THÁNH MARCÔ, THÁNH SỬ

THÁNH MARCÔ, THÁNH SỬ

Thánh Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là Gioan.  Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết Chúa Giêsu.  Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy.  Điều này còn trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp.  Theo một truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.

Marcô có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của ngài.  Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô.  Trong Phúc Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng.  Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó.  Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.

  1. Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem, những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ.  Mẹ của ngài là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ.  Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc rao giảng Phúc Âm.  Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem.  Thánh Phaolô dường như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô.  Về sau, khi trù định cho hành trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó.  Cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay, mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.

Khoảng mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh Phêrô.  Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô, minh chứng mối liên hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị.  Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm được ngài viết sau đó ít năm.  Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ.  Trong các trình thuật của ngài, chúng ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai.  Tóm lại, chúng ta thấy mình như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm.  Qua những mô tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh.  Thánh Marcô đã trung thành ghi lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn, càng thấm thía và hứng thú hơn.  Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.

Thánh Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe thánh Phêrô giảng dạy.  Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy, đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.  Đây thực sự là sứ mệnh chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh Phêrô.  Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi!  Ngày nay, chúng ta thực sự phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần!  Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với chúng ta, như thế nào.  Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus: Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam!  Hoặc lời thỉnh nguyện của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis, potes me mundare!  Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành, hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?

  1. Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.

Thánh Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài phụ giúp thánh Phaolô nữa.  Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi, và là một người bạn trung thành.  Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của cha.  Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị quên lãng hoàn toàn.  Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô.  Thực sự đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai, chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã hoàn toàn! 

Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô.  Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này.  Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội.  Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.

Chúng ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy.  Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối, và gian ác là giac ác.  Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại con đường mà bạn đã từ bỏ.  

Những thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng.  Chúng khiến chúng ta trở về bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người.  Nhưng Chúa vẫn tin tưởng chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai.  Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến.  Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu đuối với những sai phạm.

  1. Sứ vụ tông đồ.

Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.  Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ.  Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô đã ghi lại.  Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo.  Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài. 
Thánh Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô: Hãy đi khắp thế gian.  Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài.  Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta.  Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.

Sứ mạng của thánh Marcô – cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình – chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng.  Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo.  Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.

Chúng ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta.  Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác.  Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn.  Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.  Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.

****************************** *******

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,

Có rất nhiều điều trong chúng con đã che lấp lời của Chúa

Và ngăn trở chúng con trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.

Hôm nay, chúng con cầu xin Chúa:

Xin hãy gọi chúng con, như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,

Để chúng con nói và sống Lời Chúa.

Xin Chúa hãy linh ứng chúng con qua Chúa Thánh Thần

Và xin hãy dạy chúng con sống trong hy vọng

Rằng vương quốc của Chúa sẽ đến

Và ở lại giữa chúng con

Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con

Bây giờ và muôn đời.

 

Sưu tầm

Lời chứng của một luật sư mới theo Chúa: Ơn gọi của Thiên Chúa

Lời chứng của một luật sư mới theo Chúa: Ơn gọi của Thiên Chúa

#GNsP – Tôi là một người không có tôn giáo và luôn chỉ suy nghĩ, Đạo nào thì cũng dạy con người sống tử tế và lương thiện, lấy chữ Đức làm đầu. Nửa đời người trải qua nhiều sóng gió, vui buồn của cuộc sống, tôi vẫn tin rằng, dù thế nào ông Trời cũng sẽ không bỏ mình, ông Trời luôn công bằng!

Tôi làm dâu trưởng của một gia đình gắn bó với nhà Phật, trong họ tộc đã có người là Sư chủ trì, Sư bác, nhưng với tôi, đạo Phật chưa khi nào đánh thức được nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi. Mọi việc ma chay, hiếu hỷ, giỗ Tết, thờ cúng, mồ mả tôi đều rất chu toàn và không ai có thể chê trách, nhưng trong tôi, chưa bao giờ nhập tâm bất cứ một câu kinh kệ nào, mọi việc tôi làm là một nghĩa vụ, sau đó, tôi cảm thấy trôi tuột và tôi luôn có suy nghĩ nghi ngờ về những gì mình đã trải qua.

Cho đến một ngày, người bạn đặc biệt đó xuất hiện trong cuộc đời tôi, tôi cho rằng đó là sự sắp đặt của số phận, bởi có những bất ngờ mà tôi không thể lý giải nổi. Và Lễ Lá năm nay tôi đã cùng người bạn bước chân vào Thánh đường Nhà thờ Lớn Đức Bà Sài Gòn để dự Thánh Lễ.

Hơn hai tiếng thinh lặng, chiêm ngắm Thánh Lễ đã làm thay đổi tâm hồn tôi, làm biến đổi tôi từ trong nhận thức, tôi nhận thấy rõ ràng rằng, có một điều gì đó thật đặc biệt, thật thiêng liêng đã tràn ngập trong toàn bộ con người tôi.

Sau Thánh Lễ, tôi đã ngồi lặng đi, tôi thấy lòng mình chưa bao giờ nhẹ nhõm và thanh thản đến thế, xung quanh tôi tràn đầy một màu nắng rực rỡ, êm đềm. Và ý nghĩ sẽ trở thành Kitô hữu ập đến với tôi, tôi hiểu rằng việc trở thành Kitô hữu sẽ là mục đích của tôi, bắt đầu từ lúc này…

Trở lại Hà Nội, vào ngày Lễ Phục Sinh tôi đã đến Nhà Thờ Thái Hà.

Tôi đã ở Hà Nội 27 năm, nhưng tôi chưa bước chân vào cung thánh đường nào, dù những mái vòm nhà thờ cao vút, tĩnh lặng, trầm mặc, uy nghiêm luôn cuốn hút tôi.

Thánh Lễ Phục Sinh lại gieo vào lòng tôi sự an yên mà tôi chưa bao giờ cảm nhận được, dự thánh lễ mà lòng tôi rưng rưng xúc động!

Sau đó vào đầu tháng 5/2017, tôi đã đến Văn phòng giáo xứ để hỏi về lịch học Giáo lý Dự tòng, gặp tôi Cha Phượng đã hỏi “Sao chị lại muốn học giáo lý để trở thành người Công giáo?”

Thực ra, câu hỏi này bản thân tôi cũng đã tự hỏi mình, và ai biết tôi đang học Giáo Lý dự tòng cũng đều hỏi tôi như vậy.

Nhưng để trả lời cho câu hỏi này, tuy dễ mà cũng thật khó, bởi khi đã tự mình Giác ngộ Đức Tin, xác tín con đường Đức Tin mà mình sẽ đi thì mọi lý do để giải thích cũng rất thừa. Tự sâu thẳm trong tôi, thôi thúc tôi rằng, THIÊN CHÚA là ĐẤNG mà tôi sẽ nguyện đi theo trong những ngày tháng còn lại và mãi mãi sau này!

Khi vào học lớp Giáo Lý K53 cùng các anh chị em, được các Cha giáo khai tâm, tôi hiểu rằng, Tôi đã được lãnh nhận Ơn Mạc Khải của Thiên Chúa! Chính Ngài đã vén tấm màn nhận thức của tôi, đã ban ơn gọi để cho tôi thấy con đường đi đến với Ngài, con đường của Đạo Kitô!

Càng học, càng đọc những lời của Chúa, của Hội Thánh, tôi càng thấm hơn những lời giáo huấn, rao giảng của Ngài về ơn Cứu độ, về lòng thương xót, về đức hy sinh, sự khiêm nhường, sự dấn thân tận hiến của những người con dân Chúa, của các bậc tu trì.

Tôi càng NGỘ ra rằng Cuộc sống này nếu không có Đức tin, Đức mến của Thiên Chúa, cuộc sống sẽ là những chuỗi ngày vô vị và tăm tối. Tôi hiểu sâu sắc rằng, hình ảnh của mỗi con người trên hành tinh này, là hình ảnh của Thiên Chúa do Thiên Chúa tạo dựng nên, vô cùng thiêng liêng và đáng trân trọng. Vì vậy, để sống mà không hổ thẹn, để sống thật sự ý nghĩa cho một ngày mai sống lại trên Nước Trời, thì mỗi chúng ta phải luôn cố gắng thực hiện những điều răn của Thiên Chúa, những điều Hội Thánh dạy hàng ngày trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

Nghề Luật sư của tôi cũng cho tôi tiếp cận và nhìn nhận rất nhiều mặt trái và sự bất công của xã hội hiện nay, sự xuống cấp tha hóa đạo đức một cách đáng báo động và điều đó lại càng làm tôi nhận thấy sự Màu Nhiệm của Thiên Chúa trong việc duy trì và phát triển Hội Thánh. Từ Mùa Phục Sinh, Chúa Nhật nào tôi cũng đến Nhà ờ để dự Lễ, kể cả những khi đi công tác hay đi chơi xa khỏi Hà Nội. Mỗi một giờ đi Lễ Chúa Nhật, tôi đều vô cùng tâm đắc với những lời suy niệm của các Cha dâng lễ. Sau những bon chen, mệt mỏi của công việc và đời sống, tôi đến Nhà Thờ để chiêm ngắm Thiên Chúa, Đức Cha Chí Thánh của nhân loại, chiêm ngắm Đức Mẹ Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ của tất cả chúng ta, dâng lời cầu nguyện đến Chúa Ba Ngôi để xin được thương xót, được ban thêm ơn Thánh Thần để cho mỗi chúng ta và tôi đủ niềm tin và sức mạnh để vác ánh Giá đi theo Ngài đến Quê Trời!

Bây giờ và mãi mãi, tôi xác tín Đức Tin của tôi nơi Thiên Chúa! Tôi tin Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tôi, tôi sẽ sống trọn với niềm tin này để xứng đáng trở thành một Kitô hữu công chính!

Tạ ơn Chúa! A men!

Thái Hà Mùa Phục Sinh năm 2018

Kiều Thị Hải Vân

Nguồn: Truyền Thông Thái Hà

Một thần đồng làm thế giới sửng sốt

Một thần đồng làm thế giới sửng sốt

Phạm Việt Hưng

Ngay khi Hawking rời khỏi thế gian, một em bé thần đồng ở Mỹ làm cho thế giới vật lý sửng sốt. Em tuyên bố lý thuyết của Hawking về vũ trụ hình thành tự phát là sai, và Chúa thực sự hiện hữu. Đó là bé trai William Maillis, 11 tuổi, một sinh viên đại học đam mê nghiên cứu vật lýthiên văn. Lập luận của William có nhiều khả năng đúng vì nó phù hợp với Định lý Gödel…

 1/ Thần đồng 11 tuổi William Maillis

William Maillis là một bé trai sinh năm 2007, sống tại Penn Township, Pennsylvania, Mỹ cùng với cha là ông Fr. Panteleimon Ilias Maillis, một mục sư chính thống giáo, mẹ là bà Presvytera Nancy. William có một chị gái và một anh trai.

William đã tốt nghiệp phổ thông trung học từ Tháng 5 năm 2016, lúc 9 tuổi. Sau đó em theo học đại học cộng đồng Community College ở Allegheny County, rồi nhập học Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh từ mùa thu năm ngoái (2017).

Mặc dù mới 11 tuổi nhưng William đã có định hướng rõ ràng cho cuộc sống: chứng minh sự hiện hữu của Chúa thông qua khoa học!

Khó tưởng tượng được một em bé 11 tuổi nhưng đam mê nghiên cứu nguồn gốc vũ trụ, đọc và hiểu những sách vật lý cáo cấp về vũ trụ, quyết tâm se lấy bằng tiến sĩ về vật lý thiên văn (Astrophysics), hăng say giải thích trong những cuộc phỏng vấn tại sao lỗ đen không phải là “siêu khối lượng” mà các nhà khoa học lão thành như Albert Einstein hay Stephen Hawking từng nói,…

Đièu lạ lùng là em có những lập luận khoa học hồn nhiên phù hợp với Định lý Gödel: “Tôi muốn chứng minh với mọi người rằng Chúa thực sự tồn tại, bằng cách chỉ ra rằng chỉ có một sức mạnh bên ngoài vũ trụ mới có khả năng tạo ra vũ trụ”, William nói.

Cha của William, ông Peter Maillis cho biết về cậu con trai William của ông:

  • 6 tháng tuổi, bắt đầu nhận dạng được chính xác các con số.
  • 7 tháng tuổi, nói được những câu hoàn chỉnh.
  • 21 tháng tuổi, biết làm tính cộng.
  • 2 tuổi biết làm tính nhân, đọc được sách dành cho trẻ em, và viết được một cuốn sách 9 trang của chính mình, nhan đề “Chú mèo hạnh phúc” (Happy Cat).
  • 4 tuổi, học đại số, ngôn ngữ ký hiệu, đọc tiếng Hy Lạp. “Nó luôn luôn có mối quan tâm đặc biệt đến các con số”, ông Peter nói.
  • 5 tuổi, đọc toàn bộ một cuốn sách giáo khoa hình học dầy 209 trang chỉ trong một đêm và lúc thức dậy vào sáng hôm sau đã giải những bài toán về chu vi, bộc lộ thiên hướng toán học rõ rệt.
  • Lúc 7 tuổi, là một chuyên gia về lượng giác…

Nhà tâm lý học Joanne Ruthsatz ở Đại học Tiểu bang Ohio tuyên bố cậu bé này là một THIÊN TÀI theo nghĩa đen.

