KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ 

KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ 

Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe.  Bài hát rất quen thuộc.  Đó là bài Ave Maria.  Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà.  Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.”  Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay.  Tại sao vậy? 

Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16.  Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới.  Họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ.  Họ đổ bộ lên Âu châu.  Đi đến đâu thắng đến đó.  Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý.  Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được.  Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất, và cả Âu châu cũng bị đe dọa.

Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.

Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng.  Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria.  Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng.  Sau này thành lễ Mân Côi.

Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị.  Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó.  Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.  Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái.”

Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác.  Đó là chiến thắng chính mình.  Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: “Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình.”

Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống.  Đức Cha Pul-ton-Shin nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội.  Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu, và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội.” 

Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người.  Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi.  Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình.  Tại sao vậy? 

Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm.  Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí.  Cũng tựa như nhau.  Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối.  Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân.  Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.

Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật.  Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy?  Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng.  Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?

Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ.  Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.

 Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung.  Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.

Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu.  Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại.  Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ.  Tôi đã từng nghĩ như vậy.  Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh.  Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại. 

Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này.  Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy.  Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh.  Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống….

Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối.  Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.

Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất.  Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó.  Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.

Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời.  Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người.  Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình. 

Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.

Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ.  Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ.  Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình.  Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng.  Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.

Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm.  Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi.  Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền.  Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi.  Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh.  Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn.  Amen!

ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

From NguyenNThu

LỜI CHỨNG VỀ CHÚA CỦA MỘT PHI CÔNG!

LỜI CHỨNG VỀ CHÚA CỦA MỘT PHI CÔNG!

Cơ trưởng Mafella cho biết cả ngày thứ Sáu hôm ấy ông cứ cảm thấy bồn chồn, bất ổn mà không hiểu lý do tại sao.

Để loại bỏ cảm giác giác bồn chồn, lo âu này, ông ấy đã lớn tiếng hát vang những bài hát thờ phượng, tôn vinh Chúa suốt đường đi từ thành phố Ujung Pandang đến Palu, (“Thường thì tôi chỉ hát lí nhí, ấp úng trong miệng mình nhưng ngày hôm đó thật sự tôi muốn ca ngợi Chúa hết lòng và tốt nhất có thể”, ông nói). Thậm chí một phi công khác, đồng nghiệp người Hồi giáo của ông ngỏ ý vui rằng tại sao ông không đi thu âm và làm một đĩa CD các bài hát thờ phượng.

Sau đó, khi họ chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay Palu, mặc dù lúc ấy bầu trời rất trong xanh nhưng gió thì lại rất mạnh và ông “nghe thấy một tiếng nói trong lòng mình”, rằng ông ấy hãy lượn một vòng trên bầu trời trước khi đáp máy bay xuống. Sân bay Palu nằm giữa hai dãy núi và điều này nhắc cơ trưởng Mafella về câu Kinh thánh được chép trong Thi thiên/Psalms 23:4

“Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi; Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi.”

Theo cơ trưởng, các phi công gọi các sân bay nằm giữa hai dãy núi là “thung lũng tử thần”, bởi vì khi đó họ phải hết sức cẩn thận khi hạ cánh, vì thế mà các phi công người Cơ đốc nắm lấy Thi thiên/Psalms 23:4 như một lời hứa vững chắc.

Một lát sau khi đã hạ cánh thành công, ông cảm thấy trong lòng rằng ông cần phải nhanh chóng rời khỏi đây. Do đó, ông chỉ thị cho phi hành đoàn của mình chỉ cần nghỉ 20 phút trước khi máy bay trở về thành phố Jakarta qua Ujung Pandang. Ông ấy thậm chí đã không rời khỏi buồng lái và xin phép Tháp kiểm soát không lưu cho phép mình khởi hành trước 3 phút. Ngay sau khi nhận được sự cho phép cất cánh từ nhân viên Cơ quan Kiểm soát Không lưu Indonesia, kiểm soát viên trẻ tuổi Agung [Anthonius Gunawan Agung] họ đã chuẩn bị cất cánh rời khỏi thành phố Palu. Cơ trưởng Mafella thừa nhận rằng vào thời điểm đó ông đã phá vỡ các thủ tục bay vì ông đã tiếp quản luôn cả công việc của đồng nghiệp mình bằng cách tăng tốc máy bay trong quá trình cất cánh. Ông không hiểu vì sao mình làm như vậy, chỉ biết là ông đã cứ giữ vững tay lái để tăng tốc máy bay trong quá trình cất cánh hôm ấy. Ngay cả khi, ông ấy thậm chí không biết rằng đã có một trận động đất tấn công vào thành phố Palu lúc đó, ông chỉ cảm thấy chiếc máy bay cứ lắc lư một chút sang trái và phải.

Theo cơ trưởng Mafella, nếu ông ấy cất cánh chỉ ba phút sau đó thôi thì ông ấy cũng đã không thể cứu được 140 hành khách trên máy bay, bởi vì lúc đó nhựa đường trên đường băng đã bị nứt ra, cứ dịch chuyển lên xuống như tấm màn bị thổi trong gió. Vài phút sau khi cất cánh, cơ trưởng đã cố gắng liên lạc với Tháp kiểm soát không lưu nhưng không nhận được bất cứ phản ứng nào từ kiểm soát viên Agung. Sau đó, cơ trưởng Mafella đã nhìn xuống dưới và chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ. Khi ấy, nước biển tại bờ đã tạo thành một lỗ thủng rất lớn “lớn đến mức có thể để lộ ra mặt đáy biển.”

Khi máy bay bay đến thành phố Ujung Pandang, cơ trưởng Mafella được cho biết đã có một trận động đất và sóng thần ở Palu, và kiểm soát viên không lưu, người hướng dẫn chuyến bay này của ông ở trong tháp kiểm soát, anh đã không rời khỏi vị trí cho đến khi đảm bảo chuyến bay cất cánh an toàn, đã thiệt mạng ngay sau đó. Chiều cùng ngày, trước khi cơ trưởng Mafella rời đi để bay đến thành phố Kuala Lumpur, ông đã nhấn mạnh rằng việc chúng ta nghe được tiếng nói của Đức Chúa Trời thật là quan trọng dường bao. Và dẫu cho điều gì xảy ra, chúng ta cũng cần phải hết sức bình tĩnh, đừng bối rối hay sợ hãi để có thể nghe được điều Đức Chúa Trời phán với chúng ta qua Đức Chúa Thánh Linh – ông cho biết thêm, vì khi ông đảm nhận luôn vai trò của đồng nghiệp mình để tăng tốc khi cất cánh, lúc đó viên phi công cùng lái trông rất sợ hãi vì thân máy bay cứ lắc lư, chao đảo qua trái rồi phải.

Nguyện lời chứng của cơ trưởng Mefella hôm nay khích lệ mỗi chúng ta và giúp chúng ta nhận lấy những bài học cho riêng mình và nhìn thấy được những ơn lành và phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho.

Tố Quyên dịch

(Nguồn: theelijahchallenge.orghttps://news.oneway.vn/loi-chung-tu-co-truong-mafella-truo…/

Image may contain: 1 person, smiling, airplane and text

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Trong số Mười Điều răn, có một điều bắt đầu bằng chữ ‘Giữ’ Giữ ngày chúa nhật.  Nó nhắc cho chúng ta nhớ về một điều mình đã biết.  Có các giới răn của lòng thương xót ghi sẵn trong DNA của chúng ta. Chúng ta đã biết, nhưng cần phải nhớ rõ ràng hơn.  Đó là gì?

Mười Điều răn của Lòng thương xót

  1. Nhớ rằng lòng thương xót nằm sâu thẳm nhất trong trái tim Thiên Chúa.

Hiếm có điều nào thể hiện yếu tính Thiên Chúa hơn là lòng thương xót.  Lòng thương xót là yếu tính của Thiên Chúa.  Kinh thánh dùng những từ ngữ như trìu mến yêu thương và cảm thương để cố gắng định nghĩa lòng thương xót Chúa, nhưng khái niệm kinh thánh trọng tâm, nắm bắt từ khái niệm hesed của Do Thái, bao hàm một mối quan hệ yêu thương, ôm lấy và tha thứ ngay cả khi và nhất là khi chúng ta không thể vươn đến hay xứng đáng với những gì Chúa ban cho chúng ta.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót là yếu tính của mọi tôn giáo.

Bên trong tôn giáo và linh đạo, bên trong mọi đức tin, có ba điều cần phải nằm ở vị trí trọng tâm, là hành đạo đúng hợp, vươn đến người nghèo, và lòng cảm thương.  Xét tận cùng, chúng không đối nghịch nhau, nhưng là những mảnh bổ trợ của một lòng đạo toàn diện.  Nhưng việc hành đạo và vươn đến người nghèo là sự mở rộng của tình yêu Thiên Chúa chứ không phải của bản ngã con người, chúng cần được căn cứ trên cảm thương, trên lòng thương xót.  Sâu thẳm bên trong mọi tôn giáo là một lời mời: Hãy động lòng thương, hãy thương xót như Thiên Chúa thương xót.

  1. Nhớ rằng tất cả chúng luôn mãi cần lòng thương xót.

Thiên đàng sẽ nhảy mừng vì một người có tội ăn năn hoán cải hơn là vì chín mươi chín người công chính.  Liệu Thiên Chúa yêu mến người có tội hơn là người công chính?  Chẳng có ai là công chính.  Đúng hơn là, chúng ta cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rõ ràng hơn khi thú nhận mình là người có tội.  Không một ai trong chúng ta đủ tầm.  Nhưng, như thánh Phaolô đã không ngừng dạy rằng, chúng ta không cần phải đủ tầm.  Đó chính là ý nghĩa của lòng thương xót.  Lòng thương xót dành cho những người không xứng đáng.

  1. Nhớ rằng, khi được nhận lòng thương xót, chúng ta phải thương xót người khác.

Chúng ta chỉ đón nhận và cảm kích lòng thương xót của Chúa và của người khác, khi chúng ta cũng thực hiện lòng thương xót đó với người khác.  Lòng thương xót phải đổ tràn qua chúng ta.  Nếu chúng ta không chuyển lòng thương xót đến với người khác, thì chúng ta sẽ trở nên nuông chiều bản thân và khắc nghiệt với người khác.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới cho chúng ta tự do.

Đón nhận và trao đi lòng thương xót, là điều duy nhất giải thoát chúng ta khỏi chiều hướng bẩm sinh của mình là mưu cầu bản thân, tự bào chữa cho mình và phán xét người khác.  Không có gì giải thoát chúng ta khỏi bạo chúa bản ngã cho bằng thực hành lòng thương xót.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót không mâu thuẫn với công lý, nhưng là thành toàn cho công lý.

Như hồng y Walter Kasper đã nói rất khôn ngoan, “Lòng thương xót là một dạng nước làm mềm vải, xói mòn giáo lý và giới răn, xóa bỏ ý nghĩa trọng tâm và nền tảng của chân lý.”  Đây chính là những gì mà người Pharisiêu cáo buộc Chúa Giêsu.  Lòng thương xót là khi công lý phải nhường bước.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới làm cho Nước Chúa trị đến.

Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng người hiền lành sẽ thừa hưởng địa cầu, người nghèo sẽ được ăn uống dư dật, và mọi nước mắt sẽ được lau khô.  Chuyện này chỉ có thể xảy ra khi lòng thương xót thế chỗ của tư lợi.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót cần phải được thực hành chung.

