KINH CẦU CHO TUỔI GIÀ

 KINH CẦU CHO TUỔI GIÀ

Nguồn: Dòng Ba Carmelo

Lạy Chúa, xin ban cho con một tuổi già an bình và thanh thản.

Xin gìn giữ con khỏi một tuổi già tự khép mình trên con và trên những nuối tiếc vô ích.

Và nếu sự ngờ vực tấn công con, xin Chúa hãy soi sáng con.

Nếu sự cô đơn làm tâm hồn con sầu buồn, xin Chúa viếng thăm con.

Nếu bệnh tật hành hạ thân xác con, xin Chúa ban sức mạnh cho con.

Nếu giờ chết tới gần làm con kinh hoàng, xin Chúa hãy làm lắng dịu sự kinh hãi cho con.

Dù sự chết chộp con cách bất ngờ hay tiến tới từ từ, xin Chúa đừng bỏ rơi con.

Nếu một mai bệnh tình xâm phạm tới trí óc con, khiến con mất sự minh mẫn, thì ngay từ bây giờ, trước mặt Chúa đây, con xin hứa trước sẽ vâng chịu, và vâng chịu trong thái độ yên lặng kính thờ.

Nếu mai này con bị chìm đắm trong tình trạng hôn mê kéo dài, thì con mong rằng mỗi giờ phút còn lại của cuộc dời con sẽ đều là những thời gian liên tục chúc tụng tri ân Chúa, và chớ gì hơi thở sau hết của con cũng sẽ là một hơi thở của lòng mến yêu.

Con ước ao cậy trông rằng, vào giờ đó, con sẽ được Đức Mẹ nắm tay dẫn dắt đến trình diện trước Thiên Nhan để ca tụng ngợi khen Chúa đến muôn dời. Amen. 

Chị NguyễnKim Bằng gởi

Tôi có vẻ như bị quỷ ám… khổ sở lắm

 Tôi có vẻ như bị quỷ ám… khổ sở lắm

 Khổng Nhuận

Tin mừng theo Mat-thêu 15 : 22

Một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng :

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !

Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !”

Hầu hết các bài suy niệm đều xoáy vào vài ý sau đây:

Đức tin, đức cậy, khiêm tốn phó thác…

với những cách cầu nguyện sao để  được Chúa nhận lời…

Chuyện kể về đứa con gái của một người đàn bà Ca-na-an…

Nhưng ở đây, chúng tôi muốn chỉ thẳng vào tâm mình, nên chúng tôi phải thú nhận đã có thời gian dài…

Tôi có vẻ như bị quỷ ám khổ sở lắm

Quỷ ám ở đây không hiểu theo nghĩa đen như:tóc dựng đứng, sùi bọt mép, mắt trợn trừng, quần áo hôi hám rách bươm..!!! suốt ngày đi lang thang, nói lảm nhảm hay la hét toáng lên giữa chợ đời…

Mà quỷ ám hiểu theo nghĩa bóng:

Suốt cả năm trời giữ đạo, ngày cuối năm kiểm điểm nội tâm.

Tôi vẫn đi lễ, rước lễ đều đặn, ham đọc sách đạo đức, tĩnh tâm  nhiều nơi..

thỉnh thoảng còn đi theo đoàn từ thiện…

Thế mà tôi vẫn thấy mình sao cứ làng nhàng, nóng chẳng ra nóng, lạnh chẳng ra lạnh. Nguyễn Y Vân – Vẫn y nguyên !!! chẳng tiến bộ chút nào…

Thậm chí có một khoảng thời gian tôi còn cảm thấy mình lùi đi cả trăm bước!!!

Nguội lạnh hơn…Lòng mến Chúa vơi đi khá nhiều..!!!

Chẳng biết cách nào làm cho mình tiến bộ hơn trên con đường sống đạo.

Tôi có vẻ như bị quỷ ám…khổ sở lắm

Không khổ sở sao được… khi mà…

Một đàng tôi rất muốn tiến lên đỉnh trọn lành…

Một đàng tôi cứ như bị lạc trong bát quái trận đồ… chạy loanh quanh cho đời mỏi mệt… để rồi lần nào cũng như đụng phải cửa tử !!!

Đến nỗi tôi đã nhiều lần thét lên giống như Phao-lô:

Tôi thật là một người khốn nạn !

Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? (Rm 7 : 24)

Quả thật, tôi có vẻ như bị quỷ ám…khổ sở lắm

From tamlinhvaodoi gởi

Đức Giêsu cầu nguyện như thế nào

 Đức Giêsu cầu nguyện như thế nào

  Khổng Nhuận

Đức Giêsu cầu nguyện như thế nào?

Mới nghe câu hỏi, các đấng các bậc có lẽ sẽ bĩu môi mà phán rằng:

Thế… mà cũng hỏi!!!

Vậy xin hỏi lại: Đức Giêsu cầu nguyện như thế nào?

Này nhé trong Kinh Thánh kể rất rõ 3 lần… bằng lời rõ ràng:

Lần thứ nhất: Đức Giêsu cầu nguyện công khai trước công chúng:

   Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Mt 11:25 

Lần thứ hai: Lời nguyện Hiến Tế hay Kinh Lạy Cha đại thể

Nói thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện : “Lạy Cha, giờ đã đến ! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha……….(Ga : 17)

Lần thứ ba: Đức Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu:

  Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng : “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” Mt 26:39 

Đó là những lần cầu nguyện lớn tiếng..nhưng còn những lần một mình cầu nguyện thâm trầm khác thì sao???

Được, anh vểnh tai lên mà nghe

Kinh Thánh ghi rõ ràng :

  Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Mt 14:23 

  Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Mc 1:35 

  Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Lc 6:12 

Theo ngài, ba lần một mình cầu nguyện âm thầm này, Thầy Giêsu nói gì vậy??

Chà, quả thật là bí hiểm..Ai mà biết được Ngài cầu nguyện điều gì !!!

 Đúng là bí hiểm thật. cách đây hơn 30 năm, trong lúc mò mẫm tìm chân lý, trong lúc miệt mài tìm hiểu Thầy Giêsu, tôi cũng đã từng thắc mắc:

 Tại sao không một ông môn đệ nào hỏi thử xem Thầy lên núi một mình cầu nguyện như thế nào??

Thì ra lúc ấy các ông còn ngu muội – nói theo ngôn ngữ của Mac-cô – chỉ biết lẽo đẽo theo Thầy, chẳng bao giờ biết đặt vấn đề Thầy mình cầu nguyện ra sao – trừ những vấn đề tương đối dễ như xin Thầy cắt nghĩa những dụ ngôn…

Có một điều rất lạ: Lẽ ra với tư cách là Thiên Chúa, Đức Giêsu phải luôn chìm đắm trong Cha.. với một độ sâu thăm thẳm…

Nhưng không luôn luôn như vậy, vì mang thân xác mỏng dòn, Đức Giêsu vẫn trải qua những giây phút xao lãng, đặc biệt là nhưng giây phút yếu lòng. Cụ thể nhất đó là lời nguyện trên núi cây dầu:

“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này.

Nhưng ngay lúc đó như chợt thức tỉnh, Đức Giêsu nguyện tiếp ngay:

Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.

Nhờ điều này, tôi mới hiểu rằng khi Đức Giêsu một mình lên núi cầu nguyện.

Chắc chắn Ngài chẳng lải nhải đọc Kinh.

Chắc chắn Ngài chẳng ngêu ngao hát Thánh Vịnh

Chắc chắn Ngài chẳng đọc đi đọc lạimột đoạn Kinh Thánh nào đó

Chắc chắn Ngài chẳng xin bất cứ một ơn gì cho Ngài..

Vậy thì Ngài làm gì???

Ngài chỉ làm mỗi một việc.

Đó là: để lòng mình chìm đắm vào trong Chúa Cha.

Và trong những giây phút ngọc ngà này,

Đức Giêsu sống nên một trong Cha trọn vẹn nhất

Từ nguồn sống Thần Linh đó, Đức Giêsu rao giảng, chữa bệnh, đặc biệt là chia sẻ rất thân tình với các môn đệ về mối tương quan thân mật này giữa Ngài và Chúa Cha, giữa Ngài và các môn đệ.

Có rất nhiều câu Kinh Thánh nói về tương quan thân mật này.

Chúng tôi xin trích một vài câu mà thôi

Tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha:

Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14:10).

Tôi và Chúa Cha là một. (Ga 10:30)

Tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ:

 Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. (Ga 15:4)  

 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (Ga 14:20)

 Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28:20) 

Tóm lại, chúng ta có nhiều cách để cầu nguyện:

Cầu nguyện chung:

–         Đọc kinh chung với nhau.

–         Đọc kinh Thần Vụ với nhau.

–         Hát Thánh vịnh với nhau.

–         Cầu nguyên tự phát.