Aaron Hoffman, giáo sư lịch sử của William ở đại học, nói cậu bé giống như tất cả các sinh viên khác ở đại học. Ông nói: “Chúng tôi không miễn trừ cho cậu ấy bất kỳ một chủ đề nào: từ Hitler, Mussolini, đến trại tập trung, chiến tranh… Nếu đã học ở đây, cậu ấy sẽ phải học mọi môn ở trình độ đại học”.

Điều khác biệt duy nhất ông nhận thấy ở William là em không ghi chép như các sinh viên khác, mà chỉ lắng nghe, đọc và thẩm thấu kiến thức.

Nhưng điều làm cho ông Peter ngạc nhiên nhất là con trai mình sớm có định hướng hiến dâng cuộc đời cho vật lý thiên văn, với ý định chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Và không chỉ mong muốn, cậu đang thực sự tiến bộ trên con đường thực hiện mơ ước: Cậu đã có một số nghiên cứu khảo sát về một số lý thuyết ở trình độ cao. Những nghiên cứu này bắt đầu cho thấy nhà vật lý Stephen Hawking sai về vấn đề nguồn gốc vũ trụ.

Thực ra ngay từ trước khi kết thúc phổ thông trung học, William đã bắt đầu tìm hiểu một số lý thuyết theo những chủ đề mà em quan tâm. Em đã đọc một số sách của Stephen Hawking, kể cả cuốn “Grand Design” (Thiết kế vĩ đại), một cuốn sách rất khó hiểu đối với ngay cả những người lớn có trình độ khoa học. Trong cuốn này, Hawking nói rằng vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không, tức là vũ trụ cố thể hình thành một cách tự phát, và do đó Chúa là không cần thiết. Nhưng William có những lý lẽ để bác bỏ quan điểm của Hawking.

Một tờ báo viết: “Không có nhà khoa học lớn nào có thể an toàn với cậu bé này”.

Đến nay, William đã trải qua một năm nghiên cứu vật lý thiên văn. Một số người nói có thể trong hai năm nữa em sẽ bắt đầu viết sách về những gì em đã nghiên cứu. William tự tin nói: “Tôi đang chứng minh rằng chỉ có Chúa mới có khả năng sáng tạo ra vũ trụ này; dữ liệu của tôi là chính xác… Nghiêncứu của tôi đã tiến triển được 70% và ngay khi tôi hoàn thành tôi muốn chia sẻ nó với thế giới”.

Một tờ báo khác viết:

Khát vọng của William muốn trở thành một nhà vật lý thiên văn bắt nguồn từ đức tin mạnh mẽ của em. William không tán thành với những lý thuyết của Einstein và Hawking về lỗ đen và có quan điểm riêng của mình để chứng minh sự ra đời của vũ trụ.

Là con trai của một linh mục Chính thống giáo Hy lạp, William muốn chứng minh rằng một lực bên ngoài vũ trụ là thứ duy nhất có khả năng sáng tạo ra vũ trụ, điều đó có nghĩa là “Chúa thực sự tồn tại”. Điều này hoàn toàn trái với tư tưởng của Stephen Hawking. Nhà vật lý nổi tiếng này nói:

Trước khi chúng ta hiểu khoa học, điều tự nhiên là chúng ta tin rằng Chúa sáng tạo ra vũ trụ, nhưng hiện nay khoa học cung cấp một sự giải thích thuyết phục hơn. Cái mà tôi ngụ ý khi nói ‘chúng ta sẽ biết được ý Chúa’ là chúng ta sẽ biết được mọi thứ mà Chúa có thể biết, nhưng không có Chúa. Tôi là một người vô thần[1].

Cha mẹ của Williams nói họ không bao giờ thúc ép con trai mình nghiên cứu hoặc cố gắng chứng minh Chúa, mà chỉ mong con mình là một cậu bé 11 tuổi “bình thường”. “Chúng tôi là những người bình thường”, ông Peter giải thích. “Và William là một cậu bé bình thường. Bạn không thể phân biệt nó với những đứa trẻ 11 tuổi khác. Nó thích thể thao, các chương trình TV, computer và video games như mọi đứa trẻ khác”.

Nhưng thực tế William vẫn khác với những đứa trẻ cùng tuổi khác: định hướng chủ yếu cho cuộc sống của William hoàn toàn rõ ràng. Khi hỏi “ước mơ” của em là gì, cậu bé thần đồng khồng do dự trả lời.

Em muốn trở thành một nhà vật lý thiên văn để làm sao có thể chứng minh cho thế giới khoa học rằng Chúa thực sự tồn tại”, William nói trong một cuộc phỏng vấn mới đây tại Đại học Hellenic College Holy Cross.

Khi được hỏi tại sao cậu cảm thấy cần phải chứng minh điều đó cho các nhà khoa học, William trả lời sâu sắc hơn:

Vâng, bởi vì có những nhà khoa học vô thần cố nói rằng không có Chúa, trong khi trên thực tế thì để tin không có Chúa phải có nhiều đức tin hơn là tin có Chúa… Bởi vì có một cái gì đó tạo ra vũ trụ sẽ hợp lý hơn là vũ trụ tự tạo ra nó. Để nói rằng vũ trụ tự tạo ra nó đòi hỏi phải có nhiều đức tin hơn là nói rằng có một cái gì đó bên ngoài vũ trụ tạo ra vũ trụ, bởi vì như thế sẽ logic hơn[2]

 

 

 

 

 

 

Điều lạ lùng là ham muốn của William về việc chứng minh sự hiện hữu của Chúa đã xuất hiện ngay từ “khi em mới khoảng 5 hoặc 6 tuổi”, William bộc lộ, và mong muốn này đã dần dần tiến triển thành một lý thuyết phức tạp mà em hy vọng một ngày nào đó sẽ chứng minh được. Em nói rõ ràng là “khoa học và thần học không tách biệt với nhau… tri thức khoa học là một quà tặng từ Chúa, giống như mọi quà tặng khác. Chúng ta phải học hỏi thêm về đức tin của chúng ta và về việc chúng ta đang ở đâu trong vũ trụ… Chúng ta cần trau dồi tài năng của chúng ta, quà tặng mà chúng ta đã nhận được từ Chúa, chứ đừng chôn vùi nó”.

Sẽ là quá sớm để khẳng định một điều gì về tương lai của William Maillis. Nhưng trực giác và sự hiểu biết của tôi nói với tôi rằng William sẽ thành công, vì quan điểm của em phù hợp với Định lý Bất toàn của Kurt Gödel.Điều lạ lùng là ham muốn của William về việc chứng minh sự hiện hữu của Chúa đã xuất hiện ngay từ “khi em mới khoảng 5 hoặc 6 tuổi”, William bộc lộ, và mong muốn này đã dần dần tiến triển thành một lý thuyết phức tạp mà em hy vọng một ngày nào đó sẽ chứng minh được. Em nói rõ ràng là “khoa học và thần học không tách biệt với nhau… tri thức khoa học là một quà tặng từ Chúa, giống như mọi quà tặng khác. Chúng ta phải học hỏi thêm về đức tin của chúng ta và về việc chúng ta đang ở đâu trong vũ trụ… Chúng ta cần trau dồi tài năng của chúng ta, quà tặng mà chúng ta đã nhận được từ Chúa, chứ đừng chôn vùi nó”.

2/ Định lý Gödel ủng hộ quan điểm của William

Trước hết, William hoàn toàn đúng khi bác bỏ quan điểm của Hawking về “vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không”. Không rõ lập luận của William thế nào, nhưng theo Định lý Gödel thì quan điểm của Hawking là sai lầm, vì cái hệ thống VŨ TRỤ TỰ TẠO RA VŨ TRỤ của Hawking chính là một HỆ THỐNG TỰ QUY CHIẾU (Self-Referential System).

Theo Định lý Gödel, mọi hệ tự quy chiếu đều dẫn tới mâu thuẫnChính Hawking, trong bài báo “Gödel và Sự kết thúc của Vật lý[3] đã nói rằng các lý thuyết vật lý về vũ trụ đều là những hệ tự quy chiếu, và do đó sẽ không nhất quán và không đầy đủ. Nói cách khác, không bao giờ có một lý thuyết nào có thể mô tả vũ trụ một cách đầy đủ và chính xác.

Vậy giả thuyết VŨ TRỤ TỰ TẠO RA VŨ TRỤ là giả thuyết về một hệ vũ trụ tự quy chiếu, do đó giả thuyết ấy ắt sẽ dẫn tới mâu thuẫn.

William Maillis càng đúng hơn nữa khi em khẳng định rằng chỉ có một lực bên ngoài vũ trụ mới có thể tạo ra vũ trụ. Ý tưởng này cũng hoàn toàn phù hợp với Định lý Gödel.

Định lý này nói rằng một hệ A không thể tự phán xét nó một cách đầy đủ và nhất quán. Muốn phán xét một hệ A một cách đầy đủ hơn và chính xác hơn, phải đi ra ngoài A.

Vậy muốn “phán xét” vũ trụ phải đi ra bên ngoài vũ trụ. Hiểu rộng ra, có thể nói, muốn TẠO TÁC VŨ TRỤ phải có một TÁC ĐỘNG TỪ BÊN NGOÀI VŨ TRỤ.

Thuyết đa vũ trụ dường như cũng tìm cái bên ngoài vũ trụ. Nhưng vì họ không thừa nhận Chúa nên buộc họ phải sáng tác ra các thế giới vật chất bên ngoài vũ trụ. Đó là cái mà họ gọi là những “vũ trụ khác” hay “vũ trụ song song”. Đó là GIẢ THUYẾT TƯỞNG TƯỢNG 100%, KHÔNG THỂ VÀ KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ KIỂM CHỨNG ĐƯỢC. Chỉ có những người mắc bệnh tôn sùng khoa học một cách mù quáng mới tin vào những giả thuyết siêu hình đó. William Maillis hoàn toàn đúng khi nói rằng để tin vào những giả thuyết hoang đường đó, phải có nhiều đức tin hơn là tin vào Chúa.

Tôi không rõ William Maillis đã biết đến Định lý Gödel hay chưa. Tôi sẽ tìm cách liên lạc với em để thông báo cho em rằng Định lý Gödel sẽ là trợ thủ đắc lực cho em để hạ bệ các giả thuyết siêu hình của Hawking và ủng hộ lý thuyết của chính em.

  PVHg 12/04/2018

CHÚ THÍCH

[1] Before we understood science, it was natural to believe that God created the universe, but now science offers a more convincing explanation,” once said the renowned physicist. “What I meant by ‘we would know the mind of God’ is we would know everything that God would know if there was a God, but there isn’t. I’m an atheist

[2] Well because there’s these atheists that try to say that there is no God, when in reality it takes more faith to believe that there’s no God than it does to believe that there is a God… Because it makes more sense that something created the universe than that the universe created itself. It takes more faith to say the universe created itself than to say something other created the universe because that is more logical

[3] Đã đăng trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 04/2012

NGUỒN TÀI LIỆU:

 From: Cam Tuyet & Nguyen Kim Bang

GIÀU SANG, QUYỀN LỰC

GIÀU SANG, QUYỀN LỰC 

Thời trước, người ta ít nói đến “sống trên đời” cho bằng việc rỗi linh hồn.  Họ không lưu tâm nhiều đến những vấn đề kinh tế, chính trị như chúng ta ngày nay.  Họ chú tâm nhiều về những vấn đề luân lý, đạo giáo.  Ngày nay, sức lôi cuốn của Trời Cao đã giảm bớt đối với nhiều người, và người ta quan tâm gắn bó với trần thế nhiều hơn.  Khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa đã và đang nhường chỗ cho khát vọng săn đuổi giàu sang, quyền lực.  Thần tượng của thế kỷ này không phải là các thánh, mà là những kẻ đạt tới “đỉnh cao”.

Xoay quanh việc xác định tầm mức quan trọng cho các tiêu chuẩn thành công trên đời này, người ta có hai thái độ trái ngược nhau.  Liệu có nên tôn sùng và tìm kiếm sự thành công, cho đó là điều thiện hảo nhất trong cuộc đời hay không?  Hay ngược lại, phải kết án chuyện đó bởi vì nó xấu xa?  Những kẻ đầy tham vọng chấp nhận thái độ cực đoan đầu.  Thái độ sau là của hai nhóm phản kháng: nhóm vô chính phủ – lên án mọi thứ quyền bính, và nhóm Cộng sản – phỉ báng mọi người giàu có.

Chỉ có một tiêu chuẩn đúng đắn và đầy đủ lý lẽ để đánh giá các quan điểm trên đây.  Đó chính là cuộc đời của Chúa chúng ta.  Những chuyện thuật lại trong Tin Mừng cho thấy rằng quyền lực và giàu sang đều là những lý tưởng và tham vọng chính đáng, nhưng chúng phải tuân theo một số qui định mà thế gian này thường không đếm xỉa gì đến.  Những qui định này được mặc khải cho ta qua cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại Nazareth.  Đó là hai điều này: không ai có thể cầm giữ quyền bính nếu kẻ ấy không học biết vâng phục, như Đức Kitô hằng vâng phục cha mẹ mình vậy.  Và không ai có thể tận hưởng giàu sang được nếu kẻ ấy không học biết cách từ bỏ nó, như Chúa đã làm, Ngài đã chọn cho mình một nghề khởi đầu là nghề thợ mộc nghèo nàn.

