TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

Thật ngạc nhiên.  Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.  Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét.  Tại sao thế?  Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến.  Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến.  Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm.  Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta.  Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét.  Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.

Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới.  Thế giới hiện tại và thế giới tương lai.  Thế giới hiện tại sẽ qua đi.  Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc.  Con người có sinh có tử.  Đó là định luật tự nhiên.  Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi.  Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi.  Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi.  Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.

Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử.  Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn.  Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận, Chúa sẽ đến.  Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới.  Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người.  Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi.  Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu.  Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.

Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình.  Thế giới này sẽ qua đi.  Thế giới mới sẽ xuất hiện.  Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ.  Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới?  Điều đó tùy thuộc bản thân ta.  Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng.  Thế giới cũ sẽ suy tàn.  Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở.  Thế giới mới sẽ tới.  Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc.  Phải làm gì?  Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này.  Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này.  Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng.  Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề.  Cầu nguyện để biết tỉnh thức.  Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.  Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp.  Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo.  Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến.  Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên.  Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa.  Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.  Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay.  Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh.  Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới.  Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From Langthangchieutim

Hiểu gì không, ý nghĩa của trời thơ,

 Suy tư Tin Mừng đọc vào Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng năm C 

“Hiểu gì không, ý nghĩa của trời thơ,

 “Của hương hoa, trong trăng lờn lợt bảy?”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 Lc 21: 25-28, 34-36

 Trời thơ ở đời, nhà thơ nay đã hiểu. Thơ Trời của Đạo, người người rày cũng thấu. Hiểu và thấu Tin Mừng đầy những thơ, nay người đọc đà thấy rõ thánh Luca có nói về chất chính trị của mùa Vọng, ở trình thuật. Về, cả hứa hẹn đầy ngóng đợi Đấng Mêsia nay kịp đến.                                             

Hội thánh, nay chọn các bài Phụng vụ nói về thế giới phàm trần đang chết dần. Thế giới này, không của riêng ai. Và, cũng không riêng gì nhà Đạo. Bởi, Đạo Chúa đã và đang sản sinh nhiều điều rất mới. Sản sinh nguồn thơ sự sống, rất mới. Sinh sản cả ý nghĩa lời thơ nơi phụng vụ, hôm nay.

Ghi chép Lời Chúa, thánh Gioan là nhà thần bí, rất tuyệt vời. Trong khi các thánh Máccô và Mátthêu lại là thánh-sử chuyên kể chuyện. Chuyện dân gian Do thái. Chuyện Chúa mặc khải cho dân con Ngài, một sứ vụ. Riêng thánh Phaolô lại chẳng gồm tóm ý nghĩa của truyện kể lẫn nguồn thơ. Chỉ mỗi thánh Luca là đấng thánh có nguồn thơ lai láng, tràn ngập hai chương đầu trình thuật.

Ở hai chương đầu, thánh Luca đưa ra dấu chỉ về thời ấu thơ của Chúa. Cả chuyện kiểm kê là dấu chỉ về những o ép/bách hại từ vua quan, ở đời. Kiểm kê, còn là dấu hiệu của một lăng nhục. Và, câu nói: “Không có chỗ cho Ngài tá túc ở nhà trọ”, lại là dấu chỉ những kẻ lang thang khắp đây đó. Máng cỏ Chúa nằm, là dấu hiệu của việc đói ăn/thiếu mặc ở cõi đời đầy ô trọc. Và, tã quấn Hài Nhi, là dấu chỉ về vải liệm và nỗi chết Chúa sẽ chịu. Nhưng, dấu chỉ đây còn tỏ cho thấy niềm vui, nơi mọi người. Vui, vì Hài Nhi sinh ra là sinh cho ta. Còn sự chết, cũng sẽ bị sự sống rất mới khuất phục để trỗi dậy, không sợ sệt.  

Thế giới, nay gồm đầy những chuyên gia binh bị, kinh tế và triết học. Về binh bị, có người lại biết cả cách thức áp đặt nền dân chủ/hoà bình lên người khác, dù người khác không cần. Về kinh tế, có vị còn nói mình sẽ chỉnh đốn mọi khủng hoảng tiền bạc do họ tạo. Với triết học, có vị nghĩ mình thông thái biết hết mọi sự và làm được mọi việc. Còn ở nơi ta, có nhà thơ chỉ muốn nguồn thơ mình thai nghén sẽ giáng hạ sinh biến đổi con người từ bên trong, để thấy trẻ thơ sinh hạ, đến với ta. Và mỗi lần ta nhận ra được Nguồn Thơ Trẻ, sẽ tin vào tương lai/mai ngày mà thế giới không thể trao tặng. Làm được thế, ta sẽ sống trong Nguồn Thơ rất Vọng.

