào là cuộc sống lưu-đày tại chỗ. Đó là kinh-nghiệm về một tách-lìa khỏi những người và những thứ mình thân-thương, trân-trọng như người nhà.

 Thông thường, sự/việc đó bao hàm tình-trạng mất hết uy-lực và bị đẩy ra bên lề xã-hội, thông thường vẫn gặp sự o-ép/bức-bách làm nạn-nhân của nhiều thứ, nhiều sự. Tựa hồ như n-dụ của sự lệ-thuộc đầy bó buộc ở câu truyện lưu-đày, sự/việc đây, lại cũng có nhiều tầm-kích về tâm-lý cũng như văn-hoá/chính-trị…

 Trong cuộc sống của mỗi người, ta có kinh-nghiệm rất nhiều về sự lưu-đày tựa hồ như bất-hoà, ghẻ lạnh, hoặc tha-hoá, lép kẹp, mất nối-kết với trung-tâm sinh-lực đầy ý-nghĩa, để rồi một ngày nào đó trở-thành giống như người khác không còn là chính mình và chẳng có gì là thú-vị trong đời người hết. Ta cứ nóng lòng có lại được điều gì đó mà ta cứ tưởng nhớ, rất mơ hồ.

 Thành thử, cuộc sống lưu-đày lại có ý-nghĩa sâu-sắc về hiện-hữu. Là, sống xa cách Sion chốn/miền ở đó Thiên-Chúa luôn hiện-diện. Quả thực, lưu-đày là trọng-tâm của biểu-tượng về câu truyện Địa-Đàng trong sách Sáng Thế, Địa-đàng và Thiên-đàng, là nơi chốn có Thiên-Chúa hiện-diện, nhưng ta lại sống ở bên ngoài, phía Đông vườn Địa đàng này.                 

 Giả như vấn-đề ta gặp phải là lưu-đầy, vậy thì đâu là giải-pháp cho vấn-đề ấy? Dĩ nhiên, giải-pháp ở đây là hành-trình trở về. Việc kêu mời ta trở về nghe ra như xuyên-suốt nửa cuốn Ysayah do vị ngôn-sứ với tên gọi không mấy quen thuộc nhưng lời lẽ của sách lại đã trở-thành cao quí trong toàn cuốn Thánh Kinh Do-thái-giáo…

 Cuối cùng thì, giống hệt như truyện xuất-hành, chuyện lưu-đày và trở-về vùng Đất hứa là câu truyện về một hành-trình. Hành-trình ấy, diễn-bày hình-ảnh cuộc sống đạo-đức như một hành-trình về chốn miền có Thiên-Chúa hiện-diện. Đó là cuộc về lại nhà, một hành-trình trở về. Và, giống như truyện xuất-hành về Đất hứa, câu truyện ở đây nói về Thiên-Chúa luôn giúp giùm /đùm-bọc những những khởi công hành-trình ấy.” (X. Marcus J. Borg, Images of Jesus and Images of the Christian Life, Meeting Jesus Again For The First Time, HarperCollins 1997, tr. 119-121)

Nói như thế, cũng như thể nói một cách rất chắc-nịch. Chắc, đến độ ta không cần phải biện-luận dông dài chi cho kinh hãi lại cũng rất sợ. Biện và luận hôm nay, là những suy-tư/phát-biểu nhiềy ý-kiến/tư-tưởng nghe quen quen. Những ý-kiến và tư-tưởng, đại để bảo rằng:

“Tất cả là quà tặng, từ Thiên-Chúa. Quà tặng Ngài phú/ban, vẫn đổ tràn xuống với mọi người. Quà ấy, là tình thương yêu trìu mến xuất từ Thiên Chúa. Tất cả những gì mà mọi người cho là mình sở hữu, tất cả những gì mình làm hoặc suy nghĩ, nhất nhất đều là quà tặng.

