TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa Vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.  Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh?  Nếu đúng thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?

“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa – Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa.  Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa – Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người.  Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại.  Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.”  (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).

Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin!  Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn].”  Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được “đầy ân sủng” sao?  Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi.  Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi.  Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20).  Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu.  Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhi giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa.”  Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.  Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ… hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55).  Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha.”  Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.”  Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ trấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.”  Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”

Giáng sinh đã gần lắm rồi!  Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu.  Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!

Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng.  Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót.  Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này.  Amen!

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

From Langthangchieutim

SUY TƯ GIÁNG SINH

SUY TƯ GIÁNG SINH

Trầm Thiên Thu

 Lễ Giáng Sinh có nhiều điều khiến phải “động não,” xét mình, suy tư, chấn chỉnh, quyết tâm… để chính tâm hồn trở thành “hang đá” cho Đấng Cứu Thế giáng sinh – chứ không phải hang đá vật chất.

Giáng Sinh cứ đến rồi đi như chiếc xe buýt chạy qua trên đường, tôi thấy kiểu nào và rút được bài học gì không?  Đây chỉ là suy tư riêng, xin được chia sẻ…

  1. Đơn Sơ

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về tính Đơn Sơ – đơn sơ trong lời nói, cử chỉ, thái độ, hành động, ánh mắt, nụ cười, tín thác, yêu mến…

Chúa Giêsu sinh ra là một trẻ thơ.  Trẻ thơ luôn đơn sơ, hoàn toàn tin tưởng vào cha mẹ, không so đo, không tính toán.  Như vậy, sống đơn sơ cũng là sống khiêm nhường: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3).  Chính Đức Kitô cũng đã căn dặn và “mách nước” để sống giữa thế gian: “Hãy khôn như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10, 16).  Còn Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà Eva thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Kitô như vậy” (2Cr 11, 3).

  1. Mau Mắn

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về sự mau mắn – mau mắn trong mọi việc, tâm linh hoặc đời thường.  Sự mau mắn liên quan sự dứt khoát.  Không dứt khoát thì không thể mau mắn, và không mau mắn thì không thể dứt khoát.  Thiên Chúa không thích thái độ lừng khừng, chần chừ, lần lữa.  Chính Ngài đã thẳng thắn và dứt khoát: “Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3, 16).  Tôi phải bắt chước các mục đồng mau mắn đến với Chúa: “Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).

  1. Khó Nghèo

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về Đức Khó Nghèo – khó nghèo trong lối sống, sinh hoạt, tiêu xài, ý nghĩ.  Mầu nhiệm Mai Khôi thứ Năm của Mùa Vui: “Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn.”  Khó khăn ở đây là “sống Đức Khó Nghèo” chứ không phải là “khó chịu”, “khó tính”, “khó ưa”,…  Can đảm chấp nhận cảnh sống khó khăn là một nhân đức, vì chính Chúa Giêsu tự nguyện trở thành Đệ Nhất Hàn Vương – từ Bêlem tới Canvê.

Theo Việt ngữ, “nghèo khó” cũng như “khó nghèo”.  Vâng, hãy sống “khó nghèo” thực sự chứ đừng sống “KHÓ (mà) NGHÈO”, tức là chỉ nói suông, vẫn ung dung tự tại, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.”

Dụ ngôn Phú Hộ và Ladarô nghèo khổ (Lc 16, 19-31) cho thấy cái Phúc của sự khó nghèo, và Chúa Giêsu cũng bảo người ta đãi tiệc thì mời những người nghèo (Lc 14, 12-14).  Cố gắng đừng nao núng như lời kể của Thánh Phaolô: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại” (2Cr 8, 2).  Một trong Tám Mối Phúc cũng nhắc đến đức khó nghèo: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3; Lc 6, 20).

  1. Vâng Phục

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về đức Vâng Phục – vâng phục trong sự khiêm nhường và vui vẻ.

Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.  Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11, 30-32).

Vâng lời trọng hơn của lễ (1Sm 15, 22 và Tv 50, 8-9).  Thật vậy, Thiên Chúa luôn đề cao đức Vâng Lời.  Về việc con cái vâng lời cha mẹ, Thánh Phaolô nói: “Vâng phục cha mẹ là làm đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).  Thật vậy, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô vẫn giữ trọn đạo làm con đối với cha mẹ: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51).

  1. Bảo Vệ Sự Sống

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về việc Bảo Vệ Sự Sống – bảo vệ thai nhi, giúp đỡ bệnh nhân, người hoạn nạn…  Tại nơi hang chiên lừa ở Bêlem, Chúa Giêsu đã giáng sinh trong hình hài một trẻ thơ.  Trẻ thơ cũng là một con người với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.

Bảo Vệ Sự Sống là trách nhiệm của mọi người.  Sự sống là Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã định nghĩa về Ngài: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6a).  Rồi Ngài xác định: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6b).

  1. Chia Sẻ

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về Đức Ái – mến Chúa và yêu người, thậm chí là yêu loài vật, yêu thiên nhiên… vì Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8).  Yêu thương liên quan việc chia sẻ.  Chia sẻ tinh thần hoặc vật chất.  Chia sẻ là “trả nợ.”  Chia sẻ là yêu thương, tức là thực hành Luật Yêu của Thiên Chúa.  Chia sẻ là yêu người, yêu người là mến Chúa; không yêu người là không mến Chúa: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1Cr 16, 22).  Thánh Phaolô xác định: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 8).  Dù là phàm nhân, cổ nhân cũng đã minh định rạch ròi: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu – Lưới trời lồng lộng, không ai thoát được”.

  1. Tạ Ơn

Tất cả là hồng ân, vì không có Chúa thì tôi chẳng làm được trò trống gì, chỉ là vô tích sự: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).  Tạ ơn là bổn phận và trách nhiệm của thụ tạo đối với Thiên Chúa, Đấng tác sinh muôn loài hữu hình và vô hình.  Lễ Giáng Sinh là hồng ân cao cả, vì Con Chúa đến không chỉ để đồng cam cộng khổ với tôi trong thân phận kiếp người, mà Ngài còn cho tôi “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết can đảm sống theo gương của Con Một Ngài.  Xin Chúa giúp con viết những gì con sống, và sống những gì con viết.  Xin Chúa thương soi sáng, gợi ý và hướng dẫn con mỗi khi con viết lách về bất cứ điều gì hoặc ở dạng nào.  Xin Chúa giúp con thành tâm chia sẻ chính Ngài với tha nhân, để làm vinh danh Ngài chứ không vì danh giá riêng con.

 Lạy Đấng là Chân Lý, nếu con có gì lệch lạc, xin Ngài dập tắt ngay từ khi manh nha.  Xin Ngài cho bất kỳ ai gặp con thì cũng đều gặp được Ngài, và con cũng nhân thấy Ngài nơi họ. Con cũng chỉ xin Ngài như bổn mạng của con là Thánh Thomas Aquino: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi.”  Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của con.  Amen.

 Trầm Thiên Thu

From Langthangchieutim

NGƯỜI KITÔ HỮU CHUẨN BỊ ĐÓN NOEL

NGƯỜI KITÔ HỮU CHUẨN BỊ ĐÓN NOEL       

    Người Kitô hữu có hai ngày đáng ghi nhớ nhất: đó là lễ Giáng Sinh và lễ Phục sinh.  Trước hai ngày lễ trọng đại đó có Mùa Vọng và Mùa Chay để chuẩn bị.  Người Kitô hữu Việt Nam chuẩn bị thật rốt ráo.  Chẳng hạn như chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, thì bên ngoài lăng xăng lo làm hang đá, đèn đóm, tượng ảnh, cây thông, băng nhạc, băng video….  Bên trong lo quét dọn chùi bóng: xưng tội.  Vậy là có cả bên trong và bên ngoài, tốt quá đi chứ, còn chê vào đâu được.

            Thế nhưng, nếu cứ như thế năm này qua năm khác và chỉ có thế thôi, thì lối sống đạo như vậy đã an tâm được chăng ?

            Vấn đề xưng tội có vẻ như chỉ chờ đến ngày này mới ào ào đổ xô đi xưng tội.  Chen lấn, xô đẩy, giành giật, cãi vã, la mắng nhau om sòm, chạy sang tòa này chạy tới tòa kia lạch bạch như… vịt.  Bởi thế, nên có cả tội mới toanh vì vừa mới phạm: đó là tội chen lấn chửi nhau trước khi vô tòa.  Đúng là tội còn nóng hổi vừa thổi vừa xưng.

            Tôi nhận định thấy là tất cả đều vội vàng, từ cha đến con, từ già đến trẻ, ai ai cũng sốt ruột, ai ai cũng muốn cho mau, cho xong, cho yên cái lương tâm sún răng… nên cần dốc hết dốc cạn ra.