–         Chầu Thánh Thể chung.

Cầu nguyện riêng:

–         Theo phong cách cổ điển: Ngợi khen, cảm tạ, xin ơn cần thiết…

–         Theo Lectio Divina…Đọc, Suy niệm, Cầu nguyện, Chiêm ngưỡng, Hành động…

–         Viết nhật ký tâm hồn.

–         Một mình chầu Thánh Thể theo mẫu nào đó.

–         Thinh lặng chìm vào trong Ngàibằng cách :

hoặc chỉ yên lặng chiêm ngắmChúa trong nhà tạm;

hoặc chỉ yên lặng chìm vào trong Chúa;

hoặc lắng nghe sự sống của Chúalan tỏa trong mình, thấm vào lòng mình…

đến nỗi nên một trong Ngài.

Đây chính là đỉnh cao của cầu nguyện mà Đức Giêsu đã từng áp dụng khi một mình lên núi để kết hiệp nên một với Chúa Cha…

Tamlinhvaođoi gởi

THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI

GM GB. Bùi Tuần

Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.  Lên Trời là lên thiên đàng.  Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan.  Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời. 

Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được.  Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ.  Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ:  Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).  Thánh ý Chúa về ta là thế nào?  Tôi thiết nghĩ:  Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay.  Nó phải được áp dụng một cách sống động.   Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình.  Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn.  Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.

Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.

Làm chứng cho Chúa

 Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8).  Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế.  Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại.  Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).

Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây.  Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt.  Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp.  Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.

Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người.  Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta.  Tôi có kinh nghiệm như vậy.  Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng.  Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần

 Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).

Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần.  Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.

Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện.  Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã xi măng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.  Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm.  Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.  Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục.  Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.

Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.

Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần.  Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.

Nhờ Mẹ Maria cầu bầu

 Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26).  Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.  Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó.  Tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm.  Kinh nghiệm làm chứng điều này:  Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.

Nhiều người biết Đức Mẹ trước khi biết Chúa.  Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ trước khi cầu nguyện với Chúa.  Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn.   Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.

Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo.  Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.

Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn.  Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.  Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).  Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.

Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời.  Tôi thấy rõ tôi không đi một mình.  Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ.  Người là Tin Mừng cho mọi người.  Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời.  Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.

GM GB. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

Thế Nào Là Lỗi Đức Bác Ái Kitô Giáo?

Thế Nào Là Lỗi Đức Bác Ái Kitô Giáo?

  • Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, viết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13:13).

Sở dĩ ngài nhấn mạnh về Đức ái như vậy, vì căn cứ vào lời Giêsu đã truyền cho các môn đệ và mọi người chúng ta phải tuân giữ và thực hành hai giới răn quan trong nhất là mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” và “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12:30-31).

Thật vậy, yêu người khác như yêu chính mình, đó là đức ái Công giáo. Đó là đức mến mà Thánh Phaolô đề cao hơn cả đức tin và đức cậy. Điều này thật chí lý vì nếu chúng ta tin có Chúa, yêu mến Chúa và hy vọng có ngày được gặp Chúa nhãn tiền thì chúng ta phải thể hiện niềm tin và cậy trông đó bằng đức ái nồng nàn. Nói khác đi, đức ái là thước đo đức tin và đức cậy. Nhưng làm thế nào để chứng tỏ chúng ta thực sự tin và yêu mến Chúa?

Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Jn 14:21).

“Có và giữ” nghĩa là biết những giới răn của Chúa và thực hành những giới luật đó để minh chứng niềm tin và lòng mến Chúa thực sự.

Như vậy, thực hành tốt hai điều răn quan trọng nhất của Chúa về yêu mến Người và yêu tha nhân là cách biểu lộ hùng hồn nhất về niềm tin và yêu mến Chúa thực sự.

Trong giới hạn bài này, tôi xin được trình bày đại cương về giới luật yêu mến tha nhân như yêu chính mình và những lỗi phạm đến điều răn quan trọng này.

Yêu mến người khác như yêu chính mình trước hết có nghĩa là mình ước muốn những gì tốt đẹp, hữu ích cho mình thì mình cũng phải mong muốn và làm những việc ấy cho người khác. Mình muốn được cơm no áo ấm, có những phương tiện vất chất tối thiểu cần thiết để sống xứng đáng cương vị làm người thì cũng phải mong muốn và giúp người khác có được những nhu cầu cần thiết đó. Mình muốn danh dự, tiếng tốt cho mình thì cũng có bổn phận phải tôn trong danh dự và tiếng tốt của người khác như vậy. Nói khác đi, nếu mình không muốn bị hiểu lầm bị vu cáo những điều xấu thì cũng không bao giờ được phép gây ngộ nhận cho ai hoặc vô tình hay cố y bêu xấu ai vì bất cứ lý do gì. Sau hết, mình muốn được thăng tiến về mặt trí thức và siêu nhiên, thì cũng phải quan tâm đúng mức đến lợi ích tinh thần và thiêng liêng của người khác. Có như vậy mới thực sự là yêu người như Chúa dạy.

Nói tóm lại, dùng thước bác ái để đo mình thế nào thì cũng phải dùng chính thước đó mà áp dụng cho người khác như vậy. Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người đã không sống bác ái hoặc tệ hơn nữa là đã lỗi phạm nhân đức này cách nặng nề.

Cái tội lớn nhất của con người ngày nay ở khắp mọi nơi trên thế giới là tội dửng dưng (indifference) trước sự đau khổ của người khác. Đau khổ về thể lý như đói nghèo, tù đày, bị đánh đập, hành hạ thân xác… Đau khổ về tinh thần như bị khinh chê, kỳ thị, lăng mạ, sỉ nhục, bị bêu xấu trong công luận.Gây cho người khác những đau khổ này hoặc dửng dưng khi thấy người khác phải chịu những đau khổ đó đều lỗi phạm đức ái mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tuân giữ để được vào Nước Trời, là Vương Quốc của công bình, thánh thiện, và yêu thương. Có người đã nại lý do muốn sửa lỗi của anh chị em để giúp họ cải tiến. Thiện chí này rất tốt và phù hợp với Phúc Âm nhưng phải thi hành đúng với tinh thần mà Chúa Giêsu đã dạy trong Phúc Âm Thánh Matthêu như sau:

Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.

Nếu nó chịu nghe anh,thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào hai hoặc ba chứng nhân.Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18:15- ).

Như vậy, chỉ vì động cơ bác ái thúc đầy mà ta muốn sửa lỗi người khác để giúp họ trở nên tốt hơn, chứ không vì một lý do nào khác.

Nghĩa là, phải đoan chắc rằng vì bác ái của Phúc Âm, vì thiện chí muốn giúp cho anh chị em mình nên hoàn thiện mà phải khôn ngoan sửa lỗi cho người khác để họ biết sống đẹp lòng Chúa.

Việc này hoàn toàn khác với mọi ý đồ muốn bêu xấu ai vì lầm lỗi nào đó. Người Việt Nam hay mắc một tội thông thường là tội “nói hành nói tỏi người khác”. Chuyện gì không hay không tốt về người khác thường được loan truyền mau lẹ trong cộng đồng, giữa những người quen biết nhau. Chi tiết của câu chuyện được rỉ tai cứ gia tăng thêm từ người này sang người khác. Cuối cùng chỉ có nạn nhận chịu mọi thiệt thòi, tai tiếng bất công. Như thế, loan truyền tin cho người khác biết chuyện không tốt của ai mà hậu quả làm mất danh dự, tiếng tốt của người ấy là chắc chắn lỗi đức bác ái Công giáo.

Lại nữa, công khai bêu xấu ai, hoặc lợi dụng truyền thông, báo chí để cố ý diễn dịch sai ý kiến của người khác hầu dành thắng lợi cho phe nhóm của mình cũng là lỗi đức ái Kitô Giáo. Nghĩa là, Không phải trách nhiệm của mình, nhưng chỉ vì muốn bêu xấu ai đó để thủ lợi cho phe nhóm mình nên đã tìm mọi cách để loan tin cho người khác biết chuyện kín hay xuyên tạc lời nói hoặc tư tưởng của người thứ ba là phạm tội cả về mặt pháp lý lẫn đạo đức Kitô Giáo. Tuyệt đối không có cơ sở luân lý, Kinh Thánh hay tín lý nào cho hành vi bêu xấu làm nhục người khác ở trong và ngoài Giáo Hội. Không ai có quyền tự dành cho mình trách nhiệm tố cáo để bôi nhọ người khác trước công luận xã hội dù núp dưới với bất cứ danh nghĩa nào. Phải tôn trọng danh dự, đời tư, tính mạng và tài sản của người khác như chính của mình. Đây là giới luật bác ái và công lý đòi buộc mọi công dân và giáo dân phải tuân giữ khi sống trong xã hội và Giáo Hội.

