NGƯỜI CON CHÚA

 NGƯỜI CON CHÚA

Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Tiền hô tại sông Jordan kết thúc mùa Giáng Sinh và hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu.  Đây cũng là một cuộc hiển linh của Thiên Chúa nói chung và của Chúa Giêsu nói riêng, vì trong biến cố này Thiên Chúa muốn loan báo và mạc khải cho mọi người biết về Thiên Chúa và một số chân lý khác.­­­

Trước hết, mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.  Đây là một lần mạc khải công khai có cả Ba Ngôi cùng hiện diện: Ngôi Cha chỉ xuất hiện qua tiếng nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”  Ngôi Con là Chúa Giêsu, Đấng nhận phép rửa, đang hiện diện cụ thể ở sông Jordan.  Ngôi Ba Thánh Thần, xuất hiện qua hình ảnh chim bồ câu.

Thứ hai, mạc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.  Chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận và giới thiệu điều này và kêu gọi mọi người hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu, hãy đến với Ngài để đón nhận nguồn hồng phúc vô biên của Thiên Chúa.

Thứ ba, mạc khải ý nghĩa và giá trị phép rửa của Chúa Giêsu.  Chính thánh Gioan đã khẳng định điều này: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.  Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”

Xin chia sẻ một điều về ý nghĩa và giá trị cao quí của Bí tích Rửa tội.  Chúng ta biết phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.  Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh.  Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như thánh Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lụy nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nước trời.

Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài.  Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội.  Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo Hội.  Vì thế, Giáo Hội coi bí tích tửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới.  Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.

Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội.  Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu.  Hai năm sau, cụ hấp hối.  Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi.  Cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi.  Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết.  Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội.”  Thật là chí lý.

Bí tích Rửa tội quí trọng vô cùng, là cửa đưa chúng ta vào đoàn chiên của Chúa là Giáo Hội, vào hàng ngũ con cái Chúa, đồng thời từ đây chúng ta được gọi là Kitô hữu.  Kitô hữu là người có Chúa Kitô.  Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô thứ hai.  Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô.  Đó là tước hiệu cao quí của chúng ta.  Tước hiệu ấy không mua bằng tiền bạc.  Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè, mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.

Nhưng phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Kitô hữu một cách miễn cưỡng?  Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn?  Ngoài những ràng buộc của luân lý Kitô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Kitô hữu lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta?  Chúa Kitô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt… nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.

Đàng khác, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa.  Nhưng chúng ta đã sống ơn cao quí này như thế nào?  Cha trên trời có hài lòng về chúng ta không?  Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của Cha.  Cha hài lòng về Con.”  Còn chúng ta thì sao?  Nếu như bây giờ, nhận định về chúng ta, Chúa Cha sẽ nói thế nào?  Chúa hài lòng hay Chúa phải buồn rầu, đau lòng và than phiền?

Chúng ta hãy nhớ: ơn cao trọng và cao quí nhất khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội là ơn được làm con Chúa.  Vậy chúng ta phải luôn cố gắng sống xứng đáng là những người con mà Chúa hài lòng về chúng ta.

Sưu tầm

From Langthangchieutim

TÌM CHÚA

TÌM CHÚA

Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thoả mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà… Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đậu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đậu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức… còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ… Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.

  1. Trong đức tin

Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phải luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường, ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.

Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thoả lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?

  1. Hành động

Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Đứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy “ngôi sao đức tin” phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lịm và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiên đàng nữa.

  1. Can đảm

Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân… Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.

Không phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đó cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.

Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.

Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa . Amen

Sưu tầm

Langthangchieutim gởi

Thiên Thần Bản Mệnh

 Thiên Thần Bản Mệnh

Có một Linh Mục ở miền quê nước Pháp được mời đi xức dầu ban đêm cho một bệnh nhân nguy tử. Chợt nghĩ đến đoạn đường xa xôi heo hút, Ngài đã định bỏ quay về vì sợ cướp bóc trấn lột. Nhưng rồi ý thức bổn phận và trách nhiệm của một Linh Mục, Ngài lấy hết can đảm, vừa chuẩn bị túi hành trang, vừa cầu xin với Thiên Thần Bản Mệnh, rồi lên đường. Bệnh nhân là một cụ già đã được ban Bí Tích Xức Dầu, sáng hôm sau thì qua đời. Vị Linh Mục cũng trở về nhà bình an vô sự.Trong ngày mừng lễ các Thiên Thần Bản Mệnh, xin chia sẻ với các bạn một câu chuyện:

20 năm sau, vị Linh Mục đã già yếu, Ngài xin về hưu nhưng vẫn phụ trách tuyên úy cho một trại tù tại thành phố. Một lần nọ, Ngài được mời đến giải tội cho một tên tử tù. Thoạt tiên, khi biết có một Linh Mục vừa tới, anh ta quay lưng vào vách nhà giam, chửi rủa xua đuổi một cách hung hăng và hằn học, nhưng rồi khi chợt quay lại, anh ta liền thay đổi hẳn thái độ vì nhận ra khuôn mặt quen quen của vị Linh Mục già.

Anh ta rụt rè hỏi thăm về quá khứ 20 năm trước, nhưng vị Linh Mục già đã cố nhớ mà vẫn không nhận ra đã gặp anh tử tù này ở đâu. Đến lúc này thì anh ta cúi gục đầu và thuật lại đầu đuôi câu chuyện: Hóa ra dạo ấy, anh đang bị cảnh sát truy lùng về tội sát nhân, chạy giạt vào nấp trong khu vườn nhỏ gần nhà xứ. Anh đã nảy ra ý định sẽ rình giết vị Linh Mục để cướp chiếc áo chùng thâm giả trang trốn đi nơi khác. Thế nhưng, đúng lúc đêm hôm khuya khoắt ấy, anh ta ngỡ ngàng trông thấy vị Linh Mục đã rời nhà xứ cùng đi với một thanh niên lực lưỡng theo sau…

Nghe đến đây, vị Linh Mục già hiểu ra mọi sự. Ngài quỳ xuống tạ ơn Chúa rồi kể tất cả cho người tử tù nghe. Anh cũng quỳ vội xuống, ăn năn sám hối và lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải trong nước mắt mừng vui…

***

Câu chuyện trên giúp tôi hiểu một điều: Nhiều khi vì không thấy Chúa, tôi cứ nghĩ là Chúa không ở bên tôi, nhưng thật ra Chúa luôn gởi Thiên Thần Bản Mệnh đến để bảo vệ tôi. Nhưng Chúa chỉ bảo người nào sống với Chúa như đứa con thơ. Ai càng tỏ ra yếu đuối, bé bỏng, tin tưởng Chúa càng nâng đỡ nhiều, như bài Phúc Âm của Thánh Mátthêu đã nói (18:10). Tôi lại nhớ đến một đoạn trong bài hát “Khúc hát một loài hoa” của nhạc sĩ Ân Đức: “Một niềm tin vô biên, một niềm tin phó thác triền miên, Ai mong muốn lên Nước Trời phải trở nên thơ bé mà thôi.”

Ai càng trở nên như trẻ nhỏ, thì Chúa càng yêu thương đỡ nâng dìu dắt. Ước gì lúc nào tôi cũng biết sống nhỏ bé trước mặt Chúa, và luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa, để Chúa tiếp tục gởi Thiên Thần Bản Mệnh đến nâng đỡ và che chở tôi mỗi ngày. Và giờ đây xin mời bạn cùng tôi dâng một lời kinh lên Thiên Thần Bản Mệnh của chúng ta:

Lạy Thiên Thần Chúa Trời là đấng đã nên quan thầy gìn giữ con,

Vì ơn lòng lành Đức Chúa Trời,

Xin người soi sáng con, phù hộ con ngày/đêm hôm nay.

Têrêsa Ngọc Nga

Của trời đất, của muôn ngàn ý nhị,

 Suy Tư Tin Mừng lễ Giáng Sinh năm B 25/12/2017

Tin Mừng (Ga 1: 1-18)

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”

Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có. Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

&    &    &

“Của trời đất, của muôn ngàn ý nhị,”

“và tình ta sáng láng như trăng thanh.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Trời ý nhị. Tình sáng láng. Là, để đón chào Đức-Chúa-Niềm-Vui nay giáng hạ làm người. Đón và chào, để nói lên tình tự tươi vui “của trời đất”. Tình tự đây, là tình thể hiện nơi “máng cỏ” cho muôn loài. Niềm-Vui-Đức-Chúa giáng hạ, là truyền thống có từ thời thánh Phanxicô Át-xi-di, nhân chuyến thăm thế giới Hồi giáo trở về, thánh nhân đã thiết lập ở Ý, lễ hội sinh động cho mọi người, ở muôn nơi.

Hội lễ Niềm-Vui-Đức-Chúa nay giáng hạ làm người, là mừng sự kiện Chúa trở thành Người-Phàm sống sẻ san Niềm-Vui vẫn có ở Nước Trời. Có sứ điệp của máng cỏ nay nhắn nhủ người người hãy sống vui ở bên nhau, và với nhau. Sứ điệp, còn bảo cho mọi người biết yêu thương mà vui hưởng đời người có Chúa-làm-người. Có anh em quần tụ nơi máng-thế-giới. Sứ điệp, cũng tỏ bày cho người người biết Đức-Chúa-Niềm-Vui nay đến khoả-lấp mọi đớn đau/sầu buồn của mọi người.

Sứ điệp, cuối cùng còn cho thấy Đức-Chúa-Niềm-Vui muốn dân con mình đừng nên nhìn mọi người như nỗi khó để đối phó. Mà như Niềm-Vui-Đức-Chúa đã giáng-hạ sẽ giúp mọi người thắng vượt nỗi khổ ta trực diện.

Về với máng cỏ của Đức-Chúa-Niềm-Vui giáng-hạ, ta hãy cứ tưởng tượng và thay thế các chú bò/ lừa hôm đó, bằng khủng long to đùng dù loài này biến mất đã 65 triệu năm. Khủng long đây, có là loài thú “hoành tráng” mấy đi nữa, dù đã biến mất đi, chúng vẫn có thể xuất hiện trở lại, để ta biết rằng: chúng cũng đâu thấy được đảm bảo tương lai mai ngày, nói gì đến loài người. Tức, loài nào rồi cũng biến mất như khủng long to đùng, nay tuyệt chủng. Nay, Hài-Nhi-Đức-Chúa xuất hiện trở về lại, mang đến cho muôn người niềm yêu thương đằm thắm đến với dân gian.               

Cứ tưởng tượng nhiều, ta sẽ không còn thấy mục đồng hiện diện bên máng cỏ nữa, mà chỉ là kẻ bàng quan tượng trưng cho vua quan lãnh chúa có ở đó, để Hài Nhi Thánh Ái vui vẻ mà cười nhẹ. Tưởng tượng nhiều hơn nữa, ta sẽ liên tưởng đến kịch bản nọ trong đó có chàng Jimmy Chăn Bò rất lãng tử chẳng quan tâm/chăn dắt bất cứ ai.

Thêm vào đó, là Fred StarGazer, tay chiêm-tinh-gia chuyên ngắm nghía sao trời lãng đãng có biệt danh là Chàng Mag (chữ tắt của Đạo Sĩ rất “Ba Vua”). Còn lại là người thứ ba tên Fatso đồng nghĩa với Phát Phì ở tiếng Việt. Hài Nhi Thánh Ái hôm ấy đã trỗi dậy cười đùa với ba bốn vị trong bối cảnh đời thực. Ai cũng tự do thả hồn theo bước thăng trầm sầu/vui nơi đời sống. Và Hài-Nhi Thánh Ái đã hoà nhập với họ để cùng vui như thế.      

Suy về máng cỏ đời người, người đời sẽ thấy loài khủng long to đùng và kẻ bàng quan cùng nhau tung tăng múa nhảy. Nhảy múa với khủng long ư? Phải chăng đó là màn múa/nhảy ở xứ miền động đất có núi lửa nổ bùng? Liên tưởng nhiều thêm nữa, người người sẽ thấy kẻ bàng quan nay tham gia múa/nhảy với cuộc đời, không còn hãi sợ bất cứ thứ gì, nhưng đã biết cười đùa lớn tiếng, nói to lên. Liên tưởng thêm, người bàng quan tham gia cuộc nhảy/múa rồi cũng sẽ phục sức đầy sắc mầu của vui tươi, an hoà.

Chừng như họ là những vị chuyên tấu hài hay sao đó, chính vì thế tay chân họ vừa tung tăng múa và nhảy vừa tung lên cao rất nhiều thứ/đủ mọi thứ, như: banh quần vợt đầy sắc mầu hoan hỷ. Đôi lúc có vị hụt hẫng chẳng chụp được banh nỉ, nhưng cũng chẳng lấy đó làm điều, bởi hầu hết mọi tung ném đều đạt mục tiêu, rất đúng cách.

Trong số các nhân vật ấy, duy nhất chỉ thấy có một vị bắt chụp được hết mọi thứ dù banh nỉ có tung cao lên cao tít, ở cõi không. Bởi, Anh đứng đó trên máng cỏ, hầu có thể bắt chụp mọi thứ của mọi người. Anh ở trên đó, khi mọi sự đã chứng tỏ mọi sự nay theo đúng ý của Anh. Anh chẳng hề rời bước khi mọi sự cứ từ từ diễn tiến rồi xảy đến. Anh chính là thành phần của mọi sự và trong mọi sự. Giống bất cứ ai và những loài hiện có ở nơi đó. Anh chính là Hài Nhi Chí Ái luôn ưa thích mọi sự, cả những thăng trầm cuộc đời, nơi con người. Và, mãi mãi sẽ thế. Tên Anh là Giêsu, đích thị làng Nadarét, chốn nhân gian.

Về với máng cỏ, ắt hẳn có người sẽ liên tưởng đến cảnh trí thật hết ý về trò chơi nơi cuộc đời giống như thế, nên sẽ hỏi: sao Chúa lại giáng hạ làm người ở với người? Và, câu trả lời chắc chắn là: Ngài làm thế, để được vui nhiều hơn chốn vĩnh cửu miền nào đó!

Cử hành Tuần Thánh và hội lễ Phục Sinh, dân con người mình hẳn suy nghĩ nhiều về nỗi chết cũng như sự sống lại của Chúa. Khi ấy, người người hẳn sẽ nghiêm minh những suy và tưởng về chính mình.

Bởi, Chúa có chết đi và sống lại chốn miên trường, chính là để ban niềm an vui vĩnh cửu cho mỗi người và mọi người. Để, ơn cứu độ Ngài đến với con người. Và, nhiệm tích Vượt Qua –tức nhiệm tích thánh thiêng Ngài lướt vượt mọi thứ qua cái chết để rồi Ngài lại về với sự sống có trỗi dậy. Đó, là giải pháp cuối cho mọi dự tính của riêng ta.

Hội lễ Đức-Chúa-Niềm-Vui nay giáng hạ lại không như thế. Theo cung cách nào đó, có thể nói: đây là tưởng thưởng trội vượt nhu cầu thiết yếu để qua đó Chúa cứu độ trần gian là ta đây. Nhằm cứu rỗi chúng ta, hết mọi nhà, Ngài còn làm nhiều hơn thế. Nhiều, để ban cho ta Niềm-An-Vui lớn hơn cả nhận thức biết rằng mình được cứu thoát. Vui đây, là vui niềm trở nên một với Chúa ở đây. Bây giờ. Niềm vui có Đức-Chúa-là-Niềm-Vui luôn ở lại với ta, bây giờ và ngay đây. Đó chính là an vui niềm phúc hạnh gửi đến cho ta. Đó lại là Niềm-Vui-Có-Chúa đã lướt vượt được nhiều thứ, chí ít là khốn khó.

Lễ hội Chúa Giáng hạ, nay là mạc khải Chúa xác định thêm một lần nữa cho ta. Xác định, để ta vui với Niềm-Vui Chúa giáng hạ ở với cuộc đời, là thế giới. Sự thể này, còn to đùng/lớn hơn sự sống. Bởi, nó không bị ràng buộc hoặc kiểm soát bởi bất cứ quá trình nào từ cuộc sống hoặc do bởi nhu cầu sống ở nơi ta.

Và, cũng chẳng còn gì để nghi ngờ nữa về tương lai mai ngày của chính ta, và mọi người. Lễ hội Chúa-giáng-hạ-làm-người nay tiêu dùng cả và thế giới ta đang sống. Nhưng chính ta lại không bị thế giới tiêu dùng làm tan đi chính con người mình. Đức-Chúa-là-Niềm-Vui đang thưởng ngoạn sự kiện làm người ở với ta đến độ Ngài yêu cầu ta hãy đạt lấy niềm vui thần thánh có Đức Chúa. Vui như thế, để ta cần phải chờ đợi gì nữa, vì đã đạt chốn thiên đường, ở đây. Bây giờ. Thiên đường thực tế là đây. Ở lễ hội Giáng hạ này. Lễ hội, có máng cỏ. Có, thiên đường là đây. Chốn này. Một đời người.

Sự việc, xem ra có vẻ khác thường. Đúng thế. Đức-Chúa-là-Niềm-Vui nay giáng hạ, là việc rất khác lạ. Chúa hiện diện ở với ta, dù ta lại không trông chờ hoặc ngóng đợi, đó vẫn là sự thật rất chất thể, của Niềm-Vui đã nhập thể và nhập thế. Niềm-Vui-Chúa nhận lấy xác phàm làm người, là Ngài mạc khải tỏ lộ chính Niềm-Vui bằng xương bằng thịt như ta, nhưng ta không nghĩ Chúa là như thế.

Chắc cũng cần đến đấng bậc lành thánh như bậc hiển thánh Phanxicô thành Atxidi dạy cho ta biết điều ấy. Cần dạy để ta thấy được rằng người người ở trần thế, vẫn rất vui. Vui, với Niềm-Vui-của-Đức-Chúa để ta hoà lẫn với mùa lễ rất Giáng hạ. Chắc chắn bậc hiển thánh Phanxicô sẽ không về tay không khi ngài đặt chân viếng máng cỏ và để giờ nguyện cầu. Chắc chắn bậc hiển thánh sẽ ra đi vui hưởng cuộc đời lành thánh với chúng nhân cùng bạn bè người thân. Vẫn rất cần bậc lành thánh dạy ta thêm lần nữa, Đức-Chúa-là-Niềm-Vui nay giáng hạ.

Lễ hội Niềm-Vui-Chúa giáng hạ, khiến tất cả được mời gọi vui hưởng thế giới của niềm vui, như trẻ bé. Hội lễ Chúa Giáng Hạ ta mừng kính hôm nay đều có nghĩa Đức-Chúa-là-Niềm-Vui đến với thế giới gian trần, nơi máng cỏ cuộc đời hoặc ở nhà. Đức-Chúa-Niềm-Vui là thế đó, rất vui. Hôm nay.

Trong niềm an vui phấn khởi của mọi người, tưởng cũng nên về với lời thơ vui mà ngâm tiếp:

                        “Chúng ta tiến, em ơi, thành thanh khí.

                        Cho tan ra hoà hợp với tinh anh.

                        Của trời đất, của muôn ngàn ý nhị,

                        Và tình ta, sáng láng tự trăng thanh.”

                        (Hàn Mặc Tử – Sáng Láng)

Sáng láng ấy. Tinh anh này. Vẫn là Niềm-Vui-Chúa-giáng-hạ để ta tiến. Tiến cho tan, ngõ hầu hoà hợp với niềm vui chung của thế giới, của muôn ngàn ý nhị. Như trăng thanh. Tâm tình. Đầy ý tứ.           

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch. 

Ngày xưa ngày xửa ngày xưa

Chuyện phiếm đọc trong tuần sau lễ Giáng Sinh năm B 25/12/2017-31/12/2017

“Ngày xưa ngày xửa ngày xưa”
Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe mầu tơ
Hai đứa mình còn trẻ thơ
Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thơ.”

(Phạm Duy – Quán Bên Đường)

(Gioan 6: 45-46)

Quán xá bên đường, đâu kể gì ngày xửa ngày xưa. Quán xá hôm nay, ở nhiều nơi/nhiều chốn, rất bên đường. Chỉ câu hát “mái tóc bánh bèo” hoặc “da mét vì nghèo” được cất thành tiếng vào buổi Hát Cho Nhau Nghe hôm 18/11/2017 ở Sydney, mới thành chuyện. Chuyện hôm nay, hay ngày xưa cũng đều có những tình-tự như sau:

“À a a nhớ nhớ em còn mái tóc bánh bèo
À a a nhớ má chưa hồng da mét vì em nghèo
Đầu anh còn húi trọc, còn húi trọc
Khét nắng hôi trâu thèm đi học, thèm đi học
Thèm đi học…
Em cầm một củ khoai
Ghé răng cạp vỏ rơi
Xong rồi mình chia đôi
Khoai sùng này lượm mót
Sao ngọt lại ngọt ghê
Giờ đây kỷ niệm ngày xưa
Giờ đây cảnh cũ chìm xa mù khơi
Gặp nhau một chiều lạnh mưa
Nhìn nhau quần áo bảnh bao mừng sao.
Nhìn em còn xinh còn tươi
Đời em tưởng đâu là vui
Nhà em phải chăng là đây
Dè đâu chẳng may là quán
Em bẹo hình hài đem bán
Rồi em hỏi anh: làm chi
Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì
Đời thối phải nói là thơm
Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm.”

(Phạm Duy – bđd)

Ngày xưa hay hôm nay, vẫn còn những câu những kéo rất mê hồn, như con người vào mọi thời. Và, con người hôm nay lại sẽ hỏi những câu hơi ngớ ngẩn để rồi câu trả lời cũng không ngẩn ngơ/ngơ ngẩn, rằng: 

“Em hỏi nghệ thuật là chi.
Là đui, là điếc, là câm mà đi.
Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau.
Nào có ai đánh mà sao lòng đau.

Bánh ngọt cùng mời ăn.
Nhớ chăng củ khoai ngon.
Bánh tươm vàng như nắng.
Bánh này mình chưa cắn.
Sao mà miệng cay đắng.
Rồi xin một nụ cười thôi.
Cười ư?

Anh đã vùi quên nụ cười.
Thì xin vài giọt lệ rơi.
Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi.
Trước khi từ giã hỏi nhau

buồn hay là vui.
Thì cứ hỏi ngay cuộc đời…

(Phạm Duy – bđd)

Đó là chuyện xảy ra ở ngoài đời. Một đời rất thơ, văn, nghệ thuật, rất đẹp. Còn, chuyện xảy đến với nhà Đạo, lại cũng có những điều khá lơ mơ, vẩn vờ như câu hỏi/đáp với đấng bậc ở Sydney, rằng:

Thưa Cha,

Nhìn vào giáo-huấn của Đạo mình, con thấy rằng bất cứ ai thuộc bất kỳ tôn-giáo nào cũng đều được cứu vớt hết. Vậy thì, làm người Công giáo có gì lợi lộc hơn những người thuộc các Đạo khác, không? Phải chăng làm Phật tử, tín-đồ Ấn-giáo hoặc người Thệ Phản có dễ hơn không là bởi vì niềm tin trong Đạo của chúng ta đòi hỏi nhiều thứ hơn các Đạo khác chứ, phải không thưa Cha?” (Lại vẫn là câu hỏi nghe khá quen của một người)

Bảo rằng đây là “câu hỏi nghe khá quen của một người” hay nhiều người, thiết tưởng đó vẫn là những câu nhiều người hỏi, cần có giải đáp trung thực, và sâu sắc. Đấng bậc trả lời câu hỏi này, hôm nay, dù có sâu sắc/chắc nịch  hay không, vẫn là đấng bậc ở Sydney vị vọng không ngại ngùng một vương-vấn hoặc khúc-mắc nào hết. Và, đấng bậc hôm nay, lại đã đáp trả như thế này:

“Vấn-đề không phải là làm sao tìm cho ra một đạo-giáo nào khả dĩ có ít đòi hỏi gửi đến thành-viên đạo-hữu của mình, mà thôi đâu. Các đạo-giáo tương-tự vẫn ở đây đó, rất không xa.

 Vấn-đề ở đây, là bảo rằng: ta cũng nên tìm cho ra một đạo-giáo đến từ chính Thiên-Chúa và đạo-giáo này phải răn dạy qua tư-cách và thẩm-quyền thánh-thiêng con đường dẫn đến thiên-quốc. Thật ra, ta chỉ có duy nhất một đạo như thế mà thôi; và đây là thứ Đạo được chính Đức Giêsu tặng ba cho ta, là Hội thánh rất Công giáo.

 Vâng. Chính thế. Hội thánh ta cũng từng đưa ra các đòi hỏi tương-tự gửi đến với chúng ta, nhưng đồng thời các đấng cũng tặng ban cho ta mọi giùm giúp/hỗ trợ ta cần đến ngõ hầu sống thực các đòi hỏi ấy. Hội thánh kỳ-vọng là ta tham-dự thánh lễ ngày Chúa Nhật và lễ các đấng thánh này khác hầu tuân-giữ ngày/mùa sám-hối mà thương-yêu người đồng-loại như chính mình; tôn-kính sự sống của hài nhi chưa sinh không bằng hành-xử phá thai, nhưng trung-thành trong hành-xử cho phải lẽ với người phối-ngẫu của mình, đến hơi thở cuối cùng.

 Đành rằng, điều này càng làm cho cuộc sống của ta thêm bận-rộn. Thế nhưng, đó chính là con đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt ta đến hạnh-phúc ở nơi đây, trong hiện tại và mai ngày.

Hơn nữa, giáo-huấn của Hội-thánh ta còn dạy về các vấn-đề, như: phá thai, an-tử và tính keo sơn, trường-tồn của hôn-nhân không là những gì được các Giáo hoàng hoặc Công đồng thời Trung-cổ kỳ vọng, và rồi áp-đặt lên ta, từ đó đến thiên-thu. Đó là giáo-huấn đặt nền-tảng trên luật tự-nhiên, trên bản-chất rất nguyên-thuỷ của con người. Và, bằng vào tư-cách rất như thế, nên toàn thể nhân loại bất luận ta có là người Công-giáo hay không cũng đều áp-dụng cho mọi người.

 Vốn dĩ mang bản-chất nền-tảng cho việc triển nở của con người, chúng giúp ta sống thực như người đoan-trang hợp khuôn phép biết tôn-trọng lẫn nhau, và khiến cho xã hội trong đó người người cùng sống lại sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

 

Chính vì lý-do này, mà ta tỏ lòng biết ơn Đức Giêsu đã mang đến cho ta một Giáo-hội tốt đẹp có được sự trợ-giúp của Thánh Thần Chúa dạy ta biết sống trung-thành qua nhiều thời-kỳ con đường dẫn đến hạnh-phúc ở đây và mai ngày, vào đời sau.

 Quả thật là, các đạo-giáo khác không rõ ràng đưa ra giáo huấn nào đòi người đi theo phải có hành-xử này khác, nhưng đòi hỏi này càng làm cho đạo-hữu của thấy khó lòng giúp họ thực-hiện cuộc sống theo cách tốt đẹp như bao giờ. 

Thêm vào đó, Hội thánh không chỉ răn dạy ta đường-lối đúng đắn hầu đạt phúc hạnh mà thôi, nhưng còn tặng ban cho ta các Bí tích tràn đầy nhiều ý-nghĩa mà ta cần để có thể sống thực các giáo huấn này. Bí tích Thanh-tẩy tặng ban cho ta sự san sẻ đi vào cuộc sống của chính Thiên-Chúa bằng việc trú ngụ trong Ba Ngôi Thiên Chúa nơi linh hồn và bằng ơn thánh-hoá để rồi khiến ta nên thánh mà làm đẹp lòng Chúa.

 Bí tích Thêm sức, lại cũng xác-nhận với ta huệ lộc Thanh Tẩy và ban cho ta thêm sức mạnh hầu sống xứng đáng như người Công-giáo thực-thụ. Thân Mình Chúa ta có thể nhận được mỗi ngày nếu muốn, vẫn kết-hợp ta một cách trọn vẹn với Đức Kitô và khiến ta dễ dàng trở nên giống Đức Kitô hơn, qua hành-xử. Thêm nữa, Bí tích Xá giải lại thứ tha các lầm lỡ, tội phạm của ta rồi sẽ gửi ta đi vào con đường sạch sẽ có bổ dưỡng hầu khởi sự cuộc chiến đấu linh-thiêng nhiều hơn nữa.

 Bí tích xức dầu Kẻ liệt, làm cho ta mạnh hơn lên mỗi khi ta gặp nguy hiểm có thể chết. Đời sống vợ chồng trong hôn-nhân chính đáng tặng ta ân-huệ thỷ chung với quyết-tâm của mình trong hôn-nhân. Và, Bí tích truyền chức thánh tặng ban cho ta các thừa-tác-viên lành thánh có khả-năng thực-hành bí tích, cử-hành thánh-lễ và hướng-dẫn ta trong công-cuộc thánh-hoá bản thân, của mỗi người.                

 Không có được sự trợ-giúp như thế, tín-hữu chúng ta sẽ đi về đâu? Cũng nên nhớ, rằng: tất cả mọi người trên thế-giới, dù có là người Công-giáo hay không, đều phải chiến-đấu tránh phạm tội. Không một ai là miễn-nhiễm trước các cơn cám dỗ hoặc phạm lỗi trước mặt Chúa.

 Thế nhưng, còn gì dễ hơn là chiến thắng khi ta có được giáo-huấn rõ ràng của Hội thánh về những chuyện tốt/xấu và ta có được các Bí tích giúp ta mạnh mẽ thêm và tẩy sạch khi ta ngã quỵ. Tất cả mọi sự sẽ phán xét cung-cách ta sống các lời răn căn-bản về luân-lý/đạo-đức và khi ta có được sự trợ giúp của Hội thánh rồi, mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn với ta.

 Lại nữa, tham-dự thánh lễ các ngày Chúa nhật không phải là gánh nặng ta phải chịu mà là trợ giúp rất lớn để ta sống cuộc sống tốt đẹp. Trong Tiệc Thánh, ta có cả cộng-đoàn xung quanh luôn cầu nguyện với ta và cho ta trong chiến đấu. Ta được nghe Lời của Chúa vốn nhắc nhớ ta các sự thật căn bản về Thiên-Chúa, về sự sống và nỗi chết, và về cuộc sống ở đây, dưới thế-trần này.

 Tham-dự thánh lễ, ta còn được nghe các bài giảng khuyến-khích ta cung cách tích-cực mà thực-thi những gì ta đã nghe được trong các bài đọc hầu giúp ta chiến đấu sống xứng-đáng bậc thánh-hiền.

 Ta cùng nhau nguyện cầu với vị linh-mục và cộng-đoàn giáo-dân đưa nhau đến gần Chúa là Đấng ta phụng thờ hầu cảm tạ mọi ơn lành Ngài tặng ban, lâu nay. Trên hết mọi sự, ta còn được rước Mình Máu Chúa để trở nên một trong Đức Kitô.    

 Nói tóm lại, làm người Công-giáo tức là ta có đủ mọi lợi lộc trong đời mình. Mỗi năm có cả trăm ngàn người gia-nhập Hội-thánh vào lễ Phục Sinh không phải để chơi giỡn, và nhiều người trong họ đến từ các đạo-giáo đòi hỏi nơi thành-viên ít thứ, ít chuyện hơn Đạo ta. 

Nay, ta hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho ta Hội thánh của Ngài rất lành thánh, rất tốt đẹp. (X. Lm John Flader, Is there any advantage in being Catholic, given the demands on us, the Catholic Weekly 19/4/2015, tr. 18)

Người đi Đạo nào cũng thế, kể cả Công giáo, Phật Giáo lẫn Đạo Hồi đều có một tâm-điểm rất giống nhau, là cứ men theo cuộc đời người. Điểm going giống ở đây, còn là mẫu sỗ chung giống hệt câu truyện kể ở bên dưới:

Đàn ông luôn tỏ ra bất mãn với “Tật nói nhiều” của Phụ nữ, thậm chí coi đó là một giấc mộng kinh hoàng nhất trong cuộc đời! Trong khi đó, hầu hết Phụ nữ lại cho rằng: Họ buộc phải nói nhiều để “chiến đấu” với tật xấu của bạn đời.

 Theo các Chuyên gia về gia đình, thì không có gì hoang tưởng hơn, là chỉ dùng lời nói mà có thể cải tạo được một người Đàn ông. Trái lại, không ít cuộc ly hôn đã là hậu quả trực tiếp, hay gián tiếp, của những cuộc tra tấn bằng ngôn ngữ triền miên ….

 Người ta kể rằng:

Có một người Đàn ông bị đi tù 2 năm vì tội đánh vợ. Sau khi mãn hạn được tha về đoàn tụ với gia đình mới có một tuần lễ, anh ta lại khăn gói đến xin Ban quản lý nhà tù cho được tiếp tục cải tạo đến hết đời. Hỏi vì sao anh không thích ở nhà mà lại muốn vào tù? Anh ta thú thật rằng: Tuy ở trong tù mất tự do thật, nhưng còn sướng hơn ở nhà, vì không bị vợ nói ra rả suốt ngày đêm!

 Một cuộc điều tra 3.000 người đàn ông ở Thượng Hải với câu hỏi: 

– “Tính xấu của vợ mà anh ngán nhất?” thì 86% người trả lời: 

-Nói nhiều! 

 Các nhà Tâm lý học cho rằng: Hầu hết đàn ông đều sợ cái tính nói dai của các bà vợ. Nỗi sợ này có nguồn gốc sâu xa từ hồi nhỏ khi anh ta bị mẹ mắng mỏ. Đàn ông lẩn tránh các lời khuyên của vợ cũng giống như khi còn bé họ lẫn tránh lời dạy bảo của mẹ.   

 Hóa ra, Đàn ông rất hay bị Đàn bà rầy la: 

Lúc bé thì mẹ mắng.

Lớn lên một tí bị chị mắng. 

Lớn tí nữa, bị người yêu chê trách. 

Lấy vợ bị vợ đay nghiến. 

Về già lại bị con gái kêu ca ….

 Có phải Đàn ông bị vợ nói nhiều là đáng đời vì họ lắm tội? Tiếc rằng thực tế cho thấy: Khó mà có ông chồng nào thoát khỏi những “tội lỗi” ấy: 

-Người làm việc trí óc bị rầy la về đóng cái đinh không nên hồn! 

-Người khéo léo chân tay lại bị chê là viết cái đơn không xong! 

-Người giỏi cả chân tay lẫn trí óc lại bị tra tấn, vì không bao giờ biết mua vé đưa vợ đi xem một bộ phim …

 Giải thích tại sao Phụ nữ nói nhiều, có nhà Khoa học cho rằng: Vì khả năng sử dụng ngôn ngữ của họ mạnh hơn Nam giới. Lại có người cho rằng là từ thời tiền sử, Phụ nữ trồng trọt hái lượm nên tha hồ nói chuyện, trong khi đàn ông đi săn bắt phải ẩn nấp không nói được. Thật ra, Đàn bà cũng chẳng thích lắm điều, nhưng vì đa số việc nhà vẫn rơi vào tay Phụ nữ mà những việc đó thì không mấy khi được vừa lòng, do chồng con gây ra, vì vậy Phụ nữ không nói cũng không được.

 Tuy nhiên, các nhà Tâm lý cho rằng: Người vợ khôn ngoan nói cái gì chỉ nói một lần thôi. Nếu điều đó không theo ý mình, thì cũng không nói đi nói lại, mà hãy làm thay anh ta. Bởi vì, cũng theo các Chuyên gia về gia đình, thì không có gì hoang tưởng hơn chỉ là dùng lời nói mà có thể “cải tạo” được một người Đàn ông đâu! 

 Bây giờ ta hãy đi ngược thời gian xem khi mới quen hơi bén tiếng nhau, Phụ nữ có thói quen ấy không. Nếu có, có lẽ số cuộc kết hôn phải giảm đi 90%. Vậy khi mới yêu nhau, phụ nữ cư xử với đàn ông thế nào? Thường lúc đó họ khen không ngớt. Nào là: “Anh giỏi quá!”; Anh tài quá!”; “Anh thông minh quá!”… 

 Thì ra, mọi chuyện chỉ bắt đầu từ khi kết hôn. Hãy thử nghe một đoạn băng ghi âm xem một cuộc xung đột vợ chồng thường diễn ra như thế nào? Ăn xong, người vợ nhẹ nhàng bảo:

-Bữa nay, anh rửa bát nhá!

 Chồng vừa dán mắt vào tivi vừa trả lời:

-Được rồi, cứ để đấy!

Mươi phút sau vợ hỏi;

-Anh có rửa bát không nào?

Anh ta vẫn không dời mắt khỏi ti-vi, miệng trả lời:

-Có!

 Nhưng đa số Phụ nữ không chấp nhận như thế! Họ muốn chồng phải làm ngay, nếu không thì hoặc họ sẽ tự làm, hoặc họ sẽ “trình diễn” một bộ mặt hình sự, mà những người đàn ông yếu bóng vía có thể bị chấn thương tâm lý, đến mức thấy mình đúng là một tên tội phạm. Bộ mặt ấy sẽ tiêu diệt hết cả mọi thú vui của anh ta trong ngày hôm đó.

 

Suy cho cùng, ai chả muốn nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, nhưng nếu vì thế mà đánh đổi cả bầu không khí gia đình êm ấm có nên không? Không ít cuộc ly hôn đã là hậu quả trực tiếp, hay gián tiếp, của những cuộc tra tấn bằng ngôn ngữ triền miên này. Để kết thúc bài viết, xin kể một câu chuyện có thật về một đôi vợ chồng người Nga.

 Sergei Ivanovich kết hôn với Lena Xeramova và chỉ còn mấy hôm nữa là đến ngày kỷ niệm đám cưới vàng. Bỗng nhiên bữa nọ đang ăn thì bà vợ phát hiện chồng đánh rơi miếng thịt ra sân nhà, bà ta nghiến răng gầm lên:

-Ông ăn uống cái kiểu gì thế?

 Sergei sửng sốt rồi ánh mắt từ từ lạnh lùng nhìn vợ, không nói một lời đứng dậy thu xếp khăn gói ra đi.

 Về sau có người bạn thân của ông kể lại lần gặp cuối cùng, ông ta nói:

-Lúc nào bà ấy cũng đay nghiến tôi! Bà ấy nói tôi suốt đời không làm được một việc gì ra hồn! Lần này, ít nhất tôi cũng làm được một việc ra hồn, là … ra đi vĩnh viễn! (Truyện kể trích từ trên mạng)

Trích đâu thì trích, chỉ cần bạn trích câu chuyện đời người đúng thực-tế để người nghe còn nể phục và cho rằng mình nói đúng và kể cũng không sai. Còn, cung-cách kể lể có nể-phục hay không, đều tuỳ mỗi người và mọi người.

Thế đấy, câu chuyện phiếm Đạo/đời cần kể nhiều, kể mãi không thôi. Nhưng, hôm nay đây, kể như thế cũng đã nhiều. Nay, xin bạn và tôi, ta kết thúc câu chuyện những kể lể, để tạm ngơi nghỉ, hầu kéo dài cuộc sống cần nghe chứ không cần kể nhiều như các cụ vẫn khuyên mọi người, trong đời.

Cần nghe nhiều, và chỉ nên nghe lời vàng của bậc thánh hiền lâu nay, vẫn dạy rằng:

“Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ:

Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ.

Vậy phàm ai nghe

và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha,

thì sẽ đến với tôi.

Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu,

nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến,

chính Đấng ấy

đã thấy Chúa Cha.”

(Gioan 6: 45-46)

Trần Ngọc Mười Hai

Xưa nay vẫn thích nói nhiều hơn nghe kể

Nên mới gọi đó là Chuyện Phiếm Đạo Đời

Rất buồn cười.

ĐỨC TIN SANH KIÊN CƯỜNG

From:    Thang Chu‘s post.

Thang Chu

ĐỨC TIN SANH KIÊN CƯỜNG

By Rick Warren – Dec 28, 2017

“Chúng tôi bị ép đủ bề bởi hoạn nạn, nhưng chúng tôi không bị đè bẹp. Chúng tôi bị bối rối, nhưng không bị đẩy vào tuyệt vọng. Chúng tôi bị săn đuổi, nhưng chưa từng bị God bỏ rơi. Chúng tôi bị đo ván, nhưng chúng tôi không bị hủy diệt” (2 Cô-rinh-tô 4:8-9 NLT).

Đức tin mở khóa những lời hứa của God, nó tỏ cho chúng ta quyền năng God, nó biến ước mơ thành hiện thực, và nó cho chúng ta quyền năng bám trụ những lúc khó khăn.

God không luôn đưa bạn ra khỏi vấn nạn. Ngài giương ra đức tin bạn bằng cách đưa bạn xuyên qua vấn nạn đó. Ngài không luôn cất đi đau đớn. Ngài ban cho bạn khả năng được đổ đầy đức tin để đối phó nỗi đau. Và God không luôn đưa bạn ra khỏi bão tố vì Ngài muốn bạn tin cậy Ngài giữa phong ba.

Tôi nhớ có đọc những chuyện về Corrie ten Boom, một Cơ-đốc-nhân trẻ người Hòa Lan đã giúp nhiều người Do Thái thoát diệt chủng Holocaust trước khi bị tống vào những trại tập trung Nazi. Sau khi Thế Chiến II chấm dứt, bà nói rằng người sống qua những trại tập trung là những người có đức tin sâu sắc nhất. Tại sao? Vì đức tin cho bạn quyền năng để bám trụ lúc khó khăn. Nó sanh ra kiên cường.

Nghiên cứu này sau nghiên cứu kia cho thấy rằng có lẽ đức tính quan trọng nhất bạn có thể dạy con (và bạn cần nó trong chính đời bạn) là sức bật. Nó là khả năng bật dậy. Nó là khả năng đế tiếp tục đi. Không ai trải qua cuộc đời với một chuỗi thành công không bị gãy đổ. Mọi người đều gặp thất bại và lầm lỗi. Tất cả chúng ta tự làm khó mình. Tất cả chúng ta gặp đau đớn. Tất cả chúng ta gặp vấn nạn. Tất cả chúng ta gặp áp lực. Người vượt qua chúng trong đời phải có sức bật.

Bạn có biết bao nhiêu lần tôi muốn từ chức làm mục sư tại Hội Thánh Saddleback không? Cứ mỗi sáng thứ Hai! Tôi nói, “God ôi, thật lớn quá. Thật nhiều người quá, thật nhiều trách nhiệm quá. Con không thông minh đủ. Điều gì con phải nói với số nhiều người như vậy? Xin đưa ai đó khác có thể làm việc tốt hơn con.”

Tuy nhiên God nói, “Cứ tiếp tục.”

Nơi đâu bạn có được sức bật đó để tiếp tục đi? Đức tin. Đó là tin God có thể làm việc gì đó vào lúc nào đó mà có thể thay đổi hướng đi đời bạn, và bạn không muốn bỏ lỡ nó, vậy cứ tiếp tục tiến tới. Đó là tin rằng God sẽ ban cho bạn chính xác điều bạn cần khi bạn cần nó để bạn học nương cậy vào Ngài để hoàn thành mục đích Ngài nơi bạn.

Đây là lời chứng của Phao-lô, một người vĩ đại của đức tin: “Chúng tôi bị ép đủ bề bởi hoạn nạn, nhưng chúng tôi không bị đè bẹp. Chúng tôi bị bối rối, nhưng không bị đẩy vào tuyệt vọng. Chúng tôi bị săn đuổi, nhưng chưa từng bị God bỏ rơi. Chúng tôi bị đo ván, nhưng chúng tôi không bị hủy diệt” (2 Cô-rinh-tô 4:8-9 NLT).

THẢO LUẬN
• Điều gì là mục đích tai ương của God trong đời bạn?
• Thế nào đức tin giúp bạn kiên cường qua suốt lúc khó khăn trong đời bạn?
• “Đức tin không luôn đem bạn ra khỏi vấn nạn. Đức tin thường đem bạn xuyên qua vấn nạn.” Thể nào chân lý này uốn nắn cách bạn đáp ứng lại những vấn nạn mà bạn đối diện ngay phút này?

“We are pressed on every side by troubles, but we are not crushed. We are perplexed, but not driven to despair. We are hunted down, but never abandoned by God. We get knocked down, but we are not destroyed” (2 Corinthians 4:8-9 NLT).
PASTORRICK.COM   

QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA

QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA

“Đức Giêsu là Quà Tặng quý giá nhất
Thiên Chúa trao gởi cho con người”(x. Ga 3, 16).
 

Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường tặng cho nhau những món quà, vì đây là dịp để thể hiện tình yêu thương và quan tâm đến nhau. Quà Giáng Sinh không chỉ mang giá trị tinh thần của người Kitô giáo mà cả những người không cùng tôn giáo. Vào những ngày này, chúng ta thấy quà Giáng sinh được bán khắp nơi, trông rất đẹp, phong phú và đa dạng. Mỗi người đều có những món quà từ những người thân tặng, nó có thể là một cánh thiệp với những lời chúc mừng, hay một món quà nào đó của người yêu tặng.v.v..Tất cả đều được gói ghém trong tình thương và chia sẻ với nhau trong niềm vui ngày lễ Giáng Sinh. Người tặng quà thì luôn tìm kiếm và lựa chọn những món quà yêu thích để làm vui và làm hài lòng người nhận, dù nó chỉ là món quà nhỏ bé, đơn sơ hay món quà giá trị đắc tiền. Tuy nhiên, không phải ai cũng thích và đón nhận quà tặng từ người khác khi lòng không muốn, thì họ có thể khước từ và trả lại. Nhận và cho luôn là cách giao tiếp của con người trong xã hội thời nay.

Từ ý nghĩa của việc tặng quà trong dịp Giáng Sinh, chúng ta có thể hình dung ra một món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, đó chính là Con Thiên Chúa xuống thế làm Người. Ngài đang ở với và ở cùng chúng ta. Món quà từ Trời Cao ban cho nhân loại. Trong Tin mừng hôm nay thuật lại qua lời loan báo của sứ thần cho những cậu bé chăn chiên ngoài đồng.Họ vội vã lên đường đến gặp thánh Giuse và Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu tại làng Bêlem. Ngài sinh ra trong đêm đông lạnh giá, nơi cái chuồng bò hôi tanh, nghèo hèn. Các mục đồng trở về trong vui mừng, ca tụng và tôn vinh Thiên Chúa về những gì họ đã được mắt thấy tai nghe và đi loan báo tin vui về Thiên Chúa Giáng sinh. Tin vui đó không chỉ cho các mục đồng năm xưa, nhưng là tin vui cho toàn thế giới hôm nay đang đón nhận và tận hưởng. Tiếng khóc chào đời của Hài Nhi Giêsu đã mang lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho con người. Như lời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Nếu Giáng sinh là dịp để tặng quà, để gặp gỡ vui chơi và tìm niềm vui qua những bữa tiệc, qua những giây phút ngọt ngào bên người thân gia đình, thì đó chỉ là niềm vui và hạnh phúc tạm thời trong mùa Giáng Sinh này. Là người Kitô hữu, chúng ta cần thoát ra khỏi thế giới chật hẹp, để nhận ra những điều kỳ diệu về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Nhập Thế. Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta có ngày vui trọng đại này. Ngài đã chấp nhận mang lấy kiếp con người, và là “Emmanuel”. Nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài yêu thương và gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu san sẻ, cho đi và tự hủy. Niềm vui và hạnh phúc thật sự trong lễ Giáng Sinh là biết cho đi.Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại qua Người Con yêu quý của Ngài, là Chúa Giêsu.Thế nhưng, có nhiều người nghĩ rằng,Giáng Sinh là dịp để tận hưởng vui chơi qua các sự kiện bên ngoài mà quên đi ý nghĩa đích thức bên trong về mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh. Người ta vẫn vô tình hay chối bỏ Quà Tặng của Thiên Chúa, là chính Chúa Giêsu.
 Nếu chúng ta biết xấu hỗ và cảm thấy đau buồn khi một người thân trả lại quà tặng trong dịp Giáng Sinh này, thì chắc hẳn Thiên Chúa cũng rất đau buồn khi chúng ta đón mừng lễ Giáng Sinh mà không có Chúa Giêsu tham dự, trong lòng cảm thấy cô đơn trống vắng, sau những cuộc vui. Mùa Giáng Sinh không chỉ là dịp cho chúng ta tận hưởng ơn lành, bình an và hạnh phúc trong đêm thánh, mà còn là dịp cho ta chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho con người. Sứ thần loan báo: “Hôm nay Đấng Cứu Thế được sinh ra cho chúng ta, Ngài là Con Thiên Chúa”.

 Để đáp lại tình yêu Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận Quà Tặng của Thiên Chúa là chính nơi Đức Giêsu. Nhờ Ngài chúng con biết chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, an ủi với người đói ăn, người cô đơn, người bệnh tật, già nua, tù đày…Xin Chúa cho chúng con biết mang lại hòa bình, hiệp nhất và yêu thương nhau.

Lm. John Nguyễn.

From: thanhhong54& Thu Mai

Chứng cứ về thiên đường’: BS phẫu thuật não kể lại trải nghiệm 7 ngày não ngưng hoạt động

 

Chứng cứ về thiên đường’: BS phẫu thuật não kể lại trải nghiệm 7 ngày não ngưng hoạt động

Hàng ngàn người trên thế giới đã kể lại trải nghiệm cận tử khi họ ở trong trạng thái hôn mê sâu, nhưng trường hợp của Eben Alexander trong quyển sách “Chứng cứ về thiên đường” lại đáng chú ý bởi lẽ: ông là bác sĩ phẫu thuật não có uy tín, người có chuyên môn và am hiểu y học cao-hơn-trung-bình để phân biệt đâu là ảo giác, đâu là trải nghiệm phi thường nơi địa giới tinh thần.

Bác sĩ Eben Alexander và tựa sách “Chứng cứ về thiên đường” phiên bản tiếng Việt

Cuốn sách “Chứng cứ về thiên đường” mô tả trải nghiệm cận tử của Eben trong suốt 7 ngày hôn mê – điều đã làm thay đổi hoàn toàn quan niệm và suy nghĩ của ông về thế giới bên kia.

Một bác sĩ với hồ sơ ‘hoàn hảo’

Eben Alexander (11/12/1953) là con nuôi của một chuyên gia phẫu thuật thần kinh đáng kính. Eben là thành viên của Hiệp hội Y khoa Mỹ; ông từng theo học tại Viện Phillips Exeter (1972), Đại học North Carolina tại Chapel Hill (1975), đại học Y khoa Duke rồi tham gia giảng dạy ở Bệnh viện Đại học Duke, Đại học Y Harvard, Đại học Y Massachusetts và Đại học Y Virginia.

Hơn 25 năm làm bác sĩ phẫu thuật thần kinh, Eben thường xuyên tiếp xúc với các bệnh nhân trong trạng thái hôn mê sâu và tỉnh lại sau đó, rất nhiều người đã kể cho ông nghe về trải nghiệm cận tử, nhưng ông vẫn luôn nghĩ đó hoàn toàn chỉ là ảo giác khi não của họ gặp vấn đề.

Cho tới khi…

Một chứng bệnh cực kỳ hy hữu

Ngày 10/10/2008, Eben – người mà cả đời gần như chẳng bao giờ bệnh tật gì – bỗng bị đau lưng dữ dội, và được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Lychburg, Virginia (chính nơi ông đang làm việc) trong tình trạng hôn mê, co giật.

Ông bị viêm màng não do khuẩn E. coli cực kỳ hiếm gặp với chưa đến 1 phần 10 triệu người mắc phải ngẫu nhiên mỗi năm.

Ông ở vào tình trạng hôn mê trong 7 ngày với tỷ lệ tử vong được xác định là trên 97%.

“Một tuần bất tỉnh với căn bệnh viêm màng não nghiêm trọng do vi khuẩn gây ra đã là vượt quá giới hạn của bất kỳ khả năng hồi phục khả dĩ nào,” bác sĩ Scott Wade nhận định vào ngày thứ 7 Eben hôn mê.

Trong 7 ngày đó, “Eben” lại trải qua một hành trình khác…

Một trải nghiệm cận tử mỹ diệu

Ba vùng đất kỳ lạ

Cuộc phiêu lưu trong trải nghiệm cận tử của ông diễn ra tại 3 nơi trong một không gian khác, được ông gọi trong cuốn sách là “Vùng Quang cảnh của Giun đất”, “Cổng vào” và “Cốt lõi”.

Bác sĩ Eben Alexander và tựa sách “Chứng cứ về thiên đường” phiên bản tiếng Anh (ảnh: thespirituniversity.com)

“Cổng vào” được Eben mô tả là một “thứ gì đó vừa xoay vòng một cách chậm rãi, vừa tỏa ra những sợi ánh sáng như tơ mỏng màu vàng… mang theo một âm thanh sống, tựa như một bản nhạc đẹp đẽ nhất, phức tạp nhất, phong phú nhất”. Nó dẫn ông đến “một thế giới kỳ lạ nhất, đẹp đẽ nhất” mà ông “chưa từng thấy”. Thế giới đó theo Eben mô tả là “rực sỡ, sống động, ngây ngất, choáng ngợp…” và “có dùng một đống tính từ của ngôn ngữ con người thì nó vẫn chưa đủ để mô tả sự đẹp đẽ của thế giới đó.”

Eben mô tả: “ Nó là trái đất… nhưng đồng thời không lại không là trái đất. Giống như khi bố mẹ bạn đưa bản trở lại nơi bạn đã sống từ khi còn rất nhỏ. Nơi đó hoàn toàn xa lạ với bạn. Hay ít ra là bạn nghĩ thế. Nhưng rồi khi bạn nhìn xung quanh, có thứ gì đó níu lấy bạn, rồi bạn nhận ra đó là một phần bên trong mình – một phần ở rất, rất sâu – vẫn còn nhớ được nơi này, và hân hoan khi được quay trở lại nơi đây”.

Tại “Cổng vào”, Eben cũng nhìn thấy con người, động vật. “Người ta hát và nhảy thành những vòng tròn… tất cả đều ngập tràn niềm vui. Họ mặc những bộ quần áo đơn giản nhưng vô cùng đẹp đẽ.”

Kể về cái gọi là “Cốt lõi”, Eben mô tả rằng mình đang đi tới “một vùng khoảng trống bao la, tối mịt, vô hạn về kích thước, nhưng cũng lại êm dịu vô ngần. Dù đen kịt đến thế, nhưng lại ngập tràn ánh sáng: một thứ ánh sáng như thể phát ra từ một quả cầu rực rỡ”.

Tại “Cối lõi”, Ebeb cảm thấy mình đang ở trong một bào thai, bồng bềnh trong một nhau thai, giúp nuôi dưỡng nó và làm trung gian với “người mẹ” của ông. Người mẹ của ông ở đây “chính là Chúa, là Đấng Sáng Tạo, là Nguồn Sống chịu trách nhiệm kiến tạo ra vũ trụ và tất thảy những gì ở bên trong nó”. Ông cảm nhận được “sự bao la vô tận”, cảm nhận được “sự gần gũi, sự yêu thương vô điều kiện, toàn năng, toàn trí và không thể tả bằng lời” của Đấng Sáng Tạo.

Tình yêu vô điều kiện nơi thiên đường

Eben mô tả, ở thế giới tinh thần đó, ông đã gặp “một cô gái xinh đẹp, với đôi gò mà cao và cặp mắt xanh lam sâu thẳm”. Trang phục của cô gái “mang trong chúng thứ sức sinh động đến choáng ngợp mà tất cả mọi thứ khác ở xung quanh đều sở hữu”.

Cô gái nói chuyện với Eben bằng “những thông điệp xuyên qua người” ông “như một cơn gió”. Thông điệp đó mang đến tình yêu “vượt lên trên tất cả những tình yêu khác nhau mà chúng ta biết đến trên trái đất này. Nó là thứ gì đó cao cả hơn, vừa chứa đựng tất thảy mọi thứ tình yêu còn lại, vừa chân thành, vừa thuần khiết hơn chúng”.

Cô gái xinh đẹp mà Eben gặp trên thiên đường, chính là người em ruột đã mất mà ông chưa từng gặp

Eben thấy rằng “trong dạng thuần khiết và mãnh liệt nhất, thứ tình yêu này không ghen tuông hay ích kỷ, mà vô điều kiện, là thực tế của mọi thực tế, là chân lý của mọi chân lý, chói sáng và vượt trên cả mọi kiến thức, vẫn luôn sống và thở trong cố lõi của vạn vật, nó chính là cảm xúc quan trọng nhất trong vũ trụ, và còn là chân lý khoa học quan trọng nhất”.

Eben cho biết: Tình yêu và sự chấp nhận vô điều kiện mà tôi nếm trải trong hành trình của mình là khám phá quan trọng độc nhất mà tôi đã hay sẽ thực hiện”. Ông “cũng biết được rằng bằng trái tim mình, chia sẻ thông điệp rất cơ bản này – một thông điệp cơ bản đến nỗi hầu hết trẻ con đều chấp nhận ngay – là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình”.

Trải nghiệm các thời gian – không gian khác biệt và khả năng học hỏi tức thì

Khi ở trong “Cổng vào”, Eben cho biết: “tôi không biết mình đã bay như vậy chính xác là bao lâu. Thời gian ở nơi này khác biệt với thời gian tuyến tính đơn giản mà chúng ta cảm nhận ở trái đất, và miêu tả về nó cũng vô vọng y hệt như miêu tả về những khía cạnh khác của nơi này.”

Tại “Cốt lõi”, nhiều lần Eben giao tiếp với Chúa mà ông gọi là Đấng Sáng Tạo thông qua một Quả Cầu Ánh Sáng. Đấng Sáng Tạo cũng cho Eben biết được rằng không chỉ có một mà có nhiều vũ trụ – nhiều hơn so với điều mà con người có thể hình dung – nhưng ở trung tâm của tất cả các thứ ấy là tình yêu.

Eben trông thấy sự phong phú của sự sống qua “hằng hà sa số vũ trụ, bao gồm cả những vũ trụ nơi trí tuệ đã vượt xa loài người”. Eben cũng trông thấy “vô số chiều không gian cao hơn… Thế giới của của thời gian và không gian mà chúng ta di chuyển ở trên trái đất này được đan cài một cách chặt chẽ và phức tạp bên trong những thế giới cao hơn ấy.”

Tỉnh lại sau trải nghiệm cận tử, Eben cho rằng “bản thân bộ não không tạo ra ý thức”, nó giống như một cái van giảm áp hay máy lọc, có tác dụng điều chỉnh ý thức phi vật chất mà chúng ta có được trong những thế giới phi vật chất rộng lớn thành một loại ý thức có dung lượng hạn chế trong hiện thực cuộc sống nhỏ bé này.

Chính vì vậy, khi ý thức của Eben vượt ra ngoài thân thể, ông đã thu được những kiến thức về thiên nhiên và cấu tạo của vũ trụ, vượt trên rất nhiều khả năng hiểu biết trong thế giới này của ông, một cách tức thì và vô cùng dễ dàng.

Một hành trình thay đổi thế giới quan

(ảnh: Shutterstock)

“Dù cho khi lớn lên, tôi đã rất muốn tin vào Chúa và thiên đường cũng như kiếp sau, nhưng nhiều thập kỷ sống trong thế giới khoa học giải phẫu thần kinh nghiệm ngặt đã khiến tôi hoài nghi sâu sắc sự tồn tại của những điều này. Khoa học thần kinh hiện đại tuyên bố rằng bộ não là khởi nguồn của ý thức – của tâm trí, linh hồn, tâm linh, của cái phần vô hình, phi vật thể mà bạn muốn gọi là gì cũng được – là phần thật sự tạo nên chúng ta – và tôi đã không mấy nghi ngờ gì về lời tuyên bố này,” Eben cho biết.

Trải nghiệm cận tử của chính bản thân đã khiến Eben rốt cuộc đã thay đổi những niềm tin bấy lâu nay của mình về khái niệm bộ não, về ý thức, thậm chí là về việc bản thân cuộc sống này mang trong nó ý nghĩa gì.

Khi Eben hăng hái chia sẻ những trải nghiệm của mình với mọi người, đặc biệt là các bác sĩ đồng nghiệp, nhưng đã có rất nhiều người thờ ơ trước câu chuyện của ông. Eben nhận ra rằng chính bản thân mình trước kia cũng có thái độ như vậy khi tiếp xúc với các trải nghiệm cận tử.

Tuy nhiên, với vai trò là một bác sĩ, Eben nhận thấy mình có nghĩa vụ phải kể lại câu chuyện của bản thân với hy vọng có thể giúp đỡ những người khác. Và có lẽ, không ai ở vị trí tốt hơn ông để làm điều đó.

Một quyển sách sống động như bộ phim

Quãng thời gian 7 ngày Eben khám phá những cảnh giới cao hơn, thì ở thực tại, người thân và bạn bè của ông phải đối mặt với một Eben “gần như đã chết”, và cả 2 câu chuyện đều diễn ra đồng thời.

“Chứng cứ về thiên đường” không chỉ thú vị ở những trải nghiệm phi thường của Eben, mà còn là cách kể chuyện đan xen hiện tại, quá khứ, thế giới thực, thế giới tinh thần trong 7 ngày.

Người đọc được theo dõi một câu chuyện giàu kịch tính, pha chút hài hước nhưng đầy lý trí, được chia thành từng đoạn nhỏ chỉ dài khoảng vài trang hệt như những cảnh phim sống động. Đó không chỉ là trải nghiệm của một mình Eben, mà là tình thương, sự lo lắng và hành động của cả người thân và các bác sĩ, đồng nghiệp ở chính nơi ông làm việc.

Cuốn sách “Chứng cứ về thiên đường” đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành ở Việt Nam bởi nhà sách Nhã Nam.

Thiện Tâm, Phong Trần tổng hợp

ĐÊM ÁNH SÁNG

ĐÊM ÁNH SÁNG

Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp bóng tối dày đặc.

Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm.  Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang.  Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ.  Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh.  Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.

Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.

Đó là ánh sáng tình yêu.

Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm.  Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại.  Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được.  Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa.  Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đi tìm con người.  Thiên Chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người.  Thiên Chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó.  Thật lạ lùng, Thiên Chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại.  Thiên Chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại.  Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên Chúa.  Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương.  Ánh sáng Thiên Chúa soi sáng kiếp người tăm tối.  Ánh sáng Thiên Chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.

Đó là ánh sáng niềm tin.

Ánh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí.  Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm, nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức.  Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn.  Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối.  Đó là những người nghèo của Thiên Chúa.  Đó là thánh Giuse, Đức Maria.  Đó là Ba Vua.  Đó là các mục đồng.  Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa.  Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên Chúa gửi đến.  Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu.  Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng.  Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt.  Trái lại “vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng.”  Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua.  Ánh sáng đã bao phủ các ngài.  Ánh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ.  Ánh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” và các ngài đã tin.

Đó là ánh sáng hy vọng.

Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới.  Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu.  Những người nghèo của Thiên Chúa âm thầm kiên trì chờ đợi.  Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm.  Niềm khao khát đã được đáp ứng.  Đã đến mùa Thiên Chúa gieo hạt.  Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại.  Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ.  Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian.  Ánh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng.  Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng.  Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên Chúa gieo vào thế giới.

Đó là ánh sáng Tin Mừng.

Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh.  “Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.”  Tin Mừng được loan đi.  Niềm vui lan tới mọi tâm hồn.  Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.

Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú.  Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê.  Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối.  Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.

Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From Langthangchieutim

Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 26-38)

Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ bà Maria nói:”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

&  &  &

“Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,”

“Chợt thoáng hiện về, dấu yêu ơi.”

(dẫn từ thơ Miên Thuỵ)

Chợt thoáng hiện về”, là lời thơ cho thấy một “hiện về” cũng rất thoáng như sứ thần Gabriel đã hiện về với Đức Maria để báo cho Mẹ biết tin vui ngày Chúa đến. Với mọi người.

Tin vui ngày Chúa về đến, là tin rất sớm về ơn cứu độ đã mạc khải cho Maria, người nữ trẻ ở Trung Đông, để Mẹ sẵn sàng mà nhận lãnh. Là thiếu nữ Trung Đông còn rất trẻ, nên trông Mẹ không giống hình hài mà mọi người Công giáo có trong đầu, từ thơ ấu. Hình hài ấy, là hình rất tưởng tượng về một Maria có dáng dấp của thiếu nữ rất Châu Âu. Thành thử ra, phần đông giáo dân ở trời Tây lâu nay không mấy thích khi thấy Mẹ chẳng giống họ, về hình hài. Tuy là thế, Mẹ vẫn mang bản chất Trung Đông chân phương, hiền hoà, dễ mến.  

Tính chân chất hài hoà của thiếu nữ Trung Đông trong đó có Maria rất thiếu nữ, là sự rất thật về tính khiêm nhu, độ lượng của dân làng Nadarét. Mẹ không thuộc hoàng phái hoặc giòng dõi quý tộc nhưng Mẹ vẫn nhu mì, hiền dịu quyết chấp nhận bất cứ điều gì Chúa bảo ban. Bằng vào tính ngoan hiền và kiên định, Mẹ có khả năng thực hiện điều mình chọn để sẽ sống hết mình, với lựa chọn ấy.

Mang thai Đức Giêsu, vào lúc có thể Mẹ chỉ mới 13 tuổi đời, tức ở tuổi còn rất trẻ, lại nhỏ bé nhưng Maria vẫn có dáng dấp dẻo dai, bước đi thoăn thoắt theo tư thái của người cao ráo biết học cách bưng vại nước hoặc các bó đồ ở trên đầu. Mẹ phục sức tựa các thiếu nữ khác, cũng áo thụng đen vào buổi đầu, sau đổi sang thành mầu xám nhẹ. Tên của Mẹ theo tiếng Aram, là Maryam. Nhưng lại chuyển sang thành Myriam theo tiếng Hipri Do thái, là quốc ngữ mà Mẹ không hề sử dụng. Maryam còn là tên của một trong ba nữ phụ ở trong làng, người người đều biết đến.

Tin Mừng, nay thánh sử vẽ lên bối cảnh của sứ vụ “truyền tin”. Ở đây, thấy rõ văn phong sáng tạo của thánh Luca rất thi sĩ khi thánh nhân viết đối thoại giữa Đức Maryam và thần sứ Gabriel qua đó khi Mẹ đáp trả sứ mệnh Chúa giao phó. Bối cảnh “truyền tin”, tuy không xác thực như sử học nhất là khi thần sứ dùng ngôn từ khá lạ kỳ đối với Mẹ. Thần sứ Gabriel cũng đâu có mang tính xác thực một bản thể, để có thể nói tiếng Aram như ai khác. Thế nên, ngôn từ ở trình thuật là ngôn và từ của thánh sử. Và, kinh nghiệm ở trình thuật, là kinh nghiệm từng trải của Maria, rất thiếu nữ.

Lời nói đầu của thần sứ chỉ mỗi chữ: “Mừng vui lên!” bên tiếng Hy Lạp, người ta chào hỏi nhau bằng chữ “chaire”. Trong khi đó, người Do thái chào nhau lại dùng cụm từ “rani” hoặc “gili” rút từ lời ngôn sứ Sôphônia khi nói với dân con Israel: “Vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Sô 3: 14). Cụm từ “Vui lên” không giống lời chào buổi sáng ở tiếng Anh/tiếng Pháp, nhưng tiếng Hip-ri mang ý nghĩa: “Hãy vui mừng trổi dậy mà nhẩy múa”. Đây là lời chúc bất thường. Bởi, đó là lời Chúa mời Maria hãy cùng Ngài múa nhảy vũ điệu trọng đại.

“Hỡi Đấng đầy ơn phúc!” tiếng Hy Lạp là checharitomene”, đại ý chỉ người nữ duyên dáng và đầy phúc lành vì được quà tặng biến đổi mà Chúa đặc biệt phú ban cho riêng Maria. Hiểu theo ý chữ thì điều này có nghĩa là: Maria được Chúa công nhận là người khiêu vũ có duyên, và rất diễm tuyệt. Duyên dáng và diễm tuyệt, là bởi Maria biết chuyển động nhanh vòng quanh với niềm vui cao độ của Chúa, Đấng từng nhẩy múa với Mẹ. Và, Mẹ biết thêm thắt vào với vẻ đẹp của vũ điệu mà Chúa nhảy múa bằng cung cách Mẹ đảm trách khi cùng nhảy điệu vũ của công cuộc cứu rỗi.  

“Chúa ở cùng người”, là chỉ về bạn nhảy hiện diện nơi bản ngã rất xác thể mà ngôn sứ Sôphônia diễn tả qua cụm từ “nức lòng”. Lúc ấy, là lúc Đức Maria được đề nghị nên có động thái của ngôn sứ, như lời khuyên: “Maria đừng sợ! vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa.” Thật ra, Maria là Mẹ đâu có gì phải hãi sợ khi đón nhận thông điệp do thần sứ mang đến, bởi đó chính là niềm vui trọn vẹn. Và, Mẹ vui với niềm vui của thiếu nữ đoan trang, mạnh mẽ, tự do. Tự do, biết rằng mình sẽ có em bé, là Con Chúa.

Và tiếp đến, là câu hỏi mang dáng vẻ trần thế: “Điều ấy sẽ làm sao được?”Tức: làm sao có thể ra như thế? Bởi, tôi đây đâu tính chuyện xác thịt. Hoặc, nói như bản dịch kinh thánh nào khác: “Tôi nào biết đến nam nhân”, tức có nghĩa: “tôi, một thiếu nữ trinh trong”. Câu này không thấy ghi ở bản Kinh thánh gốc Aram, mà chỉ là thuật ngữ để nói lên rằng: Maria chưa từng nghĩ chuyện ăn nằm xác thịt, vì tuổi của Mẹ còn quá nhỏ để được phép.

Kinh thánh không ám chỉ việc Mẹ quyết ở độc thân, mà chỉ mô tả cảnh tình của Mẹ vào lúc đó, thôi. Sử học Do thái cũng không đưa ra nền tảng nào để ta có thể nghĩ rằng Đức Nữ Trinh Maria đã thành thân với thánh Giuse với ý định sẽ lập “con đàn cháu đống”, tức: cũng sẽ ăn nằm xác thịt hầu có con, như mọi gia đình ở Do thái. Độc thân, theo người Do thái, là chuyện hãn hữu chẳng bao giờ được đề cao, ngoại trừ trường hợp rất hi hữu. Chí ít, là với thiếu nữ trẻ sống ở thôn làng thuộc đất miền rất Galilê.

“Thánh Thần sẽ đến trên người”, điều này cốt ý nói sự việc sẽ nên hiện thực. Thánh Thần nói ở đây, khi ấy không hẳn là Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa, mà chỉ là nhiệm tích thánh thiêng của “Thần Khí” (Ruah). “Và, Quyền năng (dynamis) Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên ngườiVà, trẻ sắp sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa”. Lời đối đáp ở đây mang tính cách mật thiết với Chúa.

Đáp lại, là câu nói của Maria rất thiếu nữ: “Này đây!” Với Kinh thánh, cụm từ “Này đây!” cho người đọc thấy: ta sắp được Chúa mạc khải một điều hệ trọng. Mạc khải, là công thức biểu lộ điều gì đó ta chưa hề biết đến. “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài.” (Lc 1: 38). Câu nói của Maria thiếu nữ nghe vừa nhu mì, hiền dịu, lại rất ngoan. Vừa cung kính, dễ bảo, lại mang tính thụ động như ở phần đông các bản dịch ta nghe biết. Như từ lâu, truyền thống tu đức Giáo hội vẫn hiểu theo nghĩa này. Để rồi sẽ cho rằng: điều Maria nói có nghĩa: Mẹ là thiếu nữ trinh trong, hiểu theo nghĩa thụ động, thuần thục. Không hề biết đến “dục vọng”.

Nhưng bản Kinh Hy Lạp lại khác. Bản này không bao hàm ý nghĩa như thế. “Xin hãy thành sự cho tôi”, là dịch từ tiếng Hy Lạp “genoito”, như chọn lựa sâu sắc. Thánh Luca là người rất giỏi tiếng Hy Lạp, nên khi thánh nhân dùng cụm từ “genoito” là có ý bảo: “Vâng! Xin vâng. Vì đây là ý tưởng tuyệt vời mà mọi người đợi mong”. Tuyệt vời, còn là ngôn từ chỉ sự mừng vui trên mức trọn hảo. Và như thế, thần sứ chúc mừng Maria thiếu nữ bằng cách mời Mẹ “hãy đứng lên mà múa nhảy và ăn mừng” với Chúa. Và, lời Mẹ đáp trả cho thấy là Mẹ đang làm điều đó.

Các nhà chú giải kinh thánh, chuyên gia tiếng Hy-Lạp, như Ignace de la Potterie năm 1988 và Christopher Evans năm 1990 suy tư nhiều về sắc thái này nên cho rằng các nhà chú giải xưa như thánh Bernard thành Clairvaus cũng đã hiểu điều đó.

Quả thật cũng buồn, khi một số các dịch giả đã thay đổi ý nghĩa của điều mà Đức Maria từng nói đến. Các vị vẫn nghĩ rằng lời đáp trả của Mẹ đượm tính cách từ tốn và nguyện cầu nên đã chấp nhận sự việc xảy đến, như cụm từ “fiat” tiếng La-tinh có nghĩa là: “Cứ để việc ấy xảy đến với tôi, nếu như thế”.

Giả như người đọc sách thánh là giáo dân nữ có lòng đạo hạnh từng coi Đức Maria như thần tượng của mình, chắc chắn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khi được biết là thánh Luca viết ra trình thuật này là để diễn tả kinh nghiệm riêng của Đức Mẹ “xin vâng” trong tình huống xảy đến vào lúc ấy.

Hiểu đúng nghĩa câu Mẹ nói, hẳn rằng người người sẽ thấy bản năng mình cảm nhận về nỗi mừng vui cũng đúng và thực tiễn. Với Hội thánh, có lẽ cũng nên tìm hiểu và liên tưởng đến các hành xử khác biệt. Hiểu theo nghĩa đích thực của lời Mẹ đáp thay cho thánh hội, thì Hội thánh ắt sẽ tung tăng mừng vui mà nhảy múa với mọi người.                  

Trong tinh thần mừng vui cảm kích, cũng nên ngâm tiếp cũng một lời thơ, mà rằng: 

                        “Con đường Phượng tím chiều nay đổ,

Bóng lá che nghiêng một góc đời.

                        Nghe trong cõi nhớ niềm xa xót,

                        Chợt thoáng hiện về, “dấu yêu ơi”.

                        (Miên Thuỵ – Con Đường Phượng Tím

Phượng tím, có là con đường của đợi chờ cũng vẫn là “cõi nhớ”, nhiều yêu dấu. Nhưng dấu yêu chợt về chào mời mọi người hãy vui lên mà nhảy múa. Nhảy và múa, hầu chào đón Đấng Cứu Tinh nay lại về. Ngài về đến trong mừng vui hoan lạc, đầy nhung nhớ. Ở mọi thời. Rất con người. 

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch. 

From Vuisongtrendoi

Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên

Một Mình: Hồng Nhung  Sáng tác: Thanh Tùng

httpv://www.youtube.com/watch?v=A69ZUnHlB4I

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”

Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên

Bao đêm tôi đã một mình nhớ em

Ðêm nay tôi lại một mình.”

(Thanh Tùng – Một Mình)

(Mt 14: 26)  

Có lẽ, chính vì bạn cứ hát những câu như: “Bao đêm tôi đã một mình”, rồi còn thêm: “Đêm nay tôi lại một mình”, thế nên mới xảy ra những cảnh tượng một mình ngồi thấy ghê ghê, đến rợn người.

Thế đó, là tâm-trạng của rất nhiều người từng thắc mắc và hỏi han đấng bậc nhà Đạo những chuyện tréo cẳng ngỗng như sau, thì làm sao cố Đạo biết đâu mà trả lời/trả vốn cho ra nhẽ. Quả là, cố Đạo người Tây ở Sydney cũng từng nghe hỏi rất nhiều những câu hỏi khá là vẩn vơ, khiến đức ngài ơ thờ bèn trả lời/trả vốn rất huề vốn như câu chuyện hỏi đáp. Thế nhưng, trước khi nghe kể, tưởng cũng nên nghe người nghệ-sĩ hát thêm đôi ca-từ thấm-thía, như sau:

“Nhớ em vội vàng trong nắng trưa.

Áo phơi trời đổ cơn mưa.

Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ.

Tan ca bố có đón đưa.

Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai.

Gió sương mòn cả hai vai.

Ðôi chân chênh vênh con đường nhỏ.

Nghiêng nghiêng bóng em gầy.

Vắng em còn lại tôi với tôi.

Lá khô mùa này lại rơi.

Thương em mênh mông chân trời lạ.

Bơ vơ chốn xa xôi.

Vắng em đời còn ai với ai.

Ngất ngây men rượu say.

Ðêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ.

Cô đơn, cùng với tôi về…..”

(Thanh Tùng – bđd)

“Cô đơn”, nhung nhớ và gì gì nữa, vẫn là và sẽ là những tình-tự ở đời, còn nhớ mãi khôn nguôi. Nói về chuyện “nhớ”, thì bần đạo bầy tôi đây là cũng nhớ đôi giòng hỏi đáp giữa thày/trò, cha/con trong Đạo có nhiều nỗi nhớ, rất như sau:

“Thưa Cha,

Nhiều năm qua, con đây vẫn thường nghe nhiều truyện kể về những người từng thấy “ma”, và có cả những vị bảo rằng mình từng nghe nhiều âm-thanh “lạ tai” thậm chí còn nói: họ thấy cả đồ vật di-chuyển tuỳ hứng mà chẳng có duyên-do, cớ sự gì hết. Vậy, người Công giáo nhìn sự việc này như thế nào? (câu hỏi nghe quen quen từ một giáo-dân ở huyện nhà, là giáo-xứ).

Và đây, lại một trả lời cũng rất quen từ một đấng bậc cũng quen thuộc ở Sydney, như sau:

“Cả tôi nữa, cũng nghe nhiều truyện từ những người tôi quen biết lại là những người từng nhất quyết bảo rằng họ đã thấy “ma” ở đây đó; hoặc từng nghe nhiều âm thanh lạ, kể cả giọng nói của những người không xuất hiện vào lúc ấy. Hiện tượng về những “căn nhà ma” vì thế có lẽ cũng có một vài nền-tảng, trên thực-tế. Đây thực sự là vụ/việc khi hơn một người đều thấy hoặc nghe/biết cùng một chuyện.

Hỏi rằng: từ câu chuyện ấy ta làm được điều gì? Thì, theo thiển ý, Giáo-hội ta cũng từng có những tuyên-bố chính-thức về vấn-đề này, nên tôi cũng chẳng thấy cần để đưa ra câu trả lời dứt khoát cho vấn đề này. Ta cũng từ đó nên rút ra điều mà mọi người biết được do kinh-nghiệm và do từ niềm tin của người Công-giáo.

Tác giả Peter Kreedt có viết trong cuốn sách có nhan-đề là “Tất cả những gì mọi người cần biết về thiên-dàng, lại đã đề-cập đến chuyện “ma quái” rất kinh-hoàng. Ông công-nhận rằng có ba chứng cứ đáng kể về ma quái gặp thấy trong hầu hết mọi nền văn-hoá. Ông phân-biệt ba loại ma từng xứng-hợp với kinh-nghiệm chung của nhiều người mà tôi từng nói đến.

Thứ nhất, có loại ma được qui về câu hỏi mà anh/chị đưa ra, đó là: các hồn ma thấy được nhưng khá mờ mịt lại không có thân-xác thể-chất đột nhiên xuất-hiện hoặc biến mất. Có lúc, hồn ma ấy được bảo là có dáng dấp đàn ông hoặc phụ nữ, và có độ tuổi nào đó khá đặc biệt, kể cả con nít.

Tác giả Kreeft nghĩ rằng: có thể là, thần-hồn của người phàm xác thịt vẫn còn tồn tại nơi luyện ngục và vẫn còn một số công việc chưa hoàn tất trên trái đất. Có thể là, những thần hồn ấy đã sống hoặc chết ngay tại địa-điểm chúng xuất-hiện. Chẳng có gì gọi được là ác-thần/sự dữ khi ta nói về các “thần hồn” ấy, dù có làm cho người chứng kiến cảnh-tượng này, thấy hãi sợ.

Thật ta không thể cắt-nghĩa được tại sao các “hồn” ấy lại được phép xuất-hiện trên cõi trần này, nhưng có quá nhiều truyện kể để xua đuổi chúng để đầu óc con người khỏi bận tâm. Cũng có thể, Thiên-Chúa có lý do nào đó cho phép các “thần hồn” này được xuất-hiện. Một trong các lý-do có thể hiểu được, đó là: việc cho phép như thế cố để làm người bắt gặp thấy mủi lòng rồi còn biết đường mà cầu-nguyện cho họ, hoặc dạy cho họ một vài bài học.

Thứ hai nữa, là: các hồn ma mang dáng dữ-tợn có thể xuất tự hoả-ngục, cũng không chừng. Tôi có nghe một số người bảo rằng họ từng thấy đám quỉ dữ mang hình-hài rất khác biệt và tôi không có lý-do gì để nghi ngờ sự thật mà nói ra.

Cùng một loại như thế, có thể gộp chung vào đó các thần hồn được hiện lên trong các buổi lễ hoặc nghi-thức nào khác rất ngoại thường. Bởi, Satan có thể dính-dự vào các buổi ấy, nên Giáo-hội từng dựa vào Kinh thánh (như ở sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 9-13) từng cảnh giác các tín-hữu mình đừng nên dính-dấp vào buổi ấy.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có dạy rằng: “Mọi hình-thức bói toán nói tiên-tri đều phải được loại bỏ: chạy đến với Satan hoặc ma quái, quỉ thần để nhờ cậy, hoặc gọi hồn người chết hoặc “cầu cơ” này khác để bảo rằng “sức mạnh thần-kỳ ấy có phép thần thông đoán được tương lai con người” luôn là chuyện sai trái, đầy dối trá.

Lại nữa, tra-cứu, đoán ý tử vi đẩu số, chiêm-tinh, coi chỉ tay, giải-đoán điềm thiêng dấu lạ, cùng các hiện-tượng giải-đoán tương lai mai ngày, rồi chạy đến với môi-giới tất cả đều che đậy một khát-vọng có quyền-phép trên cả thời-gian, lịch-sử để phân tách kết cuộc những người khác, cùng thu-phục các quyền-uy thế-lực tiềm ẩm ở bên dưới. Tất cả những thứ như thế đều trái với niềm vinh-dự, sự tôn-trọng và kính sợ những gì ta mắc nợ chỉ mình Thiên-Chúa, thôi.” (X. GLHTCG đoạn 2116)

Trường hợp có sự việc các đồ vật di chuyển gây tiếng động hoặc tiếng ồn lạ lùng mà không có nguyên nhân rõ ràng dứt khoát do hồn ma phối hợp với Satan tạo ra. Thánh Gioan Vianney, Cha xứ họ Ars, thường nghe thấy tiếng động của tủ giường/bàn ghế và tiếng động lạ kỳ trong nhà về đêm, và thánh-nhân biết chắc chắn rằng quỉ dữ đang làm việc để ngài lo ra chia trí trong công-cuộc thừa-tác đầy kết quả ở toà giải tội.

Nếu ai trải-nghiệm cũng một hiện-tượng như thế trong nhà mình, thì tốt nhất nên tìm một linh-mục hoặc ngay đến đấng trừ tà ở giáo-phận mình mà xin chúc lành hoặc làm phép trừ tà cho căn nhà của mình.

Thứ ba là, có những truyện kể về sự xuất-hiện của các bậc hiển-thánh hoặc người thân đã chết, thông thường là các thành-viên trong gia-đình mình từng được công-nhận là các vị này có biệt-tài như thế. Nhưng, các ngài không làm ai hãi sợ, đúng ra là tạo sự ủi-an và hy-vọng cho người thân của mình, thôi. Đôi lúc, thành-viên gia-đình đã quá cố, các thiên thần hoặc các bậc hiển-thánh có thể cũng xuất-hiện khi có người thân yêu khác trong gia đình đang đi dần vào chỗ chết, có lẽ để an ủi người sắp chết hoặc tháp-tùng họ đi vào cuộc sống đời sau. Đây, lại là vấn-đề của linh-hồn hoặc những vị đang ở chốn thiên cung.

Nói chung thì, khi các trải-nghiệm của con người đưa ra quá nhiều truyện kể về bóng mờ của các bản-thể linh-thiêng xuất-hiện, một số trong đó được gọi là “hồn ma”, thì cũng không có lý-do gì để ngờ-vực tính chân-thực của các vị này.

Do bởi các sự việc như thế thỉnh thoảng mới xảy ra, thì cũng không nên sợ họ. Giả như có ai trong chúng ta lần đầu thấy loại “hồn ma” nói trên xuất-hiện, thì cũng nên cầu-nguyện cho linh-hồn của người vừa hiện hình và cũng lẽ cũng nên lấy nước thánh rảy lên nơi chỗ vị ấy xuất hiện, thật mới đúng.” (X. Lm John Flader, Church and ghosts, The Catholic Weekly 18/01/2009, Question Time, tr.10)

“Thần hồn” hiện ra, lại cũng giông giống lời ca hôm nào, những hát rằng: “Cô đơn, cùng với tôi về”, và cũng có thể là lời đề-nghị tôi và bạn, ta quay về với vùng trời câu truyện kể khá đáng kể về tâm-trạng cô đơn nhưng không diệu vợi của cuộc đời, cũng rất người.

“Cô đơn, cùng với tôi về” còn gợi nhớ câu truyện kể về “Ông Lão Kỳ Lạ” đọc được ở trên mạng thấy có nghĩa, bèn trích lại đây để bạn và tôi cùng thưởng-thức rồi sẽ tính. Câu truyện được kể như sau:

“Lần đầu tiên tôi nghe về lão là mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12 năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố Lausanne. Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho bữa tiệc thân hữu gặp nhau. Phố xá lạnh lẽo và vắng lặng lắm vì đa số mọi người đã đều đi về đoàn tụ với gia đình. Trời lất phất đổ tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà cảm thấy lãng mạn hay cô đơn kinh khiếp.

Với tôi, năm ấy thật buồn, vì ba mẹ tôi đi Hoa Kỳ thăm bạn, còn tôi vì phải lo học thi cho học kỳ mùa Đông, nên không đi theo được. Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong mùa Giáng Sinh lê thê quả là một chuyện cô đơn khó chịu. May mà còn có bạn bè dễ thương. Họ làm tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm lòng người viễn xứ! 

Khi ở phố về, chúng tôi chọn đường tắt nên đi ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt lẻo trên ghềnh đá, đứng trên thành cầu nhìn xuống dưới người yếu bóng vía dễ bị xây xẩm vì chiều sâu hun hút hiểm trở. Người bạn đi chung chợt giật tay tôi chỉ một túp lều vải được dựng ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, vì mùa này không phải là mùa để người ta cắm trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20 năm nay, mỗi năm cứ đến mùa Giáng Sinh lại có ông già đến đây cắm trại.

Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Bạn tôi cho biết chiếc cầu này là nơi quyến rũ nhiều người cứ đến mùa Giáng Sinh ra nhảy cầu tự tử. Vì mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá, những người sống cô đơn thường bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ tìm cái chết. 20 năm qua, người đàn ông đã cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai một mình đứng trên cầu, lập tức ông bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều của ông thường có rượu chát, chocolade và vài món quà nho nhỏ. Người có ý định tự tử thường được ông mời vào lều cho uống rượu tâm tình, cho đến khi người đó bỏ ý định quyên sinh.

Trước khi rời khỏi lều, thể nào họ cũng được ông cho món quà có ý nghĩa, với số điện thoại để sau đó cần người nói chuyện thì tìm ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ hội đoàn nào giúp sức. Nghe lời kể của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không ngờ giữa cuộc sống có quá nhiều bon chen, tranh giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn tôi đi về phía lều của ông lão và tỏ ý muốn nói chuyện. Ông lão mở cửa lều, mời chúng tôi vào. Đó là một người đàn ông có dáng người khắc khổ, tuổi khoảng trên dưới 70 tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong căn lều thiết trí rất đơn giản, có tấm thảm trải cho ấm và một lò than nho nhỏ bên cạnh để sưởi, nấu trà, cafê và thức ăn. 

Ông lão hỏi chúng tôi sao lại đứng trên cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá lạnh trong buổi chiều Noël? Tôi kể ông nghe về cảm nhận của mình khi biết chuyện và vô cùng tán thán hạnh nguyện của ông. Ông lão mỉm cười:

-Thì sống trong đời, ta có thể làm được việc gì tốt cho người khác thì phải cố gắng thôi!“ Ông cũng cho biết thêm: có nhiều người oán trách tôi vì tôi bắt họ tiếp tục sống để chịu khổ!

Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng 1 giờ đồng hồ về nhiều đề tài rất tương đắc, ông lão rất thông thái, rất tế nhị và khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau đó chúng tôi từ giã ông để trở về lo bữa tiệc buổi tối.

Từ đó, thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại nói chuyện với ông. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở và trở nên thân thiết. Ông tên Peter Dupont, tuổi đã 72 và sống một mình cô độc. Tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông không có gia đình. Ông bảo:

-Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa, vì phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia đình, ngày tháng qua đi, trở thành người già khi nào không biết.”

Ông làm việc tại ngân hàng X với nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ văn phòng này tới văn phòng khác. Ông không bao giờ nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại đây. Khi mẹ ông qua đời trong đêm, ông đến xin phép ban giám đốc cho ông được nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc nhiên thấy ông xin nghỉ, hỏi lý do mới biết đêm qua mẹ ông qua đời. Ông giám đốc kêu trời và bắt ông nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông gọi điện thoại xin cho ông đi làm lại kẻo không ông cũng sẽ „chết“ như bà mẹ của ông mất, nếu người ta còn bắt ông ở nhà! 

Quả thật tôi không thể hiểu được tại sao có người ham mê công việc đến thế, ông lão trả lời những thắc mắc của tôi rằng:

-Ta được sống trong xã hội đầy đủ thế này, ta nợ biết bao nhiêu người, nếu không làm việc để trả lại những ân nghĩa ta vay, thời ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?“ Tôi giật mình vì lý luận của ông rất gần với tư tưởng Bồ Tát Đạo của Phật Giáo đại thừa, trong khi ông là KiTô-Hữu.

Với thời gian, chúng tôi khám phá ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank nơi bạn tôi làm việc, mặc dù cũng làm việc cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành quản trị gia tài, trong khi ông chưa giàu có để có trương mục tại ngân hàng đó. 

Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng khi có chuyện gì có liên quan đến ngân hàng tiền bạc. 

Thời gian trôi đi, đã 14 năm kể từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù rằng tuổi ông đã quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều người biết về ông, có những bài phóng sự hay chương trình truyền hình nói về ông, song chưa bao giờ những thứ ấy khiến ông để ý! Ông thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới quay phim, phỏng vấn ông. 

Hôm qua, tôi nhận được điện thoại của bạn tôi, tôi đã lặng người đi khi nghe tin ông đã vừa giã biệt cõi đời! Cảm động nhất là trước ngày ông mất, ông nhờ người đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng gặp bạn tôi (sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại được nữa, mà phải ngồi xe lăn), ông mang tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế đất, bill điện nước theo và yêu cầu bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo:

-Ta biết ta sắp ra đi, nay nhờ anh giúp trang trải hết những nợ nần còn sót lại này, ta không muốn còn phải nợ nần gì khi giã biệt cõi trần.”

Ông không có nhiều tiền trong trương mục, nhưng sau khi thanh toán còn lại một chút, bạn tôi hỏi ông muốn làm gì, ông bảo làm gì cũng được, song ông có người cháu họ xa, hiện cũng đã 70 tuổi, nếu số tiền còn lại đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho người cháu với lời nhắn nhủ là: “Giáng Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng được ra cầu Lausanne cắm trại cứu người, thì ông sẽ mỉm cười thanh thản ở bên kia thế giới“ 

Chỉ vậy, hai ngày sau đó ông ra đi thanh thản tại bệnh viện gần nhà. 

Một vị Bồ Tát bằng xương bằng thịt đã âm thầm đến và đi, không để lại dấu vết! Tôi không đi dự tang lễ của ông được, nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có nhiều người được ông cứu từ 30 năm về trước cũng mang gia đình con cháu tới tiễn ông. 

Mùa thu … vắng lặng và buồn quá! Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát bụi … tăng thêm chất màu mỡ cho đất. Một đóng góp cuối cùng! Ông lão kỳ lạ kia cũng vậy!” (Quảng Diệu Trần Bảo Toàn – Mùa Vu Lan 2548) 

Với tác giả truyện kể, thì: “mùa thu… vắng lặng và buồn quá!…” nhưng như thế vẫn chưa hẳn là chuyện ma quái hay ma quỉ, rất buồn tênh. Lại cũng có những chuyện buồn tênh, nhưng chẳng là ma quỉ hay ma mãnh gì hết, vẫn nên nghe:

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.

Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:

– “Có dư đồng nào không con?”.

Tôi đáp:

– “Còn dư bốn ngàn ba ạ”.

Ba nói tiếp:

– “Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”.

Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.” (Truyện về Ba, do người viết không ký tên là tác giả)

Và một truyện kể khác, về “má” cũng không tên người viết như sau:

“Ba hay má, vẫn cứ là những ma và quái âm thầm sống trong đời người làm gì có ma quỉ. Chi có ma, khi “Ba” và “Má” không chịu sống thân phận của mà, của Ba của con người nhiều phận buồn.

Má hay Ba, vẫn không là “Ma” hay “quái quỉ” gì, chỉ là con người đích-thực sống cuộc đời buồn như “ma” mà thôi.”

Thế đó, là chuyện đời cũng nên phiếm hoài, phiếm mãi để rồi sẽ nhận ra rằng: đời người, chỉ một chuyện phiếm rất sương sương nhưng không “vô thường”, rất xưa nay.

Thế đó, là câu chuyện “phiếm” đời người nói mãi không nguôi. Và không hết. Nói gì thì nói, chớ nên nói chuyện ma quái hoặc quỉ mà để rồi tất cả cũng trở-thành quái quỉ đến độ “trẻ không tha, già không thương”, là như thế.

Nói hoài nói mãi một chuyện phiếm, rồi cũng đến lúc ta nên dừng lại để về với ngôi vườn thượng uyển có những lời vàng rồi theo đó mà sống cùng, sống với nhau, cho nhau hạnh phúc mien trường, không sợ hãi. Lời rằng:

“Vào khoảng canh tư,

Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.

Thấy Ngài đi trên mặt biển,

các ông hoảng hốt bảo nhau:

“Ma đấy!”,

và sợ hãi la lên.

Đức Giêsu liền bảo các ông:

“Hãy yên tâm,

chính Thầy đây,

đừng sợ!”

(Mt 14: 26)  

Thế đấy là Ngài, vậy mà môn đệ cứ tưởng là “Ma!” Thế còn, ma kia, quỉ nọ mà người người lại cứ nghĩ là người. Người hay ma, ma hay người, vẫn chỉ là quan-niệm mà nhiều người còn nghĩ đến, mãi hôm nay.

Và, hôm nay xin trở về với đời thường để còn sống những chuỗi ngày còn lại cũng rất người, như người người, ở trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Chưa từng gặp thứ ma mãnh

hoặc quỉ ma nào hết.

mà chỉ là

những người không thuộc loại

“quỉ tha ma bắt”,

mà thôi. 

From Vuisongtrendoi