CẢM TẠ CHÚA VÌ ĐỨC TIN

 CẢM TẠ CHÚA VÌ ĐỨC TIN

  1. Năm nay tôi đã 90 tuổi. 90 năm đời tôi là một chuyến đi tương đối dài. Chuyến đi ấy được đánh dấu bằng nhiều biến cố quan trọng. Những biến cố đó được coi như nhữngbến đợi, mà Chúa đã đến gặp tôi, để sai tôi đi. Chúa sai tôi đi vì Chúa muốn, mặc dầu tôi sợ hãi, xin được rút lui, mà không được.

Do vậy, lễ thụ phong linh mục, nhất là lễ thụ phong Giám mục của tôi đã được tổ chức hết sức đơn giản.

  1. Vâng phục thánh ý Chúa mà dấn thân vào nhiệm vụ đầy gian nan, tôi ý thức mình rất yếu hèn tội lỗi.Nhưng tôi tin vào Đấng đã sai tôi.

Hơn bao giờ hết, những ngày cuối đời, nhìn lại những ơn Chúa đã ban, tôi thấy tôi phải cảm tạ Chúa một cách đặc biệt vì đức tin.

  1. Thực vậy, đức tin đã đem lại cho tôi sự bình an, sức mạnh và hạnh phúc trong suốt hành trình ơn gọi đầy gian khổ.
  2. Chúa đã ban đức tin cho tôi, và chính Chúa dạy tôi sống đức tin ấy.Sống đức tin đó là như thế nào?Hôm nay tôi xin phép mô tả vắn tắt theo kinh nghiệm dựa vào những chỉ dẫn của vài vị thánh.
  3. Theo thánh Augutinh, sống đức tin là đón nhận Chúa.

Trong cuốn Tự Thú, quyển X, đoạn 27, thánh nhân viết:

“Chúa đã gọi con, Chúa đã kêu con, Chúa đã bẻ gẫy cái điếc của con.

“Chúa đã soi sáng, Chúa đã toả sáng và Chúa đã đánh tan sự mù tối của con.

“Chúa đã xức dầu thơm cho con. Con đã hít vào và thao thức nghẹn ngào, con thở về Chúa.

“Con đã nếm và con thấy đói, thấy khát.

“Chúa đã đụng tới con và con được cháy lên vì sự bình an của Chúa”.

Với những lời tự thú trên đây, thánh Augutinh cho thấy ngài tin Chúa là ngài đón Chúa. Ngài đón bằng tai, mắt, mũi, lưỡi và tay. Chúa vào trong ngài. Ngài cảm thấy Chúa là suối nguồn bình an, bởi vì Chúa là tình yêu thương xót.

  1. Khi tôi sống đức tin theo gương thánh Augutinh, tôi thấy cái đẹp, cái thiện, đều phát xuất từ Chúa.Tin Chúa là đón nhận Chúa bằng tất cả con người mình, để rồi cũng bằng tất cả con người của mình, tôi ca tụng Chúa.
  2. Cùng với gương sáng của thánh Augutinh, tôi cũng sống đức tin theo gương sáng củaĐức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Tôi được may mắn ở bên Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần, tại bàn thờ, tại bàn giấy, tại bàn ăn của ngài.

Đâu đâu, tôi cũng nhận thấy thánh nhân luôn sống kết hiệp với Chúa. Đối với ngài, sống đức tin là sống mật thiết với Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,9). Mật thiết “như cành nho gắn với thân cây nho” (x. Ga 15,4).

  1. Thêm vào các gương sáng trên đây, tôi cũng học sống đức tin nơithánh nữ Têrêsa Calcutta.

Thánh nữ dạy tôi sống đức tin là hãy nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo khổ, và hãy tránh kết án bất cứ ai.

  1. Sau cùng, sống đức tin của tôi đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từFatima, nơi Đức Mẹ đã nhắc nhở đếnsự sám hối ăn năn. Sống đức tin hôm nay là hãy khiêm tốn nhận mình là kẻ cần phải ăn năn đền tội,cho mình và cho thế giới đang lâm nguy.
  2. Với mấy nét chính trên đây, tôi đã và đangsống đức tin như một cuộc gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ riêng tư, gặp gỡ thân mật, gặp gỡ thường xuyên.

Sống đức tin như thế một cách mãnh liệt trong suốt cuộc đời, nhất là cuộc đời Giám mục.

Tôi nói sự thật đó, chỉ để cảm tạ Chúa và cũng để chia sẻ trách nhiệm với cộng đoàn, mà tôi gắn bó.

  1. Sống đức tin, nếu phải là như trên đây đã gợi ý, thì lúc này, thiết tưởng chúng ta nên xem xét lại chính mình. Đây là vấn đề quan trọng, để làm chứng cho đức tin trong tình hình phức tạp hôm nay, và nhất là để cứu lấy chính mình.
  2. Nhờ đức tin, Chúa sẽ cứu chúng ta khỏi tội và khỏi lửa hoả ngục. Nhưng đức tin phải là đức tin mà Chúa muốn, chứ không phải đức tin mà mỗi người có quyền tạo dựng nên.

Đức tin là ơn trọng đại quý giá do Chúa ban. Chúa ban đức tin cho những ai khiêm nhường, nghèo khó, bé nhỏ.

Nếu hôm nay, chúng ta coi mình là những người đạo đức, thánh thiện, được quyền đào tạo đức tin với niềm tự đắc tự hào, thì đúng là chính chúng ta đã rơi vào một cuộc khủng hoảng về đức tin.

  1. Khủng hoảng về đức tin xảy ra trong chính những người tự nhận là nhân chứng của đức tin, thì hậu quả sẽ ra sao?

Cách đây đã mấy chục năm, tôi có dịp đi La Salette, để hành hương cầu nguyện với Đức Mẹ khóc. Bởi vì tại La Salette, Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình một phụ nữ ngồi ôm mặt khóc. Đức Mẹ khóc, để cảnh báo về một tình hình đức tin sa sút lúc đó đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Pháp.

  1. Cảnh báo về tình hình đức tin sa sút, đó là việc Đức Mẹ đã làm bằng nhiều cách,kể cả bằng nước mắt của Mẹ.

Nhớ lại cảnh Đức Mẹ khóc ở La Salette, tôi cầu xin Đức Mẹ đoái thương đến tôi và Hội Thánh tại Việt Nam. Xin Mẹ đừng để xảy ra cảnh đức tin sa sút, do biến chất hay do bất cứ nguyên nhân nào. Nếu chẳng may sa sút, thì xin Mẹ thương cứu. Đức Mẹ sẽ cứu, nhưng cần chúng ta biết đón nhận với lòng khiêm nhường cậy trông.

Tình hình hiện nay là rất phức tạp. Đức tin chân thực sẽ cứu chúng ta.

  1. Xem xét lại tình hình đức tin của mình, đó là việc Chúa muốn, mà mỗi người chúng ta nên làm trong năm nay, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.

Việc xem xét tình hình đức tin là việc không dễ chút nào. Rất cần ơn Chúa. Xin Mẹ Maria thương giúp chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 19.5.2017.

+ Gm. Gioan B BÙI TUẦN

http://www.vongtaysongnguyen.com/cam-ta-chua-vi-duc-tin/

 

——-

From:  VÒNG TAY SONG NGUYỀN

KHO TÀNG CỦA TẠO HÓA

KHO TÀNG CỦA TẠO HÓA

“Chúng ta phải cầu nguyện luôn mà không biết mệt mỏi, vì sự cứu rỗi của nhân loại không phụ thuộc vào sự thành công về vật chất, và cũng không dựa trên khoa học mà làm mờ đi sự minh mẫn.  Và nó cũng không phụ thuộc vào vũ khí và các nghành công nghiệp của con người, nhưng nó chỉ dựa vào một mình Chúa Giêsu” – 
 

Thán h Frances Xavier Cabrini

Đọc những lời lẽ khôn ngoan của các thánh chúng ta hiểu được các ngài đã tìm được kho tàng mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong Phúc Âm Luca chương mười hai, “kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó.”  Kho tàng mà các thánh tìm được chính là thứ mà mỗi người chúng ta được sinh ra để đi tìm; thế nhưng tại sao những người tìm thấy được nó thì chẳng có bao nhiêu?  Không biết các bạn có bao giờ đọc tiểu sử của các thánh và suy tư về cuộc đời của các ngài thật sự như thế nào chưa?  Nếu các bạn chưa từng thực hiện điều này, tôi mời bạn hãy đi tìm đọc một mẫu chuyện nhỏ của một vị thánh quen thuộc với bạn và suy tư về kho tàng họ tìm được.  Và nếu bạn đã từng đọc qua nhưng chưa bao giờ suy tư  xin hãy dừng lại chốc lát và suy tư về lối nhìn và cách sống của các ngài.  Một loạt những câu hỏi sẽ được đặt ra: các ngài đã nhìn thấy gì?  Cái gì đã thúc đẩy các ngài để đi tìm kho tàng đó mà các ngài đã bỏ hết cuộc đời để tìm kiếm?  Nói một cách khác, kho báu của các thánh là gì?  Phải chăng đó chỉ vỏn vẹn là một Thiên Chúa mà chúng ta cùng được biết và được mời gọi chia sẻ kho tàng vô giá ấy?  Nếu những gì các thánh đã nhận ra đều được tỏ lộ cho chúng ta qua nhiều thế kỷ, tại sao chúng ta lại không nhận thấy?  Phải chăng chúng ta là những người như Chúa đã nói trong Phúc âm, “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe?”

Các thánh là những người có tầm nhìn xa và họ không lu bu với những bận rộn xung quanh, bởi thế cuộc sống của các ngài không chỉ luẩn quẩn với những công việc hàng ngày.  Nhưng các ngài luôn dành thời gian để trèo lên đỉnh núi của tâm hồn để quan sát lại tầm nhìn và hướng đi của mình.  Thật sự trên đỉnh núi chúng ta sẽ nhìn mọi sự rõ ràng hơn.  Ở đó, chúng ta không chỉ nhìn thấy được những gì liên quan đến chính mình, nhưng còn nhìn thấy cả một thế giới rộng lớn đang bao trùm lấy ta và ta là một phần tử nhỏ trong thế giới sống động ấy.  Lúc đó chúng ta sẽ nhận ra rằng phải có một sức mạnh siêu nhiên làm chủ và điều khiển tất cả, và con tim của chúng ta sẽ nhận ra sự tài tình của Thiên Chúa cũng như sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ này.  Chính ở trên đỉnh núi của tâm hồn mà các thánh nhận ra được sự nhỏ bé của mình và tìm được kho tàng quý báu của các ngài – là chính Chúa Giêsu, kho tàng của mọi tạo vật.

Nhìn lại kinh nghiệm sống của mỗi người, có lẽ chúng ta đã có dịp trèo núi hay được đi núi.  Trong kinh nghiệm đó chúng ta nhận ra rằng con đường đi đến đỉnh núi không dễ dàng và chúng ta phải dồn hết sức lực mới đến được nơi mà ta muốn đến.  Và khi đến nơi, ta hẳn quên đi sự mệt mỏi của chặng đường đã qua và chỉ biết kinh ngạc trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.  Nơi đó trước khung cảnh thiên nhiên, chúng ta cảm thấy mọi sự như mới mẻ, như chúng ta được tiếp sức, và chúng ta cảm thấy mình thật nhỏ bé và được bao bọc trong sự quan phòng của Thiên Chúa.  Trên đỉnh núi đó, chúng ta được nhắc nhở rằng chúng ta không làm chủ bất cứ gì nhưng được mời gọi để sống và thưởng thức sự hùng vĩ và cảnh đẹp của thiên nhiên.

Hành trình của tâm hồn mỗi người chúng ta cũng tương tự.  Chúng ta phải dồn hết sức lực để trèo, để tìm, để khám phá.  Hành trình của mỗi người chúng ta là tìm ra kho báu của đời mình, một kho tàng mà Thiên Chúa đã trao ban cho riêng từng người chúng ta.  Các thánh là những người đã đi trước và các ngài đã tìm được và đã hướng dẫn chúng ta biết cách tìm đến kho tàng vô giá đó.  Sự chọn lựa là do chúng ta và nằm trong tầm tay của mình.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy dùng chút thời gian trong ngày để tìm hiểu những con đường các thánh đã đi qua, hầu giúp chúng ta biết trèo lên đỉnh núi thiêng liêng của con tim, định hướng lại con đường trước mặt và tiếp tục tìm kiếm vì chúng ta không thể quên rằng chúng ta được sinh ra để đi tìm kho tàng quý báu dành cho chúng ta – đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa.  Nguyện xin các thánh – là những người đã dành hết cuộc đời của các ngài để đi tìm kho tàng quý báu ấy, và khi tìm được rồi các ngài đã can đảm đánh đổi tất cả để được nó – dạy cho chúng ta biết bắt chước các ngài và luôn đi tìm Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.

Củ Khoai

****************************** **************

Con đã tìm hạnh phúc từ lâu,

đôi khi như người điên, người mất trí,

với sự đam mê, với lòng tham lam

tiền bạc, quyền hành, quyền lực…

con đã nếm mùi chút ít những điều đó,

nhưng lạy Chúa, con không tìm được niềm vui.

 Con đã tìm hạnh phúc trong sự khôn ngoan,

Khôn ngoan như thế gian đề nghị

kiến thức, khoa học, tiếng tăm,

biết hết về lòng người,

hiểu hết về định mệnh thế giới,

nhưng đâu cũng vậy, con không thấy chi cả.

 Con cũng đã tìm thành công, lạy Chúa

Trong đời con, trong nghề nghiệp, trong gia đình,

được đứng nhứt mọi nơi, được mọi người nghe,

được mọi người nhìn nhận, nhưng con không gặp chi cả.

 Hôm nay, lạy Chúa, Chúa mời con lắng nghe Chúa.

Chúa không đợi con nơi công trạng và thành công.

Chúa chờ con giữa cuộc đời,

một đời người thật đơn giản, thật nhỏ bé.