Tóm lại, bác ái không chỉ giới hạn trong việc cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, kẻ rách rưới áo quần. Hơn thế nữa, Bác ái đòi hỏi phải yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình, vì mọi người đều là hình ảnh của Chúa và là anh chị em với nhau.

Vậy nếu không yêu thương, tôn trọng được người anh em mà chúng ta trông thấy, gặp gỡ thường ngày trong cuộc sống thì làm sao chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng chúng ta không nhìn thấy được trong cuộc sống ở đời này?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Anh chị Thụ Mai gởi

“Chiều nội trú bâng khuâng”

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 19 thường niên năm A 13/8/2017

“Chiều nội trú bâng khuâng”
như đôi mắt ai ngày nào tao ngộ
Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai vời vợi tha thiết.”

(Nguyễn Trung Cang/Hoài Mỹ – Bâng khuâng chiều nội trú)

(Mt 19: 12)

Trần Ngọc Mười Hai

Phải nói thẳng ra đây rằng, bần đạo bầy tôi đây cũng từng là sinh viên trường nội trú rất nhiều năm, thế nhưng có năm nào lại thấy bâng khuâng hoặc bâng quơ cái nỗi niềm nào đâu chứ?

Và, cũng phải nói thẳng/nói thật ra rằng: tuy bần đạo bầy tôi đây thuộc loại “văn dzốt vũ dzát” không có tâm hồn thi-tứ nhưng đôi lúc cũng thấy nhiều yêu thương qua ánh mắt êm đềm, như ca-từ rộn ràng ở dưới:.

“Ánh mắt thật gần mà cũng thật xa
Ôi yêu thương quá ánh mắt êm đềm
Mong tình yêu cho hồn trở lớn khôn thêm
Là một thoáng mây bay trong đôi mắt ai một ngày nắng đẹp
Là một thoáng giăng mây trong đôi mắt ai một ngày u ám
Ánh mắt mơ hồ phủ kín hồn tôi
Nghe sao chới với có thế quên người
Mưa chiều nay cho hồn tôi luống bâng khuâng
Mưa đầu mùa hạt nhỏ long lanh
Mưa quấn quít giọt dài giọt vắn
Mưa hỡi mưa ơi có bao giờ nhớ nắng
Sao ta buồn lại nhớ thương nhau
Mưa tình đầu nghe rất mong manh
Mưa tí tách thì thầm trên ngói
Em có nghe mưa tưởng chăng lời anh nói
Rất nồng nàn ngọt tiếng: YÊU EM”.

(Nguyễn Trung Cang/Hoài Mỹ – bđd)

Cứ hát hoài và hát mãi những câu như “Rất nồng-nàn ngọt tiếng “Yêu Em”vào những “chiều nội trú bâng khuâng”  cũng là điều ít thấy những không phải là không có xảy ra. Có những điều cả trong đạo, lẫn ngoài đời dù ít thấy nhưng vẫn xẩy ra rất “hết xẩy” như chuyện bà con mình sẽ bàn ở dưới.

Thế nhưng, trước khi bàn chuyện khô khan, đứng đắn, xin mời bạn/mời ta ta nghe tiếng ca-từ 

“Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai ngày nào tao ngộ
Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai vời vợi tha thiết
Ánh mắt thật gần mà cũng thật xa
Ôi yêu thương quá ánh mắt êm đềm
Mong tình yêu cho hồn trở lớn khôn thêm
Là một thoáng mây bay trong đôi mắt ai một ngày nắng đẹp
Là một thoáng giăng mây trong đôi mắt ai một ngày u ám
Ánh mắt mơ hồ phủ kín hồn tôi
Nghe sao chới với có thế quên người
Mưa chiều nay cho hồn tôi luống bâng khuâng.”

(Nguyễn Trung Cang/Hoài Mỹ – bđd)

Và, hôm nay đây, lại xin mạn phép quí bạn đọc để bạn và tôi ta lại bàn thêm về những chuyện đã từng bàn và tán, nhưng chưa hết, là chuyện các “mục tử rất linh” là linh-mục và hôn-nhân, như sau:

“Mới đây, trong khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bày tỏ ý-kiến của ngài về vấn đề các linh mục có gia đình được đưa lên làm đầu đề các bài viết phổ biến rộng khắp trên thế giới, thì câu đáp trả của ngài rõ ràng là không đồng giọng với lối suy-nghĩ của các vị tiền-nhiệm.

 Trong cuộc phỏng vấn với nhật-báo “Die Zeit” ở Đức được đăng tải vào đầu tháng Ba năm 2017, Đức Phanxicô được hỏi là: nếu các ứng viên linh mục lại phải lòng đi yêu và lấy người mình yêu làm vợ như yếu tố giải quyết ơn kêu gọi làm linh mục đang giảm dần, thì sao?

 Ngài cũng được hỏi là: nếu các vị gọi là “viri probati” (tức nam-nhân đạo đức)được phép trở thành linh mục, thì sao? Đức Phanxicô hôm ấy trả lời rằng: “Khi ấy, ta phải nghiên-cứu xem chuyện “viri probati” có thể thành hiện thực được hay không. Sau đó, ta cũng cần định-vị xem các vị ấy có thể lãnh-nhận công-tác nào cho xứng, như thể ở các cộng đoàn miền sâu miền xa chẳng hạn.

 Diễn tả tâm tình quyết nghiên-cứu vấn-đề cho phép những người đã có gia đình được phép trở-thành linh-mục cũng đã là một đáp trả khá đột biến cho đề tài từng được bàn cãi suốt hai Thượng Hội Đồng Giám Mục do Đức Bênêđíchtô 16 lẫn Đức Gioan Phaolô đệ Nhị góp ý rồi.

 Trong kỳ họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục vào năm 2005 về đề tài Tiệc Thánh, khi ấy có bàn đến chuyện phong chức cho các nam-nhân vốn có đặc trưng về đạo đức/chức năng theo cách Giáo hội có thể cung cấp linh mục cho các khu vực mà người Công giáo bị hạn chế tham-dự thánh lễ và các Bí tích vì đường xá xa xôi hiểm trở, chẳng hạn.

 Đức Bênêđíchtô 16 có lần nói rằng: “Sống bậc linh-mục độc-thân là chuyện khó hiểu ngày hôm nay, bởi vì sự việc lập gia đình và luật buộc phải sinh con đẻ cái lâu nay thay đổi rất rõ.” Đức Giáo Hoàng giải thích tiếp: “Từ lâu, việc lập gia đình là phải sinh con từng được coi như chuyện con người trở thành bất tử ngang qua sự việc có con cháu nối dõi tông đường, mà thôi.

 Việc từ bỏ/dứt-đoạn hôn nhân và gia đình vì thế được người đời hiểu theo nghĩa này: tôi từ bỏ những gì mà người đời thường nói, không phải chỉ là chuyện bình thường nhưng còn là việc quan trọng nhất. Luật độc-thân là kỷ-luật ở Giáo-hội, nhưng cội rễ của nó được tìm thấy trong Phúc Âm khi Đức Giêsu nói với các đồ đệ của Ngài về khả năng sống đời độc-thân là vì Vương Quốc Nước Trời.

 Phúc Âm thánh Mátthêu đoạn 19 câu 12 từng quả quyết:

 “Quả vậy, có những người không kết hôn

vì từ khi lọt lòng mẹ,

họ đã không có khả năng;

có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;

lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời.

Ai hiểu được thì hiểu”…     

Về phần Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ngài cũng trả lời cho câu hỏi có nên cho phép các người trẻ tuổi suy nghĩ về đời linh mục được phép lấy vợ như một “động cơ” đi theo cùng một giòng tư tưởng như thế. Trả lời cho phóng viên báo Die Zeit, ngài có nói: Tình nguyện sống đời độc-thân, vẫn được bàn luận theo bối-cảnh này, đặc biệt là ở nơi nào có vấn đề thiếu linh-mục. Tuy nhiên, sống độc-thân tự-nguyện không là giải pháp tìm đến…

 Trong sách ngài viết bằng tiếng Tây Ban Nha vào năm 2010 khi còn là Hồng-y Jorge Mario Bergoglio, Đức Phanxicô công-nhận rằng ngài ủng hộ khuynh-hướng duy-trì đời linh-mục độc thân vì “đó là vấn đề kỷ-luật, chứ không phải niềm tin.”

 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị cũng từng tỏ bày hệt như thế. Trong cuộc hội-kiến tổng-thể ngày 17 tháng 7 năm 1993, ngài có nói: trong khi bậc độc-thân “không thuộc bản-chất của đời sống linh-mục”, chính Đức Giêsu đã coi đây là lý-tưởng của sự sống.