Sống lòng thương xót trong đời mình mà thôi, thì không đủ.  Lòng thương xót bị đẩy ra ngoài rìa khi xã hội không để tâm đủ đến những con người yếu đuối hay túng quẫn, và cũng bị đẩy ra rìa khi giáo hội xét đoán.  Chúng ta phải tạo một xã hội thương xót và một giáo hội thương xót.  Chỉ mình lòng thương xót mới có thể cho người yếu đuối được sống.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót kêu gọi chúng ta làm việc cả mặt thiêng liêng lẫn vật chất.

Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta biểu lộ lòng thương xót song song, vừa cụ thể vừa thiêng liêng.  Những việc làm lòng thương xót phần xác kinh điển là: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách đậu nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng người bệnh, thăm kẻ tù rạc, và chôn cất kẻ chết.  Những việc thương xót phần hồn kinh điển là: dạy bảo kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn dạy kẻ có tội, tha kẻ dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn khác nhau và tất cả chúng ta đều hơn người khác ở một điểm nào đó, nhưng lòng thương xót thì được biểu lộ trong mỗi một người chúng ta, không chừa một ai.

  1. Nhớ rằng cuộc sống của chúng ta là đối thoại giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người.

Điều duy nhất làm chúng ta xứng đáng là vì chúng ta bất xứng.  Chúng ta luôn mãi bất toàn, dù cho có mạnh mẽ, chân thành, thiện ý đến đâu chăng nữa.  Chỉ có lòng thương xót, khi đón nhận và trao đi lòng thương xót, chúng ta mới có thể ra khỏi những lo lắng, băn khoăn và vô vị cuộc đời mình.  Chỉ khi biết lòng thương xót, chúng ta mới biết tri ân.

Năm 2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn tất cả chúng ta sống một năm của lòng thương xót, để suy ngẫm mầu nhiệm lòng thương xót là “giếng nước niềm vui, thanh thản và bình an.”  Đức Giáo hoàng tin rằng Lòng thương xót là bí mật để cho thế giới thấy dung nhan đáng tin của Thiên Chúa, gương mặt khả tín của Giáo hội, và để cho chúng ta bước đi vững vàng trong cuộc sống.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lạy Chúa Giêsu xin ban cho con có lòng thương xót và biết thực hành lòng xót thương như Cha trên trời là Đấng đầy lòng xót thương.  Amen!

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Mỗi Người Đều Xứng Đáng Được Tôn Trọng

Mỗi Người Đều Xứng Đáng Được Tôn Trọng

Mục Sư Rick Warren

 “Hãy tôn trọng mọi người.” (I Phi-e-rơ 2:17a – BDM)

Lòng tôn trọng đã trở thành một giá trị có nguy cơ biến mất trong những thập niên qua.  Chúng ta đang sống trong “Thời đại bất kính”, nơi mà sự chế nhạo thống trị ngày đêm và mọi người yêu thích việc hạ nhục người khác.

Tuy nhiên, Kinh Thánh nói rõ rằng những gia đình ổn định – và những xã hội bền vững – được xây dựng chung quanh sự tôn trọng.  Kinh Thánh dạy chúng ta phải kính trọng cha mẹ, tôn trọng chính quyền, và tôn trọng những người lãnh đạo hội thánh.  Trong thư Ê-phê-sô, những người vợ được kêu gọi phải tôn trọng chồng mình.  Trong sách I Phi-e-rơ, những người chồng được kêu gọi phải tôn trọng vợ mình.  Để cho rõ rằng Kinh Thánh không bỏ sót một ai, Kinh Thánh cũng dạy chúng ta “hãy tôn trọng mọi người.” (I Phi-e-rơ 2:17a – BDM).

Mọi người, bất kể niềm tin gì hay hành vi như thế nào, đều xứng đáng được tôn trọng.

Tại sao như vậy?

  1. Chúa dựng nên mọi người.  Thi thiên 8:5 chép: “Ngài làm cho con người kém hơn Đức Chúa Trời một chút.  Ban cho con người vinh quang và tôn trọng.” (BDM).  Chúa không tạo ra những tạo vật vô dụng.  Không ai là không có giá trị cả.  Con người luôn có những quyết định sai lầm, nhưng họ vẫn quý giá đối với Chúa.  Ngay cả người không đáng được yêu thương nhất trên thế giới cũng vẫn được Ngài yêu thương.
  1. Chúa Giê-xu chết thay cho tất cả mọi người.  Kinh Thánh chép: “Vì anh chị em biết rằng chẳng phải bởi những vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh chị em được chuộc khỏi lối sống vô dụng thừa hưởng của tổ tiên, nhưng bằng chính huyết báu của Chúa Cứu Thế.” (I Phi-e-rơ 1:18-19a – BDM).  Có thể bạn không coi trọng một số người nào đó, nhưng Chúa luôn coi trọng họ.  Thật ra, Ngài nói rằng mỗi một người mà bạn gặp đều xứng đáng để Ngài chết thay.
  1. Điều đó bày tỏ rằng bạn biết Chúa.  Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời là tình yêu thương.  Nếu bạn biết Chúa, bạn sẽ làm tràn ngập đời sống bạn với tình yêu thương.  Kinh Thánh chép: “Ai không yêu thương thì không biết Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương.” (I Giăng 4:8).  Tình yêu thương luôn đối xử với người khác bằng sự tôn trọng.
  1. Bạn sẽ nhận lại bất cứ điều gì bạn cho ra.  Đó là quy luật của mùa gặt.  Gieo gì, gặt nấy.  Nếu bạn muốn được tôn trọng, bạn phải đối xử với người khác bằng sự tôn trọng.  Kinh Thánh chép: “Vì ai gieo điều gì thì sẽ gặt điều ấy.” (Ga-la-ti 6:7b).

 Thảo luận

Mỗi một người mà bạn gặp ngày hôm nay đều xứng đáng nhận được sự tôn trọng của bạn.  Điều đó sẽ thay đổi hành vi của bạn như thế nào?

Bạn gặp khó khăn nhiều nhất trong việc tôn trọng ai?  Tại sao như vậy?

Một vài cách nào bạn có thể “đổ đầy cuộc sống mình với tình yêu thương”?

From:: kimlecpa & NguyenNThu

Đường nên thánh

Bang Uong

Đường nên thánh

 

Phạm Minh-Tâm

Vào ngày 14-10-2018 sắp tới đây, Hội-thánh Công-giáo hoàn-vũ vui mừng về một tin vui cả-thể. Đó là Đức cố Giáo-hoàng Phao-lô VI được Đức đương kim Giáo-hoàng Phan-xi-cô cử-hành nghi-thức tôn vinh lên bậc hiển thánh. Và trong nỗi hân-hoan này, thiết-tưởng cộng-đồng Dân Chúa Việt-Nam – và toàn thể Hội thánh Chúa Ki-tô – cũng nên chia-sẻ những cảm-nghiệm đức tin về vị Cha Chung được vinh thánh này. Đang lúc người ta nhắc đến hành-trạng của Đức Giáo-hoàng Phao-lô VI với toàn là những việc “để đời”, thì người viết lại cứ quanh-quẩn với câu ngài nói đã thành thời-danh:”Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy. Hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là chứng nhân”…Bởi vì đã từ lâu, rất lâu nay, hai chữ “chứng nhân” vẫn là nỗi băn-khoăn, niềm mong đợi và tìm kiếm của cộng-đồng tín-hữu Việt-Nam.

Và quả-thực, trong suốt triều-đại giáo-hoàng của mình, Đức Phao-lô VI đã hành-xử quyền Tông-toà trong các hành-động liên-tục theo ơn-nhưng-không với lòng trách-nhiệm…đã làm việc theo “đấng bậc mình” không chút đơn-sai.

Điều mà người ta nhớ đến Đức Phao-lô VI trước hết và trên hết là ngài đã kế-tục một công-trình nhiều khó-khăn của vị tiền-nhiệm là Thánh Giáo-hoàng Gio-an XXIII, để hoàn-tất Công-đồng Vatican II. Công-đồng này đã mở đầu một kỷ-nguyên quan-trọng trong lịch-sử Hội thánh Công-giáo hoàn-vũ. Bởi vì, mọi văn-kiện của Công-đồng Vatican II đã như một nguồn sáng mới soi rọi lại nhiều vấn-đề trong Hội-thánh như Phụng-vụ, Lời Chúa, Đại-kết, Tự-do tôn-giáo và nhất là định rõ vai trò của Hội thánh trong thế-giới ngày nay…Tất cả không chỉ đòi hỏi một nỗ-lực mà còn là một ý-thức tâm-linh cao-độ khởi đi từ các nhân-đức Tin – Cậy – Mến…

Trong tấn thảm-kịch thông-thường của con người, một thảm-kịch mà ánh sáng càng tăng thì định-mệnh con người lại càng ra đen tối. Bởi thế, nhận-định ấy phải được triển-khai bằng một cuộc đối-thoại với thực-tại thần-linh; nghĩa là tôi bởi đâu mà ra và chắc-chắn tôi sẽ đi về đâu theo ánh sáng của Đức Ki-tô, như cây đèn đặt vào tay cho chúng ta hoàn-thành cuộc vượt qua vĩ-đại… Tôi được chọn làm Giáo-hoàng; sự kiện này chứng-tỏ hai điều: một là sự hèn-mọn của tôi và hai là sự tự-do của Thiên Chúa, một sự tự-do đầy nhân-từ và mạnh-mẽ…(Đỗ Xuân Quế – Suy-tư của Đức Phao-lô VI về sự chết…trang 8).

Công-đồng Vatican II được hình-thành từ nhiều trở-ngại trong quá-khứ. Vào năm 1870, Đức Giáo-hoàng Pi-ô IX triệu-tập Công-đồng Vatican I, tuyên-bố quyền tối-thượng và ơn bất-khả-ngộ của Giáo-hoàng; đồng thời, lên án chủ-trương độc-lập của Giáo-hội Pháp và nhiều vấn-đề quan-trọng khác thuộc Giáo-hội. Song Công-đồng này phải ngưng vào ngày 20-10-1870 và đình-hoãn vô-hạn-định với biến-cố Giáo-phận Rome bị sáp-nhập vào nước Ý. Khi Công-đồng Vatican II được công-bố triệu-tập thì đã có nhiều ý-kiến về tên gọi, vì cho rằng đây chính là sự tiếp nối công-trình của Vatican I, mà phần lớn các vấn-đề đã bị bỏ dở. Vì vậy, vào ngày 07-12-1959, Thánh Giáo-hoàng Gio-an XXIII đã chính-thức dùng tên Công-đồng Vatican II để khai-hội và kéo dài sang đến triều-đại Đức Giáo-hoàng Phao lô VI mới kết-thúc.

Điều đăc-biệt, Công-đồng Vatican II được triệu-tập không theo truyền-thống sẵn có là chỉ triệu-tập công-đồng khi Hội-thánh cần phải công-bố một định-tín hay giải-quyết các khúc-mắc quan-trọng. Trong hoàn-cảnh lúc đó, Giáo-hội không gặp phải biến-cố hay khủng-hoảng nào rõ-rệt cả mà chỉ vì hậu-quả của hai cuộc thế-chiến và sự phát-triển nhanh chóng của khoa-học đã ảnh-hưởng nhiều đến hướng hành-đạo và sống đạo của người Ki-tô hữu, cho nên có nhiều vấn-đề để Công-đồng này cần phải đặt ra, nhất là đặt trọng-tâm vào cách-thế có mặt của Hội-thánh trong thế-giới hiện-đại cùng với sự hiệp-nhất Ki-tô hữu.