Và chính nơi đó, Chúa tự biểu lộ để sau cùng

Con tìm thấy trong sự hiện diện của Chúa

Ý nghĩa của đời con.

“Ai có tai thì nghe.” (Mt 11, 15)

Hiền Hòa chuyển dịch

From: Langthangchieutim

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

Chuyện Phiếm Đọc sau lễ Thăng Thiên năm A 28/5/2017

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

“như trường xưa mất tuổi thiên-thần,

Hy-vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan.”

(Nguyễn Đình Toàn – Nước Mắt cho Sàigòn hay: Sàigòn Niềm Nhớ Không Tên)

(Thư Êphêsô 5: 6)  

Trần Ngọc Mười Hai

“Sàigòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi”… tất cả cũng đều là mất mát. “Mất tuổi thiên-thần”, “Mất niềm vui, tiếng hỏi, câu chào”,  còn mất cả cái tênKhông bao giờ quên. Vâng. Có mất cả cái tên hay quên cả cái tuổi, thì bạn và tôi, ta cũng đừng bao giờ mất đi ân huệ trời cho con người, đấy bạn ạ.

Mấy hôm nay, bần đạo ngồi buồn gặm bút, cứ muốn viết cho thật nhiều về nỗi niềm nhung nhớ mất đi rất nhiều thứ. Cả những thứ có tên, có tuổi hoặc có ý-tứ, ý-từ rất muốn nói ra, nhưng lại quên mất. Cũng may cho bần đạo, chợt mở máy ra nghe nhạc thấy Khánh Ly cứ là rỉ-rả những lời trần-tình mất mát của một Sàigòn đã mất tên từ lâu, nghe rất buồn.

Sao không buồn được, khi nghe đi nghe lại những câu “mất mát” khôn nguôi, khó tả đến như sau:

“Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao

trong niềm vui tiếng hỏi câu chào

sáng đời tươi thắm vạn sắc màu

nay còn gì đâu…

 Ai đã xa nhớ hàng me già, thu công viên hoa vàng tượng đá

thôi hết rồi mộng ước xa xôi, theo giòng đời trôi…

 Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi

tay cầm tay nói nhỏ câu gì

Những quầy hoa quán nhạc đêm về

Còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly

 Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau

Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu

mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu

Còn gì đâu

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

 Buồn là thế, chắc hẳn cũng do người viết nhạc có những tâm sự xuất tự tâm can của một nhà thơ nay không còn dịp viết và hát về Sài gòn với cái tên “cúng cơm”, cũng đẹp nhiều hơn nữa:

 “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

mất từng con phố đổi tên đường

khi hẹn nhau ta lạc lối tìm

ôi tình buồn như đã sống thêm.”

Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi

như trường xưa mất tuổi thiên thần

hy vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan

Trăng ơi trăng có còn chăng là

Sao ơi sao, sao mờ lệ nhớ”

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như hàng cây lá đỏ trông tìm

Mắt trời trong cánh nhỏ chim hiền

Đã ngậm sầu ngang môi lắng im

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như mộ bia đá lạnh hương nguyền

Như trời sâu đã bỏ đất sầu.

Còn gì đâu…

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Vâng. Có lẽ người viết nhạc hôm nay buồn nhiều nên mới viết ra những lời ai oán đến độ thế. Vâng. Như ai đó từng diễn-giải một nhận-định về “Lời nói”, qua một bài viết mà bần đạo vừa nhận được trên điện thứ hôm ấy vào tháng 5 /2017 như sau:

“Lời ăn, tiếng nói của mỗi con người là biểu hiện chính cuộc sống và con người họ. Nếu bạn gặp một người ăn nói xấc xược, bạn có muốn nói chuyện lần thứ hai không?

Muốn biết một người có vận mệnh tốt hay không, chỉ cần xem cách họ nói chuyện là biết!

Lời nói chính là biểu hiện rõ rệt nhất của một người có đức hay không, lời nói cần giữ thủ đức, có như vậy mới giữ được phúc báo.

Mệnh của con người có tốt hay không có thể nhìn cách người đó nói chuyện là có thể nhận biết. Hàng ngày không nhất định đều phạm phải việc tổn đức, nhưng nói chuyện thốt ra những điều khó nghe, làm tổn thương người khác thì đương nhiên sẽ mất đi phúc báo.

Người có vận mệnh tốt là người ăn nói có chừng mực, mỗi lời nói đều thể hiện là người có đạo đức, họ không dùng ngôn từ mạnh để phê phán, chê bai người khác, không dài dòng nói từ chuyện nọ sang chuyện kia, không kể công của bản thân mình sau khi đã giúp ai đó. Lời nói của họ luôn chân thành, với tâm ý động viên, khích lệ người khác.

Biết rõ về một người, không cần nhất thiết phải tận nói, hãy lưu lại cho người ta ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu lại chút “khẩu đức” cho mình.

Trách một người không cần phải tận trách, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút độ lượng cho mình.

Có công không cần đòi hỏi tận cùng, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khiêm nhượng cho mình.

Đúng lý cũng không cần đoạt tận, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khoan dung cho mình.

Tài năng đừng quá ngạo mạn, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu chút đức khiêm hư cho mình.

Ngày tháng tích tụ, bao nhiêu phúc báo cũng từ cái miệng mà đi hết nếu cứ thường xuyên gây khẩu nghiệp. Lời nói không hay sẽ làm tan vỡ mọi mối quan hệ, dù trước đó phải khó khăn để xây đắp. Thực tế là không người chồng nào muốn về nhà nếu có một cô vợ thường xuyên chì chiết, trách móc; không có đứa con nào hạnh phúc nếu có cha mẹ không nói lời dịu dàng mà chỉ quát nạt, la mắng; không có người bạn nào hứng thú giao thiệp với người hay nói lời cay độc, bình phẩm ác ý…

Cổ nhân nói: ‘Lời nói do tâm sinh’, một người có tâm tính như thế nào thì sẽ nói ra những lời như thế. Người có lòng bao dung lời nói ra sẽ nhẹ nhàng hòa ái, người trong tâm đầy oán hận, lời nói ra sẽ hung hăng, cay nghiệt. Người khiêm nhường lời nói ra sẽ chừng mực nhã nhặn. Người tự cao lời nói thường khoa trương phách lối.

Con người ta có vận mệnh tốt và giàu có ở kiếp này là vì người đó đã tích được nhiều đức ở các kiếp sống trước. Tích đức thường được hiểu là cần phải làm được việc gì đó tốt, giúp đỡ được ai đó. Tuy nhiên, không hề đơn giản khi làm được việc gì đó tốt cho ai đó. Bạn có thể phải mất rất nhiều công sức, tiền của khi giúp ai đó, tuy nhiên cũng không hề chắc chắn rằng những nỗ lực mà bạn bỏ ra hoàn toàn đem lại kết quả tốt đẹp.

Trong cuộc đời của mỗi người, không phải ai cũng sẵn lòng làm việc gì tốt cho người khác nhưng họ lại rất dễ nói những lời khó nghe với những người xung quanh. Chính những lời nói khó nghe đó khiến cuộc sống của họ không hề bằng phẳng, mà trái lại, không biết chừng lại gập ghềnh chông gai.”  

Vâng. Rất đúng. Nhận-định như thế, cũng được đấng thánh-hiền thuở trước, cũng từng viết như sau:

“Đừng để ai lấy lời hão huyền

mà lừa dối anh em,

chính vì những điều đó

mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống

những kẻ không vâng phục.”

(Thư Êphêsô 5: 6)   

Thành ra, lời nói phát ra từ cửa miệng con người, cũng có thể là những lời khiêm nhu, tử tế tích-tụ điều tốt, có tâm-phúc. Nhưng cũng có thể là những lời hão huyền, xuất phát tự tâm can đầy lừa dối khiến cho “cơn thịnh-nộ của Thiên-Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục.”  

Lại có những “lời nói” không phát ra từ cửa miệng con người, như từ tâm can, mà mọi người lâu nay vẫn gọi đó là “tiếng nói của lương tâm”. Lương tâm, không nói bằng lời lẽ những tự-vựng khác nhau như con người hằng nghe biết, mà là nói cùng một thứ tiếng không bằng “lời”, mà bằng “lẽ” hoặc còn gọi là “lý lẽ” khiến mọi người phải nghe theo.

Tuy nhiên, “tiếng nói” của lương tâm có là và vẫn là quy-tắc khiến con người phải nghe theo, như luật lệ hay không? Đó chính là vấn-đề được nhiều người đặt ra cho chính mình và cho người khác nữa.

Vấn-đề này, từng được một độc-giả của tờ The Catholic Weekley ở Sydney hỏi ý-kiến, với những lời sau đây:

“Thưa Cha,    

Hôm nay con có hai chuyện muốn hỏi cha về tiếng nói của lương tâm. Thứ nhất, là: ta có phạm tội gì không, nếu không làm theo tiếng nói lương-tâm bảo ta phải làm thế chứ? Thứ hai nữa là: ta có buộc phải tuân theo tiếng nói của lương tâm, khi lương-tâm của ta bị sai sót, không?” (Lại một lá thư không chữ ký)     

 Dù có chữ ký bên dưới câu hỏi hay không, đấng bậc nhà Đạo chuyên giải đáp các thắc mắc trên Báo Đạo ở Sydney vẫn đáp-trả bằng những lời như sau:

“Phải nói ngay đây rằng: anh/chị vừa đưa ra câu hỏi xác-đáng, nên cần phải hiểu rõ câu trả lời bên dưới mới được.

 Trước nhất, ta có biết lương-tâm của ta hoạt-động thế nào, không? Thật ra, ta hay có khuynh-hướng nghĩ rằng lương-tâm luôn chỉ cách cho ta phải làm gì và không được phép làm điều gì. Chẳng hạn như, nó dạy ta hãy ngồi dậy và ra khỏi giường, bởi đã đến giờ thức dậy đi nhà thờ tham-dự thánh-lễ với mọi người, ngày của Chúa, vv…

 Và, lương-tâm cũng khuyên ta đừng nên làm điều gì; không nên xem chương-trình truyền-hình đặc-biệt nào đó; hoặc không nên tiếp cận trang chủ hoặc địa-chỉ nào trên mạng; bởi chúng sẽ đưa ta vào tình-trang phạm lỗi. Lương-tâm cũng khuyên ta chớ có nói dối, không được lưu-manh, ăn cắp/ăn trộm tài-sản của người khác, vv… Trong mọi trường-hợp, lương-tâm đều ra lệnh hoặc cấm-đoán ta không được làm điều nào đó.

 Đôi lúc, lương-tâm chỉ cho phép hoặc đề-nghị ta làm điều gì đó nhưng không áp-đặt ràng buộc nào cả. Chẳng hạn, có thể nó cũng cho phép ta xem chương-trình truyền-hình này/họ hoặc xem báo nào đó, đài số mấy, nên ăn thứ này, không nên nhúng môi chạm miệng thứ kia, món nọ, vv…

 Trở về lại câu hỏi của anh/chị thật ra cũng có trường hợp này khác trong đó ta cũng có thể phạm tội nếu không nghe theo tiếng nói của lương-tâm. Đây là trường-hợp khi lương-tâm của ta tỏ ra chắc chắn để khuyên bảo hoặc cấm đoán ta có hành-động nào đó.

 Như ta đã thấy, không phải lúc nào lương-tâm cũng ra lệnh hoặc cấm-đoán ta  hành-động, nhưng khi cần, ta buộc phải nghe theo nó, bằng không ta sẽ vi phạm lỗi/tội. Lý-do của nó đơn giản là ngang qua các xét-đoán của lương-tâm, ta biết được chất-lượng đạo-đức nơi hành-động của ta. Khi ta biết được rằng một số hành-động phải thực hiện hoặc không nên thực-hiện, ta hiểu rằng đó là điều Thiên-Chúa muốn ta làm hoặc không làm việc đó; và/hoặc đi ngược lại luật lệ Ngài ban mà phạm lỗi…

 Khi lương-tâm có điều gì nghi-ngờ, ta thường do dự và không nắm chắc sự việc. Trong trường-hợp đó, lương-tâm của ta sẽ thực-sự báo cho ta biết được mà giải-quyết mối nghi-nan bằng cách tìm đến cố-vấn hoặc tìm sách theo dõi vấn đề hoặc mở sách Giáo-lý ra mà tìm-hiểu, vv…Ta phải làm như thế mỗi khi thấy có nghi-nan, ngờ-vực kẻo làm mất lòng Chúa trong những chuyện quan-trọng tạo nguy-hại cho việc cứu rỗi, hoặc ít ra kéo dài ngày hơn trong chốn luyện tội….

 Thành thử, ta cũng nên để lòng lắng nghe tiếng nói của lương-tâm, đặc-biệt khi nó ra lệnh hoặc cấm cản ta có hành-động nào đó, cả vào khi nó chỉ mỗi đề-nghị hoặc khuyên ta làm điều gì đó nhỏ bé, thôi…” (X. Lm John Flader, Consciensce: the voice we should always listen to and heed, The Catholic Weekly 12/2/2017 tr. 20)

Lương tâm hoạt-động trong cuộc sống của mỗi người. Đó là điều mọi người đều biết rõ, không cần phải chứng minh. Nếu có, cũng chỉ cần minh-chứng bằng những truyện kể ở đời thấy được trong cuộc sống. Và, đây là một trong những câu truyện đại-để giống như thế, cũng rất cần. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể để quan-sát sẽ thấy vai trò của lương-tâm ẩn-tàng ở trong đó.

“Truyện rằng:
Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

 Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

 Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

 Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời.

 Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay.

 Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

 Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

 Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

 Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). 

Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

 Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

 Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.”

 Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

 Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

 Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

 Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

 Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

 Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng. Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

 Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

 Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

 Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

 Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

 Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết.

 Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.” (Truyện kể trích từ điện thư do bạn bè gửi cũng đã lâu)

Sống mà quên bẵng không lý gì đến lương tâm con người, còn là sống bê tha, cẩu thả, không mục đích. Sống như thế, cũng giống như là không sống.Hay còn gọi là sống dở chết dở, nửa đời người. Sống cho ra sống, đúng như tiếng nói lương tâm hằng kêu gọi, chính là cuộc sống lý-tưởng của mỗi người và mọi người.

