Vẫn còn là một anh mù

Vẫn còn là một anh mù

Một tác giả Ấn Độ có kể câu truyện ngụ ngôn được Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong tác Phẩm “Cái cười của thánh nhân” như sau :

Có một người kia sinh ra đã bị mù. Sống trong một căn phòng nhưng bởi không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những cái gì mà mọi người chung quanh quả quyết là có. Anh nói: – “Tôi không tin vì tôi không thấy’

Một vị lương y đem lòng thương hại đi tìm một thứ linh dược trên dẫy Hy-mã-lạp-sơn về chữa anh và anh được lành bệnh. Anh ta sung sướng tự phụ bảo:

– Giờ đây tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.
Nhưng mọi người nói với nói với anh:

– Bạn ơi, bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này. Như thế thì có là bao. Ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, còn biết bao vẻ đẹp lộng lẫy và màu sắc mà bạn chưa thấy

Nhưng anh ta không tin: – Làm gì có những cái đó, tôi chưa thấy những cái đó, những gì có thể thấy được tôi đã thấy tất cả rồi, còn gì!

Một y sĩ khác liền leo lên tận núi cao, được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ta có được cặp mắt nhìn xa hơn những vật chung quanh căn phòng.

Bấy giờ thì anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Mừng quá! Rồi lòng tự phụ dâng lên, anh thốt lên: – Trước đây tôi không thấy, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế bây giờ chẳng còn cái gì mà tôi không thấy không biết, đâu còn ai hơn tôi được

Nhưng có một hiền giả có cặp mắt thần nói với anh ta:

– Này cậu ơi! Cậu vừa hết mù nhưng cậu vẫn còn chưa biết gì cả. Tại sao lại quá tự phụ như thế. Cũng như khi cậu ở trong căn phòng. Tầm mắt của cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường và thấy được nhiều vật xa hơn. Nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai của cậu như thế này, cậu làm gì biết được những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không thấy không nghe được.

Cậu có thấy được những nguyên nhân cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu không?

Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống, còn biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát sông Hằng.

Tại sao cậu dám tự phụ rằng tôi đã thấy cả, tôi biết cả?

Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối.

 From: Ngoc Bich & KimBằngNguyễn 

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi niềm,

 Suy Tư Chúa nhật thứ 30 thường niên năm B 28/10/2018

(Mc 10: 46-52)

Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

“Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi niềm,”

“Không u ám như cõi lòng ma quỷ.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Sáng láng, mù loà, hoặc u uẩn, vẫn là trạng huống tâm linh con người lâu nay còn gặp. Gặp, cả vào lúc Chúa đến thăm, như trình thuật hôm nay còn nói rõ.

Trình thuật thánh Mác-cô, nay nói về tình trạng mù loà và sáng láng, ở con dân. Tình trạng ấy, vẫn cứ thấy trong lịch sử, ở văn minh/văn hoá, ở nền chính trị và kinh tế của chúng ta, vào mọi thời.

Rất nhiều lần, ta vẫn có ý niệm về ý nghĩa và tính chất mà qua đó mọi người mới hiểu được chính mình. Hiểu, là hiểu về tình huống lịch sử và ảnh hưởng của nó lên cách sống của ta. Nhiều truyện kể lịch sử và văn minh con người từng chứng tỏ điều đó. Có một số sự kiện, do truyền thống trong Đạo, chí ít là thánh truyền ở Đạo mình lại đã làm nên.

Một số khác, đến từ các học thuyết triết lý của cuộc sống. Và, một số lại cũng do ánh sáng tư tưởng ở thời Trung Cổ và cả thời hôm nay từng khuynh loát/lũng đoạn khiến trở thành triết thuyết hiện đại. Sau trận chiến thế giới và thời kỳ khắc phục tiếp theo sau, con người đã lấy lại được sinh lực, từ nhiều phía. Phía của người trong Đạo. Của, Công Đồng Vatican II chợt đến rồi đi. Và, cả phía có thắc mắc/ han hỏi về cuộc đời ta đang sống.

Trong quá khứ, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu chỉ trích/vấn nạn tính hiện đại của cuộc sống. Nhiều người còn đã cho nhiều thứ, hoặc cứ lẳng lặng tìm giải đáp cho câu hỏi thật chính xác, thiết thực. Có người lại không thấy câu giải đáp cho mọi luận thuyết đưa ra từ thời Trung Cổ. Một số khác gặp đổ vỡ lại chấp nhận tính hiện đại mà chẳng thắc mắc. Đổ vỡ, từ “1968”, một thời khắc có những sự việc thể hiện trong Hiến Chế “Humanae Vitae”. Có cả vụ ám sát nghị sĩ Mỹ Robert Kennedy và nhà hoạt động cho nhân quyền là mục sư Martin Luther King. Rồi, xảy đến trong chiến tranh Việt Nam cùng lúc xuất hiện xã hội công nghiệp. Và cuối cùng, hiện ra thế giới thứ ba nghèo đói, thiếu thốn, chậm lụt.     

Tiếp đó, lại thấy xảy ra cuộc nội loạn bắt đầu từ người Pháp ở Paris, lan sang tận Bắc Mỹ đòi chống đối thuyết lý-tưởng-hoá hết mọi sự. Từ thuyết hiện-đại tại các nơi, cho tới chủ thuyết này khác nhằm thay thế thuyết Mác xít, thuyết căn bản hoặc học thuyết nào khác nung nấu tâm can của nhiều người. Nổi dậy và nội loạn, tiếp diễn trên đường phố/chốn đông người, rất bạo động. Có khi chỉ mơ hồ. Đôi lúc, lại ảo tưởng về mọi sự. Thời hậu-hiện-đại lại chủ trương huỷ hoại mọi chuyện. Chối bỏ mọi sự. Chối, cả niềm tin vào bất cứ thứ gì. Và rồi, tính hiện-đại lại vẫn tồn tại với khoa học kỹ thuật. Với mạng truyền thông, vi tính. Với cả trường lớp, chốn doanh thương ở phố chợ. Thế nên, con người nay có thói quen ra như thế.

Thật khó nói và khó nhận định. Khó, là bởi nền kinh tế thế giới, đã vỡ đổ. Dân gian mọi người trên thế giới, rày bối rối. Thị trường thế giới lại lủng củng/rối bời, khiến người người ra sức tìm cách chỉnh sửa, để cứu chữa. Tuy là thế, nhiều vị vẫn không có được một triết thuyết căn bản để cho đời hầu giúp mình chỉnh đốn cuộc sống thực tế, để tiến bước.

Thách thức ở đời người, không chỉ mỗi chuyện chỉnh sửa hệ thống chủ trương đặt nặng lên lợi nhuận nhờ khai thác bóc lột người khác. Thách thức ở đây/hôm nay, là tạo dựng hệ thống trong đó tài sản của tất cả mọi người phải được sẻ san/phân phát cho người khác. Vì lợi ích của mọi người. Thách thức của thế giới hôm nay, là đảm bảo rằng người khốn khó/nghèo hèn phải được quan tâm, chăm sóc. Thị kiến này từng làm rúng động thế giới từ năm 1968 cho đến nay chưa phục hồi.

Đó là vấn đề. Vấn đề, là mọi thứ nay dường như đã vụt mất. Vụt mất đi, khả năng tin tưởng vào các ngân hàng trữ kim to lớn và tin vào các vị tài phiệt nắm giữ đầu tư của ta, cho đúng phép. Người người hôm nay, lại để mất tính chất đạo đức/chức năng cần có cho người nghèo. Nhưng làm thế nào để cảm thông với những người chuyên khai thác bóc lột tài sản của mình rồi sẽ mang cùng một ý tưởng tìm cách để thế giới từng phát triển giùm giúp thế giới thứ ba, là thế giới không được ai đoái hoài, giùm giúp?

Đã có lần, ta cứ tưởng rằng mình đã có câu giải đáp cho mọi sự. Cả sự cố, lẫn gẫy đổ. Cả những quyết tâm tạo mô hình để người khác bắt chước mà sống sót.

Nhưng, từ đó đến nay, lại đã có khủng hoảng về niềm cậy trông/tin tưởng vào mọi thứ. Lẽ sống hôm nay, chừng như rơi xuống vực sâu, ở dưới đất. Các vị cao niên đã ra đi, không còn minh chứng được gì. Còn ta, nay đang vào thời kỳ chuyển tiếp mà chẳng thấy được gì ở lại nơi ta, ra mới mẻ. Đã có thời, ta được mời đề xuất những mới lạ hầu giúp mình sống sót. Có thể, đó cũng là khoa sinh thái rất mới mẻ giúp ta sinh hoạt phát triển. Sinh thái đây, không như những gì hiện rõ quanh ta. Mà, là thái độ sống liên đới với nhau, nhờ cậy nhau trong mọi việc.

Liên đới và cậy nhờ, không theo cách cá nhân tìm lợi nhuận, cho bằng tìm về với vũ trụ vạn vật có ta ở trong đó. Trong “hệ thống” của sự sống, như vẫn thấy yêu cầu tạo sự sống mới. Sự sống có quan hệ hỗ tương, trợ lực nhiều hơn. Và, bớt dần bản ngã riêng tư bé nhỏ, để mở rộng với mỗi người và mọi người.

Thế giới với vạn vật, như thế sẽ giúp ta trở nên nhẹ nhàng, êm đềm nhiều nhân bản. Việc này chỉ xảy đến khi ta tìm được những gì mình để mất, cũng rất lâu. Mất, con tim chân chính những biết yêu thương, giùm giúp mọi người. Phải công nhận, là: ta từng phung phí thời gian kiếm tìm thêm “thu nhập/lợi nhuận” cho riêng mình. Trái lại, cần khám phá ra mức độ sự sống khả dĩ tạo cho ta thêm thời gian và nghị lực và tài nguyên cho “người khác”. Tức, những người kiếmn tìm mãi vẫn không có. Mỗi người và mọi người phải nói được: “Tôi hiện hữu là vì mọi người đã hiện hữu cùng với tôi.” Nói thế có nghĩa: hãy bớt tập trung vào mình. Mà, hiệp thông sâu sắc nhiều hơn nữa.

Đó là, sắc thái đặc trưng tư riêng của người cùng chung ý nghĩa. Đó là, tin tưởng và cởi mở với mọi người. Bởi, triết lý xưa cũng như quan niệm ngày nay đều nhấn mạnh chuyện này. Tất cả chúng ta đều sống chung trong vũ trụ vạn vật khiến ta có thể tin tưởng lẫn nhau, vì ta cùng xuất thân từ Chúa, có Chúa ở chung cùng trong đó. Là người, ta cũng thuộc cùng một vũ trụ của những người có thể tin cậy nhau. Tin, vào nhân loại rất “của chung”. Và, người-dưng-khác-họ lại không là mối đe doạ gửi đến với ta. Nhưng, họ chính là cơ hội để ta có thể minh chứng rằng: hiện thời, vẫn có nhiều bản thể, hơn là chỉ có “chúng ta” đang sống trong vũ trụ khá riêng rẽ.

Mọi truyền thống đều phải thực hiện chuyện như thế, kể cả truyền thống tôn giáo và triết lý sống. Tin Mừng lâu nay được coi là Truyền thống trong Đạo nói lên giá trị kinh điển của Đức Chúa. Điều này thật rất đúng, kể từ khi thánh Máccô viết Tin Mừng đầu cho Tân Ước. Nhưng, tự thân, Tin Mừng Chúa nói vẫn cần một diễn tả mới về ý nghĩa chủ lực để chuyên chở.

Tin Mừng ta đọc, nay kể về người mù ngồi đó xin ăn, bên vệ đường. Xin ăn hay mù loà ở trong truyện, có thể mang ý nghĩa của một diễn giải chính trị, vào thời đó. Người ăn xin/mù loà lại những muốn người nào đó, có thể là Chúa đang đi ngang, sẽ xót thương phận hèn “xin ăn” của anh ta. Nhưng, Chúa lại đã gọi anh đến gần. Và, anh lại đã nhảy mừng vì sung sướng, đã đến cùng Chúa.

Và, lời Chúa hỏi: ”Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Và, người “xin ăn” lại đã diễn giải sự việc nay thấy đúng. Sự việc rất đúng, đó là: “Lạy Chúa, xin cho tôi thấy được!” Anh không “thấy” được điều đó, nhưng qua yêu cầu Chúa tặng ban cho mình, anh đã “thấy”. Hành động “thấy” và tin đã cứu anh. Việc “thấy” lại đã về với anh. Và, anh bước theo con đường Chúa đi, mà chẳng cần đến con mắt dẫn đường của ai hết.

Phải chăng điều tuyệt vời, nếu hôm nay ta lại cũng “thấy” được như thế? Phải chăng, điều ấy rất tuyệt, nếu lãnh đạo mọi tổ chức cũng “thấy” được như thế? Cả ta nữa, ta cũng cần “thấy” được sự việc Chúa muốn mọi người cũng “thấy” và cũng làm, như Ngài?

Tìm hiểu điều Chúa muốn ta “thấy”, cũng nên ngâm nga lời ca còn đó trong đời, vẫn cứ bảo:

            “Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi niềm,

            Không u ám, như cõi lòng ma quỷ.

            Vì có Đấng Hằng Sống, hằng ngự trị.