Mùa Vọng, là trông ngóng Hồn Thơ ra đời như thế. Hồn Thơ, có các thánh ngóng chờ như bài đọc kể Abraham và Sarah mừng vui sau bao ngày đợi chờ, đã sinh con. Có, Ysaya và ngôn sứ đợi chờ đoàn-tụ sau bao ngày lưu lạc chốn quê người. Chờ, như Gioan Tẩy Giả chờ nơi hoang dã để lời tiên tri thành hiện thực. Chờ, như Mẹ chờ Chúa Giáng hạ nơi cung lòng trinh trong của Mẹ. Và Mẹ tiếp tục chờ Chúa quang lâm ở đồi cao thánh giá. Tất cả, đều chờ Nguồn Thơ như chờ Giáng hạ.

Đọc sách Ysaya, ta thấy giòng thơ dào dạt đầy chờ trông. Đặc biệt, là giòng thơ trấn an dân con mọi người hãy cố chờ cả vào sau thời lưu đày, nữa. Chờ đây, là chờ Giêrusalem được dựng lại từ đổ nát. Chờ, như ngôn sứ lâu nay vẫn chờ Nguồn Thơ là tâm điểm thế giới, có Chúa vực đỡ quần thần/dân nước tề tựu nơi đó, để có được thị kiến giống nhà thơ Đạo.

Thánh Phaolô còn đi xa hơn, khi nhắn nhủ: ơn rỗi Chúa mang đến, không chỉ cho một dân tộc, mà là muôn dân nước. Thơ Nguồn cứu-độ không lệ thuộc dân con nước nào, hết. Chỉ cần ta có quan hệ mật thiết với Chúa, là sẽ thành công. Và, Nguồn Thơ Cứu Độ đến với mọi người dù họ có thuộc nhóm hội hoặc sắc tộc nào cũng sẽ được Nguồn Thơ Giáng Hạ rất đồng đều, ở vạn vật.

Tại các nước như Úc Châu, Hoa Kỳ hoặc đâu đó, chúng nhân từ muôn nơi đổ về đây sinh sống. Họ thuộc đủ mọi thành phần giòng giống/sắc tộc, tôn giáo hoặc truyền thống văn hoá rất khác biệt, vẫn đến đây để mừng ngày Đức Chúa là Nguồn Giáng Hạ đến với họ. Với họ, Chúa Giáng hạ Ngài không chỉ đến với đất nước hoặc sắc tộc nào tư riêng, mà cho hết mọi giống nòi, giòng tộc. Chúa Giáng Hạ, Ngài không chỉ đến với ai riêng rẽ mà là tất cả mọi người, như Nguồn Thơ lênh láng. Và Nguồn Thơ ấy, nay đã mặc lấy xác phàm làm Trẻ rất Thơ.

Nguồn Thơ Giáng hạ, có xác thể/hình hài giống như ta, nhưng không giống Ông Già Tuyết. Cũng chẳng là truyện thần thoại đầy xảo thuật làm loé mắt dân con mọi người. Và, Vương quốc Nước Trời là Trời Thơ của Chúa nay mặc xác phàm ở với thế trần, sống với ta. Trời Thơ đến với ta, đã biến cải thế giới của ta thành thế giới của Nguồn Thơ có nguồn sống, giống như ta. Trời Thơ của Chúa, lại cũng chấp nhận cuộc sống như ta. Chấp nhận cho cả lịch sử và giao ước, cùng nhu-cầu chậm bước vẫn nhẫn nhục, giống hệt ta. Trời Thơ, cũng giàn giụa nước mắt than khóc nhiều như ta từng khóc than những lúc quyết kiếm tìm cho đúng ngôn từ, nên đôi lúc cũng lạc loài, biến dạng, bị từ khước.

Mặc lấy xác phàm loài người, Đức Chúa cảm nghiệm nhiều điều giống Nguồn Thơ, từ: sự lạnh nhạt, yếu kém cho chí nỗi khước từ. Ngài cũng đã trải nghiệm vật vã, lưu lạc đến nỗi chết. Ngài cũng gặp cảnh huống ghen tuông, chối bỏ và trầm luân, lưu lạc sống khoảnh khắc thân xác lớn rất chậm.                       