Đó lại cũng là tâm-tình rất sống-động hôm nay và mọi ngày, ở mọi nơi. Trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Còn đó những lý-tưởng

Của đời người

Nằm mãi ở lương tâm.

NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

 NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

Có hai nhà đạo sĩ kia, một hôm đọc thấy trong một cuốn sách khảo cổ cho biết: có một nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai nhà đạo sĩ bèn quyết định lên đường đi tìm cho được nơi chân trời và mặt đất giao nhau như trong sách đã cho biết.  Hai ông còn thề nguyền sẽ không trở về bao lâu chưa tìm được nơi trời đất giao nhau đó.  Bởi vì hai ông được biết ở nơi đó sẽ có một cánh cửa mở ra chân trời.  Khi cửa mở ra, người ta sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Sau một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, hai nhà đạo sĩ đã tìm được nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai ông cũng đã mở được cánh cửa trời…  Nhưng đến lúc bước vào cửa trời, hai ông hết sức bỡ ngỡ, vì hai ông gặp lại chính căn phòng quen thuộc của mình…  Lúc ấy hai ông mới hiểu: con đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, trong đời thường, nơi mình đang sống hằng ngày.

Anh chị em thân mến, đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, nơi “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã lên trời.”  Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài ra đi.  Bởi vì ra đi là để lại sự vắng mặt.  Đàng này, Chúa không để chúng ta đơn độc, Ngài còn “ở lại với chúng ta mãi cho đến tận thế.”

Chúa lên trời là Chúa “khuất dạng”, không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa, để bắt đầu một sự hiện diện ẩn khuất, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được.  Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em, trong những người nghèo khổ…  Ngài không chỉ hiện diện mà còn ở, còn cư ngụ.  Một chỗ ở có ý nghĩa sâu sắc hơn một sự hiện diện: Người ta có thể hiện diện trên đường phố, còn ở thì chỉ ở trong nhà mà thôi.  Thiên Chúa chỉ muốn có một chỗ ở, một ngôi nhà riêng của Ngài và ngôi nhà đó là chính chúng ta: “Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”, Ngài ở với chúng ta như ở trong ngôi nhà của Ngài.

Khi nói “Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” hay khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chúng ta đừng tưởng Chúa ở xa cách chúng ta.  Ngài ở trên các tầng mây xanh.  Không!  Nếu đóng khung Chúa ở trên trời là chúng ta bắt Ngài phải di tản.  Chúng ta đánh mất Ngài!  Nhưng qua kiểu nói tượng hình của Kinh Thánh, chúng ta hãy hiểu việc Chúa lên trời là một cuộc thăng quan tiến chức, được thêm uy quyền, hiệu năng, và do đó được hiện diện một cách sâu đậm, thắm thiết hơn, chứ không phải một cuộc thăng thiên xét theo không gian, khiến Ngài xa lìa thế giới chúng ta.

Vì vậy, thiên sứ phải lay tỉnh các môn đệ đang mải mê nhìn lên trời: “Hỡi các ông, người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”  Nhưng hãy đi mở mang Nước Chúa và sự hiện diện của Ngài bằng cách hoàn thành công trình đang dang dở của Ngài ở trần gian này: “Hãy đi đến với muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy.”  Đó, như thế Chúa lên trời là để khởi đầu sứ vụ của Giáo Hội: Các môn đệ phải ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải chỉ ở Giêrusalem và nơi những người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, cho đến tận cùng trái đất và nơi tất cả dân tộc.

Anh chị em thân mến, từ ngày Chúa lên trời, sứ mạng của chúng ta là phải đi vào trần gian, trở về với thực tế, nhìn kỹ vào cuộc sống của nhân loại, của mọi người anh em trên mặt đất này, để cùng với mọi người ra sức xây dựng Nước Trời đang thành hình ngay trong trần thế này, giữa thế giới hôm nay, tùy theo mức độ chính thế giới này có thể hiện được tình thương, có phản ảnh được tình yêu vô biên của Thiên Chúa hay không.  Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em.”

Như thế, thưa anh chị em, Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời.  Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương.  Nếu cứ luyến tiếc nhìn lui lại quá khứ, hãy mải mê ngước mắt lên trời, chúng ta sẽ quên rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.  Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau.  Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó.  Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

Vậy, ngày Chúa lên trời, thay vì chỉ mải mê nhìn lên trời, thụ động trông chờ ngày Chúa trở lại, chúng ta hãy nhìn xuống mặt đất, hãy cùng nhau góp sức xây dựng con đường lên trời ngay từ mặt đất này; vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời.”

Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vẫn biết rằng quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở trần gian này và chúng ta chỉ đi qua để về quê hương trên trời, nhưng thực là sai lầm, nếu vì đó mà nghĩ rằng mình có thể xao lãng nghĩa vụ của mình ở trần gian” (Mv 43,1b).  Vì thế, trông đợi “Trời Mới Đất Mới” không những không làm giảm bớt mà còn tăng thêm nơi chúng ta ý chí xây dựng trời đất hiện tại này.  Bởi vì xây dựng trời đất hiện tại là xây dựng “Trời Mới Đất Mới” (MV 39,2a), là xây dựng quê hương vĩnh cửu của chúng ta vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

****************************** ********

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.  Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.  Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.  Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.  Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.  Amen!

Langthangchieutim gởi

PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .


PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .

(Hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày, Bạn và tôi sẽ bình an và hạnh phúc)

Tình ưu ái đặc biệt Đức Mẹ MARIA dành cho Tràng Chuỗi Mân Côi được tất cả mọi tín hữu Công Giáo ghi nhận trải qua không biết bao nhiêu biến cố diệu kỳ xảy ra suốt dòng thời gian.

Xin giới thiệu một trong những biến cố này.
Biến cố diễn ra trong tháng 5 năm 1961. Ông Bellis là một tín hữu Công Giáo vô cùng đạo đức và là nhân viên sở hỏa xa làm việc nơi một trong những ga xe xửa nổi tiếng nhất nước Ý.
Ngày 15-5-1961 như thường lệ, ông lái xe lửa từ thủ đô Roma trực chỉ Milano ở miền Bắc nước Ý. Bỗng chốc – do sự lầm lẫn vô ý – ông trông thấy từ đàng xa một chiếc xe lửa khác đang ngược chiều chạy thẳng về hướng của mình. Chỉ còn vỏn vẹn vài phút nữa thôi và tất cả sẽ là tai nạn thảm khốc nhất xảy ra.
Ông bắt đầu hãm tốc độ với trọn sức lực, nhưng hai chiếc xe lửa cứ lao đầu vào nhau mỗi lúc một gần hơn. Thế là ông Bellis – với tâm tình của một tín hữu Công Giáo nhiệt thành nhất – liền cho tay vào túi rút ra Tràng Chuỗi Mân Côi và siết chặt trên ngực van xin khẩn nài Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi ra tay cứu giúp, rồi ông nhắm chặt đôi mắt lại. Nhưng khi ông mở mắt ra thì tất cả xong xuôi hết rồi. Hai chiếc xe lửa ngừng lại đối đầu nhau trong một khoảng cách chỉ vỏn vẹn gần một thước.
Tất cả mọi hành khách trên cả hai chiếc xe lửa vội vàng nhào xuống reo hò mừng rỡ trước một sự kiện quá lạ lùng. Họ đồng thanh kêu lên:
– Đúng là Phép Lạ!
Trong khi đó ông Bellis, với quả tim đập liên hồi và khuôn mặt trắng nhợt vì cảm động, tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi vì không còn trông thấy nó nữa. Không hiểu nó rơi mất nơi đâu. Ông vô cùng ngạc nhiên bởi lẽ trước đó ông còn nắm chặt Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay đặt trên ngực rõ ràng mà! Vậy thì nó biến mất nơi đâu???
Đang đưa mắt đảo quanh tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi thì một bé trai lôi kéo sự chú ý của ông cũng như của tất cả các hành khách khác. Mọi người vẫn còn trầm trồ chiêm ngưỡng khoảng cách thật gần của hai chiếc xe lửa thì nghe cậu bé reo lên:
– Hãy đến mà xem! Hãy đến mà xem! Hãy nhìn kỹ có vật gì đó nằm giữa hai đầu chiếc xe lửa kìa!
Cậu bé la to như thế. Mọi người nhốn nháo đặt câu hỏi:
– Vật gì thế?
Thì ra trên đường rầy nằm giữa đầu hai chiếc xe lửa là Tràng Chuỗi Mân Côi của ông Bellis. Mọi người ngỡ ngàng kinh ngạc hỏi nhau:
– Làm thế nào mà Tràng Chuỗi Mân Côi lại rơi ngay chính giữa hai chiếc xe lửa như thế này???
Trước một phép lạ tỏ tường như thế tất cả mọi người đều hiểu rõ đây là cử chỉ ưu ái cách riêng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi dành để cứu sống người con dấu yêu và cùng với ông, cứu sống tất cả các hành khách của cả hai chiếc xe lửa.

Câu chuyện thứ hai mang nét đẹp dịu hiền khác. Trong niên sử của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) người ta đọc thấy câu chuyện sau đây.
Vào năm 1911 một mục sư tin lành người Tô-cách-lan sau khi đọc cuốn ”Truyện Một Tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêxa liền đem lòng mộ mến vị Thánh trẻ tuổi và thường kêu xin Thánh nữ trợ giúp. Tuy nhiên, một hôm Thánh nữ Têrêxa hiện ra và nói:
– Sao Mục sư cứ xin tôi cầu nguyện cho Mục sư mà lại không muốn biết đến và khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA???
Vị mục sư Tin Lành thông minh hiểu ngay rằng thật là chuyện vô lý khi khẩn cầu cùng vị thánh trẻ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU mà lại lơ-là lòng sùng kính Đức MARIA, Mẹ THIÊN CHÚA.
Kể từ ngày ấy, vị Mục sư luôn luôn thân thưa cùng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và cảm nghiệm trong tâm hồn tràn ngập một Tình Yêu dịu hiền khôn tả xiết. Tình Yêu mỗi ngày một lớn mãi cho đến một ngày vị Mục sư quyết định gia nhập Giáo Hội Công Giáo thánh thiện duy nhất tông truyền và trở thành vị đại tông đồ rao giảng lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA, Hiền Mẫu Thiên quốc.

(”La Mia Messa”, volume II, 1 Aprile – 30 Giugno 2014, Anno VIII/A, Casa Mariana Editrice, trang 337-338/298)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

“Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi”

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh 21/5/2017

 Tin Mừng (Ga 14: 15-21)

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn-đệ rằng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.21Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

“Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi”

“Dòng sông con, nép cạnh núi biên thuỳ”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Trông thấy ai, mà kinh hãi cả cõi đời? Đời cô đơn, thi sĩ nép cạnh núi biên thùy, tựa giòng sông. Vốn hy vọng, nhà Đạo chẳng kinh hãi với âu lo. Bởi, Thầy Chí Thánh đã uỷ lạo, tạo niềm tin, nơi mọi người.

Niềm tin, thánh Gioan diễn tả ở trình thuật hôm nay, là tình tự thân yêu Chúa dặn dò, trước ngày Ngài về với Cha. Tình tự Ngài để lại, là chúc thư cuối về sự sống còn của dân con đạo Chúa. Chúc thư tuy hơi lạ, nhưng là lời khuyên dân con tuân giữ mọi qui định Ngài từng phán quyết. Phán và quyết, một giới lệnh rất mới, nếu áp dụng triệt để, người người sẽ sống rất hạnh phúc. Chúc thư Thầy để lại, còn là lời nhắn nhủ giản đơn Thầy cương quyết: “Hãy yêu thương nhau”. 

Hãy yêu thương nhau, là câu nói người người đều nghe biết. Nhưng thường thì, không phải tất cả mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa Lời Ngài muốn căn dặn. Bởi, ý nghĩa ấy không chỉ bao gồm mỗi một việc, là: hãy đối xử tử tế với mọi người. Nhưng còn hơn thế nữa. Hơn, là bởi: có như thế người người mới thủ đắc nhiều điều lợi của xã hội. 

Hãy yêu thương nhau, không chỉ thực hiện với nhóm/phái của mình, thôi. Bởi nhóm/phái, đoàn thể thường vẫn chỉ khép kín trong vòng khoanh bé nhỏ, của chính mình tuyệt nhiên không để lọt ra ngoài, nên người ngoài cuộc luôn bị coi là người xa lạ. Muốn gia nhập nhóm/phái, tuyệt đối phải đăng ký/ghi danh, mới được vào. Vào được rồi, kể như mình đã nắm chắc là người đồng đội sẽ yêu thương giùm giúp rất tích cực. Kẻ ở ngoài, vẫn bị coi là người ngoại cuộc chuyên gây phiền toái.

Khi Chúa bảo: Hãy yêu thương nhau, là Ngài có ý khuyên: “hãy yêu thương hết mọi ngườiKhông chỉ mỗi người cùng phe, cùng nhóm với mình, thôi. Mà, cả người những ở ngoài, như: đám Pharisêu, Ký sự, đám người La Mã, lẫn cả thượng tế, đám đông quần chúng, bất cứ ai. Yêu hết mọi người, là yêu toàn thể chúng sinh, nhân loại. Bởi thế nên, khi Ngài sai phái các thánh ra đi là để các thánh đi đến với mọi người, bằng sứ vụ mới. Sứ vụ, biến mọi người không còn là người dưng khách lạ, hoặc ngoại cuộc nữa.

Điều đó còn có nghĩa: Hội thánh, cho đến nay, vẫn chưa thực hiện đúng mức sứ vụ Chúa ban hành. Đôi khi chính mình còn đi ngược lời dạy cùng bảo ban của Chúa, nữa. Đi ngược, là bởi quá gắn chặt với tinh thần phe/nhóm của giáo hội riêng mình. Ví dụ cụ thể thấy rõ nơi Giáo Hội Công giáo Úc lâu nay vẫn thủ thế, suốt ba bốn thập niên qua.