 Cũng hệt thế, hồi còn là Hồng y Ratzinger, Đức Bênêđíchtô từng bảo rằng: luật buộc sống độc-thân “không là tín-điều”, mà chỉ là “hình-thức sống” có dính dự đến niềm tin của các linh mục và không là lĩnh vực đặt trên chính bản chất của các vị ấy.

 Theo tôi, thì: sở dĩ chuyện này kích động con người hôm nay tìm cách chống lại đời sống độc thân, là vì họ thấy nhiều linh mục trong lòng không thực sự đồng ý thuận với nó và có thể họ sống đời độc thân một cách giả hình, tồi tệ, không hoàn toàn đúng nghĩa của nó, hoặc chỉ sống độc thân theo cách vặn vẹo, khổ sở. Đó là điều mà mọi người đều thấy thế và nói như thế.”

 Khi tất cả đều được nói ra và thực hiện rồi, theo Đức Phanxicô thì việc còn lại ta nên mở ra mà cứu xét khả năng trải rộng cho các linh mục đã lấy vợ chẳng phải là chuyện cách mạng gì hết, nhưng là tiếp tục bàn những chuyện đã kéo dài nhiều thập niên qua và ra như thể nhiều người vẫn còn làm như thế, mãi về sau.” (Xem Junno Arocho Estevez, Priests and marriage: Pope’s response not so new, The Catholic Weekly.com.au 

 Chuyện linh mục Công giáo Đạo mình có nên lập gia đình không, vẫn là chuyện dài không bao giờ cạn ý. Thế nên, nay ta chuyển qua đề-tài khác cũng nổi cộm không ít. Đó, là chuyện liên quan đến phụ-nữ, vai trò của nữ-phụ trong Giáo-hội, tinh-thần phục vụ thấy rõ nơi phụ-nữ, chuyện “tập-thể-tính” trong Giáo-hội, là những chuyện không thể không chú ý tới.

Nhưng trước hết, tưởng cũng nên đưa ra một vài tin tức ở nhà Đạo, như sau:

“Cần tăng cường vai trò tư vấn của phụ nữ tại giáo triều Vatican –

Hồng y Anders Arborelius nói: “Chúng ta đã có một hội đồng hồng y, thế thì tại sao lại không có một hội đồng phụ nữ tư vấn cho Đức Thánh Cha.

 Hồng y Anders Arborelius – hồng y đầu tiên tại Bắc Âu – sau khi được ĐGH Phanxicô tấn phong vào ngày 28 tháng sáu 2017, đã công khai cổ xúy vai trò tư vấn của phụ nữ trong giáo hội cũng như tại Vatican.  

Báo Osservatore Romano bằng tiếng Ý đưa tin là giám mục Stockholm mong muốn phụ nữ cần phải có thêm vai trò trong guồng máy giáo hội. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho cơ sở National Catholic Register (NCR), hồng y Arborelius tuyên bố: “Vai trò của phụ nữ hết sức quan trọng trong xã hội, trong sinh hoạt kinh tế, thế nhưng đôi khi chúng ta khá tụt hậu”. 

Được khuyến khích với những tấm gương như của Mẹ Teresa Thành Calcutta hay của bà Chiara Lubich, hồng y Arborelius nghĩ rằng vai trò tư vấn này cần phải được công khai hóa. Ngài nói : “Chúng ta đã có một hội đồng hồng y, thế thì tại sao lại không có một hội đồng phụ nữ tư vấn cho Đức Thánh Cha”.  

Hồng y Arborelius nhắc lại là vào tháng 8 năm 2016, một ủy ban được ĐGH thành lập để nghiên cứu việc cho phép phụ nữ được làm phó tế. Hồng y nói thêm rằng điều cần thiết là tìm ra những cách thức mà qua đó phụ nữ có thể truyền rao Tin mừng ở những cấp bậc khác nhau – có thể trong vai trò phó tế hay qua những công tác đặc sủng nào đó.” (Nguồn: Zenit, Vũ Nhuận chuyển ngữ)

Thế đó là chuyện về phụ nữ nói chung và chuyện nữ-phụ trong Đạo. Tiếp đến, cũng nên nói thêm về những chuyện hơi tế-nhị như chuyện “tập-thể-tính” trong Giáo-hội từng được các nghị-phụ Công Đồng Vatican 2 bàn nhiều. Trong các đề-tài về “tập-thể-tính” trong Giáo hội được đề cập ở nhiều bài viết. Có bài khá độc-đáo, tỏ bày ý-kiến biệt-lập như bài của đấng bậc vị vọng ở Hoà Lan hôm trước, cũng từng viết:

Trong lúc Công Đồng Triđentinô có qui-chiếu về vấn-đề này, thì tài-liệu Công Đồng Vatican 2 chứng-minh cho thấy Công Đồng không đả-động gì đến công-cuộc thừa tác vốn là thể-chế đích-thực, do Đức Kitô lập. Chính Công Đồng Triđentinô từng sử-dụng thành-ngữ “sự việc do thần-thiêng sắp xếp”, hay nói khác đi, thì: các vị đã tiến-hoá theo cung-cách lịch-sử, do hành-xử của Thiên-Chúa mà ra.

 Công Đồng Triđentinô đã chỉnh-sửa thành-ngữ “do thể-chế thần-thiêng mà có”, và chỉ thích chọn cụm-từ “do bậc thần-thánh sắp xếp”. Trong khi đó, Công Đồng Vatican 2 lại chọn thành-ngữ thứ ba, là: “ab antique”, tức: có tự thời xưa/cũ, là bởi vì hệ-cấp Giáo-hội phát-âm rõ-ràng như thế, cốt ăn khớp với luật-lệ ngoài đời mang tính xã-hội-học, mà thôi.

 Không còn nghi-ngờ gì, xem như thế: đã có nối-kết với Đức Kitô lịch-sử, rồi. Nhà chú-giải Tin Mừng nổi tiếng là ông Descamps đã biện-bạch rằng: khái-niệm về Nhóm Mười Hai đã nối kết với Đức Kitô từ thời trước. Giáo-hội của ta là Israel mới. Thành ra, trong Tập-đoàn Mười Hai vị đây, đã thấy thừa-tác-vụ của ông Phêrô trong nhóm. Và, sự-thể xảy ra ở Tân-Ước, cốt ý bảo rằng: thủ-lãnh Giáo-hội của ta là vị Trưởng Tràng của Nhóm này.

 Nhưng, làm sao thừa-tác-vụ của ông Phêrô lại trở nên hiện-thực? Phải chăng, đấy là một loại Tam-đầu-chế, như đã xảy ra thời sau này? Hoặc, Nhóm của ông là một tập-đoàn? Hoặc, Thượng Hội-đồng Giám mục chăng? Đấy, chính là vấn-đề lịch-sử, dễ đổi thay.

 Công Đồng Vatican 2 nói nhiều về “tập-thể-tính” của Tập-đoàn các đấng-bậc, như: Ông Phêrô và Mười Một vị còn lại đã cùng nhau quản-cai Giáo-hội, vào thời đó. Hệt như tác-giả Botte từng xác-chứng, “tập-thể-tính” là khái-niệm thuộc thời các Giáo-phụ. Tỉ như, văn-bản mang tên là “Nota esplicativa previa” của Vatican 2 đã tìm cách làm giảm-thiểu thẩm-quyền “tập-thể-tính” của các đấng bậc, khi quyết rằng: Đức Giáo Hoàng cũng có thể hành-xử mà không cần đến ý-kiến của tập-đoàn Hồng-y, Giám-mục.

 Thời quân-chủ tuyệt-đối, mọi người đều am-hiểu chuyện này. Nhưng hôm nay, thời dân-chủ/đa-nguyên này, ta không thể làm như thế được. Quyền-lực rất ư là cần-thiết, nhưng ta không thể chấp-nhận chủ-nghĩa độc-đoán, được. Ta có thể thực-thi quyền-bính theo cách của dân-chủ/nghị-sự, nhưng không được phép chống lại kẻ tin. Ta cũng nên nghe ý-kiến của dân đen mọi người, ở dưới trướng.           

 Cả khi Đức Kitô thực sự không trực-tiếp cắt đặt Giáo-hội cách nào đi nữa, bởi Ngài tin rằng tận-thế đã gần kề, nên khi ấy Ngài không tin vào chuỗi dài lịch-sử xảy ra đúng thời/đúng lúc, thật chính-xác. Thật ra thì, sau khi Ngài quá vãng, người người mới tuyên-xưng ý-nghĩa tổng-thể và dứt-khoát của thông-điệp và cách sống của Đức Giêsu như thế thôi.  

 Loại hình-ảnh mà Giáo-hội tiên-khởi có về chính mình ngay từ đầu, là có ý bảo: làm dân con của Chúa vào thời cuối, khi mọi người ở Do-thái cuối cùng rồi cũng đoàn-kết/hiệp-nhất cùng một niềm tin vào Đức Giêsu và vào tín-thư của Tin Mừng.