            Phần linh mục cũng muốn giải quyết số lượng chồng chất quá tải đó nên cần vắn tắt, đúng công thức thuộc lòng, nhanh nhanh một chút cho nhẹ gánh bởi vừa giải tội vừa lo giữ trật tự, đôi khi phải có bộ mặt hình sự, đôi khi phải quát.  Tội gì thì cũng phải tha và cho việc đền tội chẳng biết bao nhiêu cho đủ, nhiều lúc cũng muốn nói ít lời, khuyên nhủ đôi câu, nâng đỡ đôi điều nhưng cứ thấy cái đuôi rồng rắn dài cả cây số mà nghẹn cả cổ, cố làm sao cho các toa tầu lửa mau rút ngắn lại, mà cái đầu tầu càng sốt ruột thì lại càng thấy lần lần được chắp nối thêm toa.  Các toa chắp nối vào rất từ từ nhưng lại rất khốc liệt.

            Phần tín hữu thì bá nhân bá tánh, đủ mọi kiểu xưng tội, đủ mọi thứ kể lể, đủ thứ mở đầu và kết thúc.  Tội to tội bé, tội nặng tội nhẹ tội trên trời tội dưới đất, tội địa ngục… chờ đến ngày này mới “xả” ra.  Người vài tháng, người ít năm, người lâu năm.  Người kể lể tỉ mỉ, người kể đại khái, người nói ít lần, người nói nhiều lần, người không nhớ ít hay nhiều nữa.  Người kề cà xin lời khuyên lời răn, người nhấp nhổm chưa xong đã chạy, người nín hơi kể một lèo tuồn tuột, người ngâm nga ê a thưa gửi.  Người kể tội người khác, người chưa kể đã biện hộ.  Người thở hơi rượu, người thở hơi thuốc lào, người thở hơi hôi thối, người thở hơi ngai ngái.  Người giọng Bắc, giọng Nam, giọng Trung, trầm bổng đủ mọi thứ giọng…  Cả là một bi kịch diễn ra trong vội vàng, ai cũng muốn cho xong cho qua.  Cũng trong ngày này cũng có người thích xưng tội ngoài giờ, ngoài luồng không biết có phải ngại xếp hàng, ngại chen lấn, sợ mất thời giờ  không?  Họ có những lý do như con bệnh, nhà xa, mới đi làm về, mai phải đi xa, xếp hàng suốt sáng đến giờ mà chưa được xưng…?  Ra nhưng không xưng tội được là không xong, không nhẹ mình, không mừng lễ?  Ôi!  Mừng lễ Giáng Sinh mà như sắp tận thế?

            Giáo Hội xếp đặt những lễ quan trọng, nhắc nhở những biến cố trọng đại đó có ý nghĩa gì, muốn dậy dỗ khuyên nhủ tín hữu điều gì?  Nếu chỉ có kiểu sống đạo niềm tin như tín hữu có thói quen “tốt lành” giữ xưa nay thì có đánh mất ý nghĩa chính của những biến cố trọng đại ấy không?  Và chỉ dừng ở đó là đủ sao?  Là đạt phần rỗi, là tót vào nước trời thẳng cẳng ru?

            Có thắc mắc hỏi tại sao để đến ngày này mới tẩy uế linh hồn cách dồn dập như thế?  Họ trả lời Giáo Hội làm những “cái cột mốc” để tín hữu có thời gian tính sổ trả nợ.  Có bày ra như thế mới tạo dịp nhắc nhớ cho họ, kêu gọi họ, bắt ép họ.  Mùa Thường Niên là mùa thoải mái, mùa thênh thang tự do, mùa tối tăm mắt mũi vào công ăn việc làm, sô bồ giành giật, lọc lừa, dối gian… chơi bời thỏa thuê.  Tội lỗi xếp đấy chẳng áy náy, chẳng buồn nghĩ, chẳng hơi sức đâu mà lo nghĩ đến đạo.  Chờ đến ngày tính sổ “nộp thuế” thì dồn dập ào ào như thế mới bớt sợ, bớt run vì mình chỉ là phần tử nhỏ nhoi trong cái khối khổng lồ ấy, chẳng ai thèm để ý đến mình, chẳng linh mục nào muốn bắt bẻ mình, chẳng vị nào biết tông tích gốc rễ đời mình dù tội mình có tầy trời.

            Người mục tử và đoàn chiên, sao mà kỳ quặc dễ sợ?  Sao không có những phút giây thanh thản bình an bên nhau để sửa đổi, để chia sẻ, để hướng dẫn trong thân tình mặn mà, nồng ấm đạt tới một đời sống đức tin chân thật?  Đi vào cuộc gặp gỡ, sống mối tương quan, sự gắn bó kết hiệp mật thiết với Chúa trong cái thường ngày để chan hòa vào đời sống cho cuộc sống mình và tha nhân tốt đẹp, sạch sẽ, lành mạnh hơn.  Như thế đâu có phải là chuyện trên mây trên gió?  Đâu có phải là chuyện viễn vông không tưởng?  Sống với một thế giới vật chất dồn dập, đời sống tâm linh cũng chẳng khá hơn.  Do đó, ra như giữa chủ chăn và con chiên, ai cũng bận rộn, hoặc còn ái ngại hoặc có một khoảng cách nào đó nên không có thì giờ để gặp gỡ để chia sẻ niềm tin.

            Với nếp sống đạo như thế đó, Nước Trời vẫn xa lắc xa lơ, thiêng liêng và trần thế vẫn cứ tách rời nhau, nhà thờ và gia đình không có dính dáng, đọc kinh và việc làm chẳng ăn nhập.  Chung cuộc, mong gặp được linh mục ở giây phút cuối cùng của cuộc đời này là may mắn, là số hên, là trúng độc đắc, đúng không?

           Tấm lòng ở đâu?  Tình yêu ở đâu?  Lòng xót thương của Chúa ở đâu?  Hẳn còn xa tít mù khơi chăng?  Để những ngày Mùa Vọng Chúa vất vả lo giải quyết, thanh toán, còn Mùa Thường Niên ngồi chơi xơi nước, khỏe re.  Sống đạo theo mùa, theo thời tiết, có mùa nghỉ chơi với Chúa, có mùa phải tính sổ.  Nhìn cảnh sống đạo đang diễn ra cũng là cái chúng ta thấy được chúng ta đang nhào nặn lên một ông thiên chúa cho kiểu sống đạo của chúng ta.  Thế đấy!  Tôi viết ra đây cũng chẳng phải ngon lành gì hơn ai.  Nhưng chúng ta can đảm nhìn lại, đặt lại cách sống đạo để Thiên Chúa, Người còn có cơ hội dậy chúng ta khám phá nhiều điều mới mẻ, sâu rộng hơn…

            Trong đời sống âm thầm trầm lặng mỗi ngày, Chúa vẫn sinh ra và lớn lên trong tâm hồn.  Ngài đã sinh ra nơi cánh đồng hoang vu thanh vắng, trong hang đá bò lừa tối tăm hôi hám, Ngài đã không bịt mũi xua tay, thì tâm hồn rách nát mỗi người Ngài cũng không ngần ngại mà hiện diện ở đó.  Nếu nhận thức được như thế thì phải chăng ngày nào cũng là ngày lễ Giáng Sinh vui vẻ và mùa nào cũng là mùa xưng tội.  Yêu thương và tha thứ.

Mong Manh

From Langthangchieutim

Nói ra sợ mất lòng em,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 1-8)

 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ Isaya có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.”

Đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”

Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

&   &    &

“Nói ra sợ mất lòng em,”

“Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Nhà thơ vì sợ mất lòng, nên không nói. Vì có nói ra, thì lòng mình nay cũng mất. Nhà Đạo tuy có lòng nhưng không sợ mất. Có sợ chăng, chỉ sợ mất tính chân phương, lành thánh rất đích thật, Tin Mừng theo thánh Gioan nay nói về tính chân phuơng chốn quê mùa, của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả rất thánh, ngoài tính đơn sơ chân thật của đấng bậc ở quê làng/đồng nội còn là nhân chứng cho công trình Nhập thể của Chúa, nữa.

Tin Mừng thánh Gioan viết, ngoài tính chất thấy rất rõ ở lời tựa, còn là bài chia sẻ/giảng dạy ở đền thờ để người người dựa vào đó mà suy tư các bài đọc ở Cựu Ước. Thoạt khi mới đọc, người người tưởng như nghe lại truyện kể rất xưa/cũ nay áp dụng vào với thời đại mình sống, với dụng đích để ta, người đọc kinh ngạc rồi thức tỉnh và hiểu biết việc Chúa làm. Tin Mừng còn kể về trình tự sáng tạo trời đất để dẫn giải ý nghĩa rất căn nguyên của bản văn súc tích, chất đầy nhựa sống.