Vì thủ thế, nên Giáo hội ở đây chưa thực hiện đủ lời Chúa dạy bảo khi phải đối xử tử tế với những người mới tới từ các nơi. Chí ít, là những người ngoài Đạo. Vì thế nên, lời Chúa hôm nay đích thị gửi đến Hội thánh Công giáo nơi đây phải ra đi thực hiện lời khuyên “yêu thương hết mọi người” cả những người dưng khác Đạo, vừa mới tới.

Lễ Chúa Thăng Thiên ở Úc, thường được tổ chức rất trùng hợp với ngày “Nhớ Ơn Mẹ”. Tức, một ngày có lời khuyên, rất tương tự. Lời khuyên rất lành và rất thánh: “Hãy yêu thương” Mẹ thánh Giáo hội và cung kính Đức Maria, Mẹ Hiền của Thiên Chúa. Mẹ rất Hiền, vì Mẹ là mẹ đích thực, vẫn nối kết/duy trì mọi thành viên trong gia đình. Thôi thúc mọi người hãy đến với nhau trong yêu thương. Mẹ, là trung tâm của gia đình. Là, người luôn đem đến với gia đình, bầu khí yêu thương, liên kết. Yêu thương, để mọi người sẽ đến với nhau mà giùm giúp, đỡ đần, trong mọi lúc.

Mẹ là Mẹ Thánh rất hiền, vì là Từ Mẫu của Chúa, Mẹ còn làm nhiều điều hơn thế. Mẹ hiền ở nhà cũng làm thế. Bà đem tình người mẹ trong gia đình đến với người ngoài cuộc, tức: những người cần tình thương hơn ai hết. Thấy ai cần tình thương, mẹ hiền ở nhà chẳng bao giờ bỏ qua, hoặc nề hà điều chi. Mẹ hiền ở đời, vẫn từ tâm với mọi người. Không chỉ người trong nhà mình, mà thôi.

Trái lại, mẹ hiền vẫn từ tốn, nhẫn nại và bươn chải không chỉ lo cho gia đình mình thôi, mà mẹ còn đến với người chòm xóm kẻ khốn khó, ốm đau ở đâu đó, tức những người cần tình thương. Nhiều khi, chỉ một ngụm trà ấm nóng. Có lúc, chỉ một đường chổi nhẹ để dọn dẹp tiếp đón người dưng khách lạ, cần đón tiếp.

Rất thường tình, mẹ cũng đóng góp vài đồng giúp đỡ kẻ túng bấn, những người nghèo khổ. Có khi, chỉ cần để mắt ngó chừng đàn trẻ xa quê, vắng bóng mẹ mình. Có thể nói, mẹ hiền ở nhà là người thực thi lời Chúa, rất yêu thương. Bởi, mẹ là người không chỉ biết thương yêu mỗi con mình thôi, mà cả người dưng khách lạ nữa.

Trên thực tế, phụ nữ là những người luôn quên mình đi, để có thể yêu thương giúp đỡ hết mọi người, bất kể ai.Các bà, là những người thường xuyên có mặt ở nhà thờ, vào mọi lễ. Các bà còn yêu thương hội thánh đến độ không ngại phê bình tính bè phái, rẽ chia của hội thánh mình, ở địa phương. Các bà vẫn muốn Hội thánh ra đi mà tỏ bày tình thương yêu với những ai cần đến Chúa, đến tình thương của Ngài. Các bà vẫn chứng tỏ cho hội thánh mình biết cách tuân phục lời Chúa dạy, hôm nay. Chứng tỏ, bằng gương thương yêu giúp đỡ. Tỏ bày, bằng cung cách nhẹ nhàng/thuỳ mị nhưng đạt hiệu quả hơn nam giới.

Trong lễ hôn phối, có lời cầu Chúa chúc phúc cho đôi tân hôn bằng những lời lẽ thiết thực dành cho các bà mẹ tương lại, rất ý nghĩa:

 “Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng gìn giữ anh/chị trong tình thương yêu tỏ bày cùng nhau để bình an của Đức Kitô sẽ ở mãi với anh/chị hiện diện ngay tại nơi ăn chốn ở của anh/chị. Xin cho con cái của anh/chị chúc phúc anh chị. Cho bạn bè ủi an anh/chị và mọi người sống yên vui hiền hoà với anh/chị. Xin Chúa cho cho anh chị luôn trở thành chứng nhân cho tình yêu của Ngài đến với thế gian, để những người buồn phiền nhận ra được anh/chị là những người bạn rất ngoan hiền, đại độ. Và tất cả sẽ đón chào anh/chị vào với niềm vui của Nước Trời.”

Tham dự Tiệc Lòng Mến hôm nay, cầu mong sao giới lệnh của Chúa sẽ là niềm chúc phúc gửi đến mọi người trong nhà, và hội thánh. Cầu và mong, cho toàn thể dân con Hội thánh biết noi gương các Bà Mẹ được vinh danh trong ngày “Nhớ Ơn Mẹ” năm nay, sẽ thực hiện chúc thư yêu thương với mỗi người và mọi người trong/ngoài Hội thánh.

Trong tâm tình ấy, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ vương vấn một nhắc nhở:

“Ôi ngơ ngác, một lũ người vong bản,

Mất tinh thần, từ những thuở xa xôi!

Ta về đây, lạ hết các ngươi rồi,

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

Gọi đó là “Bài Ca Man Rợ”, phải chăng nhà thơ muốn ám chỉ cung cách của người từng nghe biết lời khuyên yêu thương, nhưng vẫn dửng dưng như kẻ mất gốc, rất vong bản? Mất, cả bản gốc yêu thương của người con. Mất, cả tình mặn nồng, chung sống nơi nhà của Chúa của chính mình.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều.

httpv://www.youtube.com/watch?v=zyVMjRpJdgs

Video : Khóc Một Dòng Sông – Ngọc Lan

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 6 Phục Sinh năm A 21/5/2017

“Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều.” 
“Nhất là những buổi chiều mưa rơi.
Cũng may Cali trời mưa ít không như Sài Gòn
Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.”

(Đức Huy – Khóc Một Giòng Sông)

(Luca 24: 25-26)

Khóc gì không khóc, sao anh lại cứ “khóc một giòng sông”? Nhất thứ, là khi anh lại khóc khi hát câu ca “Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều”. Thế đấy là văn-chương thi-tứ, rất âm-nhạc. Còn đây là văn-hoá riêng tây của Đạo cũng có nhớ, có gào, nhưng không khóc. Khóc sao được, khi tôi và bạn những nhớ nhiều về một buổi chiều Đức Chúa của mình đã “trỗi dậy từ cõi chết”, mà người người có thói quen gọi là “Sống lại”.

Còn nhớ, có đấng bậc nọ khi giảng về sự “trỗi dậy” của Lazarô bạn-hiền của Đức Chúa, có bảo rằng: “Lazarô dù đã “sống lại” vào ngày hôm ấy, nhưng anh cũng chỉ sống thêm được ít năm, sau đó cũng chết tốt!”  

Thế thì, “sống lại” hay “trỗi dậy” cụm-từ nào đúng, tự vựng nào lại không đúng, nhưng vẫn cứ dùng. Một lần nữa, khi đặt bút hoặc gõ máy những giòng chữ như trên, bần đạo bầy tôi đây chả dám tranh-luận văn-chương hay nghệ-thuật sử-dụng từ-vựng đúng hay sai, nhưng chỉ muốn nói/muốn bàn về âm-hưởng một buổi chiều vàng có nhiều nỗi nhớ, cũng rất thương.

Nỗi nhớ của bần đạo, hôm nay, không phải về những buổi chiều mưa nhiều/ít ở Sài gòn hay Cali, rồi lại khóc. Nhưng, nhớ nhung/nhung nhớ hôm nay lại nhớ rất nhiều về “một buổi chiều” Đức Chúa của mình từng “Phục sinh” hay “trỗi dậy” một lần là mãi mãi. Nhớ nhung/nhung nhớ của bần đạo, nhân một buổi chiều nghe người nghệ sĩ hát cho mình nghe ca khúc có nỗi xót xa, ở bên dưới:         

“Không chi xót xa cho bằng thân phận người
Xa nhà sống một mình đơn côi.
Cũng may thời gian qua vun vút không như Sài Gòn
Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, nhớ cha, nhớ mẹ.
Nhớ anh, nhớ chị.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, những chiều mưa tôi khóc.
Khóc một giòng sông.

(Đức Huy – bđd)

Đấy thấy không? Nghệ sĩ nhà mình chưa kịp hát đã muốn khóc rồi. Khóc thật nhiều, để rồi lại sẽ xót xa thân phận người phàm những là “xa nhà sống một mình đơn côi…”

 Thế còn, nhà Đạo mình mỗi lần nhớ về lễ hội Phục Sinh, Đức Chúa của mình đã “trỗi dậy từ cõi chết”, thì tôi và bạn lại đã nhớ gì? Có nhớ tập tục mà người xưa ở chốn trời “Tây Phương cực lạc” ấy đã mừng kính cũng rất mực, rồi đưa vào văn-hoá Đạo Chúa để rồi trở thành Lễ-Hội Phục Sinh chăng? Nếu không, xin đề-nghị bạn và tôi, ta thử để mắt cứu-xét mục hỏi/đáp trên tờ Tuần Báo Sydney có những lời lẽ rất như sau:

“Thưa Cha, Tôi nhớ có đọc ở đâu đó có nói rằng: cụm-từ “Phục Sinh” có gốc nguồn sử-dụng từ dân ngoại. Điều có có thật không, xin cha cho biết để con đây khỏi tranh-luận, đỡ mất lòng”.

 Vâng. Cha cố nào cũng thế. Hễ nghe đàn con ít đọc sách sử, chí ít là Giáo-sử, cũng sẽ nhanh chân đáp trả ngay kẻo con cái nhà Đạo mình thua cuộc trong cãi cọ, cũng không tốt. Và, câu trả lời của đấng bậc vị vọng, chắc chắn như thế này:

“Trước khi tìm hiểu nguồn-gốc phát-sinh ra cụm-từ “Phục Sinh”, ta cũng nên tự nhắc nhở mình rằng: khi mừng kính Phục Sinh, dù ta có gọi đó bằng tên gọi thế nào đi nữa, vẫn là việc mừng kính Đức Kitô Sống Lại và cùng với sự việc này, ta còn mừng Ngài cứu chuộc tất cả mọi người chúng ta.

 Đây là hội lễ quan-trọng nhất trong năm đối với tín-hữu Đức Kitô và là ngày vui đích-thực, như Thánh vịnh từng có câu như sau: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ (Tv 118: 24).  Xem thế thì, điều quan-trọng không nằm ở chỗ: ta coi sự việc ấy vui đến thế nào, mà là: Qua dự-kiện này, ta mừng kính những gì đây?    

 Quay về lại với danh xưng ngày lễ hội, thì: với ngôn-ngữ trời Tây và ở cả vài nước bên Đông Phương, thì tên gọi “Phục Sinh” xuất-phát từ cụm-từ “Vượt Qua”, tức lướt vượt rồi ngang qua . Hồi tưởng lại thời-kỳ người Do-thái lưu-đày từ đất Ai Cập lạc-loài trở về, họ được dạy là hãy giết cừu non bôi máu lên cửa ra/vào nhà mình, để rồi tối đến thần chết ghé ngang qua sẽ chỉ giết sạch trẻ đầu lòng người Ai-cập không có vết máu bôi lên đó, mà thôi.

 Ta có thói quen sử-dụng tự-vựng Vượt Qua là để qui về Đức Kitô, là chiên con đích-thực ngày Vượt Qua, nhờ cái chết và sự sống lại của Ngài, ta được giải-thoát khỏi ách nô-lệ đoạ-đày của tội lỗi, cái chết và ác-thần sự dữ nữa. Thánh Phaolô có viết lá thư đầu cho giáo-đoàn Côrinthô có gọi điều này bằng những lời sau đây: “Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta.” (1 Côrinthô 5: 7)

Thành thử, đối với nhiều ngôn-ngữ trên thế-giới Phục Sinh đích-thực là Lễ Hội Vượt Qua. Bên tiếng Pháp, mọi người không phân-biệt tôn-giáo vẫn mừng chúc nhau “Niềm Vui Vượt Qua” (“Joyeuse Pâques”), trong khi đó, tiếng Tây Ban Nha cũng mang một ý-nghĩa tương-tự, lại đã dùng ngữ-âm giống như thế, tức: “Felices Pascuas”, tiếng Ý thì gọi: “Buona Pasqua”, ngay cả tiếng Inđô cũng phiên-âm cùng một cụm-từ như”Selamat Paskah”. Trong khi đó, người Bắc Âu cũng làm một việc tương-tự như bên tiếng Hoà-Lan, ta có “Vroliik Pasen”, tiếng Na-Uy lại cũng nói: “God pãske: và tiếng Thuỵ Điển, cũng giống hệt thế, tức: cũng phát lên âm-vực gọi là “Glad Pãske”.

 Còn, hỏi rằng bên tiếng Anh sao lại gọi là “Easter”, nghe cũng lạ. Thì, thánh Bede là thày dòng (672-735) khi xưa có viết về tháng “Eostre” tức tháng Tư, vì đại lễ này được mừng để nhân-danh vị nữ-thần này đúng vào tháng Tư mang tên nữ-thần “Eostre” hoặc “Ostra” mà tiếng Đức có nghĩa là tên của thần rạng đông, mặt trời mọc. Nữ-thần này được mừng kính sau nhiều tháng ngày mùa Đông đen tối che phủ khắp cõi miền ở phương Đông, tức: vị thần mang lại sự sống phục hồi gia-tăng từ bóng tối, tức: sự chết.