 Thành ra, Đức Giêsu đơn-giản là Ngài để lại một cao-trào cộng-đoàn kẻ tin vốn biết mình là dân con của Chúa, tức: nếu có tập-họp theo tính cánh-chung, trước nhất là do Thiên-Chúa của Israel lập ra; và từ đó, mới lan sang hết mọi người.

 Nói cách khác, Giáo-hội là cao-trào giải-thoát mang tính cánh-chung, có mục-tiêu cưu-mang tất cả mọi người, nam cũng như nữ, đưa họ vào với hiệp-thông duy-nhất, trong hài-hoà/giản-đơn, có sự bình-an ở lại với họ, chen lẫn mọi người, một thứ an-bình/hài-hoà được tỏ bày cả với môi-trường sinh-thái, nữa.

 Thế nên, Giáo-hội-luận là môn-học xuất tự tầm nhìn cánh-chung hoặc từ thông-điệp cánh-chung của Đức Giêsu, mà ra.

 Toàn-bộ thể-chế lịch-sử, là thừa-tác-vụ cốt bảo-quản sự tự-do con cái Chúa. Hệ-cấp Giáo-hội, chỉ để phục-vụ dân con Chúa, mà thôi. Hệ-cấp Giáo-hội gồm các Giám-mục, linh-mục và phó-tế có nhiệm-vụ thấy được rằng thông-điệp Đức Giêsu ban truyền, vẫn duy-trì tính vẹn-toàn của Tập-đoàn Giáo-hội, nhưng tuyệt nhiên không gây hại cho toàn-thể tín-hữu của Ngài.

 Ta cần tôn-trọng luật-lệ của Giáo-hội, tức: luật Hội-thánh, nhưng khi có ai đó chứng-tỏ rằng tiêu-chuẩn luật-lệ đây không được kẻ tin chấp-nhận, vì họ bị coi là những kẻ vô-tâm/vô tính, thì khi đó luật-lệ phải đổi thay. Ngược lại, nếu họ quyết sống vì sự tốt lành của kẻ tin, thì họ cũng sẽ được chấp-nhận, thôi.

 Cấu-trúc của thể-chế Giáo-hội đang làm mất đi tính thần-bí/kín-mật, cả khi thể-chế lịch-sử là cần thiết, có như thế mới mong duy-trì được sự tự-do của Giáo-hội, tự-do bên trong Giáo-hội. Và, khi Giáo-hội tự nguyện phục-vụ người khác, thì Giáo-hội rất đáng tin-cậy và rất được hoan-nghênh, thật thiện-cảm…” (X. Lm Edward Schillebeeckx, Công cuộc thừa tác trong Giáo hội, Thần-học-gia toại-nguyện Chương 8, nxb Hồng Đức 2017)           

Kể chuyện “Linh mục và hôn nhân”, chuyện “vai trò phụ nữ” và rồi “công-cuộc thừa tác trong Giáo hội”, là những chuyện cần nhiều giấy bút để kể cho hết và cho nhiều, rất khôn nguôi. Thay vào đó, thiết tưởng ta cũng nên để mắt đến các truyện kể đây đó khá súc tích, để nhớ đến người và đến mình, rồi sẽ sống cho mãn nguyện.

Truyện kể hôm nay, mỗi thế này:

“Truyện rằng:

Mới đây, tại thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) có một sự việc gây tranh cãi rất nhiều trong cộng đồng đất nước này, khiến nhiều người cảm thấy vô cùng bất bình. Một người phụ nữ ăn mặc sang trọng như một quý bà đã ngang nhiên xúc phạm một người ăn xin nghèo khổ bằng một trò đùa vô văn hóa.

 Khi người ăn xin nghèo lại gần xin bà ta chút tiền lẻ, bà ta ngay lập tức thách thức. Người phụ nữ này đưa ra yêu cầu bắt người ăn xin gọi chú chó cưng trên tay bà ta bằng cha 10 lần thì bà ta sẽ cho anh ta 100 đồng (tương đương với hơn 300 nghìn). Người dân xung quanh tỏ ra vô cùng bất bình với yêu cầu vô nhân tính và đầy sự xúc phạm con người của quý bà sang trọng này, nhưng không ai dám lên tiếng mà chỉ xôn xao bàn tán.

 Nhưng ngoài dự đoán, người ăn xin liền lập tức tạo dáng giống một con chó và liên tục gọi “cha” đúng 10 lần. Không còn cách nào khác, quý bà bèn phải rút tiền đưa cho người ăn xin trong sự tức tối, hậm hực. Có ai ngờ, vừa cầm những đồng tiền này, người ăn xin bèn cúi lạy người đàn bà này và liên tục nói: “cảm ơn mẹ! Cảm ơn mẹ”.

 Mọi người xung quanh cảm thấy vô cùng hả dạ, thích thú với sự thông minh của người ăn xin này. Còn về phía người đàn bà sang trọng vì quá bẽ mặt ngay lập tức rời đi. Việc cố tình hạ thấp người khác để nâng mình lên của quý bà sang trọng đã bị người đàn ông ăn xin trừng trị bằng cách “gậy ông đập lưng ông”.

 Truyện kể ở đây, hôm nay, không phải để minh-hoạ cho vấn đề bạn và tôi, ta đang đặt ra cho mình và cho người, rất nhiêu khê, lề mề kéo dài suốt. Nhưng chỉ để chứng tỏ một điều rằng: trong đời người, có rất nhiều nhuyện cứ thế kéo dài mãi, khôn nguôi. Bạn và tôi, ta gọi đó là chuyện dài ở huyện như chuyện linh mục có vợ hoặc phụ nữ làm cha, cũng ta bà rất nhiều thứ chẳng thứ nào ra ngô ra khoai, để chấm dứt.

Nay, để tạm thời kết thúc câu chuyện còn lở dở, nay mời bạn mời tôi ta cứ hát lên những ca từ “bâng khuâng” rất “chiều nội trú” ở trên mà rằng:

“Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai ngày nào tao ngộ
Chiều nội trú bâng khuâng
như đôi mắt ai vời vợi tha thiết
Ánh mắt thật gần mà cũng thật xa
Ôi yêu thương quá ánh mắt êm đềm
Mong tình yêu cho hồn trở lớn khôn thêm
Là một thoáng mây bay trong đôi mắt ai một ngày nắng đẹp
Là một thoáng giăng mây trong đôi mắt ai một ngày u ám
Ánh mắt mơ hồ phủ kín hồn tôi
Nghe sao chới với có thế quên người
Mưa chiều nay cho hồn tôi luống bâng khuâng.”

(Nguyễn Trung Cang/Hoài Mỹ – bđd)

  Trần Ngọc Mười Hai

Thật tình mình chẳng dám nói  

mình có “bâng khuâng” hay không

suốt những tháng ngày có các “chiều nội trú”?

Nhưng vẫn tự cho rằng:

Đấy chỉ là những chiều

Có gió giăng mây, rất trú nội

Của các linh mục khi nghĩ

Về đời linh mục độc thân

Cũng bâng khuâng không ít?…  

KHI BẠN CÔ ĐƠN, CHÚA Ở VỚI BẠN

KHI BẠN CÔ ĐƠN, CHÚA Ở VỚI BẠN

 Rick Warren

“Khi ta binh vực mình lần thứ nhứt, chẳng có ai giúp đỡ; hết thảy đều lìa bỏ ta. Nguyền xin điều đó đừng đổ tội về họ! Nhưng Chúa đã giúp đỡ ta và thêm sức cho ta, hầu cho tin lành bởi ta được rao truyền đầy dẫy, để hết thảy dân ngoại đều nghe; ta lại đã được cứu khỏi hàm sư tử.” (II Ti-mô-thê 4:16-17).

Khi bạn cô đơn, Chúa ở đâu? Chúa vẫn ở nơi Ngài luôn ở: ngay bên cạnh bạn. Chúa đang ở cùng bạn ngay cả khi bạn không cảm nhận được. Kinh Thánh lập đi lập lại rằng nếu bạn có quan hệ Chua, thì Đức Chúa Trời luôn luôn ở cùng bạn. Chúa phán, “Ta ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:20). Chúa luôn ở cùng bạn. Bạn không bao giờ thật sự cô đơn.

Vài năm trước đây, Kay và tôi đi máy bay qua Hồng Kông để tổ chức một buổi huấn luyện cho các giáo sĩ của chúng tôi. Khoảng giữa chừng chuyến bay 17 tiếng đồng hồ, chúng tôi đi qua một cơn bão khủng khiếp. Chúng tôi bị ném lên nhồi xuống. Máy bay bị nghiêng đi, và mọi người bắt đầu lo lắng. Họ rõ ràng bị hoàn cảnh làm cho bối rối. Một phi hành đoàn hỏi qua hệ thống phóng thanh, “Có mục sư nào trên máy bay này không?” Tôi giơ tay lên. Họ đến với tôi và nói, “Mọi người đều khá lo ngại vì chuyến bay. Ông có thể làm một điều thuộc linh gì không?” Tôi bèn lấy tiềng dâng!