Vậy thì, ở đây là Uy Quyền đã trở thành Hèn Kém, Chủ trở nên nô lệ, vị Chúa Tể trở nên kẻ phục vụ.  Qui phục Chúa Cha là khúc dạo đầu cho các phép lạ và quyền lực kế tiếp.  Và chúng ta cũng phải bắt chước như thế.  Hết thảy mọi thứ quyền lực… chính trị, công nghệ, xã hội, kinh tế… đều phải qui phục Quyền Năng trên cao và phải khép mình vào kế hoạch của Thiên Chúa trước đã, sau đó mới có thể chính đáng qui phục kẻ khác được.  Quyền lực không phải được kiểm tra từ phía dưới, kiểu như thái độ thách thức vô chính phủ hoặc đảo chánh, mà chính nó phải biết tự giới hạn từ trên xuống.  Quyền lực trần thế có quyền yêu cầu mọi người tuân phục chỉ khi nào biết vâng phục Đấng Toàn Năng trên cao.  Quyền bính trần thế được tôn trọng khi phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hoá.  Kẻ cầm quyền chỉ được tôn phục khi họ biết tôn kính Thiên Chúa.

Với giàu sang cũng vậy: Chúa đã dạy ta rằng không ai trở nên giàu sang nếu họ không học biết từ bỏ nó.  Những năm ẩn dật ở Nazareth không phải có ý nhắn nhủ ta phải tôn vinh sự nghèo khổ, cam chịu những điều kiện sống tồi tệ nhếch nhác, hoặc sống gian khổ trong cảnh đói rách bần hàn.  Chúa chúng ta nghèo khó thật sự.  Ngài lao động cật lực mới kiếm đủ ăn đủ mặc.  Ngài là một thợ mộc nghèo nàn, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa giàu sang, làm chủ cả thế giới.  Ngài còn là vị Thiên Chúa quyền uy nhưng lại tự mình trở nên hèn kém.  Giàu sang và quyền uy tự bản thân của chúng đều không có gì xấu xa, bởi vì chúng thuộc về Thiên Chúa.

Bởi thế người Cộng sản căm thù kẻ giàu có chỉ vì họ giàu.  Người Cộng sản không hề tìm thấy sự tán đồng của Kitô giáo trong việc đó.  Không ai có quyền khinh miệt người giàu có, nếu cũng như Chúa, họ đã chứng tỏ rằng mình không bị đam mê chiếm hữu ràng buộc… và như thế, họ cũng không muốn miệt thị ai cả.  Cuộc sống đạm bạc ở Nazareth không phải là để lên án sự phú quý hoặc tôn vinh sự nghèo hèn: mà là minh họa cho học thuyết tuyệt diệu về việc từ bỏ.  Các môn đệ theo Chúa Kitô, họ cũng dứt bỏ được của cải để tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, dù rằng sản nghiệp của họ chỉ vỏn vẹn một ít ngư thuyền và lưới đánh cá, và quí báu nhất là ý chí của họ.

Thiên Chúa không hề xúi kẻ nghèo chấp nhận sự nghèo đói, hay bảo ta phải đi tìm kiếm bần cùng.  Ngài không tôn vinh người nghèo cũng như kẻ giàu.  Nhưng Ngài đã khen ngợi người nghèo khó kia, kẻ đã một thời gian giàu sang, nay vui lòng sống nghèo khổ… chính người nghèo, do sẵn sàng từ bỏ mọi sự, mà trở thành có mọi sự – kẻ nào không muốn gì cả, lại có tất cả.  Bởi vì Thiên Chúa không hề khuyên răn phải “từ bỏ” sự phú quý để được sự “hư không”; đúng hơn, Ngài thừa nhận việc đánh đổi sự phú quý để được giàu có lớn lao hơn trên Nước Trời.  Ngài không bảo “Phúc cho kẻ nghèo” hay “Phúc cho kẻ giàu.”  Ngài bảo “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó.”

Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth không chỉ nói lên lý lẽ đơn giản về “thanh bần” hoặc “yếu hèn trong sự thánh thiện”; bản thân những điều này không phải là nhân đức theo nghĩa của đạo Công giáo.  Bài học Nazareth dạy ta biết về sự giàu sang của những ai đạt tới tinh thần khó nghèo bằng sự từ bỏ, và về quyền lực của những ai biết trở nên hèn kém để phục vụ anh em.  Chúa của chúng ta là Đấng duy nhất từ xưa tới nay đã đồng hành với thế giới mà hết thảy những người, giàu hoặc nghèo, chủ hoặc tớ, mạnh mẽ hay yếu đuối đều được quyền gọi Ngài là Chúa, đều có quyền thành tâm gọi Ngài là đồng loại với mình, Ngài là Người như ta.

Đức cha Fulton Sheen

(Nguyên tác: Way to Happiness)

From langthangchieutim

Vọng thanh nghe rợn, hồn cô tịch

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 4 Phục Sinh năm B 22/4/2018

(Ga 10: 11-18) Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”

 &    &     &

“Vọng thanh nghe rợn, hồn cô tịch”

“tôi hiểu, lòng anh chửa toại nguyền.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

“Chửa toại nguyền”, là bởi hồn anh còn cô tịch. “Thanh nghe rợn, là vì tâm trạng nhiều người ở Hội thánh thời tiên khởi vẫn muốn Chúa Chiên tập hợp toàn thể chiên con về chung ràn, như thánh Gioan diễn tả ở trình thuật.

Trình thuật nay thánh sử ghi, là ghi về Chúa Chiên Hiền từng khẳng định: “Người chăn chiên tốt, chính là Ta! Người chăn chiên tốt thí mạng sống mình vì chiên.” (Ga 10: 11) Nói xong, Ngài lại tiếp:“Ta còn những chiên khác không thuộc ràn này; các chiên ấy, Ta cũng phải chăn dắt.” (Ga 10: 16) Nói lên điều này, Chúa muốn nói đến các giáo hội cùng tin một Chúa vẫn ưu tư chuyện đại kết, rất hài hoà. Suy về điều ấy, tưởng cũng nên biết thêm một chút lịch sử về nguồn gốc các chiên ràn, khác chánh kiến.

Thật ra, thì sự khác biệt giữa các chiên ràn thời tiên khởi do có ly tâm phân rẽ bên trong giáo hội cũng đáng buồn. Đó, là thời mà nhiều nhóm hội/đoàn thể tuy cùng tin một Chúa, nhưng lại chủ trương phụng vụ và luật lệ theo cách khác. Các ngài đã ứng đáp với tình hình Hội thánh lúc ban đầu theo cung cách rẽ chia/phân lìa mãi hôm nay. Lịch sử Đạo còn cho thấy: Hội thánh đã có những đoạn đường lịch sử có chứng tích rất đa dạng.

Thế nên, cho đến hôm nay, đạo hữu theo chân Chúa vẫn ấp ủ đường hướng giáo dục vẫn qui về “hội thánh duy nhất, thánh thiện” chỉ mỗi Công giáo mình để rồi lại sẽ bảo rằng ngay từ đầu, Hội thánh không đấu tranh giành phần cho phe nhóm nào hết. Nhưng, sự thật không phải thế. Từ ban đầu, Hội thánh mang nhiều dạng thức rất khác biệt. Và, đó chính là lý do khiến thánh Hội của ta cứ mãi đề cập đến chuyện tập họp chiên ràn làm một để Chúa ấp ủ, suốt mai ngày.

Ở thời rất sớm, kiều dân Do thái đã phải nổi lên chống báng ngoại bang để rồi kết thúc bằng một trận chiến kéo dài từ năm 66 đến 70. Lúc ấy, là thời kỳ thành thánh Giêrusalem bị ngoại xâm phá huỷ đến tan tành. Mọi Kitô hữu, đều tản mác đi khắp chốn. Và, dấu vết các ngài để lại, đã được tìm thấy ở Galilê và Syria, cũng rất nhiều. Duy, mỗi cộng đoàn thánh Phaolô gồm kiều bào Do thái là rớt lại đến ngày nay. Và, có thể nói mà không sợ quá lời rằng: tín hữu con dân Chúa sống còn đến hôm nay là cánh tay nối dài của cộng đoàn thánh Phaolô nói đến vào thời này.

Từ ban đầu, kiều dân Do thái đã phải giáp mặt với nhiều khó khăn mới, một trong số đó là ngóng đợi ngày Chúa quang lâm vẫn muốn Ngài lại đến với họ một lần nữa mới toại nguyện. Nhưng, chuyện này xem ra không xảy đến. Phải chăng đó là niềm hy vọng viển vông, không thật? Hoặc, tín hữu dân con Chúa vẫn phải sống chuỗi ngày dài không thấy Chúa trở về lại với mình như lịch sử chứng minh, phải chăng đó là sự thật rất khách quan? Và, con dân Đạo Chúa ra như đã và đang lao mình vào với nền văn hoá của ngoại bang, vốn là chuyện rõ như ban ngày. Kết cuộc, các thánh đã đánh mất đi căn tính tư riêng của mình, cũng là điều dễ hiểu.

Kịp đến thế kỷ thứ hai, dân con/tôi tớ Chúa không còn sốt sắng sống đời thực tế mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 3 các ngài mới bắt đầu sở hữu đất đai, sinh hoạt trong các hang toại đạo, nơi phụng thờ và ở đền thánh; để rồi, biến các nơi ấy thành chốn thánh thiêng đặc biệt dành cho Chúa. Cũng mãi về sau, các thánh mới triển khai tín lý của Giáo hội mình gồm một số tín điều rất mới, như: Đức Mẹ Đồng Trinh sạch sẽ, hoặc lời khuyên bảo hãy chết đi cho tội lỗi, để rồi tất cả sẽ trỗi dậy mà đạt chốn hạnh phúc rất miên trường. Mãi về sau, ý niệm về một Hội thánh duy nhất, thánh thiện và chính thống đã từ từ hội nhập vào lòng tin qua giải thích khác biệt.

Từ buổi đầu cho đến giữa thế kỷ thứ tư, đã thấy sự xuất hiện một đế chế gọi là triều đại Constantine, vị hoàng đế khá nổi danh với lời tuyên bố sẽ châm chước cho các Kitô-hữu sống trong đế quốc của ông cả ở trời Đông lẫn phương Tây. Và, ông cho phép mọi người được tự do chọn lựa niềm tin theo ý mình. Kể từ đó, Đạo Chúa trở thành thực thể xã hội sống động. Nhưng, đó chỉ là “văn bản” niềm tin vào Chúa được Constantinechuẩn thuận, mà thôi. Trong khi đó, hầu hết mọi tôn giáo khác, dù cùng tin một Đức Kitô, đều đã phải đi vào chốn âm thầm lặng lẽ, hoặc biến dạng.

Từ quá trình nền tảng được coi như địa bàn soi dọi lối sống đạo và hành xử theo cung cách đạo hạnh, lại thấy xuất hiện một giáo phái mang nhãn hiệu “chính thống”, rất công khai. Trước đó không lâu, một số vị đã tỏ ra không ít thì nhiều đã mang tính tích cực hơn về các chủ đề có liên quan đến người Do thái. Những người khác, không nhiều thì ít, cũng chứng tỏ rằng mình thuộc cộng đoàn thánh Phaolô, nên đã ít nhiều gắn bó với thể chế có kinh nghiệm đạo hạnh khác nhau. Có nhiều bạn đạo, lại đã tham gia dấn bước nhiều hơn vào với tín điều và công thức niềm tin tư riêng. Cuối cùng thì, với triều đại Constantine, một điều khiến Đạo Chúa nối kết hài hoà với nhau, là lập trường khá chính thuần. Duy, chỉ mỗi giáo phái tự cho mình là chính thống ngay từ đầu, mới có cơ phát triển/phổ biến giáo huấn chủ trương rằng Đức Kitô vừa mang Thiên tính, vừa có tính “người” hơn ai hết. Chính Chúa là Đấng duy chỉ một, nhưng Ngài lại gồm những Ba Ngôi. Kịp đến cuối thế kỷ thứ 2, là thời mà nhóm chính thống tiên khởi tồn tại, lại thấy có nhóm khác đi vào giòng “lịch sử âm thâm/trầm lặng” đến độ không ai còn nhớ đến.   

Đôi lúc, nhiều người nhận thấy phần đông các tín hữu Công giáo hiểu rất ít hoặc chẳng sở đắc kiến thức nào về lý lịch Đạo mình. Thậm chí có vị chỉ có trong đầu vài ba ý tưởng lờ mờ về nhóm Cải Cách tách biệt khỏi Hội thánh Công giáo, thôi. Và họ coi như “chỉ mình họ” là nhóm/hội thừa hưởng tính chính thuần sau nhiều luận tranh, giành quyền rất kéo dài, và phía còn lại ở đầu bên kia Đạo Chúa, toàn những sai sót hết. Và người nhà Đạo của ta, cứ thế cho rằng Chúa Chiên HIền Lành là đặc sản/đặc trưng của nhóm Đạo mình thôi. Kỳ thực, mọi chuyện đều không phải thế.