 Thật dễ hiểu, khi thấy Kitô-hữu chúng ta nối kết cụm-từ Phục Sinh với Lễ Hội Phục-hồi Sinh-lực, khi ta cử hành mừng sự việc Đức Giêsu trỗi dậy từ sự chết đem ánh-sáng của sự sống đến với thế-gian. Đức Kitô luôn được coi như Mặt Trời của sự Công-Chính và Ngài được nối-kết với trời Đông, rất ý-nghĩa…

 Thành ra, ta có thể nói rằng: bẵng đi từ nhiều thời-đại thần Eostre được coi là nữ-thần của dân ngoại, nhưng cụm-từ “Phục-Sinh” (tức: Easter) lại rất phong-phú về ý-nghĩa đối với. Thế nên, ta cũng đừng tỏ ra quá ưu-tư phiền-sầu về tên gọi, nhưng tốt hơn hãy mừng kính niềm vui của Đức Kitô đã Phục-hồi Sinh-lực từ bóng tối sự chết, thế nên có gọi là Phục-sinh cũng thật rất đúng.”                 (Xem Lm John Flador, Pagan origins of “Easter” and the Christian bent of building on culture The Catholic Weekly 16/04/2017 tr. 32)

 Thế đấy, là lời hỏi/đáp của đấng bậc về Phục Sinh rất thật hay không thật. Còn, về lý lẽ mà nhiều người vẫn cứ đem ra để cãi vã hoặc tranh-luận, lại cũng có vài điểm tích-tụ nghe hơi khác, khiến đấng bậc thày dạy ở Úc có lời biện-luận, như sau:

“Nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục mọi người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra. Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy-tư nghĩ-ngợi, ắt thấy khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao-động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình hợp lý chẳng nghi nan.

 Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài sống lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa. Sự thật, không phải thế.

 Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

 Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

 Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

 Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

 Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống.

 Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo quy cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

 Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

 Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

 Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bừng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

 Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó.” (X. Lm Kevin O’Shea, Có Lần Tôi Thấy Một Người Đi,Lời Chúa Sẻ San Năm A, nxb Tôn Giáo 2013, tr. 115118)  

Nói cho cùng, có suy-tư nghiền ngẫm các sự-kiện Chúa “trỗi dậy” theo thơ văn/nghệ-thuật hay sao đó, cũng vẫn là chuyện nhung-nhớ những gì Đức Chúa dẫn dụ qua thơ văn/truyện kể rất Tin Mừng, rằng:

“Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng:

“Các anh chẳng hiểu gì cả!

Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!

Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,

rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao?”

(Luca 24: 25-26)

 Chậm tin hay không vào “lời các ngôn-sứ”, vẫn là tình-trạng của nhiều người Đạo Chúa rất lâu nay. Chậm hay mau, tin hay không, vẫn là tình trạng “khóc lóc” rất nhiều về một giòng sông đang chảy xiết, để rồi bạn và tôi ta lại hát những lời như:

“Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, nhớ cha, nhớ mẹ.
Nhớ anh, nhớ chị.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, những chiều mưa tôi khóc.
Khóc một giòng sông.

(Đức Huy – bđd)

Thế nhưng, để dung-hoà một tình-tự nhung nhớ, có “khóc ròng” một giòng song, cũng xin đề nghị bạn/đề-nghị tôi ta đi vào vùng tưởng nhớ có truyện kể để kết luận như sau:

“Ngày xưa có 3 cái cây mọc gần nhau trong rừng. Chúng thường nói rì rào với nhau về ước mơ và những hy vọng của mình.

 Cây thứ nhất bảo: “Tớ muốn được trở thành một hộp gỗ quý, được đựng trong lồng một kho báu đầy vàng bạc đá quý”. Cây thứ hai cũng nói: “Tớ muốn được trở thành một con tàu vĩ đại, sẽ đưa các vị vua và nữ hoàng vượt biển. Cuối cùng thì cây thứ ba nói: Tớ muốn mọc thành cái cây cao nhất trong rừng. Như thế, mọi người sẽ nhớ đến tớ”.

 Sau nhiều năm, người ta vào rừng đốn cây. Nhìn cây đầu tiên, một người nói:

– Cây này gỗ có vẻ tốt, tôi sẽ đốn nó bán cho bác thợ mộc gần nhà. 

Cây rất vui vì tin rằng bác thợ mộc sẽ biến nó thành hộp đựng vàng bạc. 

 Người thứ hai vỗ vỗ vào thân cây thứ hai:

-Cây này cũng được, tôi sẽ đốn nó bán cho bác thợ đóng thuyền.

Cây thứ hai rất mừng vì nghĩ rằng bác thợ thuyền sẽ đóng nó thành một con tàu lớn.

 Khi người thứ ba đến gần cây thứ ba, cây này rất thất vọng và lo sợ, vì biết rằng một khi người ta đốn nó xuống, tức: giấc mơ của nó sẽ không bao giờ thành hiện thực nữa. Y như rằng, người thứ ba bảo:

-Tôi cũng sẽ đốn cây này.

 Cây thứ nhất được bán cho người thợ mộc, bác ta đục nó thành một cái như nôi trẻ con nhưng vì không vừa ý nên lại quẳng nó ra sân, thậm chí còn nhét cỏ khô vào. Sự thể đã không như cây tưởng tượng!

 Cây thứ hai được người thợ thuyền đóng thành cái thuyền câu cá bé tẹo. Nó nghĩ giấc mơ trở thành con tàu lớn chở vua và hoàng hậu đá tan tành… Người đốn cái cây thứ ba chẳng có mục đích gì nên ông cứ kệ nó ở trong kho.

 Nhiều năm trôi qua, những cây ấy đã quên đi ước mơ của mình khi xưa. Một buổi tối rét buốt, có hai vợ chồng nghèo đi qua nhà bác thợ mộc. Họ bế một đứa bé mới sinh, đang khóc vì lạnh.Mà mẹ nhìn thấy cái nôi đầy khỏ khô ngoài hiên nên đặt đứa bé vào đó. Được ấp ủ trong cái nôi cỏ, đứa bé thôi khóc, cây thứ nhất –nay là cái nôi– cảm nhận được sự quan trọng của mình lúc đó và biết rằng mình đang được đựng trong lòng một kho báu lớn hơn tất cả vàng bạc đá quí :một sinh linh bé bỏng và tình thương yêu cua bố mẹ em bé.

 Ít lâu sau, người thợ đóng thuyền dùng chiếc thuyền nhỏ đóng băng cái cây thứ hai đi chơi và ngủ thiếp đi. Không may một lúc sau trời trở gió và nổi dông. Thuyền bắt đầu chao đảo, vô cùng nguy hiểm. Bỗng một người dân trên bờ nhìn thấy, vội chèo thuyền của mình thật nhanh tới chỗ người thợ đang ngủ. Bác thợ đóng thuyền tỉnh dậy ú ớ hoảng hốt, nhưng người dân kia đã bỏ thuyền của mình nhẩy sang thuyền của người thợ và lấy hết sức chèo vào bờ.

 Lúc đó cây thứ hai nay là cái thuyền-đã biết rằng mình đang chở một vị vua của lòng dũng cảm. Cuối cùng cây thứ ba, sau một thời gian nằm trong kho tối tăm thì có người đến hỏi mua nó. Người này biến cây thành một cái cột nhỏ rồi vác lên đỉnh đồi, đóng xuống để sắp tới bắc đường dân điện-lần đầu tiên tới vùng hẻo lánh này. Đến khi người ta mắc đường dây điện,cái cây thứ ba- nay là cái cột điện-hiểu rằng mình đang đứng trên đỉnh đồi, cao hơn rất nhiều các cây khác và thực hiện một nhiệm vụ lớn lao khiến ai cũng có thể luôn nhớ tới.

 Và người kể lại cũng có những lời bàn như sau: “Khi mọi việc diễn ra không theo ý bạn mong muốn không có nghĩa là giấc mơ của bạn đã tan tành rồi. Trong cuộc sống luôn có những “kế hoạch dài hạn”, người ta có thể có được những cái mà mình mong ước, nhưng không chắc là đúng như những gì người ta tưởng tượng. Vì vậy, đừng bao giờ thôi mơ ước và hy vọng vào những điều tốt đẹp bạn nhé!” 

Thật ra, truyện kể ở trên không để nói rằng cây cối biết nói lên những gì là tốt/xấu trong đời người. Nhưng, người kể chỉ muốn nói về ý-nghĩa của niềm hy-vọng để ta tin vào sự thật rồi thực hiện ước vọng sống sự thật ấy trong đời mình. Sự thật ở đây, hôm nay, là mơ ước được gặp gỡ Ngài như hai tông đồ từng gặp trên đường Emmaus, nếu tất cả chúng ta quyết thực-hiện những điều Ngài dạy ở Kinh Sách.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những sự kiện tương tự

Khi nhớ đến bài hát

Tôi đã khóc một giòng sông.       

CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

 CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

Phan Sinh Trần

Năm 1974, cha Michael Scanlan, thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, nhận chức chủ tịch trường cao đẳng Steubenville thuộc hệ thống Đại Học Cao Đẳng của Hội Thánh Công Giáo Hoa Kỳ, trường đang trong tình trạng bị xuống cấp thảm hại, bị lỗ lã tài chánh, sinh viên của trường, ngoài giờ học thường dùng thời gian để làm các điều phản luân lý như tụ tập đàn đúm rồi làm tình với nhau, rủ rê lôi kéo chúng bạn sử dụng chích choác ma túy, và cùng nhau đi la cà các quán bar để nốc rượu cho đến lúc say khướt. Tình hình tệ hại tới mức các ứng viên cho chức vụ chủ tịch hội đồng trường Steubenvilled, những người nộp đơn trước cha Scanlan, khi được phỏng vấn ứng viên cho công việc làm này, họ đều có chung một nhận định, đó là, nếu được trở thành chủ tịch thì họ sẽ đóng một hoặc nhiều bộ phận trong trường, duy chỉ có Cha Scanlan là chủ trương cải tổ nhà trường thay vì phải đóng cửa nó. Được hội đồng nhất trí bầu chọn làm vị chủ tịch hội đồng quản trị mới, Cha Scanlan liền bắt tay vào việc cải tổ ngôi trường.

 Trong ba tháng đầu tiên, ngài thường dùng bữa ngay tại các nhà ăn sinh viên, chơi tennis, banh bầu dục, banh chầy, bóng rổ với các bạn sinh viên, Ngài tham dự bất kỳ buổi họp mặt party vui choi nào mà Ngài biết được dù họ có muốn mời ngài đến tham dự hay không mặc kệ, kinh nghiệm này cho Cha sự hào hứng nhưng cũng cho thấy tình trạng bết bát của môi trường, ngài càng đoan chắc một cách tỏ tường rằng những đề nghị cải cách là tuyệt đối cần kíp cho đời sống sinh viên của nhà trường:

–          Trường Cao Đẳng Steubenville cần sự đổi mới, canh tân theo đức tin công giáo một cách sâu sắc và sự trỏ về với căn tính (theo tinh thần thánh) Phan-xi-cô của mình.


Vốn có nhiều kinh nghiệm về Canh Tân đổi mới, Cha liền tổ chức các nhóm Canh Tân Đặc Sủng, tương tự như các tập thể nhỏ mà Cha từng tổ chức khi ngài còn là một giám đốc Chủng viện của dòng thánh Phan-xi-cô. Đây sẽ là các nhóm hạt nhân cho công trình cải tổ của Trường. Cha cũng giành lấy công tác phụng vụ của ngày Chúa Nhật, trong các Thánh Lễ, ngài kết hợp việc ca ngợi Canh Tân Đặc Sủng với các bài giảng thuyết có sức tác động làm lay tỉnh tấm lòng người tham dự. Ngài thiết lập chế độ  “tổ dân phố” đòi hỏi sinh viên tham gia, chương trình này có tính bặt buộc cho mọi sinh viên của Trường, đó là các nhóm nhỏ chuyên chú vào việc phát triển cá nhân và cộng đoàn. Tổ trưởng là các em sinh viên tích cực, đạo dức hoặc nhân viên của Trường. Cha cũng thiết lập một trung tâm Canh Tân Đặc Sủng ở ngay trong khuôn viên trường, làm nơi tổ chức các khóa tĩnh tâm, hội thảo giúp sinh viên tiến xa trong sự hiểu biết về Chúa và đâm rễ sâu trong đức tin Công Giáo. Trung tâm bắt đầu tổ chức các buổi hội thảo vào mùa hè, thu hút được người trẻ đang theo học trong trường cao đẳng đến tham dự, Cha Scanlan thường xuyên nói chuyện ở các buổi hội thảo này.

Khởi đi từ năm 1975 ngay tại khuôn viên trường, Cha Scanlan tổ chức hội thảo hè dành cho các linh mục và trong năm sau, tổ chức hội thào phúc âm công giáo cho giới trẻ học sinh trung học. Từ ngày đó cho đến hôm nay, sinh hoạt trở thành đều đặn mỗi năm, hè về, đã có 55.000 ngàn học sinh và người lớn tham dự các trại hè thảo luận ở 31 đại học Phan-xi-cô trên 16 tiểu bang của Hoa Kỳ và Gia nã đại.

Mặc dù đã có những sự thay đổi chiến lược nêu trên, tuy nhiên, trường cao đẳng Steubenville vẫn còn phải tiếp tục tranh đấu để sống còn. Sau năm đầu tiên, tính từ lúc Cha Scanlan về nhận chức chủ tịch hội đồng và áp dụng các cải cách, tình trạng không khả quan hơn, con số tân sinh viên ghi danh theo học đã ở mức thấp nhất trong lịch sử của trường, đã có 5 nhân viên cao cấp nhất hoặc họ chán nản xin từ chức hoặc bị cho nghỉ việc, các phân khoa bắt đầu mất dần niềm hy vọng cuối cùng nơi tài lãnh đạo của linh mục Scanlan. Mặc cho khó khăn chồng chất, Cha Scanlan càng kiên trì trông cậy nơi ơn không ngoan soi sáng của Chúa Thánh Thần dành cho mình và cương quyết tiếp tục thúc đẩy việc cải cách nhà trường, đặc biệt là về nội dung các khóa học, ngài cũng giới thiệu trở lại phân khoa Thần Học với chương trình học phong phú, Thần Học mau chóng trở thành môn chánh được sinh viên tìm đến ghi danh nhiều nhất ở trường. Ngài cũng trực tiếp trông coi việc phát triển các chương trình hậu đại học, với học vị tiến sĩ cho môn Kinh Tế Quản trị và Thần học, điều này giúp cho trường được công nhận danh hiệu Đại Học vào năm 1980. (Năm 1985 trường được đổi tên là Đại học Phan-xi-cô của thành phố Steubenville).