            Nhạc thiêng liêng dồn trổi, khắp hư linh.” (Hàn Mặc Tử – Ngoài Vũ Trụ)

Trong hay ngoài vũ trụ, ai cũng đều “thấy” cõi lòng ma quỷ được Chúa ngó ngàng, hỏi han rất ân cần. Hỏi và nói những điều tương tự, ở trên: “Anh chị, muốn Tôi làm gì cho anh chị đây? Và hôm nay, câu trả lời còn đó vẫn dành cho mọi người. Ở mọi thời.

Lm Kevin OShea DCCT biên soạn

 Mai Tá lược dịch.

Đường nào lên Thiên Thai

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 30 Thường niên năm B 28-10-2018

“Đường nào lên Thiên Thai,”
“Đường nào lên Thiên Thai?
Nơi hoa xuân không hề tàn,
Nơi bướm xuân không hề nhạt,
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ.”

(Hoàng Nguyên – Đường Nào Lên Thiên Thai)

(Công Vụ 27: 7)

Anh hỏi gì thì cứ hỏi, Em đây, nào có biết đâu mà trả lời. Chí ít, là trả những lời từ câu hỏi khó đoán và cũng khó hiểu. Hiểu sao được khi Em chẳng biết nhiều về chuyện Lưu Nguyễn khi xưa có những lời hát thêm sau đây:

“Ngày xưa sao Lưu Nguyễn,
gặp đường lên Thiên Thai,
Nhạc vàng ai mê say,
Rượu Đào ai ngây ngây
Suối Ngọc reo dưới bước chân đi,
Tiếng Nhạc tiên quyến luyến xiêm y,
ôi làm sao lạc vào được Thiên Thai
Anh nào biết đường lên Thiên Thai,
khi trời đất còn vương thương đau,
khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu
Anh nào biết đường lên Thiên Thai,
khi lòng còn như băng buốt giá
Và tình còn e ấp, nói không thành lời.”

(Hoàng Nguyên – bđd)

E ấp hay không, anh cứ hát. Hát không nhiều, thì ít nhất cũng là những câu hát rất đẹp như sau: 

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên – bđd)

Vâng. Đúng thế. Đẹp và khó biết, tương tự như chuyện cổ tích rất đời kể bên dưới:

 “Có một ông lão đã 76 tuổi, ở cùng vợ trong một căn hộ cho thuê ở thành phố San Francisco nước Mỹ. Ông chưa từng mặc qua quần áo hàng hiệu, kính mắt rất cũ kỹ, đồng hồ đeo tay cũng không hợp thời. Ông không thích món ăn ngon, thích nhất là sữa hâm nóng và bánh sandwich cà chua giá rẻ. Ông cũng không có ô tô riêng, ra ngoài thường đều đi bằng xe buýt, túi xách mà ông từng dùng để đi làm là túi vải.

 Mặt khác, nếu bạn cùng ông đến một quán rượu nhỏ uống bia, ông nhất định sẽ cẩn thận kiểm tra đối chiếu hóa đơn; nếu bạn ở lại nhà ông ấy, trước khi ngủ ông ấy nhất định sẽ nhắc bạn tắt đèn.

Một ông già keo kiệt nghèo khó như vậy, bạn có biết trước 76 tuổi ông đã làm những việc gì chăng?

 Ông đã từng cống hiến cho đại học Cornell 588 triệu đô la Mỹ, cho đại học California 125 triệu đô la Mỹ, cho đại học Stanford 60 triệu đô la Mỹ. Ông từng bỏ vốn 1 tỷ đô la cải tạo và xây mới 7 trường đại học ở New Ireland và hai trường đại học ở Northern Ireland. Ông từng thành lập quỹ từ thiện để phẫu thuật sứt môi hở hàm ếch cho trẻ em ở các nước đang phát triển… Cho đến nay, ông đã quyên 4 tỷ đô la, còn 4 tỷ nữa đang chuẩn bị quyên góp.

 Ông là người sáng lập tập đoàn được miễn thuế toàn cầu DFS. Keo kiệt với chính mình, hào phóng với mọi người, thích kiếm tiền lại không thích được tiền – ông là Chuck Feeney.

 Trước mắt, Chuck Feeney còn ba nguyện vọng: Một là trước năm 2016 quyên hết 4 tỷ đô la còn lại, nếu không chết không nhắm mắt. Hiện tại, từ số tiền kia mỗi năm đều có hơn 400 triệu đô la chảy về các nơi cần trên thế giới.

 Ông đã dựng nên một tấm gương cho những người giàu có: “Trong khi hưởng thụ cuộc sống đồng thời quyên góp cho mọi người”. Bill Gates và Warren Buffett đều chịu ảnh hưởng nhiều từ ông mà đã thay đổi hành động của mình.

 Sau khi việc thiện của Chuck Feeney bị tiết lộ ra, rất nhiều phóng viên muốn tiếp xúc với ông. Trong tâm ai cũng đều có một nghi vấn: Làm sao Chuck Feeney có thể dửng dưng trước gia tài hàng tỷ đô la kia chứ?

Đối với nghi vấn của mọi người, Chuck Feeney mỉm cười kể cho mọi người một câu chuyện: “Một con hồ ly thấy bồ đào trong vườn kết trái đầy, muốn vào trong ăn một chầu no bụng, nhưng giờ nó mập quá, không chui vào được. Thế là ba ngày ba đêm nó không ăn không uống để thân thể gầy xuống, cuối cùng cũng chui vào được! Ăn no nê, cảm thấy thỏa mãn, nhưng khi nó muốn rời đi, lại không chui ra được. Bất đắc dĩ đành phải giở trò cũ, lại ba ngày ba đêm không ăn uống. Kết quả, lúc nó đi ra, bụng vẫn giống như lúc đi vào.”

 Kể xong câu chuyện, Chuck Feeney nói:

 “Chỗ Thượng Đế ở không có ngân hàng, mỗi người đều là trần trụi sinh ra, cuối cùng cũng đơn độc ra đi, không ai có thể mang theo tài phú và danh tiếng mà bản thân đã đau khổ tìm kiếm cả đời.”


Truyền thông hỏi Chuck Feeney, vì sao ông lại quyên góp hết gia tài của mình?

Câu trả lời của ông đơn giản và ngoài dự đoán của mọi người! Ông nói: “Bởi vì tấm vải che tử thi không có túi.”

 “Chỗ Thượng Đế ở, không có ngân hàng”. Và, cũng chẳng có nơi nào chuyên quyên góp tiền bạc hoặc quà cáp cho người dưng. Thế nhưng, ở nhà Đạo thì sao?  Nhà Đạo ư? Thật rất khó mà trả lời những câu tương tự. Thôi thì, mời bạn và mời tôi, ta đi vào giòng chảy Tin Vui, để tìm đến chốn yên vui được gọi là “Bến Lành” có bến và cũng rất lành thánh, như thiên thai.

Thiên-thai hay Bến Lành của nhà Đạo, là chốn/miền gồm chỉ mỗi niềm vui như hành-trình rao giảng của đấng thánh-hiền được kể ở sách Công vụ, mà bảo rằng:

“Trong vòng nhiều ngày, tàu đi chậm,

và vất vả lắm chúng tôi mới đến ngang Kniđô.

Vì không thuận gió,

chúng tôi đi vòng theo đảo Krêta,

hướng về phía mũi Salmônê.

Chúng tôi vất vả đi men theo mũi đó

đến một nơi gọi là Bến Lành,

gần đó có thành Lasêa.”

(Công Vụ 27: 7)

Thiên thai hay Bến Lành ngày hôm ấy, nay lại trở thành chốn miền ở đâu đây, rất gần gũi với quê ta, quê người đầy hung phấn.

Bến Lành hay Thiên thai hôm nay, lại cũng hiện diện ở tâm can của bạn, tâm hồn của tôi và của mọi người trong đất miền lành thánh, thân thương có câu truyện kể làm nền, để nhớ mãi, không buồn, như sau:

“Mới chiều hôm qua thôi. Mẹ cùng mấy bà trong xóm lên chùa trên núi quy y. Mẹ nghe sư thầy nói chuyện hay quá. Nhẽ ra mẹ nên chăm vào chùa và sống theo đạo lý nhà Phật từ lâu rồi mới phải.

 Mẹ từng nhiều lần nói với Thuần về mong muốn được thảnh thơi đi chùa lễ Phật. Điều đó có khó gì với người khác đâu nhưng lại vô cùng xa vời với mẹ. Vì mẹ còn nặng nợ với chồng con, với cơm áo gạo tiền. Mẹ còn gần mẫu ruộng, bốn con bò, đứa cháu nội ở với bà từ khi còn ẵm ngửa và khoản nợ ngân hàng mấy trăm triệu đồng hằng tháng sấp ngửa lo trả lãi.

 Mẹ thức khuya dậy sớm làm lụng quần quật suốt ngày. Buổi trưa mệt quá muốn đặt lưng xuống giường nghỉ vài phút cũng không yên vì còn phải trông đứa cháu nghịch như quỷ sứ. Mười hai giờ đêm còn có người gọi điện đến đòi nợ, dọa báo công an. Mà đâu phải mẹ nợ gì người ta. Đấy là món nợ chơi bời của thằng con cả đã bốn mươi tuổi đời, lớn mà vẫn dại. Mẹ bòn mót từng đồng tiền lẻ bán mớ rau khoai, gánh củi khô, mấy con gà, vài quả trứng. Vậy mà anh Thuần phá toàn tiền trăm bạc triệu. Mỗi lần người ta báo nợ về nhà là mẹ bủn rủn tay chân, khóc đứng khóc ngồi. Khoản tiền vài trăm triệu biết kiếm đâu ra? Không có trả thì người ta đánh đập bắt bớ con mình. Giận con thật đấy nhưng mẹ vẫn thương lắm chứ. Cá chuối đắm đuối vì con…

 Mẹ chạy vạy khắp nơi để lo đắp đậy nợ nần hết lần này đến lần khác cho đứa con nghịch tử. Vay sổ hộ nghèo, quỹ trồng rừng, quỹ hội phụ nữ, quỹ nước sạch. Trong nhà không gì nhiều bằng sổ nợ và bình rượu. Những bình rượu to vật vã cứ vơi lại đầy. Bố Thuần say ngất ngư từ ngày này qua ngày khác. Mà hễ cứ say là chửi. Giận con nhưng chửi vợ. Bố đay nghiến mẹ chuyện vay mượn trả nợ nần thay cho thằng con cờ bạc.

 Thỉnh thoảng bố ngồi ăn cơm nguội ở xó bếp rồi rưng rức khóc. “Đời bố phải đi phụ hồ vôi vữa ăn mòn mười đầu ngón chân để lấy tiền nuôi con ăn học. Vậy mà nó ra ngoài xã hội, cái hay không học lại đi học cái mất dạy”. Cũng có khi bố ngồi húp từng thìa cháo, tay bo cái răng đau mà than rằng: “Ngày xưa đói khổ, nhảy tàu đi mót sắn trên Yên Bái bị ném gãy răng. Một cái gãy là những cái xung quanh xô nhau gãy. Giờ chẳng còn mấy cái răng, ăn cái gì cũng phải hầm nhừ. Vậy mà con cái nó không thương mình. Nó phá cả nửa tỉ bạc mà vài triệu tiền trồng răng mình không có nổi”. Hết chửi bố lại quay sang đập. Đập gà, đập chó, đập con mèo đang chửa, con bò sắp đẻ và có khi đập… mẹ. Nhà lúc ấy loạn lên. Cháu khóc vì hoảng sợ. Mẹ khóc vì thấy đời mình sao khổ cực trăm đường.

 Bố vẫn rít lên từng hồi rằng:

-“tiền nhà này tao làm còng lưng gãy xương giờ đi đâu hết?”. Lần nào về thăm nhà Thuần cũng thấy nghẹt thở. Đó là nơi Thuần yêu thương nặng lòng nhất mà sao lại là nơi thiếu ôxy nhất?

 Mẹ từng nhiều lần có ý nghĩ ngủ một giấc và không bao giờ thức dậy để thoát khỏi những khổ ải đầy đọa này. Thuần hiểu cảm giác một buổi sáng mở mắt lòng bỗng nhiên nặng trĩu. Ngày mới mà nỗi lo toan cũ vẫn đè nặng lên vai. Gần hai mươi năm qua số phận dúi vào tay mẹ cả nghìn buổi sáng lo sợ và hoang mang như thế. Những cục nợ không biết đẩy đi đâu? Xoay xở thế nào? Sau cục nợ này sẽ còn bao nhiêu cục khác? Cứu nó lần này liệu có còn lần sau nữa hay không? Cả thiên hạ không còn ai tin nó, mình là mẹ lẽ nào mình cũng quay lưng?

 Thuần từng xót xa bảo:

-Mẹ không quay lưng lại thì làm sao anh ấy thấy được lưng mẹ đã còng rồi?”

Mẹ khóc. Thuần không chịu được cảm giác nghe thấy tiếng mẹ khóc hu hu trong điện thoại. Tim Thuần như vỡ vụn. Đau đớn và bất lực.

 Mẹ bắt đầu lẩn thẩn. Đã có lúc mẹ quên cả tên Thuần, quên chỗ vừa cất tiền, quên điều mình muốn nói. Đến bữa mẹ chỉ gắp vài cọng rau, nuốt cố lưng bát cơm rồi chống gối đứng dậy. Những ngày nhiều gió ngồi ngó dáng mẹ gầy liêu xiêu khắc khổ, Thuần thấy tim mình nhói lên từng nhịp thở. Mẹ nói khổ thân xác không bằng khổ tâm. Ban đêm nằm lo toan nợ nần đã đành.