Mặc lấy xác phàm để sống như con người bằng xương thịt, còn là đi vào với thế giới ngôn ngữ, diễn tả bằng ngôn từ của con người. Vào với thế giới của ngôn ngữ, Chúa cũng trải qua các giai đoạn tiến triển trong tạo dựng. Có trao đổi, hỏi han, có tham gia trở  thành tâm điểm để người khác theo đó mà tin. Có điểm đối chọi, để ta nhận ra động lực thúc đẩy mà sống vững chãi hầu đi vào quan hệ đặc biệt với người khác, biết mình và biết người.

Chúa mặc xác phàm làm người, Ngài tạo dựng chính mình Ngài để trở thành Con Người như ta, ở trong ta. Và, giữa ta. Ngài viết lên Bài Thơ nơi da thịt, xác phàm làm người của chính ta. Không Tin Mừng nào lại trình bày sự việc Chúa Nhập Thể cách đột ngột cả. Chúa Nhập Thể đến với con người là Ngài có chuẩn bị, từng chi tiết, rất như Thơ.

Có chuyển tiếp dẫn đưa con người đến giai-đoạn tháp-nhập vào với Người để hiện diện với đời, chứ không chỉ mang tính thiêng liêng/linh đạo rất tri thức. Chẳng linh-đạo nào lại có thể hiện diện ở thế giới của con người bằng xương thịt, trừ Chúa ra. Nguồn Thơ Chúa Nhập thể, là Ngài mặc lấy xác phàm nhưng Ngài vẫn 100% là Thiên Chúa và 100% là con người, cùng một lúc.

Đồ đệ Chúa thời ban đầu, lại cũng là đồ đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, đấng thánh biết tự rút lui vào chốn hư không/trống vắng để Chúa toả sáng với những ai dõi bước theo Ngài. Thánh Gioan không tự nhận mình là tụ-điểm thu hút hết mọi người. Và, thánh nhân tuyên bố mình chỉ là cây đèn chứ không là ánh sáng chiếu dọi mọi người. Thánh nhân là tiếng nói chứ không là Lời của Trời Thơ.

Đồ đệ đến với Chúa như việc tự nguyện; tức: không o ép, bức bách hoặc bị dẫn dụ. Các thánh thấy Chúa nên đã đi theo như đã từng đi theo thánh Gioan Tẩy Giả vào nơi hoang dã. Và, Chúa nhìn đoàn môn đệ rồi cảm kích; và cứ thế, Thày trò nhìn nhau lại đã khám phá ra điều tuyệt vời ở nơi Cha, Đấng gửi Thày đến với mình. Và, với mọi người như Ngài từng gửi Nguồn Thơ Lời Ngài đến với trần thế. Cảm kích hơn, là khi đồ đệ thấy Thày mình là Nhà Thơ Tuyệt Cú. Để rồi, cả Thày lẫn trò là bầu bạn của Nguồn Thơ, vẫn tìm Nguồn Hứng nơi Cha, là Tất Cả. Và, Thày trò cứ thế ra đi tìm về Nguồn Hứng của Thi Ca, cũng là Nguồn Mạch mọi sự ở thế trần.

Thánh Âu Tinh từng kêu lên: “Lạy Cha, chính Cha đã làm nên chúng con để Cha vừa lòng, và tâm can chúng con sẽ không ngơi nghỉ cho đến khi nào chúng con được nghỉ ngơi, nơi Cha”. Chính vì thế, chúng ta vẫn kiếm tìm Chúa nhưng không biết mình đang làm gì, và chẳng biết Ngài là ai. Rất thiếu hụt, nếu không có Ngài thì tất cả chẳng là gì cả. Và, mọi sự sẽ đi từ thất bại đến tuyệt vọng hoặc từ rối rắm này đến ngõ bí khác. Chúng ta đến, vì lý do chính đáng. Ta ở lại, cũng vì lý do nào khác…

Phải chăng, đó là lý do để ta hiên ngang trông mong Chúa lại đến? Phải chăng Hội thánh Chúa sẽ dỗ dạy con dân mình Lời Thơ sự sống, dù Thơ Trời nay đã đến và ở với ta? Và đó, có lẽ là ý nghĩa đích đáng của mùa Vọng, rất chờ mong. Mong ai? Mong gì? Mỗi người và mọi người sẽ tự tìm ra câu giải đáp, rất thoả đáng.