Quả là thời đó, trong số các đạo hữu dấn bước theo chân Đức Kitô, có nhiều điều rất khác biệt. Và, có một số điều ta không tài nào hoá giải được. Thế nên, có lẽ vì vậy mà ta vẫn ước ao làm sao có được tình đại kết, gắn bó. Vẫn nguyện cầu cho đại kết thành hiện thực. Và nhất là, cố chờ cho sự thể này được xảy đến cũng rất chóng. Chừng như mọi người chỉ biết mỗi điều, là: ta vẫn chưa biết cách làm thế nào để tất cả kitô-hữu, tức các kẻ tin vào Chúa, có thể đến với nhau làm “một” mà không cần tranh giành, biện giải. Đến với nhau, để thấy rằng: thời buổi qua, các đấng bậc ở trên cao cũng rối bời đầy tranh chấp về hầu hết các vấn đề thuộc mọi khía cạnh.

Chuyện như thế, lại đã ảnh hưởng lên tâm tưởng ta vẫn có về Đức Chúa. Trên thực tế, điều đó còn ảnh hưởng lên ý tưởng mà mọi người vẫn có về Chúa. Và, phần lớn các tranh luận của cộng đoàn thánh hội thời tiên khởi, thường là: hãy nên coi lại ảnh hình ta có về Đức Chúa (hoặc Đức Giêsu) là Chúa Chiên Hiền Từ, với mọi người. Tất cả, đều có khó khăn với loại ảnh hình khá “nặng nề” về Chúa. Bởi, họ đều muốn một loại ảnh hình về Đức Chúa thôi, nhưng lại không biết rằng: định nghĩa nào dù rõ nét về ảnh hình Thiên Chúa đều phải “dễ thưong” và “cởi mở” hơn mọi thứ. Đa phần thì, điểm “khác biệt“ giữa các giáo hội là đến từ các cuộc tranh luận về chân dung Chúa, ngay từ buổi đầu của Hội thánh.

Vấn đề, nay nên hiểu là: Đức Giêsu, Chúa Chiên Hiền Lành là của tất cả mọi chiên ràn, thuộc mọi hệ cấp giáo hội. Tất cả các chiên con đều tin vào Ngài. Và, Ngài cũng tin tưởng mọi chiên con đến với Ngài. Chúng ta đây, vẫn yêu thương/tự hào về truyền thống rất thánh của Công giáo mình, nhưng cũng nên biết là: ta vẫn hằn in lý lịch thuộc truyền thống khác nhau. Có thế, ta mới có thể hiểu, chia sẻ và cảm thông với sự việc đang xảy đến với Giáo hội là quyết thay đổi lập trường về “đại kết”.

Thay đổi đây, không theo nghĩa cho rằng: giáo hội bạn xưa nay có sai sót, sẽ phải về lại với ta, là “văn bản” chính thống rất mực, bởi ta mới là thành phần đích thực có đạo đức/chức năng rất đúng, mà thôi. Nay, một khi biết rằng mình không như thế, để rồi ta lại sẽ học hỏi để sống khiêm nhu, tự hạ coi mình chỉ nhỏ bé trước mọi người. Thật ra, ta vẫn chung một khuôn thước giống như cũ, vẫn ở mức độ quan trọng như bao giờ. Nhưng, cũng đừng nên cho mình quan trọng hơn như phần đông các nhóm hội đối tác. Thành thử ra, ta sẽ biết được chính mình không chỉ nhờ vào quá khứ, nhưng bằng cả cuộc sống hiện tại, để nhận chân ra sự thật rằng: tất cả chúng ta là “một”, trong muôn người.

Thay đổi được như thế, ta ắt biết lý lẽ của ưu tiên hàng đầu trong hội thánh không do sự thể là ta có thuộc nhóm “chính thuần” hay không, mà là: ta chỉ có duy nhất Một Chúa Chiên Hiền, thôi. Từ đó, toàn thể dân con Chúa sẽ tái xác định ơn gọi làm con Chúa, kể từ lúc này, hoặc khi ấy. Và, ta sẽ thấy mình là nhóm/hội bé nhỏ có đời sống nội tâm đáng quý; và, có ảnh hưởng lớn trên thế giới của đạo giáo khác cũng như của trần thế, quanh ta. Ta không là lời đáp trả cho yêu cầu mọi người đặt, nhưng sẽ luôn nguyện cầu cho mọi người tìm ra câu giải đáp cho lời cầu đích thực, đối với họ.

Thành thử, có thể tương lai sẽ không ra như ta ao ước. Cũng có thể, là ta sẽ không có thêm thời vàng son nào khác trong đó Công giáo mình sẽ lại chế ngự mọi cung cách giải quyết hết mọi việc. Có thể, ta sẽ lại học được nhiều cung cách trở thành chiên con hiền lành, dù không thuộc một ràn như trước đó. Tin Vui mau đến với ta, là: Chúa Chiên Hiền rày sẽ không khác trước, nhưng vẫn như thế mãi.

            Nếu để chiên con đứng trụ trên chân của chúng, rồi tìm cách sống riêng tư/biệt lập, e rằng sẽ khó mà trông coi chăn dắt được chúng. Hãy nâng chúng lên mà quàng cổ, rồi thì chúng cũng ổn định thôi. Rồi thì, người người sẽ có lông chiên mịn màng, dư dả để giải quyết. Và, Chúa Chiên Hiền sẽ biết cách xử sự với chiên con chỉ thích tách lìa, tự cho mình chính thống, độc lập vì chúng sẽ trở về chốn cũ, những cãi tranh, giành quyền rồi rã đám.

Trong tinh thần phấn đấu cho tình đại kết, cũng nên ngâm nga lời thơ đầy ý nhị, rằng:

“Tôi lạc hồn Xuân giữa Cố Đô,

Hỏi giăng, giăng mọc nước Tây Hồ.

Hỏi hoa, hoa vẫn thôn đào liễu,

Lòng hỏi riêng lòng: Đâu bạn xưa?”

(Thơ Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)      

Có hỏi hoa và giăng, cũng đâu ngờ rằng hoa-giăng giờ đây đã xum vầy, để mọi người tìm gặp “Cặp Mắt Ngày Xưa” yêu thương mềm mại, tình đại kết. Rất nên duyên.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

 Mai Tá lược dịch.

Bao lâu nữa anh rời xa tôi?

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 Phục Sinh năm B 22-4-2018

“Bao lâu nữa anh rời xa tôi?”
Bao lâu nữa chúng mình chia phôi?
Sao chẳng đến với nhau nụ cười?
Để tình người còn chút luyến lưu?”

(Miên Du Đà Lạt – Xin Hãy Cho Nhau Nụ Cười)

(Lc 2: 10-11)

 Trần Ngọc Mười Hai

 “Cho nhau nụ cười” ư? Có lẽ đây là đòi hỏi cốt-thiết của anh và của tôi, trong đời người! Trong đời người, hễ có câu hỏi ở bài ca những hát rằng:“Bao lâu nữa chúng mình chia phôi?” thì chắc chắn đây không là câu hát hoặc lời hát khá tình-tứ, mà là lời nhắn nhủ xin được gửi đến với mọi người, hôm nay.

Hôm nay đây, bạn và tôi, ta sẽ còn nhiều lời nhắn nhủ gửi đến cho nhau rất “hay ho” hơn thế nữa, chứ? Thôi thì, ta cứ coi mọi sự như thế. Thế nhưng, trước khi đọc tiếp những lời phiếm rất Đạo/đời xục xạo ở đây đó, cũng xin bạn và tôi, ta hãy nghe tiếp đôi ca-từ còn tha-thiết hơn, như sau:

“Mai tôi sẽ xa rời nơi đây.
Mai tôi sẽ nói lời chia tay.
Xin hãy thức với tôi một ngày.
Một ngày dài chỉ có niềm vui.

Xin hãy đến cho nhau nụ cười!
Xin hãy đến cho nhau tình người!
Xin hãy nói yêu thương một lời!
Xin hãy tốt cho đời nở hoa!

Xin hãy tốt cho đời nở hoa!
Khi anh đến hai bàn tay không.
Khi tôi đến đôi chân trụi trần.
Ta chẳng có chút gì đeo mang.

Sao bây giờ nặng gánh trần gian.
Xin hãy đến cho nhau nụ cười!
Xin hãy đến cho nhau tình người!
Xin hãy nói yêu thương một lời!
Xin hãy tốt với nhau cho đời nở hoa.
Tôi chỉ muốn cuộc đời nở hoa.

(Miên Du Đà Lạt – bđd)

“Hãy đến cho nhau nụ cười”, vì đó là một trong những thứ quí giá nhất trên đời, lại miễn phí. Quí giá và miễn phí, như nhiều thứ khác trên đời, chẳng hạn như những thứ được kể ở bên dưới:

“Trên đời này, những thứ quý giá nhất đều là miễn phí.

Trên cuộc đời này, nhiều người hay than thở rằng cuộc đời thật bất công, rằng “Ông trời không có mắt” nhưng bạn có biết rằng, nếu ông trời “không có mắt”, không yêu thương nhân loại, thì nhân loại đã chết từ lâu rồi không? Ông đã ban rất nhiều thứ miễn phí cho con người, chỉ có điều bạn coi đã coi nó là hiển nhiên và không nhận ra mà thôi.

 Ánh sáng mặt trời là miễn phí.

Trên thế gian này, không sinh vật nào có thể sống sót nếu thiếu ánh mặt trời. Thế nhưng có ai từng phải trả một đồng nào cho thứ ánh sáng kỳ diệu đó chưa?

Không khí là miễn phí.

Một người chỉ cần là đang sống trên Trái đất này, có ai mà có thể không hít thở mà có thể sống được? Thế nhưng từ xưa đến nay, đã có ai từng phải trả tiền cho thứ không thể thiếu này chưa?

 Tình yêu là miễn phí.

Đoạn tình cảm sâu đậm cùng nhau vượt sóng gió đó, cuộc tình hoạn nạn có nhau đó, sự hòa hợp của hai tâm hồn cùng đồng điệu đó, chính là sự đồng cảm sâu sắc nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất trong cuộc đời chúng ta. Tất cả những điều này, đều là miễn phí hết và là thứ mà có tiền bạc cũng không thể mua được.

 Tình thân là miễn phí.

Mỗi người chúng ta đều trần trụi khi đến với thế gian này và đều nhận được sự che chở vô bờ bến của cha mẹ, một thứ tình thương không mong báo đáp in sâu trong máu thịt. Nhưng không có người cha mẹ nào nói với con mình rằng: “Con cho mẹ tiền mẹ mới thương con”.

 Tình yêu thương này của cha mẹ, sẽ không giảm giá trị vì bạn đã trưởng thành, càng không mờ nhạt vì họ đã già đi, chỉ cần cha mẹ còn sống ở trên đời này, bạn vẫn nhận được tình yêu thương này trước sau như một.

 Tình bạn là miễn phí.

Người âm thầm ở bên cạnh bạn khi bạn cô đơn, người giơ cánh tay ra đỡ bạn khi bạn ngã, người cho bạn dựa vào vai an ủi bạn khi bạn đau lòng, người luôn sẵn sàng xuất hiện mỗi khi bạn cần giúp đỡ, thế nhưng người đó có bao giờ đổi những thứ đã cho đi thành tiền mặt, sau đó kêu bạn trả không?

 Mục tiêu là miễn phí.

Bất luận là hoàng tử ăn sung mặc sướng, hay là người lang thang ăn mặc rách rưới, bạn đều có thể đặt ra mục tiêu riêng cho cuộc đời mình.. Mục tiêu này có thể là vĩ đại, cũng có thể là bình thường, vừa có thể là huy hoàng và cũng có thể là giản dị, chỉ cần bạn cảm thấy bằng lòng với nó là đủ rồi.

 Tín ngưỡng là miễn phí.

Mỗi một cơ thể máu thịt đều nên có một tín ngưỡng chính xác và kiên định để dựa vào. Đó là nơi nương dựa tốt nhất của linh hồn, là ngọn đèn soi sáng giúp chúng ta vượt qua được mọi khó khăn, trắc trở trên đường đời.

 Còn có gió xuân, thì còn có mưa phùn, còn có ánh trăng trong vắt, thì còn có các vì sao lấp lánh trên trời…

 Vậy nên bạn đừng có than thở với ông Trời nữa, ông Trời không những rất công bằng mà lại còn rất hào phóng. Từ lâu ngài đã đem mọi thứ quý giá nhất, ban tặng miễn phí cho mỗi người rồi, chỉ có điều là bạn có nhận ra hay không mà thôi. (Theo ĐKN – Châu Yến)

Chuyện tình đời thì như thế. Còn, chuyện nhà Đạo thì ra sao?

Chuyện nhà Đạo ư? Nhà Đạo mình ít khi nói thẳng/nói thật về những vương vấn/khúc mắc tiền bạc hoặc quỹ tài trợ như bài báo viết trên tờ Tuần Báo Sydney, như sau:

“Sau lần bất mãn về tin tức Vatican “có chịu tài trợ $33 triệu đô hay không” bị lọt ra ngoài cho báo giới biết, giới lãnh đạo Quỹ Tài Trợ của Tòa thánh đặt cơ sở ở Hoa kỳ đã kêu gọi mọi người có thời-gian để suy nghĩ và đánh giá lại sứ-vụ này, về phương-án chấp-thuận việc tặng-dữ và quan-hệ giữa các tổ-chức này với Tòa thánh”.