 Ban ngày đi ra đường không dám ngẩng mặt nhìn bà con hàng xóm. Đi đâu thấy người ta chụm đầu xì xào cũng nghĩ chắc người ta đang nói đến con mình. Đám cưới quê ngoại, nhìn các mợ các dì mặc áo dài thướt tha, làm tóc trang điểm cầu kỳ. Chỉ mình mẹ nhàu nhĩ ngồi một xó. Mặt mẹ buồn xo, mắt lúc nào cũng như sắp khóc.

 Nhà người ta con cái ngoan ngoãn trưởng thành nên đi đâu cũng mở mày mở mặt. Mẹ vất vả nuôi con học hành đến nơi đến chốn mà u mê lầm lạc. Thử hỏi lòng người mẹ sao có thể cất lên những tiếng vui? Thuần từng nhiều lần tần ngần nâng lên đặt xuống mảnh vải áo dài thêu công thêu phượng. Rồi ước ao được ướm nó lên người mẹ, sẽ đẹp biết bao.

 Ngày trẻ mẹ đẹp lắm, vẻ đẹp mũm mĩm của da trắng, tóc xoăn. Đấy là Thuần nghe các dì kể vậy. Những người từng thầm yêu trộm nhớ mẹ khi xưa bây giờ thỉnh thoảng vẫn ghé thăm. Có lần mẹ chạy trốn sau nhà không ra gặp. Vì mẹ không muốn mình tiều tụy trong con mắt những kẻ si tình. Họ thường thốt lên xa xót: “Em khác quá em ơi…”. Mẹ đối thoại với họ bên tách trà nguội ngắt. Thuần đứng trong buồng nhìn ra thấy mẹ đang thu mình mỏng manh như lá…

 -Tối nay mẹ không xem “Góa phụ nhí” nữa ạ?

-Mẹ không. Dạo này tối nào mẹ cũng bận đọc sách. Mẹ mượn được mấy cuốn sách Phật hay lắm. Giá mà có đài “A di đà Phật” để nghe giảng Phật pháp thì thích biết mấy. Chỉ tiếc chùa trên mình không bán. Nghe nói chỉ những chùa lớn có nhiều phật tử thì mới bày bán thôi.

– Để con tìm mua rồi gửi về cho mẹ.

– Mẹ dặn thằng Út rồi nhưng chắc gì nó nhớ.

 Thuần có hơi bỡ ngỡ trước mẹ của hiện tại, khi đã quy y nhà Phật. Vẫn là người mẹ tảo tần, nhẫn nhịn, hy sinh của Thuần đấy thôi nhưng có gì đó hơi khang khác. Thuần phải tập làm quen với những bữa cơm mẹ chỉ gắp rau xanh. Những ngày cuối tháng mẹ ra chợ mua cặp chim bồ câu hoặc cua, cá phóng sinh. Chim bay lên trời, cá bơi dưới nước. Mẹ cũng phóng sinh dần từng chút nỗi buồn. Thuần gọi điện về thấy mẹ hay cười hơn. 

Những tiếng thở than đã bớt đi dù gánh nặng trên vai thì vẫn vậy. Khác hẳn với mẹ của ngày xưa hay nói về cái chết. Đời mẹ từng khất lần khất lữa hai thứ. Đó là khất nợ và khất chết. Nợ thì mẹ khất quanh năm. Chết thì mẹ khất theo mùa. Như lúc ngó những lộc non mùa xuân nảy nở, mẹ hẹn:

Chừng nào cả khu vườn được bao phủ bởi những tán cây thì khi đó mẹ sẽ chết. Các con thiêu mẹ rồi xây mộ trong vườn. Thỉnh thoảng con cháu tụ về tìm mùa quả chín.

 Mùa hạ, khi thấy người ta nghễu nghện chở xe bò phông bạt bàn ghế qua cổng, mẹ hẹn:

-Mẹ cố sống để được nhìn Thuần mặc váy cô dâu rồi nhắm mắt xuôi tay.

 Rồi thì Thuần cũng lấy chồng, cũng làm cô dâu trong ngày trọng đại. Mẹ khóc nhiều lắm. Mùa thu, thấy nhà người ta phơi tã lót trẻ con phấp phới trước sân, mẹ lại hẹn:

-Chừng nào Thuần được làm mẹ, Thuần sinh con, mẹ bế cháu ngoại trên tay là có thể thanh thản hóa thành cát bụi”. Mỗi một cái hẹn là một lần tim Thuần đau. Suốt bao nhiêu năm Thuần cứ đau đáu mãi câu hỏi phải làm sao để mẹ chỉ muốn hẹn với Thuần về sự sống?

 “Mẹ quy y rồi”. Câu nói ấy cứ vang mãi trong đầu Thuần. Có lúc Thuần nghe như một tiếng reo. Có lúc nhẹ nhõm như vừa trút một tiếng thở dài. Mẹ nương nhờ nhà Phật là từ nay tâm thức mẹ sẽ được an ổn thoát mọi khổ não trên đời. Là mẹ có đạo để tin, có nơi để vịn, có niềm vui để sống.

-Chắc kiếp trước mẹ nợ nhiều quá nên kiếp này còng lưng trả nợ. Chẳng nên oán trách ai. Con cũng nên chăm đi chùa, sống theo đạo nhà Phật để cho tâm thanh tịnh.

-Con bận quá mẹ ạ. Cứ quay cuồng từ sáng đến đêm vẫn chưa hết việc. Đến thời gian nghỉ ngơi con còn không có.

-Ừ thì… Phật tại tâm. Mỗi tuần ăn một vài bữa chay là thấy người nhẹ nhõm. Chăm nghĩ việc thiện, chăm làm điều hay để kiếp sau không phải gặp khổ đau ách nạn con ạ. Luật nhân quả chẳng chừa một ai. Đêm nào mẹ cũng nghĩ, anh con cứ sống như vậy mãi rồi cũng gặp những chuyện không hay. Cái khổ tâm lớn nhất của mẹ là đã không lôi nó ra khỏi những u mê tăm tối. Nên mẹ phải chăm ăn chay niệm Phật, thương người thương vật để cầu đức Phật gia hộ, soi đường chỉ lối cho các con.

 Thuần về thăm nhà, đêm thường nằm im nghe tiếng mẹ đọc kinh. Mẹ chỉ đọc kinh về đêm khi bố đã ngủ say. Đó là khoảng thời gian yên tĩnh hiếm hoi trong nhà. Mẹ không muốn giữa chừng bài kinh phải nghe thấy tiếng chửi bới nồng mùi rượu. Bố là người vô đạo, ông không tin vào bất cứ điều gì ngoài rượu. Không tin bất cứ ai ngoài bạn rượu. Nhưng Thuần biết bên trong cái vỏ bọc cục cằn ấy là đau đáu yêu thương và nhọc nhằn bất lực. Bố thường ngủ rất ít, thậm chí có những đêm thức trắng. Đêm là lúc bố tỉnh táo nhất, men rượu trong người bay hết. Bố nằm nghĩ về cuộc đời mình, về đứa con có lớn mà không có khôn. Một hôm nào đó ngồi cùng bạn rượu, bố nói như muốn khóc:

 -Sau này chết đi, tôi muốn bán nội tạng. Chết là hết, thân thể mình rồi cũng chỉ còn lại nắm xương. Mình bán nội tạng vợ con có thêm chút tiền trang trải nợ nần, mà những người bị bệnh cũng được cứu sống. Nhưng vợ con tôi chẳng đời nào đồng ý.

-Anh già rồi. Lại suốt ngày rượu. Lục phủ ngũ tạng hỏng hết. Ai thèm mua.

-Chú chẳng biết gì cả…

 Trong lời nói của bố vảng vất hơi men nên Thuần thấy mắt mình cay nhòe. Người say không biết nói lời hay nhưng lại là lời thật. Những câu nói của bố cứ vảng vất trong đầu Thuần lúc nằm nghe mẹ đọc kinh. Câu kinh bay lên thì tiếng bố lại ghì chặt xuống. Bố hay ngáy ngủ. Tiếng ngáy vang khắp mấy gian nhà. Nó nhắc Thuần nhớ những ngày xưa cũ.

 Bố đi phụ hồ về thường để cả quần áo lao động và hai bàn chân dính đầy vôi vữa leo lên giường ngủ. Ánh nắng xiên qua mái ngói thủng chiếu vào mặt bố cả mảng to. Máy bay quân sự tập dượt bay ầm ầm trên trời át cả tiếng ngáy của bố. Vừa tỉnh dậy bố lại vội vã gò lưng đạp xe giữa trời nắng như đổ lửa. Thuần đứng dưới gốc cây vú sữa nhìn theo mãi cho đến khi bóng bố chỉ còn là chấm nhỏ nhoi giữa cánh đồng khô hạn mênh mông. Tối muộn trở về nhà với tấm lưng ướt đẫm mồ hôi. Bố chìa cho anh em Thuần mỗi đứa một chiếc kẹo cao su làm quà. Bố nhấc bổng Thuần lên quay vòng tròn bằng đôi tay rắn chắc. Thuần ngửa cổ lên trời thấy những vì sao lấp lánh đang ở rất gần tưởng như có thể chìa tay là với tới…  

* * *

Sáng sớm Thuần nằm im trên giường nghe ngoài vườn tiếng chim líu lo bay tìm quả ngọt. Những chú gà con tìm mẹ kêu chiêm chiếp, thỉnh thoảng lại chạy tán loạn khi con mèo già õng ẹo đi qua. Một cơn gió ùa đến lay vài chiếc lá rụng xào xạc bên ngoài cửa sổ. Bố đang cuốc đất trồng rau sau khi tráng miệng buổi sáng bằng một chén rượu ngâm thuốc bắc. Mẹ rủ Thuần lên chùa sau khi đèo đứa cháu đi nhà trẻ. Mẹ ngồi sau lưng Thuần, nhỏ bé.

 Thuần bỗng nhớ đến những ngày thơ ấu ngồi sau xe mẹ. Mẹ chở Thuần đi chợ. Dốc chợ dựng đứng, Thuần ngồi trên xe để mẹ gò lưng dắt. Những ngày ốm mẹ chở Thuần đi bệnh viện. Bệnh viện cách xa nhà hơn chục cây số. Cột Thuần vào lưng mẹ bằng một chiếc áo, phía trên che nắng bằng chiếc lá cọ to. Mẹ cứ thế xuyên qua cánh đồng nắng đổ lửa mà đi.

 Giờ con đường đưa mẹ lên chùa rợp bóng cây xanh và tiếng chim ca. Mẹ ngày càng gầy đi còn Thuần thì ngày một béo lên. Nhìn ngấn mỡ trên bụng Thuần, mẹ lắc đầu than: “Béo thế nhiều bệnh tật lắm con ơi. Phải xem lại chế độ ăn uống đi thôi”.

 Thuần không sợ bệnh bằng sợ xấu. Có lúc soi gương Thuần thấy mình giống con gấu ngủ đông, giống một gã khổng lồ bụng phệ. Thuần tha thiết giảm cân nhưng lại không kiềm chế nổi nhu cầu ăn uống của mình. Những người ăn chay như mẹ khi nhìn cơ thể Thuần là thấy ngay mỡ động vật, thịt động vật, đồ ngọt dư thừa. Mẹ ngồi sau vòng tay ôm lấy eo Thuần khẽ bảo:

 -Con nên ăn nhiều rau xanh và chăm chỉ vận động. Đừng ngồi bàn máy suốt ngày. Từ khi ăn chay mẹ thấy khỏe ra, giấc ngủ sâu hơn, những cơn đau đầu cũng dần thuyên giảm.

-Rau ở dưới thành phố xanh mà không sạch. Ăn nhiều rau có khi còn nhanh chết sớm. Con đi chợ nhiều hôm không dám mua rau. Dù bữa cơm không rau, ăn toàn thịt cũng cồn cào ruột gan lắm.

-Thì tranh thủ thời gian trồng rau mà ăn. Nước gạo, nước rửa bát mình tiết kiệm mang tưới tắm.

-Đấy là mẹ không biết đấy thôi. Đất dưới phố đắt hơn vàng. Người ta xây nhà trọ cho thuê như xây phòng giam vậy. Có chỗ ở là tốt rồi, làm gì có đất trồng rau. Con xin được mấy hộp xốp trồng ít rau cải mầm nấu cháo cho cháu hằng ngày thôi mẹ ạ. Người lớn thì khuất mắt trông coi, cứ mua rau chợ đầy thuốc trừ sâu hoặc là nhịn thôi mẹ ạ.

-Hay là từ giờ mẹ trồng thêm mấy luống rau. Thỉnh thoảng cắt thành từng bó đón xe trên đường cao tốc gửi xuống cho con?

-Thôi mẹ ạ. Xe chạy xuống chỗ con chỉ có chuyến lúc chín giờ tối. Giờ đấy mẹ còn ru cháu ngủ mà.

 Xe trôi qua cánh đồng mùa lúa non thơm mùi sữa rồi rẽ vào con đường nhỏ chạy dọc hai bên đồi bạch đàn. Mẹ ngồi sau bé nhỏ nơm nớp lo từng chỗ xóc. Mẹ bảo:

-Nếu ông trời cho mẹ sống lâu thì sau khi các cháu lớn khôn mẹ sẽ lên chùa ở hẳn. Nương náu dưới gốc bồ đề, dưới chân đức Phật mà sống những tháng ngày cuối đời thanh thản.

