
Thân chúc mọi người một ngày Father’s Day , thanh bình vui vẻ và hạnh phúc.

Về Công Giáo và Phật Giáo cùng các tôn giáo khác
CÔ ĐƠN VÀ TĨNH MẠC
Từ ít lâu nay, trong Hội thánh Công giáo đã xuất hiện một phong trào tu đức nhằm vào sự cô đơn.
Phong trào này đào tạo nên những con người:
Với mấy nhận thức trên đây, tôi xin kính mời mọi tín hữu nói chung và mọi môn đệ được gọi vào chức thánh nói riêng, hãy nhìn vào Chúa Giêsu của tuần thánh. Hãy ngắm nhìn kỹ và suy nghĩ thực sâu, để chia sẻ đôi chút tâm tình của Người. Bởi vì cô đơn và tĩnh mạc đang và sẽ là vấn đề lớn cho ta và cho cộng đoàn của ta.
Trong tuần thánh, cảnh nổi bật vây phủ Chúa Giêsu là cảnh cô đơn.
Khi Chúa Giêsu bị các nỗi cô đơn đè nặng trên mình, Người đã đối phó bằng sự đi vào cõi tĩnh mạc.
Trước hết là tĩnh mạc địa lý. Người đi vào vườn Cây Dầu là nơi vắng vẻ. Khi cầu nguyện, thì chỉ đi với ba môn đệ. Nhưng rồi Người cũng không cùng với ba môn đệ cầu nguyện chung. Người cầu nguyện một mình ở một chỗ tĩnh mạc, xa ba môn đệ.
Trong tĩnh mạc địa lý, Chúa Giêsu đi sâu vào tĩnh mạc nội tâm. Sự tĩnh mạc này giúp Người cầu nguyện, thêm sức cho Người được chịu mọi đau khổ về thể xác và tinh thần.
Sự tĩnh mạc nội tâm này đã được nhận thấy ở sự rất ít nói của Chúa Giêsu, khi bị nhục mạ, bị vu khống, bị kết án. Ban đầu, Người còn trả lời vắn tắt những câu tra vấn. Sau đó, Người trả lời bằng sự im lặng. Trên Thánh giá, Người chỉ nói mấy lời với nội dung yêu thương đối với loài người, và phó thác đối với Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”(Lc 23,46).
Trong sự cô đơn và tĩnh mạc nội tâm, Chúa Giêsu đã rất quan tâm đến những người khác bằng tình yêu thương.
3. Sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những cảnh cô đơn
Trên đây là vài chia sẻ vắn tắt cho một vấn đề đã xưa, nhưng hiện đang là thời sự chi phối bầu khí đạo đức trong xã hội và trong Giáo Hội.
Thực vậy, theo các nhà khảo sát xã hội và quan sát tình hình tôn giáo, thì hiện nay:
Cảnh cô đơn và cảnh bị loại trừ diễn ra ngay trong gia đình, trong các cộng đoàn xã hội, cả trong những cộng đoàn tôn giáo.
Động cơ đẩy người ta vào cảnh cô đơn và loại trừ càng ngày càng phức tạp.
Nếu chúng ta không tỉnh thức và cầu nguyện, thì cảnh cô đơn và loại trừ sẽ phát sinh và phát triển mạnh trong Hội Thánh Việt Nam ta. Đang khi đó, cảnh tĩnh mạc sẽ lại bớt đi. Lỗi phần nào là do các phong trào không lành mạnh trong xã hội, nhưng cũng một phần do chính những nhẹ dạ hoặc ác ý của một số thành phần thuộc nội bộ Giáo Hội ta.
Xin nhớ rằng: Ác quỷ Satan rất khôn khéo trong việc phá Hội Thánh Chúa. Phá dưới mọi hình thức. Hiện nay hình thức Satan ưa dùng, là gây nên cảnh cô đơn và loại trừ trong chính nội bộ, đang khi đó chúng lại gây nên cảnh náo động hướng ngoại, thay cho tĩnh mạc cầu nguyện. Nếu đúng như vậy, thì vấn đề chúng ta nên để tâm nhiều hơn trong tu đức là hãy đón Chúa Giêsu chịu tử nạn vào tâm hồn ta.
Khi Người là sự sống của ta, thì chính Người sẽ đổi mới ta. Nhờ Người, ta sẽ biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ nắm được một phần nhỏ của các sự thực, để ta sẽ sống bé nhỏ trong việc góp phần xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh có nhiều khác biệt, trên đường hành hương nhiều khi cô đơn và tĩnh mạc.
Dù cô đơn, dù tĩnh mạc, chúng ta tuyệt đối phó thác cuộc đời chúng ta nơi Chúa tình yêu. “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9).
Gm. G.B. Bùi Tuần
From: Langthangchieutim
THÁNH ANTÔN PADUA, LINH MỤC-TIẾN SĨ HỘI THÁNH
Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimna có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.
Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm. Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.
Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Atalia. Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết. Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.
Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute” (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục mới tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.
Cũng tại Bourges, nên ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh. Thánh nhân nói:
– Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không?
Người Do thái nhận lời thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.
Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi sự nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella. Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231 khi mới 36 tuổi. Ngài được phong thánh một năm sau, ngày 30-5-1232. Năm 1946, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh.
Năm 1263, trong ngày lễ thánh nhân, hài cốt Thánh Antôn được đưa từ tu viện đến nhà thờ mới, dưới sự điều khiển của thánh Bonaventura. Khi khai quật phần mộ, da thịt ngài đã tiêu tan hết, đặc biệt lưỡi thì còn y nguyên. Thánh Bonaventura hôn kính “lưỡi đáng kính trọng” ấy, rồi thốt lên: “Bởi lưỡi thánh này đã ngợi khen Thiên Chúa và khuyên dụ nhiều người ngợi khen Thiên Chúa, nên Ngài đã gìn giữ lưỡi này còn nguyên vẹn cho đến bây giờ.” Lưỡi ấy được đặt vào một bình bạc để trên cao cho mọi người tôn kính. Từ đó, khách hành hương từ khắp nơi đến viếng nhà thờ và mộ thánh để cầu nguyện và xin ơn. Thánh Antôn hằng ban ơn giáng phúc, chẳng những về thể xác mà nhất là về phần linh hồn. Chính thánh Bonaventura đã chứng kiến và ca ngợi rằng: “Ai muốn nhờ phép lạ thì phải chạy đến cùng Thánh Antôn. Người cứu chữa lúc gian nan, giúp đỡ khi túng cực. Hãy hỏi dân thành Pađua, hãy hỏi các khách hành hương, họ sẽ nói lên sự thật ấy.”
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài. Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là “Tiến Sĩ Tin Mừng” hay Tiến Sĩ Kinh Thánh.
Thánh Antôn Padua đã hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy về tình yêu Chúa. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nhân, can đảm hiến thân cho tha nhân, cho Tin Mừng nước Cha.
Tổng hợp
Xin xem thêm sách Thánh Antôn Padua
http://suyniemhangngay.net/ 2016/09/04/thanh-anton-padua/
From: Langthangchieutim
CHỐNG CÁC TAY SAI CỦA QUỶ VƯƠNG
Nếu tôi là Đức Giêsu, tôi sẽ buồn phiền chán nản vô cùng: vừa bị thân nhân gia đình bôi nhọ là: “Ông ấy mất trí”, lại bị nhóm kinh sư từ thành đô Giêrusalem đến xem xét rồi chụp mũ: “Ông ấy bị quỷ vương Bengiêbút ám nhập và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.