   Chính đó là điều mà mọi người lâu nay vẫn tuyên tín. Vẫn tin vào một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Đấng ban cho ta hết mọi thứ, như quà tặng không, biếu không. Và hiểu rằng, ý nghĩa quà tặng sự sống Chúa trao ban, làm cho cuộc sống của ta nên đáng sống. Nhưng oái oăm thay, đôi lúc ta cứ muốn độc lập hẳn với Chúa. Cứ suy nghĩ và hành động như thể mọi sự là của ta, do ta kiếm ra chứ chẳng phải của ai cho, hết.

 Bởi thế nên, lắm lúc ta cứ hành xử như mình là chủ-nhân-ông đích thật mọi sự vật. Chủ, mọi sự vật cũng như tài sản mình đang nắm giữ. Rồi từ đó, lại có cảm giác cứ trách móc cho rằng Thiên Chúa không tạo dựng nên mọi sự cho ta sử dụng, ngay từ đầu. Sau các cơn địa chấn với sóng thần gây kinh hoàng ở đây đó, nhiều người xem ra mới mở mắt, biết rằng: những gì mình lâu nay sở hữu, thật sự không phải là của mình, do mình kiếm ra. Mà là, do Chúa tặng để mình tạm thời sử dụng, thôi. Sử dụng, theo cung cách rất độ lượng ngõ hầu mình có thể giùm giúp người khác, đang cần thiết hơn.

 Quà tặng lớn nhất trong đời mọi người, chính là sự sống. Tựa hồ như giòng chảy ở trên sông. Như mạch suối ngầm trồi lên từ lòng đất. Như Chúa từng quả quyết: “Nước Ta ban, sẽ nên mạch suối trong đó có nước vọt, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4: 14)

 Bởi thế nên, hãy dừng lại! Đừng hành xử như người ai oán, sầu thảm, chẳng biết ơn. Hãy ngưng trách móc người đời không còn nhớ đến mình. Không nhớ, để giúp tôi sung sướng, hạnh phúc. Trái lại, hãy trở thành động lực sinh động, trong thiên nhiên, giống thiên nhiên. Và, hãy làm chút gì đó cho cuộc sống. Như, rao truyền niềm vui cho mọi người, ở mọi nơi. Chứ không chỉ tập trung vào chính mình. Hoặc, chỉ gia đình mình, mà thôi.

 Sống, và cảm nhận rằng sự sống là quà tặng, tức: sống biết ơn. Sống như thế, không cần đến đền thờ, nguyện đường hay chùa chiền cho nhiều mà làm gì. Điều chính yếu, là biết nói lời cảm tạ, với mọi người. Ngừng suy nghĩ, nhưng đừng ngưng cảm tạ. Trái lại, hãy cùng nhau cảm nhận. Cùng biết ơn nhau.

 Đó, là những điều cần suy tư, chiêm niệm. Đừng nên coi mọi chuyện như của cho-không/biếu-không, hoặc từ trời rơi xuống. Nhưng, cứ nhận quà tặng/ân huệ với lòng cảm kích, biết ơn. Và, tự hỏi: đã lâu chưa ngày mình nói lời “cảm tạ” người nào đó? Lâu rồi chứ, giây phút mà ai đó vẫn cảm ơn mình mãi.”(Xem thêm Lm Kevin Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm A, nxb Tôn giáo 2013 tr.87-88)

Những ý và tưởng ở nhà Đạo, vốn dĩ xuất phát từ lời người xưa từng nói về Chúa, như sau:

“Anh chị em là giống nòi được tuyển chọn,

là hàng tư tế vương giả,

là dân thánh,

dân riêng của Thiên Chúa,

để loan truyền những kỳ công của Ngài,

Đấng đã gọi anh chị em ra khỏi miền u tối,

vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.

Xưa anh chị em chưa phải là một dân,

nay anh chị em đã là Dân của Thiên-Chúa;

xưa anh chị em chưa được hưởng lòng thương xót,

nay anh chị em đã được xót thương.”