-Lúc ấy con chắc cũng đã thảnh thơi hơn. Con sẽ thường xuyên về thăm mẹ.

 Mẹ lặng im nhìn những hàng cây lùi lại phía sau. Thuần bỗng nhiên cay mắt khi nghĩ đến ngày đưa mẹ lên chùa sống. Ừ, nếu có ngày ấy thật thì con đường này chắc sẽ dài hơn. Mẹ ngồi sau xe chắc sẽ nhẹ như một chiếc lá khô, một áng mây trời. Hẳn sẽ như khúc Tống biệt hành của Thâm Tâm: “Đưa người ta không đưa qua sông/Sao có tiếng sóng ở trong lòng”.

 Lúc ấy Thuần không biết sẽ chuẩn bị những gì cho mẹ mang theo. Mà người tu hành có khi chẳng cần mang theo gì. Thuần cũng chỉ mong khi ấy mẹ có thể bỏ lại mọi thứ mà đi. Để vào chùa thấy lá rơi không buồn, nghe mưa rơi không nhớ. Liệu có ngày đó thật hay không mà chưa gì Thuần đã thấy hình như mình mất mát. Đúng lúc Thuần đưa tay lau khóe mắt thì mẹ bảo:

 -Nói thế chứ dễ gì mà lên chùa sống yên. Còn bố con nữa, sao lỡ bỏ mà đi. Phật ở trong tâm. Mẹ ở đâu cũng đều có Phật. Phải không con?

 Đất miền thiên thai hôm nay và mai ngày lại sẽ hiển hiện mãi ở cạnh tôi, bên bạn và mỗi người cùng mọi người, chứ không xa. Và, đất miền ấy, nay hẹn sẽ trổ những bông hoa lành/đẹp, như lời ca ở bài hát rất bình thường, thế này đây:

“Anh nào biết đường lên Thiên Thai,
khi trời đất còn vương thương đau,
khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu
Anh nào biết đường lên Thiên Thai,
khi lòng còn như băng buốt giá
Và tình còn e ấp, nói không thành lời.”

(Hoàng Nguyên – bđd)

Rồi cứ thế, anh và em, ta tiếp tục hát mãi những lời hát rất “Thiên thai” mãi không thôi:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên – bđd)

 Hát thế rồi, bạn và tôi ta cứ thế hân hoan tiến về phía trước mà cất lên lời ca mãi mãi đẹp, mà rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai.
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên – bđd)

“Hồn anh lạc vào tận tim ai?” lại sẽ là câu hỏi được gửi đến bạn, đến tôi và mọi người ở đất trời lành thánh, cùng với truyện kể nhẹ buồn nhưng thanh-thản làm kết đoạn một Phiếm “loạn”, rất miên man, êm đềm ngày tháng dài, ở nơi đây.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những tháng ngày đẹp mãi

trong tương lai.

18 KHOẢNH KHẮC ĐẶC BIỆT TRONG NGÀY ĐỂ KHÁM PHÁ SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

18 KHOẢNH KHẮC ĐẶC BIỆT TRONG NGÀY ĐỂ KHÁM PHÁ SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

“Thiên Chúa hành động trong khiêm hạ và tĩnh mịch. Sự ‘phô diễn’ không phải là lối hành xử của Ngài!” (Giáo Hoàng Phan-xi-cô)

Tôi thấy chẳng hiếm họa gì để nghe những lời than vãn như “Thiên Chúa bỏ rơi tôi, Ngài chẳng nghe tiếng tôi van nài,” hay “Tôi chẳng biết Chúa ở đâu.” Con người ngày nay thường sống trong vội vã và để mình bị chôn vùi vào vòng xoáy của công việc và của muôn vàn hoạt động mà thế giới này đòi hỏi. Những hoạt động ấy có khi làm mất đi trong họ ý nghĩa cuộc đời, và rốt cuộc chúng biến họ thành những người mất phương hướng, rồi lại cảm thấy mình cô độc.

Ngay cả khi con người không cảm thấy có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài thì Ngài vẫn luôn hiện diện giữa họ. Nếu dành một chút lưu tâm, và tạm ngưng dòng suy nghĩ trong giây lát, ta sẽ nhận ra rằng quả thực trong từng bước ta đi, từng nơi ta ở, dù tốt, dù dở, Thiên Chúa vẫn ở đó với ta. Ngài hiện diện, Ngài ước mong con người lắng nghe và cảm thấy mừng rỡ hân hoan khi gặp được Ngài. Có lẽ nhiều người đã sai lầm khi tin rằng người ta chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong những khoảnh khắc phi thường; nơi những lúc cầu nguyện sâu lắng hay những phép lạ cả thể. Quả thực Thiên Chúa hiện diện trong những khoảnh khắc đó, tuy nhiên Ngài cũng ở bên ta trong từng bước ta đi. Ngài chờ đợi con người mở toang cánh cửa tâm hồn và lắng nghe Ngài thì thầm bên tai, cảm nghiệm từng chút sự chăm sóc, sự hướng dẫn, và kể cả sự hóm hỉnh nơi Ngài nữa.

Và đây, bạn sẽ thấy 10 tình huống cụ thể diễn ra hằng ngày, mà nơi đó, Thiên Chúa sẽ cho thấy chính Ngài đang hiện diện. 

“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)

1. Khi ta thức dậy và dâng ý nghĩ đầu tiên cho Chúa

Tôi mở mắt ra và nhận thấy cuộc sống của tôi là một món quà khởi xuất từ một tình yêu thương vô bờ, cho dẫu đôi khi vẫn còn đó nơi cuộc đời tôi, những giây phút khó khăn đầy thách đố.

2. Khi tôi chia sẻ những món quà

Đôi lúc tôi chợt nhận ra những kỹ năng và tài khéo độc nhất vô nhị của tôi, chẳng hạn như khả năng trao ban những lời khuyên tốt lành, sửa chữa thứ gì đó, vẽ một bức tranh tặng cho các con tôi, hát một bài hát, và đôi khi nở một nụ cười tươi duyên dáng…, những tài khéo ấy biến tôi thành duy nhất và khác biệt, đúng như Thiên Chúa muốn tôi là.

3. Khi sự giận dữ xâm chiếm con người tôi, nhưng ngay sau đó, tôi có thể khống chế và điều khiển lối phản ứng của mình

Sự hiện diện của loại phản ứng cáu gắt như thế trong đời sống là một dấu chỉ cho thấy có thứ gì khác thúc đẩy tôi. Việc tôi không bị cuốn theo, nhưng tỉnh thức trước thôi thúc ấy cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tôi.

4. Khi tôi cảm thấy cô đơn, nhưng ngay sau đó, một hình ảnh ủi an tôi (trước khi tôi rơi vào tuyệt vọng)

Rất nhiều lần trong những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng, tôi trở về với Thập Giá Chúa Kitô và tìm thấy nơi đó ý nghĩa của những đớn đau, phiền muộn tôi gặp phải. Ngài đã mang vác chúng trước tôi.

5. Khi tôi có được những giây phút riêng tư và cầu nguyện

Ngày lại ngày trôi qua tôi hầu như chẳng có được chút thì giờ cầu nguyện. Nhưng có lẽ khi chọn chúng để kết thúc một ngày sống, những khoảnh khắc, những giây phút ấy lại là niềm an ủi cho tôi. Đó là những khoảnh khắc cho phép tôi nghỉ ngơi bên Ngài, để tạ ơn Ngài, và để tìm thấy một sự thanh thản diệu vời.

6. Khi nỗi đau của người khác biến thành nỗi đau của chính tôi 

Tôi cảm thấy nỗi đau của người khác. Có những người tôi chưa bao giờ gặp gỡ, hoặc họ ở những nơi tôi chẳng thể nào thăm viếng, nhưng tự nhiên tôi cảm thấy niềm đau xót của họ chính là nỗi đau của tôi. Đó là dấu chỉ Chúa nói trong tôi: “Hãy yêu người thân cận như chính mình.” (Mc 12,31)

7. Khi tôi chiêm ngắm những kỳ quan trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa

Khi chiêm ngắm những kỳ quan trong công trình sáng tạo, tôi trở nên một chứng nhân cho một trật tự đang vận hành vũ trụ. Tôi thấy mình được nhắc nhớ rằng thế giới này xoay vần nhịp nhàng theo một trật tự nhất định, không thể do một định mệnh ngẫu nhiên nào đó.

8. Khi tôi chứng kiến tình yêu mà đứa con yêu quí của tôi dành cho người khác

Một nụ hôn ngây thơ của đứa trẻ vén mở cho tôi dấu chỉ về Thiên Chúa. Dấu chỉ ấy dạy em bé bài học yêu thương ngay từ khi còn thơ ấu.

9. Khi tôi thấy niềm vui của những người đã dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa

Niềm vui của những người bạn sống đời dâng hiến luôn gây ấn tượng mạnh mẽ trong tôi, đặc biệt khi tôi nói chuyện với họ và khi nhìn họ đón chào người khác. Đời sống họ tỏa lan một thứ niềm vui hẳn phải đến từ một điều gì đó lớn lao hơn nhiều, một sự đồng hành liên lỉ, một sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.

10. Những khuôn mặt bé thơ đầy hối hận

Khi các con tôi nghịch ngợm và đột nhiên hiểu rằng chúng đã làm một việc không tốt, chúng tỏ ra hối hận. Hối hận là điều vô cùng quan trọng để bắt đầu lại. Thiên Chúa hiện diện trong tình huống như vậy để dạy tôi cách làm mẹ và làm sao để hướng dẫn các con tôi biết hành động theo những điều tốt lành.

11. Khi tôi giúp đỡ người khác

Tình yêu gắn liền với việc trao hiến và phục vụ. Mỗi khi tôi giúp đỡ ai đó, cho dù là bạn bè hay một người xa lạ, trái tim tôi vẫn ngập tràn hoan lạc, và tôi cảm nghiệm được ý nghĩa của điều răn mới Chúa Giêsu để lại cho chúng ta, đó là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình.

12. Khi tôi nhớ đến người thân yêu đã khuất

Khi tưởng nhớ đến những người thân yêu của tôi đã li trần, đó là ông bà, chú bác, và cả những người bạn của tôi, Thiên Chúa luôn đến trong tâm tư tôi với một niềm an ủi và lời hứa chúng tôi sẽ gặp lại nhau trong cuộc sống vĩnh cửu mai ngày.

13. Ngợi khen Chúa vì ân huệ có được những người bạn tốt

Tôi có thể chia sẻ với người bạn thiết thân kinh nghiệm, ký ức, những ngày rực sáng, và cả những ngày tăm tối trong cuộc đời tôi. Tình bạn là ân huệ cao vời mà Thiên Chúa ban tặng cho ta. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)

14. Khi sức mạnh sáng tạo của nhân loại làm tôi thấy ngỡ ngàng

Nhìn vào tất cả nhưng gì con người có thể tạo ra, nơi những đỉnh cao của trí tưởng tượng họ vươn tới, những điều ấy vén mở một thực tại rằng Đấng Tạo Hóa vẫn đang hoạt động trong chúng ta.

15. Khi những đám mây gợi cho tôi nhớ về Thiên Đàng… Bạn có nghĩ như tôi không?

Nhìn lên bầu trời và cảm thấy nỗi nhớ mong vô tận. Điều này nhắc tôi rằng tôi được mời gọi để sống một cuộc đời vĩnh cửu trên Trời.

16. Tôi cảm thấy dạt dào lòng biết ơn khi biết mình có khả năng cảm nghiệm được tình yêu tận nơi sâu thẳm của tâm hồn

Trái tim tôi được lấp đầy bằng một niềm vui khôn tả khi tôi dành tình yêu sâu sắc của mình cho một ai đó, và điều ấy cho phép tôi dám dâng hiến chính bản thân mình. Tôi muốn trao hiến tất cả cho tình yêu. Tôi muốn yêu như Chúa đã yêu thương tôi.

17. Trong những khoảnh khắc tôi nhận ra trái tim mình đau nhói trước sự thoáng qua của cuộc song.

Nhớ rằng đời sống này là thoáng qua, nhưng tôi vẫn khát khao một cuộc sống vĩnh cửu. Đây là cảm giác mà tất cả chúng ta đều có. Và đó là dấu chỉ của Thiên Chúa rằng Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta một cuộc sống trường tồn.

18. Bất thình lình, một vài tư tưởng xuất hiện trong tôi, nhưng tôi không biết chúng đến từ đâu

Biết bao lần thấy mình có được những từ ngữ chính xác, những giải pháp tuyệt vời hay đôi khi, một sự gợi hứng nào đó tự nhiên đến trong tư tưởng, nhưng tôi không biết chúng đến từ đâu. Tuy nhiên, chúng đến thật đúng lúc. Và điều này tỏ cho tôi thấy có ai đó vẫn ở bên cạnh, thì thầm với tôi và luôn chăm sóc tôi.

Tác giả: Silvana Ramos

Chuyển ngữ: Đaminh Phan Quỳnh, SJ

 From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Con có gì cho Cha không?

Con có gì cho Cha không?

Cha ơi, câu hỏi này giống câu hỏi con vẫn hỏi đứa cháu nội 5 tuổi của con.

Thằng bé Nguyên chỉ cười thôi… đôi khi lắc lắc cái đầu… đôi khi nói không có gì hết.