Với hướng hàng đầu nhắm vào sứ-vụ truyền-giáo của Giáo-hội, Đức Giáo-hoàng Phao-lô VI đã có cách nhìn cởi mở và chịu đối-thoại với thế-giới bên ngoài như một sự canh-tân cần-thiết. Trước hết là phải kể đến chủ-trương đối-thoại với cộng-sản, với các anh em trong cộng-đồng Ki-tô giáo, với các tôn-giáo khác và ngay cả với những người không có tín-ngưỡng. Ngài cũng bãi-bỏ một số quy-chế trong tổ-chức của Giáo-hội như chuyển sinh-hoạt phụng-vụ từ tiếng La-tinh sang tiếng bản xứ; tổ-chức lại thành-phần nhân-sự trong nhiệm-vụ giữ trật-tự an-ninh của Tòa-thánh; giảm bớt con số cảnh-vệ gốc Thụy Sĩ; bỏ việc dùng vương-miện cũ của giáo-hoàng và các lễ-phục mang sắc-thái vương-giả cao-sang, vì ngài từng khẳng-định rằng…giáo hoàng không phải là một vị vua, nhưng là một giám mục, một mục tử, một nô bộc…Ngài cũng chấm dứt truyền-thống về nghi-thức mỗi khi khai-mạc Năm Thánh thì giáo-hoàng lấy búa đập vào bức tường che Cửa Thánh; ra quyết-định sau Năm Thánh 1975 không cho xây bức tường che Cửa Thánh trong đền thánh Phê-rô nữa.

Tưởng cũng cần mở ngoặc để nhắc đến ở đây một sự-kiện “để đời” nơi Giáo-hội Việt-Nam, thoát-thai từ Tông-hiến Laudis Canticum : vào ngày Lễ Các Thánh, 1-11-1970, Đức Phao-lô VI ban-hành Tông-hiến Laudis Canticum, chính-thức công-bố về việc dùng sách nguyện của Hội-thánh là Các giờ kinh Phụng-vụ…Bài Ca Chúc Tụng Thiên Chúa hằng vang dội muôn đời trên Thiên-quốc, đã được Chúa Giê-su Ki-tô, Vị Thượng-tế của chúng ta đưa vào trần-thế. Bài ca này, Hội-thánh không ngừng tiếp-tục hát lên, qua những hình-thức vô cùng phong-phú với một tấm lòng bền vững trung-kiên”. Và trong Tông-huấn này, có một sứ-điệp gửi đi “…Các Hội Đồng Giám Mục trong mỗi quốc gia có nhiệm vụ phải cho xuất bản sách này bằng tiếng nước mình…” đã là cơ-duyên cho một nhóm giáo-sĩ, linh-mục, tu-sĩ Việt-Nam được thể-hiện khả-năng Chúa cho mà phục-vụ Giáo-hội quê-hương mình. Đó là Nhóm Các Giờ Kinh Phụng-vụ ra đời vào năm 1971, với các thành-viên toàn là linh-mục, tu-sĩ có trình-độ cao về học-thức, về chuyên-môn, về ngoại-ngữ và cổ-ngữ; thậm-chí còn đã từng hay đang là Bề Trên Dòng, là Giám-tỉnh, là giáo sư Đại-chủng-viện…và tính cho đến nay cũng đã cống-hiến rất nhiều cho Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam.

Đức Phao-lô VI cũng bỏ truyền-thống lâu đời của các giáo-hoàng vốn không ra khỏi Vatican. Ngài đã thực-hiện hàng loạt các cuộc tông-du qua nhiều miền đất của thế-giới như những cuộc hành-hương và tuy mỗi chuyến đi mang mục-đích khác nhau nhưng tựu-trung cùng trong tâm-tình viếng thăm thế-giới vì lợi ích của con người. Ngài đến Jérusalem, Jordanie, Istambul…để gặp gỡ các thượng-phụ của Chính-thống-giáo Ðông-phương vì muốn cùng anh em ly-giáo hoà-giải bớt những bất-đồng gây phân cách, đã xin lỗi Thượng-phụ Bartholomeo của Constantinople và kết-quả đem lại là đã cùng Thượng-phụ Giáo-chủ Athenagoras của Giáo-hội Chính-thống Constantinople xé bỏ án tuyệt-thông mà cả hai đã gieo vạ lẫn cho nhau từ năm 1054. Ngài đến Hoa-kỳ để đọc diễn văn tại Đại Hội-đồng Liên-hiệp-quốc lên án chiến-tranh và kêu gọi hòa-bình thế-giới. Ngài gặp Giáo-chủ Hồi-giáo trong tinh-thần đối-thoại và Tổng Giám-mục Canterbury của Anh-giáo để giảm bớt sự xa cách từ một quá-khứ ly-khai. Đến Châu Mỹ La-tinh, Ấn-độ, Pakistan, Columbia, Philippine, Uganda, Bồ-đào-nha, Thuỵ-sĩ …và gặp nhiều nguyên-thủ các quốc-gia… cũng không ngoài mục-đích viếng thăm theo tinh-thần phúc âm hóa đời sống và Ki-tô hoá xã-hội. Ki-tô hoá không phải là rửa tội cho người ta vào đạo mà là thể-hiện tinh-thần bác-ái, huynh-đệ như Chúa Ki-tô dạy, là truyền-đạt Giáo-lý của Đức Ki-tô bằng tâm-tình đi tìm hoà-bình và công-lý cho con người. Là lên tiếng bênh-vực cho nhân-quyền, nhất là quyền làm người và quyền sống.

Ủy-ban “Công lý và Hòa bình” của Giáo-hội đã được lập năm 1967. Tiếp đến là Thông-điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae) ban-hành vào ngày 25-7-1968, xác-nhận lại quan-điểm của Giáo-hội Công-giáo không chấp-nhận các phương-pháp ngừa thai nhân-tạo như ngài đã từng tuyên-bố… là chuyên-gia về nhân-loại, chúng tôi tôn trọng con người…Vào năm 1971, để cổ-võ việc đấu-tranh cho quyền-lợi các nước nghèo, Đức Phao-lô VI công-bố Thông-điệp “Phát triển các Dân tộc” …

Tóm lại, với thời-gian tại vị không lâu nhưng Đức Phao-lô VI đã làm việc trong sự mẫn-cán tuyệt-vời của một mục-tử yêu thương đoàn chiên; của người tự nhận mình là…chuyên-gia về nhân-loại nên đã không bỏ sót một khía cạnh nào thuộc đời sống con người…cho đến cuối đời …Nhưng bây giờ trong buổi hoàng-hôn sáng tỏ này cộng thêm với ánh sáng cuối cùng của buổi chiều, điềm tiên báo hừng đông muôn thuở, một tư-tưởng khác làm tôi bận trí, đó là nỗi lo-lắng phải làm sao lợi-dụng giờ thứ mười một, là sự vội-vàng phải làm một cái gì quan-trọng trước khi quá muộn. Làm thế nào để sửa lại những gì mình đã làm không tốt; làm thế nào để lấy lại thời-gian đã mất; làm thế nào để nắm được điều cần duy nhất trong giai-đoạn cuối cùng còn được chọn này… Con theo Chúa và con thấy rằng con không thể lẻn ra khỏi sân khấu cuộc đời này. Có hàng ngàn mối dây ràng-buộc con với cộng-đồng nhân-loại, với Hội-thánh. Những mối dây này tự chúng sẽ tan đi, nhưng con không thể quên được những người có liên hệ với con, chờ đợi con làm một vài bổn-phận cuối cùng…( Đỗ Xuân Quế. Suy-niệm của Đức Phao-lô VI về sự chết…trang 10…13)

Giờ đây, trong tâm-tình tín-thác nơi ơn vô-ngộ của Hội thánh và của những định-tín khi người đại-diện Thánh Phê-rô công-bố trên toà, xin Chân-phước Phao-lô VI sắp được nâng lên hàng Hiển-thánh, cầu-bầu cho dân-tộc Việt-Nam chúng con đủ sức mạnh thắng vượt cơn khốn-khó. Cho mọi anh em trong Hội thánh Công-giáo Việt-Nam chúng con và những người đang trong trách-nhiệm lãnh-đạo Chúa giao, biết theo được gương sống đạo và làm việc theo lương-tâm ki-tô hữu của ngài; xin cho tất cả những ai chỉ vì muốn cầu-an, sống vô-cảm, chối bỏ trách-nhiệm liên-đới với xã-hội, với anh em đồng-bào mà đã vô-tình hay cố ý lý-luận rằng khi nói đến việc đấu-tranh cho quyền-lợi người nghèo, cho người bị đàn-áp bất-công, đòi nhân-quyền, đòi tự-do tôn-giáo, đi tìm công-lý và hoà-bình…như ngài đã từng dấn-thân tìm kiếm là những việc phạm đến chính-trị. A-men

Các Nhà Truyền Giáo thời đại. (phần 2)

  Các Nhà Truyền Giáo thời đại. (Phần 2)

Phan Sinh Trần 

1)Cha Pallu truyền giáo tại Ni-giê-ria Phi Châu

Một đặc điểm ở một số các vùng truyền giáo Phi Châu, Trung Đông, là sự hiểm nguy cho tính mạng của Nhà Truyền Giáo, nhất là ở những nơi đạo Chúa bị cấm cách, thù ghét hay bị cho là dị biệt với Hồi Giáo. Chỉ tính riêng tại nước Ni-giê-ria trong vòng chưa trọn năm 2018, đã có trên 6000 Ki Tô hữu bị dân quân vũ trang giết hại đa phần là phụ nữ, người già và trẻ em, trong số tử đạo có các linh mục và tu sĩ. Vào một cuối tuần của tháng 6, 2018 có 238 người theo đạo Chúa bị tàn sát ở tiểu bang cao nguyên, Ni-giê-ria. (https://www.express.co.uk/news/world/981611/christian-persecution-christianity-nigeria).

…Vào ngay thời điểm này, cha Pierluigi Maccalli thuộc dòng “Truyền Giáo Phi Châu” công tác mục vụ ở Ni-giê-ria vẫn còn đang bị mất tích. Vụ bắt cóc xảy ra vào đêm 19 tháng 9, 2018 ở vùng sát với biên giới gần nước Bur-kina Faso.

Phải, sẽ đến giờ mà ai giết các ngươi sẽ tưởng thế là tôn thờ Thiên Chúa. (Gioan 16:2)

Năm Ngoái, thông tấn xã CNA và đài TV EWTN tường thuật lại câu chuyện Cha Maurizio Pallu, 63 tuổi, linh mục Ý Đại Lợi, đi truyền giáo ở nước Ni-giê-ria, bị bọn tội phạm gồm tám tên trang bị vũ khí súng ống, chúng chận đường khi đoàn đang di chuyển trên đường từ Calabar tới thành phố Benin vùng cực nam của Ni-giê-ria, chúng cướp và bắt cóc Cha Pallu và hai thành viên của đoàn tông đồ “Con Đường Tân Dự Tòng” truyền giáo cùng đi trong xe vào ngày 12 tháng 10, năm 2017.

Trong lúc bị bách hại, Cha Pallu lúc đầu cũng hoang mang lo sợ khi nghĩ đến sinh mạng đang treo lơ lửng và cảm thấy mình chưa sẵn sàng để chết, Cha kể:

–  Tôi thưa với Chúa, con chưa đền đủ tội của con, nếu Chúa muốn con chết thì xin cho con được ơn và Thần Khí sức mạnh để chết như một người Ki tô hữu và dâng hiến đời sống mình (cầu chuộc) cho những người này vốn dĩ đã giết con.

