“Mưa bay! Mưa bay! Ấm cúng trong này.”

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 18 thường niên năm A 06/8/2017

Tin Mừng (Mt 14: 13-21)

Khi được tin ông Gioan Tẩy Giả chết, Đức Giêsu xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.

Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!” Sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn khoảng chừng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

                                                                    **  **  *  *

“Mưa bay! Mưa bay! Ấm cúng trong này.”

“Một hôm trời bão, Em vào chơi đây.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Mưa bão hôm ấy, cộng đoàn dân Chúa cũng đã hay tin về cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả, rất nghiệt ngã. Ấm cúng nơi này, lòng người cũng đã được Chúa sưởi ấm bằng phép lạ nhân rộng bánh/ cá cho mọi người, rất lạ thường. Lạ, như trình thuật thánh Mátthêu ghi lại, rất hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Mátthêu ghi về sự kiện rất đặc biệt trong đời Chúa. Nhưng không dễ, để diễn tả xem đó là sự kiện gì. Và không dễ, để áp dụng vào đời sống của ta hôm nay.

Sự kiện hôm ấy, có Đấng Mêsia ra ngoài trời rảo bộ đã thấy cả ngàn người Do thái đi theo Ngài. Chạnh lòng thương, Chúa đã nuôi ăn cả ngàn người chỉ với 5 tấm bánh và hai con cá. Vẫn hiểu rằng, đây là phép lạ do Chúa làm. Phép lạ duy nhất trong cả bốn sách Tin Mừng. Nhưng được nhắc đến những 6 lần: riêng thánh Máccô và Mátthêu mỗi vị ghi chú đến 2 lần; thánh Luca và thánh Gioan mỗi vị chỉ một lần. Các thánh đều coi đó như biến cố lớn trong đời hoạt động công khai, của Chúa.

Nhờ thánh Mátthêu, ta được biết Hêrôđê cũng đã tổ chức một bữa tiệc cho người giàu có và trong đó có cả người nghèo nhưng không hèn, là thánh Gioan Tẩy Giả vừa trả giá rất đắt, bằng đầu mình cho bữa tiệc. Trái nghịch lại buổi tiệc đầy tai tiếng ấy, là tiệc ngoài trời do Chúa khoản đãi những kẻ đói/nghèo, thôi. Người giàu khi ấy, đâu biết rằng mình đã bỏ lỡ cơ hội đến tham dự.

Thế rồi, điều thực sự xảy đến cũng đã đến, đó là buổi tiệc Chúa dọn, lại diễn ra ở nơi hiu quạnh chỉ có cỏ xanh làm chiếu đất cho dân ngồi. Có thể là, tiệc Chúa dọn xảy đến vào mùa Xuân. Tức, mùa Vượt qua của người Do thái. Có thể, cũng không xa là mấy chốn biển hồ Galilê, khiến Chúa phải lên đò như Ngài vẫn thường làm, hầu tránh con mắt dòm ngó của vua quan thời đó vẫn chực rình những ai qui tụ đám đông quần chúng quyết đi theo.

Đám đông quần chúng, vẫn có thói quen tụ tập quanh Ngài, ở gần hồ. Họ lắng nghe Lời Ngài diễn giải, suốt cả ngày. Và, còn được Ngài chữa lành. Ngài chạnh lòng thương và xử thế rất nhanh chóng kẻo rồi tình thế trở nên xấu xa, không kịp cho dân chúng thoát nạn. Sự thể là: dân chúng hôm ấy chẳng có gì để ăn. Làng mạc lại ở xa. Thấy vậy, đồ đệ Chúa mới xin Ngài ra tay làm động tác ngoại lệ, để giúp họ. Nhưng Ngài nói rõ: Các ngươi hãy giúp họ…” Điều cần nhấn mạnh ở đây, là cụm từ “các ngươi” được thánh sử dùng đến. Cứ sự thường, mỗi lần có khó khăn, người người đều yêu cầu Chúa giải quyết. Hoặc, họ chỉ xin, chứ không tự mình tìm cách giải quyết.

Đồ đệ thấy thế, bèn kể Chúa nghe: “Ở đây, chúng tôi cũng chẳng có gì, chỉ một vài thứ…” không đủ cho vài người làm sao phân phát cho quảng đại quần chúng. Nói thế, có nghĩa: đồ đệ Chúa ở vào tình cảnh hãn hữu đành bó tay tuyệt vọng, chẳng làm gì được, hoặc có làm thì cũng không ra hồn. Đó, chính là vấn đề đặt ra cho dân con đồ đệ: luôn thấy mình bất tài, vô vọng thì làm sao giúp ích nhiêu người được. Đó sự thường, mọi chuyện đều giống thế.

Và, đó là lúc Chúa ra tay làm thay cho đồ đệ. Ngài truyền cho đồ đệ bảo dân chúng ngồi xuống. Rồi Ngài cầm lấy thức ăn ngẩng mặt lên mà chúc tụng, rồi Ngài bẻ bánh và truyền lệnh phân phát cho dân chúng ăn. Trong hầu hết các sách Tin Mừng, ở đề mục, người đọc vẫn chỉ thấy những cụm từ, nào là: nhân rộng, hoá bánh thành nhiều. Nhưng chỉ mỗi bản Bẩy Mươi gốc Hy Lạp, là không thấy những chữ như thế. Trái lại, chỉ gồm mỗi động từ “phân phối”. Tức san sẻ những gì mình có cho mọi người.

Có thể là, chính Chúa gia tăng lượng thực phẩm, như ta nghĩ. Cũng có thể, phép lạ này, không chỉ là sự lạ của người trần, do người trần làm ra, để người phàm trần biết mà san sẻ những gì mình có. Làm được như thế, thì của cải trên thế giới mới đủ cho mọi người, quanh ta. Thật ra, người phàm trần vẫn đói cả kiến thức lẫn hiểu biết về quyền lợi đồng đều hơn là điều mình cần có như cơm/bánh hằng ngày.

Và, một khi ta đã biết sẻ san của cải thiêng liêng, như: tình yêu, lòng kính trọng và nhận biết những người sống chung quanh, thì khi đó ta sẽ không mất đi điều gì. Bởi khi ấy, ta càng được yêu, càng được kính trọng và nhận biết từ những người được ta san sẻ, ta tặng họ những thứ họ cần, như tình yêu. Nói cách khác, sẻ san cơm/bánh rồi cũng sẽ cạn dần thức ăn. Bởi, ai cũng đều có phần. Còn, san sẻ tình yêu, thì khác.

Ngoại trừ ngày hôm ấy, xảy ra phép lạ vật chất, rất có thật; và chắc rằng ai trong chúng ta cũng đều tin như thế-thì điều này cũng không quan trọng bằng những điều hệ trọng ở đây, chính là việc sẻ san, phân phối. Như vậy, việc sản sinh cơm/bánh mới rất cần, mà là sự sẻ san sự cho đi.

Đó, là điều mọi người trông đợi nơi người Do thái nơi dân con Đạo Chúa vẫn được coi là tốt đẹp, lành thánh. Trông đợi mọi người sẻ san những gì mình đang có, đặc biệt ở bữa tiệc, là thức ăn. Trình thuật hôm nay, không thấy ghi về nỗi ngạc nhiên trước sự “lạ” nhận thấy được nơi quần chúng, hoặc đồ đệ, về việc Chúa làm. Bởi, dưới nhãn quan của họ, đó là những việc cần phải làm. Và nên làm, dù họ không thấy nhiều người thường vẫn làm như thế. Những gì xảy đến là việc phải đến. Xem thế thì, sẻ san/phân phối mới là ý chính của trình thuật.

Nay lại hỏi, trình thuật truyện kể hôm nay áp dụng cho ai đây? Điều gì cần áp dụng?

Nếu chỉ nhìn một phía, hẳn ta sẽ thấy trình thuật vẫn gói trọn tín thư rất khích lệ. Tín thư đây, đề nghị mọi người hãy ra ngoài trời mà tổ chức những buổi sinh hoạt, nhưng đừng mang nhiều, cho mọi người. Nhưng cứ cầu xin thật nhiều, tự khắc Chúa sẽ làm phép lạ lớn lao, để thuận ban cho ta. Có phải đó là việc Chúa vẫn làm vào các buổi tụ tập, rất đông người? Ai là người khả dĩ lập lại cùng một phép lạ khi con dân Ngài hết của ăn/thức uống, mà trời thì tối và xa phố chợ?

Nhìn vào thế giới, nếu người người biết sẻ san những gì mình hiện có cho người khác, nhất là những người thiếu thốn hoặc chẳng có gì để sống còn, thì thực chất của vấn đề thực ra không phải chỉ là việc “nhân rộng” hoặc “hoá bánh thành nhiều”, cho mọi người. Mà là, thế giới hôm nay đã có quá nhiều thứ, cho mình dùng. Mình có nhiều hơn tình trạng bình thường mình vẫn có. Trong khi đó, có những thứ mình có thì lại ít hơn phải có, đó là: lòng lân tuất, chính trực. Và, nhớ rằng: người khác cần nhiều hơn mình.

Quyết sẻ san, là: nhất quyết giảm đi những gì ta đang có. Giảm, niềm vui vì có của dư của để, và sự thoải mái cho bản thân. Như thế, mới gia tăng của cải và sự thoải mái cho người còn thiếu thốn được. Phải chăng, đó là điều Chúa muốn ta làm ngay, lúc này? Thánh Phaolô có lần nói:

“Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8: 9-10)

Quả có thế. Khi ta có rất ít để có thể sống sót, thì lúc đó ta sẽ tìm cách trở nên người khác, không phải để có được sự thoải mái mình vẫn sống trước đây, nhưng còn phải hơn trước, rất nhiều. Phải chăng đó là điều Chúa dạy ta phải như thế, qua phép lạ “sẻ san”, cho đi này?

Ngày nay, ta không thể sửa đổi cái nghèo của thế giới bằng cách tổ chức những bữa ăn ngoài trời, cho nhiều người. Mà là, đổi thay cơ cấu kinh tế/chính trị của thế giới, tận thâm căn. Ngày nay, phải chăng cơm áo gạo tiền, là những gì ăn sâu nơi kinh tế thế giới? Của ăn và thức uống có là khó khăn của những người bị mất việc, những kẻ sống vô gia cư, lang thang ngoài phố chợ?

Và cứ thế, các vấn đề khúc mắc cứ mãi đặt ra như: có là điều khó đối với người không điện thoại di động? Không thẻ tín dụng. Không an sinh? Những người không có, là không có gì? Phải chăng cơm áo, gạo tiền là vấn đề bức bách nhất? Tại sao người nghèo đói lại là người dễ bị SIĐA nhất?

Tại sao ta vẫn được bảo cho biết: phân nửa dân số thế giới hôm nay vẫn cứ than phiền là mình không đủ ăn? Tại sao phân nửa số người còn lại, chỉ phàn nàn về tham vọng, dục vọng và, khát vọng? Có lẽ, đã đến lúc ta nên ngồi lại mà tái thẩm định hệ thống giá trị, để rồi sẽ làm được điều gì đó, cho mọi người. Chí ít, là những người còn thiếu thốn, nghèo hèn, khá bức bách.

Phải chăng trình thuật hôm nay chỉ kể đến bẩy thứ, như cá và bánh Chúa ban cho những người theo chân Ngài, mà nghe giảng? Không. Tám thứ mới đúng. Bởi, ở buổi Tiệc Ly, chính Chúa cũng ban cho ta Thân Mình Ngài, để ta nhận lấy mà ăn. Giả như, ta thực sự nuôi sống bằng sự hiện diện của Ngài. Bằng, hệ thống giá trị Ngài ban cho, có lẽ thế giới mình đang sống sẽ khác và khi ấy, ta mới thực sự có được bữa tiệc ngoài trời, Chúa tổ chức. Theo kiểu của Ngài, mới đúng.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Thiên đường là đây

  httpv://www.youtube.com/watch?v=csmkTn353nQ

Thiên đường là đây – Thúy An

Chuyện Phiếm Đọc trong tuần thứ 18 thường niên năm A 06/8/2017

“Thiên đường là đây

là ngày được thấy thế gian bình yên”
Thiên đường là đây

loài người chẳng biết dối gian hờn ghen.”

(Lê Xuân Trường – Thiên Đường là đây)

(Rôma 8: 29-30)

 Trần Ngọc Mười Hai

Bằng những giòng chữ ở đầu bài như thế, bần đạo bầy tôi đây phải thú thật là: mình không hề biết nghệ sĩ viết nhạc họ/tên Lê Xuân Trường là ai? Con trai hay con gái? Đang sống ở trời Tây hay Phương Đông? Nhất nhất một điều là, bần đạo đều chẳng rõ…

Thế nhưng, có một điều tuy nhỏ, nhưng bần đạo lại biết rõ, đó là ý/lời nhạc bản này là những tâm tình cũng rất thật. Thật, như ca-từ lẳng lặng đi vào lòng người, rồi lại tiếp tục hát như sau:

 Sáng trong màn đêm ngàn sao lấp lánh giữa khung trời êm,
Giấc mơ thần tiên là niềm hạnh phúc thiên đường lãng quên.
Những chua xót của bao ngày qua,
Đã tan biến vào chân trời xa.
Hãy cho hết tình yêu đêm nay, người hỡi!
Sống vui hồn nhiên dù bao sóng gió phá tan bình yên.
Lỡ cho ngày mai dù là muôn kiếp muôn đời cách xa.
Vẫn yêu mãi tình không đổi thay.

Vẫn thương nhớ dù xa tầm tay,
Thế mới biết đời không cần chi ngoài hạnh phúc.
Thiên đường là đây là ngày được thấy thế gian bình yên.
Thiên đường là đây loài người chẳng biết dối gian hờn ghen.”