Thế là con ôm cháu vào lòng và nói:

Sao lại không có gì hết, Nguyên cho bà tình thương nè, cho bà nụ cười nè, cho bà cái ôm và hôn của Nguyên nè.

Thế là thằng bé cười toét miệng ra và chạy mất.

Một hôm kỷ niệm sinh nhật của con, cháu đem cho con một bông hoa hồng vừa nở thật đẹp, hái ngoài vườn và nói “cho bà nội” kèm theo một cụ cười ngỏn nghẻn, rất đáng yêu, rồi ôm hôn bà nội.

Cha hỏi con câu này chắc chắn Cha cũng đang yêu thương con lắm lắm và đùa như vậy phải không cơ?

Con nghĩ Cha đã có tất cả, Cha giàu nhất thế gian và giàu cả trên Nước Trời, vậy Cha xin con cái gì???

Con chả có cái gì để dâng cho Cha. Ngoài cái tấm thân tội lỗi bất toàn này. Nó cũng của Cha luôn. Những gì con yêu quý nhất mà Cha ban cho con là một ông chồng, năm đứa con, bảy đứa cháu. Là một gia đình sống thương yêu với nhau, nhưng những người thân yêu đó của con đều là vật ngoại thân. Của con cũng là của Cha, Cha toàn quyền có kế hoạch cho từng người trên họ. Cha giao cho con để con biết chu toàn bổn phận và trách nhiệm với họ và với Cha.  Của cải con không có gì cả.

Tất cả những gì của con là của Cha. Con dâng gì cho Cha bây giờ nhỉ???

Ah, con biết rồi. Con sẽ dâng hết cho Cha và con sẽ dâng cho Cha những thứ mà Cha chẳng bao giờ có được.

Con biết là Cha chờ đợi con đã bao nhiêu năm để xin con đến với Chavà dâng cho Cha tất cả tội lỗi của con để Cha được tha thứ cho con.

Đúng không Cha yêu… Con thấy Cha mỉm cười kìa…

Các bạn ơi, Ngài xin mình, và Ngài kiên nhẫn chờ đợi mình. Ngài cho mình nhiều lắm ( cái gì của Cha là của con) và Ngài chỉ xin mình như vậy ( cái mà Ngài không có) để mưu cầu hạnh phúc cho mình. Ngài yêu thương mình đến như vậy đó. Ngài chỉ hạnh phúc như vậy đó. Có tình yêu nào sánh được không???

Tạ ơn Cha yêu dấu, con xin dâng cho Cha tất cả những tội lỗi mà từ khi sanh ra cho đến bây giờ, lúc già đầu (tội lỗi nhiều chất đống).

Cha đã vui mừng nhận, rồi hân hoan tha thứ cho con để con được giải thoát, được tự do và biết ơn Ngài.

Tạ ơn và vinh danh Cha mãi mãi.

Elisabeth Nguyễn

From Tamlinhvaodoi

Chết trong bóng tối và sợ hãi… như Chúa Giêsu

Chết trong bóng tối và sợ hãi… như Chúa Giêsu

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Một người lính thường chết mà không sợ hãi, còn Chúa Giêsu chết trong sợ hãi.  

Iris Murdoch đã viết những dòng này và sự thật này có thể khiến bạn thấy khó chịu.  

Tại sao lại thế?  

Nếu ai đó chết với đức tin sâu đậm, không phải người đó chết với một sự điềm tĩnh và tin tưởng nhất định nhờ đức tin hay sao?  

Chẳng phải ngược lại cũng hợp lý, chẳng phải một người chết mà không có đức tin thì sẽ chết với tâm hồn sợ hãi hơn sao?  

Và có lẽ bối rối nhất là:

Tại sao Chúa Giêsu, mẫu mực của đức tin, lại chết trong sợ hãi, kêu lên trong đau đớn như thể mất đức tin?

Vấn đề nằm ở trí hiểu của chúng ta.  Có lúc chúng ta có thể rất ngây thơ về đức tin và động lực của đức tin, nghĩ rằng tin vào Chúa là tấm vé cho sự bình an và hân hoan đời này.  

Nhưng đức tin không phải là con đường đến với sự êm đềm dễ dãi, cũng không bảo đảm rằng chúng ta sẽ ra khỏi cuộc đời này trong êm đềm.  

Và điều này có thể làm chúng ta bối rối lung lay.

Một ví dụ là:

Ngòi bút thiêng liêng trứ danh, Henri Nouwen, trong quyển sách “Trong Ký ức” đã chia sẻ một câu chuyện quay quanh cái chết của mẹ ngài.  

Cha Nouwen, một người gốc Hà Lan, đang dạy học ở Hoa Kỳ, thì được tin mẹ ngài đang hấp hối ở quê nhà.  Trên chuyến bay từ New York về Amsterdam , ngài suy ngẫm về đức tin và đức hạnh của mẹ mình, và kết luận bà là một phụ nữ Kitô nhất mà ngài từng biết.  Với suy nghĩ đầy khuây khỏa đó, ngài hình dung mẹ sẽ chết thế nào, những giờ cuối đời của bà sẽ đầy đức tin và êm đềm, và đức tin êm đềm đó sẽ là lời chứng cuối cùng của bà cho gia đình.

Nhưng, sự thật không phải vậy.  

Không những không êm đềm, không sợ hãi, những giờ cuối cùng của mẹ ngài dường như bị kìm kẹp trong một bóng tối không giải thích được, một sự bất an nội tâm sâu sắc, và một đều gì đó có vẻ như đối lập với đức tin.  

Điều này khiến cha Nouwen quá bối rối.  

Tại sao lại thế?  

Tại sao mẹ ngài lại bất an trong khi cả cuộc đời mẹ là người với đức tin quá mạnh mẽ?

Ban đầu điều này khiến ngài hoang mang sâu sắc, cho đến khi một nhận thức sâu sắc hơn về đức tin mở ra.  

Mẹ ngài là một phụ nữ đã cầu nguyện mỗi ngày, xin Chúa ban ơn để bà sống như Chúa đã sống, và chết như Chúa đã chết.  

Vâng, có vẻ như lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe.  Bà đã chết như Chúa Giêsu.

Dù có đức tin vững như đá, nhưng Chúa Giêsu đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cái chết của mình, và trên thập giá, Ngài đã kêu lên thống thiết, cảm giác rằng Chúa Cha đã bỏ mình.  

Nói tóm lại, lời cầu nguyện của bà đã được nhậm lời.  Bà đã xin Chúa Giêsu cho bà chết như Ngài đã chết, và với sự mở lòng đón nhận của bà, lời nguyện xin của bà đã được nhậm lời, dù cho gia đình và bạn bè cảm thấy thật bối rối vì họ tưởng mọi chuyện sẽ khác thế kia.  

Đây cũng là cách mà Chúa Giêsu đã chết, và cũng là những gì mà gia đình và các môn đệ của Chúa cảm thấy.  

Đây không phải là những gì mà người ta tưởng tượng về cái chết của một con người đầy đức tin.

Nhưng một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin lại đảo ngược cái lập luận ấy của con người.

Nhìn vào cái chết của mẹ cha Henri Nouwen, câu hỏi đặt ra không phải là, làm sao chuyện này lại xảy đến với bà như vậy?  

Vấn đề nằm ở chỗ khác kia.  

Tại sao điều này lại không xảy ra với bà chứ?  

Đây là những gì bà đã cầu nguyện xin, và là một đấu sĩ thiêng liêng xin Chúa gởi đến cho mình thử thách cuối cùng, vậy tại sao Chúa lại không ban cho bà cơ chứ?

Điều này cũng tương tự như những hoài nghi đau khổ của Mẹ Teresa.  

Khi nhật ký của mẹ được xuất bản và cho thấy đêm tối linh hồn của mẹ, nhiều người đã bị sốc mà hỏi nhau:

Làm sao chuyện này lại xảy ra với mẹ chứ?  

Tôi tin rằng, một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin sẽ hỏi khác đi:

Tại sao điều này lại không xảy đến với mẹ chứ, bởi mẹ có đức tin và hoàn toàn mong mỏi được đi vào những cảm nghiệm của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn?

Nhưng, vẫn có những phức tạp khác.  

Có lúc, một người có đức tin sâu sắc lại không chết như thế, mà ra đi trong êm đềm không sợ hãi, được đức tin nâng đỡ như chiếc phà che chở trong cơn bão.  

Tại sao điều này lại xảy đến với một số người, số khác thì không?

 Chúng ta không có câu trả lời.  

Đức tin không đặt tất cả chúng ta vào cùng một băng chuyền.  

Có lúc những người với đức tin sâu sắc, chết như Chúa Giêsu đã chết, trong bóng tối và sợ hãi,

và có lúc người có đức tin sâu sắc chết trong bình an và êm đềm.

Elizabeth Kubler-Ross cho rằng

mỗi một người chúng ta đi qua năm giai đoạn rõ ràng của hấp hối, cụ thể là:

chối bỏ, giận dữ, thương lượng, khủng hoảng, và chấp nhận.

 Kathleen Dowling Singh lại cho rằng những gì mà Kubler-Ross gọi là sự chấp nhận, cần có một sắc thái sâu hơn nữa.  

Theo Singh, phần gay go nhất của sự chấp nhận này, là một sự quy phục hoàn toàn, và trước sự quy phục đó, một số người sẽ trải qua bóng tối nội tâm thâm sâu mà người ngoài nhìn vào sẽ thấy như sự tuyệt vọng.  

Chỉ sau khi đó, họ mới cảm nghiệm niềm vui và hân hoan.

Tất cả chúng ta đều cần học bài học mà cha Nouwen đã học được bên giường hấp hối của mẹ mình.  

Cũng như đức mến, đức tin có nhiều thể thức,

và có lẽ không thể phán định đơn giản từ bên ngoài.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From Tamlinhvaodoi

KHÔNG NGỜ

KHÔNG NGỜ

 Sơn Tây, ngày 18-10-1990

           

Sáng nay mình đến Tuy Lộc dâng thánh lễ đồng tế với cha xứ nhân ngày bổn mạng họ đạo.  Nhà thờ nhỏ xíu, không có phòng thánh.  Áo lễ dọn ngay trên bàn thờ.  Mình đang mặc áo, thì cha xứ ghé tai nói nhỏ:

–          Piô giảng nhá.

–          … Dạ.

            Miệng thì dạ, mà lòng thì băn khoăn: có nên giảng ở đây không?  Điều gì nên nói, điều gì nên suy gẫm một mình?  Nội dung bài Tin Mừng hôm nay là “Lên đường truyền giáo.”  Mình không dám nói chuyện truyền giáo hôm nay, nên chỉ duyệt lại một khúc truyền giáo hôm qua: Vấn đề thờ cúng tổ tiên.

Dẹp bàn thờ ông bà là một sai lầm có tầm mức chiến lược, nhưng là một sai lầm gần như không thể tránh được.  Lý do:

            1- Lúc ấy hai nền văn hóa Đông Tây mới gặp nhau, không thể hiểu được nhau.  Bà Pearl Buck minh chứng điều đó bằng câu chuyện sau đây.

 Có một ông Tây vào một nhà hàng ở Thượng Hải để “ăn cơm Tàu” sau khi đã được “ở nhà Tây.”  Ông Tây đang ăn ngon miệng, thì bỗng khựng lại, lợm giọng…  Ở bàn kế bên, một thực khách Tàu lâu lâu lại nhổ nước bọt xuống sàn gạch hoa.  Cầm lòng không được, ông Tây bèn lên lớp:

–          Người Tàu dơ dáy quá!  Nhổ nước bọt xuống đất là bất lịch sự, là làm mất vệ sinh chung.

–          Nước bọt bẩn, nên người Tàu phải nhổ xuống đất.  Như thế là đúng.  Còn người da trắng các ông lại nhổ nước bọt vào trong khăn, gói lại, rồi cất trong túi quần!  Như thế mới mất vệ sinh…

Các vị thừa sai thời ấy không thể hiểu nổi danh từ ĐẠO và động từ THỜ trong tiếng Việt Nam.  ĐẠO đối với họ chỉ có một nghĩa là TÔN GIÁO.  Động từ THỜ họ chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi.  Còn trong tiếng Việt Nam thì ĐẠO vừa có nghĩa là TÔN GIÁO, vừa có nghĩa là cách đối xử: Đạo vua-tôi, đạo cha-con, đạo vợ-chồng, đạo bằng-hữu…  Động từ THỜ trong tiếng Việt Nam vừa có nghĩa là tôn kính Thượng Đế và Thần Thánh, vừa có nghĩa là trung thành, chung thủy, hiếu thảo… Dân trung thành với vua, vợ chung thủy với chồng, con hiếu thảo với cha mẹ, đều có thể dùng một động từ THỜ.         Ông Phan Văn Trị đã nhắc nhở Tôn Thọ Tường như sau:

“Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết:

Tôi ngay THỜ chúa, gái THỜ chồng?”

            Đạo Công giáo là đạo độc thần, nên các vị thừa sai không thể cho thờ ông bà được.  “Chỉ thờ một mình Chúa mà thôi” (Lc 4,8; Đnl 6,13).  Các vị thừa sai lầm là thế, mà đúng cũng là thế.

2- Thời ấy người ta tin ông bà về ăn đồ cúng của con cái.  Niềm tin này được thể hiện rõ rệt trong ngày “xá tội vong nhân.”  Có những bà đạo đức nấu một nồi cháo lớn, cho hai đầy tớ khiêng.  Còn bà thì đi theo, múc từng muỗng cháo đổ vào lá mít để hai bên đường.  Đó là phần bố thí bà dành cho những linh hồn mồ côi.