Đó là những bẫy rất tâm lý và cực kỳ nguy hại của sa tan, để đánh bại chương trình cứu độ của Đấng Cứu Thế như nó đã đánh bại chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trước kia nó đã mặc lốt con rắn cuốn lôi con người bỏ Thiên Chúa mà theo nó phạm tội ăn trái cấm (Bài đọc 1). Bây giờ, nó núp bóng dưới dạng thân nhân, và kinh sư âm mưu tráo trở công việc cứu độ của Đức Giêsu biến thành công việc của nó. Đức Giêsu đã mạnh mẽ phản kháng những lừa bịp độc hại của sa tan. Người liền gọi dân chúng, những con người hiền lành chất phác đến nghe để Người giải tỏa cho họ khỏi nọc độc bịp bợm của rắn quỷ, bằng kiểu luận lý dễ hiểu, ai cũng có thể thấy rõ được: “Nước nào chia rẽ, nước ấy sẽ mất; nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan”.
Một tiền đề sát với đời sống cụ thể của họ và rất sắc bén để dẫn tới áp dụng kết luận:“Vậy satan chống lại satan, satan tự chia rẽ satan, thì chúng không thể tồn tại, tất nhiên chúng dẫn đến diệt vong”.
Người đau đớn quay sang nói với bọn kinh sư, tay sai của quỷ rằng: “Nếu Ta nhờ Bengiêbút mà trừ quỷ thì bè phái các người nhờ ai mà trừ quỷ? Bởi thế, chính họ sẽ xét xử các ngươi”.
Đồng thời Người cũng cho họ thấy rõ sự thật hiển nhiên là: “Ta đã nhờ Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12, 27-28).
Nói đến đây, đáng lẽ ra các kinh sư là những người thông Kinh thánh, họ phải nhớ ra việc Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ Bengiêbút thời vua Akhap và Ôkhôgia vua Israen. Ôkhôgia khi bị đau liệt, ông đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bengiêbút. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri Elia đi đón sứ giả và nói: Ở Israel không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bengiêbút? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ôkhôgia cố chấp không nghe lời cảnh cáo của Elia, còn sai quan quân tất cả hai lần trăm người đến bắt Elia. Elia đã nói: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (2V. 1, 2-17).
Những hạng người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người khăng khăng cố chấp những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý thay trắng ra đen, xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của quỷ thần, những hạng người đó đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng chẳng bao giờ được tha thứ, chúng lì lợm đến diệt vong.
Chỉ có những người ngay lành thiện chí như dân chúng, biết nhận ra lẽ phải, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, biết đón nhận những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết siêng năng chạy đến xum họp chung quanh bàn tiệc thánh Lời và Mình Máu Thánh Chúa, như đám đông dân chúng xưa kia đã ngồi vây quanh Người để lắng nghe. Xin cho chúng con nhận biết và thực thi thánh ý Thiên Chúa để được vinh phúc trở nên là mẹ và anh em với Người. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
(trích trong “Xây Nhà Trên Đá”)
From Langthangchieutim
Việc gì trên đời này có thể đem hạnh phúc đến với con người? Có thể làm cho đời sống có ý nghĩa? Phải chăng đó là tiền bạc? Danh vọng? Địa vị? Hay là sự thành công ? Chỉ có một câu trả lời, chỉ có một Người có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi – đó là Chúa Giê- Su Ki- tô, Chúa chúng ta.
Ba nghệ sĩ tài sắc này đã đi theo tiếng gọi thiêng liêng để theo Chúa, trong khi họ đang tiến trên đài danh vọng
Dolores Hart
. “Nếu mọi người nghe được những gì tôi đã nghe…”
Tên thật Dolores Hicks sanh năm 1938, nghệ danh là Dolores Hart. Cô đã nổi tiếng ngay từ khi bắt đầu đóng phim . Năm 18 tuổi cô đóng vai người yêu của tài từ Esvis Presley trong phim Loving You . Cô là người hôn Elvis lần đầu trên màn ảnh, qua phim này.T rong 5 năm liên tiếp , cô đã đóng các vai chính trong 9 bộ phim với các tài tử lừng danh như Stephen Boy, Montgomerry Clift, George Hamilton, Robert Wagner. Khi ấy cô cũng đang chuẩn bị để kết hôn.
Nhưng năm 24 tuổi, trong khi đang có sự nghiệp vững chắc và ở trên đà đành công, thình lình cô tuyên bố sẽ hủy bỏ tất cả để đi theo Chúa. Việc này xảy ra khi Cô thủ vai Clara trong phim Thánh Phanxicô Assisi, trong lúc quay phim tại Ý, Dolores Hart đã gặp Đức Giáo hoàng Gioan XXIII . Khi cô giới thiệu : “Con là Dolores Hart, thủ vai Thánh nữ Clara ” Đức Thánh Cha trả lời là, “Không, con chính là Thánh Clara!” Những người mến mộ cô rất thất vọng và họ cũng giận dữ nữa khi họ nghe tin Dolores Hart sắp đi tu . Cô còn chia sẻ là có một vị linh mục tên là Cha Doody từng nói, “Con thật là điên khi quyết định đột ngột như thế!” Dolores Hart đã trả lời thư một người bạn thân khuyên cô nên bỏ ý định đi tu bằng những lời sau:
“Nếu hạn nghe được như tôi đã nghe tiếng Chúa gọi, hẳn bạn cũng sẽ đi theo Chúa!”
“Chúa không bao giờ lầm lẫn …”
Olalla Oliveros là một siêu mẫu ở Tây Ban Nha , sau chuyển sang đóng phim và làm người mẫu quảng cáo trong nước và quốc tế. Sau khi đi hành hương ở Thánh Địa Fatima nơi Đức Me hiện ra năm 1917, cô đã có cảm giác như có “một trận động đất lớn đã xảy ra trong linh hồn tôi”. Olalla còn có thị kiến, thấy mình là một nữ tu mặc áo dòng, hình ảnh mà cô đã cho là kỳ quái khi mới thấy lần đầu. Nhưng hình ảnh đó cứ ám ảnh Olalla mãi cho đến lúc cô biết là Chúa Giê- Su đã gọi cô từ bỏ lối sống phù hoa để thành nữ tu. ” Chúa không bao giờ lầm lẫn. Ngài kêu gọi tôi đi theo Ngài, và tôi không thể cưỡng lại được ơn gọi ấy”
Hiện nay Olalla Oliveros đang đi tu trong Dòng Kín Thánh Michael ở Spain.