(Lê Xuân Trường – bđd)

Quả có thế! Nghệ sĩ ngoài đời lại nói những điều nghe rất đúng: “Thiên đường là đây!” “Loài người chẳng biết dối gian, hờn ghen…” 

Quả thật như vậy. Đấng bậc nhà Đạo bao giờ cũng giảng và nói, nhiều điều rất không sai. Đức ngài nói, cả vào khi ông vừa đáp trả câu hỏi của người đi Đạo, những điều ở bên dưới:

“Thưa Cha. Mới đây, con có dịp đọc thư thánh Phaolô gửi tín-hữu Rôma có nói đến vấn-đề tiền-định. Đọc xong, con lại có thắc mắc muốn cứ hỏi rằng: Phải chăng Thiên-Chúa thực-sự định-đoạt thân-phận con người? Định và đoạt, ở chỗ: khi thì Ngài cho phép linh-hồn này được đạt chốn thiên-đường; lúc thì Ngài lại tống kẻ khác vào nơi lửa bỏng, rất hoả hào. Làm thế, sao ta lại cứ bảo: con người hoàn-toàn có tự-do định-đoạt thân phận mình, được cơ chứ? Con nay thấy lẫn-lộn, không biết đâu là sự thật đúng/sai. Nay chạy đến nhờ cha giúp đỡ”

 Bàn chuyện thiên-đường/địa-ngục bằng các lý và lẽ đạo-hạnh, Đức thày giòng họ John Flader của tờ The Catholic Weekly Sydney đã có lời chỉ-giáo, như sau:

“Đoạn viết ở Tân Ước mà anh/chị nhắc đến, có những lời lẽ như sau:

 “Vì những ai Người đã biết từ trước,

thì Người đã tiền định cho họ

nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài,

để Con của Ngài làm trưởng tử

giữa một đàn em đông đúc.

(Rôma 8: 29)

Thành thử ra, thánh Phaolô quả có nói hai chữ “tiền định”. Nhưng, vấn đề là hỏi rằng: điều đó tác-động thế nào lên con người có tự do, đây? Phải chăng, nhiều vị được Thiên Chúa định sẵn cho mình đạt chốn Thiên đường ngay từ trước, nên họ sẽ đi thẳng vào chốn ấy, mà chẳng cần biết là họ có vướng mắc biết bao nhiêu là lỗi/tội vào thời trước; và cả vào khi họ chẳng biết sám-hối vào lúc chết, nữa thì sao?     

Và, có chăng người nào khác cứ nghĩ rằng: Thiên Chúa đã định trước là họ sẽ phải lưu lạc chốn địa-ngục/hoả-hào để rồi chẳng làm sao cứu vãn linh hồn họ nữa đây? Nếu diễn-tả sự việc như thế, thì nội ý-nghĩ về sự việc tiền-định thôi, cũng đủ khiến mọi người hãi sợ rồi. 

Nói thế, khác nào chế-riễu tính tự-do của con người, lại cũng coi thường công-lênh của mỗi người, khi họ và ta đều hành-xử đúng phép tắc lẫn luật-lệ, và về hình phạt nặng/nhẹ do lỗi/tội ta phạm phải. Hiểu như thế, cũng tựa hồ nhạo báng lòng nhân-từ và sự công-minh của Thiên Chúa, nữa.

 Nói cho ngay, đó không là hiểu/biết đúng-đắn, thì sao lại bảo là: Chúa định-đoạt trước sự việc liên quan đến thân phận con người. Quả thật, Tự điển Bách-khoa Công giáo đã từng viết: Duyên tiền-định, theo nghĩa rộng, là những nghị-định Chúa ban, vốn thấy trước tương-lai một cách không thể sai-sót, nên Ngài đạ đặt-định và ra lệnh từ cõi miên-trường, tất cả mọi sự-kiện xảy đến với thời-gian, đặc-biệt cho những gì diễn-tiến cách trực-tiếp từ, hoặc ít ra chịu ảnh-hưởng từ ý-chí tự-do của con người.

 Nói cách khác, thì kế-hoạch của Thiên-Chúa về duyên tiền-định lại có liên quan đến các hành-xử đầy tự-do của con người, là những việc Ngài thấy trước từ cõi đời đời.

 Muốn hiểu được sự việc tiền-định qui về tự-do của con người, ta cần định-vị nói trong 4 lập-luận hoặc giả-định nền-tảng. Trước hết, là: Chúa muốn hết mọi người đều được cứu rỗi, cả các Kitô-hữu cũng như những người ngoài Đạo. Thánh Phaolô, trong thư đầu gửi đồ đệ ông là Timôthê từng nói rõ: “Ngài là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1Ti 2: 4)

 Thánh Phêrô, trong một tình-huống tương-tự, lại cũng viết: “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.” (2P 3: 9) Thành thử ra, Chúa không định-đoạt trước bất cứ ai phải chịu cảnh địa-ngục mãi mãi suốt cõi đời.

Lập-luận thứ hai, là: Chúa phú ban cho mỗi người và mọi người đủ mọi ân-huệ để họ được cứu rỗi. Lập-luận này theo sau những điều nói ở trên. Lại nữa, lập-luận này từng dẫn đưa thánh Âu-gus-ti-nô quả quyết rằng: “Mọi người chúng ta không được phép tuyệt-vọng dù có lỗi phạm ghê-gớm đến thế nào đi nữa, bao lâu con người còn sống trên thế-gian.” (X. Lời xưng thú 1 câu 19, 7)

 Lập-luận thứ ba, là: mọi hành-vi của ta và các công-lao xuất từ đó, đều là hoa trái của ân-huệ Chúa ban đặt-định trước cho ta, suốt nhiều thời. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo có viết: “Công-lao của con người trước mặt Chúa trong cuộc sống người tín-hữu nảy sinh từ sự-kiện cho thấy Chúa đã chọn lựa cách tự do để kết-hợp họ vào với công-việc tạo ban ân-sủng của Ngài. Hành-vi đầy tính nhân-hậu của người cha, đều là sáng-kiến ban đầu của, và kéo theo sau đó là hành-động tự-do của con người ngang qua sự cộng-tác của họ. Có như thế, công-lao có từ công-việc tốt lành được áp-đặt cho họ vào ân-sủng của Chúa ngay từ đầu và sau đó, cho các kẻ tin.” (X. GLHTCG đoạn 2008)

Lập-luận cuối, là: Thiên-Chúa ban cho ta ân-huệ thấy trước rằng ta sẽ sống tương-hợp với nó. Sách Giáo lý lại cũng nói rằng: Khi Thiên Chúa thiết-lập kế-hoạch ‘định trước’ cách vĩnh-viễn, Ngài bao gộp trong đó sự đáp trả cho ân huệ của mỗi người một cách tự-do.” (X. GLHTCG đoạn 600). Nói như thế, sách Giáo Lý có ý bảo rằng: Thiên Chúa phú ban cho ta mọi ân-huệ của Ngài cả khi Ngài biết rằng ta sẽ sử-dụng chúng để làm điều thiên khả dĩ có được sự sống vĩnh cửu.”

 Vấn-đề tiền-định vừa đề-cập, dù ta chiếu-cố đủ cả bốn lập-luận ở trên, vẫn còn nhiều bí-nhiệm hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì, Chúa vẫn có tự-do ban tặng cho ta ân-huệ và tình-yêu cao cả của Ngài trên những ai Ngài chọn-lựa. Và, Ngài cũng phú ban cho mọi người đầy đủ ân-sủng của Ngài để ta được cứu rỗi.” (X. Lm John Flader, Does God predestine anyone to suffer forever in hell? No, The Catholic Weekly 02/7/2017, tr. 28)                 

Minh-định theo chiều-hướng của nhà Đạo như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hát lên những ca-từ rất “thiên đường” như ở dưới:

“Thiên đường là đây là cuộc tình mãi thiết tha ngàn thu
Là lời nồng ấm trái tim thủy chung muôn kiếp
Thiên đường là đây là ngày chẳng biết nỗi đau buồn chi
Thiên đường là đây là nụ cười mãi thắm trên bờ môi
Thiên đường là đây từ ngày được thấy chúng ta gần nhau.
Bao đắm say, thiên đường là đây…”

(Lê Xuân Trường – bđd)

 Nói về thiên-đường theo ngôn ngữ ngoài đời, là còn nói bằng truyện kể, mới hấp-dẫn. Bởi, truyện kể đều là những chuyện cà-kê-dê-ngỗng đi sát với quần chúng, khiến họ nhớ dai, nhớ dài, nhớ mãi, rất khó quên.

Ở ngoài đời, lại cũng thấy nhiều người/nhiều vị đề-cập đến thiên-đường/hoả-ngục ở đây đó, theo cung cách khác hẳn. Trong số các vị này, lại đã thấy tay viết trẻ có bút danh là Hải Triều Ý Tâm với những tình-tự gọi là: “Thiên-đường trong quả bóng bayGió trần gian thổi vuột tay ngẩng nhìn”, như sau:

“Tôi đặt chân lên đất Ấn để thăm xứ Rajasthan kiều diễm như người đẹp ngủ trong rừng vào những ngày đầu đông rực nắng năm 2010, khi nhân loại đang chuẩn bị đón mừng Tết dương lịch trong bầu không khí hân hoan, háo hức đợi chờ. Cùng đi với tôi là gia đình người cô, em ruột mẹ tôi gồm cô chú và con gái. Trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng đó, cả 4 người chúng tôi không thật sự nghĩ là mình sẽ thực hiện được nổi chuyến đi đầy gian lao thử thách này ngay từ lúc khăn gói lên đường.

 Đã gần 1 tháng xa quê, xa nhà, xa bà con, xa bè bạn thân thương, v.v…Con đường dài hun hút của những tháng ngày lang thang, phiêu bạt qua nhiều vùng trời mơ ước, nhiều học hỏi, lắm đam mê, lắm khám phá. Nhưng lắm khi cũng buồn dâng tê tái, vì những mâu thuẫn thật khó hiểu trong xã hội Ấn, cùng mức chênh lệch giàu nghèo ở đây thật quá xa. Nơi mà mọi người chúng ta cần nên đến trong đời, để cảm nhận được khoảng cách giữa thiên đường hạ giới và địa ngục trần gian, nó mong manh như một sợi tóc. Thoắt ẩn, thoắt hiện, tất cả dường như chỉ lướt qua trong nháy mắt.

 Nói đến cõi thiên đường và chín tầng hỏa ngục làm tôi sực nhớ đến một câu chuyện dụ ngôn ngụ ý cao thâm mà tôi đã từng đọc ở đâu đó, đến bây giờ vẫn mãi chưa quên. Truyện kể về một cụ già hơn trăm tuổi được một nhà báo phng vấn hỏi bí quyết sống trường thọ,lạc quan yêu đời của cụCó gì đâu, cụ cười, sáng nào tôi cũng hỏi mình hôm nay nên ở thiên đàng hay ở địa ngục, vậy thôi. Lưỡng lự một chút rồi tôi chọn thiên đàng. Nó đơn giản như một cái công tắc, chỉ cần bật qua bật lại là đã vụt biến mất. Và tôi lại không khỏi nhớ đến trò chơi rồng rắn mà lũ trẻ con trong xóm tôi vẫn thường nghêu ngao hát khi còn ấu thơ:

 “Thiên đàng địa ngục hai bên,

Ai khôn thì nhờ, ai dại thì xa.

Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha,

Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn.

Linh hồn giữ đạo cho tròn,

Đến khi gần thác được lên thiên đàng.”

 Ấn tượng ngày đầu của tôi về một Ấn Độ diệu kỳ luôn là thế. Mà đã đến rồi thì sẽ không bao giờ quên được. Ở miền đất thánh thiêng này, quê hương của Đức Phật, người dân nơi đây có thể bỏ hết tất cả, không quan tâm tới của cải vật chất vì tín ngưỡng, thì cũng có không ít những con người sống lây lất bên lề xã hội. Họ không thể khổ hơn nữa, để mà quan tâm tới vật chất.

 Từ ánh mắt cam phận của 2 ông cháu gầy còm trong nhóm biểu diễn múa lửa, nhảy vòng khi họ được gọi đến diễn cho chúng tôi xem trong một buổi tối tại khách sạn. Dáng điệu họ thật khốn khổ, ánh mắt họ thật nhẫn nhục, và chỉ lâu lâu mới len lén liếc nhìn lên những thực khách béo tốt đang ngồi xem trên kia. Không phải là bị ám ảnh, nhưng sao tôi vẫn nhớ đến ánh mắt u hoài đó.  

 Rồi còn những đoàn tàu xe lửa lúc nào cũng đông đặc kẻ đứng người ngồi, đu bám trên nóc, trên thành, bên cửa toa xe. Tiếp nữa là ấn tượng về những con quạ to lớn thật đáng ghét suốt ngày cứ quang quác, quàng quạc ầm ĩ từ sáng sớm cho đến tối mịt, dù nơi tôi ở là một khách sạn 5 sao hạng sang ở thành phố Agra.

 Theo thời gian, tôi lớn khôn thêm chút đỉnh, và học hỏi được nhiều qua cuộc sống với những va chạm trong đời thường, qua những lần vấp ngã, những lúc thất bại, qua những chuyến đi du lịch bụi, để đi sâu vào thượng tầng văn hóa Ấn Độ. Để biết rằng nếu như bạn muốn tìm một nơi có những hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau, thì sẽ không có nơi nào hơn xứ Ấn Độ.  

 Bên cạnh những căn nhà ổ chuột bẩn thỉu, đói nghèo là các lâu đài tráng lệ của những tay tỷ phú giàu sang nhất thế giới. Bên cạnh những mảnh đời hẩm hiu chỉ biết lo kiếm miếng cơm manh áo cho ngày mai, là những công trình to lớn, vĩ đại đến nghẹn thở. Nếu đến Ấn Độ để thăm thánh tích Phật giáo, bạn sẽ rất thỏa mãn và còn muốn quay lại đây thêm nhiều lần. Nhưng nếu chỉ đến để hưởng thụ cuộc sống không thôi, thì bạn sẽ phải khóc thét lên, và chạy khỏi Ấn Độ ngay từ khi bước chân xuống phi trường. 

 Thế nhưng, nếu biết kiên nhẫn chấp nhận vượt qua cảnh đói nghèo, bẩn thỉu, hôi hám, bạn sẽ ngất ngây trước cái đẹp vô song của rặng Tuyết Sơn (Himalayas) hùng vĩ, và của các thắng cảnh thần tiên khác trên đất nước này.  Đó là lý do tại sao mà tôi vẫn ao ước được quay lại thăm xứ Ấn thêm một lần nữa trong quãng đời còn lại của mình, nếu điều kiện cho phép.

 Thật vậy, Ấn Độ hiện đang là một thiên đường chứa đầy tiềm năng phát triển du lịch. Mặc dù đường xá kém mở mang, điều kiện vệ sinh hạn chế, nhưng nhờ sở hữu một nền văn minh lâu đời, một nền văn hóa thâm hậu và những công trình kiến trúc xuất sắc mà Ấn Độ bao giờ cũng thu hút hàng triệu khách du lịch đến thăm xứ sở mỗi năm. Miễn là họ biết chấp nhận cái thực tế phũ phàng: đây là một thế giới hoàn toàn khác lạ với xã hội Âu Mỹ mà họ đang sống, vì tự nó đã là một thế giới rực rỡ muôn màu.