Cha Scanlan nhận định “Trường Cao Đẳng phải thường xuyên làm mới lại mình. Nó được kêu gọi để tự diễn tả một cách liên tục những giá trị vinh cửu trong thời hiện tại, cho những con người thời nay vốn đối diện với cuộc sống hiện đại. Chính đây là nơi  mà một trường cao đẳng có thể đáp ứng cho các nhu cầu mà các cơ quan tôn giáo khác không làm được. Nguyên tắc đổi mới ở Steubenville được đặt căn bản trên tố chất luôn mới mẻ của Chúa”.

Từ đó, Đại Học Phan-xi-cô đã tiếp tục phát triển và có thêm nhiều uy tín, sĩ số sinh viên theo học được gia tăng và lên đến con số trên 2600 sinh viên hàng năm, Trường tổ chức hàng trăm buổi hội thảo giúp canh tân đổi mới đời sống, làm gia tăng thêm niềm tin Đạo, lòng yêu mến cuộc đời nơi các bạn trẻ. Steubenville nổi tiếng vì giúp tạo nên vài Nhà Thần Học, Chuyên viên Giáo Lý và Doanh Nhân lớn, tầm cỡ thế giới. Hiện nay,  trường có chuyên khoa Thần Học với các bộ môn học thuộc vào loại phong phú nhất trong số các trường đại học Công Giáo  Hoa Kỳ. Ngày nay, ngôi trường Steubenville nhỏ bé được ghi danh trên bản đồ là địa chỉ của một nhà trường Công Giáo cách tân của Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng làm tiêu chuẩn cho các trường đại học khác noi theo.Đến phiên mình, các trường này tiếp tục công việc huấn luyện nên các nhà lãnh đạo công giáo trứ danh, hầu hết đều vươn tới cùng một kết quả tốt đẹp giống như những gì trường Phan-xi-cô đã làm được. Steubenville đã có một ảnh hưởng tuyệt vời cho nền văn hóa Công Giáo ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Làm sao mà sự thay đổi tốt đẹp này đã diễn ra? Điều này đã cần đến một linh mục sẵn lòng đáp trả sự thôi thúc của Chúa Thánh linh để chuyển đổi ngôi trường của hội hè, chơi bời thành ra một trương đại học công giáo tốt nhất thời nay.

Cha Vincent Michael Scanlan là ai mà tạo nên một kỳ tích tuyệt diệu như vậy?

Cha Scanlan thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, Ngài đã ở cương vị chủ tịch đại học công giáo Phan-xi-cô, Steubenville, tiểu bang Pennsylvania trong 26 năm trường.

Khi còn bé Scanlan tuy rất thông minh nhưng lại không chú tâm vào thứ hạng xuất sắc đầu lớp cho bằng cậu muốn được có thêm các sinh hoạt hào hứng được tổ chức trong cộng đồng. Tuy nhiên các sư huynh dòng Thánh Tâm đã có một ảnh hưởng tốt tới đức tin, tính hạnh của Scanlan, đặc biệt là sư huynh Bertin Ryan, người mà Scanlan cho rằng “đã kết hợp tiêu chuẩn cao nhất về đức hạnh, học vấn uyên thâm trong một phong cách đáng mến, với một sức mạnh thân thiện khôn cưỡng”. Được ảnh hưởng trong một thời gian lâu dài bới sư huynh Bertin, em Scanlan mau chóng để cho đức tin làm chuyển hóa và thay đổi cuộc sống của mình. Sự thay đổi toàn diện này làm cho em Scanlan vượt qua bản tính thờ ơ và nhanh chóng tiến đến vị trĩ đứng đầu lớp. Scanlan tốt nghiệp hạng danh dự ở trường trung học Coindre Hall và sau đó theo học tại trường cao đẳng Williams.

Tuy nhiên, tại đây anh bị khủng hoảng đức tin khi chứng kiến sự hoài nghi, và tình trạng thiên về hiện thực trần thế của các giáo sư, Scanlan bắt đầu nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng Đế, rồi trong một thời điểm bị hoang mang lòng tin, Scanlan đã rời khỏi sân trường, anh tiến bước, đi vào một khu rừng bên cạnh trường, anh ở lại trong nơi thanh tịch đến nửa ngày, anh thề hứa sẽ không đi ra khỏi đó cho đến khi Chúa cho anh ơn biết phân định, ơn nhận biết tỏ tường về sự hiện hữu thật của Chúa. Chính vào buổi chiều tối hôm đó, Scanlan cảm nhận có sự hiện diện rất sống động và tốt lành của Chúa, kinh nghiệm này định hướng toàn bộ cuộc đời của anh, nó cũng giúp cho anh tìm về lại đức tin Công Giáo với một nguồn sinh lực mới mẻ.

Tiếp tục việc học, Scanlan theo học tại đại học luật Havard, trong niên học thứ hai, Một hôm nọ, đang khi đi bộ từ nhà nguyện để trở về trường sau thánh lễ sáng, Scanlan lại cảm thấy sự hiện diện của Chúa một lần nữa.Trong giây phút đó, Scanlan biết rằng Chúa muốn kêu gọi anh trở thành một linh mục Công Giáo. Anh rất ngỡ ngàng trước sự mạc khải của Chúa nhưng anh đã thưa vâng không do dự, anh cũng biết rằng mình cần phải hoàn thành việc học luật trước đã.

Ra trường, phục vụ trong không lực, nha quân pháp, làm việc rất giỏi, luật sư Scanlan chưa hề bị thua một vụ kiện nào, anh mau chóng trở thành một quan tòa của Không lực Hoa Kỳ. Cho dù đang thành công lớn trong nghề nghiệp, Scanlan cảm thấy ý muốn của Chúa cho mình là ra đi và gia nhập một dòng tu để phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa. Một lần nữa anh Scanlan thưa vâng với Chúa, anh đi thăm dò để có một nơi chốn tu trì và phục vụ dân Chúa thích hợp với ơn gọi của mình, tìm hiểu ở dòng Tên, dòng Đa Minh và cuối cùng theo ý Chúa, anh chọn dâng hiến đời mình trong dòng Phan Sinh. Tháng 5, năm 1964 Scanlan thụ phong linh mục dòng ba của thánh Phan-xi-cô khó khăn.

Năm1970,  cha nhận được thêm ơn Chúa Thánh Linh trong dịp tĩnh tâm Ngũ Tuần tại Đan Viện Ann Arbor và bắt đầu trở nên lãnh đạo hàng đầu của làn sóng ngũ tuần, tiền thân của phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Cha có một đời sống dồi dào ân sủng Chúa Thánh Linh, trong tình yêu bền chặt với Chúa Giê Su, ngài thường dành thời gian ưu tiên tối đa cho việc cầu nguyện kết hợp với Chúa, dành nhiều giờ, nhất là vào lúc bắt đầu một ngày mới, trước Thánh Thể Chúa. Ngay từ khi còn là một sinh viên ngài luôn tìm cầu ý Chúa trong bất kỳ việc gì cần giải quyết. Cha Davis, bề trên tỉnh dòng Phan Sinh, trong cùng cộng đoàn với Cha Scanlan, kể lại:

–          Cha dậy sớm hơn và trước hầu hết mọi người trong nhà của chúng tôi, ngài ở lại trong nhà nguyện trước giờ chầu Thánh Thể sớm hôm. Ngài luôn có bản Chương Trình Công tác của Ngày hôm đó, Ngài sẽ chăm chú cầu nguyện hỏi Chúa “Rồi con sẽ làm gì với điều này đây?” Bất cứ quyết định nào của Cha luôn bắt nguồn, xuất xứ từ Chúa.

Niềm vui Canh Tân Đặc Sủng của Cha luôn trào dâng ra cho người khác và tạo nên một phản ứng dây chuyền làm vui tươi, thánh hóa cả môi trường, Giáo sư dạy môn thần học của trường, tiến sĩ Hann cho biết:

–          Hồi đó, vợ tôi chưa phải là người Công Giáo, cô ta bị xảy thai, Cha Scanlan cầu nguyên đặt tay cho cô. Kết quả bất ngờ là …không những chỉ có người vợ của tôi mà cả gia đình, chả bao lâu sau, đều được hồi phục sức khỏe thể lý và tinh thần. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, vợ tôi tin phục và có cảm nghiệm tốt về đạo Công Giáo, Kimberly vốn chưa phải là một tín hữu công giáo, nay cô muốn cải đạo và xin trở thành một tín hữu Công Giáo. Hann nói tiếp:

–          Ngài có trực giác nhạy bén, sức mạnh siêu nhiên từ gốc nguồn (của Chúa) xuất ra. Ngài như đang cai quản 12 chi tộc của Steubenville, giống như tổ phụ Gia Cóp khi xưa đã chăn dắt dân tộc Israel, Ngài luôn dẫn dắt mọi sinh hoạt, nào là công tác cho sinh viên, điều hợp các phân khoa, nào giúp linh hướng, linh đạo , giải tội, đặt tay cầu nguyện cho bất kỳ ai có ước muốn… Ngài là một người luôn ở trong sự cầu nguyện và điều này có ảnh hưởng lan tỏa ra cho người khác”   

 

Sau đây là các chia sẻ của Sơ Ann, cộng tác viên của Cha Scanlan, Sơ cho biết:

–          Việc đầu tiên của Cha là luôn đặt Chúa ở trước hết, và luôn tìm ý Chúa trong mọi quyết định về phát triển của ngôi trường. Ngài dặn dò người thư ký, xin hoãn lại tất cả các giờ hẹn cho đến khi Ngài cầu nguyện xong, cho đến khi Chúa chỉ rõ các yêu cầu cần thiết của ngày hôm đó…

–          Cha luôn hỏi Chúa “Làm sao con làm cho nó hoạt động đây?” không phải là cha không có tài, không có năng khiếu, và khả năng. Ngài có thể sử dụng chúng, nhưng điều cốt yếu là Ngài luôn muốn được lệ thuộc vào Chúa. Điều này ghi khắc dấu ấn về thái độ tin thác vào Chúa của Cha, sâu đậm trong tâm tôi, trong mọi việc tôi làm giờ đây, tôi không thể làm mà không có giờ lâu trước nhan thánh Chúa để lãnh hội ý Chúa và biết rõ tôi dành ưu tiên cho công việc theo cách thế đúng đáng nhất.

    … ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự. (1Corinto 15:28)

Cha Scanlan mất ngày 7 tháng 1 năm 2017 sau một thời gian đau ốm. Cha Sheridan, chủ tịch đương nhiệm của đại học Phan-xi-cô, kể lại rằng:

–          Cha Scanlan đã làm chương trình “ Đại Học Phan-xi-cô tường trình” trên đài truyền hình Công Giáo “Lời Vĩnh Cửu”, EWTN (Đài TV công giáo lớn nhất thế giới được truyền dẫn đến 250 triệu gia đình, trong 140 quốc gia khắp năm châu) trong mười tám năm trường, đến nay thì chương trình đã được 23 tuổi, là chương trình thảo luận về thần học lâu đời nhất của đài EWTN. Ngài viết 16 quyển sách về các đề tài tâm linh, là lãnh đạo tiêu biểu của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Ngài đã thuyết giảng hàng ngàn buổi ở Hoa Kỳ và hải ngoại, dẫn dắt vô số người vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa Giê Su Ki tô và Hội Thánh Công Giáo. Điều mà có lẽ, tất cả chúng ta sẽ nhớ nhiều nhất, với thái độ biết ơn, dành cho người cha tinh thần quý mến của chúng ta.

Ông George Weigel, một chuyên viên cao cấp, giám đốc trung tâm nghiên cứu Công Giáo về Đạo Đức và Chính Sách Công đã phát biểu ý kiến:

–          Cha Michael Scanlan là một máy phát năng lượng Phúc Âm, người biết rằng việc canh tân giáo dục cao học Công Giáo là yếu tố rất thiết yếu của công trình Tân Phúc Âm hóa. Tư cách chứng nhân, cách sống quá nhiệt thành, và khả năng nói Tin Mừng một cách hoan hỉ đã là đóng góp chính không chỉ cho đại học Phan-xi-cô nhưng là cho Hội Thánh Công Giáo ở Hoa Kỳ và cho hội thánh trên toàn thế giới

Sơ Ann sau mấy mươi năm làm việc chung với Cha Scanlan, trong mục vụ Canh Tân tại trường Steubenville đã tóm gọn về phương cách Cha đã tiến hành để có thể thay đổi hoàn cảnh cho một người như sau:

–          Một là ngài luôn dâng đương sự và tình trạng của họ lên cho Chúa trong một thời kỳ cầu nguyện liên lỉ sâu dài.

–          Hai là ngài có cách để đem người đó tới với Chúa Giê Su làm gia tăng Đức Tin của họ, và đến phiên họ sẽ lại đi giúp đỡ cho người khác.                    

Ngài xây đắp tình thân của họ cùng với Chúa Giê Su và trong Chúa Giê Su. Ngài không giảng dậy, Ngài sống điều cần giảng.

 Vì chúng tôi không rao giảng chính mình, song là Đức Kito Giê Su, Ngài là Chúa, còn chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em,  vì Đức Giê Su (2Cô rin tô 4:5)

Xin Chúa Giê Su qua tác vụ của Chúa Thánh Linh, cho Hội Thánh Việt Nam, Hội Thánh Toàn Cầu có thêm nhiều linh mục khả kính như cha Michael Scanlan.