 Và trong khi Quỹ này vẫn định ngày hành hương Rôma từ 11/4/18 đến 14/4/18, chắc chắn là chuyến đi này sẽ không bao gồm việc diện-kiến thông-thường với Đức Giáo Hoàng, theo tin của Quỹ này cho biết vào ngày 22/3/18 vừa qua. Lại có tin là Tòa thánh Vatican đã đồng ý dời ngày diện kiến Đức Giáo Hoàng cho đến khi công-tác của Quỹ này hoàn-tất và các thành-viên của Quỹ và các vị quản-lý đồng ý về sứ-vụ này cũng như về cơ-cấu quản-trị và quan-hệ với Tòa thánh được hoàn-tất…

 Được biết, Quỹ Giáo-hoàng nói ở đây, được thành-lập vào năm 1988. Và từ năm 1990 đến nay, Quỹ này đã tặng-dữ số tiền hơn $157 triệu đô Úc bằng hiện kim và qua học bổng. Thành-viên của Quỹ được gọi là “nhân-viên phục-vụ” cũng hứa tặng $1.3 triệu đô Úc trong vòng 10 năm liền với số tiền là $130.000.00 đô, mỗi năm. Tháng Hai/2018 vừa rồi, nội bộ Quỹ có rò rỉ cho công chúng biết thư-từ qua lại, có liên-quan đến yêu-cầu của Tòa thánh cung-cấp $33 triệu đô Úc cho Cơ-quan có tên là “Dermopatico dell’Immacolata, tức bệnh-viện hàng đầu ở Rôma chuyên trị bệnh ngoài da cũng như ung-thư da cho các bệnh-nhân nghèo/túng.

 Nhiều tài-liệu quan-trọng của Quỹ Giáo-hoàng này lại được tải lên mạng truyền-thông đại chúng có đính kèm một bài viết của James Logon là chủ-tịch Ủy Ban Thanh Tra Quỹ bảo rằng “Bệnh viện IDI nói trên từng có nhân viên truyên-thông/báo chí bị thất-sủng đã tham-ô/biển-thủ đến phá sản “, và có tin đồn nói rằng ban Giám-đốc Quỹ này đã phê-chuẩn số tiền tặng-dữ lên đến $33 triệu mà không theo nguyên-tắc nghiệp-vụ và bất cẩn.” Sau đó, chủ tịch Longon đã từ-nhiệm chức chủ-tịch Ủy ban nói trên.

 Trong báo cáo đề ngày 05/01/2018 gửi cho các thành-viên của Quỹ này, sau đó lại cũng tải lên mạng, có nói rằng: các lãnh-đạo của Quỹ có nhận rằng yêu cầu trị giá $33 triệu đô, cả về tầm-cỡ lẫn dụng-đích.

 Thế nhưng, bức thư này lại cũng bảo rằng: cuối cùng thì, “ban Giám đốc đã đồng loạt đi đến kết-luận không một ai bất-đồng quan-điểm chủ-trương yêu cầu ấy là từ Đức Giáo Hoàng đương-nhiệm” trong khi đó, Ủy ban là đòi bệnh viện nói trên là: cứ ba tháng một lần, bệnh viện nói trên phải tường-trình tài chánh cho rõ rệt về tình-trang hành-chánh quản-trị,  và giao dịch cho phù hợp với trách-nhiệm giải-trình của ủy-ban.

 Thật sự thì bản-chất và tầm-kích của yêu cầu này dẫn đến số-lượng các cuộc bàn-bạc ngoại-thường trong phạm-vi nội bộ của Quỹ. Theo nguồn tin này, thì: từ tháng 6 đến tháng 12 vừa qua đã có các buổi tái xét xảy ra liên-tục và, theo yêu cầu của Quỹ, thì các lãnh-đạo Hiệp hội Y-tế Công-giáo đã nghiên-cứu tình-trạng của bệnh-viện và các ấn-phẩm nói về chuyện này… 

Quỹ nói ở đây lại cũng đã bảo-đảm sẽ “thường xuyên cập-nhật tình-trạng của bệnh-viện, cũng nhiều thông-tin hơn là Quỹ này nhận được về các số tiền tặng-dữ khác xứng hợp hơn.”                (X. Cindy Wooden, Vatican Request Perplexes US Fund, The Catholic Weekly 08/4/2018 tr. 23)

Trong tinh thần “Vui, là tất cả”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng từng dấy lên giòng chảy tư-tưởng khuyến-khích con dân trong Đạo cứ sống vui, sống khỏe, như sau:

 “Niềm vui là đức hạnh nền tảng của đời sống kitô hữu, là hoa quả, là dấu hiệu có sự hiện diện của Thần Khí trong tâm hồn của người tin, Tin Mừng cho thấy, khi thiên thần báo tin cho Đức Mẹ đã nói: “Vui mừng lên hỡi Maria!”, khi thiên thần báo tin cho các mục đồng khi Chúa Giêsu sinh ra. Như thế không có gì là không phù hợp với chủ đề bây giờ trở thành chủ đề “tủ” của Đức Phanxicô.

 Thêm nữa, Đức Phanxicô đặc biệt nhạy cảm với tác động của Thần Khí, ngài hay lặp lại: “Thần Khí là món quà của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng luôn làm chúng ta ngạc nhiên: Thiên Chúa của những chuyện ngạc nhiên.” Ngài thấy sự sáng tạo vui tươi của Thần Khí là liều thuốc giải độc cho sự cứng rắn tinh thần, một căn bệnh tật thực sự mà ngài liên kết với buồn bã.

 Trong một bài giảng tuyệt vời vào ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh, Đức Phanxicô đã nêu lên hai hình thức vui: vui của đức tuân thuận và vui của ngôn sứ. Mẹ Maria và Thánh Giuse là các cha mẹ trẻ tuân thuận, họ vui tuân theo lề Luật của Chúa và hoàn tựu những gì đã được định để sinh con. Ông Simêon và bà Anna, các ngôn sứ nhảy múa hân hoan vì lòng họ tràn ngập Thần Khí. Xin anh chị em vui lòng, đừng bao giờ là các nữ tu, các linh mục với khuôn mặt chua như giấm, đừng bao giờ! 

Với mức độ riêng tư, Đức Phanxicô là người chọn lựa niềm vui. Và đó cũng là một ơn. Sự quân bình giữa ân sủng và quyết tâm của mình luôn là điều huyền bí. Điều này thể hiện rõ ở nụ cười của Đức Phanxicô khi ngài tiếp xúc với giáo dân trong các buổi tiếp kiến chung, khi ngài đứng trước “dân” mình, vậy mà trước khi được bầu chọn, gần như ít khi thầy ngài cười, ngài luôn có khuôn mặt buồn và khắc khổ. Hay trong lời ngài nhắn nhủ với các linh mục, nam nữ tu sĩ khi năm 2013, ngài xin họ đừng là “các cô gái già, các chàng trai già”, hay khi ngài nói với các chủng sinh cũng năm 2013: 

“Không có sự thánh thiện trong buồn bã! Khi bạn thấy một linh mục, một nữ tu, một chủng sinh có khuôn mặt dài thườn thượt, không vui vẻ thì bạn biết đã có một cái gì không chạy! Xin anh chị em vui lòng, đừng bao giờ là các nữ tu, các linh mục với khuôn mặt chua như giấm, đừng bao giờ!” 

Cách đây một năm ngài còn gắn tấm bản “Cấm than phiền” ở cửa văn phòng mình. Theo Đức Phanxicô, vui vẻ là trên tất cả, nhưng không phải là chuyện ngọt ngào! Đó là điểm đặc biệt của các vị thánh. Một kỷ luật. Hay đúng hơn đó là hoa trái của cuộc chiến thiêng liêng.” (Marta An Nguyễn trích dịch và tải lên mạng vi tính tháng 4/2018) 

Nói gì thì nói, giữ Đạo cách vui tươi, hài-hòa đã là tập-trung sống thánh-thiện cả đời mình rồi. Và, ngày nay, người đi Đạo và giữ Đạo lại có thể quả quyết một cách không sai lầm rằng: Hễ thấy đồng Đạo mình sống vui, sống lành và rất mạnh”, tựa hồ Lời Đấng Thánh Hiền khi xưa từng quả quyết:

“Anh em đừng sợ.

Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại,

cũng là tin mừng cho toàn dân…”

(Lc 2: 10-11)

Người Đạo Chúa, nay đã đạt niềm vui “khôn tả”, nên không còn sợ bất cứ thứ gì, dù “anh có rời xa tôi”, và dù “chúng mình chia phôi?” và “chẳng đến với nhau nụ cười” như phải có. Nói tóm lại, một khi niềm vui “ta đã đạt”được rồi thì “con đường thánh-thiện chẳng xa là bao”, nhất định là như thế.

 Nhất-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời tuyện kể để đưa ra một kết-luận “có hậu” bằng đôi ba giòng nhè nhẹ/vui vui có đầu đề là “Thưa cha, con không đi nhà thờ nữa!”, như sau:

Hôm 31 tháng Giêng 2018, tại xứ đạo Vianney de Villaret, bên Pháp có truyện kể hỏi rằng:

-Có ai chưa bao giờ cảm thấy bực mình vì ca đoàn hát sai, vì linh mục giảng quá dài, vì người bên cạnh dám nghe điện thoại cầm tay không? Cám dỗ quá lớn đối với một số người, họ tức tối và bỏ nhà thờ ra đi không trở lại! 

 Lm Matthieu Lefrançois, cha xứ họ đạo Thánh Antôn ở Angers tìm được một bài trên Facebook của “Giáo hội Công giáo Guinea” để kêu gọi chúng ta chỉ tập-trung nhìn Chúa Kitô thôi, như sau:

“Có thanh niên trẻ nọ đến gặp linh mục chánh xứ rồi thưa:

– Thưa cha, con sẽ không đi nhà thờ nữa!

Linh mục hỏi:

– Vậy à, con có thể cho cha biết lý do được không?

Người thanh niên trả lời:

– Lạy Chúa tôi, ở đây con thấy cô này nói xấu cô kia; anh đọc Sách Thánh đọc quá dở; ca-đoàn thì: vừa chia rẽ vừa hát sai; người đi xem lễ: thì chỉ chăm chăm chú chú nhìn điện-thoại, đó là không nói đến chuyện sống ngoài nhà thờ, họ là những người ích kỷ, cao ngạo…

Linh mục bèn nói với anh:

– Con có lý. Nhưng trước khi dứt khoát rời bỏ nhà thờ, con có thể làm cho cha một việc này được không? Con rót một ly nước đầy, rồi đi quanh nhà thờ ba vòng mà không làm đổ một giọt nào đấy nhé! Sau đó, con có thể bỏ nhà thờ mà ra đi. Người thanh niên tự nhủ: quá dễ! Và anh đi ba vòng như cha xứ dặn. Đi xong, anh về thưa với cha xứ:

–Rồi, con đi xong rồi.

Cha xứ hỏi:

-Khi con đi, con có thấy cô này nói xấu cô kia không?

Người thanh niên trả lời:

–Thưa cha không.

-Thế, con có thấy người này người kia thờ ơ với nhau không?

Người thanh niên đáp:

–Thưa cha không.

-Thế, con có thấy người này người kia chúi mũi vào điện thoại không?

Người thanh niên lại cũng đáp:

– Không, con không thấy gì hết.

–Thế, con có biết vì sao con không thấy gì hết không? Đó là vì con mải tập-trung để ly nước không bị đổ. Con có biết là: cuộc đời cũng vậy không? Khi tâm hồn chúng ta tập trung vào Chúa Kitô, thì chúng ta không có thì giờ để thấy được các sai lầm của người khác. Ai ra khỏi nhà thờ vì các kitô hữu đạo-đức-giả, thì chắc-chắn họ cũng không vào nhà thờ vì Chúa Giêsu”.(Truyện kể do Giuse Nguyễn Tùng Lâm trích dịch và đăng tải cho mọi người cùng thưởng-thức).

Truyện kể trên, tưởng chừng kể như thế cũng đủ. Chẳng cần thêm thắt gì nữa. Bởi, kể như thế cũng đã đạt, tức: như mọi câu chuyện Phiếm Đạo/đời, có viết hoặc có kể ra đây cũng chỉ để mọi người vui, chứ không có mục-đích nào khác. Kể như thế, thì đương nhiên là người viết cũng như người đọc hôm nay, đều mãn nguyện mà xếp bài/báo này lại mà nghỉ ngơi cho nhẹ người, sau chuỗi ngày căng-thẳng vì nhiều thứ chuyện, trên đời này.

 Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn quyết tâm rằng:

Lâu nay có viết lai rai, dài dài 

cũng chỉ để mọi người cũng như mình,

gặp được niềm vui

mà thôi. 

Đức Thánh Cha an ủi cậu bé có người cha quá cố là người vô thần

 Đức Thánh Cha an ủi cậu bé có người cha quá cố là người vô thần

Chúa yêu chúng ta, dù chúng ta tội lỗi!

Trong chuyến viếng thăm giáo xứ Thánh Phaolô Thánh giá, trong khu phố Corviale của Rôma, Đức Thánh Cha đã gặp các tín hữu trước khi cử hành Thánh Lễ chiều Chúa Nhật 15 tháng Tư, Chúa Nhật thứ Ba mùa Phục sinh.

Như thường lệ trong các chuyến viếng thăm các giáo xứ trong giáo phận Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến nơi trước thánh lễ khoảng 2 tiếng đồng hồ để gặp gỡ anh chị em giáo dân. Ngài đến giáo xứ Thánh Phaolô Thánh giá lúc 4 giờ chiều. 

Trước thánh lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các trẻ nhỏ trong các lớp học giáo lý, cũng như những người cao tuổi, người nghèo, và các thành viên bị bệnh trong giáo xứ; và sau đó giải tội cho nhiều người.

