TẠI SAO NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔN NGOAN LUÔN KHAO KHÁT ĐI LỄ HÀNG NGÀY?

TẠI SAO NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔN NGOAN LUÔN KHAO KHÁT ĐI LỄ HÀNG NGÀY?

​Một bà cụ kia rất thánh thiện, đạo đức nhưng lại bị đau chân không tự đi Lễ được.

Bà hay nhờ con dâu chở đi Lễ hàng ngày và thường nói với con dâu: 

“Con à, cuộc đời không có Chúa thì vất đi hết. 

Đẹp rồi cũng ra đất. Xinh rồi cũng thành bùn.

Giàu rồi cũng không đem đi được nổi 1 xu. 

Sang rồi cũng chẳng có ích lợi nghĩa lý gì.

Có làm vương làm tướng rồi cũng sẽ về với cát bụi. Có đẳng cấp và hoành tráng mấy đi nữa rồi cũng phải trở về với cõi hư vô. Có sở hữu cả thế giới thì cũng phải tay trắng ra đi.

Như con biết đó, Giám mục cũng chết, Linh mục cũng chết, Tổng thống cũng chết, Đại gia cũng chết,  bà sơ cũng chết, ông thầy cũng chết… ai rồi cũng phải chết.

Chết là hết con ạ. 

Không có việc gì bận bằng việc Chúa. 

Cho nên dù có bận mấy thì cũng cố gắng sắp xếp mà đi Lễ nhé. Đặc biệt là không bao giờ được phép bỏ Lễ Chúa Nhật và những ngày Lễ Trọng vì bất cứ lý do gì.

“Vì nếu người ta sở hữu cả thế gian, mà phải thiệt mất Linh hồn của mình, thì có ích lợi gì?” “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy Linh hồn mình?” (x Mt 16,26).

Vì sẽ có lúc, con muốn đi mà cũng không đi được đâu. Như Mẹ đây này, giờ muốn tự đi cũng không đi được. 

Có con chở đi nên mẹ vẫn còn rất may mắn. Nhiều người bị liệt khao khát đi Lễ mà không bao giờ đi được nữa. Quá muộn rồi.

Rồi con cứ nhìn các ngôi mộ mà xem. Những người nằm trong đó có muốn đi thì cũng không bao giờ đi được nữa. Quá muộn rồi.

Hơn nữa, ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa gọi ta về, biết đâu ngay đêm nay thì sao? 

Giờ chết trẻ, chết đột ngột, chết bất ngờ, chết ngỡ ngàng nhiều quá, nhiều vô kể.

Thậm chí 18 đôi mươi đã chết, khỏe cũng lăn đùng ra chết, sáng đang khỏe chiều đã chết, đêm ngủ sáng dậy đã chết, nên ta cần nhanh chóng đi Lễ hàng ngày để Chúa ban ơn và để đền tội. 

Nhưng hãy luôn đi Lễ cách thành tâm, cung kính, khiêm nhường và sốt sắng thì mới có hiệu quả.

Con còn nhớ lời Chúa Giê-su phán chứ?

“Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ của mình”. (Mt 5, 23-24). 

Nếu không thì việc dâng LỄ của con sẽ trở nên hết sức tốn thì giờ và vô nghĩa như nước đổ đầu vịt, và sẽ không thể đẹp lòng Chúa được.

Con cứ chăm chỉ lo các việc của Chúa, Chúa sẽ sẵn sàng lo các việc của con.

Mẹ rất cám ơn con, vì nhờ có con mà Mẹ mới được đi Lễ hàng ngày. 

Mai sau mẹ có được vào Thiên đàng thì một phần cũng nhờ ở con. Rồi mẹ sẽ phù hộ cho con”.

Kính thưa quý bà con cô bác!

​Chính những câu nói tuy đơn giản, nhưng thực tế và sâu sắc đó đã khắc sâu vào tâm trí cô con dâu thảo hiền của bà cụ và cô ấy đã say mến Thánh Lễ từ đó.

Vậy Người Công Giáo đi lễ để làm gì?

Đi Lễ là để gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau.

Đi Lễ là để nghỉ ngơi phần xác và nuôi dưỡng phần hồn.

Đi Lễ là để lắng nghe lời Chúa dạy cho cuộc sống ta bớt nhàm chán và sai lầm, thêm lạc quan và có ý nghĩa.

Đi Lễ là để được rước Mình Máu Thánh Chúa để Chúa làm chủ tâm hồn và cuộc đời.

Đi Lễ là để được Chúa chúc lành và tuôn đổ muôn ơn phúc.

Đi Lễ là để được Chúa ban cho sức mạnh để vượt qua cám dỗ, thử thách và đau khổ.

Đi Lễ là để được Chúa ban cho niềm vui, bình an và hi vọng.

Đi Lễ là để cầu cho ông bà tổ tiên, người thân bạn hữu được rỗi Linh hồn.

Vân vân và vân vân…

Thánh Lễ là trung tâm điểm và cao điểm nhất của đời sống Đạo.

Chính Thánh Bênađô đã nói: Người ta được nhiều công phúc khi dự Lễ sốt sắng, hơn khi người ta bố thí tất cả của cải mình có cho người nghèo, và hơn đi hành hương trên khắp thế giới.

Rồi Thánh Anselmo cũng nói: Dâng 1 Thánh Lễ sốt sắng khi còn sống, ơn ích hơn cả ngàn Thánh Lễ khi đã qua đời.

NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔN NGOAN LÀ NGƯỜI BIẾT SAY MÊ THÁNH LỄ.

NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔN NGOAN LÀ NGƯỜI KHÔNG BỎ LỄ CHÚA NHẬT.

NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔN NGOAN LÀ NGƯỜI LUÔN DỰ LỄ SỐT SẮNG.

ĐI LỄ LÀ ĐI CHO MÌNH. AI ĐI LỄ NGƯỜI ẤY ĐƯỢC ƠN. 

Chính Thánh Augustino đã khuyên:

Hãy chăm sóc tốt thể xác nếu bạn muốn sống lâu. Nhưng hãy chăm sóc tốt linh hồn, vì có thể bạn sẽ chết vào ngày mai.

Hãy chăm sóc Linh hồn tốt hơn thể xác, vì thể xác thì sẽ hư nát, còn linh hồn thì mãi bất tử.

Hãy đi Lễ ngay, vì rất có thể ngày mai bạn không còn cơ hội đi Lễ đâu. Cuộc đời ai biết đâu ngày mai?

Nhưng hãy luôn đi Lễ cách khiêm nhường, khao khát, thành tâm và sốt sắng thì mới có hiệu quả.

Giuse Kích

(Nếu thấy ý nghĩ cho chính mình và mọi người, thì xin đừng quên Tạ ơn Chúa, rồi nhanh chóng chia sẻ cho người khác. Và xin cầu cho nhau)

“Trời hỡi, nhờ ai cho khỏi đói,”

Suy Tư Chúa nhật thứ 16 thường niên năm B 22/7/2018

(Mc 6: 30-34) Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

+   +   +

“Trời hỡi, nhờ ai cho khỏi đói,”

“Gió trăng có sẵn, làm sao ăn?”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 Ở nhà thơ, thực phẩm nuôi dưỡng chính mình phải chăng là trăng gió, từng có sẵn? Nơi nhà Đạo, thức ăn cho mọi người nhất định là ân lộc Chúa ban, vẫn lan tràn ngày lễ hội. Thế đó, là ý tưởng chủ lực được thánh Máccô ghi lại ở trình thuật, rất hôm nay. 

Trình thuật hôm nay được biết dưới tên gọi là: “Phép lạ thật nhiều bánh”. Nhưng, với thánh Máccô, sự kiện này được gọi là “Lễ Hội nay phân phát”. Thật ra thì, ý của tác giả là: dù mọi người có đặt tên cho đó là “phép lạ” hay “chuyện lạ” đi nữa, cũng cứ nhủ: hãy phân phát và cho đi những gì mình đang có, tự khắc lúc đó ta sẽ đủ để phân phát cho mọi người. Đọc trình thuật, nay người đọc không thể không nghĩ đến Tiệc Thánh Thể, lễ hội cho đi và phân phát, hết mọi người.

Quả thật, trong 5 tuần tới, phụng vụ Chúa nhật sẽ bớt đi phần trích dẫn Tin Mừng theo thánh Máccô, nhưng thay vào đó là lời trình của thánh Gioan về “Bánh Sự Sống”. Nếu, đọc thêm chương 6 Tin Mừng này, người đọc không thể không nghĩ đến Tiệc Thánh Thể, cũng là chuyện thấy rất rõ. Nói khác đi, trong 5 tuần sắp tới, người dự Tiệc lại sẽ suy tư về một loạt trình thuật thuộc loại “bỏ túi”, trong đó tác giả đề cập nhiều về Tiệc Thánh để người tham dự sẽ nhận chân ra ý nghĩa việc mình làm.

Trình thuật hôm nay ghi về sự kiện Chúa tụ họp chúng dân theo Ngài vào buổi tiệc lớn ngoài trời theo dạng “picnic”, trước khi phân bổ Mình Ngài cho mọi người. Nhưng vấn đề là hỏi: sao “tiệc ngoài trời” hôm ấy lại quan trọng đến thế? Tham dự Tiệc, phải chăng để sẻ san hân hoan nhận bánh trái? Và tụ họp mừng kính Chúa ở đây, hôm nay, có ý nghĩa của một sẻ san phân ban Mình Chúa cho người khác không?

Thật sự thì, việc tụ họp ở đây, ngày của Chúa, là để dự Tiệc Thánh, chứ không phải để chầu kính hoặc cầu kinh như nhiều vị vẫn tưởng. Tụ họp dự Tiệc ngày của Chúa, không phải để cộng đoàn sùng bái hoặc tung hô đấng thánh nào ở ngoài làng. Tụ họp để dự Tiệc, rất không giống bất cứ buổi họp hành nào được giới chức chủ trương, dù người dự đều rất thích, vẫn đam mê. Tựu trung, tập họp để dự Tiệc là để cùng Chúa chung vui một hiện diện, nhưng không theo cung cách chủ quan tư riêng của người dự; càng không giống động thái tham dự họp mặt nặng tính chất chính trị, gia đình hoặc giòng tộc; cũng chẳng như sự kiện thể thao/văn hoá hay nhạc hội nào hết.

Đến dự Tiệc, người tham dự không đến vì lý do gia đình hoặc kiếm tìm lợi lộc cho riêng mình; cũng chẳng để duy trì vị thế, chức vụ lâu nay mình dính kết. Mà, đến dự Tiệc, là cùng chung vui hiện diện có nghi thức phụng vụ tươi mát, hấp dẫn do hội thánh chủ trương.

Đến dự Tiệc, người tham dự không khai sáng/định đoạt một loại hình nào hầu lôi cuốn người khác đến để thưởng lãm. Nhưng trái lại, người dự Tiệc đặt chân đến nơi đây là để đáp lại lời Chúa mời gọi. Thế nên, Tiệc-Thánh-Thể-vào-ngày-của-Chúa cũng sẽ không thành hiện thực, nếu Chúa không mời chào, ban bảo. Chúa mời chào mọi người đến với Ngài, để họ trở thành dân con được Ngài chăm chút chứ không là người bình thường bậc trung, thôi.

Dự Tiệc Thánh, được hiểu như tham dự buổi tiệc đặc biệt Chúa mời chào để mọi người đến với nhau mà ở bên nhau, cho lâu. Tiệc Chúa chào mời, là để người người có cơ hội trở thành Kitô-khác và rất vui vì mình có mặt với mọi người. Dự Tiệc Thánh, dân con Chúa được hiệp thông chung sống thời khắc có Cha, có Chúa, có cả Thần Khí Ngài nữa. Tham dự Tiệc, có thể dân con Chúa không nghĩ ra được như thế. Nhưng đó là chuyện thật. Có được sự thật như thế, người tham dự mới thấy đó là chuyện cần thiết, tích cực; để rồi, khi tan Tiệc, mọi người mới ra đi rao truyền việc Chúa vẫn ở với ta, và trong ta.

Tham dự Tiệc, còn là dịp để ta nhớ lại thời khắc xưa lúc dân con người Do thái tụ tập ở Sinai núi thánh sau lưu đày, nhiều bức bách. Tập họp nơi đó, để họ gia nhập vào với Giao Ước của Chúa hầu thờ kính chỉ mình Ngài, mà thôi. Ở núi thánh, dân con Do thái cũng cử hành lễ Vượt Qua, giống hệt Chúa. Ở trên đó, có công bố Lời Chúa và có cả kinh nghiệm sống khoảnh khắc ưu tư/phiền muộn, vào một thời. Ở trên đó, còn có cả Giao ước mới để người người theo đó mà thực thi.

Tham dự Tiệc, còn khiến người dự tưởng nhớ buổi Tạ Từ hôm ấy Chúa tụ họp đồ đệ Ngài lại mà mừng lễ Vượt Qua, một lần cuối, để rồi Thày Chí Ái lại đã đem Tình Thương Yêu vào Giao Ước có Chúa, có đồ đệ ký kết bằng một hiện diện. Xem thế thì, Tiệc Thánh Tạ Từ đã trở thành bí tích cho mọi Tiệc sau này về sau.

Kể từ đó, những gì được hiện thực nơi Tiệc Thánh, đều do Chúa chào mời mọi người đến để hiệp thông với Chúa. Đến, để ghi tên người tham dự vào sổ bộ gồm danh tánh của người anh em, dân con Ngài. Đó là lý do để ta tụ họp mừng kính ý nghĩa Vượt Qua thật sâu sắc, rất hiện tại. Đó, cũng là động thái căn bản mang tính vui tươi cứu độ. Bởi, người được cứu nay đã ở bên nhau. Đó, cũng là ý nghĩa Chúa “Vượt qua” mọi trở ngại để đến với ta, và nhờ đó ta đến được với Ngài để có sự sống rất mới. Và như thế, sẽ không còn ai bị cái chết đe doạ hành hạ nơi sầu buồn. Không đến dự, dân con Chúa không thể trở thành con người đích thực, được Chúa khuyến khích.

Lại nữa, người Công giáo chỉ là Kitô-khác, nếu họ nhận lời Chúa chào mời tụ họp mừng kính cuộc Vượt Qua của Ngài. Bằng vào tụ họp tham dự, họ trở nên đúng danh xưng Kitô-hữu dành cho người trong cuộc mà thôi. Chúa chào mời mọi người, cả Hy Lạp lẫn Do Thái. Cả tự do lẫn tôi đòi, hoặc nô lệ. Cả nam lẫn nữ, tất cả được hiệp thông với Chúa, không loại trừ cũng chẳng bỏ sót người nào. Đó, là lý do khiến tình huynh đệ giữa người dự mang trọn mọi ý nghĩa chứ không chỉ ý nghĩa làm người, thôi. Đó, cũng là kinh nghiệm rất mới. Kinh nghiệm hiệp thông thương yêu vào với Chúa Phục Sinh, rất đặc biệt.   

Tiệc Thánh Thể bắt đầu bằng sự kiện nến đèn được thắp sáng. Ở Tiệc Thánh, còn có cả ánh sáng của người tham dự vẫn toả chiếu nơi gian trần. Toả chiếu, để người trần biết đến mục đích của sự sống con người cốt làm sáng tỏ lời Chúa chào mời mọi người gia nhập cuộc sống của Chúa. Tham dự Tiệc, là tham dự lễ Chúa Vượt Qua giữa thế giới là nơi Ngài vượt khỏi nỗi chết để đến với sự sống. Vượt khỏi bóng tối đến với sự sáng đang hiện thực ở buổi Tiệc.

Cộng đoàn dự Tiệc không đến một mình, nhưng đến thay cho nhân loại đang kiếm tìm ơn cứu độ và sự sống. Bởi thế nên, khi dự tiệc Vượt Qua, toàn thể vũ trụ đều đã đến dự, để cảm kích. Tiệc Vượt Qua được cử hành không để ta chỉ nhớ mỗi Đức Kitô, mà cả những người vẫn đang nguyện cầu cho nhân loại, dù họ còn sống hay đã chết. Dù, họ có mặt hay khiếm diện. Dù già nua/có tuổi, cảnh đời có khác.

Tham dự Tiệc, còn là tụ họp nhau lại để chứng tỏ cho mọi người biết vai trò cốt thiết của họ trong vũ trụ. Người dự Tiệc, đem tiếng nói và lời nguyện cầu đến với mỗi người và mọi người ở bất cứ đâu. Người dự Tiệc, đã nói lên tiếng nói rất hiện tại cả nơi hoang sơ, vắng lặng. Không chỉ nói, họ còn đem hy vọng và ủi an đến với người ốm đau, sầu khổ. Và, những người đang đi dần vào cõi chết. Người dự Tiệc hỗ trợ cho người đang bị cám dỗ, bức bách. Làm như thế, là họ đã cảm tạ Chúa vì được sống an vui, hiền hoà, êm ấm. Đó, còn là bí tích Tình yêu dành cho người đói khát muốn yêu, nhưng chưa được.

Có dự Tiệc, nhân loại mới thấy mình không bị đe doạ thiếu cơm ăn/áo mặc, thời buổi này. Có dự Tiệc, người người sẽ không còn ưu tư lo lắng về mọi xung đột/tranh chấp về vị thế hoặc chỗ đứng trong đời. Bởi, tất cả mọi sự rồi cũng được giải quyết. Mọi ước vọng sẽ thành hiện thực. Bởi, tình thương huynh đệ sẽ chữa lành tất cả. Bởi, Tiệc Thánh vẫn là chốn đổi thay sự sống của con người. Bởi, Chúa có mặt ở buổi Tiệc, Ngài sẽ biến chốn này thành nơi thông báo Tin Vui an bình. Có được Tin Vui rồi, người dự Tiệc lại sẽ chuyển cho người khác biết Tin Mừng Ngài muốn gửi. Dự Tiệc Thánh, người tham dự sẽ trở nên một với Chúa, với mọi người. Có thể nói, dự Tiệc Thánh là thưởng ngoạn trước Tiệc càn khôn của vũ trụ.

Và rồi ra, ta sẽ biết sự sống là tiến trình của sự nhận lãnh, sẻ san, cho đi. Đó, là cơ bản của hiệp thông/trao đổi giữa người nhận Quà từ Đức Chúa. Là, niềm vui cảm kích vì chính mình được vào với Quà tặng và đã biến chính mình thành quà tặng cho người khác.

Con người không là hữu thể tự có để họ duy trì mọi sung mãn cho riêng mình. Con người là hữu thể đến từ Đấng khác và dành cho người khác, cho đến khi họ khám phá ra rằng Người Khác ấy là Đấng Cận Thân và Cận Lân với mình. Bởi, tất cả đều sẽ tụ họp về với Tiệc Thánh, để mọi người trở nên chính mình, như thánh Âu Tinh đã từng nói: “Chúng ta ở trong Đức Kitô khi Ngài yêu thương Chính mình Ngài. Và, mỗi khi ta tự sung mãn với chính mình, đó là lúc ta đang nghèo đi hiểu theo nghĩa sự sung mãn đã cách ly. Và, đó là nền tảng của mọi hiệp thông với Chúa, với mọi người.

Tiệc Thánh, dù diễn ra hằng ngày hay hàng tuần, vẫn không là Tiệc bình thường, hoặc tầm thường. Thế nên, chớ rời xa nơi xẩy ra “Sự lạ nhiều Phân Phát”. Phân và phát, những bánh cùng trái ở trên đồi Galilê hôm ấy. Bởi, đó chính là Tiệc Chúa thực hiện trước. Đó là buổi tụ họp tuyệt vời, ở mọi nơi. Cảm nhận như thế, có lẽ cũng nên ngâm lại lời thơ đầy ý nghĩa, vẫn cứ bảo:

                                          Gió trăng có sẵn, làm sao ăn?

                                   (Hàn Mặc Tử – Lang thang)

Nhờ ai cho khỏi đói ư? Đói hay không, chỉ người phàm ăn cứ ngấu nghiến hết mọi thứ, chẳng sẻ san những gì mình đang có cho mọi người. Thế nên vẫn còn đói, dù gió trăng sẵn đó, làm sao ăn. 

            Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn –

Mai Tá lược dịch

“Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng?

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 16 Thường niên năm B 22-7-2018

 “Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng?

(Mc 10: 14-16)

Sẽ ra sao, nếu ta đổi tên Sàigòn thành “Hội thánh”, chắc cũng buồn cười chứ? Dạ, không. Buồn thì có, chứ cười thì không? Hoặc, có buồn nhưng chẳng cười chút nào, là bởi nội mỗi nhắc đến nhạc bản có cụm từ “Sàigòn bây giờ” thôi, cũng muốn nghe hát thêm những chữ như sau:

“Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Sài Gòn bây giờ ai khóc thương ai?
Sài Gòn giới nghiêm che kín đêm dài.
Sài Gòn khói bay, Sài-gòn nắng đổ.
Sài Gòn có còn bước chiều bơ vơ.
Sài Gòn còn ai khóc kẻ lên đường.
Sài Gòn mưa chiều rạt rời vó ngựa.
Sài Gòn âm thầm, đèn đỏ đèn xanh.
Sài Gòn mưa bay, thôi thế cũng đành.
Giấc ngủ miền xa, ôm trời núi rừng.
Bên rừng nhớ nắng trung nguyên.

Và, cứ thế người hát lại vẫn tiếp tục hát thêm những lời như:

Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Sài Gòn bây giờ cúi mặt xa nhau.
Sài Gòn bước ai gõ xuống đêm sầu.
Sài Gòn bóng nghiêng, Sài Gòn đứng đợi.
Sài Gòn bây giờ cúi mặt xa nhau.
Sài Gòn đã buồn khi trời sớm mai….
…Sài Gòn có còn bước chiều bơ vơ…”

(Lê Uyên Phương/Kim Tuấn – bđd)

Hát về Sài gòn, thì thế chứ nếu ta đổi lại thành “Hội thánh Chúa”, hoặc hỏi han, lan man những câu vớ vẩn, lẩn thẩn như văn thơ thời buổi trước có những giòng sau đây:

Trong thế giới văn học của người Hoa, thi sĩ Dư Quang Trung được coi là một trong những nhà văn kinh-điển ở thế-giới văn-học đương-đại có ảnh-hưởng sâu rộng đối với nền văn học Đài Loan cũng như Trung Quốc và Hồng Kông. Các tác-phẩm của ông đều truyền đi một thông-điệp nhân bản sâu-sắc.

 Dưới đây là bức thư gửi cho con ông. Ai đọc những giòng này đều có ý nguyện muốn sống tốt, sống đẹp hơn.

 “Con à, cha mong rằng con sẽ mãi là một người có lý tưởng, con có thể là nông dân, kĩ sư xây dựng hay thậm chí là một kẻ lang bạt, nhưng bắt buộc con phải có lí tưởng.

 Lúc con còn nhỏ, cha mẹ thường kể cho con nghe về những vị anh hùng, điều đó không có nghĩa là cha mẹ muốn con trở thành anh hùng, mà chỉ hi vọng sau này lớn lên con sẽ trở thành một người có phẩm chất chính trực, tốt đẹp.

 Khi con dần lớn lên, cha mẹ cho con tiếp xúc với thơ ca, hội họa, âm nhạc vì mong rằng tâm hồn con trở nên hướng thiện và sẽ theo con đi tới suốt đời. Ngay cả khi đối diện với sự lạnh giá khắc nghiệt nhất, cha mong con cũng sẽ không quên hương thơm của hoa hồng. Nền tảng đó giúp con người trở nên xuất chúng.

 Con à, đừng vì ngoại hình của mình mà buồn rầu, bởi lí tưởng thuần khiết mới là khí chất của con. Vẻ đẹp dung tục bề ngoài chỉ khiến con người ta sinh ra thói xấu. Cuộc đời và lí tưởng thường không được như ý muốn của con người.

 Có thể con sẽ phải trải qua những gian khổ, những thăng trầm nhưng con à, con cứ dùng hết sức để cống hiến, bởi lẽ cái kết của một người có lí tưởng có thể bi thảm nhưng tuyệt đối sẽ không đáng thương.

 Trong cuộc đời nhiều khó khăn này, con sẽ gặp nhiều người trí thức và quân tử, con sẽ chiêm nghiệm thấy nhiều điều kì diệu mà người khác không thể cảm nhận được. Những lựa chọn bình thường sẽ không đem lại màu sắc gì cho cuộc đời con.

 Đừng vì những lợi ích nhỏ nhặt mà đánh mất lí tưởng con nhé, cũng đừng vì trào lưu nào đó mà thay đổi niềm tin. Thế giới vật chất bên ngoài quá phức tạp, con phải học cách từ chối những cám dỗ của danh vọng tiền tài. Lí tưởng không phải là món đồ có giá trị tiền bạc và thường không thể mang lại cho con niềm vui trần tục. Vậy nên mong con đừng bị ảnh hưởng bởi những thói đời hư danh và hãy học cách khác biệt với người khác.

 Cha cũng mong con là một người có thể tự mình bước đi, bởi vì cuộc đời quá ngắn ngủi mà những thứ hư không lại rất nhiều, sẽ khiến con lóa mắt, không tỉnh táo, để rồi cuối cùng lại chẳng có gì trong tay.

 Nếu con là một cô gái xinh đẹp, khi con còn trẻ sẽ có nhiều chàng trai yêu chiều, nhưng những thứ con có được quá dễ dàng sẽ khiến con trở nên nông cạn, kém cỏi và thích những thứ tầm thường, phù du. Nếu con là một chàng trai thông minh, con sẽ nghĩ rằng tự mình luôn có thể làm nên việc việc lớn mà xem nhẹ, coi thường mọi thứ.

 Con hãy nhớ kĩ, năng lực của con người có hạn, sống trên đời hãy tận tâm mang lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống.

 Là văn nghệ sĩ hay là nội trợ, đừng coi thường những người khác, cũng đừng đầu cơ trục lợi. Khi trưởng thành con sẽ biết, làm tốt một việc thực sự rất khó, nhưng đừng bao giờ cho phép mình bỏ cuộc.

 Con phải biết trân trọng cảm xúc, dù là nam hay là nữ, một khi đã chấp nhận kết giao thì không nên thay đổi, hãy chung thủy một lòng.

 Trong quá trình kết giao bạn bè, ắt sẽ có những lúc va chạm, hiểu lầm, con hãy nghĩ lại, trong thế giới rộng lớn này, vì sao chỉ có thể kết bạn với mấy người? Con cần phải biết bạn bè cũng có lúc rời xa, trong cuộc đời này có người ở bên con nghe con nói chuyện, hoặc nói cho con nghe, là một điều tốt đẹp, con nên cảm kích những người ở bên con như vậy.

 Con nên biết trân trọng bản thân và yêu thương mọi người, thấu hiểu bản thân và những người xung quanh. Con phải học cách rơi nước mắt, học cách đối diện với bi kịch, bởi bi kịch sẽ làm tâm hồn con thêm phong phú. 

Cha mong con không phải là một kẻ tầm thường chỉ biết lấy lòng và xu nịnh người khác. Nếu một ngày con bỗng có nụ cười xu nịnh thì chắc chắn cha phải che mặt vì xấu hổ. Trong cuộc đời, dù có rất nhiều thứ hào nhoáng nhưng bản thân chúng không hề có giá trị. 

Làm người, cha mong rằng con sẽ không ngắt lời của người khác, cũng không nhu nhược yếu đuối, và phải bền chí chịu được gian khổ. Mỗi ngày ít nhất con nên dành ra hai tiếng đồng hồ để đọc sách, viết thư hoặc hồi âm cho bạn bè. 

Con không nên lúc nào cũng nghĩ người khác nên giúp con làm gì, mà hãy nghĩ rằng con giúp được người khác những gì. Không nên tùy ý nhận ân huệ của người khác. Con phải ghi nhớ, người khác cho con thứ gì, dù tốt thế nào thì vẫn là của người ta, những thứ thuộc về con cho dù có kém cỏi cũng là của con.

 Con à, vẫn còn một chuyện tuy rất khó làm, nhưng lại rất quan trọng, cha mong con có đủ dũng khí để đối mặt với khuyết điểm của chính mình. 

Khi con khôn lớn theo thời gian, con sẽ gặp được rất nhiều người giỏi hơn mình, ưu tú hơn mình, rồi con sẽ thấy bản thân lộ ra rất nhiều nhược điểm và có thể con sẽ thấy thất vọng và tự ti, nhưng con nhất định phải đối diện với nó, không được trốn tránh. 

Có như vậy, con mới có thể dần thay đổi dần thay đổi, khắc phục khuyết điểm của mình, chiến thắng chính mình còn có ý nghĩa hơn nhiều so với việc ganh đua cùng người khác.

 Không cần biết thế giới này thay đổi như thế nào, nhưng phẩm chất tuyệt vời của một con người mới là vĩnh hằng: Chính trực, dũng cảm, độc lập. Cha mong rằng con sẽ trở thành một người ưu tú!”

 “Người lý tưởng” trong đời thì như thế, tức: vẫn dẫy đầy các trường-hợp nổi cộm. Thế còn, nhà Đạo thì sao? Có lạo xạo, tình-huống nào giống thế chăng? Câu hỏi đây, tự nó nhen nhúm một hồi-đáp khá rõ rệt. Và, dưới đây là giòng kể của ai đó, trong văn-học Đạo/đời như sau:

“Nhà văn Mỹ Elbert Hubbard từng nói: Bạn có thể là người làm nên kỳ tích. Là người thông minh ai cũng hiểu được chân lý này: Cách duy nhất để giúp đỡ mình chính là giúp đỡ người khác.

Một công ty nọ có truyền thống tổ chức tiệc và rút thăm trúng thưởng vào Giáng sinh mỗi năm. Theo quy định rút thăm trúng thưởng, mỗi thành viên tham gia đều phải đóng góp 10 USD làm lệ phí. Toàn công ty có 300 người, và phần thưởng chính là tổng số tiền của 300 người gộp lại: 3.000 USD. Ai may mắn sẽ được mang toàn bộ số tiền đó về nhà.

 Vào ngày tổ chức lễ bốc thăm, không khí náo nhiệt tưng bừng hơn bao giờ hết, ai nấy cũng mong đợi tới giờ vàng để thử vận may của mình. Mỗi người đều được phát một mẩu giấy để ghi tên mình trước khi bỏ vào thùng bốc thăm trúng thưởng. Và trong lúc chuẩn bị ghi tên, một cậu nhân viên trẻ chợt phân vân suy nghĩ:

“Cô lao công Sarah là người có gia cảnh khó khăn nhất, con cái lại mắc nhiều bệnh tật, mà cô thì không có tiền để phẫu thuật cho con. Giá như cô có được số tiền này thì tốt biết mấy, nhưng cô lấy đâu ra 10 USD để tham gia cơ chứ?” 

Nghĩ rồi cậu không cần đắn đo mà quyết định sẽ ghi tên cô Sarah thay vì ghi tên mình lên đó. Mặc dù vẫn biết cơ hội quá mong manh, chỉ có 1/300 cơ hội, nhưng cậu vẫn cầu mong vận may mỉm cười với cô.

 Lúc chuẩn bị rút thăm, không khí hồi hộp không kém phần căng thẳng. Mọi người cùng nhìn lên khán đài khi giám đốc công ty chọn ra tấm phiếu may mắn. Ở bên dưới, cậu thanh niên trẻ không ngừng cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp đỡ cô Sarah…

 Vị giám đốc từ từ mở mẩu giấy ra… Tích tắc, tích tắc, mọi người đều nín thở chờ đợi đến mức tiếng kim đồng hồ cũng có thể nghe thấy. Khi nhìn vào cái tên trên tấm phiếu may mắn ấy, giám đốc bất giác mỉm cười… rồi ông đọc to lên. Và… kỳ tích thật sự đã xuất hiện! Khi cái tên Sarah được xướng lên, những tràng vỗ tay chúc mừng vang lên không ngớt tràn ngập cả hội trường. Cô Sarah vừa vui mừng vừa bất ngờ vì không biết mình được tham gia. Khi bước lên bục nhận phần thưởng, cô rối rít cảm ơn: “Tôi thật may mắn, có số tiền này con tôi được cứu rồi, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người!”.

Buổi tiệc diễn ra trong những tiếng nói cười và tiếng nâng ly chúc tụng. Chàng nhân viên trẻ miên man suy nghĩ về cái kết có hậu của đêm Giáng sinh năm ấy, bởi mọi thứ xảy ra như một kỳ tích. Cậu vừa bước dạo xung quanh vừa chúc tụng mọi người một Giáng sinh vui vẻ. Vô tình đi qua thùng phiếu, thuận tay cậu rút lấy 1 tờ ra xem, và… lạ chưa kìa, trên mảnh giấy đó có tên cô Sarah. Cậu không dám tin vào mắt mình nên vội vàng rút ra thêm một mẩu giấy, và một mẩu giấy nữa, tất đều có tên cô Sarah trên đó.

 Nỗi xúc động dâng trào trong lòng cậu, giống như những cơn sóng thuỷ triều dâng lên mãnh liệt. Hai mắt cậu đỏ lên, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng tuôn rơi. Cậu nhận ra một điều, thế giới này thực sự tồn tại “kỳ tích đêm Giáng sinh”, chỉ có điều kỳ tích đó không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó được tạo ra bởi những con người có tấm lòng lương thiện quanh ta.

 Câu chuyện này làm tôi nhớ đến trải nghiệm của chính bản thân mình.

Đó là một buổi chiều rảnh rỗi, tôi cùng cậu bạn thân đi dạo trong ngoại ô thành phố. Đột nhiên có một cụ già mặc bộ áo nâu cũ kỹ đi tới, gánh một gánh rau chào mời chúng tôi mua hàng. Nhìn những bịch rau đã héo rủ xuống, những chiếc lá dập nát như vừa trải qua một trận phong ba, không những vậy lại còn bị sâu ăn lỗ chỗ rất nhiều. Nhưng cậu bạn đi cùng tôi không hề tỏ ra khó chịu mà còn vui vẻ mua liền một nửa gánh rau cho cụ.

Cụ già ngại ngùng giải thích: 

-Số rau này do lão tự trồng, mấy hôm trước gặp trận mưa to, rau đều bị dập hết, nhìn thực sự rất xấu, thành thật xin lỗi. Sau khi cụ già đi rồi, tôi hỏi bạn mình: 

-Cậu thực sự mang số rau này về sao? Bạn tôi trả lời: 

-Không, số rau này chắc không thể ăn được nữa rồi. Vậy cậu mua về làm gì?

-Mình dư biết là sẽ chẳng có ai mua, nếu mình cũng làm thế thì e rằng cụ không bán được hàng”.

 Tấm lòng lương thiện của người bạn khiến tôi vô cùng xúc động và khâm phục. Tôi chạy theo cụ già mua giúp cụ nửa gánh rau còn lại. Cụ già thấy vậy rất vui mừng: “Lão đi bán cả ngày trời nhưng ngoài hai cậu ra thì không có ai mua cả, thực sự lão rất cảm ơn hai cậu”…

 Tựa hồ bản nhạc có nốt bổng nốt trầm, cuộc sống luôn có những thăng trầm khiến ta thấy cần lắm một bờ vai, cần lắm một chỗ dựa. Và khi ta đang chới với giữa dòng đời, nếu như có một bàn tay sẵn sàng nâng đỡ ta lên, cho ta một điểm tựa, giúp ta vượt qua gian khó, thì tấm lòng thiện lương ấy sẽ là nguồn sức mạnh giúp ta vượt qua mọi giông bão của cuộc đời.

 Có một bài hát rất hay, từng kể rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Lòng tốt như ngọn cỏ, dẫu bạn chỉ bắt đầu nó bằng 10 đô la hay 1 mớ rau đã dập nát, nhưng nó sẽ lan toả và bạn sẽ bất ngờ khi thấy cả một thảm cỏ xanh ngát của tình yêu thương, sự đồng cảm, chia sẻ mà chúng ta có thể dành cho nhau.

 Và thế giới này sẽ trở thành thiên đường mà không cần bạn phải là vĩ nhân. Đôi khi bạn sẽ thấy những gì mình cho đi quá nhỏ nhoi, đến độ bạn thấy dù có làm nó hay không thì cũng không có gì đáng kể. Đó là lý do nhà Phật căn dặn rằng: “Đừng thấy việc Thiện nhỏ mà không làm”.

 Bởi, như cây cổ thụ kia, nó cũng chỉ bắt đầu bằng một mầm xanh bé nhỏ.. Chỉ cần bạn gieo nó, như bắt đầu một câu chuyện nhỏ, nó có thể đi xa tới mức khi nhìn lại bạn sẽ không ngờ rằng nó chính là kiệt tác của cuộc sống. Chỉ cần bạn bắt đầu bằng một ngọn cỏ, thế giới sẽ trở thành cánh đồng hoa rực rỡ.”

 “Cây cổ thụ, cũng chỉ bắt đầu bằng mầm xanh bé nhỏ”, quả là nhận-định không sai sót. Bởi, có nhỏ mới có to. Và tất cả, đều xuất tự những thứ bé nhỏ, cỏn con, không ai ngờ. Và cũng thế, lời vàng bậc thánh hiền cũng từng căn dặn:

“Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta.

Đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên-Chúa thuộc về những người như thế.

Quả thật, Ta bảo các ngươi:

Ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ,

Thì sẽ không vào được trong đó.

Rồi Ngài bồng ẵm chúng, đoạn đặt tay mà chúc lành cho chúng.”

(Mc 10: 14-16)

“Nước Thiên Chúa”“trẻ nhỏ”, “chúc lành cho chúng”…nhất nhất là những khẳng định tuy nho nhỏ, nhè nhẹ, êm ả, nhưng lại là những quả quyết rất chắc nịch. Chắc đến độ, để chứng minh điều đó, “Ngài bồng ẵm chúng”,bồng như bồng bế báu vật. Ẵm, như ẵm mang một điều gì đó như trân châu, quí giá hơn mọi thứ.

 Vâng. Tất cả là ở chỗ đó. Tất cả không ở khối lượng hoặc kích thước to lớn, mà chính là phẩm-chất rất nhỏ, nhưng không be bé cũng chẳng tồi tàn, tệ lậu.

Vâng. Tất cả chỉ để nói lên rằng, những gì bạn và tôi, ta trân quí đều xuất tự những thứ thật nhỏ bé, rất trân châu.

Vâng. Thế đó, là bài học. Thế đó, lại cũng là sự thật hiển nhiên ở đất trời không suy xuyển.

Trần Ngọc Mười Hai

Thông thường vẫn suy-tư

những điều như thế cũng rất nhiều.

MỌI LOÀI TẠO VẬT HÃY CẢM TẠ CHÚA ĐI

MỌI LOÀI TẠO VẬT HÃY CẢM TẠ CHÚA ĐI
Hãy cảm tạ Chúa đi hỡi muôn vàn tạo vật dưới trần!
Từ non cao cho đến biển hồ sâu
Từ rừng rậm cho đến đồng bằng bát ngát
Từ đông sang tây
Từ bắc xuống nam
Trải dài trên khắp địa cầu khắp lãnh thổ
Hãy cảm tạ Chúa đi hỡi muôn người muôn nước!
Bởi Chúa yêu nên tác tạo ra nhân loại con người
Cho khác nòi giống mầu da
Cho khác tiếng nói
Khác phong tục tập quán
Khác y phục khác thức ăn
Để con người có Chúa sẽ nhìn qua thấu
Trái tim và lòng nhân hậu ở chính con người
Quan tâm chia sẻ trong cuộc sống
Nhất là người trong gia đình
Đến người trong xóm
Cùng người nghèo khổ sống ở chung quanh
Bởi Chúa biết rất rõ khả năng của từng người
Vì có phải Thiên Chúa đã tác tạo ra chúng ta?
Nên Người ban cho mỗi người mỗi khác
Riêng biệt và là duy nhất không ai giống ai
Nên cần được tận dụng khả năng cho đúng mức
Để sống sao hữu ích cho đẹp đạo đời
Hãy cảm tạ Chúa đi hỡi muôn lòng muôn trái tim!
Đừng quên mỗi sáng trưa chiều tối
Dâng lời kinh cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời
Luôn ban cho gia đình bình yên hạnh phúc
Ban cho mọi điều ta đã, đang và sẽ có
Tất cả là ân ban của Đức Chúa Trời
Hãy sống sao trong tâm tình khiêm hạ!
Đừng giả dối lòng đừng tự cao tự đại
Đừng nói hành nói xấu đừng phê phán ai
Đừng ba hoa nói năng như phường đạo đức giả
Đừng trẻ người mà đem lời dạy dỗ người tuổi cao
Vì đó là cách xử thế thiếu tế nhị thiếu ĐỨC ÁI
Hãy cảm tạ Chúa đi hỡi con người tội lỗi!
Hãy tự vực dậy tự cứu linh hồn mình
Vì nó đang đắm chìm trong cát lún tội lỗi
Chỉ còn thời gian rất ngắn thôi sẽ chấm dứt cuộc đời
Mà chỉ có Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể ra tay CỨU
Nhưng ta hãy van xin hãy một lòng thống hối ăn năn
Hứa chừa tội cùng quay về đường ngay nẻo chính
Hứa sống gần Chúa và gần anh chị em
Luôn mở miệng ca ngợi chúc tụng ngợi khen
Cùng làm chứng nhân cho Đức Chúa
Để linh hồn từ nay được yên bình thực sự
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa
Chúa chúng ta. Amen.
Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
18 tháng 7, 2018
—————————————————
Cảm Tạ Chúa Hôm Nay Và Muôn Đời
(Thơ và nhạc của Tuyết Mai 06 -19 – 2010)

ĐỨC TIN ĐÍCH THỰC

ĐỨC TIN ĐÍCH THỰC

Đức tin là một ơn ban của Chúa.  Người tín hữu đón nhận ơn này khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy (còn gọi là Bí tích Rửa tội).  Như thế, người không được rửa tội thì không có Đức tin.  Sự tin tưởng mà họ có nơi bạn bè và những người thân quen không được gọi là Đức tin mà đó chỉ là “niềm tin.”

 Giáo lý công giáo dạy: Đức tin là một nhân đức “đối thần”, tức là nó giúp ta hướng thẳng về Chúa.  Gọi là nhân đức “đối thần” để phân biệt với các nhân đức khác như khôn ngoan, công bình can đảm, tiết độ.  Bốn nhân đức này được gọi là bốn “nhân đức trụ”, có nghĩa chúng làm nền tảng cho các nhân đức luân lý khác cần thiết cho đời sống con người.  Bốn nhân đức trụ này, cũng như các nhân đức luân lý, khi sinh ra, chúng ta chưa có, phải do học hành và luyện tập mới có được.

Đức tin là một ơn ban của Chúa, nên có người nhận được và có người lại không.  Nói cách khác, có người sẵn sàng mở lòng đón nhận, nhưng cũng có người khép kín khước từ.  Con người được tự do chọn lựa tin vào Chúa hay khước từ Ngài.  Tin vào Chúa, đó là một đề nghị được đặt ra cho chúng ta.  Đó không phải là mệnh lệnh hay một điều ép buộc.  Vì thế, trong Giáo Hội, không bao giờ bắt ép ai theo Đạo.  Nếu có ép buộc một người nào phải lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy, thì việc lãnh nhận Bí tích sẽ không thành sự, nghĩa là chẳng mang ơn ích gì.  Trong trường hợp này, người bị ép buộc cũng không phải là người công giáo đúng nghĩa.  Khi nói đến quyền tự do tin hay không tin Chúa, nhiều người đã phê phán Giáo Hội ép buộc người ta theo Đạo khi rửa tội cho trẻ em.  Câu trả lời của Giáo Hội rất rõ ràng: cũng như cha mẹ muốn điều tốt cho con mình nên phải dạy chúng từ khi còn nhỏ mà đâu có hỏi xem chúng có đồng ý hay không.  Khi trẻ lên 5 tuổi, cha mẹ bắt ép chúng mới đi đến trường học.  Vậy, việc dạy con những điều hay lẽ phải, việc cho con đi học mặc dù chúng không thích có bị phê phán là thiếu tự do hay không?  Giáo Hội chủ trương rửa tội cho con trẻ, vừa muốn cho chúng có một nền tảng giáo dục từ ban đầu, vừa qua đó để xin ơn Chúa xuống nơi tâm hồn em bé qua việc lãnh nhận Bí tích.

Vì là một ơn ban, nên có người giữ được mà cũng có người đánh mất.  Vì thế, trong ngôn ngữ bình dân, chúng ta vẫn gọi người này người nọ là “mất Đức tin.”  Người mất Đức tin là người tuyên bố công khai bỏ Đạo, còn người lười biếng đọc kinh, không đến nhà thờ hoặc người đang sống trong ngăn trở thì chưa thể căn cứ vào đó mà kết luận là một người mất Đức tin.  Tuy vậy, tình trạng khô khan lười biếng thường dẫn đến tình trạng Đức tin phai nhạt và rồi mất Đức tin.

Có người có Đức tin đích thực, lại có người có Đức tin giả tạo.  Người có Đức tin đích thực thì luôn tìm kiếm Chúa và cầu nguyện với Ngài, vì họ xác tín Chúa đang hiện diện trong cuộc đời họ.  Người có Đức tin giả tạo thì chỉ hời hợt bề ngoài, gió chiều nào xoay chiếu ấy, đời sống mang nhiều khuôn mặt khác nhau.  Đối với người có Đức tin giả tạo, Giáo Hội chỉ như một tổ chức trần tục, tham gia cho vui, không hề gắn bó và yêu mến.  Thánh Luca ghi lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi trên đường đi Giêrusalem (x. Lc 17,11-19).  Mười người trong họ đều có lòng tin.  Nhờ lòng tin đó mà họ được chữa lành.  Tuy vậy, chỉ có một người trong họ trở lại để tôn vinh Thiên Chúa, mà người ấy lại là người Samaria, tức là người ngoại thường bị người Do Thái khinh bỉ.  Như thế, Đức tin đích thực không mang những nhãn hiệu hào nhoáng hay vỏ bọc bề ngoài.  Chín người kia chỉ chú ý đến mục đích khỏi bệnh.  Lòng tin của họ là lòng tin vì bản thân, ích kỷ và vụ lợi.  Người Samaria là người có lòng tin đích thực.  Anh vừa được chữa bệnh phong cùi, vừa được mở con mắt tâm hồn để nhận ra chân lý.  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh. ”  Lời tuyên bố của Đức Giêsu cho thấy “tin” là một điều kiện cần thiết để chữa lành.  “Tin” cũng có một sức mạnh phi thường để chữa lành, không chỉ những chứng bệnh nan y mà còn chữa lành những tâm hồn đau thương vỡ nát.  Đức tin đích thực dẫn ta đến gặp gỡ Chúa, tôn nhận Ngài là đích điểm đời ta.  Đức tin đích thực giúp ta nhìn nhận xa hơn để đến với tha nhân, xây dựng một cuộc sống công bằng nhân ái với hết mọi người.

Người tín hữu là người được ban ơn Đức tin, và để Đức tin lớn lên mỗi ngày, họ phải trau dồi đạo đức, chuyên tâm cầu nguyện và thực thi bác ái.  Đức tin không phải là một “tấm thẻ ưu tiên” hay “tấm bùa hộ mệnh” để rồi ai sở hữu là tất nhiên được cứu rỗi.  Tâm hồn đón nhận Đức tin phải như mảnh đất tốt, để nhờ đó mà hạt giống được gieo vào nảy nở đâm bông kết trái (x. Mt 13,1-9).

Có người có Đức tin mạnh mẽ, lại có người có Đức tin non yếu.  Các thánh tử đạo là những người có Đức tin mạnh mẽ.  Các ngài không sợ chết.  Vì Đức tin khẳng định với các ngài rằng ai trung tín với Chúa sẽ được sống đời đời dù có phải tù đày hay phải chết phần xác.  Những người có Đức tin non yếu chỉ tin vào Chúa khi gặp hạnh phúc may mắn, nhưng khi gặp thất bại gian nan thì họ bỏ Chúa, thậm chí phủ nhận vị trí của Ngài trong đời họ.  Cũng có khi họ chọn lựa thế gian và lợi lộc vật chất hơn là chọn lựa Chúa.  Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt thiên thần của Thiên Chúa.  Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8).  Mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin chính là bảo chứng cho việc chúng ta được cứu rỗi trong ngày sau hết của cuộc đời.

Tân ước dẫn chứng rất nhiều tấm gương về Đức tin.  Người phụ nữ xứ Canaan đã kiên nhẫn nài nỉ xin Chúa chữa cho con gái bà khỏi bệnh.  Mặc dù Chúa Giêsu đã trả lời bà bằng một câu xem ra không có hy vọng, bà vẫn kiên trì và bà đã được như lòng mong ước (x. Mt 15,21-28).  Với vị Đại đội trưởng đến xin Chúa chữa cho đầy tớ ông được khỏi, Chúa Giêsu đã khen ngợi ông:  Tôi không thấy một người Israen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,19).  Lòng tin nơi ông mạnh mẽ đến nỗi ông so sánh quyền lực của Chúa với một vị chỉ huy, chỉ cần truyền lệnh là mọi sự đâu vào đấy.

Bạn thân mến, chúng ta là người tín hữu, vì chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy.  Bí tích này làm cho chúng ta trở nên con người mới, giống như Chúa Giêsu Kitô.  Tuy được mặc lấy Chúa Giêsu, nhưng chúng ta còn là con người, bị tác động bởi biết bao những cám dỗ.  Chính sự yếu đuối của thân phận con người nơi thân xác chúng ta cũng là một trong những nguy cơ làm cho chúng ta phai nhạt tình yêu và lòng tín thác đối với Chúa.  Chính vì vậy, Đức tin phải được tuyên xưng nơi môi miệng, phải được sống nơi cuộc đời và phải được loan truyền cho anh chị em xung quanh.

Chúng ta cùng chiêm ngắm và noi gương Đức Trinh nữ Maria thành Nagiarét.  Mẹ là mẫu mực của các tín hữu trong hành trình theo Chúa.  Mẹ được chúc phúc vì Mẹ đã tin những gì Chúa phán cùng Mẹ sẽ thành hiện thực.  Đức tin đã giúp Mẹ vượt qua những gian khổ trong cuộc đời.  Nhờ Đức tin, Mẹ nhìn thấy thánh ý Chúa trong những biến cố đau thương và luôn một niềm trung tín.  Đức tin của Mẹ là Đức tin đích thực.  Xin Mẹ giúp chúng ta biết tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: gphaiphong.org

ĐỘI TUYỂN BÓNG ĐÁ CROATIA TỚI VIẾNG ĐỨC MẸ MỄ DU NGAY TRƯỚC TRẬN WORLD CUP.

Hoa Do shared a post.
Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Hoàng Thế Lịch

ĐỘI TUYỂN BÓNG ĐÁ CROATIA TỚI VIẾNG ĐỨC MẸ MỄ DU NGAY TRƯỚC TRẬN WORLD CUP. (Apparition Hill) 13/07/2018

Tại phía tây Bosnia và Herzegovina, trong khu vực Herzegovina. Từ năm 1981, nó đã trở thành một địa điểm phổ biến của cuộc hành hương Công giáo do có báo cáo về việc Đức Mẹ hiện ra với sáu người Công giáo địa phương, ngày nay thường gọi là Đức Mẹ Mễ Du.

Mễ Du (Medjugorje) là một làng nhỏ nằm giữa hai ngọn núi Krizevac và Podbrdovới dân số vài ngàn cư dân, thuộc tỉnh Mostar, nước Bosnia và Hercegovina. Ngày 24 tháng 6 năm 1981 là ngày lễ Thánh Gioan Baotixita, một số em nhỏ trong làng báo cáo rằng đã nhìn thấy hình bóng sáng chói của một người phụ nữ bồng trên tay một trẻ sơ sinh trên viền đồi Pobrdo. Các trẻ em này bao gồm: Vicka Ivankovic (sinh 1964, lúc đó 17 tuổi), Mirjana Dragicevic (sinh 1965, 16 tuổi), Marija Pavlovic (sinh 1965, 16 tuổi), Ivan Dragicevic (sinh 1965, 16 tuổi), Ivanka Ivankovic (sinh 1966, 15 tuổi) và Jakov Colo (sinh 1971, 10 tuổi).

Trong nhiều năm sau, những người thị nhân này cho rằng họ nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra hàng ngày và nói chuyện với họ khiến cho làng Mễ Du trở thành nơi thu hút đông đúc khách hành hương. Đáng chú ý, thị nhân Vicka Ivanković nói rằng cô đã cầu nguyện với Đức Mẹ và được Đức Mẹ ban cho chín “bí mật” và “nhiệm vụ”. Vicka nói rằng việc Đức Mẹ hiện ra với cô mỗi ngày vẫn chưa dừng lại và rằng, cô đã nhận được một tiểu sử về cuộc đời Đức Mẹ lưu trữ trong hai máy tính xách tay, sẽ được công bố khi Đức Mẹ cho phép. Hơn hai thập kỷ trôi qua, Vicka Ivanković vẫn tiếp tục gặp gỡ với khách hành hương tại Mễ Du với nụ cười tràn đầy niềm vui trên khuôn mặt của cô.

“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ,”

Suy Tư Chúa nhật thứ 15 thường niên năm B 15/7/2018

(Mc 6: 7-13)

Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.  Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

 & & &

“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ,”

“Đây đó lan dài gót lãng du”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Gót lãng du, có là gót giày nện của nhà thơ đi đây đó? Nghiện sông hồ, có là nỗi niềm của người anh, lâu rày đó đây, xuất hiện ở bầu trời nhiều dấn bước theo chân Chúa, rất lâu ngày chăng?

Trình thuật thánh Máccô, nay kể về sinh hoạt của các vị thánh bước theo chân Thày, hăng say mục vụ tiếp nối công trình của Chúa ở Nam Galilê. Các ngài là nhóm tông đồ đa năng, đa dạng. Có người có gốc nguồn từ xứ miền Hy Lạp như thánh Philipphê, Anrê, còn lại là người Do thái như thánh Giacôbê, Batôlômêô, Tađêô, Simôn, vv. Các đấng bậc thuộc nhóm tuyển không giỏi về học thức, cũng chẳng đạo đức như đấng bậc khắc kỷ/khổ tu, nhưng lại hân hạnh được đi theo Đấng Ngôn Sứ luôn di chuyển. Các thánh được chuẩn bị dứt đoạn với gia đình, giòng họ, xã hội cùng chòm xóm và quyết tận hiến cho Ngài.

Một số vị như thánh Tađêo, ta được biết chỉ danh tánh, mà thôi. Còn thánh Phêrô, Giacôbê vẫn nổi danh là lãnh tụ nhà Đạo ở thế kỷ đầu. Cũng tựa như Đức Giêsu, thánh Phêrô không để lại bút tích nào để thế hệ sau này theo đó mà biết rõ. Riêng thánh Phêrô lại đã trao quyền quản cai hội thánh ở Giêrusalem cho thánh Giacôbê để đích thân khơi mào sứ vụ đặc biệt cho dân ngoại ở Syria. Các đấng bậc trổi trang về thừa sai/mục vụ phải kể đến là thánh Phaolô từng sống cùng thời với Chúa, nhưng chưa một lần giáp mặt Ngài. Thánh Phalolô cũng là tông đồ đắc lực của Chúa nhưng thánh nhân lại không ở trong cùng nhóm Mười Hai. Trái lại, thánh nhân từng bách hại người của Chúa và cuối cùng lại đã trở thành tông đồ đắc lực hơn cả. Các tông đồ của Chúa đều có chung một đặc điểm là hết lòng tin tưởng vào Thày Chí Thánh đáp lại lời kêu gọi mọi người cùng hợp tác trong rao giảng Tin Mừng.

Thật ra, có ba nhóm tông đồ gần cận Chúa hoạt động theo kiểu vòng tròn khép kín gồm các bậc vị vọng sinh hoạt rất đắc lực. Nhóm đầu là nhóm 12. Nhóm thứ hai gồm các nữ phụ, trong đó có Maria Mađalêna, chị em nhà Lazarô ở Bêthania, cùng Joanna vợ của Chuza (thượng thư của Hêrôđê), cả Maria mẹ của thánh Giacôbê nữa. Viết Tin Mừng, các thánh sử chăm chút ghi tên các nữ phụ này và coi các bà là người theo Chúa hầu để được sẻ san lời Ngài dạy và giúp chất liệu cho thế hệ nối tiếp phục vụ Hội thánh.

Các bà là những người vẫn quẩn-quanh bên Chúa khi Ngài dấn bước vào chốn khổ hình của thập tự. Và, các bà còn là chứng-nhân đầu hiện diện ở mộ phần ngay vào lúc Chúa sống lại. Trong lúc ấy, nhóm 12 lại cứ lánh mặt vì hãi sợ, chủ bại. Với người cùng thời với Chúa, sự cộng tác của bậc nữ lưu dám để chồng ở lại nhà mà theo Chúa, đã gây tai tiếng không ít cho người ngoài cuộc. Nhưng Chúa đi ngược lại qui ước vẫn có ở xã hội thời Ngài sống.

Nhóm thứ ba, là các vị có cảm tình với công trình của Chúa thi thoảng mới tham gia sinh hoạt để giúp Chúa, thôi. Các vị nổi danh như: Ladarô, Nicôđêmô, Zakê, Giuse thành Arimathêa, đều là đấng bậc không rời bỏ gia đình và xã hội mà các vị đang sống, mà chỉ phụ giúp Chúa một đôi lúc, thôi.     

Tuy các bậc nữ lưu trên, tuy đã thực hiện công việc thừa-tác cho Chúa là thế, nhưng vẫn không được Hội thánh gọi là “tông đồ” bao giờ hết. Lý do là bởi, cụm từ “tông đồ” bên tiếng Do thái có nghĩa “tamid” hoặc “tamilda” tiếng Aram, không phải là giống cái. Tự vựng Aram không có từ “tông đồ nữ” và cũng chẳng có danh từ “nữ phụ làm tông đồ” để đối chọi với từ nam tông-đồ được sử dụng rộng rãi trong văn chương chữ viết của Do thái. Tuy nhiên, với cộng đoàn Phaolô, nữ giới vẫn đồng quyền về mọi mặt với nam nhân, từ việc nguyện cầu cho đến nghi tiết phụng vụ hoặc mọi công tác được ngôn sứ thi hành.

Thời thánh Phaolô đến mãi về sau, nhóm 12 lại đã trở nên thành-phần quan trọng không thể thiếu trong Đạo. Tuy nhiên, vai trò của các ngài chỉ mang tính tượng trưng rất tri thức chứ không có thực lực ở xã hội ngoài đời. Cộng đồng người Do thái gồm tất cả 12 chi tộc phân tán rộng, trong khi đó nhóm 12 lại vỏn vẹn chỉ gồm 12 vị chuyên chăm hỗ trợ cho thánh hội ngõ hầu giúp duy trì quyền thừa kế Chúa hứa ban cho dân Ngài. Xem thế thì, nhóm 12 lại đã tượng trưng cho cộng đồng dân tộc theo cung cách thu nhỏ kiểu “bỏ túi”, khá vi mô.

Ý Chúa chỉ muốn thế. Ngài chủ trương tái tạo Israel gồm chỉ 12 chi tộc gọn nhẹ. Và, Ngài những muốn cải tổ niềm tin ở dân con mọi người, khởi từ nhóm 12 được tuyển chọn, giống hệt đất nước Israel nhờ vào ân huệ trinh trong, cô đọng. Chúa đã sai nhóm 12 của Ngài đi khắp chốn để truyền rao Tin Mừng Ngài đem đến; nhưng, các thánh cũng chẳng đi đâu thật xa, mà vẫn chỉ khu vực gần cận thôn làng bé nhỏ quê miền đồng nội có người địa phương thân thương sống quẩn-quanh đây đó qua nếp sống cơ bản theo khuôn thước xã hội vùng Địa Trung Hải thời cổ xưa.

Nói chung thì, các thôn làng nơi đó chỉ là khu chung sống rất bé nhỏ thật vắng lặng, chứ không là chốn thị thành phồn hoa phức tạp, đầy kích bốc. Các thôn làng nơi đó, chẳng có cao ốc với hội đường gì trổi bật nhưng các ngài vẫn đến tụ tập đều đặn, ít là vào ngày Sabát. Quây quần nơi phố chợ hoặc khu vực râm mát có cơ ngơi chỉ gồm những người gần gũi/thân quen thôi. Ai nấy quây quần quyết xây dựng một cộng đoàn mang tinh thần giao hoà mộng ước, rất phải lẽ.

Đức Giêsu chẳng hề khuyên bảo đồ đệ Ngài phải dựng xây tinh thần một Israel mới -mẻ như những hội thiện nguyện khác hẳn cộng đoàn. Bởi nơi đó, đã có sẵn cộng đoàn từng hoạt động hệt như thế. Ngài không thôi thúc dân con mọi người hãy rời bỏ gia đình mà đến với làng mạc rày đây mai đó thành đám du mục chẳng định hướng. Ngài không đòi họ tập trung sinh sống theo cung cách riêng tư cá thể. Nhưng, theo từng nhóm nhỏ cộng đoàn như ta thấy. Ngài không muốn mọi người sống chuyên chăm nhiệm nhặt, tức chẳng để tâm gì về thể chất, xác phàm. Điều Ngài bận tâm là dạy họ biết lắng tai nghe sứ điệp cần thiết để được chữa lành, thứ tha và về với quyết tâm đổi mới cuộc đời. Ngài muốn dân con của Ngài kiến tạo một Israel thực sự đổi mới con người mình.

Quê nhà, họ trở về cũng sẽ là các khu vực gần cận bên nhau. Chính vì gần cận, nên phần đông trong họ sẽ đi vào quan hệ mật thiết như người gần gũi rất thân quen. Mỗi làng/xã sẽ sinh hoạt theo kiểu riêng tư dễ phân biệt, ngoại trừ những khủng hoảng liên quan đến tình trạng của đất nước họ. Thật khó cho người ở ngoài chịu trở về sống ở thôn làng nơi mà người cùng làng lại xử sự cách khác nhưng đôn hậu, mật thiết. Muốn được thế, người người phải tham gia nhập cư theo cung cách hiền hoà, phải lẽ. Chính đó là ý Chúa muốn sai phái đồ đệ ra đi từng nhóm đến với thôn làng để các ngài không bị ai ám hại, hoặc gây khó. Đằng khác, đi từng cặp, cũng để thực hiện sứ vụ thừa sai cho dễ hơn là chỉ một mình đơn độc, không người giúp.

Ra đi về với thôn làng hiền lành, các thánh được dặn không mang theo cơm áo, gạo tiền. Cũng chẳng bận tâm chuyện sửa soạn giày dép, áo mão hoặc gậy gộc dù đi xa. Nhưng vẫn gọn nhẹ. Giản đơn. Đi như thế, mới giống cung cách của người túng thiếu/nghèo hèn, ở trong huyện. Chẳng khó dễ, cũng chẳng gây trở ngại cho ai, dù người ấy có là giới cầm quyền hoặc những vị chỉ tính chuyện tranh giành, chấp nhất. Lệ làng về tính hiếu khách sẽ là kim chỉ nam giúp các thánh thực hiện tính giản đơn, hèn mọn, không câu nệ. Nhất nhất nơi nào các thánh đến, cũng không dừng lại lâu. Không đi quanh quất/khất thực, mất thể diện. Và, chỉ chấp nhận những gì người nhà bố thí cho ăn mặc mà thôi. Nói chung, các thánh vẫn phải ăn ở hiền lành, cư xử cho phải phép cả với người hiếu khách, lẫn kẻ ngược ngạo, bạo hành.

Đến đâu, các ngài cũng nên chuyện trò thân mật. Kể cho nhau nghe những việc được Chúa quan tâm dạy bảo; nếu cần, phải chữa lành và tha thứ theo cách thế hiền từ Thày từng làm mẫu. Và, việc chữa lành Chúa dặn, cần được tiếp tục và hành xử đầy lòng tha thứ, để người người có cơ hội gần cận Chúa. Làm như thế, mới chứng tỏ được rằng: Nước Trời đã đến với thôn làng bé nhỏ để người người hoàn thiện cuộc sống, như Chúa muốn.

Trình thuật thánh Máccô kể hôm nay, được đặt chung với trình thuật về cuộc đời hoạt động công khai của Chúa quyết đổi mới Israel như Hội thánh Nước Trời, theo ý Chúa. Áp dụng vào với thánh hội thời hiện tại, thật cũng khó. Khó, là bởi các đấng bậc chủ quản hôm nay, vẫn tự hào mình là các đấng bậc kế vị nhóm 12, nhưng lại không dám rời bỏ của cải, bạc tiền cùng những thứ xa hoa, lộng lẫy để về sống đời chân chất, mọn hèn. Vấn đề đặt ra cho các đấng bậc đang chủ trì Hội thánh hôm nay, là: làm sao sống giản dị như Thày mình đòi hỏi. Có thế, mới yêu cầu mọi người sống như mình.

Tuy là khó, nhưng không có nghĩa là thánh hội mình không có lối thoát để bắt chước Chúa và nhóm 12 chấp nhận sống bình dị như người thường ở huyện. Tức, không giàu và cũng chẳng sang, chỉ làng nhàng đủ sống. Tức, sống dễ dàng, không áp đặt cấu trúc/luật lệ nào cầu kỳ, bắt buộc phải phấn đấu. Nhưng, quyết áp dụng nguyên tắc nhập thế và nhập thể, hầu chịu hạ mình xuống để sống hoà đồng cùng các người em mọn hèn, ở trần thế. Để được thế, Hội thánh hôm nay còn phải ngang qua nhiều hành trình xuyên suốt, rất quyết tâm.

Trình thuật theo thánh Máccô hôm nay sẽ là khởi điểm với đầy quyết tâm như thế. Quyết tâm dấn bước. Vui vẻ chấp nhận đời bình dị của người bình thường ở huyện, chốn thấp hèn. Để rồi, thánh hội mình dám xác chứng với người bình thường ở mọi nơi rằng: họ mới là dân con thực thụ, của Đức Chúa.

Trong tâm tình đó, có lẽ cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa khởi xướng rất như trên, rằng:

“Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ.

Đây, đó, lan dài gót lãng du.

Về, chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn.

Như, mây mùa thu, lá mùa thu.”

(Nguyễn Bính – Chú Rể Là Anh)

Là anh hay em, cũng một chú rể bình dị ở huyện nhà. Là, kẻ những “nghiện sông hồ”, “đây, đó, lan dài gót lãng du” rất mùa thu. Mùa, của những đi mà không hẹn. Về, cũng chẳng kỳ hạn. Vẫn ra đi dựng xây thánh Hội giản đơn. Bình dị, lành thánh. Tuy rất nghèo hèn, nhưng hạnh ngộ.          

                         Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn – 

 Mai Tá lược dịch

“Ðã có những lúc chán chường “

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 15 Thường niên năm B 15-7-2018

“Ðã có những lúc chán chường “
Chán cho đời sao buồn quá.
Mắt có những lúc đã hoen mờ,
Vì sầu không đâu, không tên.”

(Văn Phụng – Chán nản)

 (Thư Philípphê 1: 7-10)

 Chán nản lắm ư? Chán hết mọi chuyện trên đời, hay chỉ “chán cho đời sao buồn quá” hoặc chán chết, hết mọi chuyện? Thế, bạn và tôi có chán cả câu truyện kể rất đáng chán như bên dưới:

“Có lần, hai nhân viên thuộc công-ty khí đốt nọ, một người đã lớn tuổi, người kia hãy còn trẻ đang đi kiểm tra tình hình thời sự ở vùng ngoại ô nọ. Hai vị đỗ xe ở cuối đường rồi đi bộ đến xem từng nhà một. Sau khi kiểm tra khí đốt ở căn nhà cuối đường xong, nhân viên lớn tuổi đề-nghị chạy đua về chỗ đỗ xe với người trẻ tuổi để chứng-tỏ là ai khoẻ hơn ai.

 Trong khi chạy hết tốc-lực đễn chỗ đỗ xe họ bỗng thấy người đàn bà ở căn nhà mà họ mới vừa ra khỏi cũng đang hộc tốc chạy theo sau, vừa thở vừa la ơi ới. Hai người bèn dừng lại xem chuyện gì xảy ra mà bà la to thế:

-Có chuyện gì thế, thưa bà?

-Chúa, Phật ơi! Tôi cũng đang tự hỏi xem có chuyện gì xảy ra mà hai ông chạy bán sống bán chết đến như thế. Khi thấy hai ông tự dung chạy trối chết như thế, tôi bèn nghĩ: hay hơn hết, tôi cũng nên chạy theo xem có chuyện gì xấu không? Thì ra, chả có chuyện gì cả. Thật rõ chán.” (Truyện do St kể)

À thì ra, “chả có chuyện gì cả, thật rõ chán!” đúng là câu nói cửa miệng của nhiều người, suốt một đời.  Thế nhưng, đời người còn chán hơn nhiều giả như ta gặp đủ thứ người hoặc đủ thứ chuyện, mà người nào, chuyện gì cũng đều “chán như cơm nếp nát”, hết mọi sự. Bạn không tin như thế ư? Thì đây, mời bạn và tôi, ta nghe thêm một truyện kể khác, cũng rất ư là “chán mớ đời”, sau đây:

“Truyện rằng,

Trong khách sạn lớn thuộc hạng sang ở thành-phố, có bà khách đi thang máy thấy anh gác thang suốt ngày cứ đứng lên ngồi xuống mở cửa đóng cửa cho khách trú ngụ, rất ư là đáng chán, bèn buông lửng một câu hỏi nhỏ, rằng:

-Lên lên xuống xuống mãi thế này, anh có thấy chán hoặc nản lắm không?

-Dạ thưa không. Nghề của con mà, thím.

-Lên nhiều mới chán vì mệt chứ đi xuống thì có gì đâu mà phải phàn nàn, đúng thế phải không?

-Dạ thưa không phải thế.

-Thế thì, xuống nhiều mới chán chứ gì?

-Dạ cũng không phải thế.

-Thế thì khi nào anh thấy chán chường nhất?

-Dạ, khi gặp phải các cụ, cứ là hỏi mãi có một chuyện không biết chán, ạ!”(Truyện kể nghe đến chán nhưng vẫn kể)

Quả có thế. Việc gì, cứ lặp đi lặp lại nhiều lần cũng đều đáng chán hết. Chí ít, là viết phiếm, viết bài hoài hoài đến …chán chết. Vâng. Nội mỗi tự vựng “Chán chết” thôi, cũng hàm ngụ đủ thứ chuyện ở trong đó. Có khi là, “chán đến chết”. Có lúc, là: “chán muốn chết”. Ấy chết, lại nói gì thế? Chán đến độ muốn chết sao? Thế, bạn có cam đoan rằng: chết rồi hết chán không? Cái đó, xin hạ hồi phân giải. Nay, ta bàn chuyện rất “đáng chán”, nhưng không thể làm khác được. Đó là, phiếm luận hay phiếm loạn, cho giải cơn sầu/buồn đến chán ngán, hôm nay hoặc mai rày.

Vâng. Không gì đáng chán và phát chán, như việc bàn mãi chuyện thần-học, hoặc học về thần riết rồi cũng nản, hết muốn viết tiếp. Như, tâm trạng của bần đạo ở đây bây giờ. Thôi thì, chỉ xin nói thêm một sự với bạn, rằng thì là: không bàn chuyện thần-học thì mấy cha, mấy nội bàn chuyện gì bây giờ? Luân lý, đạo đức hoặc tu-đức, tu tỉnh với tỉnh tu đâu cơ chứ?

Vậy thì, mời bạn, và mời tôi ta nhập cuộc. Thế nhưng, trước khi đi vào cuộc, hãy để lòng mình trùng xuống với tâm tư, tình-tự của bài hát “chán chường” mà nghe tiếp những lời như:

    Tay đôi tay yếu đuối, dâng lên chới với giữa trời.
Than van cho thân kiếp đoạ đày.
Đời bao xót xa. Nhìn lá rơi, mùa Thu chết rồi!
Gió gió cứ rít lên. Xuyên qua tim tôi. Xuyên qua làn môi.
Gió gió đã cuốn đi Bao nhiêu ước mơ – Ôi, xa vời!
Sóng sóng đã cuốn đi. Cuộc đời tốt tươi.
Buồn ơi, chán ơi!

Ðã có những lúc chán chường. Chán cho đời sao buồn quá.
Mắt có những lúc đã hoen mờ. Vì sầu không đâu, không tên.
Tay đôi tay yếu đuối. Dâng lên chới với giữa trời.

Than van cho thân kiếp đoạ đày.
Đời bao xót xa.
Nhìn lá rơi, mùa Thu chết rồi!
Gió gió cứ rít lên. Xuyên qua tim tôi.
Xuyên qua làn môi. Gió gió đã cuốn đi
Bao nhiêu ước mơ – Ôi, xa vời!
Sóng sóng đã cuốn đi Cuộc đời tốt tươi
Buồn ơi, chán ơi!

(Văn Phụng – bđd)

Như đã kể, còn gì chán ngán cho bằng, ở nhà Đạo, lại cũng thấy những giây phút chán ngán, chán nản khi có người viết thư về hỏi đấng bậc, nhưng câu như:

“Thưa Cha,

Con vẫn hiểu là Đức Giáo Hoàng Phanxicô có lần bảo rằng: Hỏa ngục không có thật và linh-hồn của những người từng chối bỏ Chúa, cuối cùng rồi cũng biến mất. Thưa, có thật là Đức Giáo Hoàng từng nói thế không?”

 Đúng ra, bổn đạo nói trên phải hỏi là Đức Giáo Hoàng có ý gì khi nói thế, mới ra nhẽ. Thôi thì, hỏi thế nào thì hỏi. Đấng bậc vị vọng nhà Đạo cũng xung phong giải đáp thắc mắc, cho ngọn ngành để bá quan văn võ trong Đạo hiểu được ý của Đấng bậc rất trên cao. Và câu trả lời, được ghi như thế này:

“Có điều khá chắc chắn là: Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không nói điều đó. Giống như mọi Kitô-hữu, ngài cũng tin vào hỏa-ngục và lâu nay ngài nói về chuyện ấy một vài lần trong thời gian năm năm trên cương-vị một Giáo-chủ.

 Sự thể về câu nói vốn dĩ làm nhiều người hiểu lầm, là do vị ký-giả hồi hưu nay đã 93 tuổi đời, trước đây ông từng là tổng-biên-tập tờ La Republica và tuyên-bố mình vô thần vốn dĩ là bạn thân của Đức Giáo Hoàng.

 Trong buổi bàn luận với Đức Thánh Cha Phanxicô xảy ra hồi gần đây, cụ ông Scalofari có viết trên báo vào ngày 28/3/2018 rằng: Đức Giáo Hoàng có nói với cụ là: “Hỏa ngục không có thật”, thế nên linh-hồn của những ai chối bỏ Chúa vào cuối đời mình thì cũng chỉ chấm-dứt hiện-hữu, thôi.        

 Theo ông Greg Burke là phát-ngôn-viên tòa thánh Vaticăng thì Đức Giáo Hoàng Phanxicô “có mời ông đến bàn chuyện nhân mùa Phục Sinh”, nhưng buổi này nhất quyết không phải là buổi phỏng-vấn chính-thức như các lần trước. 

Các lần phỏng vấn Đức Giáo Hoàng trước đây, vào năm 2013 và 2015, cụ Scalfari đã không ghi chú và cũng chẳng thu băng điều gì, nên về sau buộc phải viết lại những lời đối-đáp dựa nhiều vào trí nhớ, và lần này cũng thế.

 Thực tế cho thấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã nhiều lần đề-cập đến Hỏa ngục. Có lần, vào năm 2014, để cảnh-giác nhóm Mafia băng-đảng, Đức Giáo-Hoàng có nói: “Hãy hồi hướng trở về! Nay, vẫn còn nhiều thời-gian để rồi không ai phải rơi xuống chốn lửa ngục. Đó là những gì đang chờ đón quí vị nếu quí vị cứ tiếp tục theo con đường này. Bà con, ai cũng có cha có mẹ: hãy nghĩ đến các ngài, Hãy khóc lên một tiếng rồi hồi hướng trở về.”

 Và rồi, trong tông-thư ngài viết vào Mùa Chay năm 2016, ngài có viết: “mối hiểm-nguy vẫn còn đó, chỉ cần liên-tục chối bỏ không mở rộng cửa tâm-hồn cho Đức Kitô đang gõ vào cửa ngõ của người nghèo, thì người tự-hào, giàu sang và quyền-thế rồi kết cục cũng sẽ tự lên án chính mình và sẽ đầm mình trong vực thẳm đầy cô-đơn tức Hỏa-ngục.”

 Giáo-huấn Hội thánh về Hỏa ngục vẫn còn đó, nói rất rõ. Trong Sách Giáo lý Hội thánh Công-giáo, ta đọc được những giòng chữ như: “Ai chết với tội trọng mà không chịu hối-cải cùng chấp-nhận tình thương nhân-lành của Chúa có nghĩa là cứ ở lại mãi trong sự chia cách tách rời họ mãi do mình tự-do chọn lựa. Tình-trạng tự tách rời khỏi sự kết-hợp mật-thiết với Chúa và những vị lành thánh gọi là ‘Hỏa ngục’. (Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo đoạn 1033). Sách Giáo lý còn tiếp tục dạy: “Giáo-huấn Hội-thánh khẳng-định sự hiện-hữu vô cùng vô tận của Hỏa ngục.” (GLHTCG đoạn 1035)

 Thành ra, Hỏa ngục là có thật. Và chắc chắn một điều, là: không phải Chúa tống khứ con người xuống Hỏa ngục nhưng đúng hơn, chính những ai từ chối không nhận-lãnh tình thương của Chúa a vì thế mới chối bỏ Chúa và ở lại mãi trong tình-cảnh rời xa Ngài mãi mãi do chính những người ấy tự chọn.

 Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô thứ 16 cũng bình-luận, bảo rằng: “Trong trường hợp nào đi nữa, Thiên-Chúa không bao giờ thúc ép một ai vào con đường cứu-độ. Chúa chấp-nhận tự do của con người. Ngài không là phù-thủy chỉ biết mỗi việc cuối cùng rồi ra cũng xóa bỏ mọi sự vẫn xảy ra lâu nay rồi cuối cùng cũng đem đến cho mọi người mối phúc-hạnh họ trông chờ.

 “Thiên-Chúa đích-thực là người Cha, là Đấng Tạo Hóa ban phát tự do cho mọi người, cả khi họ sử-dụng nó để chống lại Ngài. Vì lý do đó, mà lòng Ngài luôn muốn cứu rỗi con người, nhưng điều này không có nghĩa là Ngài can-dự vào việc cứu hết mọi người. Ngài ban cho ta quyền chối-bỏ lòng tốt của Ngài. Thiên-Chúa thương yêu ta; nên ta chỉ cần tỏ ra khiêm hạ để cho phéo Ngài yêu thương mình, là đủ.” (X. God is Near Us, Ignatius 2003, tr. 36-37)…

Thành thử, ta hãy lợi-dụng những lúc người đời tung ra những “tin thất thiệt” sai sự thật, để nói chuyện với người khác về Hỏa ngục. Càng nói nhiều càng tốt. Với ta, chưa bao giờ là cơ hội thuận-tiện để bàn bạc về Thiên-đàng và Hỏa ngục, bằng lúc này đây.” (X. Lm John Flader, “Francis takes Hell deadly seriously: bank on it”, The Catholic Weekly 15/4/2018 tr. 21)

Có tranh-luận về nỗi chán chường, hoặc như đấng bậc nhà Đạo gọi là “Hỏa ngục” nơi con người, rồi ra cũng chẳng thuyết phục được mấy ai. Bởi, mỗi người trong cương-vị của mình, ít nhiều đều đã có kinh-nghiệm bản thân về những điều như thế. Thế nên, thay vì cãi/tranh dài dòng đến vô tận, thì bạn và tôi cũng nên quay về với lời ca ở trên để cùng cảm-tức những tình-tự của người viết mà thấm-thía.

Hôm nay hoặc mai rày trong cõi đời trải dài nhiều lữ-thứ, cũng không nên để tâm nhiều đến những biện-luận chỉ khiến người viết và/hoặc người đọc ngày thêm xa lánh, tránh mặt nhau. Chi bằng, ta cứ hát lên lời ca trên, để rồi hòa cùng một nhịp với tác-giả bài rất lao xao, rộn rạo như sau:

“Đời bao xót xa.
Nhìn lá rơi, mùa Thu chết rồi!
Gió gió cứ rít lên. Xuyên qua tim tôi.
Xuyên qua làn môi. Gió gió đã cuốn đi
Bao nhiêu ước mơ – Ôi, xa vời!
Sóng sóng đã cuốn đi. Cuộc đời tốt tươi
Buồn ơi, chán ơi!

(Văn Phụng – bđd)

Bạn và tôi, chắc cũng như mọi người đều biết: nhạc-sĩ Văn Phụng là tác-giả chuyên viết nhạc vui để mọi người quên nỗi chán chường của cuộc đời. Hôm nay đây, sở dĩ ông viết những giòng thơ đầy ý nhạc lã chã buồn như thế, cũng chỉ để an ủi bạn và tôi, trong chuỗi ngày dài nhiều nghĩ suy về cuộc đời, mà thôi.          

Nhận định thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta quay về vườn thượng-uyển với lời vàng của bậc thánh-hiền chứa đựng nhiều niềm vui hơn, như sau:

“Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em,

đó là điều hợp lý,

bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi.

Khi tôi bị xiềng xích,

cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng,

anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được.

Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi:

tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả,

với tình thương của Đức Kitô Giêsu.

Điều tôi khẩn khoản nài xin,

là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào,

khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên,

để nhận ra cái gì là tốt hơn.

Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền

và không làm gì đáng trách,

trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm.

(Thư Phillíphê 1: 7-10)      

 Trần Ngọc Mười Hai

Nay nhất quyết

không hát nhạc buồn nhiều chán ngán

của bất cứ ai đang buồn chán

chốn nợ đời

mà thôi.