 Ngay như tại Thủ đô Tân Delhi kia, nơi được xem là Paris của Ấn Độ, có vô số những con người sống trong cảnh lầm than bên những túp lều bạt rách tươm, không có chút vệ sinh hay tiện nghi tối thiểu. Có người còn cho rằng muốn biết tầng đầu địa ngục hình dáng thế nào dưỡi cõi trần thì xin hãy dừng chân ghé thăm Thủ đô Delhi hay bất kỳ thành phố nào đó trên đất Ấn Độ nghèo khổ này.

 Thế mà phần lớn khách du lịch đến đây lại quay mặt dửng dưng, dường như không muốn biết đến cảnh địa ngục trần gian đó. Họ xếp hàng nối đuôi nhau đi tham quan những lăng tẩm cổ kính, những cung điện huy hoàng, những thành quách vĩ đại của vua chúa xây trên xương máu người dân trong các thế kỷ trước. 

Ấn Độ của quá khứ không hề thiếu các vua chúa bạo phát bạo tàn ấy. Đó là xứ sở của các tiểu vương cai trị nhiều khi không quá ‘vài vạn nóc nhà’, như cách đếm dân ngày xưa hay nói. Vua chúa Ấn Độ cũng không hề dè sẻn trong các công trình xây dựng.  Họ cần lâu đài cho mùa hè lẫn mùa đông, cho chính hậu cũng như thứ phi, cho hoàng tử và công chúa.

 Dân Ấn Độ thì đông và sẵn sàng è cổ ra chịu đựng, cát đá thì nhiều và dễ khai thác, nhất là loại đá cẩm thạch trắng muốt, trong suốt như pha lê lừng danh thế giới. Nghệ nhân Ấn Độ rất khéo tay, thông minh, giàu tưởng tượng và sẵn sàng quên mình cho các vị thần linh của Ấn giáo. Vì những lẽ đó mà các công trình xây dựng to lớn của Ấn Độ ở đâu cũng có, ở đâu cũng là những kỳ quan, thu hút rất đông du khách, mùa hè cũng như mùa đông. (X. Hải Triều Ý Tâm, Ấn Độ – thiên-đường và địa ngục?! nxb Hồng Đức 2017)

Hôm nay, bần đạo bầy tôi đây, xin đề nghị một truyện kể tuy không “dễ nể” cho lắm, nhưng cũng gọi là để minh-hoạ cho vấn đề mình nêu ra. Vậy, xin mời bạn/mời tôi, ta hãy cứ vểnh tai ra mà nghe kể những câu truyện như sau:

 “Có nông dân nọ đang vội vàng trên đường cùng con ngựa và con chó của mình. Thình lình sét đánh giết chết tất cả họ. Như nhiều linh hồn mới chết khác, họ chẳng biết mình đã chết và cứ tiếp tục đi.

 Họ tiếp tục đi dưới mặt trời thiêu đốt. Họ ướt đẫm mồ hôi và khát không chịu nổi. Họ sau đó nhìn thấy một cánh cổng đẹp đẽ dẫn đến một quảng trường chiếu sáng rực rỡ. Có một dòng suối trong vắt ở giữa quảng trường đó. Ông vội vã chạy đến và chào người giữ cửa: “Nơi đẹp đẽ này là nơi nào vậy?”

 -Thiên đàng. Người gác cổng nói một cách thân thiện. Thật là tốt quá. Chúng tôi đều đang rất khát nước. Chúng tôi có thể đi vào trong và uống một chút nước không?

-Ông có thể vào, nhưng con ngựa và con chó của ông thì không được. Chúng tôi không cho phép động vật vào trong.

-Ồ, thế thì quên chuyện đó đi vậy”.

 Người nông dân không đành bỏ lại con ngựa và con chó. Họ vì thế tiếp tục đi tìm nước uống. Sau khi đi khá lâu, ông tìm thấy một nơi có nguồn nước. Cũng lại có một người đang canh giữ cánh cổng.

-Xin chào, tôi và con ngựa, con chó của tôi có thể uống nước ở đây được không?

-Cứ việc”, người gác cổng nói.

 Sau khi họ uống thỏa thích, người nông dân nói cảm ơn người gác cổng và hỏi anh ta:

-Nơi này là nơi nào thế?

-Thiên đàng. Người nông dân bối rối:

-Lẽ nào lại thế! Chúng tôi vừa đi ngang qua một cánh cổng đẹp đẽ và người gác cổng ở đó bảo rằng nơi ấy là thiên đường mà.

-Đó là địa ngục, người gác cổng trả lời.

-Chúa ơi, anh nên ngăn cấm họ làm người khác lầm lẫn như thế. Người ta sẽ bị lừa.

-Không chắc nữa, người gác cổng nói. Chúng tôi nên cảm ơn sự giúp đỡ của họ, bởi họ sẽ giữ những kẻ bỏ rơi bạn bè ở lại đó.

Kể thế xong, nay thiết nghĩ cũng nên mời bạn và mời tôi, ta trích-dẫn tiếp lời đấng thánh-hiền từng khẳng-định rằng:

“Những ai Thiên Chúa đã tiền định,

thì Ngài cũng kêu gọi;

những ai Ngài đã kêu gọi,

thì Ngài cũng làm cho nên công chính;

những ai Ngài đã làm cho nên công chính,

thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang.”

(Rôma 8: 30)

Cùng với đấng bậc hiển-thánh, khẳng-định về một sự thật để đời rồi, nay tưởng cũng nên hiên ngang hướng về phía trước mà hát những lời ca rất sáng mà kết thúc câu chuyện thiên-đường/địa ngục, rất nên duyên:

 “Thiên đường là đây là cuộc tình mãi thiết tha ngàn thu
Là lời nồng ấm trái tim thủy chung muôn kiếp
Thiên đường là đây là ngày chẳng biết nỗi đau buồn chi
Thiên đường là đây là nụ cười mãi thắm trên bờ môi
Thiên đường là đây từ ngày được thấy chúng ta gần nhau.
Bao đắm say, thiên đường là đây…”

(Lê Xuân Trường – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Nay nhất quyết hiểu như thế

và làm thế,

mãi về sau. 

CHÚA GIÊSU LÀM GÌ TRONG 30 NĂM TẠI THẾ?

CHÚA GIÊSU LÀM GÌ TRONG 30 NĂM TẠI THẾ?

Trầm Thiên Thu chuyển ngữ

Thật thú vị khi chúng ta biết nhiều về cuộc đời của Chúa Giêsu trên thế gian.  Giữa các sự kiện xung quanh việc giáng sinh của Ngài và khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi Ngài “trạc ba mươi tuổi” (Lc 3:23), rất ít chi tiết còn tồn tại.

Nói theo ngôn ngữ nhân loại (nhân ngữ), chịu ảnh hưởng và chịu tác động bởi cuộc đời của Ngài, chúng ta có thể ngạc nhiên thấy rằng chúng ta biết quá ít về thời thơ ấu, thời thiếu niên và thời thanh niên của Ngài – nhất là mối liên quan với những người đi theo Ngài và những người tôn thờ Ngài là Thiên Chúa.  Nghĩa là, nếu nói theo ngôn ngữ thần thánh (thần ngữ), đó là mối quan hệ mà chắc chắn Thiên Chúa có.

Sau câu chuyện Chúa giáng sinh, Phúc Âm thứ nhất cho chúng ta biết về cuộc thăm viếng của các đạo sĩ, các chiêm tinh gia ngoại giáo đến từ Đông phương (Mt 2:1-12), cuộc chạy trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-18), và cuộc trở lại sau khi Hê-rô-đê băng hà (Mt 2:19-23).  Thánh Mátthêu chuyển ngay sang sứ vụ tiền phong của Thánh Gioan Tẩy Giả, và thời trưởng thành của Chúa Giêsu – không có gì trong khoảng 30 năm, từ tuổi thơ ấu tới tuổi trưởng thành.

SỰ PHÁT TRIỂN XỨNG ĐÁNG

Phúc Âm thứ ba nói nhiều hơn, nhưng tập trung 30 năm trong cuộc đời con người quan trọng nhất trong lịch sử thế giới bằng các câu đơn giản.  Thánh Luca kể về việc sứ thần báo tin cho các mục đồng (Lc 2:8-21) và Thánh Gia lên Đền Thờ (Lc 2:22-38).

Thánh Luca tóm lược 12 năm đầu đời của Chúa Giêsu rất ít: “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40).  Sau đó, Thánh Luca cho biết: “Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.  Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.  Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết.  Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.  Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.  Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.  Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.  Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?  Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”  Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?  Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”  Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói” (Lc 2:41-51).

Trong khoảng 20 năm cuộc đời Chúa Giêsu, Thánh Luca nói một câu ngắn gọn: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52).

Làm sao biết cuộc đời của Con Trẻ Giêsu?  Cậu Giêsu có hơn các bạn bè về việc học?  Sự vô tội của Ngài có làm người khác tức giận?  Ngài làm việc giỏi như thế nào?  Tay nghề thợ mộc của Ngài có “hoàn hảo,” hoặc có tiếng tốt trong làng xóm trước khi Ngài làm sứ vụ công khai?

Nhưng dễ dàng lạc đề qua cách suy nghĩ và bỏ qua điểm chính về các câu tóm tắt quan trọng trong Phúc Âm theo Thánh Luca.  Thiên Chúa có điều để dạy chúng ta ở đây về các chi tiết đã nói trước.  Ngài sai Chúa Con đến sống, trưởng thành và làm việc trong âm thầm khoảng 30 năm, trước khi thi hành sứ vụ công khai và được người ta nhận biết là bậc thầy uy tín, Ngài có những điều phải nói với chúng ta về phẩm giá của cuộc sống và sự lao động – sự linh thiêng của sự phát triển dần dần và sự trưởng thành.

Thiên Chúa có thể sai đến một Đức Kitô phát triển viên mãn.  Từ đầu, Ngài có thể tạo ngay một thế giới không có những con người sa ngã – trẻ em, người trẻ, những con người trưởng thành và hoạt bát.  Nhưng Thiên Chúa không làm theo cách đó.  Ngày nay Ngài cũng không làm như vậy.  Ngài “thiết kế” chúng ta để hiện hữu mạnh mẽ, phát triển theo từng giai đoạn của cuộc sống, phát triển về thể lý và tinh thần, với nhau và với Thiên Chúa.

CHÚA GIÊSU PHÁT TRIỂN VÓC DÁNG

The ancient creed confesses his full humanity, in both body and inner person.  Chúa Giêsu là “Thiên Chúa thật và là con người thật, có linh hồn và thể xác” (Công Đồng Chalcedon, năm 451). Chúa Giêsu có “thân xác thật” tức là Ngài sinh ra, lớn lên, khát, đói, khóc, cười, ngủ nghỉ, đổ mồ hôi, chảy máu, và chết.

Cả bốn Phúc Âm đều cho biết sứ vụ công khai ba năm của Chúa Giêsu, và gần một nửa khoảng không gian tới một tuần trước khi Ngài chịu chết.  Nhưng Thiên-Chúa-con-người làm gì trong thời gian 30 năm từ sau khi sinh tới lúc khởi đầu sứ vụ?  Ngài bước đi trên những con đường bình thường, không mê hoặc, lớn lên và phát triển như một nam nhi bình thường.

Đức Giêsu Kitô không nổi bật ở hoang địa khi rao giảng Nước Thiên Chúa.  Ngài biết canh phòng và khôn khéo luồn lách khi bước đi và nói chuyện.  Ngài cũng gãi khi ngứa.  Có thể Ngài cũng đã từng bị đứt tay hoặc trật gân.  Ngài cũng bị cảm lạnh lúc thời tiết giao mùa, mệt mỏi vì cảm cúm, cũng lóng ngóng vụng về khi mới lớn.  Ngài cũng được cha mẹ dạy cho biết các kỹ năng xã hội, và học cách làm việc như những người bình thường trong suốt hơn nửa đời làm người trên thời gian này.

CHÚA GIÊSU PHÁT TRIỂN SỰ KHÔN NGOAN

Nhưng Chúa Giêsu phát triển không chỉ về thể lý, mà cả về tâm hồn, giống như mọi phàm nhân khác, về sự khôn ngoan và sự hiểu biết.  Thánh Luca cho biết rằng lúc 12 tuổi, Chúa Giêsu “thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40), không phải là Ngài có tất cả một lúc, hoặc luôn luôn như vậy, mà Ngài cũng phải học tập dần dần.

Nhờ nỗ lực và làm việc cần mẫn, Ngài trở nên nhạy bén về trí tuệ và cảm xúc hơn lúc còn là Con Trẻ.  Ngài không nhận tất cả một lúc, nhưng Ngài dần dần phát triển về sự khôn ngoan, qua những va chạm đau khổ hàng ngày.  Trí tuệ và tâm hồn nhân loại nơi Ngài cũng phát triển.  Ngài phát triển về thể lý, đồng thời cũng phát triển về trí tuệ và tình cảm, như Kinh Thánh cho biết: “Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52).  Trong cuốn “The Person of Christ” (Con Người của Đức Kitô), trang 164, tác giả Donald Macleod viết: “Ngài sinh ra với trí tuệ của một đứa trẻ bình thường, trải qua những kích thích bình thường, và trải qua quá trình bình thường của sự phát triển về trí tuệ.”

Thật vậy, chúng ta thấy có những lúc khác thường về kiến thức siêu phàm của Ngài, vì được Chúa Thánh Thần linh hứng.  Ngài biết Nathanael trước khi ông gặp Ngài (Ga 1:47), biết người phụ nữ Samari có năm đời chồng (Ga 4:18), và biết Ladarô đã chết (Ga 11:14).  Ngài còn biết ông Phêrô sẽ tìm thấy đồng tiền trong miệng con cá bắt được (Mt 17:27), và thậm chí còn biết rõ ông sẽ chối Ngài ba lần (Mt 26:30-35; Mc 14:26-31; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38).  Tuy nhiên, chúng ta đừng lầm tưởng về kiến thức siêu nhiên như vậy, mặc dù được mặc khải đặc biệt, với việc học hỏi chăm chỉ không ngừng trong quá trình tiếp thu cách giáo dục.