(Thư thứ I Phêrô 2: 10)

“Anh chị em, đã đưc xót thương”, “đã là Dân (con) của Thiên-Chúa”, hẳn đó là khẳng-định tuyệt vời, ở mọi thời. Khẳng-định trên đây, là từ đấng thánh hiền-lành từ nhà Đạo. Thánh-hiền đây, vẫn là những vị sống trong đời có rất nhiều tình-tự thân-thương/yêu mến chẳng phải vì “Anh chị em đã là Dân (con) của Đức Chúa”. Mà, vì “anh chị em đã được Chúa xót thương”.

Chúa xót thương, Ngài vẫn làm thế với mọi người và từ con người. Chúa xót thương đây, là “Đấng đã gọi anh chị em ra khỏi miền u-tối” của sợ hãi, ghét ghen và đố kỵ. Để rồi đưa anh chị em “đi vào chốn miền đầy ánh-sáng diệu-huyền” , là Nước Trời ở đây đó, chốn gian-trần.

Khẳng-định ở trên, còn được người-thường-ở-trong-đời đề ra bằng giòng chảy truyện kể, nhè nhẹ, như sau:

“Truyện, là những lời bâng quơ giữa hai người bạn gái, lâu ngày ít gặp:

-Này đằng ấy. Chuyện cậu và chàng trai mới đi tới đâu rồi?

-Chia tay rồi!

-Ơ kìa! Sao lại thế? Hôm qua còn thấy hai người rủ nhau đi xem phim buổi tối cơ mà?

-Ừ, có xem thật đấy, nhưng lúc rạp hát mất điện, chân anh ta cứ là quờ quạng, thật đến chán!

-Thế bộ, anh chàng này sàm-sỡ lắm hả?

-Được thế thì đã phúc. Đằng này, chân anh ấy lại cứ quờ quạng tìm chiếc dép cũ vẫn chưa bỏ!”

 Thế đấy, là đời người nhiều lúc nghĩ đến cũng bật cười. Nhưng, truyện đời người đi Đạo nhiều lúc cũng khang khác. Khác rất nhiều, như ở truyện kể không nhẹ, sau đây:

“Buôn bán là một nghệ thuật, người bán hàng cũng là một nghệ sĩ. Nói vui chứ thật ra không có sai, làm cái ngành nghề gì cũng vậy, đặt cái tâm cho đúng chính là làm đẹp cho đời. 

Những người bán ớt sẽ luôn gặp phải câu hỏi như thế này, “ớt của anh (chị) có cay không?”, gặp câu hỏi như thế thì phải trả lời sao đây nhỉ?

 Nếu nói cay, những người sợ cay, họ sẽ bỏ đi ngay; còn nếu bảo không cay, cũng có thể khách hàng lại là người thích ăn cay, như vậy việc làm ăn lại gặp rủi ro.

 Một ngày kia, không có việc gì làm, tôi đến đứng bên cạnh chiếc xe ba gác của một chị bán ớt, thử xem chị ấy giải quyết hai vấn đề hoàn toàn tương phản này như thế nào. Nhân lúc không có người đến mua, tôi cố làm ra vẻ thông minh mà nói với chị ấy rằng:

 -Chị hãy chia số ớt này thành hai đống đi, nếu có người muốn mua cay thì cho họ đống này, còn nếu không, thì cho họ đống kia. Chị bán ớt cười với tôi, dịu dàng nói:

-Không cần đâu!

 Đang nói thì một người đến mua, và điều thần kỳ đã xảy ra, rốt cuộc bà chủ đã nói thế nào nhỉ? Hãy mau xem tiếp….. Quả nhiên chính là hỏi câu đó:

-Ớt của chị có cay không?

Chị bán ớt rất chắc chắn mà bảo khách hàng rằng:

-Màu đậm thì cay, còn nhạt thì không cay!