Không, không thật như vậy đâu. Nhưng những người trong chuyến bay đó cần biết rằng Chúa đang ở cùng chúng ta. Là tín đồ, đó là một lời hứa chúng ta có thể bám víu vào trong những lúc sợ hãi và cô đơn. Điều đó không những là một niềm an ủi, nó còn cho chúng ta cơ hội để biết Chúa thêm.

Cô đơn là lúc để biết Chúa càng hơn. Trong mùa cô đơn của mình, bạn cần nhận biết sự hiện diện của Chúa.

Amy Grant đã thường hát một bài có lời như thế này, “Tôi yêu thích một ngày cô đơn, nó đuổi con đến với Ngài.” Cầu nguyện là một thuốc giải rất công hiệu cho cô đơn. Chúa có 24 giờ phục vụ thường trực. Bạn có thể nói chuyện với Chúa bất cứ lúc nào, ở đâu, nơi nào, và Ngài hiểu được cảm xúc của bạn khi bạn nói, “Chúa ơi, con cô đơn, nó đau lắm! Tim con đang nứt ra. Con khổ sở. Con thấy trống vắng. Chúa ơi, giúp con.” Bạn có thể nói chuyện với Chúa bất cứ lúc nào.

Đa-vít nói trong Thi-Thiên, “Con có thể bay đi đâu xa khỏi sự hiện diện của Chúa?” Không có nơi nào. Bạn sẽ không bao giờ ở một nơi mà Chúa không có ở đó. Nếu bạn đã tin nhận Chúa, Ngài ở với bạn trong lòng bạn. Hãy chọn tập trung lại vào điều đó khi bạn cảm thấy cô đơn.

Suy Gẫm/Thảo Luận:

– Bạn đã kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa trong quá khứ như thế nào? Điều đó ảnh hưởng trên bạn như thế nào?

– Làm thế nào để bạn biết Chúa nhiều hơn?

– Bạn phải tin điều gì để sự cầu nguyện có tác dụng cho sự cô đơn của bạn?

 Rick Warren

CON TƯỞNG

 CON TƯỞNG

 Lm. Gioan B. Phan Kế Sự

Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A.  Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên, thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người.  “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống toàn những hoa hồng.”  Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn, lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên.  Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòng chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ.  Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hoảng sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ.  Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hoảng hốt bảo nhau “Ma đấy!”  Mất hết niềm tin!

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người.  Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin.  Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối.  Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu.  Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người!  Mất hết niềm tin!

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân:  Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy.  Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn.”  Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!

Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ.  Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hoảng hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng.  Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.

“Sao con lại hoài nghi.”  Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài.  Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta.  Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ.”

“Sao con lại hoài nghi.”  Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa.  Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.

“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất.”  Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách.  Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.

 Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy….”  Amen!

Lm. Gioan B. Phan Kế Sự

From Langthangchieutim

Mặc Dầu Mọi Nỗi Khó Khăn Hiện Tại, Chúng Con Tin Chắc Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng!

Mặc Dầu Mọi Nỗi Khó Khăn Hiện Tại, Chúng Con Tin Chắc Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng!

  • Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Câu chuyện do Linh Mục Thừa Sai kể lại.

Tôi giảng Tuần Đại Phúc nơi một xứ đạo. Nơi đây có một bệnh nhân bị mất hẳn tiếng nói. Vào cuối Tuần Đại Phúc, một trong các người con của ông xin tôi đến ban bí tích giải tội cho cha mình. Bệnh nhân này từ hơn ba tháng qua bị câm do hậu quả trầm trọng của chứng tắc huyết phổi.

Tôi mau mắn đến nhà bệnh nhân. Bước vào phòng người bệnh tôi nói ngay:

– Ông an tâm. Tôi sẽ đặt câu hỏi. Ông chỉ cần gật đầu ra hiệu Có hay lắc đầu ra hiệu Không.

Trước đó người con đã trình bày cho tôi biết tình trạng sống đạo của thân phụ như thế nào. Nhưng rồi, bất ngờ biết bao khi bệnh nhân bỗng cất tiếng nói cách rõ ràng. Thấy tôi không dấu được nỗi ngạc nhiên, ông liền giải thích cho tôi hiểu:

– Thưa Cha, ngay từ năm lên 10 tuổi, con lấy thói quen đọc mỗi ngày 3 Kinh Kính Mừng vào ban sáng và ban tối. Đến năm 14 tuổi con ngưng mọi việc thực hành đạo, nhưng không bỏ rơi thói quen lành thánh này. Thêm vào đó, con không bỏ qua ngày nào mà không van xin Đức Mẹ MARIA đừng để con chết mà không được xưng tội.

Nói xong, bệnh nhân sốt sắng xưng thú mọi lỗi lầm. Xưng tội xong, ông trở lại tình trạng câm nín như trước. Ông êm ái trút hơi thở cuối cùng lúc nửa đêm cùng ngày hôm đó.

… Câu chuyện thứ hai cũng chứng minh lòng nhân lành bao la của Đức Mẹ MARIA luôn đáp lời con cái nài van trong cơn khốn khổ.

Một người đàn bà nghèo mất chồng từ một năm qua. Người chồng tốt lành đã làm việc khó nhọc, để dành tiền mua được căn nhà nhỏ cùng với miếng đất nhỏ bao quanh căn nhà, từ một người bà con.

Thế nhưng sau khi ông chết, người bà con này tìm cách gây khó dễ để lấy lại căn nhà đã bán. Ông đến hăm dọa bà góa nghèo: “Chị phải trả tiền nhà, nếu không thì phải dọn ra khỏi nhà!” Người đàn bà đáng thương cố gắng tìm cho ra tờ giấy trả tiền nhà nhưng không biết chồng mình đã để ở đâu.

Trong cơn âu lo sầu khổ bà ngước mắt cầu nguyện với trọn lòng tin tưởng nơi Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA:

– Lạy Mẹ Nhân Lành, nếu Mẹ không giúp con tìm ra tờ giấy trả tiền nhà thì trong vòng hai ngày nữa con sẽ trở thành kẻ không nhà không cửa và cũng mất luôn mảnh đất nhỏ bao quanh nhà.

Vừa cầu nguyện bà vừa khóc. Nước mắt chảy xuống tràn trề. Đứa con gái duy nhất buồn bã nhìn mẹ khóc và như muốn nói với hiền mẫu:

– Đức Bà sẽ cứu giúp chúng ta, mẹ à!

Trong bóng tối của căn phòng bỗng xuất hiện một con đom đóm. Con bé tìm cách bắt cho được con đom đóm nhưng nó lại trốn sau cái rương dựng sát vào tường. Con bé nói với mẹ:

– Mẹ à, mẹ giúp con đẩy cái rương này ra, vì con muốn bắt con đom đóm!

Cô bé cứ nài nĩ mãi cho đến khi mẹ bằng lòng giúp. Bà mẹ kéo cái rương cũ ra thì bỗng trông thấy rơi xuống một cuộn giấy. Cuộn giấy được cẩn thận xếp và buộc lại với sợi dây bằng chỉ.

Bà mở ra và đọc. Bà ngạc nhiên biết bao khi khám phá ra đây là tờ giấy trả tiền nhà tiền đất với chữ ký nhận tiền hẳn hoi của người bà con.

Trong cơn vui mừng không kể xiết, bà hôn tờ giấy trả tiền nhà, ôm hôn đứa con gái nhỏ và hớn hở reo lên:

– Ôi lạy Mẹ MARIA, con xin cám ơn Mẹ biết là chừng nào! Mẹ đã ra tay cứu giúp chúng con!

… Kinh dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội

Lạy Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con toàn thể giáo hữu Việt Nam hết lòng tin cậy chạy đến cùng Mẹ.

Mẹ là Mẹ THIÊN CHÚA, là Mẹ chúng con, Mẹ là Nữ Vương Toàn Năng, là Đấng bầu cử cho chúng con trước tòa Chúa. Biết bao nhiêu lần, Mẹ đã cứu vãn Giáo Hội, và các dân tộc trong cơn nguy biến.

Chúng con hết lòng thành kính hiến dâng Giáo Hội và tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Để thực hành mệnh lệnh của Mẹ, và để nhờ Mẹ che chở phù trì, ngày nay và mãi mãi.