Chúa Giêsu học hỏi từ Kinh Thánh và từ Cha Mẹ, trong cộng đồng và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài tăng thêm sự khôn ngoan bằng cách luôn cẩn thận quan sát cuộc sống hằng ngày, và cách tiếp cận với thế giới của Thiên Chúa.

CHÚA GIÊSU HỌC BIẾT VÂNG LỜI

Một lĩnh vực chủ yếu trong sự phát triển của Ngài về vóc dáng và sự khôn ngoan là học cách vâng lời – vâng lời cha mẹ dưới đất (Lc 2:51), và vâng lời Chúa Cha trên trời.

Trong thời gian Chúa Giêsu mặc xác phàm, Ngài đã cầu nguyện và van nài bằng tiếng kêu to và đầy nước mắt, để Ngài có thể thoát khỏi cái chết, và Ngài được nhận lời.  Mặc dù là Con, Ngài vẫn học biết cách vâng lời qua những đau khổ Ngài chịu.  Ngài được hoàn hảo và trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai vâng lời Ngài: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.  Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.  Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7–9).

Cách nói “Ngài học cách vâng phục” không có nghĩa là Ngài đã không vâng lời, mà Ngài bắt đầu từ sự chưa biết và chưa có kinh nghiệm, và cuộc sống nhân loại làm cho Ngài có kinh nghiệm và biết cách làm.  Ngài “trở nên hoàn hảo” không có nghĩa là Ngài có tội, mà Ngài bắt đầu từ tình trạng chưa-trưởng-thành-vô-tội và phát triển trở nên trưởng thành.

ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI

Kinh Thánh Tân Ước cho biết: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2:52).  Đó là là “tiếng vang” của câu Kinh Thánh Cựu Ước: “Còn cậu bé Samuel thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (1 Sm 2:26).  Đó là viễn cảnh của sự phát triển về nhân tính – cả ở Chúa Giêsu và ở nhân loại chúng ta.

  Không có phàm nhân hoặc Thiên-Chúa-làm-người nào lại không có thời kỳ phát triển và trưởng thành, cũng chẳng có sự phát triển đích thực nào là sự phát triển một chiều, mà phải là cả hai chiều đối với Thiên Chúa và con người, với mọi thứ đau khổ kèm theo.

Đừng miễn trừ Thiên Chúa vì Ngài có sự vinh quang của tiến trình trưởng thành cam go và lâu dài.  Trong quá trình đó, bạn nếm trải sự cực khổ gia tăng mà Chúa Giêsu biết rất rõ ràng.  Ngài sẵn sàng giúp đỡ bạn kiên trì cho tới lúc tiến trình của Thiên Chúa hoàn tất.

David Mathis

Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ DisiringGod.com

From: Langthangchieutim

Kinh Thánh là có thật? Phiến đất sét Ebla cổ 15000 năm xác thực Kinh Cựu Ước

Kinh Thánh là có thật? Phiến đất sét Ebla cổ 15000 năm xác thực Kinh Cựu Ước

Phiến đất sét Ebla cổ 15000 năm tuổi chứng minh tính xác thực của các sự kiện trong kinh Cựu Ước.

Tính chính xác của kinh Cựu Ước thuộc Kinh Thánh là một chủ đề gây tranh cãi trong giới khoa học. Tuy nhiên, việc khám phá ra những phiến đất sét Ebla 15 000 năm tuổi đã góp phần củng cố tính xác thực của văn bản này.

Tàn tích thành cổ Ebla, Syria – Việc khám phá ra kho lưu trữ các phiến đất sét Ebla ở miền bắc Syria vào những năm 1970 xác nhận các bản ghi chép Kinh Thánh về Tổ phụ [1] là cực kỳ chính xác.

Trong nhiều năm, các nhà phê bình kinh Cựu Ước cho rằng Moses đã tưởng tượng ra các câu chuyện trong Sách Sáng Thế, thuộc Kinh Cựu Ước, phần đầu của Kinh Thánh. Các nhà phê bình cho rằng những người cổ đại vào thời kinh Cựu Ước quá nguyên thủy để có thể ghi chép tài liệu với độ chính xác cao. Do đó, họ cho rằng không có bằng chứng tồn tại của những người và thành phố được nhắc đến trong văn bản cổ xưa nhất trong Kinh Thánh này.

“Việc phát hiện ra kho lưu trữ các phiến đất sét Ebla ở miền bắc Syria vào những năm 1970 xác nhận các tư liệu ghi chép trong Kinh Thánh về Tổ phụ là cực kỳ chính xác. Trong các cuộc khai quật ở miền bắc Syria, người ta đã tìm thấy một thư viện lớn nằm trong phòng lưu trữ hoàng gia. Thư viện này chứa những phiến đất sét có niên đại từ 2400-2300 TCN”, theo trang Christians in Pakistan.

Đội khai quật đã khám phá được gần 15 000 phiến đất sét cổ đại và những mảnh vỡ, mà khi được ghép lại sẽ tạo thành khoảng 2500 phiến đất sét bổ sung. Thật đáng ngạc nhiên, những phiến đất sét này xác nhận các tên người và tên địa danh trong các ghi chép về Tổ phụ trong Kinh Thánh là sự thật. Chúng được gọi là những Phiến đất sét Ebla.

Trong một thời gian dài, những người phê bình kinh Cựu Ước thường lập luận rằng cái tên “Canaan” đã được sử dụng sai lầm trong những chương đầu của Kinh Thánh. Họ cho rằng cái tên Canaan chưa bao giờ được sử dụng tại thời điểm cụ thể đó trong lịch sử. Họ tiếp tục cáo buộc rằng cái tên này đã đươc thêm vào kinh Cựu Ước sau đó, và cho rằng những cuốn Kinh Thánh đầu tiên không được viết trong khoảng thời gian mô tả.

Tuy nhiên, từ “Canaan” đã xuất hiện trên những phiến đất sét Ebla, trái với tuyên bố của các nhà phê bình. Các phiến đất sét đã chứng minh thuật ngữ này từng được sử dụng ở Syria cổ đại vào thời kỳ Kinh Cựu Ước được viết.

Di tích một kim tự tháp ziggurat ở Ebla. 

Thêm vào đó, hai thành phố Sodom và Gomorrah cũng từng được các nhà phê bình Kinh Thánh cho là sản phẩm đơn thuần của trí tưởng tượng. Và chúng cũng được xác nhận thông qua các phiến đất sét Ebla, cùng với thành phố Haran. Theo mô tả trong Sách Sáng Thế, Haran là thành phố của Terah – cha của Abram.

Ngoài ra, còn vô số các phát hiện khảo cổ khác xác nhận các ghi chép trong Kinh Thánh là có thật và chính xác. Một số phát hiện như vậy là:Chiến dịch tấn công Israel của Pharaoh Shishak (1 Kings 14: 25-26) được ghi chép lại trên bức tường đền Amun ở Thebes, Ai Cập.

  • Cuộc nổi dậy của Moab chống lại Israel (2 Kings 1:1; 3:4-27) được ghi lại trên bia khắc Mesha.
  • Sự kiên thành Samaria (2 Kings 17:3-6, 24; 18:9-11) thất thủ vào tay Sargon II, vua của Assyria, được ghi lại trên các bức tường cung điện của ông.
  • Sự kiện Sargon II đánh bại thành Ashdod (Isaiah 20: 1) được ghi lại trên các bức tường cung điện của ông.
  • Chiến dịch chống lại Judah (2 Kings 18: 13-16) của nhà vua Assyria Sennacherib được ghi lại trên lăng trụ Taylor (khối đất sét nung 6 mặt).
  • Sự kiện Sennacherib bao vây thành Lachish (2 Kings 18:14, 17) được ghi lại trên những bức phù điêu Lachish.
  • \ành Nineveh bị thất thủ ứng với lời tiên đoán của hai nhà tiên tri Nahum và Zephaniah (2 Kings 2: 13-15) được ghi lại trên phiến đất sét Nabopolassar.
  • Sự kiện Jerusalem bị thất thủ trước vua Babylon Nebuchadnezzar (2 Kings 24: 10-14) được ghi lại trong biên niên sử Babylon.
  • Nhà vua Judah là Jehoiachin bị giam cầm ở Babylon (2 Kings 24: 15-16) được ghi lại trong Hồ sơ Khẩu phần Babylon.
  • Sự kiện thành Babylon thất thủ trước người Medes và người Ba Tư (Daniel 5: 30-31) được ghi lại trên Cyrus Cylinder (hình trụ đất nung thời Cyrus Đại Đế).
  • Cyrus Đại Đế trả tự do cho những người (Do Thái) bị giam cầm ở Babylon (Ezra 1: 1-4, 6: 3-4) được ghi lại trên Cyrus Cylinder.

Trong số những đoạn miêu tả trong Kinh Thánh mà sau này được xác thực nhờ các bằng chứng khảo cổ và thiên văn, đáng chú ý nhất có lẽ phải kể đến là việc phát hiện ra dấu tích con tàu Nô-ê tại Thổ Nhĩ Kỳ hay việc ghi nhận được bức ảnh đầu tiên về thế giới thiên quốc của kính viễn vọng Hubble của NASA.

Chú thích:

[1] Tổ phụ: Những nhân vật tổ tiên của người Israel, về nghĩa hẹp thường được chỉ đến Abraham, Isaac và Jacob, về nghĩa rộng, các tổ phụ có thể chỉ đến hai mươi người đàn ông trong dòng thời gian từ Adam đến Abraham.)

Ngự Yên (theo messagetoeagle)

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Tình CHÚA Cứu Độ không ngơi

Quay lại bên CHÚA …đời đời trường sinh

…………………………………… 

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Vâng, đúng thế! ”THIÊN CHÚA yêu thương thế gian đến độ gởi Con Duy Nhất xuống trần, để bất cứ ai tin vào Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời”, Gioan 3,16.

Ngay từ thiếu nữ tôi đã quay lưng với THIÊN CHÚA và sống cuộc đời buông thả, tự chọn mình làm trung tâm cuộc sống. Tôi phải xấu hổ thú nhận:

– Tình trạng sống tội lỗi của thế gian lôi cuốn quyến dũ tôi hơn sự thanh khiết thánh thiện của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Cứ thế dòng đời trôi qua hết ngày này sang ngày khác.

Thỉnh thoảng có vài cơ hội xuất hiện và nhóm bạn bè kéo tôi trở lại nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Tôi có mặt lấy lệ và hoàn toàn dửng dưng của kẻ ngoài cuộc. Thế nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn không bỏ quên tất cả nền giáo dục tôn giáo hấp thụ từ thơ bé trong một gia đình Công Giáo đạo đức.

Thế rồi mọi sự đảo lộn hết vào tháng 6 năm 1982. Mẹ chồng tôi bị ung thư sắp chết. Vào cùng thời điểm này Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) viếng thăm mục vụ Scotland. Mẹ chồng sống như kẻ vô thần, nghĩa là không tin tưởng gì ráo trọi. Nhưng bà lại là người rất tốt. Vì thế tôi rất thương mến quí trọng mẹ chồng. Vì quí mến mẹ, nên với tư cách tín hữu Công Giáo, tôi cảm thấy xôn xao dằn vặt với ý nghĩ:
Chả lẽ mẹ ra đi về thế giới bên kia mà không hề biết có Đấng Cứu Thế từng hiến dâng mạng sống để cứu chuộc loài người sao?

Thương mẹ chồng, tôi muốn cứu linh hồn mẹ bằng mọi giá.

Rồi bác sĩ trịnh trọng loan báo hung tin: bà chỉ còn vỏn vẹn một tuần để sống! Toàn thể gia đình chúng tôi cùng tha thiết kêu xin THIÊN CHÚA cứu sống mẹ. Riêng tôi, tôi tức tốc đến nhà thờ cầu nguyện cho mẹ chồng.

Trong vòng một tiếng đồng hồ, tôi quì gối trước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể cầu xin cho mẹ chồng thoát chết và ăn năn trở lại cùng THIÊN CHÚA. Tôi cầu nguyện với trọn tâm lòng và làm một cuộc giao kèo với Chúa. Trong giây phút nồng nhiệt tột độ tôi sẵn sàng đánh đổi mạng sống để xin cho mẹ chồng được sống.

Tôi đâu ngờ chỉ một giờ quì cầu nguyện trước Thánh Thể ấy đã tuôn đổ bao ơn lành xuống trên cả 2 mẹ con tôi.

THIÊN CHÚA thật khôi hài! Ngài không cất mạng sống tôi đi để trao cho mẹ chồng. Nhưng Ngài biến đổi mạng sống tôi, cùng lúc, Ngài giải thoát và lay động cuộc sống mẹ chồng. Mẹ chồng khỏi hẳn bệnh ung thư và xuất viện. Các bác sĩ ngỡ ngàng trước cuộc khỏi bệnh lạ lùng của mẹ chồng tôi.

Khỏi bệnh, mẹ chồng tôi thay đổi hẳn cuộc sống. Mẹ sống tình vợ chồng mặn mà thắm thiết, lợi dụng thời gian sống bên nhau để làm đẹp lòng nhau. Mẹ sống thêm một năm tràn đầy tình thương. Sau đó mẹ qua đời trong ân nghĩa cùng Chúa nơi nhà thương Thánh Columbus ở Edinburgh.

Về phần tôi, cuộc sống cũng đổi khác. Nhờ kinh nghiệm tỏ tường Tình Yêu THIÊN CHÚA, tôi gia tăng tình thương đối với chồng con. Rồi tôi nhận ơn an bình sâu thẳm, niềm an bình tôi chưa bao giờ hưởng nếm trước đó.

Tôi cũng được ơn yêu thích cầu nguyện và ơn ăn năn tội. Tôi nhớ lại thời gian sống buông thả chìm đắm trong tội lỗi. Tôi thật lòng thống hối và xin THIÊN CHÚA tha thứ mọi tội lỗi. Ơn Chúa không dừng lại nơi riêng tôi nhưng còn đổ tràn trên toàn thể gia đình. Chúng tôi tiếp tục sống trong ơn nghĩa Chúa cho đến hôm nay.

Giờ đây khi hồi tưởng quá khứ, tôi thâm tín sâu xa:

–         Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA mới thực hiện những điều Ngài làm cho cuộc đời chúng tôi. Chỉ lòng nhân lành THIÊN CHÚA mới có thể biến đổi tâm lòng chúng tôi và tiếp tục biến đổi mãi. Ước chi cuộc sống mỗi người là lời tôn vinh THIÊN CHÚA và là chứng tá cho Tình Yêu cứu độ của THIÊN CHÚA đối với loài người.