Trong mong đợi Nguồn Thơ sâu sắc đến, cũng nên ngâm thêm lời thơ đời đầy ý nghĩa, rằng:

            “Hiểu gì không, ý nghĩa của Trời Thơ?

            Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy?

Của lời câm, muôn vì sao áy náy?

            Hiểu gì không? Em hỡi! Hiểu gì không?”

            (Hàn Mặc Tử – Trường Tương Tư)

Nhà thơ xưa cứ tương tư, dù đã hiểu. Hiểu “Lời Câm” hương hoa, vẫn kiếm tìm. Hiểu, “muôn vì sao áy náy”, “trăng lờn lợt bảy”. Hiểu cả Trời Thơ, nay đến ở với ta và với người, suốt cõi đời nhiều kiếp, rất ý nghĩa.   

Lm Kevin O’Shea CSsR biên soạn

Mai Tá lược dịch  

Sống trên đời này

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ nhất mùa Vọng năm C 02-12-2018

“Sống trên đời này”

người giàu sang cũng như người nghèo khó.”

Trời đã ban cho ta cám ơn trời dù sống thương đau

Mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu khó như nhau

Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao.”

(Lê Dinh – Trở Về Cát Bụi)

(Lc 2: 41)

 “Trở Về Cát Bụi”, lại có nghĩa “đi vào lòng đất”, lòng người và lòng đời, rất khơi khơi.“Trở về cát bụi” còn là và sẽ là trở về với nhà Đạo nhiều tầng lớp. Có lớp tầng đầy vàng son. Có tầng lớp lợi danh với chức quyền, như nhạc bản còn lên tiếng, như sau:

“Này nhà lớn lầu vàng son

Này lợi danh, chức quyền cao sang

Có nghĩa gì đâu… sao chắc bền lâu

Như nước trôi qua cầu

Này lời hứa…

Này thủy chung…

Này tình yêu… Chót lưỡi đầu môi cũng thế mà thôi

Sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời

Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi mất.

Cuộc sống mong manh xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen

Nào người sang giàu đừng vì tham tiền bỏ nghĩa anh em

Người ơi xin nhớ cát bụi là ta… mai này chóng phai

Người nhớ cho ta là cát bụi trở về cát bụi

Xin người nhớ cho.”

(Lê Dinh – bđd)

“Người nhớ cho”, xin nhớ đủ mọi thứ chuyện. Cả đến truyện kể không nặng nề, nghe cũng thấy mê, đọc được ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Một người đàn ông chết rồi, mới ý thức được rằng cuộc đời mình thật ngắn ngủi. Lúc đó, anh ta nhìn thấy Phật tổ tay xách một cái hòm, tiến lại phía mình. Phật tổ nói:

-Con trai, chúng ta đi thôi.

Người đàn ông đáp:

-Sao nhanh quá vậy, con còn rất nhiều việc vẫn chưa hoàn thành.”

Phật tổ nói:

-Ta rất xin lỗi, nhưng thời gian của con hết mất rồi!

Người đàn ông lại hỏi:

-Vậy thưa Phật tổ, trong chiếc hòm của ngài có chứa thứ gì vậy?

-Đó là di vật của con, Phật tổ trả lời.

Người đàn ông tỏ ra nghi ngờ, hỏi tiếp:

-Là di vật của con sao? Ý của người: đó là thứ thuộc về con, có phải là quần áo và tiền không ạ?”

Phật tổ đáp:

-Những thứ đó trước giờ chưa bao giờ thuộc về con, chúng thuộc về địa cầu.

-Vậy có phải trong đó là ký ức của con không?

Người đàn ông ngẫm nghĩ một lát rồi phỏng đoán..

-Không phải, ký ức thuộc về thời gian.

Người đàn ông lại đoán:

-Có phải là tài năng thiên phú của con?

-Không, chúng thuộc về cảnh ngộ.

Người đàn ông băn khoăn:

-Lẽ nào trong đó là bạn bè và người nhà con?

-Con trai ạ, không phải vậy đâu. Họ thuộc về hành trình mà con đã đi qua.