Người mua ngỡ là thật, chọn xong liền trả tiền, vui lòng mà đi. Chẳng mấy chốc, những quả ớt có màu nhạt chẳng còn lại bao nhiêu. Lại có khách hàng đến, vẫn là câu hỏi đó:

-Ớt của chị có cay không?

Chị bán ớt nhìn vào số ớt của mình một cái, liền mở miệng nói ….. Lần này bà chủ trả lời:

-Ớt dài thì cay, ớt ngắn không cay!

Quả nhiên, nguời mua liền dựa theo tiêu chuẩn phân loại của chị mà bắt đầu chọn lựa. Kết quả lần này chính là, ớt dài rất nhanh đã hết sạch. Nhìn những quả ớt vừa ngắn vừa đậm màu còn sót lại, trong lòng tôi nghĩ:

Lần này xem chị còn nói thế nào đây?

Tuy thế, khi một khách hàng khác hỏi:

-Ớt có cay không?

Chị bán ớt hoàn toàn tự tin mà trả lời rằng:

-Vỏ cứng thì cay, vỏ mềm không cay!

Tôi thầm bội phục, không phải vậy sao, bị mặt trời phơi cả nửa ngày trời, quả thực có rất nhiều quả ớt vì mất nước mà trở nêm mềm nhũn đi. Chị bán ớt bán xong số ớt của mình, trước khi đi, chị nói với tôi rằng:

-Cách mà cậu nói đó, thật ra những người bán ớt chúng tôi đều biết cả, còn cách của tôi thì chỉ có mình tôi biết thôi.

Thật là thần kỳ! Thật ra bạn có bao giờ nghĩ rằng, những gì bạn bán đi không phải là hàng hóa, mà lại chính là …….

 Đối với những khách hàng lạ, điều cần bán đi chính là sự lễ phép.

  1. Đối với những khách hàng quen thuộc, điều cần bán đi chính là sự nhiệt tình.
  2. Đối với những khách hàng nóng tính, điều bán đi chính là hiệu suất.
  3. Đối với những khách hàng ngạo mạn, điều thật sự bán đi chính là lòng nhẫn nại.
  4. Đối với những người có tiền, điều mà bạn bán đi chính là sự tôn quý.
  5. Đối với những người nghèo khổ, điều bán đi chính là lợi ích thiết thực.
  6. Đối với những người thời thượng, điều bán đi chính là sự sang trọng.
  7. Đối với những người chuyên nghiệp, điều mà bạn bán đi chính là sự chuyên nghiệp.
  8. Đối với những người hào sảng, điều mà bạn bán đi chính là sự phóng khoáng.
  9. Đối với những người keo kiệt, điều thật sự bán đi chính là lợi ích.
  10. Đối với những người sống hưởng thụ, điều cần bán đi chính là sự phục vụ.
  11. Đối với những người hư vinh, điều bán đi chính là vinh dự.
  12. Đối với những người hay bắt bẻ, điều bán đi chính là sự tinh tế.
  13. Đối với những người hiền lành, điều cần bán đi chính là sự chân thành.
  14. Đối với những người hay do dự, điều thật sự cần bán đi chính là sự đảm bảo.

 Nếu bạn muốn bán đi những sản phẩm của mình, có phải bạn thường hay nói với người tiêu dùng rằng sản phẩm của mình tốt như thế nào, sản phẩm của bạn có gì khác với những thứ khác, và sản phẩm của bạn rẻ như thế nào. Nếu như bạn bán hàng đều là dựa theo những cách này, thì bạn sẽ phát hiện rằng nhất định mình sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn.