–         Chứng từ của bà Maria Bartlett sống tại Kinross miền Tayside bên nước Scotland.

     … ”Khốn thay kẻ nào đào sâu giấu kỹ, không để cho THIÊN CHÚA thấy ý định của mình. Khốn thay ai hành động trong bóng tối và tự nhủ: ”Ai thấy được, ai biết được ta?” .. Vì thế, THIÊN CHÚA phán thế này: “Từ nay Giacóp sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacóp nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacóp là Thánh, và sẽ kính úy THIÊN CHÚA của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy”(Sách Isaia 29,15+22-24).
(Sister Patricia Proctor, OSC, ”201 Inspirational Stories of The Eucharist”, Franciscan Monastery of Saint Clare, Spokane, Washington, 2004, trang 62-63)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn Đài Vatican

(http://www.oecumene.radiovaticana.org)

Anh chị Thụ & Mai gởi

“Khóc là ủy mị, chết là điên”

 Tin Mừng (Mt 13: 44-52)

Hôm ấy, Đức Giêsu kể cho dân chúng nghe dụ ngôn sau đây: Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. 

“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. 

“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 

“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.” Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

  •     *      *      *

 “Khóc là ủy mị, chết là điên”
“Gây cho hoàn cảnh thêm tươi đẹp”
“Lọc mãi cho hồn trong sáng lên”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 Mai Tá lược dịch.

Khóc đâu chỉ là uỷ mị. Nhưng còn là, tâm trạng nhà thơ viết về người tình, mình cay đắng. Chết đâu chỉ là khùng điên. Mà còn là, quyết tâm chết cho người tình, mình vẫn yêu. Uỷ mị hay điên khùng, phải chăng là đặc trưng của người nhà Đạo, vào lúc này?

Trình thuật thánh Mátthêu, nay kể về dụ ngôn, là để nói lên những điều từa tựa như thế. Từa tựa, về ý nghĩa và đích điểm của Nước Trời, ở trần gian. Nuớc Trời trần gian, như thánh Mátthêu từng khám phá, là: tình huống có Đức Giêsu và dân con Ngài, cùng sống. Sống giống Chúa. Và với Chúa. Như thánh nhân đây, cũng từng học hỏi sống khác thường, theo đúng nghĩa sống. Và, thánh nhân thấy mình như người quản gia, cho qua đi những gì thuộc về quá khứ, chỉ giữ lại những gì mới mẻ, vừa khám phá.

Khám phá/tìm ra, như tác giả vừa tìm thấy châu báu nơi ngọc quý, bèn bán đi mọi sự để mua lấy, dù cao giá. Châu báu đây, là những đồ xưa cổ làm nền cho mọi sự việc rất mới. Và, châu báu ở viên ngọc mà thánh nhân nói đến, chính là sự mới mẻ ở mọi sự. Rất quí. Và, càng có giá hơn, khi đó lại là khám phá mới về chính con người, của mình.

Thánh nhân đây, tuy không còn trẻ, vẫn là người Do thái rất tốt lành. Biết dấn thân theo chân Chúa đến cùng, như mọi người lành thánh, tốt đẹp. Như, đồ đệ đáng tuyên dương của Chúa, mà mọi người vẫn đợi trông.

Thánh nhân đây, đã trở thành tín hữu của Đức Chúa, nhưng vẫn không ngừng là người Do thái chính cống. Rất minh bạch. Bởi thế nên, thánh nhân nghĩ mình cũng là ngôi nhà có giá trị. Để rồi từ đó, thực hiện được cả những điều cũ/mới, vẫn đổi thay. Đổi thay và tháp ghép vào những điều đã cũ ngõ hầu để tạo sự mới mẻ cho những gì mình viết ra. Mỗi lần gặp người mới, thánh nhân đều thấy thế. Và khi gặp người khác nữa, ông cũng trở nên chính mình hơn. Tức, tìm lại được chính mình.

Phần đông trong chúng ta, mỗi khi nhìn vào cuộc sống của chính mình trong quá khứ, đều thấy có những chuyện tương tự. Trong suốt chuỗi ngày dài cuộc sống, ta cũng từng đổi thay. Đổi và thay, để trở thành người tín hữu không như cũ. Vẫn cố thay đổi trong Hội thánh. Thay đổi, thái độ sống. Thay đổi, ý nghĩa của con người mình. Có lẽ ta thay đổi nhiều hơn nhiều người trong quá trình năm trăm năm qua.

Về đổi thay, có người cho rằng như thế cũng là đủ. Và, ta đâu còn sức để đối đầu với thay đổi nữa. Có vị lại thấy mình chưa thay hoặc đổi gì nhiều cho lắm. Cần làm nhiều hơn nữa. Bởi, quá khứ của mình dầu sao cũng chưa khá. Chính vì thế, thánh Mátthêu nay yêu cầu ta ngồi lại với nhau, theo cách ít khi thấy, để suy nghĩ về một đổi thay thật rất mới. Và đó có là một đòi hỏi khá to tát, đối với ta không?

Nhìn vào Giáo hội quanh ta có thể là Hội thánh của ngày mai, hoặc rất chóng, ta cũng thực sự thấy đã có khác. Ít ra là mặt ngoài. Đây, không nói về đường lối ta phải theo. Mà, chỉ muốn nói đến dấu hiệu cho ta thấy những gì có thể sẽ diễn ra, mai ngày.

Đó là, cảnh thiếu hụt dần số lượng linh mục hoặc tu sĩ, ở nhiều nơi. Hoặc, cũng ít đi, xuất lễ vào những ngày cuối tuần. Hoặc, thường nhật. Sẽ ít đi, số giờ linh mục ngồi toà cáo giải, vì dân con của Chúa nay ít có nhu cầu. Ít đi dần, trường hợp người từ nhà gọi cha đến thực hiện phép bí tích. Càng ít dần, cảnh tượng từng cặp và từng cặp thừa tác viên đến gõ cửa mỗi nhà, mà giảng đạo. Ít có chuyện thăm kẻ liệt, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Hoặc, nhà quàn tự tổ chức tang lễ không có linh mục. Hoặc, vị phó tế vĩnh viễn đứng ra lo việc rửa tội, dù họ không có chức năng.

Và theo thiển nghĩ, cũng sẽ có nhiều đổi và thay khác, như: đám cưới tổ chức ở nhà thờ được sắp xếp, cách khác hẳn. Khác, giờ giấc. Khác, phụng vụ! Việc dạy giáo lý cũng sẽ khác. Và, vấn đề là: ta làm thế nào để dung hoà và ăn ý với những đổi thay, như thế này? Lâu nay, ta vẫn quen với thánh lễ bằng tiếng Anh (hoặc một số người từng như thế); và, quen với cung cách của vị chủ tế quay mặt về phía bổn đạo. Quen, với chuyện không để các tu sĩ hoặc nữ tu đến trường công lập mà dạy học. Quen, với chuyện trường Công giáo không chỉ dạy về những chuyện có liên quan đến Đạo, mà thôi. Và rồi, ta có quen dần với đổi thay này khác không? Và, có thích thế không?

Không phải ai cũng thích. Có số người chỉ muốn tái tạo lập lại quá khứ buồn. Tức, chỉ muốn quay trở về thời xưa cũ, có lối thờ phụng cung kính, cũng rất cổ. Và rất quen. Quen cầu Chúa phú ban nhiều linh mục hơn để giùm giúp. Có số người lại chỉ cảm tạ Chúa về nhiều thứ. Có người vẫn cứ cầu Chúa ban thêm cho mình nhiều ân huệ. Đồng thời, lại cứ chối bỏ chuyện cũ xưa. Trong khi đó, nhiều người khác vẫn cứ theo kiểu xưa lối cũ mà răm rắp giữ Đạo.

Hôm nay, thánh Mátthêu muốn làm một sự khác thường, với người đọc. Thánh nhân muốn đặt sự mới mẻ lên chuyện cũ. Muốn, đem cơ hội đổi mới những chuyện cũ, đã xa vời. Thánh nhân nhận rằng mình đã tìm ra ý nghĩa mới mẻ về cuộc sống. Về Chúa. Và về con người mình. Qua, kinh nghiệm sống. Thánh nhân cũng muốn kể cho người đọc biết kinh nghiệm lòng tin của mình. Về, những gì mình chưa từng nghĩ đến. Chưa từng thực hiện mà lại không phải qua thủ tục hoặc khuôn phép nào hết. Tựu trung, điều thánh nhân muốn nói đến, là: chính ông cũng là một dụ ngôn…

Cũng nên biết, sở dĩ thánh Mátthêu nói thế là muốn người đọc như ta, cũng đều là một thứ dụ ngôn, nào khác.

Trong mấy tuần qua, thánh Mátthêu từng kể cho ta nghe rất nhiều dụ ngôn/truyện kể về cuộc sống. Thánh nhân kể, cũng là để ta lắng tai nghe âm nhạc của đời mình để thấy được sự dồi dào, sung mãn ở nơi Chúa. Thánh nhân mời gọi ta tham gia sự mới mẻ trong cuộc sống, không phải để ta khiếp sợ những mâu thuẫn sẽ thấy nơi tình huống ta đang dấn bước, đi vào đó.

Vì thế nên, thánh nhân đã định nghĩa lại để ta thấy được căn tính của mình. Làm như thế, có nghĩa: ta là lớp người tuyệt vời hơn mình tưởng. Và, mỗi câu truyện đời của ta, cũng sẽ là những câu truyện lớn rất nên kể. Phải chăng đó cũng là câu truyện dụ ngôn, của mỗi người?

Trong tâm tình đầy cảm kích như thế, cũng nên ngâm thêm lời thơ ta từng ngâm khi trước:

“Nàng hãy vui đi dẫu một ngày,

dẫu phần ba phút, góc tư giây.

Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp,

cũng đủ cho nàng quên đắng cay.”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

Hãy vui đi, dù xảy đến những đổi thay, hay rất mới, ở đời mình. Hãy cứ vui, dù trong thoáng chớp, nhìn như chớp. Vui, để biết rằng Hội thành Chúa vẫn đổi thay. Rất hằng ngày. Ở mọi nơi.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

“Chỉ chừng một năm thôi”,

CHuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thường niên năm A 30/7/2017

“Chỉ chừng một năm thôi”,

Là quên lời trăn trối,

Ai nuối thương tình đôi,

Chỉ chừng một năm thôi.”

(Phạm Duy – Chỉ Chừng Đó Thôi)

 (Thư Êphêsô 4: 2-3)

 Vâng. Đúng thế. Ngày “N” hôm ấy, ở buổi Hát Cho Nhau Nghe tại Sydney đêm mùng 8 tháng 7 năm 2017, cả hát sĩ lẫn người đệm đàn đều đã nhè nhẹ nói lên những lời làm rụng đôi cánh hoa, ít khi nghe.

Vâng. Quả thật ở chốn văn chương/thi-tứ nhà Đạo, lại cũng thế. Cũng thấy đề-cập đến vấn đề nóng bỏng, giật gân và thời-sự như chuyện “linh-mục có vợ” hoặc chuyện “phụ nữ làm linh-mục” được phép thi-hành thừa-tác-vụ cao-siêu/nhiệm-mầu để rồi, cuối cùng thì: “cũng chỉ chừng đó thôi”.

Vâng. Đời người, vẫn thấy và vẫn nghe đâu đấy vang lên những câu ca thực-tế cứ bảo rằng:

 “Chỉ chừng một năm qua,

Là phai gầy hương cũ,

Hoa úa trong lòng ta,

Chỉ cần một năm xa…

Khi xưa em gầy gò đi ngang qua nhà thờ.

Trông như con mèo khờ, chờ bàn tay nâng đỡ.

Ta yêu em tình cờ, như cơn mưa đầu mùa,

Rơi trên sân cỏ già, làm rụng đôi cánh hoa.

Chỉ một chiều lê thê,

Ngồi co mình trên ghế,

Nghe mất đi tuổi thơ

Chỉ một chiều bơ vơ.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Thế đấy. Nếu biết rằng: cũng “chỉ chừng đó thôi”, thì đã làm gì có chuyện nhiêu-khê, tơi bời, rất vời vợi! Nhưng, “chỉ chừng đó thôi”, còn có nghĩa thế này:

 “Chỉ chừng một cơn mưa,

Để không ngờ chi nữa,

Đi dưới mưa hồng nghe

Giọt nhẹ vào tim ta…

Ta yêu em mù lòa, như Ađam ngù ngờ

Yêu Eva khù khờ, cuộc tình trinh tiết đó.

Nhưng thiên tai còn chờ, đôi uyên ương vật vờ

Chia nhau xong tội già, đày đọa lâu mới tha!

Chỉ là chuyện đong đưa,

Đời luôn là cơn gió

Thay áo cho tình ta

Chỉ là chuyện thiên thu…

Chỉ cần một cơn mưa, chẳng ai còn yêu nhau.

Nào ngỡ đâu tình yêu giăng bẫy nhau còn nhiều.

Nghe lòng còn kho giáo, nghe tình còn khát khao.

Nên gục đầu rất lâu, xưng tội cả kiếp sau.

Cả chiều người yêu nhau,

Còn ai là không thấu,

Len giữa u tình sâu

Một vài giọt ơn nhau…

… Tia sáng thiên đường cao rọi vào ngục tim nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. “Tia sáng thiên-đường”, vẫn cứ “rọi vào ngục tim nhau”, “len giữa u tình sầu”, một vài giọt ơn nhau”. Ơn nhau đây, là: huệ/lộc soi-sáng chốn “thiên-đường” như “đám ngù ngờ” “yêu Eva khù khờ”, “cuộc tình trinh-tiết đó”…

 Vâng. “Thiên đường là đây”, vẫn thấy “thiên tai còn chờ, đôi uyên-ương vật-vờ”, “chia nhau xong tội già”, đày đoạ lâu mới tha.”