Dẫn giải Kinh Sách Cựu Ước về công trình sáng tạo trời đất, thánh sử Gioan ghi lại đoạn sách Châm Ngôn coi Đức Khôn Ngoan như người thành thân và thành nhân. Văn phong đoạn sách về Đức Khôn Ngoan ra như có trước Đạo của người Do thái. Bởi, Sách này xuất tự thế giới Do thái, có những điều được xác định:“Đức Chúa dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Ngài, trước mọi công trình của Ngài từ ngàn xưa”(Cn 8: 22). Thêm vào đó, sách Châm Ngôn nói Đức Khôn Ngoan hiện diện với con người bằng khẳng định: “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên trái đất và lưu lại ở với con người”.

            Cũng nên hiểu, Đức Khôn Ngoan đến với thế giới gian trần trước thời Chúa tới. Nhưng, vẫn không được đón nhận dù Đức Khôn Ngoan là Ánh sáng cho muôn dân. Thế nên, Ngôi Lời Nhập Thể là cách Chúa dùng vào việc chỉnh sửa vấn đề này. Đây là tính độc đáo của Tin Mứng theo thánh Gioan.

Thật ra, thánh sử Gioan mượn ý và lời về Đức Khôn Ngoan là từ các học giả Do thái để nói rằng thánh sử không tạo ra Đức Khôn Ngoan hoặc Ngôi Lời Nhập Thể, mà thánh sử chỉ tạo nên tính độc đáo cho Tin Mừng mình đã viết, qua khẳng định:“Lời đã thành xác phàm và lưu lại nơi chúng tôi” (Ga 1: 14)

Giáo huấn của Đạo khởi sự ngay từ đây. Thánh sử Gioan lại quả quyết: Đức-Khôn-Ngoan-Ngôi-Lời đã từ trời nhập thể với Đức Giêsu. Từ đó, trở thành ánh sáng rất huy hoàng, làm Bậc Thày Dạy Nhân Hiền về thời ấu thơ của Chúa đến với nhân trần. Với thánh sử, đây là lý do khiến Chúa thành phàm nhân, rất Khôn Ngoan.

Khi xưa, Môsê là bậc thày cao cả của Do thái. Ông giảng dạy cho chúng nhân bằng Luật Torah. Còn, Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ của Môsê bằng xương thịt Ngài qua mầu nhiệm nhập thể và nhập thế. Luật Torah chỉ cần đến bậc giảng dạy tốt lành, thôi. Còn, Ngôi Lời Nhập Thể là Bậc Thày Đích Thật chuyên giảng và dạy về công trình Cứu Độ của Chúa bằng xương thịt cùng máu mủ của Người Con Chúa. Qua Môsê, Chúa dùng bản Luật Torah, để người người hiểu được Ngài. Và qua Đức Giêsu, Ngài gửi đến dân gian chất giọng Ngài nhập thể nơi xác phàm và miệng của Chúa.

Ngôi Lời Nhập Thể là Vị Thầy Dạy rất tốt lành. Là, Đấng Giảng Dạy thành tựu hơn cả lời lẽ, với chữ viết. Ngài là sự Khôn Ngoan có kiến thức rất sách vở nhờ công trình Nhập Thể nay thành hiện thực. Chính Đức-Khôn-Ngoan-bằng-xương- bằng-thịt nay tạo nên sự khôn ngoan cho chúng nhân có thịt cùng xương máu ngõ hầu tỏ bày ý nghĩa để người người hiểu, bằng vào phạm trù của chính mình.

Nhờ thế, dân con Đạo Chúa mới xác tín được điều này và rồi sẽ cùng thân mình Chúa đề ra nhiều điều mới mẻ để người người ở xã hội có thể trở thành người thật. Tất cả tin rằng tính chất rất “người” của con người nay trở thành nôi ấm tình nồng để Chúa Nhập Thể và nhập thế. Và nhờ đó, họ sẽ tin: sự sống mới đến với nhân gian loài người, nhờ Đức Giêsu tái lập và định hình những gì liên quan đến bản thể người của con người.

            Đức Giêsu Nhập Thể, là Khởi Đầu rất khác biệt của nhân loại nay nhân rộng, ngõ hầu họ làm được những gì mà trước đó người trần không thể làm. Sự Sống của Ngài là Khởi đầu. Là, Quà tặng. Là, sự Thành Tựu cho mọi thành tựu. Tổng trấn Philatô khi dẫn Đức Giêsu trình diện dân Do thái ông đã có câu nói để đời: “Này là Người!”. Câu này phải hiểu: điều ông nói mang ý nghĩa một khẳng địnhNày là nhân loại đổi mớiLà nhân sinh rất mới, của con người!”      

            Nhờ Nhập Thể, ta có được sự thân mật cần thiết chưa từng có giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Nhập Thể, người người đã mở rộng đất cho sự sống mới để dân con nhờ đó mà sống sinh động. Nhờ Nhập Thể, Thiên Chúa đối xử với con người như Người Cha Nhân Hiền. Và nhờ đó, tất cả chúng ta được sáng tạo theo cung cách “sống ở nhà”, nghĩa là: cung cách của con trẻ “ở với cha mẹ” theo nghĩa Chúa Giêsu vẫn từng làm với Cha Ngài. Và theo nghĩa Thiên Chúa “ở tại nhà” với Đức Giêsu.

Kết quả là, nhân loại nay có được sự tự do để sống với Chúa. Thứ tự do chưa ai tưởng tượng nổi, hoặc nghĩ ra. Tự do, vì mình sẽ không còn hãi sợ điều gì. Tự do, vì mình có thể tin vào ai đó, cũng tự do. Và, kết quả là: ta có sự tự do sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho nhau như Đức Giêsu đã hiện thực cho Cha bằng cách ra khỏi bản chất rất Thiên Chúa của Ngài, để đến với con người hầu Ngài sẽ sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho mọi người, ở trần thế.

Sống và làm thế, cũng rất nguy. Nguy, là bởi ta tin vào nhiệm tích Chúa Nhập Thể và nhập thể giống như Chúa. Tức, sống cuộc sống mà hệ thống chính trị và tôn giáo ở đời không thể hiểu được tại sao ta lại sống như thế. Và, hệ thống ở đời đã và đang tìm cách trừ khử những ai quyết sống nhập thể và nhập thế, giống như ta. Sống nhập thể và nhập thế, là tạo sự kinh ngạc lớn. Kinh ngạc, là: nó không giúp ta thích nghi với qui ước do người đời thiết lập. Sống hiện thực theo cung cách nhập thể, buộc ta phải xét lại xem mình là ai. Mình đã làm gì để Chúa có thể Nhập thể và nhập thế vào nơi ta mà sờ chạm chính con người của ta. Có như thế, ta mới có thể sờ chạm Ngài, bởi Ngài đã nhập thể và nhập thế làm người như ta và với ta bằng xương bằng thịt.

Không ai có thể tạo sự thật vĩnh cửu được như thế. Cũng chẳng ai tạo được công thức toán học mới mẻ như thế, để mà sống. Nhưng, ta là cộng đoàn có Chúa-ở-cùng-và-ở-với bằng công việc Ngài từng làm và sẽ làm sau cái chết và sống lại hiển vinh, là khoảnh khắc quyết định mọi sự nay khác trước. Khác, như một tạo thành rất mới mẻ. Khác, vì ta được tạo dựng bằng xương bằng thịt nơi Ngài và qua Ngài. Khác, để ta có thể sống cho nhau, vì nhau mà sống với Chúa. Và, cho Chúa.

Hội thánh không là hệ thống tư tưởng đơn điệu, có sẵn hoặc dễ tiêu hoá. Ngay cả ý tưởng về Đức Giêsu Nhập Thể cũng như thế. Như thế, do bởi Hội thánh chính là thực thể qua đó người người có thể bám víu vào mà nhìn sự việc theo chiều hướng khác hẳn về Thiên Chúa. Và, về nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề còn tuỳ thuộc cung cách ta mong muốn và dự tính sẽ sống ra sao. Tuỳ cung cách mà người người vẫn sống và cứ sống. Sống, không cần biết là thế giới ta chung đụng sẽ lớn rộng như thế nào. Và, tất cả sẽ tuỳ thuộc tính nghiêm túc mà con dân trần thế được Chúa chấp nhận, ngang qua việc Ngài nhập thể và nhập thế.

Phụng vụ Hội thánh chọn Tin Mừng hôm nay tập trung vào chuyện thánh Gioan Tẩy giả như chứng nhân từng sống đời nhập thể và nhập thế với mọi người. Chính vì thấy được tính dịu hiền và ân huệ đích thực nơi bản thể “người” của Đức Giêsu mà thánh Gioan Tẩy giả đã thành nhân chứng cho Chúa, Đấng chấp nhận thân phận làm người, để sống với con người. Thánh Gioan Tẩy giả từng sống như Ông Già Tuyết trên mức tuyệt vời, hơn cả Ông Già Tóc Trắng rất Noel, từng chứng tỏ cho mọi người thấy ai là Đấng đến để ở với ta, vào lễ hội rất “Emmanuel” này.