Amanda Rosa Perez
“Hiện giờ tôi sống trong bình an”
Amanda Rosa Perez là người mẫu thành công nhất ở Colombia cho đến 10 năm trước, khi không ai biết tin tức gì của cô nữa . Nhưng sau đó, Cô đã giải nghĩa về sự vắng mặt thình lình của cô trước công chúng . Cô đã được ban ơn hoán cải tâm hồn, và đang làm việc chung với các nữ tu trong một cơ quan tôn giáo. Lúc trước, khi lên đến đỉnh cao của nghề kiểu mẫu, cô bị mắc một cơn bệnh làm mất đi một phần thính giác. “Tôi đã thất vọng, bực tức, mất hướng đi và chìm đắm trong các cuộc vui. Tôi luôn tìm câu trả lời nhưng thế giới vẫn im hơi lặng tiếng…”
Hiện giờ Amanda Rosa Perez năng đi xưng tội, rước Lễ, lần Chuỗi Mân Côi, và lần hạt Lòng Chúa Thương Xót.
“Lúc trước tôi luôn bận rộn, căng thẳng, và hay nổi giận. Tôi chán làm người kiểu mẫu siêu hạng. Tôi chán ngán cái thế giới đầy dối trá, lừa đảo, giả dối, bạo hành; thế giới chỉ nhìn qua bề ngoài, đầy những việc ngoại tình, nghiện ngập, hút sách; một thế giới chỉ tôn trọng vật chất của cải, hưởng thụ, và những việc vô luân. Bây giờ tôi cảm thấy rất bình an và thế gian không còn cám dỗ được tôi như trước. Tôi trân quý từng giây phút Thiên Chúa ban cho tôi. Tôi muốn làm một người mẫu kêu gọi cho việc tôn trọng phẩm giá phụ nữ, thay vì là người mẫu dùng cho các quảng cáo thương mại.”
Bách Việt
From Kim Bang Nguyen gởi
TÌNH CHÚA
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá.” Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương.” Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy “Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta.” Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời.”
Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời.”
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt sắng của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
– Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
– Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi không đi dự Thánh Lễ với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi.”
Sưu tầm
****************************** ****
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con
dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé,
có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự
giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách
đến với con người hôm nay :
đơn sơ, khiêm hạ,
không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa
đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành
những Nhà tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào
và quê hương chúng con. Amen.
Rabbouni
From: Langthangchieutim gởi
Suy Niệm: Chúa hạ bệ người quyền thế và nâng cao kẻ khiêm nhường.
Luôn luôn có một sự tương phản giữa con người và Thiên Chúa: Con người yêu thích quyền cao, chức trọng; Thiên Chúa yêu mến kẻ hèn kém, khiêm nhường.
Con người thích được mọi người phục vụ; Thiên Chúa yêu mến kẻ phục vụ mọi người.
Con người trốn tránh đau khổ; Thiên Chúa yêu mến những người đau khổ…
Một cách cụ thể, Thiên Chúa chọn cha sở xứ Ars, một người ít học, quê mùa làm quan thầy hàng giáo sĩ; Ngài chọn Mẹ Têrêxa phục vụ kẻ nghèo để đưa bao nhiêu người vào Giáo Hội. Ngài chọn một y tá Martinô để chữa bệnh biết bao người, ngay cả tại Việt Nam.
Thầy Bạch gởi
THÁNH THỂ VÀ THÁNH GIÁ
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7). Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Aicập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10).
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.
Như vậy, lịch sử sáng tạo, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa quyện đan với những cái tên tầm thường: Đất, Nước, Đá.
Người Việt Nam chúng ta cũng dùng những tiếng tầm thường ấy để nói lên Một Điều Linh Thiêng. Linh thiêng đến độ bao anh hùng liệt nữ đã hy sinh mạng sống mình cho điều linh thiêng đó: Đất Nước Việt Nam. (x. Chút mắm muối cho bữa cơm hàng ngày, trang 252).
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giàng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát; từ chùm nho bị ép. Nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử. Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em.” Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người suốt hơn 20 thế kỷ qua. Thánh Giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy Lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do Thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu thì càng lại là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời.” Người Do thái đã phản ứng rất mạnh:“Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”(Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể.
Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể. Hiểu như thế để khi dâng Thánh Lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, chúng ta tham dự tích cực linh động với tất cả trí lòng tin yêu. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa Kitô. Khi rước lễ là chúng ta gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng. Chúng ta được mời gọi sống như Chúa Giêsu, biết bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen!
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Quả thật, con cảm nghiệm và tin rằng Lời Chúa đã, đang và muôn đời nuôi sống chúng con cả hồn lẫn thân xác – ngay từ bây giờ ở thế gian (Houston) và mai sau. Sự kiện không chối cãi là anh chị em nào cũng tươi, trẻ hơn và tâm linh trong sáng hơn.
Hạt giống Lời Chúa không mục nát thì những ai được Lời Chúa nuôi dưỡng cũng sẽ không mục nát, trái lại cả hồn lẫn thân xác cũng được tái sinh bất diệt.
Khi Chúa về Trời, Lời Chúa hứa thân xác chúng con sẽ nên giống hình dạng Chúa như khi Chúa sống lại.
Lạy Chúa Thánh Thần xin mở lòng trí con thêm mỗi khi “Con Hẹn Gặp Chúa” (1) để Lời Chúa là hạt giống bất diệt sống trong con và con sống trong Chúa.
Amen
Thầy Bạch gởi.
(1) “Con Hẹn Gặp Chúa” là lớp học thánh kinh, mỗi tối thứ năm, ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể.
BÀI HỌC VỀ TÌNH MẸ
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng là ngày đưa chúng ta vào tình yêu sâu thẳm của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Qua cuộc thăm viếng này, các bà mẹ có thể tận hưởng niềm vui sâu xa của ơn gọi làm mẹ, niềm vui của việc chăm sóc lẫn nhau trên hành trình này. Sau khi được truyền tin và xin vâng theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đức Mẹ đã vội vã đi thăm người chị họ Êlidabét.
Trình thuật Lc 1,39-45 cho biết: Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Có nhiều điều thu được từ đoạn văn hay này. Đó là sự đến với nhau của hai người phụ nữ, được liên kết bằng niềm vui và lời hứa cứu độ. Hai người phụ nữ cùng chia sẻ tặng phẩm là thiên chức làm mẹ. Một người mang thai một người sẽ mở đường cho Đấng Cứu Thế, một người mang thai một người là Đấng xóa tội trần gian và là Êva Mới. Hai phụ nữ đón tiếp nhau với tư cách là thân nhân, với mối quan hệ thâm sâu. Cuộc gặp gỡ của họ mời gọi chúng ta đến gần Thiên Chúa không chỉ bằng tặng phẩm là sự công bố của họ, mà còn bằng tình yêu thương dành cho nhau. Tính chất phụ nữ và làm mẹ của họ là tấm gương sáng cho mọi người, cách riêng các bà mẹ có thể học hỏi nhiều hơn qua cuộc thăm viếng này.
Mẹ Maria vội vã lên đường
Đức Mẹ là người lặng thầm trong Kinh Thánh, nhưng Đức Mẹ chứng tỏ là một phụ nữ thể hiện sứ vụ và mục đích: Đức Mẹ vội vã lên đường. Đức Mẹ biết sự cấp bách đối với công việc của Thiên Chúa trên thế gian này. Sau khi chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa là làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ mau mắn đi thăm chị Êlidabét. Mẫu gương của Đức Mẹ là mẫu gương quan trọng đối với những người mẹ. Xung quanh chúng ta có nhiều thứ cần chú ý. Con cái và người chồng luôn cần chúng ta quan tâm. Thi thoảng chúng ta có thể xao lãng và có thể gây “tổn hại” cho gia đình. Chúng ta phải nhận biết khi nào cần vội vã.