 Vâng. Cũng như thế. “Chốn thiên đường” nhà Đạo ở Úc này, hôm nay, lại thấy xảy ra cái-gọi-là “tội già”, “đày đoạ” đến độ bạn và tôi, ta không thể bỏ qua cho được. Tội già/đày đoạ đây, là: những tin tức…mình về đấng bậc nọ thuộc tầm cỡ thứ 3 ở triều-thần Vatican, vừa trải qua một thứ “đoạ đày” như báo/đài vừa thông báo:

“Nhân-vật đứng thứ 3 của Vatican, là Hồng y George Pell người Úc vừa được báo cho biết: ông phải ra hầu toà về một cáo-buộc là: ông đã “lạm-dụng tình-dục thời buổi trước”, lúc còn trẻ. Tin cho hay: kể từ ngày Hồng y được bổ-nhiệm làm Bộ trưởng Thánh-bộ Kinh tế-Tài chánh, với trọng-trách dọn/dẹp các vụ bê bối về kinh-tế/tài-chánh, của Giáo-hội.

 Hồng y George Pell đã cực-lực bác bỏ cáo-buộc có luận-điệu như thế. Ông sẽ không nương bóng đứng đằng sau trách-nhiệm của mình ở Vatican, nhưng đã lên kế-hoạch về lại Úc để nghe những đoạn nhạc vừa trổi lên. Trong lần tiếp xúc với báo-giới, ông tuyên-bồ: Vấn-đề này, lâu nay, được điều-tra có đến gần như hai năm trời rồi.

 Thật ra thì, báo-giới đã bắt chụp những tin rò rỉ từ đâu đó, khiến trở thành mưu-toan giết chết thanh-danh ông cách tàn-nhẫn đến độ hơn tháng trời nay, tin cho biết toà án Bang Victoria Úc quyết định ra trát buộc Hồng y Pell xuất-hiện trước công-đường để trả lời cho những cáo-buộc nói trên.  

Và, Hồng y George Pell lại cũng tuyên-bố:

Cuối cùng ra, điều mà tôi tiên-đoán trước đây, có nghĩa rằng: rồi ra, họ cũng sẽ buộc tôi hầu toà chỉ để công-khai kết tội tôi, mà thôi. Nhưng, tôi nhắc lại một lần nữa: tôi hoàn-toàn vô tội trước những cáo-buộc như thế. Cáo buộc này, hoàn-toàn sai sự thật; bởi, toàn-bộ ý-tưởng về chuyện lạm-dụng tình-dục xưa/nay đối với tôi vẫn là chuyện ghê-tởm không thể tưởng tượng nổi.”

 Thật dễ hiểu. Tin tức loan đi khắp nơi về những chuyện như thế đã làm chấn-động mọi người, đặc-biệt là những người không hay/biết rằng Cảnh-sát Bang Victoria, Úc đã mở cuộc điều-tra về chuyện này.

 Thế nhưng, chuyện Hồng y Goerge Pell than-phiền về một mưu-toan giết chết con người không thương tiếc; và lời than phiền ấy, không có gì là quá đáng. Đài ABC Úc cùng các báo/đài có uy-tín như tờ Sydney Morning Herald và The Age, cũng đã nêu bật lời đồn khen/chê, và chưa từng để luột mất cơ hội bôi nhọ tên tuổi Hồng y Goerge Pell.” (X. Michael Cook, Australia’s Cardinal Pellcharged with sex offences, MercatorNet 29/6/2017)

Thế đó, là tin-tức được người chủ-trương trang mạng mang tên MercatorNet đã loan-báo. Nhưng, lời nhận-định từ giới hiểu biết sự việc diễn ra ở giáo-triều Vatican, lại như sau:

“Hồng y George Pell, nay đã hết thời ở Vatican, rồi. Quí vị có thể đánh cá/cược về nền tài-chánh và tài-sản kếch-sù của Toà Thánh mà nói rằng, trên thực-tế, ông ta đã chấm-dứt không còn giữ chức-vụ Bộ-trưởng Thánh-bộ Kinh-tế/tài-chánh là cơ-quan chuyên giám-sát nguồn tài-sản to lớn ấy.

 Các cáo-buộc về Hồng y Pell đã lan-truyền nhiều năm nhưng chưa lần nào bị tắc nghẽn. Hồng y Pell luôn nhấn mạnh rằng ông vô tội, và tuần rồi ông cam-kết sẽ bạch-hoá tên tuổi mình trong sự-vụ gọi là “mưu-toan giết chết con người không thương tiếc. Rõ ràng là, ông đã mướn trạng sự nổi-tiếng của Melbourne là Robert Richter nổi tiếng chuyên biện-hộ các vụ hình-sự cho các nhân-vật kiệt-suất. Thế nên, đây sẽ là cuộc chiến tại toà kéo dài cả năm hoặc hơn nữa; và cũng kéo dài ngày đối với Toà Thánh Vatican trống vắng vị thủ-trưởng hoặc cánh tay mặt của ngài.

 Sự vụ liên quan đến Hồng y Pell làm ta liên-tưởng đến trường-hợp của Libero Milone, nhà tài-chánh người Ý sinh trưởng tại Hoà Lan, nhưng ăn học ở Anh và Hoa Kỳ. Vị thanh-tra 68 tuổi đời này được tuyển-dụng làm tổng Thanh-tra Toà thánh cho một thời-gian dài, nhưng ông này đã từ-nhiệm chức-vụ này mà không nói rõ lý-do chỉ vài tuần trước khi Hồng y Pell lấy ngày nghỉ. Cho đến nay, sự việc ông Tổng Thanh-tra này dừng bước trước công việc còn bề bộn vẫn là điều bí-ẩn, chẳng ai rõ biết duyên-do. Thanh-tra Milone chỉ tồn-tại có hai năm, trong khi Hồng y Pell lại chỉ làm có hơn 3 năm trong nhiệm-kỳ 5 năm.

 Nay thì Libero Milone đã rũ áo ra đi một lần là mãi mãi, trong khi Hồng y chỉ tạm thời ít năm thôi, và chức-vụ này hiện đang do hai nhân-viên cấp thấp đảm-trách, một là Đức Ông Alfred Xuerev, một linh mục người đảo Malta là thư ký riêng của Đức Bênêđíchtô 16 và làm cho Đức Phanxicô một thời-gian rất ngắn. Vị kia, là Đức Ông Luigi Misto từng là nhân-viên kế-toán làm việc tại Tổng Giáo-phận Milan dưới triều Hồng y Carlo Maria Martini. Kế-toán-viên này hiện trông coi bộ-phận hành-chánh trực-thuộc văn-phòng Kinh-tài của Toà thánh.          

 Nhiều quan-sát-viên và các bình-luận-gia chuyện Toà thánh lại vẫn tiên-đoán rằng: sự việc xảy ra mới đây, nói lên thảm-trạng đối với các cố-gắng của Đức Giáo-Hoàng nhằm cải-tổ hoạt-động kinh-tài của Vatican, trên bình-diện tổng-thể. Thế nhưng, bình-luận-gia người Ý của nhật-báo Corriero della Sera ở Milan là ông Massimo Franco lại tin rằng: việc đổi-thay nhân-lực mới đây, sẽ là cơ hội mới để công-cuộc cải-tổ trở về đúng với đường lối họ từng đặt. Trong vụ Hồng y George Pell, ông Massimo Franco còn cho biết: sự việc Hồng y Pell vĩnh-viễn rời bỏ Vatican sẽ xúc-tiến cuộc cải-tổ tài-chánh nhiều hơn là khiến họ dừng đứng. .

 Ông Massimo Franco cũng cho biết thêm rằng: cung-cách mà Hồng y George Pell xử-lý sự việc ờ Toà thánh, quả thật đắt giá và chẳng chút hiệu-năng nào hết. Bởi, thánh-bộ của ông lâu nay đụng-chạm nhiều với các thánh-bộ khác. Và, đặc-biệt trong các xung-đột này, sự việc thường thấy nhất là: các hành-xử của Hồng-y Pell hơi quá đáng về văn-hoá. Ông vẫn có thành-kiến chống bất cứ thứ gì mang tính-chất Ý-Đại-Lợi. Hồng y Pell còn đi xa hơn nữa, ở việc: bắt buộc mọi người phải sử-dụng tiếng Anh làm ngôn-ngữ chính trong thánh-bộ của ông. Và ông từng nói xa nói gần rằng: lâu nay, tham-nhũng là vấn-đề cố-hữu tồn-tại mãi trong phương pháp mà người Ý quản-trị về tài-chánh! Và, Hồng y Pell không ngần-ngại áp-đặt hệ-thống pháp-luật kiểu “bàn tay sắt” của người Anh-Cát-Lợi trên toàn thế-giới mà ông ít biết đến, nhưng Hồng y Pell vẫn một mực bác-bỏ những điều như thế.

 Nói tóm lại, theo ông Massimo Franco thì: lề-lối xử-sự cách “cộc cằn” và mặc-cảm tự-tôn văn-hoá đã là trở-ngại chính cho các cố gắng của ông để tiến tới công cuộc cải-tổ tài-chánh lớn rộng của Toà thánh.

 Nói cho cùng, thì: chủ-trương và cung-cách mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang thực-hiện nhằm cải-tổ nền tài-chánh của Toà thánh đang gặp khó khăn, thiết nghĩ Đức Phanxicô có lẽ phải chấp-nhận việc cải-tổ bất-toàn này sẽ không còn là cái giá mà ngài phải trả, nếu ngài muốn đạt mục-tiêu quan-trọng này.” (X. Robert Mickens, Cardinal George Pell’s Out. Now what? MercatorNet 03/7/2017)

Nhận-định này/khác từ giới quen biết ở truyền-thông Úc, thì như thế. Như thế, vẫn như thể: loan truyền tin-tức hoặc ghi-nhận chuyện thời-sự, cũng chỉ để người đọc mọi rộng tai/mắt mà xem xét thôi.

Truyền-thông báo giới hôm nay “coi vậy mà không phải vậy”, chút nào hết. Coi như thể không dính-dự vào bất cứ trường-hợp khó xử nào ở nhà Đạo; nhưng kỳ thật, lại cũng loan và báo những tin giật gân, động trời, đầy vấy bẩn.   

Truyền-thông/báo giới hôm nay, lại cứ đóng vai-trò “tưởng-chừng-như-đứng-ngoài”, nhưng trái lại, vẫn từng gây hại rất nhiều cho cả nạn-nhân lẫn người bàng-quan, đứng ngoài, không cần-thiết phải “biết hết mọi sự”.

Truyền-thông/báo giới hôm nay là thứ quyền-lực ngầm chuyên trị những sự kiện ngoài tầm đạo-đức/chức-năng của chính mình. Bởi thế nên, tin dữ càng được hoặc bị loan-truyền đi xa, càng làm người bàng-quan/vô-tư cứ bị lôi kéo vào vòng tròng/tréo rất khó xử.

Để tạo cho người và cho mình một tình-huống dễ sống và dễ thở hơn, có lẽ bạn và tôi, ta cũng nên bỏ mọi chuyện gây bứt rứt sang một bên, mà tìm về vườn hoa truyện kể để thư-giãn. Thư-giãn bằng truyện kể cảm-động có tên là “những bàn tay để nắm”:

“Truyện rằng,

 Một lần nọ, ông xã ngồi mân mê bàn tay tôi rồi hỏi: “Nói anh nghe, bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay rồi?” Một câu hỏi không hề dễ trả lời, thậm chí là không thể trả lời cho chính xác. Có những bàn tay ta nắm rồi buông, và chẳng bao giờ còn nhớ lại. Có những bàn tay, nắm rồi nhớ mãi dù năm tháng đi qua.

Bàn tay tôi nắm đầu tiên là của ai, là bố hay là mẹ? Tôi chắc chắn không biết. Nhưng tôi biết đó là hai bàn tay tôi đã nắm nhiều nhất thuở ấu thơ. Những bàn tay to, thô ráp bởi cày cuốc ruộng đồng, những bàn tay như thần thánh có thể làm hết thảy mọi việc. Bàn tay bố dắt tôi chập chững bước đi. Bàn tay mẹ cầm tay tôi uốn từng nét chữ.

 Bất cứ khi nào tôi ngã, hay khi tôi buồn khóc, ốm đau, sẽ có bàn tay rộng lượng chìa ra cho tôi nắm vào để biết rằng mình đang được vỗ về an ủi. Sau này lớn lên, tôi lấy chồng xa, thỉnh thoảng đưa con về thăm nhà, ngủ chung với mẹ. Những đêm chờ mẹ ngủ say, tôi cầm bàn tay mẹ áp vào ngực mình. Bàn tay vẫn to, đầy những nốt chai sần và nay đã nhăn nheo gầy guộc. Và tôi khóc, cảm giác nhớ tiếc một cái gì đó.

 Tôi nhớ bàn tay người con trai đầu tiên mà tôi gọi đó là mối tình đầu. Đôi bàn tay đẹp, dài với những chiếc móng được cắt gọt cẩn thận. Người ấy thường nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, dùng ngón tay mình vẽ vẽ vào lòng bàn tay tôi rồi hỏi: “Đố em biết anh vừa viết gì?”. Tôi lắc đầu. Anh cười nói anh viết rằng: “Anh muốn nắm tay em đi hết con đường đời dài rộng” .Nhưng rồi mọi lời hứa hẹn đều như gió thoảng mây bay. Bàn tay ấy đã buông lơi, thôi không còn nắm tay tôi mà tìm đến một bàn tay khác. Những lúc buồn, tôi vẫn vô thức tự vẽ vẽ lên lòng bàn tay mình. Rồi lại tự cười một mình khi nhận ra mình giống hệt một kẻ ngốc.

 Ngày có người con trai cầm tay tôi nói lời cầu hôn, tôi cảm nhận rõ sự gai góc xù xì trong bàn tay ấy. Cảm giác ấy khiến tôi liên tưởng đến bàn tay mềm mại của mối tình đầu, rồi chợt thốt lên: “Sao bàn tay anh xấu thế?”. Anh nhìn tôi, bật cười giải thích, vì nó không được lớn lên trong mượt mà nhung lụa mà lớn lên bởi những gánh nặng mưu sinh, vì nó không được nâng niu mà đã bao phen trầy da chảy máu. Rồi anh nhìn vào mắt tôi, bàn tay siết chặt bàn tay: “Em cứ tin, nó không đẹp nhưng chẳng ngại khó khăn nào cả, hãy cứ vững tâm mà nắm lấy, được không?”.