Trong tâm tình cùng Chúa và với Chúa sống đời nhập thể và nhập thế, ta hân hoan tưởng nhớ lời thơ chân quê, để vui hát:

                        “Hoa chanh nở giữa vườn chanh,

                        Thầy u mình với chúng mình chân quê.

                        Hôm qua em đi tỉnh về,

                        Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

                        (Nguyễn Bính – Chân Quê)

Nhập thể và nhập thế rất hôm nay, là nhập vào tính chân quê với thầy u thương mến rất Nước Trời. Ở nơi đó, có Chúa-ở-cùng con người. Có người anh/người chị ở Hội Thánh Nước Trời, đã cùng mình sống tính chân quê hiền hoà, rất thánh hoá. Hôm nay và tương lai mai ngày.          

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Ngày ấy em như hoa sen,

Hạnh phúc lang thang…. tiếng hát Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=KWRn9mVWG3U 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

                                            “Ngày ấy em như hoa sen,”

“mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên
Ngày ấy em như sương trong,

nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)

 (Công vụ 1: 6-8)

Giả như ta chuyển ý bài hát ở trên sang thành tư-tưởng của nhà Đạo, thì sẽ thấy câu tiếp diễn tả rất như sau:

“Ngày ấy em như cung tơ,

cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,

ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình, mà lòng người cũng vô tình,

rồi màu úa thay màu xanh
Người yêu xa bến mộng, đò xưa đã sang sông,

giòng đời trôi mênh mông.
Dáng xưa nay xa rồi, đường khuya mưa rơi rơi.
Phố xưa quên một người, bàn chân gieo đơn côi.
Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.

Ngày ấy yêu em say mê, tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly.
Tình ái không xanh như thơ, đến chung hơi thở,

rồi trôi rất xa
Hạnh phúc lang thang như mây, cho hồn héo gầy,

khi ta còn đây
Từng đêm qua trong giấc mơ,

vẫn mong chờ có em về.

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – bđd)

Nói theo kiểu nhà Đạo hôm nay, thì bần đạo đây lại nghĩ thế này: từ lâu lắm, bần đạo cứ giữ đạo theo kiểu con trẻ. Tức là: đem nguyên si những gì mình suy nghĩ về Đạo đi vào cuộc sống rất thời thượng, mà chẳng lý gì đến thời thượng/thời hạ gì ráo trọi.

Nói xa nói gần chi bằng ta cứ nói thiệt, rằng: xưa và nay, người nhà Đạo mình giống như bần đạo bầy tôi đây, lúc nào cũng suy tính tình trạng đi Đạo theo số lượng, mà thôi. Cứ xét theo con số như thế, ắt hẳn tôi và bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi đọc giòng chảy thống-kê ghi ở tuần báo Đạo Sydney, như sau:

“Khảo sát/nghiên-cứu mới về cuộc sống của Giáo-hội Công-giáo Úc vừa qua cho thấy: đang có sự gia-tăng đáng kể về số lượng cư-dân đa văn-hoá, nữ-giới có học-lực cao so với dân-cư bình-thường ở các quận/huyện trên toàn nước Úc.

Khảo-sát trên cho thấy: 43% người Công giáo tham-dự Tiệc Thánh là những những người đến từ nước ngoài. Thống-kê năm 2006 cho biết con số những người này gồm 34% tổng dân-số ở Úc. Và, tính bình-quân thì 37% số người đến từ các nước không thường-xuyên nói tiếng Anh. Con số nói trên lại cao hơn số người dân Úc tính theo trung-bình; và có khoảng 22% số người có quốc-tịch Úc đều sinh hạ tại các nước không nói tiếng Anh.

5 năm một lần, chính-phủ Úc thực-hiện thống-kê trên toàn quốc và thực-hiện khảo-sát với nhiều giáo-phái khác nhau, trong đó có: Công-giáo, Anh-giáo và Thệ-Phản ngõ hầu lập nên bức tranh cho thấy con số những người còn đi nhà thờ dự lễ.

Tuần qua, sở Thông-kê Úc có đưa ra kết quả khảo-sát thực-hiện vào năm 2016. Kết quả cho thấy rõ: số người Công-giáo hiện còn hành Đạo trên khắp nước. Tổng số 30% người Công giáo Úc nói hai thứ tiếng khác nhau tại nhà, là: tiếng Anh và tiếng nước ngoài. Bản khảo sát, còn cho thấy: chỉ 3% số người được hỏi, trả-lời là: họ nói chỉ một thứ tiếng không phải là Anh-ngữ tại nhà, mà thôi.              

Người thực-hiện cuộc khảo sát ở đây, là Ts Ruth Powell có cho biết: tổng số những người thuộc tầng-lớp sắc-tộc đa-văn-hoá vẫn đi nhà thờ ở Úc nay gia-tăng đáng kể, dù các giáo-phái ở đây gồm toàn tín-hữu không nói tiếng Anh chưa diễn-tả hết sự thật trong khảo sát.

Ts Powell còn cho biết: “So với nước khác, Úc có tỷ-lệ giáo-xứ đa văn-hoá, cũng rất cao. Trong khi đó, số phụ-nữ đi nhà thờ dự Tiệc Thánh thường đông hơn nam-giới, với tỷ-lệ là 62% trên tổng số giáo-dân. Con số này, không làm Tiến sĩ Powell ngạc-nhiên chút nào, do có sự thể là: “nữ-giới vẫn tiếp-tục là những người mộ-đạo hơn ai hết. Đó là chuyện lâu nay ai cũng thấy rõ so với các tôn-giáo khác nhau trên thế-giới.

Nhiều giả-thuyết cho thấy lý do của sự-kiện này, là do nhiều yếu-tố can-dự. Tuy nhiên, nhiều chứng cớ lại cũng cho thấy: hầu hết đều do yếu-tố xã-hội và văn-hoá mà ra, như: truyền-thống tôn-giáo và nơi làm việc là những yếu-tố có vai-trò quan-trọng, trong chuyện này.

Ngoài ra, hầu hết người Công giáo đi nhà thờ dự lễ thường là các vị cao-niên, chứ không phải giới trẻ. Đặc biệt hơn, các vị ở vào độ tuổi từ 50 đến 69, là những người hay đi lễ thường xuyên nhất (tức: 36% số người dự lễ trên tổng-thể); trong khi đó, giới trẻ ở độ tuổi 15-29 là nhóm người ít đi lễ nhất, có tỷ lệ chỉ gồm 9%, thôi.

Mức-độ học-thức rõ ràng chiếm ưu-thế hơn, so với người Úc bình thường với tỷ-lệ 36% số người đi lễ, so với tỷ lệ 26% dân số trên toàn nước Úc. Khảo-sát trên, còn cho thấy 45% người đi lễ đều là những người có công ăn việc làm, chỉ mỗi 8% số người nói trên, là những người suốt ngày lo nội trợ ở nhà và 14% là số người cao niên đã hưu trí.

Có được con số trên, người thực-hiện thống-kê phải bỏ ra mất hơn một năm trời mới hội đủ. Thống kê 2016 ở Úc cho biết: chỉ độ 250,000 người đi nhà thờ chịu điền đơn khảo-sát trên toàn nước Úc, tức: hơn 3,000 nhà thờ địa-phương thuộc 20 giáo-phái khác nhau. Để kết luận, Khảo-sát trên được lập là cho cá-nhân địa-phận và tổng-giáo-phận, trong các tuần vừa qua, mà thôi.” (Xem Genevieve Conway, Catholic stats reveal much, The Catholic Weekly 18/11/2017 tr. 2)

Thống kê về số người đi Đạo, chắc cũng không nói nhiều về thái-độ hoặc quan-niệm của người thời nay về nhiều thứ. Chí ít là chuyện danh xưng/tên gọi các đấng bậc của người mình. Một vấn-đề mà ít người dám đề-cập, vì sợ “đụng hàng”. Tuy nhiên, có đấng bậc nọ ắt vẫn còn trẻ, nên mới dám dám đặt vấn đề sau đây:

“Sáng sớm mùa Đông ở Canada, tuyết vẫn còn phủ trắng cao đến mắt cá chân, trên lối đi. Bà Catherine, bà bếp Cha Sở bước chầm chậm và cẩn thận quay về nhà xứ sau Thánh Lễ buổi sáng. Vừa đặt chân lên bậc thềm nhà xứ, thấy tôi đang quét tuyết, bà vui vẻ chào tôi và bảo:”

-Peter, mang cây chổi quét tuyết tới đây!”