Xin Mẹ gìn giữ Giáo Hội Việt Nam. Xin Mẹ soi sáng hàng Giáo Phẩm, dìu dắt và thánh hóa các Linh Mục. Xin Mẹ giúp sức cho toàn thể giáo dân được trung thành giữ luật Chúa, và sốt sắng làm việc tông đồ. Xin Mẹ nâng đỡ và ủi an những anh chị em của chúng con, đang phải khốn khó vì Đạo Chúa.

Xin Mẹ chúc lành cho tổ quốc Việt Nam. Xin Mẹ hướng dẫn các nhà lãnh đạo dân tộc, xin Mẹ đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần tất cả các cơ cấu quốc gia, xin Mẹ cho toàn thể dân Việt biết đoàn kết, để cùng nhau xây dựng lại giang sơn.

Nhất là xin Mẹ cứu chúng con thoát nạn Cộng Sản vô thần, để mọi người được sống trong tự do, hòa bình, ngõ hầu Nước Chúa được mở rộng khắp nơi.

Chúng con nguyện muôn đời ghi nhớ ơn Mẹ, và cùng nhau xây dựng một đền thờ hay một công tác nào khác dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, để lưu truyền cho hậu thế ơn che chở đặc biệt của Mẹ.

Lạy Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con thành khẩn kêu đến Mẹ, vì chúng con biết Mẹ sẽ nhậm lời chúng con. Và mặc dầu mọi nỗi khó khăn hiện tại, chúng con tin chắc Trái Tim Mẹ sẽ thắng. AMEN.

(“La Mia Messa”, 1 Aprile 2013 – 30 Giugno 2013, Anno VII, vol.II, Casa Mariana Editrice, trang 213-214/202-203)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt,

 25/5/2013

Anh chị Thụ & Mai gởi

Câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên người Phi ở tuổi 26 trên con đường phong thánh.

Câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên người Phi ở tuổi 26 trên con đường phong thánh.

(EWTN News/CNA) Richie Fermando là một thày dòng Tên ở tuổi 26, người Phi đã bị chết vào năm 1996 để cứu những học sinh người Cam-bốt thoát khỏi trái lựu đạn ném tay.
Câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên người Phi ở tuổi 26 trên con đường phong thánh
Câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên người Phi ở tuổi 26 trên con đường phong thánh
Hiện nay thày đang trên con đường phong thánh nhờ vào một quy định được ĐGH Phanxicô ban hành vào mùa hè này nhằm tiến hành phong thánh cho tất cả những ai đã “ tự hiến cuộc đời mình vì người khác và kiên trì cho đến chết vì sự dâng hiến đó”

Cha Antoni Moreno, Giám Tỉnh Dòng Tên ở Phi Luật Tân nói với báo Rappler vào ngày 30 tháng Bẩy rằng nhà dòng đã được phép bắt đầu mở hồ sơ phong thánh cho thày Fernando.

Thày Richard (còn gọi là Richie) Fernando thuộc Dòng Tên đã đến Cam-bốt vào năm 1995 trong một tu hội Dòng Tên để phục vụ những người bị khuyết tật do bệnh tật, bom mìn hay những tai nạn khác.

Theo các tu sĩ dòng tại Hội Nghị Châu Á Thái Bình Dương, thày Richie mau chóng được sự tin tưởng quý mến của các học sinh khi thày học tiếng địa phương và dành thời gian lắng nghe những câu chuyện thương tâm.

Một trong các học sinh của thày là một trẻ mồ côi tên là Sarom đã bị bắt đi lính vào năm 16 tuổi và bị tàn phế bởi bom mìn. Ngay cả nhiều người cho rằng thái độ của Sarom gây rắc rối thì thày Richie trong một lá thư gởi cho các bạn của mình vẫn xác định rằng Sarom luôn có chỗ đứng trong trái tim mình.

Vào ngày 17 tháng Mười, 1996, Sarom đến trường học của nhà dòng gặp ban giám hiệu để xin được tiếp tục đi học sau khi em đã hoàn tất chương trình, và lời yêu cầu của em bị từ chối vì ban giám hiệu cho rằng Sarom là người đã gây nhiều rắc rối trong trường.

Tức giận vì bị từ chối, Sarom liền lấy ra một trái lựu đạn để sẵn trong túi xách và tiến đến một lớp học đang có rất nhiều học sinh. Cửa sổ của lớp học đóng kín và học sinh không có lối thoát.

Thày Richie nhanh chân bước đến phía sau Sarom và cố nắm lấy trái lựu đạn mà Sarom toan ném vào lớp học.

Sarom giằng co, “Hãy để kệ em, em không muốn giết thày đâu”. Thế rồi trái lựu đạn bất ngờ rớt xuống phía sau Sarom và thày Richie và nổ tung, giết chết vị tu sĩ dòng Tên, đang nằm đè lên mình Sarom để cứu em và mọi người trong lớp khỏi phải chết.

Totet Banaynal là một tu sĩ dòng Tên nói rằng bốn ngày trước khi chết, Richie đã viết một lá thư cho các bạn và các tu sĩ cùng dòng như sau “Tôi biết trái tim tôi hiện đang ở đâu. Tim tôi đang ở cùng Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dành tất cả cho người nghèo, người bệnh, trẻ mồ côi… Tôi vững tin rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân của ngài là những anh chị em khuyết tật của chúng ta. Và tôi rất vui mừng vì Thiên Chúa đã dùng tôi để bảo đảm với anh chị em của chúng ta là Thiên Chúa yêu thương anh chị em. Tôi tin tưởng rằng đây chính là ơn gọi của tôi.”

Trong nhật ký tĩnh tâm của mình, thày Richie đã viết rằng “Tôi ước rằng khi tôi chết đi, người ta sẽ không nhớ là tôi giỏi giang, mạnh mẽ và tài năng như thế nào, nhưng nhớ đến những việc tôi phục vụ, những lời tôi nói về sự thật, tôi làm chứng cho những điều phải, tôi chân thành trong mọi công việc và hành động, nói một cách khác, tôi đã yêu và bước theo chân Chúa Giêsu.”

Vào năm 1997, cha mẹ của thày Richie đã viết thư cho Ông Hoàng Norodom Sihanouk của Cam-bốt, xin tha thứ cho Sarom. Một lần nữa, Sarom nói anh ta không muốn giết thày Richie và anh ta coi thày như một người bạn.

Phi Luật Tân là một nước đa số theo đạo Công Giáo, nhưng cho đến nay mới chỉ có hai vị tử đạo vào thế kỷ 17 được phong thánh, đó là Thánh Lerenzo Ruiz, tử đạo ở Nagasaki và Thánh Pedro Calungsod, tử đạo ở Guam.

Tuy nhiên rất nhiều hồ sơ phong thánh đã được mở ra trong những năm gần đây.

Ngày 31 tháng Bẩy là ngày lễ kính Thánh I-Nhã, vị sáng lập Dòng Tên, cha Moreno nói rằng thày Richie là một trong số các tu sĩ dòng Tên noi gương Thánh I-Nhã “tự hiến đời mình bằng việc hy sinh phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.”

Trong bản ghi nhớ của Tỉnh Dòng Tên của Phi-Luật Tân, cha Moreno ghi rằng “nhiều biểu lộ khác nhau về lòng tôn kính đối với Richie đang nở rộ và vẫn tiếp tục, không những chỉ ở Phi Luật Tân và Cam-Bốt mà còn ở nhiều nơi khác nữa.”

Một trang mạng xã hội Facebook đã vinh danh ngài được đặt tên là “Các bạn của thày Richie R. Fernando, dòng Tên.”

Bước kế tiếp trong tiến trình phong thánh của thày Richie là tìm hiểu về cuộc đời đạo hạnh của thày qua các bài viết, cuộc nói chuyện, và phỏng vấn những người đã từng biết thày và những sự việc liên quan khác. 

Cha Moreno nói rằng, “Chúng ta cùng cầu nguyện, xin Chúa giúp cho tiến trình phong thánh và nếu ngài muốn, việc ấy sẽ đem lại phần ơn ích cho mọi người.”

Giuse Thẩm Nguyễn

Tầm quan trọng của việc cầu nguyện buổi tối

Tầm quan trọng của việc cầu nguyện buổi tối

TRẦM THIÊN THU

Cầu nguyện trước khi ngủ đêm là điều quan trọng. Nhiều người cầu nguyện liên lỉ, tâm hồn luôn hướng về Chúa dù họ đang làm việc gì. Chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều hơn khi phải quyết định một điều quan trọng.

Việc cầu nguyện trước khi đi ngủ ban đêm có thể làm thay đổi cuộc đời chúng ta. Những người cầu nguyện trước khi đi ngủ ít bị đau nhức, căng thẳng, tức giận, và cảm thấy hạnh phúc hơn. Đây là vài lý do chứng tỏ cầu nguyện trước khi đi ngủ ban đêm là điều cần thiết cho đời sống tâm linh và là khí cụ ích lợi cho cuộc sống hằng ngày.