 Cuối cùng thì tôi đã nhận lời nắm lấy bàn tay ấy, để anh dắt lên xe hoa, để anh lồng vào ngón tay chiếc nhẫn cưới, để anh lau những giọt nước mắt ngày tôi về nhà chồng. Bàn tay ấy đã tự vào bếp nấu cho tôi bát cháo ngày tôi ốm, tự cắm hoa vào lọ những ngày kỷ-niệm yêu đương. Bàn tay ấy đã dắt tôi đi qua bao nhiêu ngày tháng chông chênh đan xen những lo toan và niềm hạnh phúc. Đôi bàn tay xù xì nhưng cứng cáp và ấm áp vô ngần.

 Ngày tôi đau tưởng chừng xé ruột để cho chào đời một sinh linh, đứa con gái bé bỏng của tôi sau khi được y tá tắm rửa sạch sẽ được đặt nằm cạnh mẹ. Hai bàn tay nhỏ xíu yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bàn tay con, hạnh phúc đến ứa nước mắt. Đó là khi tôi biết rằng mình đã thực sự trưởng thành, và tin rằng mình sẽ mạnh mẽ hơn để có thể che chở cho con, để dắt con đi suốt những tháng năm thênh thang phía trước.

 Những đêm nằm bên con, cầm lấy tay con đặt nhẹ lên môi hôn, chợt nghĩ rằng có lẽ ngày xưa mẹ mình cũng nâng niu và yêu thương mình nhiều đến thế. Rồi một ngày con gái mình sẽ lớn, sẽ lại đặt bàn tay vào một bàn tay khác mà con thương yêu. Chỉ mong con gặp đúng người để tin, và bàn tay không bị buông lơi trong nỗi đớn đau thất vọng.

 Ngày ông nội mất, tôi nghẹn lòng nhìn bà nội cầm tay ông kể lể về những tháng ngày xưa cũ khi ông bà còn trẻ. Hai người đã cùng nhau sống chung hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu yêu thương, giận hờn, khổ đau, hạnh phúc. Vậy mà nay tay bà còn ấm, tay ông đã lạnh ngắt rồi. Chẳng ai cưỡng được số mệnh, chẳng ai đâu. Ai rồi cũng sẽ một ngày về nằm trong lòng đất. Có người ra đi trong ồn ào khóc lóc, có người lìa khỏi thế gian trong lạnh lẽo cô đơn. Người ra đi bởi đã trả xong nợ cõi trần. Chỉ là người ở lại sẽ mang nhiều nuối tiếc xót xa khi biết rằng bao nhiêu yêu thương lúc này cũng không thể sưởi ấm cho người được nữa.

 Thỉnh thoảng tôi vẫn đưa tay mình lên trước mặt rồi tự hỏi lại câu chồng mình đã hỏi: Bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay? Nhiều, nhiều lắm. Có những cái nắm tay khiến mình nhớ mãi, có những cái nắm tay buông rồi là quên ngay. Có những cái nắm tay thật chặt, cũng có cái nắm tay buông lơi hờ hững. Chợt nhận ra một bàn tay đẹp không phải là bàn tay thon dài mềm mại với những chiếc móng được tỉa tót sơn màu. Một bàn tay đẹp là chìa ra đúng lúc mình cần, nắm tay mình qua những đoạn đường đời chông chênh sỏi đá, dẫu mệt mỏi cũng không buông, dẫu xa xôi cũng không nản.

 Nếu chúng ta đang có những bàn tay để nắm, xin hãy trân trọng từng phút giây. Đừng mơ mộng những bàn tay xinh đẹp của ai kia mà buông lơi bàn tay gần gũi ấm áp ở bên mình. Nắm lấy tay nhau, cử chỉ ấy ấm áp hơn mọi lời nói yêu thương đầu môi chót lưỡi.

 Bởi cuộc đời nhiều bất trắc, ai biết được khi nào ai nhắm mắt xuôi tay. Ai biết được khi nào tay mình vẫn ấm áp đây mà bàn tay ai kia đã vô chừng lạnh lẽo. Vậy nên khi sống không đem đến cho nhau sự ấm áp, thì khi lìa khỏi nhân gian có bịn rịn tiếc thương cũng còn ý nghĩa gì?” (Lê Giang –  Dân Trí)

Truyện ở trên, là câu chuyện về nắm bắt tay/chân người khác, chứ không phải tay chân của chính mình. Trong việc nắm bắt ý-nghĩa mọi sự việc trong đời, đặc-biệt là đời đi Đạo, lại cũng thấy có những lời vàng từng bảo ban, như sau:

“Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,

hiền từ và nhẫn nại;

hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.

Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất

mà Thần Khí đem lại,

bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.”

(Thư Êphêsô 4: 2-3)

Nhằm thực-hiện cuộc sống “thuận hoà/gắn bó” với nhau ở đời thường, lại cũng đề nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm câu truyện ngắn khác hầu vui sống những tháng ngày tràn đầy các giao-dịch với mọi người ở trong họ, ngoài làng, rất như sau:

“Truyện rằng:

 Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: “Người không có bốn năm trăm cân sức lực thì không thể kéo nổi chú chó của tôi”.

 Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già bị hói đầu bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh. Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.

 Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: “Ông lão này! Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.

 Ông lão nói: “Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”. 

Anh chàng cười lớn: “Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!” Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bại trận, cũng không còn dám kêu sủa gì nữa. 

Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: “Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? Sao lại dũng mãnh thế kia?” Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: “Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”

 Anh chàng nghe xong thì cười không được mà khóc cũng không xong!!! Bất cứ lúc nào thì cũng đừng có khoe khoang, hãy giữ khiêm tốn! Khiêm tốn! Khiêm tốn hơn nữa! Bạn khoe khoang cái gì, điều ấy nói rõ bạn đang thiếu nó.

 Những người có bản lĩnh thật sự, luôn luôn bảo trì một trạng thái bình tĩnh ôn hòa, giống như ông lão đó và “con chó già” của ông, chỉ là điềm đạm ung dung mà tồn tại.

Bạn đã là sư tử rồi, thì đâu cần phải chứng minh làm gì nữa? Đâu cần phải khoe khoang làm gì nữa?

 Con người sống ở trên đời, không phải là để so đo với người khác. Bản thân hãy sống sao cho có ý nghĩa nhất, và làm ra những cống hiến vĩ đại nhất.”(Truyện kể rút từ trang mạng gồm đầy những câu truyện để kể cho nhau nghe)

Phiếm-luận chuyện Đạo/đời ngày hôm nay, còn là kể cho nhau nghe một cách phiến-phiến những truyện kể dù không đáng kể, chỉ để minh-hoạ vấn-đề gì đó ta bàn, rày cũng đặng. Phiếm-luận chuyện nghiêm-túc ở trong Đạo hoặc chuyện vẩn vơ ở ngoài đời, còn là công việc của bạn, của tôi vào lúc này. Những lúc hoặc những ngày, ta có rất nhiều chuyện để bàn và để tán, như hôm nay.

Thế nhưng, chuyện gì rồi cũng đi đến phần kết dù hay hoặc dở. Và hôm nay, đi vào phần kết-luận một chuyện phiếm, tưởng cũng nên đề nghị bạn và tôi, ta lại cứ ngước mặt lên cao, hát lại những ý/lời của nhạc-bản mang đầu đề “Chỉ chừng một năm thôi”; để rồi sẽ coi mọi chuyện như “không có gì để ầm ĩ”, không còn tán rộng ra như thế.

Quyết thế rồi, nay ta mọi mọi người hãy hát những lời như:

“Chỉ chừng một cơn mưa,

Để không ngờ chi nữa,

Đi dưới mưa hồng nghe

Giọt nhẹ vào tim ta…

(Phạm Duy – bđd)

VIÊN NGỌC QUÝ

VIÊN NGỌC QUÝ

Thiên Phúc

Chuyện kể rằng có một thầy khổ tu vào rừng để hành xác, mong được lên cõi thiên đàng.  Ngày ngày có một cô gái nhân đức tới để cung cấp trái cây và nước suối cho thầy.

Nhiều năm trôi qua, đã đến lúc thầy phải rời bỏ khu rừng vào hang núi sâu, hoàn thành cuộc hành xác khắc nghiệt.  Người con gái chặt củi nước mắt lưng tròng van xin:

– Tại sao thầy không cho con được diễm phúc hầu hạ thầy?

Và thầy tu đã ngồi lại, ở nguyên chỗ cũ.

Thầy ngồi một mình, tháng này qua năm nọ, cho đến khi cuộc hành xác hoàn thành.  Vị chúa tể của những con người bất tử xuống báo cho thầy biết rằng thầy đã được lên cõi thiên đàng.  Nhưng thầy tu nói:

– Đã lâu rồi tôi không cần thiên đàng nữa!

Vị chúa tể kia liền hỏi:

– Vậy thầy muốn được phần thưởng nào quí giá hơn thiên đàng?

Thầy tu chắp tay nhắm mắt điềm nhiên trả lời:

– Tôi muốn được cô gái chặt củi?

****************************** **

“Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.  Tìm được một viên ngọc quý ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45-46).  Người thương gia rất am tường về ngọc, ông biết rõ viên ngọc quý này là vô giá, mà người bán không hề biết, nên ông đã đánh đổi cả gia tài của mình để mua viên ngọc ấy, vì tất cả những gì ông có so với viên ngọc quý ấy cũng chẳng là gì, chẳng đáng giá chi.

Nước Trời đáng quí, đáng trọng, đáng mơ ước là thế, vậy mà thày tu trong câu chuyện trên đây lại bỏ thiên đàng để ở lại với cô gái chặt củi.  Viên ngọc quý của ông sau bao nhiêu năm hành xác mới có được lại không phải là thiên đàng vĩnh cửu, mà là một xác phàm hay chết, một thụ tạo nay còn mai đã biến tan.  Thật là ngu lắm thay, dại khờ lắm thay!

Chợt nghĩ lại, đâu chỉ mình thày tu này dại khờ, ngu ngơ!  Đâu chỉ mình ông mới “Bỏ hình bắt bóng”.

Những kẻ xem danh vọng, chức quyền là viên ngọc quý, cả đời săn lùng tìm kiếm cho đến hao tâm tổn sức, để rồi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng, lại không dại khờ lắm sao?

Những kẻ coi tiền bạc, của cải là kho báu duy nhất trên đời, để bôn ba vất vả thu tích cho thật nhiều mà chẳng nghĩ đến ai, và khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng mang được một xu về bên kia thế giới, lại chẳng dại khờ lắm sao?

Những kẻ đam mê khoái lạc, ăn chơi cho thỏa thích, họ xem thế gian này là kho báu, là viên ngọc quý, phải thụ hưởng tối đa cho thỏa mãn, cho tràn trề, để rồi khi kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, sẽ phải khóc lóc nghiến răng muôn kiếp, lại không phải là kẻ dại khờ lắm sao?

Hãy bỏ đi những chiếc phao thủng mà một lúc nào đó, giữa biển đời lênh đênh chúng ta đã bám víu như một vật cứu sinh an toàn.

Chỉ có những ai sáng suốt nhận ra Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, lấp lánh ngời sáng như sao mai trên bầu trời, mới dám bán đi những viên ngọc giả là của cải, danh vọng và khoái lạc trần gian, mà mua lấy mối tình thâm sâu với Người trong cõi đời đời.

Chỉ có những ai xác tín rằng Nước Trời chính là kho báu vô giá, tồn tại vĩnh cửu, mới “vui mừng bán đi tất cả” những kho tàng phù vân đời này, mà mua lấy kho báu bất diệt trên nơi vĩnh phúc.

Đức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.  Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).  Nếu Đức Giêsu là viên ngọc quý, là hiện thân của nước Trời, thì người tín hữu phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất mát tất cả, phải từ bỏ mọi sự để được sống với Người, để chọn Người làm lẽ sống, và để được Người, là được tất cả.

Đó là cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất đi để được lại, cho đi để được nhận lãnh, chết đi để được sống mãi.

Baeteman có viết: “Cái đáng giá, không luôn là cái chúng ta hiến dâng cho chúa, nhưng luôn là cái gì chúng ta nhân danh Người mà từ chối”.

****************************** **

Lạy Chúa, nếu có lần nào chúng con cảm nghiệm được hạnh phúc giả tạo mau qua của kho tàng dưới đất, thì xin cho chúng con một chút ngất ngây hạnh phúc của kho báu trên trời.

Xin dạy chúng con biết luôn chọn chúa là gia nghiệp, là cùng đích và là lẽ sống của cuộc đời chúng con.  Amen.

Thiên Phúc

(trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Langthangchieutim gởi

NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỨU GIÚP CÁC LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC

NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỨU GIÚP CÁC LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC

[Xin anh chị em hãy ĐỌC * CHIA SẺ * THỰC HIỆN để cứu các Linh hồn]

Lm. Mark, CMC

Công đồng Lyon năm 1274 và Công đồng Florence năm 1439 tuyên ngôn rằng:

“Ðể làm giảm bớt các hình phạt các linh hồn khốn khó phải chịu trong Luyện ngục: Lời cầu nguyện, việc làm phúc bố thí, và các việc lành khác mà các giáo dân quen làm như Giáo hội dạy, nhất là Thánh Lễ Misa, có thể giảm bớt hình khổ cho các linh hồn Luyện ngục.” (D. 464, 693).

Chúng ta nên dâng việc lành phúc đức như đọc kinh, lần hạt Mân côi, ăn chay, hãm mình, bố thí, nhường Ân xá, nhất là dự lễ và xin lễ cho các linh hồn trong Luyện ngục. Làm như thế ta thực hiện mầu nhiệm Các thánh Thông công, liên kết đó là giáo lý rất an ủi người sống cũng như người đã qua đời.

Mầu nhiệm Các Thánh Thông công dạy ta rằng “Tất cả các tín hữu còn sống hay đã qua đời, đã được lên Thiên đàng hay còn trong Luyện ngục, đều liên lạc mật thiết với nhau.”

Các tín hữu còn sống liên lạc với các Thánh trên trời bằng cách tôn kính cầu xin các Thánh, đổi lại các Thánh cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết làm trọn thánh ý Chúa trong bậc mình khi còn sống ở trần gian.

Các tín hữu còn sống liên lạc với các linh hồn Luyện ngục bằng cách dâng các lời nguyện, việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn, đổi lại các linh hồn cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết phần hồn phần xác.

Các tín hữu còn sống thông công liên lạc với nhau qua lời cầu nguyện, gương lành. Ðời sống thánh thiện của mọi người đều có ảnh hưởng đến người khác.

Chúa Kitô đã kết hợp các tín hữu thành một thân thể mầu nhiệm, đó là lý do giải nghĩa mầu nhiệm các Thánh thông công như đã trình bày trên.