Dẫu vậy, Cha nhớ lại những nhu cầu khác và đệ đạt với Chúa:

–  Xin Chúa cứu lấy sinh mạng con và con xin hứa rằng con sẽ tiếp tục công bố Tin Mừng với sự nhiệt thành gia tăng gấp đôi.

Trong tình huống nguy nan, Cha có thể chứng nghiệm sức mạnh của lời cầu nguyện qua kinh Mân Côi thể hiện rõ dần trong thời gian năm ngày bị bắt giũ. Vào lúc Ngài chỉ còn giữ được một cỗ tràng hạt, bởi vì bọn bắt cóc đã cướp đi thánh giá nhỏ bằng vàng và khi bị bắt bất ngờ, Cha đã không mang theo mình Kinh Thánh hay sách kinh Nhật Tụng :

–  Tôi chỉ có tràng chuỗi này, và bọn họ đã thấy tôi liên tục cầu kinh Mân Côi thành tiếng nho nhỏ. Tôi bảo họ rằng “Tôi cầu cho các anh nữa”, thế rồi … tôi thấy được sức mạnh của sự cầu nguyện, cho dù tôi là một người có đức tin nhỏ bé, tôi chỉ làm điều mà tôi có thể làm được nhưng đâu phải chỉ có lời nguyện của tôi mà còn có sự hỗ trợ nguyện xin của cả Hội Thánh Toàn Cầu cho sự vụ này.

Dần dần, Cha bắt đầu tạo được mối liên hệ với thủ lĩnh của bọn cướp, và có dịp nói chuyện với bọn họ. Cha kể:

–  Tôi có thể bảo anh ta rằng tôi coi anh như là một huynh đệ của mình và tôi đang cầu nguyện cho mấy người anh em. Điều tôi lưu ý được đó là, anh ta đã thay đổi dần trong cách nói và thái độ khi đối xử với chúng tôi, mấy ngày sau này, hễ tôi nhẹ nhàng nói với anh “tôi đang cầu nguyện cho anh”, đáp lại, bằng một giọng thành thực “Được, Cha hãy cầu nguyện cho tôi”.

Cha Pallu kết luận:

–  Tôi được sự can thiệp đặc biệt của Mẹ đồng trinh Maria, nhất là ơn của Đức Mẹ Fatima bởi vì cách Ngài hóa giải kế hoạch hãm hại, âm mưu đe dọa của thế lực sự dữ thật là hiển nhiên (qua việc hoán cải tâm hồn của thủ lĩnh băng cướp).

Cuối cùng, bọn cướp thả cho ba người được ra đi.

Cha Pallu là linh mục chứng nhân Tin Mừng tại Ni-giê-ria trong suốt ba năm qua, Cha bị bắt cóc lần này là lần thứ hai, trước đó Cha bị giữ vào ngày 13, tháng 10, năm 2016. Tuy nhiên ở lần đầu bị nạn, Ngài được thả ra chỉ sau một tiếng rưỡi đồng hồ bị nhóm vũ trang giam giữ. Tốt nghiệp cử nhân sử học, cha được ơn gọi đi tu làm linh mục triều, tiếp theo ơn gọi của Chúa tiếp tục dẫn đưa Cha vào con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Cuộc đời của Cha đã trải qua 11 năm đi truyền giáo tại nhiều nước khác nhau.

Khi vị linh mục vốn xuất xứ từ Giáo Phận Rô Ma quay trở lại Ý Đại Lợi vào ngày 18, tháng 10, 2017 rồi sau đó được triều kiến Đức Thánh Cha Phan xi cô, nghe chuyện bắt cóc và được thả, người vui vẻ dịu dàng hỏi Cha Pallu “Thế rồi, khi nào con lại quay về (chốn xưa)?”

Ma Quỷ không chịu thua khi nhìn thấy cánh đồng truyền giáo của Chúa có thành quả đang nở rộ ở Ni-giê-ria, chúng gieo rắc chia rẽ và thù hận, có các nhóm Hồi Giáo quá khích như Boko Haram truy bức, bắt cóc và giết hại Tín Hữu Thiên Chúa Giáo. Tuy nhiên, càng bách hại, Đạo Chúa lại càng phát triển, hạt giống tử đạo nảy sinh muôn vàn hoa trái phúc âm, lúa chín đầy đồng với hàng triệu người Ni-giê-ria đón nhận đức tin mới. Trong vòng chưa tới mười năm, từ 2001 tới năm 2010, con số tín hữu gia tăng thêm hơn tám phần trăm, từ 40% lên đến 48.3%. Hiện nay, Thiên Chúa Giáo trở thành đạo có nhiều người tin theo nhất, khoảng 89 triệu Ki Tô hữu, người Công Giáo chiếm khoảng một phần tư trong số đó.

Khi được nhà báo hỏi về sự quay trở lại quốc gia cũ đang đắm chìm trong bạo lực có là một điều dại dột? Cha Pallu trả lời rằng ngài không sợ âm mưu của Quỷ, bọn chúng vốn đã bị đánh thua, bị bại trận nhờ vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giê Su Ki Tô:

– Ở nước Ni-giê-ria, bây giờ là thời kỳ hồng ân. Quỷ phải rất sợ hãi vì chúng bị sổng mất nhiều linh hồn quay về với Chúa nên chúng quay ra tấn công đoàn hai lần qua việc bắt cóc. Tôi muốn dẫn chứng lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, “Lục địa Phi Châu là tương lai của Giáo Hôi”

Xin Chúa Mẹ thương đến dân tộc Ni-giê-ria đang phải gồng mình trong bách hại và bạo lực khi họ muốn vươn lên đón nhận Tin Mừng và ôm ấp hy vọng rạng ngời của Đức Tin.

2Tín Hữu Yun truyền đạo ỏ Hồ Nam, Trung Quốc.     

 Ở các quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản, vấn đề bách hại tôn giáo còn khốc liệt hơn gấp nhiều lần so với các quốc gia Hồi Giáo. Năm 1970 phái đoàn dân biểu quốc hội Hoa Kỳ qua thăm Trung Hoa Cộng Sản, khi họ trở về đã cho biết “Không còn một người tín hữu Ki Tô nào sót lại ở Trung Cộng”, trước đó, từ năm 1958 chính Giang Thanh vợ của Mao Trạch Đông thủ lĩnh Cách Mạng Văn Hóa tuyên bố: “ Ki Tô Giáo ở Trung Hoa đã bị khai tử, nhốt vào bảo tàng lịch sử. Nó chết rồi và bị chôn vùi”. Các nhà thờ không thuộc giáo hội quốc doanh đều bị đóng cửa (Phong trào tam tự ái quốc do chính quyền thiết lập năm 1957), linh mục, giám mục, mục sư Tin Lành chân chính bị giết hại hoặc giam cầm cho chết dần mòn trong các trại cải tạo, sách Kinh Thánh bị đốt và cấm đọc.

Làm sao Chúa có thể đem ánh sáng Tin Mừng đến cho dân tộc Trung Hoa đáng thương?                   

Chúa có bỏ rơi con chiên cho đàn sõi vô thần hùng mạnh, dữ dằn chăng?                                            

Chúa Thánh Thần sẽ sáng tạo cách thế nào để loan báo Tin Mừng tại Trung Quốc?

Chúa có nhiều cách rất phong phú và tài tình để cứu đàn chiên và làm cho Trung Hoa trong tương lại, rồi mai đây, lại trở thành một nước có nhiều người Tin Chúa nhất trên địa cầu, một tiêu biểu là câu chuyện của Anh Yun, người Hà Nam, Trung Quốc, trong vùng nông thôn nghèo đói, nhà tranh vách đất u tối và dột nát, nơi đó, cả làng đều bỏ Đạo, các em nhỏ không biết Chúa là ai. Trong tự chuyện, anh Yun kể lại như sau:

–  Vào năm 1974, khi Cách Mạng văn hóa còn đang hoành hành, cha tôi bị bệnh ung thư phổi, ung thư lan xuống bao tử. Bệnh rất nặng, làm cho không thở được. Bác sĩ nói với mẹ của tôi, “không còn hy vọng chữa trị gì cho ông chồng bà, hãy đem về nhà lo chuẩn bị đám tang”. Gia đình làm nông rất nghèo, đem Cha về nhà, chúng tôi vẫn dồn hết sức lực cho việc chạy chữa, không còn tài sản nào có thể đem bán, năm anh em Yun phải đi ăn xin hàng xóm để sống sót qua ngày. Họ chạy tìm mọi nguồn lực, mời thày cúng, làm đủ cách mà bệnh tình của người Cha tiếp tục nặng, mẹ của Yun lo lắng, sợ hãi quá phát rồ dại, bà định tự tử. Một đêm nọ, vừa mơ mơ màng màng thiếp ngủ, chợt bà nghe rõ, có tiếng nói dịu dàng, thương cảm cất lên “Chúa Giê Su yêu con”. Nghe xong, bà liền vùng dậy, choàng tỉnh, nhận ra hoàn cảnh của mình với Chúa, bà quỳ gối xuống sàn đất và bắt đầu nhỏ nước mắt ăn năn khóc cho tội lỗi của mình, giống như cảm nhận của một người con hoang đàng muốn quay về nhà, bà cảm thấy muốn trở lại nhận Chúa làm Thượng Đế, đấng trên hết của mình. Rồi bà gọi hết mọi người trong nhà đến để cầu nguyện với Chúa, bà bảo họ “Chúa Giê Su là hy vọng duy nhất cho Bố các con”, khi được bà kể lại những gì đã xảy ra cho Mẹ, tất cả chúng tôi phó thác đời sống mình cho Chúa, rồi chúng tôi đặt tay lên mình Cha và cả đêm hôm đó, chúng tôi vừa khóc vừa nói lải nhải một câu cầu xin “Chúa Giê Su, chữa cho Cha. Chúa Giê Su, chữa cho Cha”. Tảng sáng hôm đó, Cha cảm thấy đỡ hơn nhiều, lần đầu tiên sau nhiều tháng, ông muốn ăn. Chỉ trong vòng một tuần lễ, ông được hoàn toàn bình phục, chẳng thấy còn một dấu vết nào của bệnh ung thư và sống khỏe mạnh. Cả nhà của tôi quay về làm con Chúa và bắt đầu muốn chia xẻ niềm vui về Chúa.

Thế là công cuộc làm chứng về Chúa và phục hồi Đạo bắt đầu trong ngôi làng bỏ Chúa của Yun, anh kể:

– Cha Mẹ tôi rất biết ơn Chúa về những gì mà Ngài đã làm cho Cha, đến độ họ muốn chia sẻ tin tốt lành này cho hết mọi người dân làng ngay lập tức, họ có kế hoạch cho con nít trong nhà lén đi mời thân thuộc và bạn hữu đến nhà của chúng tôi. Ai cũng đinh ninh được mời đến tẩm liệm cho Cha vừa qua đời, nào có ngờ, đến nhà, họ được Cha tôi ra tận cửa vui vẻ, khỏe mạnh đón chào, mời vào trong nhà. Sau khi mọi người tề tựu đông đủ, Cha Mẹ tôi đóng cửa, cài then, che rèm của sổ và kể cho mọi người hiện diện về phép lạ nhiệm mầu của Chúa đã làm cho gia đình. Rồi, tất cả thân hữu đều quỳ xuống xin tiếp nhận Chúa là chủ của đời mình. Mẹ tôi dù là một người thất học, không biết đọc, biết viết nhưng lại là người đầu tiên thuyết giảng về Chúa cho dân làng. Nhớ lõm bõm câu Kinh Thánh nào thì nói ra rồi kêu gọi chúng tôi luôn chú tâm, quy hướng mọi sự vào Chúa Giê Su.