Tôi tươi cười tiến đến gần bà với cây chổi quét tuyết đu đưa trên tay, chưa đón ra ý bà muốn nhờ tôi chuyện gì. Bà Catherine tự nhiên kéo váy đầm cao lên một chút và chìa đôi giày bám đầy tuyết, thản nhiên bảo tôi:

-Lấy chổi phủi giùm tuyết bám giày, để tôi đi vào không làm dơ thảm nhà xứ!”

Nụ cười vụt tắt trên môi. Tôi không nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh. Rõ ràng quá mà: Lấy chổi phủi sạch tuyết bám giày bà đầm Catherine. Tôi cúi mặt chần chừ. Bà Catherine vẫn giữ cao váy đầm, giơ đôi giày bám đầy tuyết, thúc giục:

-Phủi giùm mau đi để tôi còn kịp vào chuẩn-bị cà-phê sáng cho Đức Ông Robert!”

Im lặng và cẩn thận, tôi cầm chổi, nhẹ nhàng phủi tuyết bám giày bà Catherine, từng chiếc một. Bà cười mãn nguyện, cám ơn tôi và nhanh nhẹn đẩy cửa bước vào nhà xứ.

Cửa chính nhà xứ đóng ‘rầm’ một tiếng, chận đứng ánh mắt buồn của tôi đang dõi theo bà Catherine. Tôi xấu hổ, cúi xuống đưa mắt nhìn lại chính mình, lần dò xuống tận chân. Dù khoác chiếc áo Mùa Đông để ra ngoài trời quét tuyết, nhưng bên trong tôi vẫn đàng-hoàng nghiêm-túc với tu-phục của linh mục, nghĩa là: vẫn áo sơ-mi dài tay màu đen, cổ côn trắng hẳn-hoi, quần đen ủi thẳng nếp, giày da mùa Đông loại đắt tiền cổ cao, có đế dày.

Tôi học và chịu chức linh-mục ở Canada, với dáng vẻ phong-thái lịch-lãm không kém người da trắng. Nếu hoàn-cảnh đất nước cho phép, tôi về lại quê nhà, chắc sẽ được đánh-giá cao, không thua các linh-mục được du-học ngày xưa. Tôi nghĩ vậy.

Cái nhục “phủi tuyết bám giày bà đầm” len vào trong máu, bốc cao tận đỉnh đầu. Ném chổi quét tuyết trả lại góc tường nhà xứ. Lặng lẽ, tôi trở lại phòng làm việc, đóng cửa khá mạnh tay, để toàn thân rơi phịch nặng-nề trên chiếc ghế bành làm việc. Tại sao bà Catherine không gọi tôi là CHA? Vì tôi mới làm linh-mục và còn làm phó cho Đức Ông Robert chăng? Tại sao bà Catherine dám bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày bà? Bà là bà đầm da trắng, còn tôi là tên tóc đen, da vàng đến từ một nước nghèo chăng? Da màu phải phục-vụ da trắng hay người nghèo phải phủi tuyết bám giày người giàu chăng? Nhiều câu hỏi tương-tự quanh đi quẩn lại trong tôi.

Cái nhục của một linh-mục đã phải phủi tuyết bám giày bà đầm được tô đậm nét. Lòng tự-ái dân-tộc, niềm tự-hào nòi-giống rực lửa trong tôi. Tôi mạnh dạn, hung-hăng đứng lên, định đi tìm bà Catherine và Đức Ông Robert để làm lớn chuyện, cho ra lẽ. Bà Catherine phải xin lỗi tôi về chuyện đã không gọi tôi là Cha và dám bảo một ông Cha phủi tuyết bám giày bà. Gọi một linh mục bằng tên, thiếu lòng đạo-đức rõ-ràng. Bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày, thiếu lòng kính-trọng chức thánh không thể chối cãi.

Cái đứng dậy quyết-liệt, cái vung tay tức-giận làm văng cây Thánh Giá trên bàn làm việc xuống sàn nhà. Ảnh Chúa Chuộc tội từ lâu vẫn đứng vô-tri trên bàn làm việc, ngay trước mặt tôi, rất kề-cận, nhưng nhiều khi tôi đã không thấy, hay thấy như một thứ trang-trí tôn-giáo cần-thiết trong phòng làm việc của một linh-mục.

Tôi bước đến, chậm rãi cúi nhặt ảnh Thánh Giá lên. Chúa nằm úp mặt trên sàn thảm, một cánh tay gảy lìa thân. Chúa trông thảm-hại hơn bình-thường. Cánh tay gãy lìa còn toòng teng nhờ đinh đóng chặt. Im-lặng nhìn Thánh Giá, cố ráp cánh tay gãy của tượng Chúa vào thân, đặt trở lại trên bàn làm việc.

Tôi quay lại ghế ngồi, ánh mắt vẫn không rời Thánh Giá. Tủi-nhục và thảm-hại của Thánh Giá làm cái tủi-nhục phủi tuyết bám giày bà đầm lắng xuống dần. Ý-nghĩa về chức linh-mục của Chúa Giêsu dâng cao, lấn chiếm tôi.

Ánh mắt vẫn không rời tượng Chúa Giêsu chết treo trên Thánh Giá. Ngài là Linh-Mục Thượng-Tế, đang giang tay tế-lễ trên Thánh Giá. Chính Ngài lập Bí-Tích Truyền Chức Thánh để thông-ban cho tôi chức linh-mục của Ngài. Không ai gọi Ngài là CHA cả, nhưng gọi là Chúa và là Thầy (Gioan 13:13).

Vậy tiếng CHA dùng để gọi các linh-mục, tiếng ĐỨC CHA dành để gọi các Giám-Mục, tiếng ĐỨC THÁNH CHA dùng để gọi Giáo-Hoàng La Mã đến từ đâu? Không đến trực-tiếp từ Chúa. Chính Chúa đã có lần dạy các Tông-Đồ là ‘đừng tôn xưng ai dưới đất là Cha, vì chúng con chỉ một Cha duy-nhất trên trời” (Matt. 23:9).

Nói thế, Chúa không có ý chỉ-thị rõ ràng rằng ‘đừng gọi các linh-mục Công-Giáo là Cha’ như người Tin-Lành suy-diễn nhằm chỉ-trích linh-mục Công-Giáo. Chúa đã khiển-trách môn-đệ mình vì chuyện ‘tranh chức’ đòi làm lớn, ngồi chỗ nhất giống như người Biệt-Phái và dạy họ rằng “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ anh em mình.” (Matt.20:24-27), cũng như đừng bao giờ tự tôn mình lên ngang hàng với Chúa, vì chúng ta chỉ có một Chúa, người Cha duy-nhất trên Trời.

Tiếng “CHA” dành cho linh-mục, “ĐỨC CHA” dành cho Giám-Mục hay ĐỨC THÁNH CHA, dành cho Giáo-Hoàng được xử-dụng trên toàn thế-giới, đến từ truyền-thống của Giáo-Hội nhằm tỏ lòng kính-trọng và ngưỡng-mộ những người có chức thánh linh-mục. Từ việc tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, là Linh-Mục Thượng-Tế, Kitô-hữu đem lòng mộ mến, kính-trọng Linh-mục, Giám-Mục và Giáo Hoàng. Họ được coi như những người thông-phần với chức Linh-Mục của Chúa Kitô, như những người hy-sinh và hiến-tế đời mình cho phần rỗi nhân-loại.

Phaolô nói khá nhiều về chức linh-mục thượng-phẩm của Chúa Kitô (Thư Do Thái 4: 14- 5: 1-10) cũng như về vai-trò trung-gian giữa Trời và Đất đã ảnh-hưởng sâu-đậm nơi những kẻ tin. Người tin Chúa Kitô được dạy để đồng-hoá linh-mục với Chúa Kitô. Linh-mục là hiện-thân của Chúa Kitô, là một Chúa Kitô khác, là người CHA tinh thần, người CHA chăm sóc phần hồn cho các tín hữu, người tái sinh chúng ta qua bí tích rửa tội.

Cũng rất có thể nó đến từ cách xưng-hô kính-trọng dành cho những bô lão, những bậc đứng tuổi, đáng kính trong Giáo-Hội thời sơ-khai. Từ “Presbyteroi”, nguyên-ngữ Hy-Lạp có nghĩa là người đứng tuổi, bậc đáng kính, được dùng để chỉ linh-mục ngay từ buổi đầu.