Muốn cho các việc chúng ta làm sinh ơn ích cứu rõi các linh hồn, theo ý kiến Thánh Tôma Aquinô cần 3 điều sau:

  1. Phải có ý nhường công phúc việc lành mình làm cho linh hồn nào đó, hoặc cho các linh hồn mồ côi. Nếu không có ý nhường thì công phúc việc lành vẫn thuộc về người làm.
  2. Phải làm việc có tính cách đền tội, bởi tuy là việc lành nhưng sinh công hiệu khác nhau: công hiệu kinh Mân côi khác công hiệu lễ Misa. Và còn tùy người làm cách sốt sắng thánh thiện hay khô khan ơ hờ.
  3. Phải làm khi có ơn nghĩa Chúa, nghĩa là sạch tội trọng. Không kể những việc lành nguyên tự phát sinh công hiệu như Thánh lễ Misa, dù người dự hay xin lễ không có ơn nghĩa Chúa, Thánh lễ vẫn sinh công hiệu cho các linh hồn.

* Truyện kể rằng, một người cha đang khi hấp hối dặn đứa con trai nhớ đến và năng cầu nguyện cho cha sau khi cha qua đời. Người con hiếu thảo vâng lời ngay, chàng siêng năng cầu nguyện, dâng việc lành phúc đức cầu cho linh hồn cha.

Sau 33 năm người cha nói trên hiện về với con, quanh mình phủ đầy lửa, cay đắng phàn nàn:

– Tại sao con quên cha lâu năm như vậy, không cầu nguyện cứu giúp cha.

Người con hết sức ngạc nhiên không hiểu câu nói của cha, chàng liền hỏi:

– Những lời cầu nguyện, việc lành, bố thí của con không giúp ích gì cho cha sao?

Người cha trả lời:

– Không con ơi, các việc lành phúc đức con làm không sinh ích gì cho con và cho cha, bởi con làm khi con mắc tội trọng. Con xưng tội, nhưng không có lòng ăn năn chừa tội thật. Chúa nhân từ cho phép cha hiện về với con để làm ích cho cha con ta.

Từ đó, người con thật lòng ăn năn chừa tội và chẳng bao lâu sau đã cứu được linh hồn cha khỏi Luyện ngục lên Thiên đàng rực rỡ vô ngần (Charity p. 526). 

Lm. Mark, CMC

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Một lần tới âm gian: Vị bác sĩ chết đi sống lại và mang theo thông điệp quan trọng khi trở về

Một lần tới âm gian: Vị bác sĩ chết đi sống lại và mang theo thông điệp quan trọng khi trở về

Có một người đàn ông tin rằng bản thân đã được trải nghiệm một vòng nơi địa ngục rồi quay trở lại trần gian, và trải nghiệm đó cũng đã hoàn toàn thay đổi kiếp nhân sinh của ông.

Trước đó, Tiến sĩ – bác sĩ gốc Ấn Độ Rajiv Parti là một người có sự nghiệp rất thành công. Ông cũng kiếm được rất nhiều tiền, nói một cách khác là ông có một cuộc sống vật chất rất sung túc giàu có. Ông là bác sĩ trưởng khoa gây mê hồi sức của Bệnh viện tim ‘Bakersfield Heart Hospital’.

Thỉnh thoảng có những bệnh nhân sau phẫu thuật miêu tả cho bác sĩ Parti những trải nghiệm khi linh hồn rời khỏi thể xác nhưng ông chưa bao giờ quan tâm, cho tới khi tự bản thân ông tự mình trải nghiệm được những điều ấy khi cận kề cái chết.

9 năm trước, bác sĩ Rajiv Parti được chẩn đoán mắc ung thư tiền liệt tuyến và trải qua nhiều đợt phẫu thuật. Hai ngày trước lễ Noel năm 2010, vì bị biến chứng sau khi phẫu thuật, ông được đưa tới cấp cứu ở bệnh viện Đại học California, Mỹ. Toàn bộ nội tạng của Rajiv Parti gần như không thể hoạt động, các bác sĩ phải quyết định đưa ống thông đặt vào trong cơ thể để hỗ trợ.

Tuy nhiên, chỉ sau vài giờ, bác sĩ Rajiv Parti bị nhiễm trùng nặng. Vùng bẹn bị sưng đỏ, đau nhức kèm sốt cao khoảng 40,5 độ. Sau một đêm được tiêm mooc-phin giảm đau, ông lại được đưa vào phòng phẫu thuật. Chính trong giờ phút này, ông Rajiv Parti khẳng định đã nhìn thấy thiên đường. Sự việc này về sau đã được ông quyết định viết lại trong cuốn sách mang tên “Dying to wake up” (tạm dịch: Chết để thức tỉnh).

Bác sĩ Rajiv Parti như được rẽ sang một cuộc đời mới sau lần trải nghiệm cận tử đáng nhớ. (Ảnh dẫn theo Aweita)

Bác sĩ Rajiv Parti kể rằng, khi ông được phẫu thuật, thuốc mê hoàn toàn không có tác dụng. Ca mổ diễn ra được 15 phút mà ông vẫn cảm thấy đau đớn. Lúc đó ông cảm thấy cơ thể mình trôi bồng bềnh và nhìn thấy bản thân mình đang nằm trên bàn mổ và nghe các bác sĩ khác đang nói chuyện, thậm chí còn ngửi thấy mùi thuốc sát trùng.

Cũng lúc đó, ông thấy gương mặt của mẹ và em gái. Bà mặc bộ đồ truyền thống sari (trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ), em gái thì mặc quần bò, áo lửng màu xanh đang ngồi ở nhà. Họ đang cùng chuẩn bị bữa tối có rau, sữa chua và cơm. Sau đó, ông nhìn thấy một khung cảnh u ám, những đám mây đen kịt, sấm sét, một ánh lửa lóe lên và sự xuất hiện của những con vật có sừng dài. Ông còn nhìn thấy cả bệnh nhân cũ và những người mà ông từng cáu giận với họ.

Ông nhìn thấy một khung cảnh u ám, như là ranh giới của địa ngục. (Ảnh dẫn theo NTDTV)

Ông thừa nhận rằng, mặc dù là một bác sĩ có kỹ thuật giỏi nhưng bản thân còn rất ích kỷ, chưa thực sự đồng cảm và đặt hết tâm vì bệnh nhân. Khi mỗi bệnh nhân tìm đến mình, ông đều tự hỏi: “Mình sẽ có được gì từ bệnh nhân này?”. Bởi vậy khi ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, ông dường như đã nghe được lời các thiên sứ nói với mình: “Hãy thay đổi cách đối xử với mọi người, thay đổi cách hành xử với bệnh nhân”.

Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Rajiv Parti đã viết:

“Tôi có thể hồi tưởng lại toàn bộ quá trình trải nghiệm khi cận kề cái chết: Tôi đã gặp được tổ tiên của mình ở ranh giới của địa ngục, một vài tiền kiếp mà mình đã trải qua – đủ để giải thích những khổ nạn xảy ra trong đời mình, và tại sao lại luôn phải ỷ lại vào những đơn thuốc như thế? Và tôi còn có vinh dự được gặp hai vị thiên sứ hộ mệnh được bao phủ bởi những ánh sáng rực rỡ là Raphael và Michael. Họ bước ra từ một biển hoa, trên thân còn tỏa ra sức mạnh từ bi thuần chính tới mức khó có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả”.

Tiếp theo ông thấy một bà cụ khoảng 75 tuổi, vỗ nhẹ vào vai ông và muốn nói chuyện với ông vì chồng bà bị ung thư sắp chết.

Ngay sau đó, cha ông xuất hiện và dẫn ông đi vào một đường hầm ánh sáng chói lóa. Lập tức ông tỉnh dậy.

Tranh vẽ Thiên thần bảo hộ của họa sĩ Pietro da Cortona. (Ảnh dẫn theo NTDTV)

Ông Rajiv khẳng định mình đã nhìn thấy thiên đường trong khi trải qua cuộc phẫu thuật. Và ở nơi giống như thiền đường đó, ông còn nghe thấy các thiên sứ nói rằng họ sẽ mang tới hướng đi mới cho cuộc đời của ông. Họ nói: “Giờ là lúc điều trị các loại bệnh trong tâm ông rồi: Đó chính là bệnh nghiện uống thuốc, cáu giận, các bệnh mãn tính và ung thư”.

Từ một người không tin vào thiên đường địa ngục, cũng như những câu chuyện ly kỳ về trải nghiệm cận tử, sau chính trải nghiệm của bản thân mình đã khiến vị bác sĩ thay đổi căn bản từ tâm hồn. Và không muốn lưu giữ những điều kỳ diệu ấy cho riêng mình, ông đã quyết định chia sẻ nó với tất cả mọi người như một lời nhắn gửi chân thành nhất.

***

Có rất nhiều người trong chúng ta vốn đều tin rằng linh hồn là bất diệt, cũng hy vọng đời sau được sống vui vẻ hạnh phúc. Có lẽ đây là lý do có rất nhiều người hướng thiện và cố gắng làm nhiều việc tốt, cũng như tránh làm tổn hại tới người khác.

Từ xa xưa, trong bất kỳ tôn giáo hay thời kỳ lịch sử văn minh nào cũng luôn tin rằng thiện ác đều sẽ có báo ứng. Đạo Kyto dạy người ta làm người tốt thì có thể lên thiên đường. Phật giáo giảng tích đức hành thiện đắc phúc báo; người phương Đông có câu nói quen thuộc: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”.

“Hãy thay đổi cách đối xử với mọi người”. Có lẽ lời nhắc nhở của vị thiên sứ trong câu chuyện của bác sĩ Rajiv Parti ở trên cũng là nhắn gửi cho tất cả chúng ta vậy! Bớt đi ích kỷ và nghĩ cho người khác nhiều hơn, chính là chúng ta đang tạo phúc báo cho chính mình.

Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Bình Nhi biên dịch

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đoạt huy chương vàng Toán quốc tế

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đoạt huy chương vàng Toán quốc tế 

Em Antôn Phan Nhật Duy

“Em rất sung sướng, hạnh phúc! Tạ ơn Chúa, cám ơn cha mẹ, quý thầy cô và mọi người” Đó là tâm sự chân thành với người viết của Antôn Phan Nhật Duy, sau vài giờ em biết mình được huy chương vàng tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế (International Mathematical Olympiad), lần thứ 58, năm 2017 (IMO 2017), vừa tổ chức tại Jio de Janeiro, Brazil.

Nhìn lại hoàn cảnh xuấn thân và lắng nghe tâm sự của Nhật Duy, để thấy phần nào sự chăm chỉ, khiếm tốn và lòng đạo đức của cậu học sinh xuất sắc, đáng tự hào này.

Đội tuyển Olympic Toán quốc tế 2017 tại Rio, Brazil. Ảnh: Facebook Lê Anh Vinh

Em Antôn Phan Nhật Duy là con thứ hai của anh Giuse Phan Tình Nguyện và chị Maria Võ Thị Lài, giáo dân họ Tân Vạc, xứ Kẻ Đọng, thuộc xã Sơn Tiến, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Vốn làm nông thuần túy, kinh tế còn khó khăn, việc cho bốn người con ăn học đầy đủ cũng là cố gắng lớn của bố mẹ Nhật Duy. Hằng ngày, ngoài giờ học, phụ giúp gia đình trồng trọt, chăn nuôi trở thành nhiệm vụ quen thuộc đối với anh em Duy.

Kết quả của đoàn Việt Nam trên trang thông tin chính thức của IMO 58. Ảnh vietnamnet.vn

Trước khi vào thành phố Hà Tĩnh học cấp III ở trường Chuyên, Phan Nhật Duy là học sinh trường Tiểu học II và Trung học cơ sở Sơn Tiến. Suốt các năm học phổ thông, em đều là học sinh giỏi toàn diện. Riêng môn Toán, Nhật Duy thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp huyện, tỉnh và quốc gia.

Điều đáng ghi nhận nữa là Nhật Duy cũng thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi Giáo lý.

Sang Brazil thi Olympic lần này, ngoài sách vỡ, ít tiền bạc và tư trang, Antôn Phan Nhật Duy còn mang theo hai thứ đặc biệt đó là: bức ảnh “Chúa Thương xót” với hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” và tràng Chuỗi Mân Côi. Duy kể: “Em thường xuyên cầu nguyện, xin Đức Mẹ và thánh Antôn quan thầy bầu cử cho”.

Nói về thi Olympic, Nhật Duy tâm sự: “Mỗi thí sinh phải làm sáu bài thi, mỗi ngày thi ba bài. Em khá lo lắng sau ngày thứ nhất, chỉ biết cố gắng, cầu nguyện và phó thác. Thi xong vẫn chưa hết hồi hộp, thật may mắn cho em vừa đủ để đạt huy chương vàng. Em cảm thấy đó là hồng ân lớn lao Chúa thương ban, đền đáp công sức của cha mẹ, các thầy cô và mọi người”.

Huy chương vàng của Phan Nhật Duy góp phần quan trọng giúp đội tuyển Toán Việt Nam đứng thứ ba trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia IMO 2017. Đây là thành tích cao nhất của nước ta trong 43 lần tham gia sân chơi này.

Người Công Giáo xác tín “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,10). Để có được tấm huy chương vàng tại IMO, dĩ nhiên ngoài tố chất thông minh và sự cố gắng vượt bậc của cá nhân Antôn Phan Nhật Duy là bao mồ hôi và lao công của cha mẹ, các thế hệ thầy cô, đặc biệt là những người trực tiếp bồi dưỡng. Ngang qua những con người bình thường đó, Chúa dệt nên điều phi thường. Cá nhân Nhật Duy (chàng trai chưa đầy mười tám tuổi) ý thức điều đó, nên cảm nhận đầu tiên khi giành chiến thắng là “tạ ơn Chúa và cám ơn tất cả mọi người”. Đó cũng là vẻ đẹp của Đức tin Công giáo, vì khi ta càng cố gắng sống trọn tình với Chúa là Cha thì ta mới có thể sống vẹn nghĩa với mọi người là anh em.

“Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,3).

Xin chúc mừng Antôn Phan Nhật Duy, xin Chúa tiếp tục đồng hành cùng em để niềm tự hào hiện tại sẽ được tiếp tục trong tương lai.

Nguồn: facebook Antôn Hùng Mạnh