 “Công ty bán hàng hóa như thế nào, thường thường so với việc công ty bán những sản phẩm gì cũng quan trọng như nhau”

 Đừng vừa mới bắt đầu đã vội vàng bán sản phẩm, mà trước hết cần phải hỏi rõ vấn đề, nghe xem tiềm ẩn bên trong khách hàng cần những gì. Một khi biết được những yêu cầu tiềm ẩn bên trong của khách hàng, vậy thì việc bán hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.” (Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw)

Thủ-thuật mua/bán ở đời cũng tương-tự như tình-huống giao-dịch với nhau trong yêu-thương, hoặc hận-thù cũng thế thôi. Hận thù đằng đằng, có khi cả với người đồng Đạo, đồng-hương hay đồng thuyền, cũng đều thế. Tình-tự khi giao-dịch, có khi lại thấy khó khăn cứ xảy đến ngay sau lúc mình vừa dự thánh-lễ xong, hoặc vừa nói xong lời âu-yếm với ai đó.

Tình-huống yêu-thương ở đời người và/hoặc với người đời, nhiều lúc cũng khác-biệt, tuỳ người, tuỳ góc cạnh mình thủ-giữ. Nghĩa là, có lúc nắng ráo hoặc gặp đợt mưa thưa thớt  hoặc giữa trưa hè, nóng bỏng, rất yếu xìu.

Tình-huống thương-yêu trong giao-dịch còn tuỳ thuộc góc cạnh và/hoặc tư-thế mình đang chọn-lựa một dấn thân. Nói tóm lại, cũng thay-đổi như lòng người vào nhiều lúc.

Tình-huống đối-xử với mỗi người và muôn người cũng giống như lời ca ở nhạc, ta còn hát, rất như sau:

“Yêu em cho đến khi con tim ngừng đập,

Cho thiên thu là một giây.

Yêu em cho đến khi ong thôi làm mật,

Đến khi loài chim quên lối bay.

Khi ôm em trong tay anh nghe ngọt ngào,

Nếu đời là một giấc chiêm bao.

Xin yêu em thiết tha như yêu lần đầu,

Anh muốn yêu em dài lâu.

Anh muốn yêu em dài lâu.

Anh muốn yêu em đậm sâu.

Anh đã thương em từ lâu.”

(Đức Huy – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng có những lúc

Lực bất tòng tâm,

Cả trong yêu-thương, hờn giận

Đều là giữa Đạo làm người

ở trong đời.    

BIẾT SỢ

  BIẾT SỢ

Có những người quá nhát sợ.  Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu.  Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì.  Coi mạng sống nhẹ như tơ.  Lên xe là phóng như bay.  Liều lĩnh thường thiệt mạng.  Nhút nhát quá đâm hỏng việc.  Một đàng bất cập, một đàng thái quá.  Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ.  Vấn đề là phải biết phân định.  Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ.  Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.

Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị.  Sự sống là quí giá ta phải trân trọng.  Mất sự sống là mất tất cả.  Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ.  Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn.  Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau.  Sự sống đời này là chóng qua.  Sự sống đời sau vĩnh cửu.  Sự sống thân xác mau tàn.  Sự sống linh hồn bất diệt.  Ta phải yêu quí cả hai sự sống.  Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.

Người cũng dạy ta phân định thời cơ.  Thời cơ chỉ đến một lần.  Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa.  Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời.  Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa.  Hiện nay, Lời Chúa bị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết.  Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa.  Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ.  Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết.  Bấy giờ cơ hội sẽ hết.  Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa.  Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa.  Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.

Và sau cùng là phân định nguyên lý.  Thiên Chúa là chủ mọi loài.  Thiên Chúa nắm quyền sinh tử.  Thiên Chúa an bài mọi sự.  Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực.  Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.

Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.

Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự.  Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn.  Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.

Biết sợ mất linh hồn.  Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người.  Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa.  Mất linh hồn là mất tất cả.  Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”

Biết sợ lỡ thời cơ.  Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống.  Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời.  Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc.  Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.

Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.  Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài.  Ta sẽ không sợ khổ hình hành hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.

 Nói không sợ cũng không đúng hẳn.  Đau đớn khổ cực ai mà không sợ.  Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Langthangchieutim gởi