Bà Catherine thiếu lòng kính trọng thánh chức linh mục vì đã không gọi tôi, một linh mục là CHA. Tôi thấy mình thiếu lý-chứng để kết-án bà. Người Tây Phương đặt tên để gọi. Họ thích được gọi đích danh. Một linh mục biết nhiều tên của nhiều người và gọi đúng tên, bất luận già trẻ lớn bé, sẽ được giáo-dân quí mến đặc biệt. Khi được gọi đúng tên, người Tây Phương cảm thấy mình thực sự được quan-tâm. Người Á Đông, đặc biệt Việt Nam mình, đặt tên để tránh gọi tên hay đặt tên để giấu tên. Gọi tên ‘cúng cơm’ một người lớn, chuyện bất kính, không thể chấp nhận được.

Người mình thường xưng-hô bằng ngôi thứ: Bác Ba, Cô Chín, Cậu Út thay cho tên. Trong những xứ đạo người Bắc, chủ-tịch Hội Đồng Giáo Xứ được gọi là Ông Chánh hay Chánh Trương. Giáo lý viên dạy kinh bổn được gọi là Bà Quản hay Quản Giáo. Người xướng kinh trong nhà thờ được gọi là Ông Trùm. Người chăm sóc việc nhà thờ, nhà Cha được gọi là Ông Bõ.

Việc tránh gọi tên đi đến kết quả: không còn ai biết tên thật của nhau. Cách nào đó đã thiếu quan tâm đến cá nhân, đến hữu thể mà chỉ chú trọng đến ngôi thứ, chức vụ hay địa vị là cái tùy thể, tháp gắn vào hữu-thể.

Năm 1974 tôi biết rõ một thiếu tá quận trưởng mất chức vì dám gọi vị Giám Mục Công Giáo là “Ông Đạo”. Ai cũng cho là đáng đời, vì làm tới quận trưởng mà không biết gọi Giám Mục là Đức Cha. Cũng là những kết án không hợp lý và bất lợi: Một quận trưởng không Công Giáo, làm sao biết được cách xưng hô kiểu Công Giáo? Người ngoài Công Giáo và nếu chịu ảnh hưởng Khổng Giáo chút ít, khó có thể gọi một ai khác ngoài cha đẻ của họ ở nhà là cha. Vị quận trưởng bị cất chức nầy có nhận ra lỗi “ăn nói vô đạo” của mình không?

Không! Ông ta đâu có lỗi để nhận ra. Nhưng trên thực tế, ông ta đã nhận một bất công. Gánh chịu bất công dễ đưa lòng người tới oán hận. Phải thú nhận rằng trong quá khứ, chúng ta, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã sống theo kiểu “làm cha thiên hạ” hay “lấy thịt đè người”.

Chúng ta đòi người khác cho cái mà họ không có và không buộc phải cho. Chúng ta nghĩ thế nào, dễ hay khó, tự nhiên hay bất thường khi nghe một cụ già bảy mươi tuổi, trong tiếp xúc xã giao thường ngày, gọi một linh mục trẻ mới ba mươi tuổi là cha và xưng là con?

Bà Catherine đã gần bảy mươi tuổi, sấp xỉ tuổi mẹ tôi ở quê nhà. Chưa một lần xác định bằng lời, nhưng xem chừng bà thay Mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong mấy tháng qua: Bà nấu cơm cho tôi, giặt giũ cho tôi, bà pha chế những món ăn hoà hợp giữa khẩu vị Tây-Ta cho tôi vừa miệng.

Bà hay dò hỏi xem Mẹ tôi làm gì cho tôi khi tôi đau ốm hay khi tôi buồn. Bà nhắc tôi đi ngủ sớm và dâng thánh lễ chậm rải, sốt sắng. Bà thương chỉ bảo cho tôi phát âm từng chữ tiếng Anh cho đúng giọng và chính xác. Bà cũng hay nhờ tôi khuân vác hay di chuyển những vật nặng trong nhà xứ giống như Mẹ tôi ở nhà vậy.

Chuyện bà gọi tôi bằng tên cũng là chuyện tự nhiên như Mẹ gọi con. Có bà mẹ nào, trong sinh hoạt thường nhật, gọi con mình làm linh mục là cha bao giờ? Chuyện bà nhờ tôi phủi tuyết bám giày sáng nay, trong trí bà, có thể không như chuyện giáo dân nhờ linh mục, nhưng là chuyện mẹ nhờ con. Thật đơn giản!

Hơn bao giờ hết, tôi thấy mình thật cận kề với Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang đặt trước mặt tôi, trên bàn làm việc. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm, đang giang tay, hiến tế chính thân mình trên Thánh Giá. Tôi, một linh mục, một Chúa Kitô khác, tôi giang tay dâng lễ hàng ngày trên bàn thờ. Tay giang, nhưng không dâng hiến, không ban phát, không cho đi, nhưng đòi hỏi: đòi được kính trọng đặc biệt, đòi được gọi bằng CHA mới thoả lòng. Tôi làm linh mục, một Chúa Kitô khác, nhưng đôi khi tôi thật khác Đức Kitô: Chúa Kitô, đến để phục vụ, còn tôi, tôi sôi máu tức giận khi phải phục vụ.

Tôi đứng lên, tìm bà Catherine trò chuyện. Bà đang ở nhà bếp chuẩn bị cơm trưa. Tôi vui vẻ đến gần hỏi xem bà có cần tôi giúp chuyện chi không. Bà Catherine vui vẻ nhờ tôi chuẩn bị Salad và cà chua. Tôi vừa làm giúp bà vừa hát nho nhỏ trong miệng. Bà Catherine đến gần, ngọt giọng bảo tôi: “Peter, you look so happy today!” Lại cũng Peter suông! Nhưng tôi lại yêu nó. Tôi mỉm cười đắc ý trả lời: “Yes, Mom, I deeply realize that I am a priest forever!”

Chữ “linh mục” tôi nhấn mạnh và kéo dài. Suốt năm tháng qua, từ ngày chịu chức, tôi đã làm CHA và buồn vì không được gọi là Cha. Hôm nay, tôi mới thực sự làm linh mục, làm người được chia sẻ chức linh mục với Chúa Kitô, Đấng đến giang tay tế chính thân mình cho phần rỗi của những người con.

Bà Catherine ơi! Cám ơn bà thật nhiều! Bà đã không kêu tôi bằng Cha, nhưng bằng tên và đã nhờ tôi phủi tuyết bám giày bà. Bà không thật sự thiếu lòng kính trọng tôi, hay coi thường chức linh mục trong tôi. Nhưng bà cho tôi cơ hội nếm và sống ý nghĩa chức linh mục.

 Linh mục, kẻ giang tay để tế lễ, để dâng hiến, để cho đi, để ban phát và phục vụ như một Đức Kitô khác. Bà thật sự giúp tôi khước từ ước vọng làm CHA hay thích được gọi là CHA theo ý nghĩa muốn được nâng cấp, mang tính ích kỷ thu gom của mình.

 Linh mục, người Cha tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai trò hy sinh, giang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tơi để thi hành.” (Lm. Phêrô Trần).

“Giang tay cứu độ”, còn là động thái của Đức Chúa, Đấng từng có lời khẳng-định như sau:

“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó

hỏi Người rằng:

“Thưa Thầy,

có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”

Người đáp:

“Anh em không cần biết thời giờ

và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,

nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần

khi Ngài ngự xuống trên anh em.

Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

tại Giêrusalem,

trong khắp các miền Giuđê, Samari

và cho đến tận cùng trái đất.”

(Cv 1: 6-8)

Dĩ nhiên, không cần nói ai cũng thừa hiểu rằng “Chiếc áo dòng không làm nên thày tu”, danh xưng/tên gọi không nói hết được thực-chất của câu chuyện mình muốn nói, nhiều hơn thế.

Hôm nay đây, bần đạo bầy tôi cũng muốn “nói nhiều hơn thế”, nhưng “lực bất tòng tâm”, nay tuổi già sức yếu, không còn khả-năng để nói nhiều, nói mãi, nói dài dài những điều khô-khan, chẳng nên nói.

Quyết thế rồi, nay xin nhắn nhủ bạn và tôi, ta kết thúc bài phiếm “loạn” lai ra ba sợi ở đây, cho đỡ rách việc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm không đơn giản

khó hiện thực.

HÃY VUI LÊN

HÃY VUI LÊN

 

Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy.  Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do.  Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại.  Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.

 

1. Tin Mừng Cho Người Nghèo

Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần.  Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều.  Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.

 

Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận.  Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người.  Nàng Kiều bán mình chuộc cha cũng là một thí dụ.  Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.”   Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.

 

Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.”  Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.

 

2. Đấng Đến Sau Tôi

Cái nghèo vẫn còn tiếp tục.  Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng.  Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo.  Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa.  Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ.  Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần.  Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.

 

Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo.  Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất.  Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài.  Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.”  Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.

 

Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19).  Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ.  Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần.  Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc.  Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.

 

3. Hãy Vui Mọi Lúc

Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica:“hãy vui hạnh phúc mọi lúc.”  Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

 

Tại sao Phaolô lại được như vậy?  Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình.  Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài.  Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

 

Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh.  Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc.  Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu.  Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy.  Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng.  Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.