Một hội thánh tư gia thuộc loại tiên khởi đã ra đời, các hội thánh tư gia khác thuộc Giáo Hội chui ở Trung Quốc có thể đã bắt đầu tương tự như trường hợp nêu trên, qua cách làm sáng tạo, diệu kỳ của Chúa Thánh Thần.

– Tôi hay hỏi Mẹ của tôi, “Chúa Giê Su là ai?” Bà trả lời, “Chúa Giê Su là con Thiên Chúa đấng đã chết trên thập giá đền thay mọi tội lỗi và bệnh tật của chúng ta. Ngài ghi lại tất cả sự giảng dậy trong Kinh Thánh”. Kể từ ngày đó, tôi khao khát được đọc Kinh Thánh, nhưng mà cả làng không ai biết mặt mũi cuốn Kinh Thánh như thế nào. Điều khó khăn là làm sao có Kinh Thánh để biết về Chúa Giê Su trong khi trên phạm vi toàn quốc, tất cả Kinh Thánh đều bị đốt và bị cấm đọc, nếu có ai đọc Kinh Thánh mà bị bắt quả tang, họ sẽ bị đánh đập tàn tệ và sẽ bị tra khảo công khai ở giữa dân làng.

Không sợ hãi, cậu nông dân Yun, 16 tuổi, học lực mới đến trình độ lớp ba trường làng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện kêu nài xin Chúa ban cho một cuốn Kinh Thánh, anh khẩn khoản đến mức quên ăn, quên ngủ, sau mấy tháng cầu nguyện Chúa thúc giục một cụ già được thị kiến, dù cụ ở rất xa làng của Yun và chưa hề quen biết, cụ liền đào cuốn Kinh Thánh đã chôn dưới mặt đất, nằm trong một cái lon, dấu diếm đã nhiều năm, moi sách lên và lặn lội đến làng của Yun, gõ cửa đúng ngay căn nhà Yun đang ở và trao cho anh quyển sách. Kể từ sau sự huyền nhiệm xảy ra đó, Yun biết rằng Lời ghi trong Kinh Thánh chính là Lời Chúa nói với anh. Anh không rời xa quyển sách thánh, lúc ngủ anh đặt sách trên ngực, lúc đi cầy cấy anh buộc sách vào trong người. Hàng ngày từ sáng sớm tới chiều tối Yun say sưa ngấu nghiến đọc quyển Kinh Thánh. Anh cố gắng học thuộc lòng mỗi ngày một chương sách Tân Ước, sau 28 ngày, anh thuộc lòng sách thánh Mát Thêu, tiếp tục học thuộc sách Công Vụ Tông Đồ. Khi đọc đến đoạn Công Vụ Tông Đồ chương 1, câu 8:

“…nhưng các ngươi sẽ chịu lấy quyền lực Thánh thần đến trên các ngươi. Và các ngươi sẽ là chứng tá của ta ở Yêrusalem, trong toàn cõi Yuđê và Samari, và cho đến mút cùng cõi đất”.

Yun kể:

– Đây là khoảnh khắc quyết định của đời tôi, tôi ước ao hiểu được Lời Chúa có ý nghĩa gì và tôi cầu nguyện “Con cần quyền năng của Chúa Thánh Thần. Con muốn làm chứng cho Chúa”. Sau khi cầu xin thần khí Chúa, tôi được Chúa ban ơn, có một niềm vui chan hòa trong lòng, tình yêu Chúa bao phủ tràn ngập tâm hồn tôi, tôi bật lên lời ca ngợi Chúa dù trước đó tôi không biết hát hò gì. Sau này, tôi ghi lại lời những bát hát và cho đến hôm nay các bài này vẫn còn được lan truyền, được hát lên trong các nhà thờ.

Chúa ban cho anh Yun phép rửa trong Chúa Thánh Thần, rồi Ngài sắp xếp cho anh Yun, dù mới có mười sáu tuổi, đi từ làng này sang làng khác, kết hợp với một vài người địa phương, hàng đêm lén lút quy tụ bà con dân làng lại, rồi anh đọc thuộc lòng cho nghe về Sách Tin Mừng Mát Thêu, hát thánh ca trong đêm nhóm cầu nguyện đầu, qua đêm kế tiếp anh cũng làm như vậy với phần đọc thuộc lòng Sách Công Vụ Tông Đồ, có những lần buổi nhóm say sưa kéo dài thời gian đến gần như suốt đêm. Đã có sức mạnh của Lời Chúa và vinh quang Chúa trong buổi hát ca ngợi vì mỗi lần như vậy, Chúa dục lòng, hàng tá người quỳ xuống, họ thống hối ăn năn tội lỗi và xin được trọn đời sống theo ý Chúa. Có thật nhiều dân trong các làng tin yêu Chúa, tuy nhiên càng có nhiều người tin Chúa thì chính quyền càng gia tăng theo dõi, bắt bớ. Họ cần tìm cho ra ai là người truyền bá “mê tín dị đoan” vì trước đây không hề có lấy một người theo đạo Chúa. Anh Yun bị bắt lần đầu tiên vào năm mười bẩy tuổi, sau đó là những năm tháng tù đầy, vượt ngục, chạy trốn, bị Công An rượt đuổi xảy ra liên tiếp ở các nơi anh đến truyền đạo, anh cũng không dám quay về nhà vì luôn có công an rình rập ở nhà.

Chúa an ủi anh rất nhiều, càng bị khốn khó công việc truyền bá Tin Mừng Chúa càng phát triển, lúc ban đầu từ năm 1978 đến 1989 đa số người theo Chúa là nông dân, nhưng về sau kể từ năm 1989, có nhiều học sinh, sinh viên và công chức tin nhận Chúa. Bob Fu, thủ lãnh sinh viên phong trào dân chủ Thiên An Môn sau này lưu vong và sống ở Texas Hoa Kỳ cho biết, chỉ tính riêng tại đại học Bắc Kinh, (nơi quy tụ những sinh viên ưu tú, taì giỏi hạng nhất Trung Quốc) vào thời kỳ 1989 đã có 18 nhóm Kinh Thánh cầu nguyện của sinh viên, sinh hoạt hàng tuần.

             Yavê là ánh sáng và sức tế độ cho tôi, nào tôi phải sợ ai?

            Yavê làm đồn trú cho kiếp sinh tôi, nào tôi phải khiếp vì ai? (Thánh vịnh 27:1)

 Anh Yun đi khắp nơi, anh tổ chức rất nhiều buổi nhóm sốt sắng ở nhiều tỉnh thành: An Huy,Hà Nam, thủ phủ Trịnh Châu, Chiết Giang, Thiểm Tây nơi có cố đô Thiên An, Cát Lâm … , theo ơn Chúa soi dẫn, anh bí mật huấn luyện cho các thanh niên trẻ về Kinh Thánh, trại huấn luyện là các hang động trên núi cao, trại viên học thuộc lòng một chương Kinh Thánh Tân Ước mỗi ngày.

Chúa rộng ban ơn đổi mới đời sống cho nhiều người biết tin nhận Ngài. Qua các buổi nhóm Ca Ngợi và Cầu Nguyện, Chúa chữa lành nhiều bệnh tật, người què được bước đi, người điếc được nghe rõ, người mù được sáng mắt, người bị quỉ ám được giải thoát, có cả những cán bộ cao tuổi Đảng, họ được Chúa ban ơn đổi mới, họ quyết định từ bỏ Đảng Cộng Sản để đi làm chứng về Chúa. Trong giai đoạn bùng cháy ơn Chúa Thánh Thần, đi đến đâu, anh Yun cũng gặp được đám đông có khi lên đến hai ngàn người (ở Tỉnh An Huy) khao khát tìm kiếm Chúa, họ ái mộ anh như một đại diện của Chúa và vây quanh, họ bao vây mong đụng chạm vào y phục của anh vì tin rằng Chúa sẽ ban ơn cho họ qua vị đại diện là Yun. Càng tiến sâu trong tình yêu Chúa, gia đình Yun càng bị bách hại nặng nề hơn. Yun vào tù, trốn tù nhiều lần, mỗi lần bị bắt lại, anh chịu đựng sự tra tấn nhiều cách khủng khiếp hơn trước, hình phạt bao gồm, cùm khóa chân tay và đánh nhừ tử, đau đớn như chết đi sống lại nhiều lần, dùng roi điện cường độ mạnh nhất chích vào lưỡi, bắt bò lặn chìm qua hầm phân lớn của cả trại tù nơi có hàng triệu giòi bọ lúc nhúc, đâm kim tiêm, loại có đường kính lớn nhất vào kẽ mười móng tay, kẽ mười móng chân làm ra các cơn đau chấn động, nghiền buốt tận óc tủy cho đến lúc ngất xỉu, ném ra ngoài trời lạnh, đá dập phổi, đánh bể xương cả hai chân, cho tù hình sự ném anh vào cầu tiêu, tiểu tiện lên người và đánh hội đồng…  Ngay cả những lần bị bắt ở trong tù anh cũng cảm hóa được nhiều tù nhân hình sự rất hung dữ quay về với Chúa, trong số phải kể cả hai tù ăng ten, gián điệp có nhiệm vụ bí mật báo cáo thái độ của anh cho Công An Trung Quốc, anh làm chứng và giúp một số cán bộ cai tù được nhận biết tình yêu của Chúa, cũng giống như sự sai đi cho thánh hồng y Nguyễn văn Thuận vào trại tù ở Việt Nam, Chúa có ý định rất rõ ràng khi gởi  các môn đệ xuất xắc nhất “đi làm mục vụ trong nhà tù Cộng Sản”, kết quả là có nhiều linh hồn lên đến con số trăm được ơn Chúa, nhóm người mà Chúa muốn cứu nhất đã được ơn quay về làm con cái Chúa, chương trình của Chúa thật tuyệt diệu! 

Một vài hình ảnh có tính tham khảo về các trại tù ở Trung Quốc:

             Một vài cách điều tra dùng nhục hình tiêu biểu trong nhà tù Trung Quốc:

                                                                                                                                            Trong một trại tù nọ anh rất thích trò chuyện với linh mục Công Giáo tên là Yu bị án mười năm lao động khổ sai vì trung thành với Chúa và Đức Thánh Cha. Về sau khi ra tù, Cha Yu đã đến thăm gia đình anh Yun và trở thành một người bạn của cả gia đình anh.  

Trong lần tù tội cuối cùng, năm 1997, ở độ tuổi 39, anh bị gởi tới nhà tù tăng cường an ninh tối đa, trại tù số một, thành phố Trịnh Châu. Trong lich sử nhà tù này, chưa hề tù nhân nào có thể vượt ngục, quả thực điều này đúng, vì việc đầu tiên là cán bộ công an tỉnh và cán bộ an ninh trung ương trong nhiều ngày thay nhau đánh dập xương cả hai chân từ đầu gối đến bàn chân để anh không thể trốn tù, đau đớn quá đỗi không còn sức chịu đựng, anh xin Chúa cứu mình qua cơn thử thách. Chúa giải thoát anh một cách hy hữu cũng như Thánh Phê rô xưa, trong khoảnh khác, Chúa giúp cho chân anh lành mạnh, không còn đau đớn, có thể đứng lên tự mặc quần áo, đi được, không cần người khiêng vác trên lưng nữa, trong lúc anh đang cầu nguyện, Chúa cho anh thị kiến với hình ảnh thoát được về nhà rồi có chị ở bên cạnh chăm sóc vết thương chân, anh mạnh dạn phó linh hồn cho Chúa vì biết rằng, anh có thể bị bắn chết ngay tại mỗi trạm canh cổng của trại giam, anh can đảm ra đi, bước qua 4 lần cửa được canh gác nghiêm nhặt bên trong, bên ngoài, từ lầu 3 xuống tầng trệt, cán bộ  lính canh, đứng nhìn trừng trừng mà không thấy anh bước qua, vượt hành lang, vào sân trại vào lúc hơn 8 giờ sáng khi có đông lính canh, cán bộ, cai tù đi lại làm việc mà không ai nhìn thấy anh kể cả lính vũ trang trên tháp canh gần cổng chánh, giống như một người vô hình anh bước qua cổng chánh ra đường và đi taxi đến nhà một giáo dân an toàn, sau đó, Chúa làm một cơn mưa bão kéo mây đen đặc, tối mờ nhờ đó, anh có thể đạp xe đến một điểm trốn an toàn chờ vượt biên qua nước Đức. Chúa Thánh Thần phối hợp nhịp nhàng với thị kiến cho Chị Yun biết anh sẽ thoát ngục, thị kiến cho một giáo dân chủ nhà tiếp nhận anh và cho anh ẩn núp, thị kiến cho mưa bão tối đen xóa hết dấu vết để đoàn quân công an, bộ đội đi lùng sục khắp thành phố, họ dùng nhiều đàn chó thám thính mà không ngửi thấy dấu vết của người tù trốn trại. Chúa tiếp tục giúp anh qua phi trường Bắc Kinh, phi trường Frankfurt với hộ chiếu của người khác mà không bị bắt lại và trả về nhà tù. Cho tới hôm nay, tài liệu điều tra về cuộc vượt ngục của chính quyền Cộng Sản đã kết luận, “đương sự vượt ngục mà không có sự đồng lõa của người trong trại giam”.                             

Vượt thoát khỏi Trung Quốc năm 1997, đang cư ngụ ở nước Đức, cho đến ngày hôm nay, Anh Yun đang tiếp tục đi khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Hoa Kỳ để làm chứng cho Chúa, trên mạng Youtube có ghi lại các buổi làm chứng ở các nhà thờ.

Cuốn tự truyện “Người của Thiên Đàng – The Heavenly Man” của anh Yun và Paul Hattaway phát hành ở nước Anh vào năm 2002, tiếp tục được in lại nhiều lần, được các nhà xuất bản Âu, Á phiên dịch, phát hành với gần 50 ngôn ngữ trong đó có cả tiếng Mông Cổ, Mã lai, Thái và tiếng Việt. Sách đã được bán ra trên một triệu cuốn, được độc giả khắp thế giới tìm đọc, Bạn có thể tìm mua bản Anh ngữ ở mạng Amazon, để biết thêm về các điều kỳ diệu khác Chúa đã làm trên cuộc đời của anh Yun kể cả cuộc tuyệt thực nhịn ăn uống kéo dài 72 ngày trong tù mà không chết, thông thường thân thể con người chỉ cần nhịn uống nước uống ba, bốn ngày là sinh lực kiệt quệ, ngưng thở. https://www.amazon.com/Heavenly-Man-Remarkable-Chinese-Christian/dp/082546207X

        Vâng, Người đã thử thách chúng tôi, lạy Chúa.

      Người thí luyện chúng tôi như bạc luyện lò,

      Người đã xô chúng tôi sa tròng sa lưới, để cho lận đận thúc luôn bên sườn.

            Người để đứa phàm nhân cỡi ngựa đi trên đầu chúng tôi,

           chúng tôi phải ngang qua lửa cùng nước.

      Nhưng rồi Người lại cho qua khỏi, thở ra khoan khoái

      Tôi sẽ tiến vào nhà Người với lễ toàn thiêu,

      với Người, tôi sẽ trọn lời khấn dâng… (Thánh Vịnh 66: 10-13)

Kết: Cám ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội các nhà truyền giáo thời đại với đức tin mạnh mẽ, hy sinh không tiếc mạng sống, có phong cách độc đáo như ở Trung Quốc. 

Xin Chúa thương đến các con cái Chúa ở các nước chìm đắm trong chủ nghĩa Cộng Sản  

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng Đức Tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris  Đứng cuối Nhà Thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère.

Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi: “Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?”

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: “Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến Đức Tin!”

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “Anh lầm rồi, Đức Tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?”

Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

“Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!”

&   &   &

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng: “Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?” Người thanh niên xấc xược trả lời: “Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi Ông sẽ thấy rằng những gì Ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên: “Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?” Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời: “Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”
 
Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc,

Suy Tư Chúa nhật thứ 26 thường niên năm B 30/9/2018

(Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Khi ấy, ông Gioan nói với Đức Giêsu:

Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đức Giê-su bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”

&   &   &

 “Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc,”

“Hoa hết thơm rồi, rượu hết say”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 Mai Tá lược dịch.

Mới có thế, mà sao nhà thơ đã than đời sa mạc, những gió lộng? Rất nhiều thời, nhà Đạo mình nào đã sầu bi chỉ một đời như các thánh hằng khẳng định ở bài đọc, rất hôm nay.

Bài đọc 1 hôm nay, sách Dân Số kể về trường hợp người khách lạ có nhắc đến Giavê Thiên Chúa, nhưng lại không thuộc giống giòng Do thái Chúa đã chọn. Cũng vậy, trình thuật thánh Máccô nay kể về đồ đệ phản đối Thày về người khách lạ không cùng nhóm môn đồ của Chúa, nhưng vẫn thành công kình chống ác thần, để khi hỏi Thày chuyện này, đã được biết:“Ai không chống ta là ủng hộ ta.”(Mc 9: 9-10)

Nhờ có Tin Mừng, ta mới biết Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và, ta tin Hội-thánh là chốn miền qua đó ta lĩnh nhận Lời Ngài, cả đến bí tích và cuộc sống của Chúa nữa. Tuy nhiên, những ai không gia nhập Hội thánh hoặc không tin vào Hội thánh, sẽ ra sao? Ơn cứu độ có sẻ san cho người ngoài thánh hội không? Ai không biết đến Tin Mừng vì thất học, hoặc vì sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, và những người tuy nắm rõ mọi sự nhưng không tin vào Hội rất thánh thì sao? Họ, có được cứu độ không?

            Thánh Âu Tinh xưa có nói: “Ta biết Hội thánh Chúa hiện thời ở đâu, nhưng lại không rõ nơi nào Hội thánh không hiện diện. Trên tàu ông Nô-ê có nhiều thú vật xin tị nạn, có loài chẳng thể nào thích nghi được với lối sống ở trên tàu, nhưng vẫn được cứu. Nơi giòng chảy bên mạn tàu, mọi loài cá đều sống rất tốt, tuy không tị nạn trên tàu Nô-ê và vẫn sống ngoài kế hoạch của Chúa khi Ngài dựng vũ trụ.”

Thật sự thì, Chúa yêu thương hết mọi loài, không trừ một ai. Chẳng ai bị rơi rớt sống bên ngoài con tim của Ngài hết. Chúa muốn mọi loài đều được cứu. Chính Ngài đã cho đi chính mình Ngài ngõ hầu mọi loài đều ở vào danh sách những kẻ được cứu độ. Và, Thần Khí Ngài vẫn quanh quẩn ở với mọi người, chứ không chỉ những người có chân trong Hội thánh, mà thôi.

Công Đồng Vatican 2 dạy ta biết tôn trọng tự do của mọi người. Và, ta được khuyên dạy hãy thương yêu hết mọi người; bởi, có thể họ cũng sẽ là những người giúp ta đến với Chúa, rất mai sau. Nói như thế, không có nghĩa bảo: tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào. Tức, cũng ngang bằng và giống nhau. Nhưng, Hội thánh Chúa, mới là đường chính dẫn đến Chúa, tức con đường Chúa tặng ban ơn lành cứu rỗi để ta san sẻ cho mọi dân.

Thiên Chúa không ngừng tỏ cho biết Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Thiện với mọi loài. Riêng loài người, được thụ hưởng cái-gọi-là “Nhân chi sơ tính bản thiện” từ Đức Chúa, nên đó còn là bằng chứng nói lên việc Chúa là Đấng đối xử tốt với mọi người, mọi loài. Người Samaritanô nhân hậu khi xưa dám cứu giúp người bị nạn bên đuờng, là ví dụ cụ thể, để ta nhận ra lòng nhân lành của Đức Chúa, nơi mọi người. Và, Chúa thực hiện “tính bản thiện” cho con người còn là bằng cứ chứng minh cho mọi người thấy Ngài vẫn hiện diện nơi con người ở thế gian.

Trình thuật hôm nay, rõ ràng mô tả Chúa không nói: “Ai không cộng tác với ta là chống ta”, nhưng Ngài bảo: “Ai không chống ta tức ở với ta.” Vế đầu là chuyện mơ hồ, hoang tưởng. Vế sau, vượt thắng sự thờ ơ, ơ hờ và hãi sợ mọi người khác. Vì hãi sợ nên con người mới để nó xâm nhập đầu óc mình, để rồi mới lật ngược lập trường sống cá thể để cương quyết sống hài hoà với hết mọi người, bất kể người đó là ai? Sống thế nào? Họ có tử tế, dễ thương không? Và, việc cuối cùng dành cho mọi người là: mình có chọn sự hoang tưởng hoặc cải biến chính mình cách chín chắn, yêu thương không? Đó là phương cách giúp ta trở nên giống con trẻ, như Tin Mừng hằng khích lệ.

Tuy thế, có người vẫn hỏi: là gì đi nữa, sống hoang tưởng hay có cải biến là sống ra sao, suốt một ngày? Cái đó còn tuỳ. Tuỳ người đi Đạo. Nhưng, câu trả lời có lẽ sẽ là: phải sống giản đơn, thuần thành, hiện thực. Không bận tâm đến những gì trừu tượng, đôi khi cũng lại hoang tưởng. Đừng cho rằng: cuộc sống là của chính mình, cho mình chứ không cho ai khác. Đừng mang trong người chỉ mỗi ảnh hình về chính mình hoặc về cung cách do mình tạo ra, cho cuộc sống. Đừng coi đó như hình thức “linh đạo” do mình sáng tạo, để mà sống.

Đã nhiều lần, người đi Đạo cũng đã nghe biết về thế giới cổ xưa có nền văn hoá Kitô-giáo, vẫn rất đẹp. Nhưng, đó không phải là con người mình. Cũng có người đi Đạo khác lại nghĩ rằng sự khôn ngoan nơi con người lan toả khắp mọi nơi; nó xâm nhập vào ảnh hình, ngẫu tượng, hình hài của những thời điểm rất khác biệt. Có người cứ liên tưởng về thế giới của thiền hành, không vọng tưởng, chẳng suy tư. Họ chỉ coi trọng tương quan với người khác, quyết xây dựng một thế giới khác thường, đặc biệt thôi.

Có người lại lập ra cho mình cung cách sống rất khác thường để rồi sủng ái, mến mộ đến độ nó trở thành hữu thể, rất dị biệt. Cũng chẳng nên phẩm bình tư duy và cung cách sống của bất cứ ai. Chẳng nên đặt khung hình để nhốt mình ở đó, mà sinh sống. Bởi tất cả vẫn ra như mù mờ, mới mẻ, đáng ta kinh ngạc. Đôi lúc có hơi nghiêm túc, nữa. Thế nên, cũng đừng quá nghiêm khắc với chính mình đến độ tự dẫn mình vào chốn tối mù, khó khăn, hoang tưởng. Nói như trình thuật thánh Máccô là nhủ rằng: hãy trở nên như con trẻ; hoặc như lông măng bay bổng qua hơi thở của Thiên Chúa.       

Khi biết rằng mình cũng lệ thuộc vào người khác. Cũng lĩnh nhận rất nhiều thứ, từ người khác, nên hãy cảm tạ họ. Và, hãy chỉ sống đời giản đơn như họ đang sống. Hãy vui hưởng cuộc sống giản đơn, như mọi người. Dù đôi lúc, mình cũng chẳng tin vào điều người nói về những điều họ tin tưởng. Trái lại, hãy cứ sống đơn sơ kiểu con trẻ, như hiện tại. Và, đừng bao giờ đặt nặng chuyện người khác có tin hay không vào mọi điều. Bởi khi sống đời giản đơn, rồi cũng sẽ nhận ra rằng có khi tính nghiêm nghị đến chết người cũng ảnh hưởng lên cuộc đời của chính mình. Dù, tính nghiêm túc ấy là do người của Hội thánh mang đến.

Sống nghiêm túc như người của Hội thánh, chưa hẳn là trở nên như con trẻ, theo đúng nghĩa. Bởi thế nên, cũng đừng rập khuôn đeo đuổi thuyết lý hoặc linh đạo kiểu “trẻ con”. Cũng đừng tìm cách sống ấu trĩ. Bởi, chẳng có ai cần phải làm như thế mới gọi là sống giản đơn. Tuy nhiên, nơi phần thâm sâu của mỗi người, vẫn còn đó tính “trẻ con”, rất ích kỷ. Thế nên, có lẽ cũng đừng tìm hiểu xem phần thâm sâu bên trong người mình là gì. Trong đời người, vẫn có người từng làm những chuyện như thế.

Có điều lạ, là: cả đến những người luôn tìm cách quan-trọng hoá, bi-đát-hoá mọi vấn đề trong đời, nhưng lại quên đi mỗi chuyện vui sống đời giản đơn với mọi người. Có sống giản đơn, mới thấy mọi chuyện trong đời đâu có gì cần phải ầm ĩ, bi đát đến như thế.  Chính vì vậy, cũng nên cười khẩy vào tất cả mọi sự, mọi chuyện tưởng chừng như ghê gớm ở trong đời.

Điều đưa ta trở về với sự thể biến cải khỏi sự vu vơ, mơ hồ, hoang tưởng ta đang suy và tưởng. Một sự thực rất dễ thấy, là: đừng quá ưu tư tạo cho mình tình huống “rối beng” để rồi không thể trở nên như con trẻ dám cười khẩy vào mọi sự. Trong lúc người lớn cứ tìm cách giáo dục con trẻ biết cách sống, thì trẻ con lại tìm cách tỏ cho người lớn biết cách để cười. Cười với hết mọi chuyện. Giả như, người người cứ ăn mặc quần áo với sắc mầu loè loẹt, không xứng hợp với tuổi tác, hoặc con người mình mà lại coi đó là chuyện tốt lành, há đó không phải là chuyện tiếu lâm chay/mặn quá đáng sao?

Trong kiếm tìm sự giản đơn để sống, cũng nên ngâm thêm lời thơ trên, rằng:

            “Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc!

            Hoa hết thơm rồi, rượu hết say.

            Trăm sầu nghìn tủi, mình tôi chịu.

            Ba bốn năm rồi, nmăm sáu năm.”

            (Nguyễn Bính – Hoa Với Rượu)

Hoa rượu đời người, đâu sa mạc? Sa mạc đời, chỉ nơi người cứ đi tìm sự/vật rất khó để sống, có thế thôi. Hãy sống giản đơn như con trẻ, rồi sẽ vui vầy một đời, như Chúa dạy. Ngài dạy, ở nơi Tin Mừng rải khắp muôn nơi. Rất mọi thời.  

 Lm Kevin OShea DCCT biên soạn –

Mai Tá lược dịch.

Nếu, nếu một ngày không có em

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 26 Thường niên năm B 30-9-2018

 “Nếu, nếu một ngày không có em”
Thì niềm cô đơn dài như năm tháng
Như mùa thu chết như lá thu rơi.”

(Khánh Băng – Nếu Một Ngày)

(1Côrinthô 13: 3-8)

Trần Ngọc Mười Hai

 Cứ coi là thế đi. Một ngày mà không có Em hoặc có Anh, thì ngày ấy sẽ chẳng là gì hết. Huống hồ, là tình yêu. Một ngày như thế, há nào như “mùa thu chết” hoặc cũng chỉ như ”lá thu rơithôiLá thu rơi ngày ấy, như tác giả nhạc bản “nếu một ngày” lại diễn tả thêm chữ “nếu” đầy tiếc nuối, mà rằng:

“Nếu, nếu ngày ấy mình đừng quen nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau

Nhớ, nhớ một chiều em đến thăm
Ngoài trời mưa trời mưa không dứt
Con đường trơn ướt em đến thăm tôi
Nhớ, nhớ ngày ấy mình cầm tay nhau
Nhìn hạt mưa ướt mi
Ngày sau sẽ không còn mưa rơi, sẽ không còn mưa rơi

Thôi kỷ niệm ấy xin trả cho người
Vì ngày mai tôi sẽ xa rời kỷ niệm, đành xa rời mãi.
Trên, trên con đường sóng gió ra đi.
Vì làm trai tôi đành lỗi hẹn.
Những niềm tin sẽ không xa rời, sẽ không xa rời.

Nếu, nếu một ngày không có tôi.
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé.
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi.
Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”

(Khánh Băng – bđd) 

“Có đâu buồn đau”, lại cũng giống như trường-hợp của đấng bậc vị vọng nọ ở trời Tây, rất Nam Mỹ, từng thổ lộ về chuyện riêng tư của “ngài”, rằng:

Ngài linh mục người Brazil, Lm Antoine Teixeira đã có thư gửi Đức Phanxicô những lời sau đây: 

15 Tháng Chín, 2018

Kính gửi Đức Giáo hoàng Phanxicô,

Quả thật, ngài có lỗi! 

Đức Thánh cha có lỗi vì là một con người và không phải là một thiên thần! Đức Thánh Cha có lỗi vì khiêm tốn chấp nhận rằng mình đã sai lầm và cầu xin sự tha thứ cho chính mình và cho cả chúng con nữa. Trong khi điều này đối với nhiều người lại không thể chấp nhận được. 

Đức Thánh Cha có lỗi bởi vì ngài không muốn làm một vị thẩm phán, một con người của luật lệ, nhưng là một mẫu gương và nhân chứng của lòng thương xót. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã từ bỏ truyền thống sống trong cung điện và chọn cuộc sống như những người bình thường.

 Đức Thánh Cha có lỗi vì đã khước từ sự xa hoa của [Vương cung Thánh đường] Thánh Gioan Latêranô và ưa thích viếng thăm sự nghèo khổ nơi những nhà tù, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, vv. 

Đức Thánh Cha thật có lỗi! Đức Thánh cha ngừng hôn những đôi chân thơm tho của các vị hồng y, nhưng lại hôn bàn chân “bẩn thỉu” của những phạm nhân, phụ nữ, bệnh nhân, những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, và những người “khác biệt”! 

Đức Thánh Cha đáng bị lên án vì đã mở cửa đón nhận những người tị nạn, và bởi trước những vấn đề đau buồn cần được giải đáp, ngài chỉ trả lời một cách đơn giản: “Tôi là ai mà dám phán xét?”

 Đức Thánh Cha đáng bị đày đọa vì thừa nhận sự yếu đuối của mình bằng cách xin chúng con cầu nguyện cho ngài, trong khi nhiều người yêu cầu Đức Thánh Cha phải giáo điều, bất khoan dung, và quan liêu.

 Kính thưa Đức Thánh Cha, ngài bị quy kết cho thật nhiều thứ tội, như “những phường phản bội,” “hạng bị dứt phép thông công,” và “kẻ lai căng,” những người nhờ Đức Thánh Cha đã tái khám phá khuôn mặt xinh đẹp của Chúa Kitô đầy dịu dàng và thương xót. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã chỉ ra bản chất thực của sự việc và không ngừng nhắc nhở các giám mục rằng họ không phải là những mục tử ở sân bay, nhưng phải mang lấy “mùi chiên của họ.” 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã xé toạc những trang sử bất khoan dung và thứ luân lý khô khan, tàn nhẫn, và ban tặng chúng con vẻ đẹp của lòng từ bi, nhân hậu và sự chân thành.

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã mở mắt chúng con, những người [tự cho mình] thông minh và lý lẽ, nhất là con mắt của trái tim. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì muốn mang lấy thập giá của Giáo Hội thay vì mua vui cho những ánh mắt, bàng quan trước những nỗi đau và nước mắt của nhân loại thời đại chúng ta. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì không chịu đựng những tội ác ghê tởm nhân danh Thiên Chúa và những người rao giảng về Chúa nhưng lại sống đối địch với Ngài. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì do lòng thương xót, dám tìm kiếm sự thật và công lý, thay vì thinh lặng, giấu giếm, giảm thiểu hoặc bỏ qua.

 Đức Thánh Cha có lỗi vì không muốn một Giáo Hội của đặc quyền, lợi ích, và vinh quang, và dạy cho chúng con sức mạnh của việc phục vụ, sự giàu có của việc rửa chân, và sự vĩ đại của tinh thần đơn sơ. 

Đức Giáo hoàng Phanxicô, hãy để người ta đổ lỗi cho ngài những “tội ác” này. Đức Thánh Cha biết rằng bên cạnh ngài là vô số những anh chị em nam nữ không phải là thiên thần như ngài, nhưng là những người yếu đuối, những tội nhân, những người hy vọng Chúa Kitô gìn giữ chúng ta và cho chúng ta.

 Đức Thánh Cha nên nhớ rằng có một làn sóng rất lớn của những tâm hồn luôn cầu nguyện cho Ngài mọi giây phút; vì Đức Thánh Cha, họ sẵn sàng mạo hiểm cả mạng sống mình. Họ bước theo Đức Thánh Cha như đoàn chiên tin tưởng vào mục tử của họ.

 Chính Đức Kitô đã ủy thác nơi Đức Thánh Cha sứ mệnh chèo lái “con thuyền” Hội Thánh. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh cho Đức Thánh Cha theo đuổi con đường “tội lỗi” này, con đường đã được thực hiện thật tốt trên thế giới và trong Giáo Hội.

 Kính thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã trở nên “tội lỗi” để làm cho Hội Thánh nên xinh đẹp như mong ước của Chúa Giêsu.” (Lm. GB. Cao Xuân Hưng, Gp. Vinh biên dịch từ bản tiếng Anh, Nguồn: http://www.cbcplaiko.org/2018/09/13/from-a-priest-in-brazil-to-the-pope/)

Chuyện đời thường hoặc riêng tư nhà Đạo của một linh mục, cũng na ná hơi bị giống chuyện của người ngoài, ở đời thường. Nói na ná, là bởi nó chỉ giống đôi chút khía cạnh nào đó, rất nho nhỏ. Na ná, như câu truyện kể cũng rất nhẹ như bên dưới:

“Truyện rằng:

 Anh nọ có lần được dịp nói khoác:

–Tôi được thấy có nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là có một chiếc thuyền, dài không lấy gì mà đo cho xiết, có người thuở hai mươi tuổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái. Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu chuyện:

 –Như thế đã lấy gì làm lạ! Tôi đi rừng thấy có một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hạt đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi, nẩy lộc thành nhiều cây đa con, đa con cũng như cây đa mẹ lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Anh đi xa về, nghe thế gân cổ lên cãi:

 –Làm gì có cây cao thế! Chả ai tin được.

Anh kia cười ranh mãnh:

–Ấy không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh? (Truyện kể rút từ điện thư vi tính, mới đây thôi.)

Truyện vui vi tính, thật ra, nhiều lúc cũng chẳng ăn nhập đề tài được bàn luận hoặc kể lể. Thế nhưng, đã gọi là truyện kể để minh-họa đề tài mình đang nói hoặc sắp nói, thì “giữa hai hàng chữ” vẫn có ý-tưởng sao đó, có thể xảy ra ngay ở đây vào một lúc, giống thế thôi. Thật ra thì, có kể truyện vui, cũng chỉ cốt để đề tài triết-lý/thần-học được dễ chịu khi người kể cứ bỏ thì giờ ra mà tìm kiếm.

Thế đó, còn là tâm-trạng của bần đạo bầy tôi đây, hôm nay, những muốn đề-cập đến một thứ phiếm luận đạo đời, rất khô khan, thôi. Kể rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta trở về với  ca-từ nhạc-bản làm nền ở trên mà đi vào đoạn kết, cho bớt phiền. Ca-từ lại cứ hát những lời rằng:

“Nếu, nếu một ngày không có tôi
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi

Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”

(Khánh Băng – bđd)

“Một ngày, không có tôi”, và cả những người anh, người chị ở thế-trần này, lại sẽ giống như tình-huống rất đạo/đời, mà thôi. Tình-huống những một ngày như thế ấy, còn là và vẫn là những tình và huống rất căn-cơ như lời lẽ bậc thánh hiền từng thổ-lộ hôm trước, nay ta nghe lại mà rằng:

“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp ra mà bố thí,

hay nộp cả thân xác mình để chịu thiêu đốt,

mà không có tình mến thương,

thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi.

Thương yêu, mến mộ luôn nhẫn nhục, hiền hậu,

không ghen tương,

không vênh vang,

không tự đắc,

không làm điều bất chính,

không tìm tư lợi,

không nóng giận,

không nuôi hận thù,

không mừng khi thấy sự gian ác,

nhưng vui khi thấy điều chân thật. 

Thương yêu, mến mộ tha thứ tất cả,

tin tưởng tất cả,

hy vọng tất cả,

chịu đựng tất cả.

Thương yêu, mến mộ như thế

không bao giờ lại mất đi.”

(1Côrinthô 13: 3-8)

“Không thể mất được”, đó là lời quả quyết như “đinh đóng cột”. Thứ quả quyết mà cả tôi lẫn bạn, cũng như mọi người vẫn cứ đưa ra cho mọi người biết, để còn tin. Và, khi đã tin rồi, sẽ không còn gì để thắc mắc nữa.

Thế đó, là lời thề của tôi và của bạn, của hất mọi người trong tương-quan đằm thắm rất yêu thương. Như thói thường cuộc đời người, xưa nay vẫn hoàn thế.

Thế đó, còn là ước hẹn của muôn người. Trên đường đời. 

Trần Ngọc Mười Hai  

Và những ước hẹn

Có tự bao giờ

Và bây giờ.

CẦU NGUYỆN – HƠI THỞ CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

CẦU NGUYỆN – HƠI THỞ CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

 Cuộc sống luôn đặt con người vào những suy tư bất tận về ý nghĩa cuộc đời và các mối tương quan.  Những tâm tư sâu thẳm của con người, những vấn nạn gai góc cuộc đời, những trăn trở bế tắc về cuộc sống thường đưa đẩy người ta đến một hành vi đặc thù, điều mà người ta quen gọi là “cầu nguyện”.  Phải chăng cầu nguyện giúp họ giải quyết được tất cả những gì người ta cần?  Một tác giả thiêng liêng sau những trải nghiệm của mình về đời sống nội tâm đã phải thừa nhận rằng “Cầu nguyện là nhịp cầu nối kết cuộc sống vô thức với cuộc sống ý thức.  Cầu nguyện liên kết tâm trí ta với tâm hồn ta, ý chí với những đam mê của ta, khối óc với cái bụng ta.”[1]  Quả thế, cầu nguyện thực sự đưa ta đến một cảnh vực sâu xa hơn, là sống tương quan với Thượng Đế.  Kitô giáo mang trong mình mạc khải tuyệt hảo về cầu nguyện: sống tương quan thiết thân với Thiên Chúa.

Người ta thật khó có thể tìm ra một tôn giáo nào mà cầu nguyện không đóng một vai trò gì trong đời sống của họ.  Cầu nguyện được coi là mối dây liên kết giữa họ và Đấng Siêu Việt mà họ đang hướng tới.  Đối với người Kitô hữu, đời sống cầu nguyện được ví như hơi thở của cuộc sống hay là dòng máu chuyển lưu trong cơ thể.  Cầu nguyện là cách thế để hiện thực hoá tất cả chân lý đức tin đầy phong phú mà họ được lãnh nhận.  Sống trong tâm tình cầu nguyện là sống mật thiết với Thiên Chúa và được lớn lên trong tương quan với Người.  Vì thế, cầu nguyện không chỉ dừng lại ở nơi mình nhưng còn trải rộng mình ra với mọi chiều kích, mọi mối tương quan của cuộc sống.  Tương quan cốt yếu là với Thiên Chúa, Đấng đã thông chia cho con người tất cả và mời gọi họ đi vào mầu nhiệm của chính Người.  Dĩ nhiên, tác giả thiêng liêng đã dẫn trên đây không dừng lại ở khía cạnh tâm lý đơn thuần của con người, dẫu rằng đời sống con người nói chung và tinh thần của con người nói riêng gắn liền với niềm tin tôn giáo.  Quả thế: “Cầu nguyện là cách để cho Thần Khí trao ban sự sống xuyên thấu mọi ngóc ngách của hữu thể ta.  Cầu nguyện là công cụ Thiên Chúa dùng để làm cho ta nên toàn diện, hợp nhất và bình an.”  Như vậy, vai trò cầu nguyện là điều không còn bàn cãi.

“Địa hạt” của đời sống cầu nguyện là gì?  Đây là những câu hỏi thường nảy sinh trong những người đi vào đời sống cầu nguyện.  Lẽ thường, người ta đến với Thiên Chúa để nài xin những điều thuộc nhu cầu hiện tại của mình.  Nhưng vấn đề đặt ra là có hay không việc chúng ta đã quá thực dụng trong đời sống cầu nguyện?  Ít nhiều điều này gây nên bối rối khi ta đến với Thiên Chúa.  Dĩ nhiên, những điều rất thiết yếu đối với cuộc sống của họ là phần nào nói lên sự cậy dựa vào Thiên Chúa.  Nhưng nếu bản chất cầu nguyện là một sự thông truyền bản tính của Thiên Chúa cho ta, thì hành vi cầu nguyện cũng phải xuất phát từ chính con tim khát khao Ngài để trở nên giống Ngài.  Và vì thế, khi đi vào tương quan với Chúa trong cầu nguyện, những điều mà ta ao ước cũng nên thiện hảo hơn vì nhu cầu của ta liên kết với sự lôi cuốn của Người.  Vươn lên cùng Thiên Chúa trong cầu nguyện giúp kéo ta ra khỏi những bận tâm về chính mình, khuyến khích ta rời bỏ vùng đất quen thuộc, thách thức ta bước vào một thế giới mới, thế giới không thể bị gồm tóm trong những ranh giới nhỏ bé của tâm trí và tâm hồn ta.  Vì vậy, cầu nguyện, một mặt, là một cuộc phiêu lưu trong Thế giới của Thiên Chúa rộng lớn bát ngát vô tận, đầy thú vị và mới mẻ đang chờ đợi ta khám phá.  Chính trong sự kết hợp thâm sâu với Người, ta không chỉ được mạc khải để biết thêm về Thiên Chúa nhưng về chính mình nữa.  Mặc khác, bước vào một vùng đất rộng hơn với những trải nghiệm mới có nghĩa là đi vào mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa với con người mới.  Khi đấy, việc cầu nguyện của ta cũng trở nên phong phú và dồi dào hơn.  Như vậy, “địa hạt” của cầu nguyện hay giới hạn của việc cầu xin không còn dừng lại ở những nhu cầu riêng ta nữa, nhưng trải rộng ra mọi chiều kích, mọi mối tương quan và mọi nhu cầu thiết thực khác.  “Địa hạt” của đời sống cầu nguyện sẽ là không biên giới.

Ở lại trong Đức Giêsu, đó là tất cả ý nghĩa của việc cầu nguyện (x. Ga 15).  Khẳng định này khởi đi từ kinh nghiệm kết hợp mật thiết với con người Đức Giêsu và cầu xin Người với bản tính Thiên Chúa hiện diện.  Lời cầu nguyện đích thực bao giờ cũng ôm trọn thế giới này chứ không phải chỉ nơi ta đang sống.  Quả vậy, hàng ngày chúng ta đối diện với biết bao những vấn đề mang tính nhân sinh mà thường là những nan đề (khủng bố, bất công…).  Tuy nhiên, chúng sẽ trở nên vô cùng nặng nề nếu như ta chỉ tìm sự an toàn cho mình mà không để cho Đức Kitô đi vào trong đó.  Cơ sở của điều này chính là sự nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu – Con Thiên Chúa một cách trọn vẹn.  Người đã trải qua kiếp sống nhân sinh với những quy luật của một con người vì thế, Người đồng cảm với từng người và với những ưu tư trong cuộc sống.  Như vậy, cầu nguyện là kết hợp đời sống của mình với đời sống và giáo huấn của Đức Giêsu, chính là việc đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha.  Vì Đức Giêsu một mặt mạc khải cho ta về Cha, mặt khác, Người chia sẻ cho ta kinh nghiệm gặp gỡ và sống tương quan với Người.

Kiếp sống làm người không ai có thể đứng ngoài kinh nghiệm về những ưu tư và trăn trở của cuộc sống hàng ngày trong các mối liên hệ của đời sống.  Sống tương quan với Thiên Chúa trong cầu nguyện có thể không làm giảm đi những khó nhọc thể xác và những vấn nạn của cuộc đời.  Tuy nhiên, sức mạnh vạn năng của cầu nguyện chính là được kết hợp với Thiên Chúa ngang qua tất cả những biến cố, biến những đau khổ và vấn nạn ấy trở nên những trải nghiệm có ý nghĩa trong cuộc đời.  Cầu nguyện giúp ta đi vào những biến cố với tâm thế của lòng cậy trông và tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng luôn yêu thương và chăm sóc từng người.  “Địa hạt” của Người không phải giới hạn chỉ trong sự hạn hẹp của những nhu cầu trước mắt, nhưng đi xa hơn; Ngài mời gọi con người kết hiệp với Ngài trong vinh quang thực sự và bình an vĩnh cửu.  Cuộc sống của con người sẽ phong nhiêu là điều mà cầu nguyện (một đời sống thân thiết với Chúa) sẽ hứa hẹn.  Hãy cầu nguyện với cả con người mình, xuất phát từ trái tim chân thành, cởi mở… điều kỳ diệu của cuộc sống sẽ đến.

Joseph Trần Ngọc Huynh S.J

[1] Henry M.Nouwen.

From Langthangchieutim