            Niềm tin này không phù hợp với giáo lý Công giáo, nên người theo đạo Chúa không được cúng cơm cho người quá cố.

Từ đó sinh ra biết bao hiểu lầm giữa người đạo và người lương.  Người lương trách người đạo là bất hiếu.  Còn người đạo thì không những không bất hiếu mà còn nhờ cả Giáo hội báo hiếu hộ mình bằng cách xin họ đạo dâng lễ cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ…  Lúc ấy cấm cúng giỗ là đúng.

Ngày nay các Giám mục Việt Nam đã điều chỉnh lại toàn bộ việc thờ cúng ông bà.  Thờ cúng ông bà là văn hóa dân tộc và người tín hữu được tích cực tham gia mọi nghi lễ thờ cúng ông bà…

            Bài giảng của mình làm mọi người chưng hửng, ngơ ngác…  Mình ở lại ăn cơm với họ đạo.  Cha xứ không nói gì về bài giảng.

            Giáo dân cũng chẳng phát biểu gì.  Bài giảng rơi tõm xuống sông…

——————————————————————————–

 Sơn Tây, ngày 26-10-1990 .

Mình đang sửa soạn đi ăn cơm, thì bà phước ghé tai, nói nhỏ:

–          Cha có khách.

–          Ai thế?

–          Bốn ông… ở Tuy Lộc

–          Chết cha tôi rồi.  Chắc là có vấn đề.  Chị có đoán được là họ muốn gì không?

–          Con không biết.  Họ nói là họ muốn trao đổi với cha về bài giảng của cha đấy.

–          Bài giảng của tôi hiền khô à!  Chuyện một trăm năm về trước ấy mà.

–          Cha ra đi!  Con bưng nước ra sau.

            Mình đi thật chậm, và muốn có một không gian vô tận, để đi mãi mà không tới…

–          Chào linh mục.

–          Chào các ông.  Bài giảng của linh mục được thu băng, phổ biến khắp xã.  Chúng tôi không đi lễ, mà cũng được nghe.

–          Các ông thấy có vấn đề gì không?  Ai thu băng thì tôi không hề hay biết.  Nếu tôi biết thì tôi không cho thu băng.

–          Bài giảng của linh mục có rất nhiều vấn đề mà từ xưa đến nay chúng tôi chưa được biết.

–          Quý ông có thể cho tôi biết những vấn đề đó không?  Tôi chỉ chân thành nhắc lại những chuyện hiểu lầm giữa lương và giáo trong quá khứ mà nay thì không còn nữa.  Lương giáo đã hiểu nhau nhiều, mà cũng thương nhau nhiều rồi.

–          Chắc linh mục có băn khoăn về việc chúng tôi đến thăm linh mục hôm nay.  Tôi xin nói ngay để linh mục an tâm.  Nhờ bài giảng của linh mục, chúng tôi mới hiểu tại sao người Công giáo không thờ cúng tổ tiên.  Bây giờ hiểu rồi, chúng tôi đến đây để xin… học đạo.

–          Nghĩa là các ông muốn theo đạo Chúa?

–          Nếu đạo Công giáo cho thờ cúng ông bà, thì không có gì thắc mắc nữa.

–          Rất tiếc tôi sắp về rồi.  Nhưng không sao, tầm đạo với ai mà chả được…

Giã từ bốn ông, lòng thương mến vô vàn.

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

 trích “Nhật ký Truyền Giáo”

From Langthangchieutim

Vẫn bị cám dỗ về tính chóng giận, chậm nghe

Vẫn bị cám dỗ về tính chóng giận, chậm nghe

“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con. Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới. Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.  Dù chắp cánh bay từ hừng đông xuất hiện. Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây.  Tại đó cũng tay Ngài dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con”. (Tv139, 5 – 10)

Năm học lớp đệ thất trường Nữ ở Dalat, lũ bạn cùng lớp chúng tôi có giờ nghỉ, bèn rủ nhau đi vào rừng Cam Ly hái trái muỗm (trái xoài rừng, nhỏ nhỏ xinh xinh bằng ba ngón tay em bé, chấm muối ớt ăn cay cay chua chua ngon tuyệt vời).

Ham chơi quá đến khi trở về thì nước trên giòng thác Camly đổ xuống cuồn cuộn. Cả lũ con gái sợ quá, đứa nào cũng nhanh chân lội qua suối bằng cách bước thật nhanh trên những thân cây thông to, người ta bắc ngang dòng nước làm cầu.

Vì vội vàng, tôi bị trợt chân, ngã xuống giòng nước đang cuồn cuộn kéo đi một đỗi vài thước, mấy cô bạn sợ xanh mặt la lối quá chừng…

May thay  tại đó cũng tay Ngài dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con, đẩy tôi đến một cây thông khác to bự, to lắm nằm vắt vẻo chắn ngang giòng nước. Một bạn người Thái Trắng đã cùng với tất cả lũ  quỷ sứ (thứ ba học trò), nắm tay nhau cho cô bạn Thái này lội xuống kéo con nhỏ ú ù này lên.

Trời xụp tối, đứa nào cũng ba chân bốn cẳng chạy nhanh về nhà.  Cả đám chúng tôi đứa nào đứa nấy, từ đầu đến chân ướt sũng. Chiếc quần đen của tôi bị rách toang một ống quần, hai tà áo dài, chúng tôi quấn quanh bụng cũng bị rách tung.

Về đến nhà bị bố la cho một trận tơi bời.  Cụ không đánh là may lắm. Chắc tại cụ nhìn con gái thảm thương quá nên không nỡ, vì cụ biết con nhỏ hay phá nghịch như con trai, chắc nó lại té suối té sông gì đây…

Lạy Chúa, tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể.

Lần đi hành hương Israel năm 1993, xe bus chở phái đoàn 50 người và 2 linh mục, một Việt Nam, một người Đức hướng dẫn, bị lật trên đường vào thành phố, người bị thương nặng nhất lại là hai vợ chồng tôi, tôi bị bể một bên đầu, bất tỉnh lâu giờ, khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường bệnh của những thương binh.

Đây là bệnh viện quân đội của Israel. Mở mắt ra thì cặp mắt hư mất rồi, tôi nhìn mọi vật, mọi người như người bị loạn thị. Hai người ngồi hai bên cạnh giường, nắm hai tay tôi là Sr. Teresa Quy, Dòng Tiểu Muội sống và làm việc phục vụ người nghèo khổ ở tại Jerusalem đã mấy chục năm, và chàng của tôi, anh cũng bị gãy ba xương sườn nhưng không có giường để nằm, vì bệnh viện đang nhập nhiều thương binh.

Mùa đông năm 1998 tôi bị tai nạn té gãy xương sống, sau khi mổ và nối xương bằng những tấm Metal không rỉ sét với những cây đinh dài đến 10cm,(ông bác sĩ thật trẻ cho tôi giữ lại làm „kỹ nghệ“) tôi phải nằm nhà thương cả gần 8 tháng trời, mà vẫn được Ngài bao bọc con cả trước lẫn sau, bàn tay Ngài, Ngài đặt lên con, cánh tay Ngài hùng mạnh giữ lấy con.

Những gì xảy đến cho con là kế hoạch của Ngài trên tâm linh và thể xác của con. Những người trần như chúng con không làm sao hiểu nổi, vì tất cả là mầu nhiệm. Chúng con chỉ biết Ngài yêu chúng con vô vàn, và chúng con được Ngài mời gọi, hãy hưởng nếm êm ái hạnh phúc bình an trong tay Ngài.

 “Lạy Chúa, ươc chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà, ước gì bọn khát máu đi cho khuất mắt con! Chúng nói về Ngài với chủ tâm phỉnh gạt, nổi dậy chống Ngài nhưng chỉ uổng công. Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét. Làm sao con không tởm kẻ đứng lên chống Ngài. Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con”. (Tv 139, 19 – 22)

 “ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… bọn khát máu”

Đây chính là thần dữ và ngẫu tượng mà chúng con mong Ngài diệt hết chúng đi. Nó  chính là những kẻ đưa ra những cám dỗ ngọt ngào mà chúng con thường bị mắc bẫy, bị lôi cuốn chạy theo.

Hơn 10 năm nay con đã hứa từ bỏ dần dần mọi thứ để khi về với Ngài cho nhẹ nhàng thênh thang tâm hồn, nên con đã từ từ dần dần rũ bỏ được những tham lam, những se sua, những kiêu căng, tự mãn, háo danh, ganh tị, nói dối để khoe mình…

Ngài ghét chúng, chúng con ghét chúng… Con cảm nghiệm được Chúa ở trong con khi con ghét sự dối trá, ghét sự hợm hĩnh, sự ham tiền, sự khoe khoang v.v…

Nhưng con vẫn bị cám dỗ về cái tính hay bẳn gắt, hay trực tính, chóng giận, chậm nghe v.v… nhất là khi con đối diện với những người giả dối như vậy. 

Chúa cũng  huyết chí chi nộ bất năng hữu, nghĩa lý chi nô bất năng vô. (giận vì nóng không nên có, giận vì nghĩa lý không nên không) khi Chúa lấy giây thừng chấp ba mà đánh đuổi chiên bò và quân buôn bán trong nơi thờ phượng Chúa Cha. Nhưng Chúa giận có nghĩa lý còn con chỉ nóng giận khi không bình tâm bình tĩnh chi cả. Xin Chúa giúp con biết học cùng Chúa trong phản ứng này.

Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con, xin thử cho con biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài xem con có lạc đường gian ác thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời. (Tv 139, 23 – 24)

Chúa ơi, con đã để cho Chúa yêu con khi con tâm sự với Chúa chứ không nhìn vào những thiếu sót bất toàn của con, qua ân sủng tình yêu Chúa, con nhận biết Chúa Thánh Thể đang hiện diện trong con và con rất hạnh phúc!

Nhìn lại giờ cầu nguyện

Suy niệm đoạn TV này, con cảm nhận được niềm vui khôn tả vì trải qua 74 năm sống, từ khi lọt lòng mẹ, bao nhiêu ngày sống ở thế gian đươc Ngài thấu suốt, gìn giữ, chăm sóc thật chu đáo. Mà cho đến nay, hơn 25 năm gặp được Chúa, con mới nhận ra.

Tạ ơn Chúa Thánh Thần ban cho trái tim con một niềm vui sâu xa, bình an lắng dịu trong tâm hồn.

Khi cầu nguyện với Thánh Vịnh, con đặt mình là tác giả TV nên chínhcon hiện diện với Chúa và Chúa hiện diện với con.

Cầu nguyện thật thông suốt và đầy hy vọng.  Cám ơn Chúa yêu dấu của con. Amen.                                    

Elisabeth Nguyễn

Nguồn  https://tramtubensuoi.blogspot.com/2018/10/van-bi-cam-do-ve-tinh-chong-gian-cham.html

Nhà Truyền Giáo sống trong tù, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận.

CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO THỜI ĐẠI (Phần ba)

 Tác giả: Phan Sinh Trần

Nhà Truyền Giáo sống trong tù, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận.

Năm 1975, đang khi Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận trẻ trung ở tuổi bốn mươi bẩy, với sự hiểu biết uyên bác, thông thạo bẩy ngoại ngữ bao gồm tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Hoa, Ý, Latin, ngài lại giàu kinh nghiệm tổ chức, điều hành hội thánh. Đang khi ngài sẵn sàng để chăn dắt tổng giáo phận Sài Gòn thì Chúa gởi ngài vào chốn ngục tù, để làm một nhà truyền giáo sống trong lao xá. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, Ngài đã bị bắt giải ra Nha Trang, tạm thời bị cầm giữ ở nhà xứ Cây Vông. Trong năm tù thứ nhất, Ngài đã viết cuốn “Đường hy vọng”. Cuốn sách này được Ngài coi là di chúc tinh thần gửi tới mọi người công giáo Việt Nam trong và ngoài nước giúp họ chọn lựa Chúa trong muôn thử thách và học cách bước đi theo Chúa qua kinh nghiệm từ chính những gì Ngài đang trải qua trong chốn lao tù. “Đường Hy Vọng” là phương cách phúc âm hóa độc đáo từ nhà tù. Đức Cha kể:

– Trong làng Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi. Trong óc một tư tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức: “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn  lịch sử mới. Làm sao tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến người mục tử nhất! Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư huynh, nữ tu có khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không được dạy học nữa! Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò tan nát quả tim tôi.

  • Tôi không đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Nhưng làm thế nào?
  • Một đêm, một tia sáng đến với tôi: “Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù,

không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn. Đơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?”

Chúa đã ban ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất. Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị “chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được. Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như công trình “nghìn lẻ một đêm”.

Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại (Mt 6, 34; Gc 4, 13-15).

Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. (Đường Hy Vọng, trang 997). 

Ngày nay sách “Đường Hy Vọng” được dịch ra nhiều thứ tiếng và phát hành bởi các nhà xuất bản khắp Âu Á.