 

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

From:   Langthangchieutim

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

Thư HĐGMVN 2006 đã khẳng định: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em”.

Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người.  Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố.  Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.  Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước.  Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô.  Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19).  Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.  Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú.  Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống.  Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5).  Gioan mời dân chúng sám hối.  Không thể tiếp tục sống như xưa nữa.  Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.  Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.  Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.  Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc.  Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn.  Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa.  Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng.  Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả.  Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.  Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh.  Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời.  Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành U-rơ để sang đất hứa.  Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài.  Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường.  Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa.  Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem.  Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa.  Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng.  Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ.  Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu.  Sửa đường theo Gioan là sám hối.  Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có.  Những gì cong queo san cho thẳng.  Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa.  Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp.  Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng.  Con đường nội tâm của mọi người.  Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.  Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý.  Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến.  Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.  Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất.  Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người.  Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng.  Như con đường cho Chúa đi qua.  Như căn nhà cho Chúa ngự tới.  Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào.  Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có sự đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.  Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì.  Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác.  Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.  Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về.  Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn.  Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ.  Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh.  Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát…  Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn.  Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông.  Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý.  Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn.  Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú.  Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân.  Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân.  Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức.  Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan.  Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người.  Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

Tỉnh thức và cầu nguyện

Tỉnh thức và cầu nguyện

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.

Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.

Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.

Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.

Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.

Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.

Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.

Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.

Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1)     Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?

2)     Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?

3)     Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?

4)     Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức

Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức

Chúa Nhật I Mùa Vọng – Năm B – 3-12-2017

Mác-cô 13:33-37

33 “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.35 Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”

(Trích Phúc âm Mác-cô bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ từ http://www.chungnhanducKitô.net/kinhthanh/tan%20uoc.htm)

Gợi ý cầu nguyện:

  1. Hôm nay Chúa nhật I Mùa Vọng, ngày đầu của một năm phụng vụ mới.  Tôi có thể nói với chính tôi và mọi người mà tôi sẽ gặp hôm nay: Chúc Mừng Năm Mới!  Trong không khí của ngày đầu năm này lời Chúa hôm nay lại vang vọng một lời mời “tỉnh thức!”  Lời này lập đi lập lại đến 4 lần chỉ trong một đoạn văn rất ngắn, 5 câu, chứng tỏ Chúa Giêsu rất nghiêm túc nói về chuyện tỉnh thức.  Tôi cần phải tỉnh thức trước những gì Chúa giao phó, trước khi Ngài đi xa, vào cuộc thương khó.  Một lời mời gọi có tính quyết liệt và cấp bách.  Tôi muốn bắt đầu tiến trình thức tỉnh ngay trong giờ cầu nguyện này. 
  2. Ngày đầu năm người ta thường nghĩ đến những quyết tâm mới, như giảm cân, tập thể dục, làm việc điều độ, trừ một thói xấu…Tôi có quyết tâm nào cho đời sống tâm linh của tôi trong năm mới này?  Có thể là cầu nguyện đều đặn hơn?  Có thể là bớt nói xấu người vắng mặt?  Có thể là tập suy nghĩ tích cực về mọi người?  Có thể là tập chăm sóc chính mình hơn?  Tôi muốn chọn ra một quyết tâm và xin Chúa chúc lành cho quyết tâm đó để tôi có thể thực hành trong cả năm mới này.

Phạm Đức Hạnh, SJ

KHÁT VỌNG KIẾP NGƯỜI

KHÁT VỌNG KIẾP NGƯỜI

Đến hẹn lại lên như một chu kỳ tất yếu, Mùa Vọng lại về.  Đó là khoảng thời gian thế gian mong đợi Đấng Cứu Thế giáng sinh làm người.  Đấng ấy là “Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14), là Đấng Thiên Sai mang tôn danh Giêsu Kitô.

Con người như đất khô cằn vì “hạn bà chằn” lâu ngày, thế nên luôn khao khát Cơn-Mưa-Giêsu.  Và chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ làm chúng ta “đã” cơn khát.

Trong kiệt tác “Cung Oán Ngâm Khúc” (chữ Hán: 宮怨吟曲) của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), câu 103 và 104 có nói tới kiếp người:

Trăm năm nào có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì

Còn Thiên Chúa nói với mỗi chúng ta: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19).  Thân phận phàm nhân chỉ là cát bụi mà thôi.  Xét ra chẳng có giá trị gì.  Đồ càng cũ càng có giá trị, gọi là đồ cổ; người càng cũ càng bị người ta xa tránh, chẳng ai muốn quan tâm “người cổ”, thậm chí còn bị chê là lỗi thời và lạc hậu.

Nói vậy nghe chừng bi quan quá.  Nhưng không phải thế, người ta cần biết vậy để mà bớt tham-sân-si, để cố gắng ngày càng sống tốt hơn, ích lợi hơn không chỉ cho chính mình mà còn cho tha nhân.

Thân phận quá nhỏ nhoi, con người quá yếu đuối, quá bất túc và bất trác, vì vậy mà người ta càng khát vọng, có những khát vọng vô cùng cháy bỏng, tưởng chừng có thể “chết” đi nếu không đạt được.  Ước mơ nhiều mà chẳng được bao nhiêu.  Nhưng chính nhờ vậy mà người ta giảm bớt kiêu ngạo, chứ muốn gì được nấy thì người ta sẽ chẳng coi ai ra gì, và chắc hẳn người ta không còn tin vào bất cứ thần linh nào nữa.  Cuộc đời không là vườn hồng, bước đời không đi trên thảm lụa, có vậy mới thành nhân.

Càng sống lâu người ta càng thấy mình kém cỏi về đủ mọi lĩnh vực, thế nên người ta phải kêu cầu Thiên Chúa: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa!  Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy Chúa, xin đừng trì hoãn” (Tv 70:6).  Hằng ngày, người ta vẫn không ngừng sáng nguyện, trưa cầu, tối khấn: “Xin dủ lòng thương mau đến giúp, vì chúng con đã khổ quá nhiều” (Tv 79:8).

Có thể có người nghĩ rằng Chúa không nghe hoặc làm ngơ, vì họ cầu xin quá nhiều mà chẳng thấy động tĩnh gì, cũng có thể có người sẽ thối chí nản lòng.  Thực ra Chúa biết hết, Ngài muốn chúng ta “đừng lải nhải” (Mt 6:7), mà Ngài tập cho chúng ta đức kiên trì.  Thánh Thomas Tiến sĩ nói:“Công hiệu của năng lực cầu nguyện là do đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu quả vẫn là do đức tin và đức cậy của mình.” Thánh Sibyllina giải thích: “Mong đợi, giống như một đồ đựng, đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít.  Mong đợi lớn thì được ân điển nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân điển ít.”

Quả thật, khi cầu nguyện mà không thấy động tĩnh gì, không thấy cảm giác gì, đó mới là cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa.  Người ta có thể rưng rưng mắt lệ hoặc bật khóc khi cầu nguyện, nhưng có thể đó chỉ là cảm giác nhất thời, vì “bức xúc” cá nhân điều gì đó, chứ chưa hẳn là vì say Men Tình Giêsu.

Cuộc sống có biết bao thứ để chờ đợi, ước mong, hoài vọng, nhưng điều cần là phải biết lắng nghe. Nghe cũng phải có phương pháp, lắng nghe chứ không nghe bình thường, lắng nghe cả những điều trái ý mình chứ không chỉ lắng nghe điều hợp ý mình với cả tấm lòng.  Khó lắm!  Vả lại, Thiên Chúa chỉ thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui mừng, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta giãy giụa trong bể khổ trần ai.  Chính lúc chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ kịp thời ra tay: “Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 S 2:6).

Lắng nghe mà chưa hiểu thì lắng nghe tiếp, và tâm sự với Chúa: “Xin Ngài lắng nghe con rên rỉ: có ai thèm an ủi con đâu!  Mọi kẻ thù con vui mừng hớn hở khi biết chính Ngài gây khổ cực cho con.  Ngày Ngài hứa, xin cho mau đến để chúng cùng số phận với con” (Ac 1:21).  Mà thật đấy: “Ngài có đó khi con tưởng mình đơn côi, Ngài nghe con khi chẳng ai thèm đáp lại, Ngài thương con khi tất cả đều hững hờ” (Thánh Augustinô).

Chúng ta thực sự cần Chúa, vì chỉ có Ngài mới là Cứu Cánh: “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ” (Tv 106:4).  Có yêu Chúa mới cần Chúa, mong Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài mau đến phù trợ con.  Xin lắng nghe lời con, khi con kêu lên Ngài” (Tv 141:1).  Khoảng mong chờ nào cũng là khoảng thời gian dài nhất, dù chỉ phải chờ 5 phút cũng thấy thời gian sao quá lâu!