Bạn có thể tìm hiểu thêm về hoạt động của Cha Scanlan ở đây:

http://www.ncregister.com/ daily-news/the-man-who- rebuilt-steubenville

https://franciscan.edu/ FatherMike

http://www.iccrs.org/en/fr- michael-scanlan-tor-may-rest- in-peace/

https://www.youtube.com/watch? v=M1G1e1zFzBM

LỜI CHÀO HUYỀN DIỆU

LỜI CHÀO HUYỀN DIỆU 

Chào hỏi là cử chỉ đầu tiên khi hai người gặp gỡ nhau.  Tùy theo cách thức chào hỏi mà người ta nhận ra mối tương quan giữa hai người, cũng như địa vị của họ.  “Ave Maria – Kính chào Bà Maria” là lời chào của Sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin.  Lời chào ấy, vừa thể hiện sự kính trọng, vừa là lời tôn vinh các nhân đức của Đức Trinh nữ.  Lời chào thân thương ấy đã trở thành lời kinh quen thuộc của người Công giáo chúng ta.

Thánh Luca là tác giả duy nhất ghi lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Sứ thần Gabrien và Đức Trinh nữ thành Nagiarét.  Sự kiện này được chính Đức Maria kể lại cho tác giả như một dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời mình.  Gabrien là vị sứ thần được Chúa sai từ trời xuống chào kính Đức Trinh nữ và loan báo mầu nhiệm Nhập Thể.  Đây thật là lời chào huyền diệu, hàm chứa những ý nghĩa sâu xa.  Lời chào này không chỉ khởi đầu cho cuộc gặp gỡ giữa cá nhân, mà còn là khởi đầu của công cuộc Nhập thể cứu độ trần gian.

Trong Cựu Uớc, nhiều cuộc gặp gỡ giữa các thiên sứ (hay người của Thiên Chúa) với người phàm được ghi lại, như trường hợp của ông Abraham hay các ngôn sứ.  Tuy vậy, không có một cuộc gặp gỡ nào được diễn tả với thể thức chào hỏi kính trọng, như lời chào của Sứ thần Gabrien.  Lời chào của Sứ thần là lời chào của chính Thiên Chúa, Đấng sai Sứ thần đến gặp Đức Trinh nữ Maria.  Sứ thần có sứ mạng chuyển tải một thông điệp, với nội dung như Đấng sai mình đã truyền dạy.

“Ave Maria”, đây là lời chào của Đấng sáng tạo ngỏ với thụ tạo của mình.  Lời chào diễn tả sự khiêm nhường của Thiên Chúa.  Vào thời ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ, trời đất và muôn vật muôn loài.  Trong các loài thụ tạo, Chúa dựng nên con người và trao cho họ thay mặt Ngài làm chủ đất đai, canh tác vũ trụ.  Một tác giả đã viết: “Khi sáng tạo, Thiên Chúa giống như nước thủy triều, khiêm nhường thu mình lại để nhường chỗ đất khô cho con người và các loài thụ tạo.”  Nay, Ngài lại có sáng kiến cứu độ con người.  Để thực hiện chương trình ấy, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ đơn sơ khiêm hạ.  Dường như Ngài chờ đợi sự đồng ý của Trinh nữ.  Nếu Thiên Chúa hạ mình chào một thụ tạo, thì Trinh nữ thành Nagiarét cũng diễn tả sự khiêm nhường qua câu trả lời: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”  Đức Maria khiêm tốn ý thức mình chỉ là tôi tớ thấp hèn trước sự cao cả thánh thiện của Chúa.  Nếu Mẹ nhận được những đặc ân cao cả, là do lòng thương xót của Chúa.  Mẹ đã phó thác hoàn toàn theo ý Chúa, vì Mẹ xác tín rằng, những gì Chúa muốn đều tốt cho nhân loại và tốt cho những ai có liên quan.  Khi suy ngắm mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Vui, chúng ta xin cho được sự khiêm nhường, như sự khiêm nhường của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ trần gian.  Chúng ta cũng cầu xin cho được noi gương Đức Trinh nữ, khiêm hạ trước mặt Chúa và sẵn sàng cộng tác với Ngài.

“Ave Maria”, lời chào đi liền với lời ca tụng nhân đức của Đức Trinh nữ Maria.  Sứ thần đã ca tụng Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc.”  Đây không phải là một lời khen xã giao theo kiểu người đời.  Đây cũng không phải là một lời khen tặng mà con người dành cho nhau, nhưng đây chính là lời của Thiên Chúa tôn vinh Đức Mẹ.  “Đầy ơn phúc” là cách diễn tả một người toàn vẹn, thánh thiện, hoàn hảo, đầy đủ mọi đức tính tốt đẹp.  Đức Mẹ có vẻ đẹp thể xác lẫn tâm hồn, vừa đẹp lòng Thiên Chúa vừa đẹp lòng con người.  Vì Đức Mẹ không mắc tội tổ tông, nên Đức Mẹ tinh tuyền, như bà Evà trước khi phạm tội. Tâm hồn và thể xác Đức Mẹ phản ánh sự thánh thiện vẹn toàn của Thiên Chúa, nhờ vậy mà Mẹ được tôn vinh hơn hết mọi phụ nữ trên trần gian.  Lời chào của Sứ thần cũng thường được dịch là “Hãy vui lên!”  Một người đầy ơn sủng sẽ luôn hân hoan vui mừng vì cảm nhận sâu sắc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.  Thiên sứ mời gọi Đức Mẹ hãy vui lên, như tâm tình hân hoan vui mừng của nữ ngôn sứ Sophonia trong Cựu ước, bởi lẽ Thiên Chúa sẽ thực hiện những việc kỳ diệu trong lịch sử, để thể hiện quyền năng và tình thương của Ngài.  Niềm vui tràn đầy của Đức Mẹ đã thể hiện qua kinh Magnificat sau đó.  Niềm vui của Đức Trinh nữ là niềm vui toàn diện, cả linh hồn và thần trí.

“Ave Maria”, lời chào đánh dấu một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.  Tác giả thư Do Thái đã viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua các Tổ phụ và các ngôn sứ.  Đến thời sau hết này, Ngài nói với chúng ta qua người Con” (Dt 1,1).  Với lời thưa “Xin vâng” của Đức Trinh nữ, Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt và cư ngụ giữa chúng ta.  Đấng từ trời cao đã giáng thế.  Thiên Chúa với con người đã nên một.  Từ nay, Thiên Chúa không còn là Đấng cao xa vời vợi, nhưng Ngài đã mang lấy bản tính nhân loại và chọn trái đất là quê hương.  Ngài cũng chọn con người là anh chị em, để cùng chia ngọt sẻ bùi trong cuộc đời dương thế.

Người tín hữu Công giáo lặp lại lời chào “Ave Maria” mỗi khi lần hạt Mân Côi.  Lời chào này đã trở thành lời cầu nguyện thân thuộc, đi liền với tình suy niệm những biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Cứu Thế.  Kinh Mân Côi giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và mở lòng đón nhận giáo huấn của Người.  Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi phác họa chân dung Đấng Cứu Thế, đồng thời giúp ta nhận ra chính thân phận và cuộc đời mình giữa những biến cố Vui, Sáng, Thương, Mừng đan xen với nhau.

“Ave Maria”, ước chi lời chào này luôn vang lên nơi môi miệng và tâm hồn chúng ta, lúc vui cũng như lúc buồn, khi hạnh phúc cũng như khi đau khổ, tuổi thanh xuân cũng như khi xế bóng, để xin Đức Mẹ đồng hành với chúng ta mọi giây phút của cuộc đời.  Khi đọc kinh “Kính Mừng”, người tín hữu Công giáo thể hiện tâm tình phó thác cậy trông nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ và kêu xin: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”  Đây là lời cầu nguyện của Công đồng Êphêsô vào năm 431, sau khi đã tuyên bố tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” như một tín điều.

“Ave Maria”, lời ca tụng hôm nay nơi trần thế, cũng là lời ca tụng giữa triều thần thánh trên thiên đàng, để rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sẽ được hân hoan ca tụng Chúa muôn đời.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Vatican phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima

Vatican phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima

Hàng trăm ngàn người tham dự buổi lễ phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. (Hình: Getty Images)

FATIMA, Bồ Đào Nha (AP) – Đức Giáo Hoàng Francis hôm Thứ Bảy vừa thêm hai trẻ chăn cừu vào danh sách những vị thánh của người Công Giáo. Những em này từng chứng kiến sự hiện ra của Đức Mẹ Maria tại ngôi làng Fatima ở Bồ Đào Nha cách đây 100 năm.

Francisco và Jacinta Marto được Đức Giáo Hoàng phong thánh lúc bắt đầu buổi thánh lễ đánh dấu 100 năm sự chứng kiến của hai em, tổ chức tại Fatima.

Nửa triệu người tham dự buổi lễ, tập trung tại quảng trường rộng mênh mông, phía trước thánh đường. Nhiều người lần chuỗi mân côi và cầu nguyện trong suốt nhiều ngày tại Fatima, trước tượng Mẹ Madona. Họ vỗ tay khi Đức Giáo Hoàng tuyên đọc quyết định phong thánh.

Bà Agnes Walsh từ Killarney, Ireland, cho biết bà từng cầu nguyện cho em Francisco Marto suốt 20 năm qua, bà nói: “Thật là điều tuyệt diệu. Như thể lời cầu xin của mình được trả lời vì tôi luôn có cảm tưởng rằng các em sẽ được phong thánh.”

Đức Giáo Hoàng rời Fatima chiều hôm Thứ Bảy, sau khi lưu lại gần 24 tiếng. Từ chiếc xe đặc biệt dùng để chở giáo hoàng, ngài đưa tay chào hằng ngàn người đứng dọc hai bên đường, đang reo hò, vẫy cờ và hô to “Đức Thánh Cha Vạn Tuế!”

Francisco và Jacinta, 9 và 7 tuổi, và chị họ Lucia, 10 tuổi, hôm 13 Tháng Ba, 1917, thuật lại rằng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria cho các em được trông thấy chừng sáu lần trong khi các em đang chăn cừu.

Các em nói, Đức Mẹ cho các em biết ba điều bí mật, mặc khải về hình ảnh địa ngục, chiến tranh, chủ nghĩa cộng sản và cái chết của một Đức Giáo Hoàng, và khuyên các em hãy cầu nguyện cho hòa bình và sám hối tội lỗi.

Vào lúc bấy giờ, Châu Âu đang trải qua cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, và Giáo Hội Bồ Đào Nha bị bức hại vì luật chống giáo sĩ của chính quyền cộng hòa khiến nhiều giám mục và linh mục phải sống lưu đày. (TP)

Một người đã từng khinh miệt những người đi lễ nhà thờ – bây giờ trở thành linh mục.

Giuse Thẩm Nguyễn
 

(EWTN News/CNA) Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống lại Giáo Hội, nhưng hôm nay Juan Jose Martinez đã trở thành một linh mục và nói rằng mình đã khám phá ra “Thiên Chúa thật sự hiện hữu và muốn trở thành một linh mục của Chúa.”

Hiện nay cha Juan Jose đang phục vụ tại Giáo Phận Almeira, Tân Ban Nha, nhớ lại rằng “Vào những buổi sáng Chúa Nhật tôi thường đứng ở hành lang trên lầu nhà mình và nhổ nước miếng xuống những người đi lễ. Tôi nói với họ rằng Giáo Hội là một giáo phái chỉ muốn tiền.”

Cha mẹ của Juan Jose không phải là người Công Giáo và cũng chẳng bao giờ dạy dỗ con mình về tôn giáo cả. Cha Juan Jose đã nói rằng thực ra mình cũng chẳng biết tại sao lại ghét đạo như vậy dựa trên cái ý niệm là Giáo Hội và Thiên Chúa chỉ là “một tổ chức đa quốc gia với nhiều chi nhánh ở khắp mọi nơi để kiếm tiến, giống một giáo phái vậy.”

“Tôi nhất định chống đạo. Tôi là học sinh đầu tiên trong trường tôi và trong thành phố Carboneras, thị trấn Almeria không bao giờ chịu học về tôn giáo và môn thay thế tôn giáo của tôi là môn Đạo đức. Cuối cùng cả lớp đều học môn Đạo đức, không còn ai học môn Tôn giáo cả.”

Cha Juan Jose đã không thể ngờ được rằng mình lại chính là người giúp các bạn cũ trở về với Giáo Hội. Cha nhớ rất rõ cái ngày đầu tiên cha tới một nhà thờ Công Giáo với ý định là đến để diễu cợt những người đã mời mình.

“Một ngày vào tháng Giêng năm 1995, một số bạn cùng lớp rủ tôi tham dự một buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Dĩ nhiên tôi nói với họ là tôi không đi vì tôi không muốn họ tẩy não tôi. Nhưng họ cứ kiên trì mời tôi mãi cả tháng trời, cuối cùng thì tôi nể tình mà đi theo họ. Tôi nhớ hôm đó là vào ngày Thứ Năm của Tháng Hai, năm 1995, lần đầu tiên tôi bước vào nhà thờ.”

Một cái hộp vàng.

Khi tới nơi tôi thấy rất nhiều các bạn của tôi cũng có mặt ở đó và tôi rất đỗi ngạc nhiên là “tất cả họ đều chăm chú nhìn vào chiếc hộp vàng đặt ở phía cuối nhà thờ. Tôi không biết là hộp gì nhưng cứ nghĩ chắc là hộp đựng tiền của linh mục giáo xứ.”

Sau này tôi biết chiếc hộp vàng đó chính là Nhà Tạm.

Cha Juan Jose nói rằng mình muốn chọc quê các bạn bởi vì “tôi nghĩ họ đã bị điên rồi. Tôi muốn chọc cười họ lắm nhưng vì lịch sự nên tôi cố nén lại và tôi quyết định sẽ trở lại vào Thứ Năm tuần kế tiếp để tìm dịp diễu cợt họ.”

Và cứ thế, qua nhiều ngày Thứ Năm tham dự, cha Juan Jose đã không còn ác cảm với Giáo Hội và tôn giáo nữa.