Đức Mẹ nhắc chúng ta rằng công việc của người mẹ là “việc thánh.” Nuôi dạy con cái là để dẫn đưa chúng về trời, công việc căng thẳng lắm. Vội vã theo nghĩa ở đây là sự bận rộn. Rất thường xuyên theo văn hóa Tây phương, chúng ta kết hợp sự bận rộn với sự thánh thiện hoặc sự quan trọng. Chạy từ sự kiện này tới sự kiện khác không là cách vội vã được đề cập ở đây. Đó là hấp tấp, ôm đồm. Vội vã muốn nói ở đây là hướng tới chồng con với lòng yêu thương, quan tâm chăm sóc chồng con, và cho họ những thứ họ cần. Đó là cách chọn lựa hiện diện giữa họ và nhiệt tâm sống theo ơn gọi của mình. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không cảm thấy mệt mỏi, mà là lý do chúng ta cần cầu nguyện và thường xuyên lãnh nhận các bí tích để duy trì sự cân bằng trong đời sống tâm linh.
Các bà mẹ được mời gọi chăm sóc nhau
Nhiều khi người mẹ có vẻ là cuộc đấu tranh đơn độc. Đó là thực tế rất nhiều người mẹ duy trì theo loại văn hóa mà chúng ta tách khỏi người khác. Đó là điều rất thật đối với những người mẹ chỉ ở nhà nội trợ, nhưng có thể họ vật lộn với công việc nhiều lần trong sự đơn độc như thế. Người mẹ này cần người mẹ khác. Phụ nữ là những thụ tạo xã hội. Chúng ta cần thảo luận về những gì đang diễn tiến trong cuộc sống và với con cái. Chúng ta cần những người mẹ khác cho chúng ta biết rằng cách cư xử riêng là điều bình thường.
Trong sự cô lập của chúng ta, chúng ta có thể bắt đầu cảm thấy mất trí nhớ hoặc con cái trở nên xa lạ. Thực tế con cái có thể khá xa lạ, đó là một trong các lý do mà việc làm mẹ như vậy là sự mạo hiểm vừa vui vẻ, vừa tiêu khiển, vừa mệt mỏi. Là những người mẹ, chúng ta không cạnh tranh với nhau. Chúng ta hân hoan kết hiệp với Nhiệm Thể Đức Kitô và sống liên đới với nhau. Sự cô độc mà chúng ta cảm thấy là vì nhu cầu này không được thỏa mãn trong xã hội vội vã, cá nhân, và biệt lập. Nhưng bạn không đơn độc một mình đâu!
Vào ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, rõ ràng Đức Maria và Thánh Êlidabét tìm thấy sự bình an, niềm vui, và sự thoải mái khi gặp nhau. Họ liên kết với nhau bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cũng được kết hiệp nhờ Chúa Thánh Thần. Những người mẹ cần chia sẻ với nhau về niềm vui, nỗi buồn, sự đấu tranh, đau khổ, thành công và thất bại. Chúng ta cần cùng nhau đồng hành trên con đường thánh thiện này. Chúng ta không thể chỉ đạt được sự thánh thiện.
Về phương diện bản thể học (ontology), con người là các thụ tạo xã hội. Nhờ tặng phẩm của việc Con Thiên Chúa nhập thể, chúng ta được liên kết với nhau trong tình đoàn kết sâu sắc với Đức Kitô và với nhau. Chúng ta cũng được tạo nên để cùng bước đi với nhau. Tình bạn và gia đình là những tặng phẩm quý giá. Đã đến lúc chúng ta bắt đầu cùng nhau ca tụng ơn gọi làm mẹ để chúng ta có thể sống trong niềm vui của Đức Kitô, Đấng liên kết chúng ta.
Mẹ Maria đến với mỗi người chúng ta
Đức Mẹ đến thăm chị họ Êlidabét, Đức Mẹ cũng đến thăm mỗi chúng ta. Đức Mẹ là Mẹ của chúng ta và yêu thương chúng ta bằng tất cả Thiên Tình Mẫu Tử. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta phải có thói quen cầu xin Đức Mẹ nâng đỡ. Việc làm mẹ đòi hỏi tình nhân ái, sự kiên nhẫn, sức chịu đựng, sự thận trọng, sự khôn ngoan, và mọi đức tính khác.
Việc làm mẹ “cắt tỉa” chúng ta với các mức độ mạnh mẽ nhất. Chúng ta sở hữu tính vị kỷ bởi vì sự sa ngã của Nguyên Tổ luôn “giằng xé” chúng ta vì chồng con. Đây là một quá trình lành thánh, nhưng đôi khi cũng là một quá trình khiến ta cảm thấy bị ám ảnh và quá sức. Đức Mẹ là sự hướng dẫn cho những người mẹ. Đức Mẹ không bỏ mặc chúng ta hoặc làm cho chúng ta thất vọng. Đức Mẹ luôn dẫn chúng ta đến với Con Yêu Dấu của Đức Mẹ, nâng đỡ chúng ta trên con đường nên thánh. Hãy cầu xin và tin tưởng vào cách hướng dẫn đầy yêu thương và khôn ngoan của Đức Mẹ.
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng là cơ hội tuyệt vời để chúng ta tìm hiểu và đào sâu ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Đó là con đường Thiên Chúa ban cho chúng ta để làm cho chúng ta vâng theo Thánh Ý Ngài. Đức Mẹ dạy chúng ta cách hành động vội vã trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó chúng ta có thể ưu tiên những điều hướng dẫn gia đình và đưa chúng ta tới cuộc sống thánh thiện hơn.
Đức Maria và Thánh Êlidabét cho chúng ta biết sức mạnh của việc giao tiếp qua Chúa Thánh Thần, và cho chúng ta biết rằng chúng ta là những người giao tiếp với nhau. Chúng ta không là những ốc đảo, không đơn độc nuôi dưỡng các thánh, mà chúng ta cùng nhau tiến về Quê Hương Thiên Đàng.
Kính mừng Mẹ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ… Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Constance T. Hull,
bản dịch của TRẦM THIÊN THU, từ CatholicExchange.com
Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật Lễ CHÚA BA NGÔI 27/5/2018
(Mt 28: 16-20) Hôm ấy, Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần, nói với các ông:
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
& & &
“Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:
“Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Mai Tá lược dịch
Tiêu diêu như báu vỡ, vẫn cứ là bầu trời huyền nhiệm chốn không gian. Thầm dội đến thâm tâm, nay lại là nhiệm tích Chúa tỏ bày với nhân trần. Như trình thuật lâu nay, rày ghi chép.
Trình thuật, nay ghi chép về huyền nhiệm Chúa Ba Ngôi linh thiêng, khó diễn giải. Huyền nhiệm, là nhiệm tích cao cả tỏ cho dân con nào không cảm nghiệm được để rồi sống. Thế nên, thánh sử Mát-thêu phải dùng ảnh hình chiếc thang của thế giới hầu đạt tới huyền nhiệm, mà cảm kích.
Buổi đầu, vũ trụ ở độ tuổi 13 tỷ năm, vẫn đắm chìm trong tăm tối, kịp đến khi Chúa sờ chạm, nguồn sáng đã trỗi dậy toả ánh thiều quang, rộn sức sống. Thiều quang, là tập hợp các phân tử ánh sáng cứ lăn tăn dội sóng, không phương hướng.
Vào lúc ấy, Chúa bèn định hướng để tạo thành có được năng lượng tràn đầy, mà hướng về đằng trước phía có nhân gian vũ trụ vạn vật. Và từ đó, vũ trụ tuân thủ đường hướng Chúa định đoạt rất phân minh, thành đạt. Trong khoảnh khắc rất nhanh, vũ trụ đã kịp hoà tan/chan hoà vào với nhau phản ảnh phương hướng Chúa đề bạt. Rồi từ đó, sản sinh nên sự sống mới ở đó có sự sống con người, rất trổi bật.
Sự sống Chúa tặng cho vũ trụ, là những “sự” rất sống và rất động, luôn rực chiếu ánh lung linh về hướng trước, nơi có Chúa ngự trị theo phương cách rất Ba Ngôi, vẫn rạng ngời.
Ở với vũ trụ, con người là tạo vật gây nhiều thích thú. Con người không là loài vật chỉ đặc biệt mỗi trí khôn mà thôi, nhưng còn có khả năng mơ ước đặc trưng/biểu tượng để kết chặt với nhau bằng truyện kể đượm mầu thần linh rất kinh ngạc, đáng sợ. Thần linh nhiệm mầu cần “la-bàn định-hướng” hầu dẫn dắt con dân loài người kinh qua chốn miền đầy tâm tưởng. Và thọ tạo “người” cứ hỏi: không biết mình có nên thần phục thần linh, hay không? Không biết mình có tự do chọn quan hệ chỉ với một số vị thần, mà thôi không?
Thiên Chúa lại ban cho con người “la-bàn” ấy. Bằng vào “la-bàn định hướng”, Ngài thiết lập “Giao ước” với con người. Điều đó có nghĩa: Chúa quan hệ với con người không theo cung cách khuynh loát/thống trị, huyễn hoặc hay không tưởng. Ngài chẳng cần ai thần phục Ngài. Nhưng điều Ngài cần hơn cả, là con người nên thực thi tương quan hai chiều. Có được tương quan ấy, con người sẽ tin tưởng vào Chúa là Đấng giúp cho con người có được tự do. Về với lịch sử, con người hiểu biết nhiều sự việc, và từ đó biết tỏ lòng cảm kích, ghi ơn Ngài.
Khám phá ra điều này, có người vẫn chưa biết cách chan hoà/nhào quyện với những người không được như mình, dù họ có tìm mọi cách để tìm hiểu khám phá ấy. Họ đành chọn một trong hai phương cách: hoặc tách riêng sống chỉ một mình, hoặc hợp lực/cộng tác với người khác. Thật ra, thì họ rất cần “la-bàn định-hướng” Chúa ban tặng. Và, Chúa lại tặng ban “la-bàn định hướng” ấy, thêm lần nữa.
La-bàn Chúa tặng, là quà “hiệp thông”/tương quan giúp con người sống hài hoà với người khác mình, nhưng không làm mất đi bản chất tư-riêng của chính mình. Nhờ “Hiệp thông”, con người học được cách yêu thương sống hài hoà với người khác, ngõ hầu trở nên giống mình hơn. Nhờ vào hiệp thông, con người còn có trách nhiệm với thế giới rộng lớn hơn, tức: có trách nhiệm với những người chưa biết hoà mình/trộn lẫn với ai khác. Thế nên, ta cũng hãy nên bắt đầu sử dụng quà “Hiệp thông” Chúa đã ban.
Khi xử sự, con người bắt đầu biết kinh ngạc và tự hỏi: không biết mình có nên kéo dài tương quan hài hoà ấy mãi lâu ngày, hay không? Hoặc, ta chỉ nên kiến tạo thêm cung cách mới cho đời mình? Cung cách mới, tức không phải của người thụ động cứ ngồi đó đợi chờ hoặc nhận lãnh ơn huệ đính hướng?
Nhưng, cũng nên bắt đầu kiến tạo mọi việc chung cùng Chúa? Kiến tạo, là diễn lại những gì xảy ra trong quá khứ, hoặc đem lại những gì mới mẻ cho tương lai của chính mình? Muốn được thế, con người cần đến “la-bàn định hướng” Chúa tặng ban, một lần nữa. Và, Chúa lại đã tặng thêm cho con người thứ “la-bàn định hưóng” mới là “Thần Khí” của Ngài, để con người biết mà chan hoà quá khứ với tương lai, hầu biến nó thành hiện tại. Một hiện tại mang ý nghĩa rất “quà tặng”.
Quà tặng Thần-Khí-Chúa, là quà hiếm quí rất hiện tại nhưng khó diễn bày hoặc nói đến. Bởi, Thần Khí Chúa vượt quá mọi ngôn ngữ. Thần-Khí-Chúa là Hơi Thở đẩy lùi mọi ngọn gió của ngôn ngữ được con người sử dụng để diễn tả mọi chuyện. Ngược lại, Thần Khí vẫn nâng nhấc con người lên, để họ đạt chốn an lành, mà định hướng bước tới về phía trước.
Quà tặng Chúa gửi đến với con người, không đơn thuần chỉ mỗi giống giòng Israel dân Chúa chọn. Cũng không thuần khiết chỉ mỗi Đức Giêsu và/hoặc Hội thánh. Nhưng, “Giao ước” Chúa gửi đến với ta qua dân Do thái, chính là sự “Hiệp thông” Ngài đặt để qua Đức Giêsu, Con Ngài. Và Thần-Khí-Chúa đến với ta ngang qua Thánh Hội, Chúa gửi gắm. Quà Ngài gửi, là để dân con của Ngài có thể đến với người khác, nhóm khác có văn hoá, sắc tộc và đạo giáo rất khác biệt. Quà Chúa gửi, là để con người tạo được ý nghĩa nhân bản cho luồng sáng, thời gian và năng lượng toàn vũ trụ. Quà Chúa tặng, khiến cho con người có được tự do, biết ứng đáp cách sáng tạo, nhạy bén và đổi mới.
Quà Chúa gửi tặng, là cách để Thiên-Chúa-là-Cha trao ban chính Mình Ngài là Đức Chúa cho con người như Giao ước, Hiệp thông và Thần Khí. Chính đó là Chúa Ba Ngôi, vẫn rất thực.
May cho ta, là con người đã nhận ra rằng quà tặng Chúa gửi là do Ngài tặng ban chính Mình Ngài vẫn còn tiếp tục được như thế. Quà-tặng-là-Thần-Khí-Chúa, vẫn hiện diện bên ta, ở đây. Ngay lúc này. Điều không may khác, đó là: con người lâu nay hay gặp rắc rối về những khuynh loát/áp đặt và về sự tự do Chúa ban cho nữa. Con người gặp rắc rối, vì ý tưởng nảy sinh khiến họ phải đi đến quyết định: hoặc xa cách/tách rời “Quà-Tặng-là-Thần-Khí-Chúa hoặc hợp lực/cộng tác với “Quà” của Chúa. Đó, là ý tưởng về việc duy trì quá khứ và kiến tạo tương lai, để rồi mỗi khi ta nhận thức được rằng: Thiên-Chúa-là-Cha, Chúa Con là Lời và Thần-Khí-là-Tình-Yêu đang sờ chạm vào ta cốt để tỏ cho ta biết phương cách mà đến được với Ngài.
Không phải chỉ bây giờ, ta mới về lại với lịch sử để có được cảm giác về Huyền Nhiệm. Nhưng từ đầu, có người lại được thần hứng sử dụng ngôn ngữ trần gian để tỏ bày về Huyền Nhiệm này, dù trước đó họ chẳng bao giờ biết đến Huyền Nhiệm ấy. Và, họ cũng đã tìm hiểu lịch sử vũ trụ xem có gì được đặt thêm vào đó không. Họ tỏ bày về “Danh” Chúa. Về, “Huyền Nhiệm” Chúa Ba Ngôi. Và, về “Tình yêu” của Chúa. Họ gọi Chúa là Cha. Gọi Đức Giêsu là “Con”-của-Chúa-Cha, Đấng gần gũi mật thiết với Cha; và gọi Ngài là “Lời” của Cha.
Họ gọi Tình-Yêu-Thiên-Chúa là Thần-Khí vẫn thổi đầy sinh lực ở nơi Chúa, vào ta và tạo nguồn thần hứng cho ta. Kể từ đó, nhiều vị thức giả trong cộng đoàn dân Chúa lại tìm cách diễn tả Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi cho những ai tìm hiểu triết lý Hy Lạp, đều biết rằng: ở nơi Chúa, chỉ có một Bản chất duy nhất nhưng nơi Ngài bao gồm ba Nhân Vật: một là Chúa Cha, một là Chúa Con hoặc Ngôi Lời, và một là Thần-Khí-Chúa. Các ngài đều quả quyết rằng Ba Ngôi/tức Nhân Vật vẫn chỉ là Một, có quan hệ hỗ tương. Và, Thiên-Chúa-là-Cha đã gửi đến với ta Con Một của Ngài để ta có thể liên hệ cách mật thiết với Ngài. Để, Ngài hướng dẫn cuộc sống của ta ở thế trần, rồi đem ta về với Cha.
Nhưng vấn đề là: không biết Thiên Chúa có thực sự giống thế không? Kitô hữu thời xưa không hiểu rõ điều đó và cũng chẳng chứng mình được gì, nhưng tư tưởng này đáp ứng ý nghĩa của Thiên Chúa mà mọi người dựa vào đó để sống. Vì thế nên, công thức này cũng thánh thiêng/linh đao, vẫn đan kết với truyền thống Giáo hội.
Ngày nay, nếu hỏi rằng ta làm được gì khá hơn không để diễn tả Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi? Có thể không. Không bao giờ. Nhưng, có thể có. Có, qua cung cách nhận thức phát hiện được những điều Chúa Ba Ngôi vẫn thực hiện trong trần thế. Có thể, ta cũng nghĩ là mình có nhiều nhu cầu hiểu biết và diễn nghĩa hơn đồng đạo thời xưa trước. Có thể là, trong tương lai, ta lại có được cảm nghĩ và cảm nghiệm nhiều hơn về công việc của Chúa Ba Ngôi. Đó cũng là điều hay, để hy vọng.
Và rồi, ai ai cũng sẽ ra đi rời bỏ thế giới nhân trần này, để về với Ba Ngôi Thiên Chúa. Và khi đó, mọi người đều sẽ trực diện Chúa biết Ngài là ai? Đấng nào? Và mọi sự có ý nghĩa gì? Trong thời gian chờ đợi đến ngày đó, ta vẫn phải sống với niềm tin mình đang có. Sống chung và cùng với nhóm người đang sử dụng ngôn ngữ Chúa tặng ban. Những người có kinh nghiệm về những ân huệ Chúa gửi đến hầu thúc giục ta cùng với Chúa hướng về phía trước để ta càng nhân bản hơn; càng cùng chung với Chúa, trong mọi việc. Cuối cùng, có lẽ đó là những gì Chúa thực lòng muốn có khi Ngài tỏ rõ cho ta biết Chúa là Cha của ta. Đức Giêsu là Con Một của Thiên-Chúa-Là-Cha, và Thần-Khí-là-Tình-Yêu Ngài hằng ban cho ta.
Để cảm nhận điều này, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên từng diễn tả:
“Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ;
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.”
(Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm)
Đấng Tiên Tri, nay vẫn đứng giảng Phúc Âm Lời Chúa đấy chứ. Giảng, để biết rằng tất cả không là “tiếng vang thầm dội đến thâm tâm”; mà là, tiếng Chúa/tiếng người qua ngôn ngữ diễn bày một huyền nhiệm rất Ba Ngôi. Theo cung cách rất thiêng, và cũng rất người.
Lm Kevin O’Shea DCCT biên-soạn
Mai Tá lược dịch
Chuyện phiếm đọc trong tuần sau lễ Chúa Ba Ngôi 27-5-2018
“Tôi viết tên anh trên lá trên hoa,”
Tôi viết tên anh trong trái tim tôi
Tôi viết tên anh trên đá, trên vôi.
Tôi viết tên em ngập nẻo đường đi ngàn lối.”
(Hoàng Thi Thơ – Tôi Nhớ Tên Anh)
(Mc 15: 40-41)
Trần Ngọc Mười Hai
Nhớ tên anh, tên em hay tên người nào khác cũng vẫn là nỗi nhớ nhung hoài, nhiều vương vấn. Nhớ tên anh, đến độ viết cả “trên gấm, trên nhung”, cũng là điều ít thấy ở nhạc bản, có những lời ca thêm thắt rất như sau:
“Tôi viết tên anh trên gấm, trên nhung.
Tôi viết tên anh trên trán, trên tay.
Tôi viết tên anh trong gió, trong mây.
Tôi viết tên anh vào lòng biển lớn sông dài.”
(Hoàng Thi Thơ – bđd)
Vâng. Có thể là như thế. Cứ viết tên anh/tên em cho thật nhiều ở đây đó, rồi cũng có lúc nhớ đến tên ấy với tên này cả vào khi mưa gió , lúc “trăng thanh”, “có tiếng tơ ngàn” để rồi “đi vào lòng thời gian đầy sắc tím” như câu ca còn hát tiếp:
“Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa.
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”
(Hoàng Thi Thơ – bđd)
Thế đó, là tên của người mà anh hoặc em những thương và nhớ suốt đường dài cuộc đời người. Thế đây, lại là nhà Đạo, người người còn nhớ đến tên ai chăng? Tên, của Đấng thánh hiền đạo-hạnh một thời được mọi người nhắc nhớ, tựa hồ để đề-cao/vinh-danh như câu truyện kể ngăn ngắn có ý-nghĩa.
“Truyện rằng:
Có phóng viên đài truyền-hình nọ bất chợt đến phỏng-vấn cặp vợ chồng nổi tiếng là hòa-thuận, vì chòm xó/láng giềng chả thấy hai người to tiếng với nhau bao giờ hết.
Phóng viên bắt đầu hỏi:
-Xin anh chị cho biết bí kíp nào từng giúp anh chị có cuộc sống gia thất hạnh phúc đến như vậy?
Ông chồng nghe hỏi bèn đáp vội:
-Có gì đâu. Chẳng qua là, mỗi lần vợ chồng chúng tôi có chuyện hục hặc, cơm chẳng lành/canh chẳng ngọt là cứ đưa nhau ra công viên xa vắng ở đó giải-quyết cho xong, mới về nhà. Thú thật với quí vị là: bọn tôi e ngại chòm xóm biết chuyện riêng tư gia đình mình thật không tiện.” (Truyện kể lại cũng trích từ mạng vi tính, rất lền khên).
Vâng. Mạng vi-tính hay vi-sinh đều thấy rất nhiều. Cả đến các chuyện riêng-tư/đạo đời cũng không thiếu. Chẳng hạn như, câu truyện riêng tư của một thừa-tác-viên/tông-đồ thời tiên-khởi cũng được truyền-thông đưa lên mạng hoặ làm thành phim.
Đây, cũng là trường-hợp của đấng bậc tông-đồ phái nữ có tên là Maria Magđalêna được đề-cao, đưa lên báo điện có tên là MercatorNet hôm 26/3/2018 đã kể rằng:
“Cuốn phim mới, có nói bà là vị “Tông-đồ của các tông-đồ”, tức một thần-tượng thuộc phái nữ.
Đây, là Tin Mừng về nhân-vật Maria Magđala theo tầm nhìn của đạo-diễn phim-ảnh người Úc có tên là Garth Davi. Phim bản này, trình-bày về một nữ-phụ trổi-bật của Tin Mừng xuất-hiện trên màn hình lớn, cũng rất sớm.
Maria Magđala, là một nữ-phụ quả cảm từng thách-thức nam-nhân trong gia đình bà được coi là “thày tư-tế” duy-nhất và được phép tháp-tùng các tông-đồ. Đức Giêsu và Maria Mẹ Ngài đã có hiểu biết và tình thương-yêu theo cách đặc-biệt, Mẹ hiểu biết Tin Vui An Bình và tình thương yêu rất mực, trong khi Nhóm Mười Hai chỉ nghĩ về chuyện đánh đổ đám người La Mã mà thôi.
Đức Giêsu đã ban cho bà ơn trổi-bật, kể cả chỗ ngồi bên phải trong bữa Tiệc Tạ Từ (như cuốn The Da Vinci Code từng nói đến) và cũng công-khai để cho bà làm nhân-chứng đầu tiên cho Ngài. Thế nhưng, sau ngày Phục Sinh, ông Phêrô và các người khác đều coi nhẹ vị-thế cũng như quà tặng của bà. Và ngay khi đó, bà đã vượt qua khỏi mọi sự để tham-gia một thứ “lên-đường” của phụ-nữ bằng quyết tâm như thể bảo: “Tôi sẽ không giữ im lặng, nhưng sẽ loan-báo cho mọi người biết.”
Phim trên còn ghi-chú, bảo rằng: dù hồi năm 591 Đức Grêgôriô Cả lại diễn-giải trong một bài giảng bảo rằng: Bà là cô gái điếm, được đề-cập ở Tin Mừng. Nhưng vào năm 2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khẳng-định rằng: Bà là vị “Tông đồ của các tông-đồ”, tức có nghĩa: Bà ngang hàng với các tông-đồ của Chúa…
Thật tình mà nói, phim ảnh về Bà Maria Magđalêna do Đạo-diễn Davis dàn dựng, đã khẳng-định vai trò của phụ nữ trong Giáo-hội khiến ta đi xa hơn các bằng chứng có được từ Tin Mừng. Những gì ta biết về Bà qua Tin Mừng cũng đánh động đủ. Bà là một trong các nữ-phụ được chữa lành “khỏi các thần dữ và các bệnh-tình khác nhau” rồi quyết-định theo chân Đức Giê su và nhóm 12 tông đồ cung-cấp đủ mọi thứ giúp các vị thực-hiện sứ-vụ cao cả ấy. (Lc 8: 1-3; Mc 16: 9)
Bà là một trong ba nữ-phụ được ghi chép là đã đứng dưới chân khổ-giá treo mình Đức Giê su trên cqao trên đồi Calvariô, và hai vị kia là Maria Mẹ Ngài và Maria vợ của Clopas (Gioan 19: 25). Bà Maria Magđala và các nữ-phụ kia vội chôn cất Đức Giêsu vào buổi chiều ngày Sabát rồi sớm trở lại sáng hôm sau dự định thoa thoa dầu thơm lên xác Ngài, thì mộ phần trống vắng, ngay lúc ấy sứ thần Chúa báo cho các bà biết Đức Giêsu đã trỗi dậy, các ngài phải ra đi kể cho đồ đệ Ngài biết. Nhưng họ vẫn chẳng tin…
Đó là những gì ta biết về bà Maria Magđala được nêu cao cùng với nữ-phụ khác và thân-mẫu Đức Giêsu ở Tin Mừng. Và, đó cũng là điều mà nhiều bậc hiển-thánh nay vẫn coi thánh-nữ Maria Magđala là mẫu-mã/thần-tượng để nói về vai-trò của các nữ-phụ trong Giáo hội.” (X. Carolyn Moynihan, MercatorNet 26/3/2018)
Nói cho cùng, đề-cao vai-trò người nữ tên Maria Magđala từng xuất-hiện trên Tin Mừng như một tông-đồ năng-nổ, có nghĩa là: từ nay, Giáo-hội sẽ không còn coi thường vai-trò của phụ-nữ, dù trên lãnh-vực nào đi nữa; nhưng ngược lại, đã đặt cùng hàng với các tông-đồ nổi-bật xưa nay.
Cuối cùng ra, bằng vào công-cuộc thừa-tác đắc-lực của các tông-đồ nữ như Maria Magđala, Giáo hội nay cũng sẽ cất cao lời hát vang vọng của người đời mà rằng:
“Anh, lớp trai ngày nay
Đắp xây ngày mai.
Đem tự do cho người
Mang niềm vui cho đời.
Và, cũng từ đó, sẽ lại ghi nhớ tên anh/tên em, tên các đấng-bậc năng nổ, cả nam lẫn nữ, rằng:
“Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa.
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”
Vâng. “Đời đời còn nhớ nhung hoài”, vẫn cứ là câu hát nhắc nhở mọi người hãy “nhớ nhung hoài” về nhiều chuyện. Những chuyện, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc con dân đi Đạo bằng một động-thái hơi khang-khác nhưng cũng vẫn là nhắc nhở, như tin-tức trên báo/đài ở Úc cũng đã ghi:
“Mới đây ĐTC Phanxicô đã cập nhật hoá vị thế của Thánh Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống, ngoài những trách nhiệm đã có được bổ túc thêm vai trò cổ xuý việc suy nghĩ sâu xa hơn về vị trí của phụ nữ trong giáo hội và xã hội, đặc biệt nhấn mạnh đến “tính chất thiên tài” của phụ nữ để kêu gọi sự đóng góp của họ.
Vai trò mới được ĐTC phê chuẩn trên căn bản thử nghiệm và đượng Toà Thánh phổ biến hôm 8 tháng 5 và sẽ bắt đầu có hiệu lực kể tử chủ nhật 13 tháng 5, ngày Hiền Mẫu. Thánh Bộ hiện do Đức Hồng Y người Mỹ là Kevin J Farrell cầm đầu. Quy chế mới, đòi Thánh Bộ phải có ít nhất hai thứ trưởng là giáo dân, mới được.
Thánh Bộ cần duy trì các mối dây liên lạc với các Hội Đồng Giám Mục Đia Phương, với các giáo phận và các tổ chức khác trong giáo hội để khuyến khích sự hợp tác giữa họ. Quy chế mới cũng kêu gọi Thánh Bộ đưa ra những chỉ dẫn trong các chương trình đào tạo hôn nhân và cho các đôi vợ chồng mới cưới.
Ngoài ra Thánh Bộ còn có trách nhiệm khác cho thấy “việc chăm sóc mục vụ cho các trường hợp hôn nhân bất thường, kể cả trường hợp sống chung chưa có giấy chính thức, hoặc trường hợp ly dị, tái-giá theo luật đời, thánh Bộ cũng có trách nhiệm chăm sóc giới trẻ, khuyến khích họ tham gia các sinh-hoạt của giáo hội cũng như xã hội.” (X. Cindy Wooden,Pope asks Vatican group to examine role of women in the Church, catholicherald 8/5/2018 Vũ Nhuận chuyển ngữ)
Về vai-trò của nữ-phụ trong cơ-chế Giáo-hội, là chuyện không thể kể cho hết trong đời người đi Đạo. Nói và nhắc nhớ nhiều lần, còn là khẳng định của đấng bậc vị vọng nọ từng viết về phong-trào phụng thờ Mẹ và Con của Ralph Woodrow, như sau:
“Một trong các ví-dụ thấy rõ nhất về đạo ngoại-thần của văn minh Babylon đã xâm-nhập vào với Giáo-hội La Mã đến nỗi Đạo Chúa ở đây đã sáng-chế ra lối phụng thờ Đức Nữ Trinh Maria thay thế cho việc thờ-phụng các nữ-thần làm mẹ.
Chính vào lúc, chúng dân người Babylon tản mát khắp nơi trên trái đất, họ họ đem theo đủ mọi chuyện về nữ-phụ trong đó có việc thờ thánh mẫu và người con nhỏ của Bà. Điều này cắt nghĩa tại sao nhiều quốc gia trên thế-giới lâu nay đã thờ kính Mẫu-thần và Con của Bà theo cách này hay cách khác suốt nhiều thế-kỷ trước khi Đấng Cứu Thế đích-thực là Đức Giêsu sinh ra đời!
Tại nhiều nước trên thế-giới, việc sùng kính “Mẫu thân và Con của Bà” được lan rộng và được đặt theo tên gọi của mỗi quốc-gia, mỗi phong-tục/tập-quán của địa phương, do bởi ngôn-ngữ của con người phàm đã thay-đổi xảy từ sự kiện ngọn tháp Babel. Người Hoa gọi Mẫu-thần của họ là “Shingmoo” hoặc “Đức Thánh Mẫu”.
Người Đức cổ lại cũng tôn-thờ Nữ Trinh Hertha bồng trẻ bé trên tay Bà. Người Scanđinavia cũng tôn-thờ thần Disa của họ theo hình thù bà mẹ bế con. Người Êtruscan gọi vị ấy là Nutria và người Druids gọi Nữ Trinh Patitura của họ là “Mẹ của Đức Chúa”… (X. Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion, Ralph Woodrow 1981 tr. 13)
Nói về người nữ, luôn có nhiều điều để nói và để kể. Nói, là nói về triết-lý, thần-học và pháp-lý, ôi thôi chẳng bao giờ hết. Cũng hệt thế, kể các truyện có liên-quan đến sự khéo léo/tế-nhị hoặc cá-tính riêng biệt của phụ-nữ, sẽ không bao giờ cạn.
Thôi thì, hôm nay, bần đạo bầy tôi đây chỉ xin nói và ghi lại một truyện đã được kể từ nhiều tháng ngày vào buổi trước rất nhiều lần để minh-họa cho bài viết, như sau:
“Một người đàn ông hôm ấy đến gặp bác sĩ tâm-lý than-phiền về những khó khăn mình gặp, rằng:
-Thưa bác sĩ, không biết tại sao đêm nào tôi cũng mơ chuyện vớ vẩn như quái vật mang hình đàn bà ngồi cạnh giường khiến tôi không ngủ được, cả tháng nay.
Bác sĩ suy nghĩ một hồi, rồi từ tốn nói:
-Được rồi. Tôi nghĩ bệnh của anh có thể trị dứt ngay lập tức. Nhưng có điều là chí phí điều-trị sẽ khá cao và dao-động khoảng từ 20 đến 30 ngàn đô, chứ chẳng chơi.
Người bệnh bèn kêu thất thanh lên rằng:
-Ấy chết Làm gì dữ vậy bác sĩ, 30 ngàn đô sao mắc dữ vậy? Tự dưng, tôi thấy không cần-thiết phải xua đuổi quái vật đội lốt đàn bà nữa. Suy cho kỹ, thì: gọi là quái vật chứ nó cũng có điểm đáng yêu, đấy chứ. Thôi, để tôi về nhà và cố gắng làm bạn với quái-vật ấy, là xong ngay. Có điều, hơi lấn cấn với bà vợ ở nhà một chút, bác sĩ nhỉ?
Bác sĩ nghe vậy, chẳng biết nói sao cho người bệnh an lòng.” (Lại một truyện kể rút trên mạng)
Kể truyện vui vui hoặc nói với nhau nhiều điều, cũng chỉ để nhắc nhau nhiều điều bằng ca-từ ở trên, cứ hát tiếp:
“Tôi viết tên anh trên lá trên hoa,
Tôi viết tên anh trong trái tim tôi.
Tôi viết tên anh trên đá, trên vôi.
Tôi viết tên em ngập nẻo đường đi ngàn lối.
Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa.
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”
(Hoàng Thi Thơ – bđd)
“Tôi nhớ tên anh/tên em” và/hoặc tên các nữ-tông đồ ở Tin Mừng, tức: vẫn còn nhớ lời đấng thánh hiền từng nói ở Kinh/Sách như sau:
“Có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn,
trong đó có bà Maria Magđala,
bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Giôxết,
cùng bà Salômê.
Các bà này đã đi theo
và giúp đỡ Đức Giêsu khi Ngài còn ở Galilê.
Lại có nhiều bà khác
đã cùng với Ngài lên Giêrusalem,
cũng có mặt tại đó.”
(Mc 15: 40-41)
Các đấng tông-đồ vị vọng phái nữ có mặt nhiều lần, nhiều nơi bên cạnh Chúa. Các bà có mặt ở đó, không chỉ để chiêm-ngắm những việc Chúa làm bằng mắt thịt người phàm mà thôi, nhưng vẫn là công-việc thừa-tác các bà từng làm còn đắc-lực hơn các tông đồ phái nam, nữa.
Thế đó, là chuyện không chỉ để phiếm đại cho xong mà thôi; nhưng, còn là niềm vui nhắc nhớ để ta lại sẽ viết tên nhau trên lá/trên hoa, trên tất cả mọi thứ ở đời, khiến người người cứ viết hoài viết mãi, rất không ngơi.
Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ viết nhiều điều để phiếm.
Phiếm rất nhiều.
Phiếm lai rai, dài dài
Không biết chán.