Chờ mong, nhưng có thành khẩn?  Nếu thật lòng mong chờ thì Thiên Chúa không nỡ để chúng ta phải chờ lâu, vì Đấng làm chứng về những điều đó phán: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22:20a).  Chắc chắn như vậy, nhưng bổn phận của mỗi chúng ta vẫn phải cầu nguyện liên lỉ: “Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22:20b).

Mùa Vọng cứ đến rồi qua, càng lớn tuổi càng trải qua nhiều Mùa Vọng, nhưng vấn đề không phải sống qua nhiều Mùa Vọng mà là còn “đọng” lại chút gì ý nghĩa thánh đức hay không.  Đó mới là điều Chúa muốn!

Chúa Giêsu đã đến thế gian lần thứ nhất để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại.  Đó là “lần đầu.”  Ngài sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung.  Đó là “lần cuối.”  Nhưng còn một lần Ngài đến riêng với từng người: Lúc chúng ta chết.  Đó là “lần giữa.”

Lần nào cũng quan trọng, nhưng “lần giữa” là lần tối quan trọng với từng người, vì chúng ta không được chứng kiến Chúa Giêsu đến “lần đầu” trong nghèo hèn và đau khổ, và không biết chúng ta có diễm phúc chứng kiến Ngài đến “lần cuối” trong vinh quang hay không, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ chứng kiến Ngài đến “lần giữa”.

Lạy Chúa, xin đổ xuống Sương-Giêsu và Mưa-Giêsu để giải khát chúng con. Amen.

Viễn Dzu Tử
Mùa Vọng – 2012

From Langthangchieutim

Trường Sinh Bất Tử

Trường Sinh Bất Tử

Lời CHÚA: Trường Sinh Bất Tử
Khôn Ngoan – Chương 6 
18Mà yêu mến là tuân giữ lề luật.Chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan
là bảo đảm được trường sinh bất tử.
 
 
 
Gioan – Chương 6 
27Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”
Gioan – Chương 6 
35Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
 
Thư Rôma – Chương 2 
7những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời;
 
 
Thư Timôthê 2 – Chương 1 
10nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.
Khải Huyền – Chương 3 
5Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người.
Khải Huyền – Chương 7 
17Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.”
 
 
Khải Huyền – Chương 20 
12Rồi tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách.
Khải Huyền – Chương 20 
15Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.
Khải Huyền – Chương 21 
6Người lại phán với tôi: “Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền.
Khải Huyền – Chương 21 
27Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.

……………………………………………………………….
Bảo Chứng Của Trường Sinh Bất Tử

Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.

Ðôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.

Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm hư hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.

Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:

– Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: “Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.

– Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: “Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc”.

– Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng”.

Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.

Vì thế họ chọn thái độ “sống gửi thác về”. Họ thu nhặt những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng “hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người”, vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.

Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.

Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & anh chị Thụ & Mai

CHỜ ĐỢI TRONG TỈNH THỨC

CHỜ ĐỢI TRONG TỈNH THỨC

Ai trong chúng ta cũng đã có những lúc chờ đợi: chờ đợi một biến cố hoặc một người thân.  Chờ đợi bao giờ cũng làm chúng ta hồi hộp, trăn trở, nôn nóng.  Những lúc chờ đợi, dường như thời gian trôi chậm hơn.  Khi chờ đợi một sự kiện hay một người thân, cũng là lúc chúng ta liên tưởng nhiều về sự kiện hay về người thân đó.  Sự chờ đợi càng lâu, niềm vui càng lớn lao và vỡ òa khi gặp gỡ.

Năm Phụng vụ khởi đầu với một thời gian mang tên “Mùa Vọng” hay “Mùa Đợi.”  Mùa Phụng vụ này nhắc nhớ chúng ta đợi chờ Chúa đến trong cuộc đời.  Thực ra, Thiên Chúa vẫn hiện diện và tỏa ánh vinh quang của Ngài trong cuộc sống, nhưng để gặp gỡ Ngài, mỗi người phải nỗ lực tìm kiếm, và mở rộng tâm hồn để đón tiếp Ngài.  Những ai thành tâm tìm kiếm và gặp gỡ Chúa sẽ được Ngài hướng dẫn và phù trợ.  Có Chúa trong đời, chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.

Chúa vẫn hiện diện, như dòng suối vẫn miên man chảy tứ thời bát tiết.  Người thành tâm kiếm tìm Chúa sẽ giống như người đến múc nước nơi dòng suối và mang về nhà mình.  Sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời chúng ta thật lạ kỳ.  Bởi lẽ Chúa vừa hữu hình vừa vô hình, vừa hiện diện, vừa vắng mặt.  Người tìm được Chúa rồi, lại khao khát tiếp tục tìm Chúa để hiểu biết Chúa hơn, vì gặp gỡ Chúa đem lại sự dịu ngọt và niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn.  Hiểu như thế, suốt cuộc đời tín hữu chúng ta là một vòng xoay của sự chờ đợi, tìm kiếm, gặp gỡ, rồi lại tìm kiếp tiếp cho đến khi thực sự gặp Chúa trực tiếp, mặt giáp mặt chứ không còn như trong gương.  Đó là tình trạng hạnh phúc thiên đàng những ai yêu mến Chúa sẽ được hưởng.

Ngôn sứ Isaia diễn tả niềm mong đợi Chúa của dân Israen (Bài đọc I).  Đối với những người Do Thái lưu đày, họ cảm nghiệm được nỗi đau của kiếp nô lệ.  Không còn Đền thờ, không còn lễ nghi phục vụ, họ thấy cuộc sống của họ thật vô nghĩa.  Họ cần Chúa như con người cần hơi thở, như cỏ cây cần ánh mặt trời.  Vắng Chúa, cuộc đời họ sẽ suy tàn, sự nhơ uế sẽ lan tràn khắp chốn.  Lời cầu nguyện của vị ngôn sứ cũng là lời than van của dân chúng.  Họ cầu xin Chúa đến để nâng đỡ và giải thoát họ, đem cho họ ánh sáng và niềm tin.

Niềm khao khát của Israen cũng là niềm khao khát của thời đại chúng ta.  Con người thời nay cậy dựa vào những triết thuyết vô thần và những thành tựu của khoa học để chối bỏ Thiên Chúa.  Thay vì tôn thờ Đấng Tạo Hóa, người ta tôn thờ khoa học kỹ thuật vì cho rằng khoa học kỹ thuật có thể trả lời được mọi vấn nạn của cuộc sống.  Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã viết: “Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân.  Chỉ có thứ nhân bản mở ra cho Tuyệt Đối mới có thể giúp ta cổ võ và đạt được được những hình thức sống xã hội và dân sự – trên bình diện cơ cấu, tổ chức, văn hoá, đạo đức – bằng cách nó giữ ta khỏi rơi vào tình trạng nô lệ cho những cái mốt, những cái thời thượng” (Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78).  Đây cũng là cám dỗ lớn nhất mà loài người từ thời nguyên thủy đã gặp phải, đó là muốn nên như Thiên Chúa và tin rằng có thể thay thế Ngài (x. St chương 3).  Nhân loại của chúng ta hơn bao giờ hết đang cần đến Thiên Chúa.  Xã hội Việt Nam của chúng ta hôm nay cho thấy kinh nghiệm rõ về điều này: một khi khước từ Thiên Chúa, hậu quả là cuộc sống đầy bạo lực, giết chóc, tệ nạn xã hội, lừa đảo dối trá, luân thường đạo lý suy đồi.

Lời Chúa hôm nay nói đến nỗ lực cố gắng của chúng ta trong khi chờ đợi Chúa.  Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người chủ đi xa trao nhà cho đầy tớ coi sóc.  Mỗi người một việc, người thì coi ban ngày, người thì gác ban đêm.  Ông chủ sẽ về bất cứ lúc nào.  Những người coi nhà buộc phải tỉnh thức và thận trọng để lúc chủ về, không những thấy họ còn thức mà còn thấy tài sản còn nguyên vẹn.

Mùa Vọng giống như “nốt nhấn” của bản nhạc cuộc đời.  Đây là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta xác định vị trí của Chúa trong đời chúng ta cũng như tình trạng tâm hồn của mình.  Chúa đang đến trong cuộc đời chúng ta.  Lễ Giáng Sinh là một kỷ niệm đẹp của mối tình Thiên Chúa – Con người.  Sau bao thế hệ xa cách, nay Thiên Chúa đã chủ động đến với con người.  Ngài hạ cố đến gặp gỡ con người và tâm tình nghĩa thiết với họ.  Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, chính là bằng chứng hữu hình của sự nghĩa thiết ấy.

Chờ đợi trong tỉnh thức, đó là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta trong suốt cuộc đời.  Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà ngự xuống.  Xin hãy đến để nâng đỡ và soi sáng chúng con.  Amen.

ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

From Langthangchieutim