Những người quẫn bách phải ở vị trí trung tâm của giáo xứ

Trong cuộc gặp gỡ với người cao tuổi, Đức Thánh Cha nói về “bổn phận” của giáo xứ phải có mặt để giúp đỡ người dân” vì những người quẫn bách là trung tâm của giáo xứ, và trung tâm của Tin Mừng. Mọi người đều phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc đời, nhưng nỗi buồn và những khó khăn của chúng ta không cho phép chúng ta đánh mất đi niềm hy vọng hay niềm vui của chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để “cứu chuộc” những vết thương của chúng ta bằng những vết thương của Ngài.” Điều này, Đức Thánh Cha nói, là niềm vui của chúng ta, “Chúa Giêsu đã trả giá cho chúng ta, Ngài gần gũi chúng ta, Ngài muốn những gì là tốt lành cho chúng ta.”

Khả năng hoán cải con tim của Chúa Giêsu

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bắt đầu chuyến viếng thăm của ngài với phần hỏi đáp cùng với một số trẻ em của giáo xứ. Trong một trao đổi thú vị, Đức Thánh Cha hứa sẽ trả lời câu hỏi “đoạn Kinh Thánh nào ngài yêu thích nhất” nếu như các trẻ con trong giáo xứ hứa đọc đoạn Kinh Thánh này khi về nhà. Đức Thánh Cha cho biết câu chuyện hoán cải của Thánh Matthêu, trước khi theo Chúa Giêsu là một người thu thuế là một trong những câu chuyện ngài thích thú nhất. Câu chuyện này “cho thấy quyền năng hoán cải con tim của Chúa Giêsu.”

Tất cả đều là con của Thiên Chúa

Đức Thánh Cha cũng trả lời câu hỏi của một em bé gái: “Chúng ta ở đây là những người đã chịu phép rửa tội, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Nhưng những người không chịu phép rửa thì sao?”. Đức Thánh Cha đáp: Tất cả chúng ta đều là con cái Chúa, dù là được rửa tội hay không, người tốt hay người xấu. Cả những người theo mafia, cho dù họ thích hành động ‘như con cái ma quỉ’. Chúa tạo dựng nên tất cả mọi người. Ngài yêu thương tất cả mọi người, và đặt trong con tim tất cả mọi người lương tâm để họ nhận ra điều gì là tốt, và phân biệt nó với những gì là xấu xa.”  Nhưng khi chúng ta chịu phép rửa tội, Ngài nói, “Thánh Thần Chúa bước vào lương tâm đó, và củng cố sẽ thuộc về Thiên Chúa của con”, và trong một nghĩa nào đó, “ngài làm cho con trở nên một người con gái của Thiên Chúa hơn”.

Thiên Chúa có “trái tim của một người cha”

Cuối cùng, một cậu bé, quá xúc động ràn rụa nước mắt, đã không thể đặt câu hỏi của mình – vì vậy Đức Giáo Hoàng kêu cậu bé đến gần và nói thầm trong tai ngài. Sau đó ngài hỏi cậu bé có cho ngài lặp lại câu hỏi của cậu không. Đức Thánh Cha tóm tắt lại câu hỏi của cậu:

“Cậu bé khóc vì cha mình”, là người vừa mới chết cách đây không lâu, “và cậu bé đã có can đảm để nói về điều đó trước mặt chúng ta, vì tình yêu mà cậu dành cho cha mình trong tâm hồn”, cậu bé hỏi liệu cha cậu, một người không có niềm tin, có được lên thiên đàng không. “Cha con là một người đàn ông tốt”, cậu bé nói với Đức Thánh Cha.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nghĩ như cậu. Ngài nói: “Đây là một chứng tá thật đẹp” khi con trai của một người đàn ông có thể gọi ông là người tốt. 

Trả lời câu hỏi của cậu bé, Đức Thánh Cha nói chỉ có Thiên Chúa mới có thể biết ai là người được lên thiên đường. Tuy nhiên, người cha của cậu bé dù là người vô thần đã cho cả 4 người con của mình được rửa tội. Một tín hữu cho con mình được rửa tội là điều dễ hiểu, một người vô thần cho cả 4 người con của mình được rửa tội thì hẳn phải là người tốt. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa có trái tim của một người cha nhân hậu sẽ không để cho một người tốt như vậy bị lìa xa khỏi Ngài.”

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

Con chỉ biết tạ ơn Chúa,

Lạy Chúa,

Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói;
càng uống, con càng khát;
càng sở hữu, con lại càng ước ao.

Chúa ngọt ngào trong cổ họng con
hơn cả tầng mật ong,
vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.

Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao,
vì con không sao múc cạn được Chúa.

Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài?
Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con,
con cảm thấy cả hai.

Chúa đòi con nên một với Ngài,
đòi hỏi đó làm cho con đau đớn,
vì con không muốn từ bỏ
những thói quen của con
để ngủ yên trong tay Chúa.

Con chỉ biết tạ ơn Chúa,
ca ngợi và tôn vinh Chúa,
bởi đó là sự sống đời đời cho con.

(Ruy Broeck)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Trong số Mười Điều răn, có một điều bắt đầu bằng chữ ‘Giữ’ Giữ ngày chúa nhật.  Nó nhắc cho chúng ta nhớ về một điều mình đã biết.  Có các giới răn của lòng thương xót ghi sẵn trong DNA của chúng ta. Chúng ta đã biết, nhưng cần phải nhớ rõ ràng hơn.  Đó là gì?

Mười Điều răn của Lòng thương xót

  1. Nhớ rằng lòng thương xót nằm sâu thẳm nhất trong trái tim Thiên Chúa.

Hiếm có điều nào thể hiện yếu tính Thiên Chúa hơn là lòng thương xót.  Lòng thương xót là yếu tính của Thiên Chúa.  Kinh thánh dùng những từ ngữ như trìu mến yêu thương và cảm thương để cố gắng định nghĩa lòng thương xót Chúa, nhưng khái niệm kinh thánh trọng tâm, nắm bắt từ khái niệm hesed của Do Thái, bao hàm một mối quan hệ yêu thương, ôm lấy và tha thứ ngay cả khi và nhất là khi chúng ta không thể vươn đến hay xứng đáng với những gì Chúa ban cho chúng ta.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót là yếu tính của mọi tôn giáo.

Bên trong tôn giáo và linh đạo, bên trong mọi đức tin, có ba điều cần phải nằm ở vị trí trọng tâm, là hành đạo đúng hợp, vươn đến người nghèo, và lòng cảm thương.  Xét tận cùng, chúng không đối nghịch nhau, nhưng là những mảnh bổ trợ của một lòng đạo toàn diện.  Nhưng việc hành đạo và vươn đến người nghèo là sự mở rộng của tình yêu Thiên Chúa chứ không phải của bản ngã con người, chúng cần được căn cứ trên cảm thương, trên lòng thương xót.  Sâu thẳm bên trong mọi tôn giáo là một lời mời: Hãy động lòng thương, hãy thương xót như Thiên Chúa thương xót.

  1. Nhớ rằng tất cả chúng luôn mãi cần lòng thương xót.

Thiên đàng sẽ nhảy mừng vì một người có tội ăn năn hoán cải hơn là vì chín mươi chín người công chính.  Liệu Thiên Chúa yêu mến người có tội hơn là người công chính?  Chẳng có ai là công chính.  Đúng hơn là, chúng ta cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rõ ràng hơn khi thú nhận mình là người có tội.  Không một ai trong chúng ta đủ tầm.  Nhưng, như thánh Phaolô đã không ngừng dạy rằng, chúng ta không cần phải đủ tầm.  Đó chính là ý nghĩa của lòng thương xót.  Lòng thương xót dành cho những người không xứng đáng.

  1. Nhớ rằng, khi được nhận lòng thương xót, chúng ta phải thương xót người khác.

Chúng ta chỉ đón nhận và cảm kích lòng thương xót của Chúa và của người khác, khi chúng ta cũng thực hiện lòng thương xót đó với người khác.  Lòng thương xót phải đổ tràn qua chúng ta.  Nếu chúng ta không chuyển lòng thương xót đến với người khác, thì chúng ta sẽ trở nên nuông chiều bản thân và khắc nghiệt với người khác.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới cho chúng ta tự do.

Đón nhận và trao đi lòng thương xót, là điều duy nhất giải thoát chúng ta khỏi chiều hướng bẩm sinh của mình là mưu cầu bản thân, tự bào chữa cho mình và phán xét người khác.  Không có gì giải thoát chúng ta khỏi bạo chúa bản ngã cho bằng thực hành lòng thương xót.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót không mâu thuẫn với công lý, nhưng là thành toàn cho công lý.

Như hồng y Walter Kasper đã nói rất khôn ngoan, “Lòng thương xót là một dạng nước làm mềm vải, xói mòn giáo lý và giới răn, xóa bỏ ý nghĩa trọng tâm và nền tảng của chân lý.”  Đây chính là những gì mà người Pharisiêu cáo buộc Chúa Giêsu.  Lòng thương xót là khi công lý phải nhường bước.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới làm cho Nước Chúa trị đến.

Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng người hiền lành sẽ thừa hưởng địa cầu, người nghèo sẽ được ăn uống dư dật, và mọi nước mắt sẽ được lau khô.  Chuyện này chỉ có thể xảy ra khi lòng thương xót thế chỗ của tư lợi.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót cần phải được thực hành chung.

Sống lòng thương xót trong đời mình mà thôi, thì không đủ.  Lòng thương xót bị đẩy ra ngoài rìa khi xã hội không để tâm đủ đến những con người yếu đuối hay túng quẫn, và cũng bị đẩy ra rìa khi giáo hội xét đoán.  Chúng ta phải tạo một xã hội thương xót và một giáo hội thương xót.  Chỉ mình lòng thương xót mới có thể cho người yếu đuối được sống.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót kêu gọi chúng ta làm việc cả mặt thiêng liêng lẫn vật chất.

Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta biểu lộ lòng thương xót song song, vừa cụ thể vừa thiêng liêng.  Những việc làm lòng thương xót phần xác kinh điển là: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách đậu nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng người bệnh, thăm kẻ tù rạc, và chôn cất kẻ chết.  Những việc thương xót phần hồn kinh điển là: dạy bảo kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn dạy kẻ có tội, tha kẻ dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn khác nhau và tất cả chúng ta đều hơn người khác ở một điểm nào đó, nhưng lòng thương xót thì được biểu lộ trong mỗi một người chúng ta, không chừa một ai.

  1. Nhớ rằng cuộc sống của chúng ta là đối thoại giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người.

Điều duy nhất làm chúng ta xứng đáng là vì chúng ta bất xứng.  Chúng ta luôn mãi bất toàn, dù cho có mạnh mẽ, chân thành, thiện ý đến đâu chăng nữa.  Chỉ có lòng thương xót, khi đón nhận và trao đi lòng thương xót, chúng ta mới có thể ra khỏi những lo lắng, băn khoăn và vô vị cuộc đời mình.  Chỉ khi biết lòng thương xót, chúng ta mới biết tri ân.

Năm 2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn tất cả chúng ta sống một năm của lòng thương xót, để suy ngẫm mầu nhiệm lòng thương xót là “giếng nước niềm vui, thanh thản và bình an.”  Đức Giáo hoàng tin rằng Lòng thương xót là bí mật để cho thế giới thấy dung nhan đáng tin của Thiên Chúa, gương mặt khả tín của Giáo hội, và để cho chúng ta bước đi vững vàng trong cuộc sống.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lạy Chúa Giêsu xin ban cho con có lòng thương xót và biết thực hành lòng xót thương như Cha trên trời là Đấng đầy lòng xót thương.  Amen!

From Langthangchieutim gởi

NGHE-BIẾT-THEO

NGHE-BIẾT-THEO

Lm Trịnh Ngọc Danh

Những dấu hiệu để nhận ra người thân quen là gương mặt và giọng nói.

Tuy cách nhau, nhưng nhớ đến ai, ta vẫn hình dung ra được gương mặt người ấy; nghe giọng nói qua điện thoại, ta nhận ra ngay người thân quen của ta là ai.

Chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Các chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga. 10,27), hay “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga. 10,14).

Động từ “biết” trong Kinh Thánh có một ý nghĩa đặc thù diễn tả tình yêu thương kết hợp nơi thân xác của vợ chồng để cả hai trở nên một như Chúa Cha biết Chúa Con và Chúa Con biết Chúa Cha.  Khi nghe Thiên Thần báo tin: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…”, Trinh nữ Maria đã trả lời: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Như thế “biết” là không chỉ có ý nghĩa thuần túy thuộc phạm trù nhận thức mà còn bao gồm cả về phương diện tình cảm.  Biết là thân thương, trìu mến, gắn bó, kết hợp.

Ta biết các chiên Ta

Chúa Giêsu đã tự xác nhận mình là Mục Tử.  Ngài là chủ đàn chiên chứ không phải người chăn thuê và là một Mục Tử Nhân Lành.  Khác với chủ chăn đích thực, người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về anh ta, anh ta không thiết gì đến đàn chiên, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng chạy tán loạn.