Thời gian tiếp theo, cuộc điều tra của tổng cục an ninh, Bộ Công An gia tăng cường độ và việc đánh giá tội danh của chính quyền trung ương Cộng Sản Việt Nam nâng lên mức nghiêm trọng nặng nề, Đức Cha gặp nhiều khó khăn, bị liên tục tra khảo nhiều ngày đêm và bị hành khổ cho kiệt sức đến mức ngài cảm thấy mình đang bị chết dần mòn trong từng bộ phận của cơ thể, Đức Cha kể:

– Ngày 8-12-1975, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất. Ở trại Phú Khánh, tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và có lần có cả con rết dài. Dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì chúng lại bò ra. 

Cán bộ điều tra của Bộ Công An Cộng Sản trừng phạt Ngài bằng cách để cho bị cô lập hoàn toàn trong bóng tối, thinh lặng triền miên, sự trừng trị kéo dài nhiều tháng trường, làm cho Ngài không còn ý thức được thời gian đang diễn ra thuộc về ban ngày hay đêm, cán bộ điều  tra ác độc đến mức họ không cho người tù ngay cả không khí để thở, thiếu không khí thở thì  tình trạng hôn mê diễn ra làm cho Ngài không còn thấy đói cũng như không buồn ngủ. Ngài  thường nôn oẹ và chóng mặt triền miên, và toàn thân đau đớn… Tâm trí ngài trống rỗng với cảm tưởng thời gian đang kéo dài ra đến bất tận. Khi nầy, trí nhớ bác học của ngài bắt đầu lung lay, cho đến nỗi ngài không thể nhớ một kinh Lậy Cha, kinh Kính Mừng để đọc. Ngài đã  ở trước ngưỡng cửa của bệnh điên dại. (ĐHV tr. 228). Trong nhiều tuần lễ nối tiếp nhau, sự u ám thinh lặng bao vây toàn diện đã làm cho tâm trí ngài khiếp sợ, bị thiếu vắng mọi dấu hiệu hiện diện của con người ở chung quanh, trong màn đen bao trùm, ngài hết sức ao ước nghe được các tiếng động, bất cứ tiếng động gì vì ngài có cảm tưởng là mình không thuộc thế giới của kẻ sống nữa… Trong các điều kiện khiếp đảm như thế, người tôi tớ Chúa chợt hiểu ra rằng sinh mạng mình có ra sao thì linh hồn mang hy vọng nơi Đấng toàn năng đầy yêu thương sẽ không bao giờ tắt và ngài có thể dâng tất cả đau đớn thống khổ cho Chúa vì yêu mến Người. Thế nên phòng giam của ngài dần dần trở nên một nơi có thể ở được, đau đớn nhường bước cho niềm vui và thống khổ trở thành nguồn suối hy vọng. 

o Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi! Tôi phải chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác”

o Ánh sáng ấy sẽ đem lại cho tôi niềm an bình mới, làm thay đổi hoàn toàncách suy tư của tôi và đã giúp tôi vượt thắng những khoảnh khắc hầu như không thể chịu nổi về phương diện thể lý. Từ đó, một sự an lành tràn ngập tâm hồn tôi trong suốt 13 năm tù đày…

Nhà Truyền Giáo cho Tù Cải Tạo, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận.

Ngày 1.12.1976, ngài cùng nhiều tù nhân chính trị khác đang bị giam ở miền Nam, được đưa xuống tàu Trường Xuân đi ra Bắc. Khi ra đi, vì không có gì để đựng các đồ tùy thân,  ngài phải lấy cái quần cột hai ống lại và dồn đồ vào trong rồi mang đi. Chúng ta hãy nghe chính ngài kể lại các diễn biến này:

– Ngày mồng 1 tháng 12 năm 1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng, là hải cảng quân sự mới do người Mỹ mở mấy năm trước đó. Chúng tôi trông thấy một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi để ý. Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra Bắc – một cuộc hải hành dài 1.700 cây số…

– Cùng với các tù nhân khác, tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than. Chỉ có một ngọn đèn nhỏ leo lét cháy. Còn lại là hoàn toàn tối om. Chúng tôi tất cả là 1.500 người,  trong tình cảnh không thể tả được. Một cơn bão nổi dậy trong tâm trí tôi. … từ giờ phút  này trở đi không biết tôi sẽ phiêu bạt tới chân trời góc bể nào. Tôi suy niệm lời thánh Phaolô nói:

“Tôi đi Giêrusalem mà không biết điều gì sẽ xẩy ra cho tôi ở đó. Tôi chỉ biết rằng Chúa

Thánh Thần khuyến cáo tôi rằng tại mọi thành tôi tới, xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi.” (Cv 20:22-23). Tôi đã sống trong lo âu suốt đêm hôm ấy.

Trong lúc Miền Nam nước Việt đang tan tác, con dân bị đày ải thì Đấng quyền năng hay thương xót đã có sự an ủi nào cho đoàn tù nhân mang trọng tội với chính quyền Cộng Sản?

Chúa đã an bài cho Đức Cha Thuận bị áp giải chung trong hầm tầu u ám, đen ngòm để làm mục vụ cho một đoàn bao gồm các tù nhân trong số bị chính quyền cách mạng Cộng Sản  kết trọng tội, xếp họ vào hạng ác ôn nhất, ngay lập tức Ngài đem đến hy vọng cho nhiều tù nhân đang bị áp tải trên tàu nhất là cứu được một người đang treo cổ tự tử bằng dây thép,

Đức Cha kể lại:

– Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu khí sầu thảm như đám tang. Một trong các tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi

dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh. Sau cùng anh lắng

nghe lời tôi. Cách đây hai năm, trong một cuộc họp liên tôn tại California, tôi đã gặp

lại anh. Mặt mừng rỡ, anh tiến tới gặp tôi và cám ơn tôi. Anh đã cho mọi người xem

các vết thẹo còn hằn trên cổ.

– Trong cuộc hành trình, khi các tù nhân biết có Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, họ đến với tôi để kể lể các nỗi lo âu của họ. Tôi đã chia sẻ các đau khổ của họ và an ủi họ hàng giờ và suốt cả ngày. Trong ba ngày trên tàu, tôi an ủi các tù nhân khác và tôi suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đêm thứ hai, giữa cái lạnh của Thái Bình Dương trong tháng 12, tôi bắt đầu hiểu rằng ơn gọi của tôi bắt đầu một giai đoạn mới. Trong giáo phận, tôi đã đưa ra các sáng kiến khác nhau cho công tác rao truyền Tin Mừng cho người bên lương. Giờ đây phải cùng Chúa Giêsu đi về nguồn gốc của việc loan báo Tin Mừng. Phải cùng Ngài đi chết “bên ngoài tường thành”, “bên ngoài tường thánh.”

Ông Nguyễn Thanh Giàu, người bị giam chung cùng khoang với ngài trên tàu Trường Xuân, đã tóm lược lại những gì xẩy ra trong khoang tàu của ngài như sau: 

– Suốt mấy ngày ngồi dưới sàn tàu chở than dơ bẩn, lại thêm mấy thùng chứa phân, chứa nước tiểu bị tràn ra ngoài, mọi người như ngồi trên hầm phân. Đức Cha Thuận một lần nữa lại an ủi anh em, cố gắng giữ vững tinh thần, nếu để tinh thần sa sút bị bịnh lúc nầy thì rất là khổ…

   Sau đó, Đức Giám Mục Thuận bị đưa ra trại Vĩnh Quang, khu rừng núi Vĩnh Dao tỉnh Vĩnh Phú. Ông Giàu có dịp cùng ở tù chung trại đã cho rằng nhờ sự an hòa giữa hoàn cảnh tù tội của nhà Truyền Giáo Nguyễn Văn Thuận, nó đã có ảnh hưởng gắn bó và nâng đỡ với hầu hết các tù nhân lương giáo, ông kể:

– Có một điểm rất đặc biệt, khi cán bộ trại giam bắt tất cả tù nhân lên hội trường, là một gian nhà trống giữa sân trại, để làm bản tự khai… Sau vài giờ viết tự khai, họ cho nghỉ giải lao, người thì đi uống nước, đi vệ sinh, hút thuốc, nhưng phần đông thì  bu quanh Ông Già để nghe Ông nói chuyện. Một cách rất trung thực mà nói, lúc bây giờ bu quanh Đức Cha Thuận không phải chỉ có giáo dân mà trong đó có đủ thành phần tín đồ các tôn giáo khác như Phật Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo. Riêng tôi, là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, lúc bấy giờ tôi không nhìn Đức Cha Thuận là Một Đức TGM Công Giáo mà nhìn Ngài là MỘT BẬC CHÂN TU, MỘT NHÀ TU HÀNH ĐÁNG KÍNH

Trong trại tù, ngài vẫn cử hành Thánh Lễ cho chính mình và cho những tù nhân khác. Những người đến thăm ngài tại trại cải tạo đã lén chuyển rượu lễ và bánh lễ cho ngài, ngụy trang bằng chai thuốc trị đau bao tử:

– Mỗi ngày tôi dùng ba giọt rượu và một giọt nước đổ vào lòng bàn tay để cử hành Thánh Lễ. Những người tù được chia làm 50 người. Chúng tôi ngủ chung trên một cái giường thật dài, mỗi người được 50 centimet. Mỗi đêm, chúng tôi thu xếp có 5 người công giáo nằm cạnh tôi. Đến 9.30 là giờ ngủ, trong bóng tối, tôi cúi mình trên giường để dâng Thánh Lễ thuộc lòng và phân phát Thánh Thể cho nhau bằng cách luồn tay dưới các tấm màn chống muỗi. Chúng tôi dùng bao thuốc lá để cất giữ Mình Thánh và đem cho người khác, riêng tôi luôn giữ Mình Thánh Chúa trong túi.

Thánh thể trở thành giây phút trung tâm của ngày sống ngài, ở đó, ngài có thể múc lấy năng lực cần thiết để củng cố đức tin mình và để làm cho mình được tràn ngập hy vọng. Hai tháng sau, ngài lại phải bị chuyển sang trại Thanh Liệt ở ngoại ô Hà Nội, ở đó, ngài bị giam chung phòng với một đại tá thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Ông này là một gián điệp có phận sự tường trình mọi cử chỉ và lời nói của Đức Cha Thuận. Nhưng dần dà, sự hiền hòa, chân thực và uyên bác của Ngài đã làm cho người bạn chung phòng này thay đổi và trở thành bạn hữu của ngài đến đỗi ông ta đã khuyên ngài một điều khôn ngoan lớn đó là cậy nhờ Đức Mẹ La Vang. Ngài kể:

– Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi:

Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản

mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được

một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông “Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.

Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ

đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con  mới còn sống đây!”

Sau 15 tháng sống trong trại Thanh Liệt ngoại ô Hà Nội, và nhờ các áp lực quốc tế bênh vực ngài, ngày 13.5.1978, ngài được chở xe đến một ngôi làng cách Hà Nội 20 cây số, làng Giang Xá, bị bắt buộc cư trú tại nhà xứ của giáo xứ, do một lính canh gác ngày đêm, và được phép lui tới và đi dạo, với điều kiện là không thông hiệp với bất cứ ai đang sống quanh đó, và những người nầy cũng có phận sự xem chừng đến ngài. Ngài kể:

– Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, “Đường Hy Vọng Dưới Anh Sáng Lời Chúa và Công Đồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng”. Tôi không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương. Làm sao yêu thương đến cao độ như thế trong mỗi phút hiện tại? Tôi nghĩ rằng tôi phải sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như là giờ phút cuối cùng của đời tôi.

 Nhà Truyền Giáo cho Cai Tù, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận.

 Chúa Thánh Thần sẽ làm cách nào để giúp cho Đức Giám Mục  Nguyễn Văn Thuận kết bạn với các cai tù nghiêm khắc đang theo chủ nghĩa vô thần.

Chúa có sự dạy dỗ trực tiếp nào cho Ngài?

Chúa có ban sức mạnh tinh thần, Chúa có đổ trong tim ngài một tình yêu chân thành vô điều kiện để có thể làm bạn với cai ngục, những người quen hành hạ tù chính trị bằng nhục hình hoặc các biện pháp tâm lý ác hiểm không?

Làm sao có được một thứ quan hệ “bạn hữu” giữa Tù nhân và Cai Ngục, điều mong muốn gần như bất khả thi vì đã có nhiều người cố gắng mà không thể cảm thông được. Đức Cha kể:

–          Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc!” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm”. Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.

Tôi phải làm thế nào? 

Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.  Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói…

Đức Cha Thuận không hề nản chí dù bị cai tù xa lánh và khinh mạn, “phạm nhân” Thuận có tình yêu dồi dài, phong phú và tha thiết của Chúa Giê Su cho “anh em cai tù” của mình. Ngài tiếp tục lân la trò chuyện, khơi gợi sự tò mò của cai ngục:

–         Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết!”

 Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt…          

–          Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời… Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.

Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy:

 “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”.

Tình hình trong trại cải tạo có sự cải thiện rõ nét, các lính gác đối xử với ngài khác trước, họ có thái độ tốt hơn. Có lần, ngài xin phép một người lính giúp ngài một nguyện vọng và sau khi anh ta hỏi lại để biết chắc ngài không phải có ý muốn tự tử, anh ta đã lén lút đưa cho ngài sợi giây thép và một cái kềm nhỏ để ngài có thể làm một sợi dây chuyền, dùng đeo thánh giá gỗ cũng do chính ngài tự đẽo gọt, trên cổ. Lại đến một lần khác, có một vị lãnh đạo (Ban Tôn Giáo?) vấn kế với Đức Giám Mục:

–  Một hôm một ông xếp hỏi tôi “Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo Người Công giáo?”

– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công giáo và cho cả nhà nước.

– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy?

– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.

– Ông có thể giúp được không?

– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon (từ điển bỏ túi) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo hội…Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành. Ai cũng muốn biết viện phụ là gì, thượng phụ là gì, Công giáo khác Anh giáo, Tin Lành, Chính Thống giáo chỗ nào? Tài chánh của Tòa thánh từ đâu mà có? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện tu sĩ, giáo sĩ thế nào? Giáo hội phục vụ nhân loại thế nào? Tại sao Giáo hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.

–          Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu tu sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:

– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không?

– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào?

– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.

– Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không? Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm…) Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe!

Bài hát Xin Chúa Ba Ngôi đoái thương viếng thăm, Veni Creator Spiritu

httpv://www.youtube.com/watch?v=33XotuYs-io

Chúa Thánh Thần không chỉ làm cho người Cộng Sản Việt Nam qua Đức Giám Mục Thuận được hiểu về Đạo hơn, thông cảm với tín hữu Công Giáo hơn, Chúa còn dùng Đức Cha để mang về cho Hội Thánh Công Giáo những người Cộng Sản có ý thức hoán cải trong đức Tin, trong số đó phải kể đến trường hợp của một sĩ quan An Ninh, bộ Công An, Ông Nguyễn Hoàng Đức, sau này ông làm chứng với phóng viên Mặc Lâm đài phát thanh Á Châu Tự Do như sau:

–          Tôi là một trong những phép lạ về Đức Tin…

o    Sau khi học tiếng Pháp với Ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa vì tôi làm ở Cục chống phản động nên biết để phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.

o    Sau khi vào Sài Gòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các nhà thờ, nhà thờ trung tâm Đức Bà, nhà thờ Kỳ Đồng. Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một giấc mơ là tôi đi nhà thờ và tôi có rửa tội.

o    Tôi hiểu là việc phong Thánh cần phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh. Phép lạ thứ ba là “mồ mả phát”. Tôi là một trong những phép lạ về Đức tin.

Được Hội đồng Công Lý và Hòa Bình Tòa thánh Vatican mời qua Rôma làm chứng nhân dịp lễ kết thúc điều tra phong Chân phúc cấp giáo phận. Ngày 2/7/2013 anh Hoàng Đức lên đường sang Rôma, nhưng đã bị công an ngăn chặn và thu hộ chiếu tại sân bay Nội Bài mà không có lý do rõ ràng.

              Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức, cựu sĩ quan chống phản động, Bộ Công An.

Dần dần, Đức Cha Thuận trở nên bạo dạn hơn và bắt đầu vài hoạt động mục vụ. Người lính gác, ở bên cạnh ngài, đã cho phép giáo dân đến gặp ngài, có khi cả từng nhóm nhỏ. Nhưng mọi sinh hoạt đó đánh thức sự nghi ngờ của chính quyền, nên họ lại quyết định biệt giam ngài lại. Lúc đang còn rất sớm, ngày 5.11.1982, một xe chở hàng của nhà nước đến tìm ngài và chở ngài vào khu vực quân sự, trong một căn phòng mà ngài sẽ ở cùng với một sĩ quan công an, dưới sự canh gác của 2 lính gác. Trong sáu năm, ngài luôn sống biệt giam trong một phòng: ngài phó thác hoàn toàn cho Chúa. Vào ba giờ chiều hàng ngày, ngài cử hành thánh lễ, tiếp theo đó là một giờ cầu nguyện để suy ngắm cơn hấp hối và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài cử hành thánh lễ trong lòng bàn tay, với ba giọt rượu và một giọt nước. Mỗi lần như thế, sự tốt lành của ngài đã chinh phục được những người canh gác, đó là điều làm cho chính quyền cấp trên khó chịu. Ngài lại phải bị chuyển qua một nhà tù an ninh hơn, trong một phòng giam hoàn toàn cách ly cho đến ngày ra tù 21 tháng 11 năm 1988. Năm 1991, Đức Cha bị chính quyền Việt Nam trục xuất khéo khỏi Việt Nam.         

                 Chúa Thánh Thần tiếp tục sử dụng Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận như một nhà truyền giảng về hy vọng bất diệt của Tin Mừng, nhưng mà lần này có sự đặc biệt hơn, ngài giảng linh thao cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và cho giáo triều Rôma dịp Mùa Chay Năm Thánh 2000. Sau buổi tĩnh tâm đó, Đức Thánh Cha tuyên bố “Tôi cám ơn Đức Cha thân yêu Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, với sự đơn sơ và linh hứng của Chúa Thánh Thần, Đức Cha đã hướng dẫn chúng tôi đào sâu ơn gọi làm chứng nhân của niềm Hy Vọng Tin Mừng vào đầu thiên niên kỷ thứ ba. Chính ngài là chứng nhân của thập giá trong những năm dài bị tù đày ở Việt Nam, ngài đã thuật lại cho chúng ta các sự việc và các thời kỳ của cảnh tù đày khổ ải của ngài, bằng việc củng cố chúng ta trong sự chắc chắn đầy an ủi rằng khi mọi sự sụp đổ quanh ta, cũng có thể từ thâm sâu của chúng ta, Đức Kitô vẫn là sự nâng đỡ không thể thiếu của chúng ta”.

Ngày 21 tháng 2 năm 2001 trong cuộc họp mật viện các Hồng Y, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trao mũ Hồng Y cho Ngài và đặt Ngài làm Hồng Y Phó tế, hiệu tòa Nhà thờ Santa Maria della Scala (Đức Mẹ tại các bậc thang).

Ngài qua đời lúc 18 giờ ngày 16 tháng 9 năm 2002 tại Rôma.

… Lạy Chúa, con không đợi chờ, con quyết sống phút hiện tại,

            và làm cho nó đầy tình thương,

vì chấm này nối tiếp chấm kia,

ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đời sẽ đẹp.

Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

Như Chúa Giêsu, trọn đời đã làm những gì đẹp lòng Đức Chúa Cha.

Mỗi phút giây con muốn làm lại với Chúa,

“một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu”.

Con muốn cùng với Hội thánh hát vang:

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Alleluia! Alleluia! Alleluia!(Đường Hy Vọng- NVT)

Xin Cảm tạ ơn kỳ diệu của Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên các nhà Truyền Giáo trong thời đại của chúng con

Mời bạn thuê hoặc mua phim « Con đường Hy Vọng » nói về cuộc đời Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận trên mạng NetFlix : https://dvd.netflix.com/Movie/Road-of-Hope-The-Spiritual-Journey-of-Cardinal-Nguyen-Van-Thuan/70115506

Hẹn gặp các bạn trong phần 4 nói về các anh thư truyền giáo tại Việt Nam.

Tác giả: Phan Sinh Trần

                            Xem thêm:

Linh Đạo của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận (tác giả: Phùng Văn Phụng)

TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG

TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác “truyền giáo” trong thời gian hai năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng.  Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian “truyền giáo” trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này.  Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là viết cho chính mình đấy thôi.

Tôi nhớ năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình.  Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu…, nên tôi đã quyết định xin có một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ).  Chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian, với tư cách giám tỉnh, thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam.  Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma.  Ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm “truyền giáo” tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngắn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ “truyền giáo” thông dụng, vì thấy nó quá mập mờ dễ gây hiểu lầm.  Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người “không có đạo” được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa “cải đạo,” thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Kitô mất rồi.  May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! “Missio” phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (thừa sai) để “rao giảng Tin Mừng,” có nghĩa là để loan báo Tin Mừng cứu độ, để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Kitô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết Thập Giá.  Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm lớn.  Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (x. Rô-ma 5).  Như thế “Loan báo Tin Mừng” không làm gì khác hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào sự chết và phục sinh của Đức Kitô Giêsu.  Một khi họ đã tin nhận điều đó, ta mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại đó.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất “dội” đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền “luân lý Kitô giáo” mà ta sẽ mở mắt cho họ biết, để rồi, nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định, luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng.  Thiết tưởng: khi Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”  Ngay câu nói: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ!  Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng. 

Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên.  Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh…  Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn…  Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng “truyền giáo” tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại.  Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi.  Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa “truyền giáo” và “loan báo Tin Mừng” đại loại là như thế.

Từ cái kinh nghiệm “thừa sai” còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa, không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á.  Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác biệt với nền “luân lý Kitô giáo” mang tính định canh định cư của lịch sử, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Kitô Giêsu.  Công việc của một “thừa sai” như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Kitô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cất cao lời cảm tạ.  Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một “người loan báo Tin Mừng” trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa.  Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia.  Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó.  Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày.  Con coi đó chính là công việc “truyền giáo = thừa sai” Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống này. Amen.

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

From Langthangchieutim gởi

SUY NIỆM VỀ CÁI CHẾT

SUY NIỆM VỀ CÁI CHẾT

Hãy nhớ rằng, cái chết không trì hoãn đâu và ngày hẹn của âm phủ, con nào có biết” Hc 14,12)

Không ai trong chúng ta biết được ngày chết và cái chết của mình như thế nào. Mỗi ngày sống của chúng ta là mỗi ngày đi dần đến cái chết, nhưng phần đông không ai nghĩ đến chúng cả.

 “Con đừng sợ án chết. Hãy nhớ rằng: có những kẻ đã đi trước con và sẽ có những người theo sau (Hc 41 3).

Sự chết dạy chúng ta sống như thế nào?

Trong đời sống, chúng ta nên thỉnh thoảng suy niệm về cái chết.

Một nhà tu đức khi suy niệm về cái chết đã thốt lên “cái chết của người già ở trước mặt, cái chết của người trẻ ở sau lưng”

Niềm tin Kitô giáo giúp chúng ta tránh đam mê những hạnh phúc giả tạo ở đời này và thúc đẩy chúng ta hãy can đảm chịu đựng những đau khổ để kết hợp đau khổ với Đấng Kitô, và biết đến ích lợi của cuộc đời, phải đi qua đau khổ để vào vinh quang với Ngài.

“Nếu có lúc con đau khổ xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu, Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây con, xin nhắc con nhớ rằng: Trên Thập Giá, Chúa đã thốt lên: “sao Cha bỏ con” (Lời nguyện. Rabouni)

Suy nghĩ về cái chết không có nghĩa chúng ta phải buồn rầu, sợ hãi, hoặc ngã lòng.

Trái lại, khi suy niệm về cái chết chúng ta sẽ sống một cách hiểu biết hơn về cuộc đời và từ bi nhân ái hơn, vì đó chính là luật của Tạo Hóa.

Như cành lá trên cây rậm rạp; lá rụng xuống lá lại mọc ra, thì các thế hệ người phàm cũng vậy: lớp kết thúc, lớp lại sinh ra” (Huấn ca 14,18)

Mỗi khi gặp chuyện bực mình khó chịu mà gây gỗ, cãi nhau hay nóng giận với người khác thì được ích lợi gì?

Đau khổ, bịnh nạn thì nghĩ rằng đời sống rất ngắn, ai cũng sẽ chết.Đó là điều Đức Chúa quyết định cho hết mọi người phàm. Tại sao cưỡng lại điều Đấng Tối Cao đã muốn?

Dù người ta sống được mười năm, trăm năm, hay cả ngàn đi nữa, thì trong âm phủ, chẳng ai trách móc đâu” (Hc 41, 4).

Vậy lo lắng, buồn rầu hoàn toàn không được gì mà sinh ra bất an trong tâm hồn.

Là Kitô hữu, hằng ngày cầu nguyện với Lời Chúa, giúp ta biết suy nghĩ sâu xa về sự sống, sự chết theo lời dạy của Chúa và Giáo Hội.

Hãy phó thác và tin tưởng trong tay Ngài. Tất cả đều là hồng ân Ngài ban.

Hãy thinh lặng lắng nghe tiếng nội tâm, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn ta ý thức và tự kiểm soát lấy mình, không để những suy nghĩ lệch lạc lôi cuốn, ta sẽ cư xử với mọi người hòa ái hơn.

Điều này luôn luôn không phải dễ làm, nhưng khi ta cầu nguyện, suy niệm về cái chết, Chúa sẽ nhắc nhở mình về sự mong manh và ngắn ngủi của cuộc đời, ta sẽ tự chế và ăn nói với sự dịu dàng hơn, sẽ biết sống đẹp lòng Chúa hơn.

Chúng ta biết khi chết là lúc chúng ta về với Chúa và sẽ được sống lại với Ngài trong vinh quang thì chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhân cái chết hơn.

Cái chết luôn bình đẳng cho tất cả mọi người, cho nên ta hãy chọn cách tốt nhất là sống theo Lời Chúa dạy, sống tỉnh thức, sống ý thức, sống yêu thương từng giây phút với hết sức lực, hết trí khôn của mình.

Hơn nữa, dù có lo hay không lo, tất cả chúng ta đều sẽ già và  chết. Ta sẽ nhẫn nại hơn, sẽ bao dung hơn , tử tế hơn , dịu dàng hơn, dễ dàng tha thứ hơn đối với bản thân ta và đối với người khác.

Cuộc đời thật sự hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Lòng thương yêu từ con tim nhân ái sẽ đâm chồi nở hoa, và khi cái chết đến chúng ta sẽ không có gì ân hận.

Lạy Chúa, xin Chúa cho con được chết một cách an bình, đừng đau đớn lâu ngày, nhưng Chúa cho con chết như thế nào tùy ý Chúa. Amen.

 Elisabeth Nguyễn

From Tamlinhvaodoi