1. HÃY ƯU TIÊN CẦU NGUYỆN
Cầu nguyện là kết hiệp với Thiên Chúa và là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng để Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Thánh Giacôbê khuyên chúng ta nên cầu xin ơn soi sáng: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1:5). Cầu nguyện trước khi đi ngủ là giữ liên lạc với Thiên Chúa, Ngài sẽ nói khi chúng ta cảm thấy mình không còn gì trên thế gian này nữa.

2. CHÚA GIÊSU MUỐN CHÚNG TA CẦU NGUYỆN
Chúng ta được dạy cầu nguyện cho chính mình và người khác. Chúa Giêsu đã dạy: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6:9-13). Chúng ta thực sự cần điều này làm nền tảng cho đời sống cầu nguyện. Nếu Chúa Giêsu nói rằng chúng ta cần thêm điều này vào  đời sống cầu nguyện là có lý do của Ngài. Đó là linh hồn của chúng ta được nuôi dưỡng.

3. CẦU NGUYỆN GIÚP THỂ LÝ THƯ THÁI
Buổi tối, những người cầu nguyện 20 phút đều cảm thấy rằng họ ít bị nhức đầu. Thật vậy, cầu nguyện có lợi cho cả thể lý chứ không chỉ tinh thần. Khi được thực hành, hệ quả bình tĩnh không tạm thời, mà lâu dài. Cầu nguyện không chỉ giúp chúng ta ít tập trung vào đau nhức, mà còn giúp chúng ta cảm  thấy ít đau nhức. Đây là cách bắt đầu cầu nguyện: “Lạy Chúa, con cảm thấy mệt mỏi vì luôn bị đau nhức. Nó làm cho những điều nhỏ mọn giống như điều lớn lao. Xin giúp con xử lý bệnh tật và tiếp tục tìm kiếm thời gian để nghỉ ngơi và điều trị. Xin cho lúc con thức được thanh thản và khi con ngủ được bình an”.

4. CẦU NGUYỆN LÀM GIẢM LO LẮNG
Cầu nguyện trước khi đi ngủ giúp giảm bớt lo lắng. Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18). Cầu nguyện có thể chữa lành các vết thương tình cảm, giúp chúng ta kiềm chế các ý tưởng nông nổi. Hãy cầu xin và Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi lo âu và căng thẳng. Hãy cầu xin Ngài làm cho tâm trí chúng ta thoải mái và giúp chúng ta tập trung vào tư tưởng và đường lối của Ngài.

5. CẦU NGUYỆN LÀM GIẢM CĂNG THẲNG
Tiến sĩ Patricia Murphy, Trung tâm Y khoa của ĐH Rush, thấy rằng nhờ cầu nguyện mà các bệnh nhân có nhiều phản ứng tích cực với thuốc khi bị trầm cảm. Bà nói: “Theo nghiên cứu của chúng tôi, sự phản ứng tích cực với thuốc thì ít phải xử lý cảm xúc về sự hy vọng theo sau niềm tin về tâm linh”. Các tốt để bắt đầu cầu nguyện buổi tối có thể như thế này: “Lạy Cha, xin ban cho con ơn can đảm, xin hướng dẫn con tìm kiếm hòa bình, sự vui mừng và niềm an ủi”.

6. CẦU NGUYỆN MỞ RA LỐI THOÁT
Vua Đa-vít đã chiến đấu trong những lúc ông đồng hành với Thiên Chúa và ông đã viết về điều này trong các Thánh Vịnh. Ông nói: “Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi vũng lầy nhơ nhớp, đặt chân tôi đứng trên tảng đá, làm cho tôi bước đi vững vàng” (Tv 40:3). Bạn có cảm thấy như đang ở trong vũng lầy trần gian? Nhưng bạn không một mình, và cầu nguyện là phương tiện để đưa bạn ra khỏi đó. Hãy tâm sự với Chúa về mọi nỗi khó khăn của bạn. Cầu nguyện sẽ giúp bạn khỏi bồn chồn, lo lắng. Khi chúng ta cầu nguyện lâu, cơ thể cũng sẽ thay đổi theo và thoải mái hơn. Bác sĩ Herbert Benson, chuyên khoa tim mạch tại Trường Y Harvard giải thích tình trạng này là “sự phản ứng nới lỏng”. Điều xảy ra là nhịp tim chậm lại, huyết áp giảm và chúng ta trở nên bình tĩnh hơn.

7. CẦU NGUYỆN LÀM TĂNG SỨC KHỎE
Theo thời gian, cầu nguyện buổi tối có thể chữa lành cơ thể. Càng ngày càng có nhiều bác sĩ phát hiện rằng đa số các chứng bệnh đều do căng thẳng. Ung nhọt, đau nửa đầu, béo phì, tiểu đường và các vấn đề về bao tử đều do căng thẳng. Báo Huffington Post cho biết: “Dù bạn cầu nguyện cho mình  hoặc cho người khác thì việc cầu nguyện cũng chữa lành một bệnh nào đó hoặc thế giới được bình an, hoặc đơn giản chỉ là ngồi tĩnh lặng mà thôi”. Nhờ cầu nguyện trước khi ngủ mà sức khỏe thể lý của bạn cũng khá hơn nhiều.

8. CẦU NGUYỆN GIÚP NGỦ TỐT HƠN
Nếu ác mộng làm bạn thức giấc, nó có thể ảnh hưởng ngày hôm sau. Cầu nguyện buổi tối có thể giúp chúng ta vượt qua sự cản trở này vào ban đêm, giúp chúng ta đạt được tình trạng thư giãn. Cầu nguyện buổi tối cần thiết cho mọi người ở mọi lứa tuổi, thực sự có thể thay đổi cuộc đời của chúng ta và khả dĩ vượt qua chính mình. Cầu nguyện giúp chuyển biến thể lý, tinh thần và linh hồn để có thể thanh thản và vui sống hơn.

Đây là vài câu danh ngôn về cầu nguyện khả dĩ giúp củng cố đức tin chúng ta:
-“Mỗi ân sủng đến trong linh hồn đều nhờ lời CẦU NGUYỆN” (Thánh nữ Faustina)
-“CẦU NGUYỆN là chìa khóa mở kho tàng của Thiên Chúa” (Thánh Lm Piô Năm Dấu)
– “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta CẦU NGUYỆN” (Bác học André-Marie Ampère)

SOURCE: TRẦM THIÊN THU

 (chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

QUYỀN NĂNG CỦA LỜI CHÚA

QUYỀN NĂNG CỦA LỜI CHÚA

Pha-mát là tên cướp nổi danh tại một vùng ở Ấn Ðộ. Hắn và đồng bọn thường cướp đoạt và tẩu thoát rất nhanh khi đã lấy của hay giết người.

Một ngày nọ Pha-mát vào cướp một ngôi nhà. Sau khi đã lấy của, hắn nhìn lại một lần chót trước khi bước ra. Hắn thấy một cuốn sách nhỏ bìa đen, giấy thật mỏng, hắn nhặt bỏ túi vì cho là để dùng quấn thuốc lá hút rất tốt.

Mỗi buổi tối hắn xé ra một trang giấy cuốn thuốc lá và hút. Một hôm hắn nhận thấy mảnh giấy xé ra có chữ in thật nhỏ. Tò mò, hắn cầm lên đọc trước khi cuốn thuốc lá hút. Hắn đọc mãi thành thói quen. Tối nào cũng đọc trước khi hút thuốc rồi đi ngủ.
Một buổi tối sau khi đọc xong trang sách, hắn bỗng để lại trang sách trong cuốn sách đó và quì gối xin Chúa Giêsu tha tội và cứu hắn như Chúa đã cứu tên cướp khi xưa cùng bị treo bên cạnh Chúa… Sau đó, hắn cảm thấy bình an vô cùng.

Hôm sau hắn ăn mặc tử tế, đến trình diện trạm cảnh sát ở gần nhà hắn. Ai cũng ngạc nhiên. Hắn kể lại từ đầu và vui vẻ chờ tòa xử án, không sợ hãi gì cả. Hắn bị tù mấy năm.

Trong thời gian ở tù, hắn cứ tiếp tục đọc phần còn lại của cuốn sách nhỏ ấy và còn kể lại cho các bạn tù nghe nữa. Dần dần hắn giúp cho nhiều người tù cũng biết đến Chúa Giêsu và tin nhận Ngài.

Hắn đã đọc cuốn sách nào vậy? Ðó chính là cuốn Thánh Kinh Tân Ước. Chỉ có cuốn sách này mới thay đổi được tên cướp ghê gớm như Pha-mát.

Quyền năng của Lời Chúa thật là huyền nhiệm. Vì vậy Thánh Kinh được gọi là Lời Sống.

Sưu Tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi