5 lợi ích sức khoẻ bất ngờ của việc tham dự Thánh lễ

5 lợi ích sức khoẻ bất ngờ của việc tham dự Thánh lễ

5 lợi ích sức khoẻ bất ngờ của việc tham dự Thánh lễ

Thiên Chúa không cần ta đến nhà thờ vì lợi ích cho bản thân Người, đó là vì lợi ích cho chúng ta. Ta biết rằng tham dự Thánh lễ thì tốt cho linh hồn, nhưng bạn có biết nó có thể có những lợi ích khác nữa? Có ít nhất là 5 lợi ích về sức khoẻ mà bạn có thể cảm nhận được nếu bạn thường xuyên đến nhà thờ dự Thánh lễ.

1. Ngủ ngon hơn

Bạn bị mất ngủ? Thay vì dùng thuốc an thần, bạn hãy xem xét đặt việc đến nhà thờ dự lễ vào lịch trình hằng ngày của mình. Một nghiên cứu gần đây của Tổ chức Ngủ Quốc gia (National Sleep Foundation) của Mỹ cho thấy có sự liên quan giữa giấc ngủ ngon và việc đến nhà thờ. Tác giả nghiên cứu cho biết: “Những người trưởng thành thực hành tôn giáo nhiều hơn có khuynh hướng có giấc ngủ khoẻ hơn so với những người ít quan tâm tôn giáo.” Nghiên cứu cũng cho biết thêm rằng: thực hành tôn giáo có thể hạn chế các kích thích về thần kinh, hoá học và sinh lý do tâm lý nặng nề, sử dụng chất kích thích và áp lực cuộc sống.

2. Giảm nguy cơ trầm cảm và tự tử

Tin tức về các vụ tự tử do trầm cảm của nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, nhất là những người nổi tiếng, đang ở tỷ lệ cao. Thật hợp lý để ta tìm các cách chống lại nạn trầm cảm này. Một trong những cách thức được đánh giá hiệu quả nhất chính là đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ. Một nghiên cứu của tạp chí Tâm thần học JAMA chỉ ra rằng: giữa những năm 1996 và 2010, phụ nữ tham dự các hoạt động tôn giáo một lần mỗi tuần đã giảm 5 lần khuynh hướng tự tử.

3. Quan hệ xã hội ổn định, hạnh phúc và mỹ mãn hơn

Theo Viện Nghiên Cứu Gia Đình Mỹ, “những người cầu nguyện cùng nhau thì ở lại với nhau”, nghĩa là những người, nhất là các cặp vợ chồng, thực hành đức tin thông qua việc tham dự Thánh lễ cùng nhau thì có xu hướng cho thấy mối quan hệ với nhau chất lượng hơn đáng chú ý so với những người chỉ có cuộc sống riêng và không thực hành tôn giáo.

Hơn nữa, đi nhà thờ chung còn có vẻ giúp đời sống tình dục hôn nhân mỹ mãn hơn. Dựa vào Khảo sát Đời sống Xã hội và Sức khoẻ Quốc gia của Viện Nghiên Cứu Hôn Nhân và Tôn Giáo Hoa Kỳ, những người từ 18 đến 59 đang trong đời sống hôn nhân hằng tuần thực hành việc thờ phượng cùng nhau, hầu hết đều cho biết họ có đời sống phòng the “tuyệt vời” hoặc “rất tốt” so với những người không có đời sống tôn giáo.

10 lời khuyên của Đức Phanxicô để sốt sắng tham dự thánh lễ

4. Sống thọ hơn

Dường như những người càng hướng về Thiên Đàng thì càng ở lại mặt đất lâu hơn… Theo một nghiên cứu năm 2016 của tạp chí Y dược Nội khoa JAMA, những người tham dự các buổi sinh hoạt tôn giáo hơn một lần mỗi tuần “giảm 33 phần trăm tỷ lệ tử vong so với những người chẳng bao giờ đến nhà thờ.” Các nhà nghiên cứu kết luận rằng có lẽ tôn giáo và tâm linh đã bị các nhà trị liệu đánh giá thấp hơn tiềm năng hữu hiệu của nó khi điều trị cho bệnh nhân của họ.

5. Giảm cao huyết áp

Một nghiên cứu năm 1998 của Thư Viện Y dược Quốc gia Mỹ cho thấy “những người già tích cực hoạt động tôn giáo có xu hướng ít bị cao huyết áp hơn những người không hoạt động tôn giáo.” Họ cũng cho biết: những người thường đến nhà thờ và đọc Kinh Thánh giảm 40% khả năng bị cao huyết áp so với những người chỉ đọc Kinh Thánh ở nhà; còn ai chỉ xem tivi về tôn giáo và nghe đài phát thanh tôn giáo thì lại có huyết áp cao hơn.

Vậy, đến nhà thờ có nhiều lợi ích hơn là chỉ hữu ích phần hồn. Sau tất cả, Thiên Chúa không cần chúng ta tham dự Thánh lễ vì nó giúp ích gì cho Người. Thực tế, chúng ta không nên chỉ đến nhà thờ với mong muốn lấy được cái gì từ đó. Thay vào đó, khi đặt việc tham dự Thánh lễ lên hàng ưu tiên, chúng ta không chỉ cải thiện quan hệ chúng ta với Thiên Chúa, mà còn giúp ta hoà hợp hơn với cộng đồng và củng cố quan hệ với người khác.

Theo Aleteia
Gioakim chuyển dịch

Đón nhận điều dữ

Đón nhận điều dữ

Satan hành hạ Giop” khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. Bấy giờ vợ ông bảo: ”Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa của ông và chết đi cho rồi!!” Nhưng ông Giop đáp lại: Cả bà cũng nói như mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” Trong tất cả những chuyện ấy, ông Giop không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi” (Jb 2, 7b-10)

Ông Giop là một người giàu sụ, giàu có nhất Phương Đông: ông có nhiều đàn súc vật, giàu của cải, giàu con cái, kẻ ăn người làm trong nhà thật đông.

 Ông là một người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông thương yêu, dạy dỗ con cái biết sống đoàn kết thương yêu nhau và nhân đức.

 Các con trai ông thường luân phiên đến nhà nhau tiệc tùng và cho người mời 3 cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Giop cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ vì ông tự nhủ: “Biết đâu con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! (Jb1, 1-5)

Thường tình nhân loại (thời đó và cả thời nay) thì cho rằng vì ông thánh thiện, công chính như vậy nên ông được Thiên Chúa thưởng cho giàu có. Đành rằng những gì chúng ta có được đều do bởi Thiên Chúa ban cho. Nhưng Ngài  không công nhận điều đó là thước đo con người thánh thiện hay công chính.

Một ngày kia dân Sơva xông vào cướp lấy đàn bò, lạc đà v.v… đang ăn cỏ và chém giết hết kẻ giúp việc. Cùng lúc thì thiên tai giáng xuống đốt cháy chiên dê, cuồng phong từ sa mạc thổi vào làm sập nhà và các con ông chết hết. Khi nghe đầy tớ trình bày tự sự như vậy, thay vì ông hoảng hốt, buồn rầu, tức giận, than khóc và nguyền rủa hay than van… như nhân thế thường tình

 nhưng ông lại: trỗi đậy, xé áo mình ra , cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi; xin chúc tụng danh Đức Chúa!”(Jb 1,20)

Một người gần gụi nhất, thương yêu nhất là người vợ, đầu ấp tay gối đã sinh ra cho ông mười người con mà cũng mắng nhiếc, nguyền rủa ông, bà nói  “hãy nguyền rủa Thiên Chúa của ông và chết đi cho rồi”

 Bà có những lời cay độc với ông và xúc phạm đến Đức Chúa như thế, ông cũng rất bình tĩnh, bình tâm mà “không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi“.

Ông chỉ khuyên bà: “Cả bà cũng nói như mụ điên, chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không đón nhận sao?”

Chúa ơi, sao mà ông Giop lại có thể bình tĩnh, điềm đạm đến như vậy được??? Hẳn ông có một sức mạnh mãnh liệt trong nội tâm, một nội lực thật thâm hậu lắm về lòng tin tưởng, về lòng yêu kính và phó thác mãnh liệt vào Đức Chúa thì ông mới có thể „ xin chúc tụng danh Chúa” trong lúc mất mát đau khổ cùng cực đến nhói tim, đắng lòng???!!!.

Con người ta mất chút của cải cũng đau lắm rồi, riêng ông ta mất hết tất cả: của cải, ruộng nương, đàn súc vật và nhất là cả con cái nữa, mà không hề có một lời than van, oán hận, trách móc Chúa hay trách móc ai cả???

Nhân thế thường tình từ ngàn xưa đến ngày nay vẫn luôn có ý nghĩ rằng những người giàu có của cải dư thừa là những người được Thiên Chúa ban thưởng và họ tự cho mình là những người được Chúa thương yêu, thánh thiện, công chính.

Còn những người nghèo, kẻ thiếu thốn là những người tội lỗi, bất hạnh nên không được Chúa ban thưởng.

Số đông những tín hữu Kitô giáo cũng nghĩ như vậy. Họ không biết rằng Chúa Giêsu
đã dạy: Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà bảo đảm đâu” (Lc 12,15).

 Chúa còn dùng dụ ngôn ông phú hộ phá kho lẫm cũ, xây kho lẫm mới để tích trữ của cải và thóc lúa, rồi tự hài lòng, nhủ lòng rằng Hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Và Chúa Giêsu đã mắng ông: “Đồ ngốc!, nội đêm nay người ta sẽ lấy mạng ngươi….” (Lc 12,19)

Những điều dữ từ con người đối xử với con người thì sao? Ta có biết đón nhận một cách bình an, bình tâm như ông Giop được không? 

Lạy Chúa, xin ban cho con một phần trăm đức tin và sự phó thác của ông Giop để con biết đón nhận cách bình an, những điều bất hạnh đến với mình như là một hồng ân để ca tụng Chúa. Amen.

Elisabeth Nguyễn

From: Tamlinhvaodoi

VỚI CẢ TÂM TÌNH

VỚI CẢ TÂM TÌNH

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi.  Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu.  Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được.  Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước.  Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”  Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa.”

 Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo.  Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm.  Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương.  Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc.  Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.  Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.

Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế.  Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài.  Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ.  Theo họ, đạo là lề luật.  Giữ trọn lề luật là giữ đạo.  Đặc biệt là luật thanh sạch.  Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế.  Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo.  Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế.  Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế.  Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế.  Ô uế là tội lỗi.  Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa.  Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.

Đức Giêsu chê trách họ là giả hình.  Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong.  Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm.  Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn.  Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.

Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn.  Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện.  Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu.  Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ.  Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa.  Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”

Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết.  Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong.  Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi.  Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt.  Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị.

Đạo Chúa không phải là hình thức.  Đạo Chúa là tình yêu.  Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng.  Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo.  Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.  Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.  Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.”

Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn.  Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực.  Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành.  Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ.  Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời.  Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu.  Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối.  Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa.  Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi.  Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương.  Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.

Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực.  Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo.  Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.

Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From: Langthangchieutim 

THẦN KHÍ…XÁC THỊT

THẦN KHÍ…XÁC THỊT

Ga 6,60-69

“xác thịt chẳng có ích gì”

Đúng là “xác thịt” chẳng có ích gì, có nghĩa là cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ suy… rất hạn hẹp.

Bởi cái nhìn của người chỉ thấy cái bên ngoài và cân đo đong đếm hay đánh giá theo cái thấy cái vỏ, rất ít khi đúng.

Vì thế : “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?”.

Quá đúng, tâm trí loài người nghe thế nào thì nghĩ thế vậy,không thể khác được, không thể xa hơn được, không thể sâu hơn được. “Tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đã nói : “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.

Thế là đánh bài chuồn : “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Loài người chúng tôi, con cháu E-và là vậy đấy !

Ngày hôm nay cũng vẫn là con cháu E-và, chỉ thấy cái đói khát nơi “xác thịt” (thân xác) là rõ nhất. Nhà nghèo, đói khát quá vẫn có quyền ăn vụng ăn trộm (chôm chỉa) mà không mắc tội cơ mà !

Nhưng còn nghèo nàn đói lả tâm linh thì khó mà thấy mà biết nên con người thường lo cho phần xác hơn là phần linh hồn.

Lo phần xác nhiều quá sẽ kéo theo phần hồn (thường là hướng chiều đi xuống).

Ngược lại, lo phần hồn (thiêng liêng) sẽ nâng thân xác lên (bay lên) khung trời mở rộng, bay xa bay cao…

Vậy là xưa và nay cũng chẳng khác nhau bao nhiêu !

“Thần khí mới làm cho sống”

Thần khí và sự sống là cái bên trong. Nhìn vào cái bên trong giúp cho người ta nhìn thấu đáo hơn, tinh tế hơn, tỉ mỉ hơn, chi tiết hơn, cảm thông hơn.

Cái thần khí của con người (thân xác, linh hồn và thần khí) là nơi để tiếp xúc với Chúa, đón Chúa vào trong để chính Chúa mới là sự sốngcho con người ấy.“Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”.

“Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?”

Ông Si-môn Phê-rô liền đáp : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

Ông Phêrô liền đáp, liền đáp vì ông thuộc loại nhanh mồm nhanh miệng và ông Gioan rất kính trọng ông Phêrô vì ông là tông đồ trưởng nên lời đáp của ông Phêrô thật tuyệt vời. (nói nhỏ : nặng lời với ông Giuđa Ítcariốt lắm “Thế mà một trong anh em lại là quỷ dữ !”)

Đức Tin là ân ban Chúa tặng trao cho con người một cách nhưng-không (vô điều kiện). Cái từ bên trong con người đó để con người giao tiếp gặp gỡ Chúa hằng ngày và làm cho con người có sự sống.

Sự sống đây chính bởi Chúa sẽ giúp cho con người can đảm vượt qua được những âu lo sợ hãi ;

giúp con người đứng vững khi gặp những thử thách đau thương và nếu có ngã thì ngã trong vòng tay yêu thương của Chúa.

Bừng lên sức sống mới trong một trời mới đất mới.

Xin Chúa Cha ban ơn ấy cho chúng con.

Ô, “ơn ấy” là gì nhỉ ? 

“Vì thế, Thầy đã bảo anh em : không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.”

OTC

From Tamlinhvaodoi

Giàu Có và Bỏ Mọi Sự

Giàu Có và Bỏ Mọi Sự

Mt 19,23-30

Giàu có

Trên đời này có nhiều thứ làm cho ta giàu có lắm.

– Giàu có tiền của, vàng bạc đôla nhà cửa đất đai ruộng vườn… yến tiệc linh đình, gấm vóc lụa là, ăn uống phủ phê…

– Giàu có kiến thức, tư tưởng kim cổ đông tây, bằng cấp học giả, tài giỏi năng khiếu, khôn ngoan thông minh, sáng suốt hơn người

– Giàu có địa vị, quyền cao chức trọng, lên xe xuống ngựa, uy quyền thống lãnh, kẻ đón người đưa, thích đứng ở ngã tư đường cho người ta chào hỏi xin phép bái lạy…

– Giàu có miệng lưỡi, nói khéo nói khôn, danh hiệu mồm vàng, thu hút hấp dẫn lôi cuốn đến nỗi bà góa đem của cải ra trao nộp hết….

– Giàu có đạo đức, lúc nào miệng cũng lâm râm cầu nguyện, đeo nhiều thẻ kinh, mặc áo tua dài, ngày đi dăm ba lễ, lần hạt dài mấy cây số, kể lể công phúc lập được…

“Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Người có tật thì hay giật mình, người giàu có thì hay hỏang hốt… mà các ông môn đệ chắc là giàu có lắm nên mới giật mình sửng sốt và còn vô cùng sửng sốt; hay là các ông lo cho số phận các nhà giàu không biết: “Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói :

“Thế thì ai có thể được cứu?”

Vậy thì giàu có của Chúa là giàu có thế nào? 

“Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói :

“Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” 

Theo tôi suy đóan (hay đóan mò lắm !), giàu có theo cách của Chúa là có Chúa đầy mình, kho tàng của mình là Chúa vì kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó.

Chúa kêu gọi con người sám hối hóan cải để thay đổi não trạng tư duy của mình. Từ một Thiên Chúa nhỏ nhen, tính tóan, cằn nhằn, hẹp hòi… sang một Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu, tha thứ, xót thương…

Bỏ mọi sự

Bỏ mọi sự trở nên túng bấn nghèo khổ cùng cực phải không ?

Bỏ hết mọi trở nên khù khờ cả lũ với nhau ý à ?

 “Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội”.

Gấp bội cái gì nhỉ ?

chẳng lẽ từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất lại được nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất gấp bội à ?

Lại suy bụng ta ra bụng Chúa nữa,

có phải là: Có Chúa là có Tất Cả, tất cả trong Tất Cả. Có Tình Yêu là có gấp bội, hẳn nhiên là vật chất có đó (có mà đầy) nhưng không chiếm hữu (không vun vét, tích cóp, dồn lắc).

Ngài đến trần gian nối kết mọi người vào trong Vương Quốc Tình Yêu.

Vậy ai là anh em, là chị em, là cha mẹ ?

Là những người thực hành Lời Chúa và thi hành Thánh Ý của Người. Người sống trong Vương Quốc Tình Yêu,

tất cả “sự vật” thuộc trần gian trở thành thứ yếu, trở thành phương tiện… đó là ý nghĩa của việc từ bỏ.

Một khi đã cảm nhận được Chúa là hạnh phúc là niềm vui là bình an thì Chúa cũng chính là sự giàu có của mình “và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp”.

OTC

From Tramtubensuoi gởi

  MÊ DÂM DỤC- Bài Giảng của Thánh Gioan Maria Vianney

  MÊ DÂM DỤC– Bài Giảng của Thánh Gioan Maria Vianney

MÊ DÂM DỤC

Sự chết, phán xét, Thiên Đàng, Hỏa Ngục, không làm cho họ sợ hãi tí nào, không có gì lay chuyển họ được. Trong các tội lỗi, tội mê dâm dục là khó diệt trừ nhất.  

Thánh Gioan Maria Vianney 

Mê dâm dục là sự yêu thích các thú vui nhục dục trái ngược với đức trong sạch. Không có tội nào làm suy nhược và phá hủy linh hồn nhanh chóng cho bằng tội đáng xấu hổ này; nó lôi kéo chúng ta ra khỏi bàn tay Thiên Chúa, và ném chúng ta như ném một cục đá vào trong hố sâu bùn lầy hôi thối. Một khi đã chìm trong đống bùn nhơ đó, chúng ta không thể nào thoát ra được. Trong đống bùn đó, chúng đào cho mình một cái lỗ; càng nhúc nhích, chúng ta càng làm cho cái lỗ ra to thêm, rồi từ từ chìm xuống. Rồi chúng ta đánh mất đức tin của mình, chúng ta cười nhạo tôn giáo, không còn mơ ước Thiên Đàng, không còn sợ hãi Hỏa Ngục nữa. Thật bất hạnh biết bao cho những linh hồn sống trong đam mê tội lỗi này! Linh hồn họ đẹp đẽ đến nỗi kéo được sự chú ý của Thiên Chúa để mắt nhìn, như khi người ta nghiêng mình trên một đóa hoa hồng thơm ngát, nhưng nay đã trở nên như một xác chết lâu ngày, mùi hôi thối độc hại của nó bay thấu tận trời cao.

Chúa Giêsu Kitô đã kiên nhẫn chịu đựng sống giữa các Tông Đồ, là những người đầy kiêu căng và tham vọng, thậm chí một người đã phản bội; nhưng Người không dính một chút bợn nhơ của họ; Người ghê tởm tất cả mọi tính hư nết xấu. Thiên Chúa phán: ”Thần Khí của Ta không ở trong người, nếu người chỉ là xác thịt và thối nát.” Thiên Chúa lìa bỏ tất cả những người tâm địa độc ác và dâm ô. Chúng để mình chìm đắm trong bùn nhơ như con heo hèn hạ, nhưng lại không ngửi thấy mùi hôi thối bốc lên. Người trơ trẽn như vậy thật đáng ghê tởm trước mặt mọi người, nhưng họ không ý thức được điều đó. Thiên Chúa đã ghi dấu ô nhục trên trán của họ, nhưng họ không cảm thấy xấu hổ; họ có cái mặt bằng đồng và một trái tim bằng đá; thật là vô ích khi nói với họ về danh dự đạo đức, vì lòng trí của họ đầy tự mãn và kiêu căng.

Các chân lý như: sự chết, phán xét, Thiên Đàng, Hỏa Ngục, không làm cho họ sợ hãi tí nào, không có gì lay chuyển họ được. Trong các tội lỗi, tội mê dâm dục là khó diệt trừ nhất. Những tội khác trói chúng ta bằng xích sắt, nhưng tội mê dâm dục trói chúng ta bằng xích da bò, loại da không bao giờ rách hay đứt; tội mê dâm dục là lò lửa làm ô uế cả những người lớn tuổi cao niên. Hãy xem hai ông già bỉ ổi bị cám dỗ về sự trong sạch đem lòng thèm muốn bà Susanna; họ đã giữ cơn sốt thời trai trẻ đến lúc già yếu. Khi thân xác kiệt sức vì trụy lạc, khi họ không còn thỏa mãn được những đam mê, thì họ thay thế bằng những ước muốn và ý tưởng dâm ô.

Gần đến giờ chết, họ vẫn còn nói về đam mê cho đến hơi thở cuối cùng; họ chết như lúc họ sống – cứng lòng; sự đền tội nào có thể bù đắp cho tội mê dâm dục này? Sự hy sinh nào có thể lay động họ ở giờ phút cuối cùng, những người suốt đời chỉ nghĩ đến những thú vui nhục dục? Liệu người ta có thể nào mong đợi một lần xưng tội đàng hoàng, một lần rước lễ sốt sắng từ những người, mà lúc trai trẻ có lẽ đã cố tình giấu giếm những tội lỗi ghê tởm và xấu hổ này, đã nhiều lần phạm thánh không? Liệu miệng lưỡi họ đã khép kín lâu nay, chịu mở ra ở giờ phút cuối cùng không? Không có điều đó đâu; Thiên Chúa đã bỏ rơi họ; nhiều lớp chì đè nặng trên người họ; và họ cứ đổ thêm vào. Nhưng hãy coi chừng, đó có thể là lần cuối cùng của đời họ.

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai

 Em đi rồi, sám hối chạy trên môi,

Suy Tư Chúa nhật thứ 21 thường niên năm B 26/8/2018

(Ga 6: 54a, 60-69)

Tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu tuyên bố:“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông:”Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.

 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin.”Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.

Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai:”Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”

    *      *      *

 “Em đi rồi, sám hối chạy trên môi,”

“Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng…”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 Mai Tá lược dịch. 

Nhà thơ buồn, vì người em rày đã đi. Em đi rồi, nhà thơ thấy sám hối chạy trên môi, nên tháng ngày vật vã cứ chĩu nặng trên vai buồn. Nhà Đạo lại rất vui mà ra về khi Tiệc Thánh đến hồi chấm dứt, lòng những mang theo bài sai Chúa nhắn nhủ, và gọi mời.

Trình thuật thánh Gioan nay kết thúc với lời cuối Tin Mừng ở chương 6 Chúa nói về “Bánh Hằng Sống” khiến người nghe thấy chướng tai, bèn bỏ Ngài lại một mình. Và khi đó, Ngài hỏi đồ đệ xem các thánh nhận xét ra sao về chúng dân, đồ đệ bèn quả quyết: ai bỏ Chúa thì cứ bỏ,nhưng các thánh không bỏ Thày và cũng chẳng đi đến nơi nào không có Thầy ở đó.

Cuối buổi Tiệc, dân con Chúa những tưởng Tiệc Thánh đã chấm dứt khi chủ tế giơ tay ban phép lành kèm lời nhắn: “Anh chị em hãy ra đi bình an.” Kỳ thực, lời chúc “ra đi” hay “ra về” bình an, đều hàm ẩn một thôi thúc dân con dự Tiệc hãy về với thế trần mang theo sứ vụ Chúa trao phó, cho mọi người. Nhưng, bài sai đây là sứ vụ gì? Thực hiện sứ vụ này ra làm sao? Kết quả dẫn đến sẽ thế nào?

Ở đây, dân con dự Tiệc vào phút cuối sẽ khám phá ra một hiện diện khác từ Tiệc Thánh. Đó là, sự hiện diện mặt-đối-mặt của các sự vật có tính cách chỉ như vật thể. Dự Tiệc, không là hiện diện bằng thân xác mà dân con/cộng đoàn từng trải nghiệm theo cung cách chủ quan, hạn chế. Nhưng, hiện diện đây là qui cách hiện hữu mà chỉ mình Chúa mới có. Chính đó là Hiện Diện theo nghĩa của việc tặng ban/cho đi. Cho một cách nhưng-không chẳng màng gì lợi danh, đổi chác hoặc đáp trả theo nghĩa “có đi có lại mới toại lòng nhau”.

Đức Chúa không tặng ban cho ta chỉ một hiện hữu có ích, Ngài cũng chẳng trông chờ ta cảm kích biết ơn để rồi tạo thành ràng buộc khiến ta mất tự do, chẳng thoải mái. Ngài cũng không muốn lấy đi giây phút hiện tại ta đang sống trong nhà Chúa như một sự thể chính đáng. Và, Ngài cũng không đánh giá quá thấp chuỗi ngày dài đầy những quá khứ hoặc tương lai đang trờ đến.

Ta tưởng đó như một hiện tại kéo dài để rồi thiết lập nên những mẩu chuyện nhỏ cho một tổng thể lớn. Tổng thể, là đường lối hoàn toàn khác cho thấy người đời vẫn đặt nặng mọi thứ hơn là hiện tại. Nhất là, hiện tại xảy ra ở cuối buổi Tiệc Thánh, vào lúc ta được bảo: hãy “ra đi” mà trở thành kẻ tản bộ trong ước mơ tuy chậm nhưng rất chắc, ở thế trần. Ra đi, vì bài sai Chúa gửi đến thế trần không do ta chọn và thiết lập, mà chỉ tuân thủ và thực thi.

Và, Hội thánh hôm nay cho thấy thái độ “đóng kín” không am tường bản chất của mình, nên đã không phản ánh cái đẹp của trần thế bằng việc thể hiện động thái của mình. Và, cũng vì không am tường bản chất của chính mình nên cũng không tạo ảnh hưởng nào lên trần thế hết.

Thành thử, khi nhận bài sai ra đi về với thế trần làm chứng nhân rao giảng Lời Chúa và sống cho Chúa, nhiều dân con đi Đạo cảm thấy khó mà sống thực niềm tin giữa lòng dân tộc, thời hiện đại. Bởi thếnên, nền văn hoá thời đại chẳng dám đón nhận sứ điệp của Đạo Chúa, nữa. Thế trần thời hiện đại, là chốn miền khiến ta khó mà sống niềm tin rất đích thực. Bởi, ngày nay người người vẫn dễ dàng sống theo lề thói rất vật chất, tự do vui hưởng lợi lộc do chủ thuyết tiêu thụ dọn sẵn ý hướng chệch choạc.

Ở đây cũng thế, không dễ gì có thể định hướng được tính khí của nhân loại để người người có thể ra đi mở rộng Nước Chúa, sống cho Chúa. Bởi lẽ, cơ chế xây dựng nên Hội thánh hôm nay ngày càng ít trở nên gương mẫu cho đời thường, ở trần thế. Và vì thế, Hội thánh càng xa rời đời sống của chúng dân. Vì, nơi thế trần hôm nay cũng vậy, ngày càng thấy ít đi các Tiệc thánh hiến tế hoặc Tiệc Lòng mến thân thương đông người dự. Số lượng linh mục phục vụ Tiệc ngày càng ít, kéo theo sự thể là sứ vụ rao giảng Lời Chúa ngày càng chất chồng lên đôi vai trần của một vài vị còn ở lại với thánh hội.

Từ đó, có mục tử cùng lúc phải coi ngó nhiều giáo xứ. Có vị phải bỏ nhiều giờ để tới vùng sâu vùng xa mà “rao giảng”.

Thế nên, hôm nay, nhu cầu đòi dân con dự Tiệc nhận bài sai “ra đi rao giảng Nước Trời” trở thành chuyện sống thực ở đời. Sống thực, là sống đúng ý nghĩa của Tiệc Lòng Mến biến cải thế giới thành chốn miền đặc biệt để sống và lao động. Hôm nay, hơn năm mươi năm trôi qua kể từ ngày Công Đồng Vatican II ban hành nghị định thư về sự sống còn của dân con nhận bài sai rao giảng, cho thấy đó là quan điểm cách mạng chứng thực vai trò giáo dân đã đến hồi nở rộ, đẹp đẽ. Tốt lành.

Vấn đề của giáo dân hôm nay, không nhằm khuếch trương Hội thánh theo số lượng tăng nhanh bao gồm sự việc và phong trào do Hội thánh chủ trương. Cũng chẳng là phải làm gì hoặc làm thế nào để số người đến nhà thờ ngày một đông, có thêm người đọc kinh, hát xướng. Mà là, sống thực cuộc sống có hiệp thông ta học được từ Tiệc Thánh xảy đến ngay trong trần thế rất khí thế.

Trở thành giáo dân đúng nghĩa, là ơn gọi nhận bài sai ra đi rao giảng Lời, chứ không phải chức vụ mình nhận để thực thi. Ơn gọi giáo dân đây, là ân lộc gọi mời mọi người trở nên dân con của Chúa bằng cuộc sống hiệp thông, rất thương yêu. Gọi mời mọi người trở thành dân con sống thực Lời Chúa trong một thế giới chỉ chú trọng vật chất. Sống thực Lời Chúa, là sống hiệp thông thương yêu trong khuôn khổ của trần thế.

Sống thực ở đây không là kinh nghiệm hiệp thông rước lễ rút từ Tiệc Thánh rồi phổ biến cho thế giới cũng làm như thế. Làm thế, khác nào biến thế giới bên ngoài thành chi nhánh của Hội thánh ở bên trong. Làm thế, tức như thể dân con mình không còn tôn trọng tính đặc biệt của thế giới bên ngoài và lại chỉ muốn tân trang đổi mới mặt ngoài của thế giới, thế thôi.

Sống thực Lời của Chúa, là cởi mở với tính chất rất trần thế nơi cuộc sống đời thường vẫn như thế; để rồi, từ đó khám phá ra sự thể của cuộc sống có hiệp thông, thương yêu rút từ Tiệc Thánh đang thăng tiến với thế trần. Mãi đến nay, Hội thánh vẫn chưa đạt thành tích về chuyện này. Hội thánh lâu nay vẫn hãi sợ “thế gian” rất phàm tục. Thế gian, là cụm từ Hội thánh ít muốn nghe đến. Thế gian, là từ ngữ về hệ thống giá trị mang tính phàm tục đối nghịch hệ cấp giá trị của thánh hội. Và Hội thánh vẫn cứ sợ cả những giáo dân bên trong thánh hội của mình một ngày nào đó sẽ qua mặt cả hệ cấp rất thánh nữa.

Nay, đã thấy một vài đổi thay trong thái độ của thế gian. Nhiều vị sống ở thế giới gian trần này, nay đã biết được rằng: song song với các vận động đề cao nhân quyền của dân thường và các vậnđộng bênh vực những người thuộc sắc tộc thiểu số cùng nghèo hèn, Hội thánh nay cũng tích cực đề bạt và bàn bạc với trần thế để đi đến hành động chính đáng. Nhiều vị trong Hội thánh, nay đã biết dân con mình dù sống trong trần thế, với “thế gian” vẫn nhận lãnh nhiều ân lộc từ Đức Chúa.

Vậy thì, việc đó nói lên điều gì? Và có từ đâu? Phải chăng từ bài sai “ra đi” mà hiệp thông, thương yêu. Hiệp thông thương yêu, là kết hiệp và cảm thông với những người khác mình, trong quan hệ thường nhật. Bởi thế nên, thông điệp ở đây hôm nay, là: nếu ta học được điều hay từ hiệp thông thương yêu trong thánh hội, thì hãy sống thực điều đó bên ngoài hội thánh. Sống được thế, sẽ mang đến cho ta một khí thế, rất sống động. Hiệp thông yêu thương, là biết tôn trọng mọi người để rồi cùng họ đem tình thương đến với người khác, dù theo cung cách rất đời thường, hoặc “thế gian”.

Giáo dân ta, nay là người có cơ may nhiều hơn triều thần giáo sĩ và tu sĩ do việc họ vẫn sống và làm việc ngay trong cơ cấu trần thế. Việc của giáo dân, nay là lập quan hệ với những người sống trong trần thế, theo cung cách rất thế trần. Như thế, và như thể chính giáo dân mới là người đóng đúng vai trò thừa sai có từ bài sai “hãy ra đi mở mang Nước Trời, ở trần gian”.

Vào lúc kết thúc buổi Tiệc Thánh, giáo dân dự Tiệc là những người vẫn được giáo triều sai bảo “hãy ra đi mà về với thế gian” để triển khai công tác tốt đẹp được Chúa ủy thác. “Hãy ra đi”, bởi nay quý vị được ủy thác công tác ra mà đi, vì đã có phép lành từ Đức Chúa của hiệp thông/thương yêu ở với mình. Ra mà đi, vì ngay tại nơi mình đến đã thấy rõ dấu hiệu của sự sống lại, rất trổi trang.

Ra mà đi, nhưng không hãi sợ trần thế rất “thế gian” khi xưa được gọi là kẻ thù thứ ba rất đáng sợ. Bởi, thế gian là ta và cũng là người, chứ đâu là quỉ. “Ra mà đi”, hầu nhận lãnh sứ vụ gửi đến con người và cho con người có đính kèm phúc lành, chứ không phải lời chúc dữ dành cho “kẻ thù” là quỉ sứ, đáng hãi sợ. Hãy hiên ngang mà ra đi, vì Đức Chúa vẫn ở với mình và với người, là thế gian Ngài thương mến.

Trong tinh thần phấn chấn mà ra đi, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa ngâm dở, ở trên, rằng:

            “Em đi rồi, sám hối chạy trên môi,

            Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng.

            Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn,

            Giữ hộ anh, màu áo lụa Hà Đông.

            Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,

            Giữ hộ anh, bài thơ tình lụa trắng.”

            (Nguyên Sa – Áo Lụa Hà Đông)

Thơ tình hay áo lụa, vẫn cứ là lời nhắn nhủ của thế trần hôm nay không còn là “kẻ thù” rất dữ tợn. Nhưng đã là mục tiêu của thánh hội được Chúa ủy thác một bài sai, bấy lâu nay.

            Lm Kevin OShea DCCT biên soạn

  Mai Tá lược dịch

From Vuisongtrendoi gởi