Người Chăn Chiên Nhân Lành ấy biết đàn chiên của mình là con cái cùng một Cha, cùng chung một mái nhà, là anh em, là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ…, biết từng con chiên một, biết đàn chiên yếu đuối hay sa ngã, biết chúng đang phải sống một kiếp sống hủy diệt vì tội lỗi, biết chiên đang khát vọng tìm một đồng cỏ xanh tươi, một dòng suối mát cho cuộc sống để nghỉ ngơi…

Vì yêu thương đàn chiên, muốn giải cứu chúng khỏi kiếp sống diệt vong ấy để được sống hạnh phúc viên mãn nơi Nhà Cha trên trời, người Mục Tử Nhân Lành đã xuống thế mang thân phận thấp hèn của con chiên, đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên để từ sự phục sinh của người Mục tử Nhân Lành, đàn chiên được sống trong an bình và hy vọng.

Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, Mục Tử Nhân Lành đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con người.  Ngài muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng con chiên một trong đàn chiên.  Mục Tử Nhân lành biết các chiên của mình là như thế đó!  Và dung mạo của Chủ Chăn ấy là nhân lành, yêu thương, biết các chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên và bảo vệ đàn chiên là như thế đó!”

Là con chiên thuộc đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành, ta đã biết chủ chăn, nghe tiếng Đấng ấy như thế nào?  Đã cảm nhận được sự hy sinh, bảo vệ, chăm sóc qua cái “ biết” của Mục Tử ấy chưa?

và các chiên Ta biết Ta, chúng nghe tiếng Ta

Nhờ dấu hiệu nào giúp chúng ta “ biết” Chủ Chăn?

Qua Kinh Thánh và nhất là qua Tin Mừng và phép Thánh Thể, ta biết Ngài, nghe tiếng Ngài kêu gọi. Ngài là Đấng Phục Sinh, nghĩa là Đấng Hằng Sống.  Ta sẽ biết rõ Ngài hơn, nhiều hơn, thân mật hơn, nếu ta sống và đi vào cuộc sống với, sống cùng các chiên khác.

Chúng ta đọc Kinh Thánh để nhận biết Người Chăn Chiên, để nghe tiếng Đấng ấy kêu gọi, nhưng ta nhận biết và nghe được tiếng gọi ấy bằng cách nào?  Bằng phân tích, lý luận hay bằng tình cảm tin yêu?

Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.

Ông thứ nhất nói:

– Tôi thích bản dịch A.  Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước.  Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.

Ông thứ hai nhận định:

– Tôi thì thích bản dịch B hơn.  Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.

Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:

– Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất.  Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực thế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.

 Mỗi ngày, có thể ta sẽ viết thêm một trang mới vào cuốn sách Tin Mừng sống của thời đại bằng chính những việc ta làm, bằng những lời ta nói.  Nếu những lời nói và hành động của ta không phản ảnh được những giá trị của Tin Mừng, thì những lời nói và hành động ấy cũng chẳng nói lên được gì cả.

Sống và thực hành lời Chủ Chăn kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhiệt thành tham dự Thánh Lễ để từ đó sống kết hợp với Ngài là ta biết và nghe tiếng Mục Tử Nhân Lành kêu gọi.  Bổn phận của con chiên là biết nghe tiếng của chủ chăn.  Chỉ có một tiếng thôi, không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống hạnh phúc ngoài tiếng Giêsu.  Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn bổn phận mà còn phải bước theo sự dìu dắt của Mục Tử nhân lành.

và chúng theo Ta” (Ga. 10, 27)

Đã biết Chủ Chăn, và đã phân biệt được tiếng gọi của Ngài với tiếng gọi của người chăn chiên thuê, ta phải mau mắn, tin tưởng đi theo.  Đi theo để được chăm sóc, được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Không như người chăn thuê, khi thấy sói rừng đến thì bỏ mặc đàn chiên mà chạy thoát thân; trái lại, Mục Tử Nhân Lành của ta sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.  Đi theo và tin tưởng phó thác vào sự bao bọc chở che của Chủ Chăn đã lấy mạng sống Ngài để bảo vệ, cứu thoát ta khỏi tội lỗi và cái chết hủy diệt, để đưa ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu như tác giả Thánh vịnh 22 đã cảm nghiệm:

Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.

Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.

Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.

Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Ngài.

Lạy Chúa, dầu qua thung lũng tối tăm,

con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.

Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm…

 Thế nhưng, ta có sẵn sàng chịu nghe tiếng của Chủ Chăn để tìm về với Ngài mỗi khi đi lạc đường, có sẵn sàng đi theo Ngài để cho Ngài bảo vệ, chăm sóc hay lại tìm cách tách rời đàn chiên để đi tìm những bãi cỏ tiền tài, danh vọng, bãi cỏ ý riêng… thay vì gặm cỏ xanh tươi, uống nước dòng suối mát nơi đồng cỏ Tin Mừng và Thánh Thể!

Phải coi chừng chủ chăn giả hay người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về ngưới ấy, nên họ thiếu trách nhiệm với đàn chiên, ích kỷ sợ nguy hại đến bản thân mình hơn đến số phận của đàn chiên.  Ngược lại, Mục Tử nhân lành là người yêu thương, bảo vệ, chăm sóc đàn chiên, biết từng con chiên một.

Tiêu chuẩn cuối cùng để phân biệt chủ chăn đích thực và người chăn chiên thuê là thí mạng sống vì đàn chiên.  Chỉ có Mục Tử Nhân Lành Giêsu là Đấng đã làm như thế cho đàn chiên của mình.

Là chiên trong đàn chiên của Chúa, có ba điều ta cần phải suy xét và thực hành trong cuộc sống của mình là:

Chiên Ta nghe tiếng Ta, chúng biết Ta và chúng theo Ta.  Sống và thực hành ba điều đó không phải chỉ để mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình mà còn phải cùng Mục Tử nhân Lành thực hiện một sứ vụ khác, một nỗi trăn trở khác là: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó ta cũng phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng ta.  Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.”

Khi gặm cỏ, gặp những chiên khác chưa thuộc đàn chiên của Chủ Chăn Giêsu, chúng ta có thái độ nào?  Đố kỵ hay thân thiện, nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần, yêu thương hay thù hận, tiếp đón giúp đỡ hay làm ngơ bỏ mặc, cộng tác hay dửng dưng, đối thoại hay khép kín?

Ghen ghét, đố kỵ, phân cách, tự mãn, tự kiêu, ích kỷ… có giúp gì được cho mong ước quy tụ những chiên khác chưa thuộc về đàn chiên của Mục Tử Giêsu thành một đàn chiên duy nhất và chỉ một chủ chiên mà thôi không?

Lm Trịnh Ngọc Danh

From Langthangchieutim

NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN 

NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN 

Lm Nguyễn Tầm Thường

Tình thương thúc đẩy, chàng chuẩn bị lương thực, với cây gậy gỗ, chàng dẫn chiên lên đường. Ðường lên núi chỉ có mình chàng.  Trên trườn núi mênh mông, chàng tiếp tục đi, can đảm.  Chàng chỉ có một niềm vui: tình thương cho bầy chiên.  Bầy chiên gặp cỏ non thì hớn hở.  Chúng ham ăn, quên người chăn.  Chàng ngồi đó, trên bờ đá.  Ánh nắng làm bóng chàng đổ dài trên nền cỏ. 

Nghĩ đến những ngày sắp tới dài dằng dặc.  Có thể là mưa.  Có thể là gai góc.  Và có thể là mệt mỏi.  Chàng ngần ngại cho cuộc sống.  Nhưng còn bầy chiên thì sao?  Tình thương dành cho bầy chiên lại níu kéo chàng về với bổn phận.  Cõi lòng chàng, can đảm, trìu mến lại trải rộng theo bầu trời. 

Chàng chấp nhận tất cả sương gió, nguy hiểm, vì bầy chiên.  Chàng chấp nhận hy sinh, nỗi vắng và nỗi đắng vì bầy chiên.  Nhưng bầy chiên chẳng biết nỗi lòng chủ mình.  Chúng cứ thản nhiên như lạnh lùng với chủ.

****************************** *****

Sau những ngày đầu bình yên. Chàng đã nghe tiếng sói rừng sủa văng vẳng đâu đó.  Bây giờ là chiến đấu với giao tranh.  Ðêm đêm, chàng thức giấc một mình nhìn núi lặng lẽ mà nghe xao xuyến.  Riêng chiên cứ ngủ yên vô tư.  Mỗi khi gió trời chuyển mưa là chàng ướt lạnh.  Lạnh cả thân xác và lạnh cả tâm hồn vì yêu thương chiên.

Sói đã đến vào một tối. 

Chiến đấu nào mà không cam go.  Bởi thế, chẳng mấy ai là người chấp nhận gian nan vì kẻ khác. “Kẻ làm công thì không màng đến chiên, khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy trốn.  Chỉ có người chăn chiên thương chiên mình thì mới thí mạng sống vì chiên” (Yn 10,1-14).  Chàng chiến đấu bảo vệ chiên.  Chân rướm máu vì núi đá.  Tay ê ẩm vì phải chống cự.  Trận chiến nào cũng có phần thua thiệt.  Lời Kinh Thánh đã loan báo: “Cứ chủ chiên mà giết thì đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26,31).  Biết thế, sói tấn công chàng, sói muốn ăn thịt chiên.  Nỗi đau của chàng không phải là thương tích chàng phải mang, mà là những tiếng kêu của chiên con bị thương.  Nhìn vài con chiên nhỏ phải đi tập tễnh, lòng chàng như tơ chiều chùng xuống.  Thương yêu quá đỗi.  Chiên thì chẳng biết tâm sự chủ mình.  Chúng cứ vô tư.

 Ðó có là tâm tình của Chúa đối với con người? 

****************************** *****

Người chăn chiên biết đâu là cỏ non.  Nơi nào có suối trong lành.  Chiên chẳng biết gì.  Nhưng làm sao để chiên nghe lời chủ.  Ðấy là nỗi khổ tâm của người chăn chiên.  Ðó là nỗi khổ tâm của Chúa đối với nhân loại. 

Khi chợt thấy bãi cỏ xanh trước mắt, mầu xanh quyến rũ.  Bầy chiên nôn nao ùa tới.  Cũng như con người trong lúc hoang vu, buồn chán, chợt thấy bóng hạnh phúc mờ ảo, cứ ngỡ là cơn mưa tươi mát, đã sa ngã.  Người chăn chiên thì biết đám cỏ xanh kia tuy có đẹp nhưng nó mọc trên đám bùn, nơi đó đầy đỉa độc và rắn xanh.  Nếu chiên đến ăn sẽ sa lầy, sẽ bị đỉa cắn, sẽ bị rắn độc giết chết.  Ðằng sau mầu xanh đẹp mắt là thuốc độc.  Nhưng chiên đâu biết thế.  Chiên cứ muốn xuống.  Chiên chẳng nghe lời chủ.  Và người chăn chiên se sắt cõi lòng khi thấy chiên mình chết. 

Chúa cũng vậy, bao lần con người đã đi tìm hạnh phúc giả trong tội lỗi.  Những hạnh phúc giả vì bất trung trong tình nghĩa vợ chồng.  Những hạnh phúc giả vì gian tham bất chính, vì những rung cảm trái phép.  Chẳng ai muốn hạnh phúc giả.  Chỉ vì lười biếng đi tìm hạnh phúc thật nên thấy bất cứ đám cỏ xanh nào cũng chạy lại.  Chúa biết rõ đâu là hạnh phúc đem bình an.  Chúa cản ngăn và con người đã than trách.  Chúa đau lòng.  Nhưng biết làm sao.  Vì thương chiên mình nên vẫn phải ngăn cấm.  “Chúa thương ai Người mới sửa dạy, Người nhận ai làm con, Người mới cho đòn.  Vì còn gì là con nếu người cha không dạy” (Hr 11,5-10).  Sửa dạy thì có đau đớn.  Nhưng nếu không sửa dạy thì người cha không còn là cha nữa. 

****************************** *****

Trên đường dẫn chiên đi, bao lần chiên kêu gào oán than chủ.  Chiên cứ muốn dừng nghỉ, nhưng chủ biết phải đi nữa mới có cỏ tốt, suối lành.  Chủ cũng biết chẳng mấy chốc nữa mùa đông lại về.  Phải vội vã mà lên đường.  Chiên nào có hiểu vậy.  Chúng mỏi chân.  Chúng chán nản.  Nhìn lịch sử cứu độ, khi Maisen dẫn dân qua sa mạc về Ðất Hứa, đã chứng minh rõ ràng điều đó. 

Cũng trên đường đi ấy, có những liên hoan của bầy chồn, bầy heo đứng ca múa bên đường.  Có những con chiên nghe tiếng cười đùa của bầy chồn, vui tai, xuôi lòng muốn ở lại.  Nhưng chủ biết rằng nếu con chiên nào ở lại với bầy chồn, bầy cáo, chúng sẽ suốt đời cô đơn.  Bầy chồn sẽ chẳng bao giờ săn sóc chúng, mà chúng phải nô lệ bầy chồn.  Trên đường đời của con người cũng thế.  Bao lần đi với Chúa, những tông đồ của Chúa đã muốn rẽ lối, phân vân ở ngã ba đường.  Họ thấy con đường theo Chúa sao mà dài.  Họ chẳng thể nhìn thấy đồi cỏ ở xa xa.  Họ muốn theo lối rẽ để ở lại vui chơi theo tiếng mời gọi của thần tượng ảo ảnh.  Trên đường về Ðất Hứa, dân Chúa đã bao lần than trách Maisen, họ đã dừng lại để thờ các tượng thần mà họ nghĩ là sẽ cho họ khoái lạc.

Sói rừng bao giờ cũng khôn ngoan.  Chúng mang bộ mặt của những con thỏ hiền từ.  Chờ chiên đến gần, chúng sẽ vồ bằng răng nhọn.  Chúng đứng bên đường nhởn nhơ nô đùa.  Bầy chiên phải theo chủ hoài thì nản lòng, muốn bỏ đồi cỏ xanh ở đàng kia.  Chúng muốn đến làm bạn với bầy sói.  Riêng chủ thì biết đằng sau tiếng cười là nước mắt.  Bên này là nỗi vui, bên kia là chết chóc.  Người chăn chiên thương chiên mình thì phải ngăn cản.  Nhưng bầy chiên đâu hiểu thế.  Không nghe lời thì người chăn chiên phải dùng roi mà đánh.  Mỗi vết roi là lòng chủ lại thêm đau.  Tâm hồn chủ chiên thì tan tác mà chiên cứ oán than. 

Ðời người cũng vậy.  Có người cha nào không lo âu khi thấy con mình đùa với vực thẳm.  Chúa biết con người nghèo đói hạnh phúc.  Chúa biết trong thực tế, cuộc sống của con người có nhiều nỗi đắng, con người dễ bị cám dỗ ăn những đám cỏ dại.  Chúa biết con người không muốn bị sửa trị vì có đau đớn.  Biết vậy, Chúa đã căn dặn: “Bị sửa phạt thì chẳng có vui, chỉ có buồn, nhưng nhờ đó mà được luyện tập và về sau mới thấy sinh lợi: tức hoa quả của bình an” (Hr 11,11).

 ****************************** *****

Tuy nhiên vẫn có những con chiên bỏ đàn, ở lại với bầy chồn, bầy cáo và nhận quê hương đó làm của mình.  Ðã bao lần Chúa ngậm ngùi xót thương mà chẳng làm gì được.  Khi một tâm hồn muốn bỏ chiên đàn mà đi, Chúa xót thương cho Chúa vì đã mất một người con.  Ðể cứu vãn, Chúa dùng gậy mà đe dọa.  Nhưng Chúa không thể đánh chết chiên mình được.  Nó quyết định đi thì Chúa chỉ biết đứng nhìn, nuối tiếc mà thôi.  Người chăn chiên thật thì thương chiên của mình. 

Người chăn chiên bao giờ cũng khôn ngoan.  Biết nơi nào có thể cho chiên dừng nghỉ, uống nước. Người chăn chiên biết từng con suối: “Ta đến để chiên Ta có sự sống và có một cách dồi dào” (Yn 10,10).  Khi bất hạnh làm con người khổ thì bất cứ an ủi nào cũng như suối trong.  Người ta dễ bị cám dỗ bỏ đời sống đức tin, muốn bám víu vào thú vui của trần thế.  Chỉ có Chúa thấy rõ, đấy không phải là bóng mát hạnh phúc, suối trong bình an.  Ðấy chỉ là bóng đen của những cơn mưa sắp đổ xuống.  Thay vì phải đi nhanh, phải chạy trốn, con người lại muốn ẩn trú trong những bóng đen ấy.  Rồi từ đó, bất hạnh lại nẩy sinh bất hạnh.  Túng thiếu lại nẩy sinh túng thiếu. 

Vì bản tính của chiên là chiên, nên những con chiên bỏ đàn đi, nó sẽ chẳng bao giờ tìm được căn tính của mình.  Từ đó, cuộc đời sẽ trôi dạt, hạnh phúc sẽ là những bóng mây chợt qua.  Khi tôi lìa xa Giáo Hội là đàn chiên Chúa, tôi sẽ thao thức, bất an. 

****************************** *****

Trên đường đi đến đồng cỏ, chắc chắn sói sẽ đến.  Chắc chắn có giao tranh, Nhưng hạnh phúc của bầy chiên là chủ chiên không bao giờ bỏ bê.  “Chiên của mình, Ta gọi tên từng con một” (Yn 10,3).  Sói rừng chỉ bắt được những con chiên bỏ đàn đi rong chơi một mình.  Giáo Hội là nhiệm thể có lửa của Chúa Thánh Thần sưởi ấm.  Những viên than nằm riêng rẽ chẳng bao lâu gió sẽ làm nguội tắt.  Nó tự làm cho đời sống mình nên khô cằn và cũng làm cho bếp than kém hồng vì mất đi một phần tử. 

Cũng trên đường đi đến đồng cỏ, núi đá có thể làm đau chân chiên con.  Nó có thể mang thương tích và chẳng thể kịp với đàn chiên.  Nhưng chỉ cần cất tiếng kêu là chủ sẽ đến và bồng nó trên vai mà dẫn đi.  Người chủ thương chiên mình thì chẳng bao giờ vì chiên con yếu đuối không đi kịp đàn chiên mà bỏ rơi nó.  Chủ chiên hãnh diện vì những con chiên khỏe mạnh nhưng lại thương những con chiên bé bỏng, yếu sức.  Chúa cũng vậy, một tâm hồn mang nhiều thương tích là tâm hồn được Chúa yêu thương đặc biệt: “Có cần lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là người đau ốm” (Lc 5,13).  Khi người ta trách Chúa tại sao lại ngồi chung bàn ăn với người tội lỗi.  Chúa đã trả lời như thế.  Câu trả lời ấy cho tôi nhiều an ủi. 

Trong cuộc sống, Chúa chẳng bao giờ quên những tâm hồn lạc lõng. “Ai trong các ông giả sử có một trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ 99 con còn lại mà đuổi theo con lạc cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó sao?” (Lc 15,4-7).  Chính vì thế mà Chúa đã đến.  Chỉ cần cất tiếng kêu, Chúa sẽ đến như người chăn chiên bồng chiên mình trên vai mà đi.  Trong vòng tay chủ chiên, con chiên đã mang thương tích sẽ được ngủ bình yên vì người chăn chiên quá thương nó. 

Người chăn chiên mừng vui biết bao khi tìm thấy chiên mình.  Nhưng nếu chiên không về thì sao?

– Nỗi nhớ thương sẽ hằn sâu trong tim và người chăn chiên sẽ mãi mãi thao thức.  Sợ nó chết trên đường cô độc, người chăn chiên sẽ dõi theo vết chân nó, vì nó vẫn thuộc đàn chiên mình.

 Ðó là nỗi lòng của Chúa, người chăn chiên tốt lành. 

Lm Nguyễn Tầm Thường 

trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc 

From Langthangchieutim 

PHÊ-RÔ TRẢI NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

PHÊ-RÔ TRẢI NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

Những giọt nước mắt hổ thẹn và hối hận lăn dài trên khuôn mặt của Phê-rô, khi ông vội vã thoát khỏi sân dinh vị thượng tế, là nơi Chúa Giê-su đang bị giam giữ.  Một tiếng nói bên trong nội tâm tra khảo ông: “Làm sao ông lại chối bỏ thầy Giê-su cách công khai như vậy?”  Cách đây ít lâu, ông không bao giờ có thể tưởng tượng là mình có thể quay lưng với Chúa Giê-su một cách nhẫn tâm như vậy.  Những lời khẳng định đầy hiên ngang mà ông vừa nói với Chúa Giê-su, nay lại quay về ám ảnh ông: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22,33).  Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi Chúa Giê-su tiên báo, thì đêm hôm ấy, ông đã chối Chúa đến ba lần.  Phê-rô thầm nghĩ, mọi sự xảy ra quá nhanh.  Trước hết, ông cẩn thận tìm mọi cách để đi theo Chúa vào trong sân.  Rồi khi ông thấy mình đã bị nhận diện là môn đệ của Chúa Giê-su, ông chợt nhận ra là mình đang gặp nguy hiểm.  Đó là khi người ta bắt đầu lớn tiếng cáo buộc ông: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì?” (Mc 14,67).  Ông cảm thấy hồi hộp.  Người ta càng thúc ép ông trả lời cho câu hỏi đó, thì ông càng cương quyết phủ nhận.  Trong chốc lát, thái độ nhún vai phủ nhận đã biến thành một lời thề công khai, khi ông bắt đầu thốt lên những lời độc địa mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26,74).

Ngay khi ông nhớ lại một chuỗi những sự kiện xảy ra quá nhanh, thì lòng ông quặn đau như thắt vì thất bại và ông cảm thấy hết sức chán nản.  Sau này, Phê-rô nhận thức rằng khi Chúa Giê-su quay lại nhìn ông, thì chính cái nhìn ấy – một cái nhìn đầy lòng thương xót – đã lay động tâm hồn ông, để ông nhận ra điều khủng khiếp mình vừa làm, đồng thời ông cũng nhận biết là Chúa đã thông cảm và tha thứ cho ông.  Khi ông nhận ra điều đó, ông đã khóc lóc thảm thiết.  Sertillanges đã chia sẻ như sau: “Đức Giê-su hướng về Phê-rô, mặc dầu ông ở rất xa, nhưng vẫn cảm được cái nhìn của Thầy, cái nhìn làm tan biến sự yếu đuối của trái tim con người, thâm nhập sâu vào tình yêu của nó và ban sức mạnh cho sự yếu đuối ấy.  Tảng đá đã chao đảo.  Nhưng chính trên tảng đá này mà nền móng của công trình đời đời được thiết lập.  Nơi đâu mà xác thịt loài người tỏ ra yếu đuối, nơi đó quyền năng của Thượng Đế được biểu lộ rõ ràng.  Phê-rô vấp ngã, nhưng ông là người thứ nhất tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, rằng Ngài là Đấng Thiên Sai Thượng Đế hứa”.[1]  Câu chuyện Phê-rô chối Thầy được Trình thuật cả trong bốn Tin Mừng, chỉ cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã công bố khuyết điểm của vị thủ lãnh đầu tiên của mình, chứ không che đậy.  Dù vậy, họ được thêm vững mạnh, chứ không bị vấp phạm.  Kinh nghiệm của thánh Phê-rô xác nhận với họ rằng, thất bại là điều có thể chấp nhận được, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ.  Rất có thể là chính thánh Phê-rô đã phổ biến câu chuyện thất bại của mình, khi người không ngừng cố gắng khích lệ anh chị em mình phấn đấu – như Chúa Giê-su đã yêu cầu Phê-rô: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.  Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).

Như Giáo Hội tiên khởi đã xem sự sa ngã của Adam là một “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà xuất hiện Đấng Cứu Thế, Giáo Hội cũng xem sự trượt ngã của Phê-rô là “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà Giáo Hội có được một vị thủ lãnh vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ.  Phê-rô bị bó buộc phải đối diện với bóng tối của mình, và điều đó đã làm cho ông trở nên con người khiêm nhường đầy lòng thương xót.[2]  Qua hình ảnh của thánh Phê-rô, Giáo Hội được mời gọi luôn là Giáo Hội của lòng thương xót, và cần phải là Giáo Hội của lòng thương xót hơn bao giờ hết, vì Giáo Hội chính là thân thể mầu nhiệm và sống động của chính Chúa Giê-su, Đấng là mục tử nhân lành, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót.  Chính Ngài luôn yêu thương con cái của Ngài, và mời gọi tất cả những ai sống trong khổ đau và bất hạnh hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).  Không chỉ dừng ở nơi đó, mà trong chiều sâu của tình yêu thương, Chúa Giê-su còn trao mọi người con của Chúa cho Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

****************************** ****

Lạy Chúa, Đấng đầy lòng thương xót.
Xin thương đoái nhìn đến những góc khuất tăm tối, những yếu đuối mỏng dòn,
và những xáo động ồn ào trong con,
Xin thương đoái nhìn đến những phút giây bội thề, những yếu hèn nhát đảm,
cùng những lơ đễnh thoái thác trong con.
Con không đòi Chúa ban cho con bất cứ điều gì, ngoại trừ lòng thương xót của Người.
Trong cuộc sống thế trần, mọi sự chỉ như hoa cỏ sớm nở tối tàn.
Những gì con cho là cao quý cũng chỉ là phù vân hư ảo
và những gì con bận tâm lo lắng rốt cuộc cũng chẳng ý nghĩa đáng giá gì.
Lạy Chúa, xin thương xót và dắt dìu con,
Xin biến đổi con một lần nữa để con lại khao khát sống cuộc đời thánh thiện,
và trở nên người của Chúa cho dẫu trong con còn nhiều hoang mang cùng bối rối.
Con không cầu xin để biết rõ ràng và chắc chắn phải làm gì,
ngoại trừ mong mỏi một điều là được Ngài dẫn dắt theo nẻo đường tình yêu của Ngài,
để có thể dõi bước và tín thác vào lòng thương xót của Ngài.
Vì được như thế, con mới tìm thấy điều con hằng khắc khoải chờ mong.

Nguyễn Thế Anh, SJ, chuyển ý
Nguồn: Thomas Merton, A Year with Thomas Merton: Daily Meditations from His Journals, (Selected and edited by Jonathan Montaldo), (New York: HarperCollins e-books, 2007), 247.

[1] Sertillanges A.D., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, Fr. Thomas Tuý OP.  Chuyển ngữ, chương 7. Người thân yêu. Nguồn: www.nguoitinhuu.org.

[2] Wikie Au và Norren Cannon, Những thôi thúc trong tim, Nguyễn ngọc Kính OFM. chuyển ngữ, NXB. Phương Đông 2012, t. 246-247.