Cha Juan Jose đã tâm sự với đài CNA rằng “Vị linh mục chính xứ lúc ấy là người rất khôn ngoan giúp đỡ mọi người và dần dần tình yêu của Chúa đã thấm nhập vào tâm hồn tôi. Và rồi vào tuổi 15, tôi bắt đầu hát lễ, điều này có nghĩa là tôi sẽ tham dự Thánh Lễ vào những ngày Thứ Bẩy. Tôi lại cảm thấy thích ngồi trước Nhà Tạm và dần dà tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa và Chúa yêu tôi. Tôi bắt đầu yêu Chúa. Nhóm Canh Tân Đặc Sủng, nhóm mà tôi đến để diễu cợt đã giúp tôi rất nhiều.”

“Mắt tôi được mở ra và tôi đã thấy Thiên Chúa không phải là truyện thần thoại, nhưng Chúa hiện hữu, Ngài nâng đỡ và hướng dẫn tôi. Tôi cảm nghiệm rằng Thiên Chúa yêu tôi rất nhiều và chính Ngài đã gọi tôi.”

“Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài”

Cha Juan Jose đã được rửa tội và rước lễ lần đầu theo mong ước của ông bà nội nhưng mà vẫn chưa cảm thấy gắn bó với Chúa nhiều. Cho mãi đến khi được chịu phép Thêm Sức thì “tôi mới cảm thấy có sự hoán cải và đó chính là món quà tuyệt vời Chúa ban. Tôi đã thưa với Chúa rằng: Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài! Hôm ấy có sự hiện diện của mẹ tôi, nhưng cha tôi thì không đến. Đó chính là giây phút tuyệt vời trong đời khi tôi lãnh nhận Chúa Thánh Thần và biết phó thác đời mình cho Chúa.”

Thế rồi chàng thiếu niên Juan Jose đã không ngớt trăn trở với tiếng gọi để trở thành linh mục. Chàng đã thưa với Chúa rằng “Con không muốn và xin đừng quấy rầy con nữa.” Cuối cùng thì Juan Jose đã đầu hàng và quyết định theo Chúa để trở thành linh mục.

Cha Juan Jose nhớ lại vào một buổi chiều Thứ Bẩy, chàng thanh niên 17 tuổi lúc ấy, nói với bố mình là muốn đi tu. Thế là ông bố nổi giận đánh cho một trận và đe rằng “muốn chết thì hãy làm linh mục.”

Gia đình của Juan Jose không hiểu được vì sao mà ngài lại muốn trở thành linh mục. Ông bố hứa sẽ trả tiền học phí để Jose theo học đại học ở Hoa Kỳ nhưng sẽ không cho tiền nếu vào học ở chủng viện.

Trong lúc khó khăn như thế, cha Juan Jose đã nhớ lại lời cầu xin của Thánh Teresa of Avila “Xin đừng để bất cứ điều gì làm bạn bị phiền lo, làm bạn sợ hãi. Chỉ Thiên Chúa thôi mới thỏa mãn tất cả những gì bạn cần” và khi ông bố đã nguôi cơn nóng giận thì cha đến ôm hôn bố mình và nói “Con biết là bố sẽ phản ứng như thế, nhưng con cũng biết là một ngày nào đó bố sẽ hiểu.”

Đón chào.

Ông bố của Jose còn phản ứng mạnh hơn nữa là đe đọa sẽ tố cáo cha xứ nếu ngài còn tiếp tục giúp con ông suy tư về ơn gọi tu trì. “Bố tôi đã cố gắng làm mọi thứ để ngăn cản tôi, nhưng Thiên Chúa mạnh mẽ hơn nhiều.”

Để nghe lời bố, cha Juan Jose đã không vào chủng viện, nhưng bắt đầu học ngành sư phạm tại Đại Học Almeria. Qua nhiều năm kiên trì tiếp tục với ơn gọi làm linh mục, vào một ngày của tháng Năm, năm 1999, mẹ của cha báo tin là ông bố đã đồng ý cho cha vào chủng viện. Khi nghe tin vui cha đã bật khóc và “Tôi còn nhớ là khi tôi đến báo tin cho cha xứ, ngài đã ôm chầm lấy tôi.”

Thế là vào tháng Chín, năm 2000, Jose đi vào chủng viện.

Vào năm 2006, cha Juan Jose đã được thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Almeria, có cả bố của ngài cũng tham dự.

Cha Juan Jose chia sẻ, “Dĩ nhiên bố tôi không muốn tôi làm linh mục vì ông cố chấp lắm, nhưng khi thấy tôi hạnh phúc theo lý tưởng của mình thì bố tôi cũng phải chấp nhận dù ông không thể hiểu nổi.”

Đặc biệt là cách đây hai năm,trước khi chết, “ bố tôi đã nhận phép sức dầu cho bệnh nhân và chính tôi là người đã ban phép sức dầu cho ông.”

“Khi có ai đó nói với tôi là họ không tin vào Thiên Chúa, tôi luôn nói với họ rằng cả tôi cũng đã không tin vào Ngài. Nhưng đó là sự sai lầm của tôi bởi vì tôi đã khám phá ra niềm hạnh phúc tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho tôi. Nếu bạn cảm thấy không hạnh phúc, thì hãy xin Chúa giúp bạn bởi vì chỉ có Chúa mới ban cho bạn niềm hạnh phúc thật mà thôi.”

Giuse Thẩm Nguyễn

100 NĂM FATIMA: CÂU CHUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA VẪN RẤT CUỐN HÚT

 100 NĂM FATIMA: CÂU CHUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA VẪN RẤT CUỐN HÚT

Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ ở Fatima một thế kỷ trước, vẫn tiếp tục thu hút các tín hữu và cả những người không cùng niềm tin.

 

Trong khi trọng tâm của thông điệp Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha cách đây 100 năm đó là “hoán cải” và “cầu nguyện”, thì những phép lạ và hiện tượng không thể giải thích được đi kèm sự kiện ấy vẫn tiếp tục kích thích sự tò mò đối với đông đảo các tín hữu cũng như những người không cùng niềm tin Kitô giáo.
Các cuộc hiện ra của Đức Maria tại Fatima năm 1917, không phải là sự kiện siêu nhiên đầu tiên được biết đến tại Fatima – bởi hai năm trước khi Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn cừu là Lucia dos Santo và hai người em họ Jacinta và Francisco Marto, thì các em đã thấy một cảnh tượng kỳ lạ khi lần chuỗi Mân Côi ở đồng cỏ.  Điều này ghi lại trong nhật ký của nữ tu Lucia, người sau này trở thành nữ tu dòng Carmen.

“Thật khó để bắt đầu [lần chuỗi] khi chúng tôi nhìn thấy trước mắt mình, một cái gì đó giống người đứng lơ lửng trên không khí phía trên trên những cái cây.  Nó trông giống một bức tượng tuyết, gần như trong suốt trước những tia nắng mặt trời.”  Nữ tu Lucia miêu tả những gì họ đã thấy vào năm 1915.

Năm 1916, Francisco và Jacinta được phép chăn đàn gia súc trên cánh đồng của gia đình, và Lucia cũng tham gia công việc này với hai người em họ của mình.  Vào chính năm này, nhân vật bí ẩn xuất hiện một lần nữa và gần hơn.  Nên các em thấy được rõ hơn.

“Đừng sợ! Ta là Sứ Thần Hòa Bình.  Hãy cùng ta cầu nguyện.” – Nữ tu Lucia nhớ lại lời thiên thần nói.
Ba em không nói với ai về cuộc viếng thăm của thiên thần, và các em cũng không thấy hiện tượng lạ nào nữa cho đến ngày 13 tháng 5 năm 1917.  Khi ấy các em đang chăn cừu và vui đùa cùng nhau, thì bị giật mình bởi hai lần sét đánh.

Khi xuống dốc, các em nhìn thấy một “phụ nữ mặc áo trắng” đứng trên trên ngọn cây nhỏ.

Đây là lần đầu tiên trong sáu lần Đức Mẹ hiện ra với các em.  Và mỗi lần hiện ra, Đức Mẹ đều ban thông điệp và những mạc khải.  Sau đây là lịch sử các cuộc hiện ra của của Đức Mẹ như sau:

– Ngày 13 tháng 5 năm 1917: Khi được hỏi: Bà là ai và bà từ đâu đến?  Người phụ nữ trả lời bà đến “từ trời” và sau này bà sẽ tiết lộ danh tính của mình.  Bà dặn các em trở lại Cova da Iria vào ngày 13 mỗi tháng, trong sáu tháng tiếp theo.  Bà cũng xin các em cầu nguyện mỗi ngày với chuỗi Mân Côi, đ ể “thế giới có được hòa bình” và Chiến tranh thế giới lần I được kết thúc.

– Ngày 13 tháng 6 năm 1917: Người phụ nữ nói bà sẽ đưa Francisco và Jacinta về thiên đàng sớm, còn Lucia sẽ ở lại thế gian một thời gian để truyền bá việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.

– Ngày 13 tháng 7 năm 1917: Người phụ nữ nói sẽ tiết lộ danh tính của mình vào tháng Mười và sẽ “thực hiện một phép lạ để mọi người nhìn thấy và tin tưởng.”  Sau khi phán bảo các em hãy hãm mình hy sinh để cầu nguyện cho kẻ có tội, bà tiết lộ ba bí mật.  Hai trong ba bí mật này đã không được công khai cho đến năm 1941, và bí mật thứ ba do nữ tu Lucia viết và gửi tới Tòa thánh Vatican, đến tận năm 2000 mới được công bố.
Bí mật đầu tiên là thị kiến về Hỏa ngục.  Ở thị kiến này, các em nhìn thấy “biển lửa” với ma quỷ và linh hồn con người đang hét lên “đầy đau đớn và thất vọng.”  Trong hồi ký, nữ tu Lucia kể lại những người đứng gần đó – người dân khi ấy đã bắt đầu tụ tập xung quanh ba trẻ vào ngày 13 hàng tháng – đã nghe thấy những “tiếng khóc” của Lucia trong thị kiến đáng sợ này.

Bí mật thứ hai là Chiến tranh thế giới thứ lần I sẽ kết thúc, nhưng sẽ “có một cuộc chiến tệ hại hơn nổ ra” nếu con người tiếp tục xúc phạm đến Thiên Chúa.  Tuy nhiên tai ương sẽ được ngăn chặn, nếu nước Nga được dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Mặc dù nữ tu Lucia xác nhận rằng, Đức Giáo hoàng Piô XII vào năm 1942 và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1984, đã thực thi việc dâng hiến nước Nga, nhưng nhiều người sùng mộ Fatima vẫn cho rằng yêu cầu đó của Đức Mẹ chưa được thực hiện.

Bí mật thứ ba và cũng là bí mật cuối cùng: Bí mật này được công b ố 83 năm sau khi Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.  Bí mật này là thị kiến về một “vị giám mục mặc áo trắng” bị bắn giữa đống gạch đá của một thành phố đổ nát.  Vatican đã đưa ra cách giải thích chính thức, và đã thảo luận với nữ tu Lucia trước khi công bố cách giải thích này.  Vatican nói bí mật thứ ba đề cập đến cuộc bức hại các Kitô hữu vào thế kỷ 20, và cụ thể là vụ ám sát Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bất thành vào năm 1981.

Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, khi ấy là Tổng trưởng của Bộ Giáo Lý Đức Tin khi bí mật thứ ba được công bố vào năm 2000.  Khi công bố và giải nghĩa bí mật cho báo chí, ngài nói mục đích của thị kiến, không ph ải để cho thấy một “tương lai không thể thay đổi”, nhưng là để “huy động các nguồn lực giúp thế giới thay đổi theo đúng hướng.”

– Ngày 13 tháng 8 năm 1917: Một lần nữa, người phụ nữ nói bà sẽ thực hiện một phép lạ vào tháng Mười và yêu cầu tiền quyên góp của những người hành hương sẽ được sử dụng để xây dựng một nhà nguyện trên địa điểm hiện ra.

– Ngày 13 tháng 9 năm 1917: Người phụ nữ yêu cầu các em tiếp tục cầu nguyện với chuỗi Mân Côi để “thế giới chấm dứt chiến tranh.”  Bà nói rằng Chúa Giêsu, Thánh Giuse, Đức Mẹ Sầu Bi và Đức Mẹ núi Camêlô sẽ xuất hiện trong phép lạ vào tháng Mười tới.

– Ngày 13 tháng 10 năm 2017: Mặc dù trời đổ mưa, hàng chục ngàn người đã đến Cova da Iria để chứng kiến phép lạ được chờ đợi từ lâu.

Người phụ nữ đã công bố mình là Đức Mẹ Mân Côi.  Mẹ cũng cho biết, chiến tranh sẽ kết thúc và những người lính sẽ trở về nhà.  Sau khi yêu cầu mọi người ngừng xúc phạm Thiên Chúa, Đức Mẹ mở tay ra và làm phản chiếu ánh sáng về phía mặt trời.

Nữ tu Lucia reo lên: “Hãy nhìn mặt trời!”  Khi đám đông nhìn lên, mặt trời dường như nhảy múa và thay đổi màu sắc.  Các em cũng thấy Chúa Giêsu, Thánh Giuse và Mẹ Maria như Đức Mẹ đã hứa.  Nỗi ngạc nhiên trước cảnh tượng “mặt trời nhảy múa” biến thành hoảng sợ khi mặt trời dường như lao mạnh về phía trái đất.  Nhiều người lo sợ tận thế đến, nên đã la hét và chạy toán loạn, một số người tìm chỗ trốn trong khi số còn lại vẫn quỳ gối, và cầu xin Chúa thương xót.  Sau đó, mặt trời trở về như bình thường.

Mười ba năm sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, giám mục giáo phận Leiria đã tuyên bố việc ba trẻ chăn cừu thấy Đức Mẹ hiện ra là “đáng tin” và cho phép tôn kính Đức Mẹ Fatima.  Tuy nhiên, vị giám mục không công nhận hiện tượng mặt trời nhảy múa là phép lạ.

Anna Huê (theo Catholic Herald)

Nguồn: nhathothaiha

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi