LỜI NGUYỆN

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới :
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.

Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

NGĂN CẢN

NGĂN CẢN

Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín.  Trong căn phòng này, tâm hồn các ông đầy nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt ngào về Người.  Chính tại nơi đây, vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa Tiệc Ly với họ.  Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.

Các tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi, tội lỗi, đau khổ và thất vọng.  Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin (Tôma).  Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào chung quanh họ.

Đức Giêsu không chờ đợi họ đến với Người.  Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ).  Bằng một động tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ.  Người không la rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người.  Ở đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội.  Người biết cảm giác của họ ra sao, do đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ.  Thay vào đó, Người đã mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng.  Người nói với họ “Bình an cho anh em.”  Người nói câu này không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ.  Trong khi đón nhận sự bình an của Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.

Đột nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ: cái chết, sự dữ, và sự phản bội đã bị chế ngự.  Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến thắng.  Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người.  Một cuộc khởi sự tươi mới có thể diễn ra.  Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.

Phương pháp của Đức Giêsu thật êm dịu.  Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt.  Đức Giêsu khiêm tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương, đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ.  Từ tình trạng hoàn toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách và dứt khoát. Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa.  Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách trọn vẹn.

Biến cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta.  Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng.  Tất cả đều trở nên khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ.  Khi bị sa ngã vì những thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ nạn của Người.

Do đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.

Sưu tầm

****************************** **********

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

From Langthangchieutim gởi

5 LÝ DO YÊU MẾN ĐỨC MẸ

5 LÝ DO YÊU MẾN ĐỨC MẸ

Tôi tin rằng chúng ta không nên sợ việc đào sâu mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Maria qua 5 lý do dưới đây. 


1) Người Công giáo không thờ phượng Đức Maria

Để giúp người Tin Lành đi đúng hướng: Người Công giáo không thờ phượng Đức Maria. Chúng ta tôn kính bà vì bà là Mẹ của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đến với chúng ta thông qua bà. Thiên Chúa có thể làm bất cứ thứ gì ngài muốn, và đây là ngài đã chọn để đến với chúng ta.

Vậy thật là thích hợp, khi người Mẹ ấy giúp chúng ta đến với Con của bà. Người Tin Lành có thể dễ dàng tôn kính thánh Phaolô, như đánh giá cao vai trò của thánh nhân, khuyên mọi người nên biết về các tác phẩm của ngài. Tương tự thế, người Công giáo cũng kính trọng Đức Maria. Rõ ràng bà không phải là Thiên Chúa, nhưng là một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa ban nhiều ân sủng.

2) Tình yêu không có tính trắng đen rõ ràng
 


Chúng ta có cảm tưởng rằng, nếu chúng ta yêu mến Đức Maria, thì chúng ta không yêu mến Chúa Giêsu đủ. Nhưng mối liên hệ trong gia đình không có tính trắng đen như thế. Chẳng lẽ lại có một người con phẫn nộ, khi bạn của anh yêu mến mẹ anh? Và chẳng lẽ lại có người mẹ cảm thấy phiền não khi con cái bà yêu mến cha của chúng? Trong một gia đình, tình yêu thì dồi dào và bao la.

3) Chúa Giêsu không ghen tị với mẹ Ngài

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết, “Mặt trời sẽ không bao giờ bị lu mờ bởi ánh trăng.” Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sẽ không cảm thấy bị đe doạ bởi việc Mẹ ngài được yêu thương và tôn kính. Ngài tin tưởng, yêu mến bà và biết rằng ý chí giữa họ luôn hiệp nhất. Đức Maria, bởi vì nó là một thụ tạo, chứ không phải là Đấng Tạo Hoá, sẽ không bao giờ vượt trội Chúa Ba Ngôi, nhưng luôn là sự phản chiếu ánh hào quang của Thiên Chúa.
 

 

 

 

 

 

 

4) Đức Maria là Mẹ chúng ta

Đức Maria là Mẹ thiêng liêng của chúng ta. Bởi khi bị đóng đinh trên Thánh giá, Chúa Kitô đã trao Mary cho thánh Gioan, và trao thánh Gioan cho Mẹ người. Khi ấy vai trò của làm mẹ của Đức Maria được mở rộng cho toàn thể nhân loại. Tình yêu của Mẹ không chỉ giới hạn đối với các Kitô hữu. Bà biết rõ Con mình đã phải trả giá đắt như thế nào để cứu độ chúng ta, nên bà sẽ không để điều ấy lãng phí.

5) Xem quả thì biết cây

Kinh Thánh có nói đến việc xem quả thì biết cây (xem Mátthêu 7:16). Đức Maria đã làm phát sinh vô số hoa trái trong lịch sử Giáo Hội, địa lý chính trị, và cả văn hoá. Không những Đức Maria can thiệp để chấm dứt các nạn đói, chiến tranh, dị giáo và bức hại, nhưng bà con truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ và nhà tư tưởng đỉnh cao như – Mozart, Botticelli, Michelangelo, thánh Albert Cả, và những nhà xây dựng bậc thầy đã xây nên Nhà thờ Đức Bà, đó là chỉ đề cập đến một số ví dụ.
 

 

 

 

 

 

Ngoài ra, còn có vô vàn lời chứng của các thánh về lời chuyển cầu đầy sức mạnh của Đức Maria. Rất nhiều vị thánh cao rao về bà, và bạn sẽ không bao giờ tìm thấy được một ai nói xấu được về Đức Maria. Đức Hồng Y John Henry Newman, là người Anh giáo cải sang Công giáo, nhận thấy rằng, khi Đức Maria bị lãng quên, thì không lâu sau đó những thực hành đức tin đúng đắn cũng sẽ bị lãng quên.

Nguồn: Aleteia

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang gởi

Vì Chúa đã phục sinh

Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã phục sinh 
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời :
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ  

DẤU CHỨNG PHỤC SINH

Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B     DẤU CHỨNG PHỤC SINH 

“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.

Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.

Với một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.

Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.

Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.

Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.

Nhưng thưa anh chị em,

Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?

Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương,những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của anh đi!

Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.

From: hnkimnga & Anh chị Thụ & Mai gởi

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT và CÔNG LÝ

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT và CÔNG LÝ

 Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là để cứu chuộc các tội nhân chúng ta và toàn thế giới.  Trong sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) được mặc khải cho Thánh nữ Faustina, Chúa Giêsu yêu cầu lúc 3 giờ chiều, chúng ta hãy đắm mình trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài.  Thánh Gioan Tẩy giả đã ngâm mọi người vào trong nước vì đó là biểu hiện của việc thanh tẩy.  Qua cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã thanh tẩy linh hồn nhân loại bằng Nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài, và ban cho linh hồn sự sống mới bằng Máu chảy ra từ Thánh Tâm Ngài. 

Điều xảy ra trong Đại lễ LCTX là Chúa Giêsu làm cho hồng ân ngoại hạng này có sẵn thêm lần nữa dành cho các tội nhân, và linh hồn chúng ta có thể được thanh tẩy và nên mới, chúng ta được trao ban sự sống mới, một khởi đầu mới.  Vào ngày này, Chúa Giêsu cho phép chúng ta đứng dưới chân Thánh giá, lúc Ngài tắt thở, vì đó là thời điểm LCTX chiến thắng thế gian.

 Dismas (tử tội bị đóng đinh với Chúa Giêsu) là người đầu tiên được hưởng nhờ lợi ích từ việc Chúa Giêsu chiến thắng Tử thần, vì lúc đó Chúa Giêsu được Chúa Cha trao quyền về Lòng Thương Xót.  Canon Ignacy Rozycki, người được phong Tiến sĩ Thần học Tín lý để kiểm chứng những mặc khải được bày tỏ với Thánh Faustina, đã kết luận rằng Chúa Giêsu ban đặc sủng ngày lễ LCTX là tặng phẩm hồng ân chỉ được so sánh bằng Bí tích Thánh tẩy.  Với phương tiện trong ngày này, linh hồn bạn có thể trở nên thuần khiết như trong ngày lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.  Nghĩa là bạn lại bắt đầu sống và bạn chỉ phải lo về tội lỗi bạn sẽ phạm trong tương lai, mọi tội lỗi của bạn trong quá khứ không còn nữa.  Dù bạn đã phạm tội gì trong quá khứ, bạn vẫn được tha thứ, miễn giảm các tội lỗi trong quá khứ mà không phải ở trong Luyện ngục. 

Thế nên vào ngày Đại lễ LCTX, chúng ta được đưa lên đồi Can-vê, và chúng ta – cũng như Dismas, được Chúa Giêsu đoái nhìn, Chúa Giêsu ở đó với chúng ta trong ngày đó để thanh tẩy chúng ta bằng Nước tuôn trào từ cạnh sườn của Ngài, điều này xảy ra khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Hòa giải, và lúc đó chúng ta bắt đầu cuộc sống mới nhờ truyền Máu Thánh từ việc rước lễ.

 Do đó, chúng ta được nhận chìm vào Máu và Nước trong ngày này.  Chúng ta tham dự Đại lễ LCTX cũng là chúng ta tín thác vào Đức Kitô, Đấng chịu chết trên Thập giá.  Trong ngày lễ LCTX, linh hồn chúng ta tín thác vào Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa Ngôi Hai. 

Chúa Giêsu đã hứa chắc với Dismas, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Ngài, rằng: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). 

Tặng phẩm chúng ta nhận trong ngày lễ LCTX cũng giống như tặng phẩm mà Chúa Giêsu đã trao tặng “tướng cướp” Dismas.  Nếu bạn chết vào ngày hôm sau, bạn sẽ đi thẳng tới trước Tôn Nhan Chúa trên Thiên đàng.  Vì nhờ LCTX, quá khứ của bạn được tha thứ, bạn không phải bị xét xử gì nữa. 

Dĩ nhiên chúng ta quan ngại rằng lễ LCTX là sự tha thứ ngoại hạng, nhưng còn những sai sót khi làm người mà chúng ta đã không tha thứ cho người xúc phạm tới mình, mặc dù chúng ta muốn được tha thứ về những sai lầm khi sinh thời.  Nếu chúng ta muốn sạch tội trong ngày này thì chúng ta phải tha thứ cho những người đã xúc phạm tới mình, dù họ đối xử tồi tệ với chúng ta tới mức nào.  Trong ngày này, bạn phải dâng tất cả cho Chúa Giêsu và xin Ngài xử lý.  Chúng ta tự lừa dối chính mình, và sự thật không ở trong chúng ta, nếu chúng ta không tha thứ cho người khác trong ngày này. 

Trước khi nhớ tên những người đó, bạn có thể than thở và xin Chúa lấy hết mọi cay đắng trong lòng bạn.  Điều này quan trọng.  Nếu bạn thú nhận tội lỗi, chúng ta phải kể cả nỗi cay đắng mà bạn gặp trong đời sống khi đối nghịch với người khác. Nhờ rước lễ trong ngày này, chúng ta tuyên bố linh hồn mình sạch tội, đừng rước lễ nếu bạn chưa tha thứ cho người đã xúc phạm tới mình, nếu có điều gì đó chưa xưng thú, vì rước lễ lúc đó sẽ là tội trọng, thay vì đón nhận ơn Chúa thì chúng ta lại nhận lấy án phạt của Chúa. 

Trong ngày lễ LCTX, chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho họ, xin ơn tha thứ tội lỗi chúng ta đã phạm.  Nếu chúng ta làm đúng vậy để chuẩn bị đón nhận tặng phẩm LCTX, Tình yêu Chúa sẽ ấp ủ chúng ta và ban hồng ân cho chúng ta như Ngài đã hứa ban trong dịp đặc biệt này:  Đại lễ LCTX. 

Kha Đông Anh 

(chuyển ngữ từ CatholicCulture.org)

From Langthangchieutim

Vì Chúa đã phục sinh

 

Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã phục sinh 
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời :
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?

Hằng ngày, càng ngày càng có nhiều người lưu tâm con người lịch sử là Giêsu Nadarét. Với một người bị người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết mà tại sao ngày nay người ta vẫn quan tâm tới cuộc đời và các giáo huấn của Ngài như vậy?

ĐIỀU PHÁT HIỆN
Mọi điều về Ngài đều xảy ra chính xác: Các lời tiên tri về việc Ngài đến, sinh ra, cuộc sống, giáo huấn, phép lạ, sự chết, và nhất là sự sống lại của Ngài. Đó là các sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.

Hiệu quả chính xác về chính Ngài đối với sự Phục Sinh – dù Ngài đã sống lại từ cõi chết hay vẫn còn trong mộ đá. Nhiều người đa nghi nói rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không gì hơn chỉ là “bước nhảy mù quáng của niềm tin vô căn cứ” (sic!).

Tuy nhiên, khi đối diện với các sự kiện này, những người chân thật một cách thông minh đã phải chân nhận rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử dựa trên các chứng cớ không thể bác bỏ.

Trên hành trình tâm linh từ không biết gì tới lúc tin vào Đức Kitô, người ta có vấn đề về sự phục sinh. Nhưng xét kỹ thì chúng ta thấy sức thuyết phục rằng sự sống lại về thể lý là lời giải thích duy nhất về ngôi mộ trống, nơi đã mai táng thi hài Đức Kitô.

Đây là vài chứng cớ lịch sử khiến tâm phục khẩu phục:

CHỨNG CỚ PHỤC SINH

• Đức Kitô đã báo trước việc Ngài phục sinh. Kinh thánh nói: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Mặc dù những người theo Ngài không hiểu Ngài nói gì với họ lúc đó, nhưng họ vẫn ghi nhớ lời Ngài.

  • Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với những người theo Ngài. Ngài an ủi những người than khóc bên ngoài mộ vào sáng Chúa Nhật. Trên đường đi Emmaus, Ngài đã giải thích những điều nói về chính Ngài từ Cựu Ước. Sau đó, Ngài ăn uống trước mặt họ và mời họ chạm vào Ngài. Kinh thánh nói rằng Chúa Giêsu được hơn 500 người thấy một lúc. Một số người có thể cho rằng chỉ có một số ít người đồng ý với sự dối trá đó, nhưng làm sao người ta có thể giải thích về sự cộng tác của 500 người đó?
  • Đức tin kiên cường của các Tông đồ đủ thuyết phục chúng ta về việc Chúa Giêsu phục sinh. Các Tông đồ này đã từng sợ hãi mà bỏ trốn và chối bỏ Thầy, nhưng nay họ can đảm công bố tin vui này, rao truyền mà không sợ chết. Hành động kiên cường và can đảm của họ sẽ vô nghĩa nếu họ không biết với sự chắc chắn tuyệt đối rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
  • Sự phát triển của Kitô giáo đủ xác minh Chúa Giêsu phục sinh. Bài giảng đầu tiên của ông Phêrô, nói về sự phục sinh của Chúa Giêsu, đã khiến người ta tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ hằng sống của họ. Thánh Luca cho biết một con số kỷ lục: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn ngườitheo đạo” (Cv 2:41). Cho tới nay, số người tin đó càng ngày càng tăng thêm trên khắp thế giời. Ngày nay, có hàng tỷ người tin.
  • Chứng cớ của hàng tỷ người đã thay đổi đời sống qua các thế kỷ qua cho thấy sức mạnh của Đức Kitô phục sinh. Nhiều người đã bỏ được các chứng nghiện. Những người nghèo khổ và những người thất vọng đã tìm được niềm hy vọng. Những cuộc hôn nhân đổ vỡ đã được hàn gắn. Chứng cớ thuyết phục nhất về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là ngày nay Ngài vẫn đang sống giữa những người tin vào sự sống lại và sức mạnh hoán cải.

Sự Phục Sinh làm cho Kitô giáo trở nên đặc biệt. Chưa có một vị lãnh đạo tôn giáo nào đập tan sức mạnh của Tử thần và chiến thắng tội lỗi như Đức Giêsu Kitô.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỤC SINH

Sự Phục Sinh xác nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố. Chúng ta hãy cân nhắc tầm quan trọng của sự kiện này:

  • Sự Phục Sinh chứng tỏ rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chứng tỏ thần tính của Ngài bằng việc hoàn tất các lời tiên tri về cái chết của Ngài và bằng việc Ngài trỗi dậy từ trong mộ. Kinh thánh tuyên bó: “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:4).
  • Sự Phục Sinh chứng tỏ quyền năng của Đức Kitô trong việc tha tội. Kinh thánh quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17). Qua việc sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng và quyền lực phá vỡ mối ràng buộc của tội lỗi, bảo đảm ơn tha thứ và sự sống đời đời cho những ai tin vào Ơn Cứu Độ của Ngài.
  • Sự Phục Sinh mặc khải quyền lực của Đức Kitô đối với sự chết. Kinh thánh cho biết: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6:9). Sự Phục Sinh bảo đảm chúng ta cũng chiến thắng sự chết: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6).
  • Sự Phục Sinh đánh bại kẻ thù của Thiên Chúa. Từ cuộc nổi loạn đầu tiên cho đến Thập Giá, ma quỷ đã nham hiểm đấu tranh và xảo quyệt muốn lật đổ Thiên Quốc. Satan phải biết rằng nó đã bị một đòn chí tử trong cuộc chiến xưa kia. Nhưng cuộc chiến này là sự tính toán sai lầm của ma quỷ. Thập Giá là chiến thắng của Nước Trời. Khi Đức Kitô sống lại, quyền lực của tội lỗi và Tử thần đã bị đập tan vĩnh viễn. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, các Kitô hữu không còn sợ Satan hoặc Tử thần nữa!

    HOÀN TẤT ƠN CỨU ĐỘ

    40 ngày sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Có lần Ngài quy tụ 11 môn đệ (không còn Giuđa) trên núi tại Galilê và trao cho họ sứ vụ quan trọng. Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20).

Rồi sau đó, sách Công vụ nói: “Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:4-5, 7-8).

Ngay sau đó, Ngài lên trời và biến vào trong đám mây, để các môn đệ ngơ ngẩn nhìn theo, mắt chữ O mà miệng chữ A. Chúa Giêsu lên trời là hành động cuối cùng trong công cuộc cứu độ. Sứ vụ của Ngài hoàn tất, Đức Giêsu Kitô được tán dương và vinh quang. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sự kiện cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại.

Người ta không thể từ chối rằng Ngài đã làm rung động thế giới khi Ngài làm người trên thế gian. Nhưng cuộc đời Ngài đã hình thành lịch sử cả trong thời đại chúng ta. Sự Phục Sinh là minh chứng cuối cùng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.

Nhân chứng sống của chàng trai trẻ Gioan, người luôn kề cận Chúa Giêsu và chứng kiến từ đầu tới cuối, ngay cả khi đứng dưới chân Thập Giá, đã viết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ ccci.com)

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B

Phanxicô Xaviê

Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của người Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau :

Có hai người anh em ruột nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng thế răng. Kẻ sát nhân dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã qui định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết :”Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố :”Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói : chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau lời phát biểu của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố :”Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, vì tôi không muốn để cho người ta nói : lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì cao quí nhất trong lòng người. Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa :”Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không nói : lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nắng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, một xã hội mà những giá trị tinh thần bị bóp nghẹt và đạo đức thì suy đồi, chứng từ của người Kitô hữu cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chơi vơi đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ… Người Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói : Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và con người vẫn có thể yêu thương nhau. Cả ba bài đọc Thánh kinh cùng với đáp ca của Chúa nhật XXIV thường niên như đan quyện vào nhau, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào cung lòng yêu thương từ đời đời của Thiên Chúa đã sớm dành cho nhân loại.

Thiên Chúa đã xót thương Israel tội lỗi và tha thứ cho họ. Người đã đoái thương Phaolô khi biến đổi một con người hung hăng lùng bắt các tín hữu trở nên vị Tông đồ nhiệt tâm của Tin mừng cứu độ. Và Đức Giêsu trong bài Tin mừng không những cho chúng ta thấy Người đã xuống thế để đi tìm các chiên lạc là loài người tội lỗi, mà còn khẳng định điều đó biểu lộ lòng thương xót của chính Thiên Chúa.

Khởi đầu, bài Xuất hành (32,7-11.13-14) thuật lại một câu truyện thời Môsê : Bấy giờ ông đã ở trên núi Sinai lâu ngày với Thiên Chúa. Dân chúng ở dưới sốt ruột. Họ xin Aharôn đúc cho họ một tượng thần là con bò vàng, để họ có một tôn giáo như mọi dân tộc khác. Tâm lý của loài người ở cách chúng ta trên dưới ba ngàn năm, khó giữ vững được tinh thần trong một tôn giáo không có hình tượng nào cả. Mọi dân chung quanh đều có thần tượng của họ. Vì sao con cái Israel lại không có tượng để thờ ? Do đó, việc xin Aharôn đúc cho họ một tượng, chẳng qua cũng vì yếu đuối… nhưng vẫn là một xúc phạm tới Thiên Chúa và là một bội phản Giao ước. Thiên Chúa đã buộc họ không được đồng hóa, hình dung Người dưới bất cứ biểu tượng nào, vì Người là Đấng Thánh, tức là Đấng khác hẳn mọi sự hữu hình. Việc này làm Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và muốn giáng phạt dân nổi loạn. Nhưng nhờ lời van xin của Môsê, Người đã quên tội lỗi của dân và không giáng phạt nữa. Thiên Chúa đã tha thứ cho họ.

Thiên Chúa luôn yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người, Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong bài Tin mừng Lc 15,1-32 đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người, chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa : người mục tử đi tìm con chiên lạc, người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân hậu chờ đón, vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người. Mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ những con người luôn quay lưng phản bội Ngài.

Kết thúc của các dụ ngôn là kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vẻ vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy, người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi ăn năn trở lại. Thánh Phaolô qua cuộc đời của mình đã minh chứng điều ấy. Nếu Thiên Chúa không thương xót ông, thì suốt đời Phaolô sẽ là Saul, một kẻ thông thái nhưng chẳng hiểu biết Chúa và do đó cũng chẳng hiểu biết anh em, nên đã lùng bắt sát hại đồng bào của mình. Saul đã xử sự như vậy vì không biết. Ông không biết Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, mà cứ nghĩ là đấng hay thưởng phạt. Nhưng Saul cũng đã nhận được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ cho Phaolô mà còn trao phó cho ông sứ mạng công bố lòng thương xót của Thiên Chúa cho muôn dân.

Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc tha thứ, mà còn phải chủ động tìm kiếm và vui mừng thực sự khi một người anh em trở về.

TIN VÀ YÊU

TIN VÀ YÊU

Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân.  Niềm tin có điểm xuất phát từ tình yêu và cũng từ niềm tin để dấn thân trong tình yêu.  Hai khía cạnh tin và yêu cùng hòa nhịp với nhau để mỗi ngày thêm xác tín hơn.

Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Toma, chính Toma đã xác tín niềm tin của mình bằng một tình yêu mãnh liệt: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

 

Tin là một sự dấn thân.

Cuộc đời người môn đệ từ ba năm trước, khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai.  Chúa đã gọi các ông từ nơi đang làm việc, họ bỏ mọi sự để đi theo Người.  Điểm hẹn đầu tiên của người môn đệ với Thầy luôn là một nơi ghi dấu ấn tượng đầu đời của dấn thân.  Như đôi bạn đầu tiên gặp nhau một nơi điểm hẹn, rồi lần lượt thời gian nhắc lại điểm hẹn đầu tiên ấy, sống lại kỷ niệm của thưở đầu quen nhau, yêu nhau.  Ký ức ấy sống động cùng tình yêu.  Chúa Giêsu cũng hẹn các môn đệ nơi gặp gỡ sau Phục Sinh ở nơi điểm hẹn đầu tiên của ba năm về trước ở Galilê.  Từ điểm hẹn đầu tiên, người ta có thể trắc nghiệm về lòng tin vào nhau.  Người ấy có đúng hẹn không, người ấy có biết và nhớ sở thích của mình không?  Những quan tâm đầu tiên đến nhau đủ mạnh để xây dựng niềm tin không?  Tất cả những điều ấy sẽ dẫn tới một quyết định, dấn thân, sống cùng nhau, chia sẻ cuộc đời với nhau.  Đó là một tình yêu đủ mạnh để tin vào người mình yêu để dấn thân vào chặng đường mới.

Chân thành về khiếm khuyết.

Tin là một tín thác, chân thành nói về khiếm khuyết cũng như thiếu sót của mình.  Toma không ngần ngại nói về sự thiếu lòng tin của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (Ga 20, 25).  Là một tình yêu thật sự, điều thiếu sót của bạn sẽ được lắng nghe chân tình, và còn được chia sẻ lại về những vấp váp của người kia.  Tình yêu là thật thà, là sẻ chia những vui buồn, những vấp ngã và cả những thành công để thêm niềm tin vào nhau.

Gặp gỡ và đối thoại.

Gặp gỡ nhau thường xuyên là một điều nói lên tình yêu hướng về nhau.  Tình yêu có thể làm mờ đi tiếng nói của lý trí; thế nên, lý trí đòi hỏi trong tình yêu luôn luôn cần có một sự thức tỉnh qua đối thoại.  Đời sống tin yêu của các môn đệ cũng qua chặng đường ấy.  Sự kiện hai môn đệ trên đường Emmau, họ nghe và thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu, chết, an táng, rồi sống lại, một cách nghi ngờ.  Chúa Giêsu giải thích cho họ về Kinh Thánh, rồi bẻ bánh là một trong những điều Chúa Giêsu làm trườc khi tử nạn.  Họ nhận ra Người.

Tình yêu đủ lớn nhưng khối óc cũng cần đủ lớn để hiểu biết lẫn nhau, nhận ra nhau từ trái tim chân thành và lý trí lành mạnh.  Tin không bị lừa, yêu không gặp dối.

Tin yêu là một dấn thân liên tục.

Niềm tin không đủ lớn một lần cho tất cả và yêu cũng không đủ một lần cho trọn vẹn.  Tin luôn luôn là một đòi hỏi thực hiện lời hứa một cách trung tín.  Cam kết đi trong tình yêu để xây dựng niềm tin, đó là một tình yêu đã đi đến kết ước vĩnh viễn.  Niềm tin trao cho nhau để không phải là nắm giữ tim nhau, nhưng là để sống trong niềm vui của nhau.  Đi bên nhau mà không nghi kỵ nhau, sống bên nhau mà không kiểm soát lẫn nhau, nói với nhau mà không giả dối nhau…

Với các môn đệ một khi đã tin vào Chúa là dám sống chết cho điều mình tin, trở nên nhân chứng cho điều mình tin.

Tin yêu là một đòi hỏi không ngừng dấn thân.  Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện: Yêu mến Chúa hơn để trọn niềm tin vào Chúa hơn, thêm niềm tin vào Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn qua những năm tháng đời sống, chúng con nên chứng nhân Phục Sinh của Người.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

****************************** ********* 

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con.  Amen!

From Langthangchieutim

Một trung úy an ninh của Cộng Sản trở về với Chúa

 

Một trung úy an ninh của Cộng Sản trở về với Chúa

Nhà văn PhaoLô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Chân phước F.X Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung úy an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo.

Năm 1987, ông có dịp gặp ĐHY F.X Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi ĐHY được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành công an và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp lễ phục sinh 2003.

Tôi được ông gửi tặng bản photo viết tay này trong lần gặp ở Hà Nội vào tháng ba vừa rồi. Câu chuyện này đã giúp tôi gia tăng thêm Đức Tin cả về lý trí lẫn linh hồn. Một câu chuyện tuyệt vời, sống động mà tôi muốn đánh máy lại để chia sẻ cùng các bạn, những người yêu mến Chúa như một món quà tặng gửi các bạn trong tuần Thánh và những ngày Phục Sinh sắp tới.

Tôi viết bài này để chia sẻ và hiệp thông cùng cảm ơn Cố Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận trong niềm hân hoan còn tươi dấu cuộc khai sinh lần hai, khi sinh làm con Thiên Chúa trong nước rửa tội và thần khí thiêng liêng, đúng dịp lễ Phục sinh, thứ bảy, ngày 19 tháng 4, năm 2003.

Lễ Phục sinh, Thế giới đón nhận hồng ân Thiên Chúa đã chết và sống lại sau biến cố vượt qua đầy nhiệm mầu thánh hiến. Riêng đối với tôi, đã được đón nhận ân sủng Phục sinh bằng cả một cuộc trải nghiệm, đầy ánh sáng rọi soi từ hiện thực.
Thứ nhất: Tôi đã được rửa tội trong nước và thần khí Thiên Chúa. Để vượt qua từ công dân trần gian trở thành công dân nước Chúa.

Thứ hai: Kể từ đầu tháng 4 năm 1993 tôi mắc bệnh thần kinh tọa rất nặng, người cong vẹo hình chữ “C” mới đầu là chân phải bị teo, sau đó đến chân trái. Sau nữa cơ thể phù lên từ dưới da, và ra máu xấu từ ngón chân lên tận đỉnh đầu. Tất cả kéo dài hơn 10 năm, cho đến khi tôi tham dự lớp dự tong tháng 10 năm 2002, thì trên mặt vẫn còn bị lở loét, việc đó có linh mục Nguyễn Xuân Thủy, linh mục An Tôn Nguyễn Văn Thắng, Các thầy Phanxico Asisi Doanh và thầy Hùng, thầy Hải, thầy Kỳ, cùng các bạn trong lớp dự tong đều thấy. Vào dịp tháng 8 năm 2001, học giả, dịch giả Trần Thiện Đạo khá nổi tiếng từ Pháp về thăm Việt Nam có đên thăm tôi và chụp ảnh cùng. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh mà khuôn mặt vừa cương cứng vừa phù sưng toàn máu đọng và lở loét. Cách lễ rửa tội vài ngày thôi, Linh mục Thomas Thủy và thầy Phanxico Doanh thấy mặt tôi vẫn còn lở loét nên ái ngại hỏi: “Sức khỏe của anh Đức thế nào?”

Trong quá trình trị bênh tật, nhiều đêm đằng đẵng liên tục lo bóp nặn máu mủ, nhưng tôi vẫn yên tâm sống và làm việc bởi tin vào hai giấc mơ Chúa đã mạc khải cho tôi.

Giấc mơ thứ nhất, trước ngày tôi bị ốm là: Tôi vào trong buồng tắm vặn nước chỉ thấy phân chảy ra, tôi chạy ra vòi nước khác vặn, vẫn thấy phân chảy ra, và vài vòi nước khác ở trong và ngoài nhà cũng chỉ có phân chảy ra, sáng ra lúc tỉnh dậy người tôi rất nặng nề và u uất.

Giấc mơ thứ hai, cách một ngày sau là: Tôi lắp đặt một vòi nước mới bắc qua một mảnh vườn mới, nó phun lên toàn nước sạch, xối xả, mạnh mẽ, khi tỉnh dậy, người tôi rất sảng khoái, và dường như tôi được mặc khải để suy ra điều rằng: Ống nước là hình tượng của ống xương hay hệ dây thần kinh, nó đang chứa chất bẩn và độc như phân. Sau đó sẽ trào vọt một nguồn nước sạch mới và ta sẽ khỏi bệnh.

Trong quá trình bệnh tật, nhiều lúc quá đau đớn tôi đã từng muốn hờn trách, thậm chí nguyền rủa Thiên Chúa, nhưng tôi vẫn nghĩ đến hình ảnh của ông Gióp. Ngài bị bệnh bảy năm lở loét hôi thối đầy người, bị vợ con xa lánh có lúc không chịu được ngài chê trách Thiên Chúa “sao không để cho ngài được chết” tôi nghĩ tôi đã có được hình ảnh của ông Gióp để làm gương, vậy không thể nào lặp lại “dấu ngã lòng” đó, vì thế mà tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Thêm nữa trong quá trình bệnh tật, tôi tự ngẫm thấy mình nhận được quá nhiều ánh sáng vinh quang của Chúa, mà không có Chúa trợ giúp và dẫn dắt, tôi không thể làm được. Trong thời gian đó tôi đã viết được hàng chục cuốn sách, gồm chuyên luận, truyện ngắn, trường ca… có những cuốn quan trọng như “Y hướng tính văn chương” – có hẳn một chương bàn về Thượng Đế, “Hành trình nhận thức nhân loại”, “Hành trình tâm linh nhân loại”, và trường ca thần học “ Ngước lên cao” – Tôn vinh Chúa và đức tin của con người. Tôi luôn nghĩ, vinh quang là món quà lớn nhất mà Chúa đã trao cho ta, thì ta còn kêu ca về những đớn đau thể xác làm gì?(!)

Vào dịp rửa tội – lễ phục sinh tôi xuất hiện trước mắt mọi người tinh tuyền, sạch sẽ. Và tôi chiêm nghiệm đó là món quà Chúa ban cho tôi: Vượt qua một cơ thể đầy rẫy bệnh tật u ám để phục sinh thành con cái Chúa trong một thân xác mới.

Thứ ba: Trước lễ rửa tội một tuần, bố tôi bảy mươi tuổi lâm bệnh rất nặng, tôi phải về nhà đưa cụ vào bệnh viện Việt – Xô cấp cứu. Ngay trong đêm đó, bệnh viện hội chẩn và quyết định mổ, sau ca đại phẫu lấy mật cho cụ, lúc 3 giờ sáng tôi trở về nhà, việc đầu tiên tôi mặc quần áo, leo lên gác xép, thắp 3 ngọn nến cầu nguyện Thiên Chúa ban phước lành để bố tôi vượt qua bệnh tật. Mỗi ngọn nến nhỏ hơn ngón tay út, được cắm vào chiếc đế bằng sứ nhỏ như đáy chén. Vậy mà tôi cho rằng một việc như phép lạ đã xảy ra, lúc gần 9 giờ sáng tôi tỉnh dậy, vẫn thấy một ngọn nến còn cháy. Như vậy một ngọn nến bé xíu, cùng một chút nến còn sót lại nơi đế chén đã cháy bảy giờ đồng hồ. Tôi nghĩ Chúa Thánh Thần đã ban cho tôi sự ấm lòng, Ngài như muốn bảo: “Ta cho con một dấu chỉ để con yên tâm”. Trọng bệnh của bố tôi dần dần bình phục. Vào ngày tôi rửa tội, tôi nghe, sang tuần bố tôi có thể xuất viện. Như vậy Chúa không chỉ cho bố tôi sức khỏe, cho gia đình tôi bình an, mà còn cho tôi một đêm rửa tội an bình, thuận buồm, xuôi gió. Và tôi tự chiêm nghiệm rằng: với gia đình và tôi, đây cũng là ân sủng phục sinh của phép nhiệm mầu vượt qua.

Nhưng tất cả hành trình “vượt qua” để trở thành con chiên của Chúa đó được bắt đầu từ đâu? Lần lại hơn mười năm, nó được bắt đầu từ cái ngày tôi may mắn được gặp Đức cha Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Một triết gia có nói “ Một hòn đá đặt đúng chỗ có thể chuyển hướng chảy cả một dòng sông”, có thể nói Đức cha Nguyễn Văn Thuận là viên đá làm chuyển hướng dòng sông cuộc đời tôi, đặc biệt Ngài khơi nguồn để dòng sông tâm hồn tôi chảy từ trần gian qua miền đức tin hướng về nước Chúa. Nói chính xác hơn, cho đến nay tự thân tôi vẫn luôn đánh giá, việc gặp Đức cha Nguyễn Văn Thuận là “biến cố tha nhân lớn nhất cuộc đời tôi” (le plus grand événement de l’autrui).

Ngài là người nhân ái nhất, trí tuệ nhất, nguyên tắc nhất mà tôi từng gặp. Và Ngài như một hạt men hùng hậu nhất đã gieo vào cuộc đời tôi, để triển nở thành một đức tin vô cùng mãnh liệt. Đến nay, dù tôi sống vẫn còn nhiều vấp phạm, song tôi không bao giờ có thể mảy may nghi ngờ: “Chúa là sức mạnh lớn nhất trong tôi. Chúa là vinh quang lớn nhất cuộc đời tôi!”

Sự việc bắt đầu thế này. Trước kia tôi là sinh viên khóa VI của Đại học An Ninh, còn gọi là C500, đóng ở khu vực giáp khu Thanh Xuân, Hà Nội. Tôi học từ năm 1974, đến năm 1979 ra trường được phân về công tác tại cục “ Chống phản động” tức A16 thuộc Bộ Nội Vụ. Thời gian đầu tôi công tác tại phòng “Dân tộc”. Sau bảy năm, số phận bắt đầu đưa đẩy tôi vào một sự sắp đặt mới, tôi được chuyển sang phòng “Tôn giáo”. Mới về phòng, tôi đã nghe anh em bàn tán về việc của Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Nào là “ Ngài giỏi lắm, biết đến tám ngoại ngữ!” “Ngài nhân từ với mọi người!” “ Ngài bị cầm tù mà lúc nào cũng vui vẻ và tràn đầy hy vọng”… rồi tôi cũng được xem tập hồ sơ của Ngài. Cái ấn tượng đầu tiên của tôi là ảnh Ngài chụp chung với khoảng 200 tu sinh và thanh thiếu niên mặc toàn đồ trắng trên bãi biển Nha Trang. Và cái tội lớn nhất của Ngài trong tập hồ sơ là: Thành lập “Tu hội Hy Vọng” và là thành viên của gia đình “mũ rất to” là Ngô Đình Diệm (Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa).

SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH

SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH

Tôi rất thích câu Kinh Thánh: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?”(Ga 20:15).  Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy.  Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.

Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rất ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực.  Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin.”  Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.

  1. Tiến lên và chạm vào ngài

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn?  Sao anh em nghi ngờ?  Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy.”  Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không dám đến gần sờ thử.  Tôi nghi ngại.  Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật.  Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật.  Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (Mt 28:20).

  1. Thiên Chúa tốt lành

Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha.  Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).

Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa…  Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài.”  Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh.  Thiên Chúa có tốt lành không?  Có.  Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.

  1. Phó thác

Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng.  Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khoát, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa.  Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài.”  Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con,” chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.

  1. Loại bỏ sợ hãi

Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh.  Ngài không còn ở đây.  Ngài đã sống lại như Ngài đã nói.”  Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).  Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ.  Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm.  Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.  Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình.

  1. Công khai

Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai.  Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự.  Không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa.  Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.

  1. Khiêm nhường

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa.  Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa.  Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói chuyện qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.  Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường.  Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người.  Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.”  Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự Phục sinh.  Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin vào ngôi mộ trống.

  1. Hành trình Emmaus

Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus.  Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì.  Một người nói: “Sao ông hỏi vậy?  Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”  Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ. Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.  Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự Phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta… Sự Phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành.

  1. Cầu nguyện liên lỉ

Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).  Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện. Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui.”  Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.

  1. Nhận biết Chúa trong mọi sự

Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài.  Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương.  Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự.  Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự.”  Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.  Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.  Hãy cầm lấytạ ơnbẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!

 Therese Borchard

Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)