-Vậy có phải là vợ và các con của con trong đó không thưa Phật tổ? người đàn ông hỏi tiếp.

-Không, họ thuộc về trái tim con..

Người đàn ông lại phỏng đoán:

-Vậy nhất định đó là thân xác của con rồi.

-Không, thân xác của con thuộc về cát bụi.

Cuối cùng, người đàn ông khẳng định chắc chắn:

-Vậy đó nhất định là linh hồn của con!

Lúc này, Phật tổ mỉm cười, đáp:

-Con trai, con hoàn toàn sai. Linh hồn của con thuộc về ta.

Mắt ngấn nước, người đàn ông nhận chiếc hòm từ tay Phật tổ bên trong chiếm hòm trống rỗng. Nước mắt chảy dài trên má, trái tim vỡ vụn, người đàn ông hỏi Phật tổ:

-Lẽ nào từ trước tới nay con chẳng sở hữu bất cứ thứ gì sao?

Phật tổ đáp:

-Đúng thế con ạ. Trên thế giới này bây giờ chẳng có bất cứ thứ gì thực sự thuộc về con.

-Vậy thì cái gì mới là của con?

-Mỗi tích tắc khi con đang còn sống, chúng thuộc về con, còn bây giờ, con chẳng còn gì cả.

 Đến lúc này, người đàn ông mới như được thông suốt. Thì ra, sinh mệnh, đời người chỉ là những cái tích tắc ngắn ngủi và điều chúng ta nên làm nhất, là tận dụng nó sao cho thật hiệu quả, thật tốt, yêu quý nó, hưởng thụ nó. Còn được sống, đó đã là một sự chiến thắng vẻ vang. Việc kiếm tiền chỉ là một trò chơi không hơn không kém. Khỏe mạnh mới là mục đích và vui vẻ, hoan lạc mới là chân đế! 

Vậy nhưng trong cuộc sống này, thử hỏi có bao nhiêu người đang ra bị cuốn vào vòng quay tiền tài, danh vọng? Có bao nhiêu người vì chút lợi ích của bản thân mà làm tổn hại người khác và làm tổn thương chính mình mà không nhận ra? Có bao nhiêu người sẵn sàng bán sức, đánh đổi sức khỏe để lấy những vật ngoài thân…?

 Các bạn biết không, đó là sai lầm lớn nhất cuộc đời, bởi đến lúc chết, chẳng có bất cứ thứ gì trên thế giới này còn thuộc về chúng ta. Vậy thì tại sao không tận hưởng một cách triệt để nhất mỗi tích tắc được sống trên đời? Tại sao không làm cho quãng thời gian ngắn ngủi ấy trở nên ý nghĩa, trọn vẹn nhất?

 Từ lúc này, mỗi chúng ta hãy chọn cho mình một cách tận hưởng thời gian hiệu quả nhất, đơn giản thôi, đừng quá nặng nề với những yêu cầu xa vời, chúng chỉ khiến cuộc sống của chúng ta thêm mỏi mệt. Và cũng bởi cuộc đời rất ngắn, nên hãy dành cho những người xung quanh ta sự trân trọng, yêu quý hết sức có thể, đừng tranh chấp, cũng đừng giận dữ, hãy lựa lời, cùng thấu hiểu và thông cảm cho nhau.

 Thời gian của mỗi người trên đời càng đi càng ngắn lại, dù là thân thiết gắn bó đến đâu, cuối cùng cũng vẫn phải chia ly”. (Theo báo Trí Thức Trẻ)

Thời gian dài ngắn, đến trước đến sau, đều có những sự kiện để đời. Hệt như Đạo Chúa cũng có những sự-kiện để đời khiến con người không thể chối bỏ, tránh né hoặc bỏ bê không tham-dự. Chính đó, là lễ hội ở nhà Đạo được ghi nhận như sau:

“Mọi người chúng ta nên biết đôi điều về các ngày lễ được nêu tên trong Tân Ước diễn tả cuộc sống rất đặc trưng của Đức Chúa. Tôi sẽ kể ra đây một vài lễ hội quan trọng của Do-thái-giáo. Trước tiên, ngày trọng đại nhất là Lễ Vượt Qua. Đây là lễ hội chính trong năm kỷ niệm cuộc giải thoát dân Israel sau 400 năm sống đời cơ-cực ở Ai Cập.

   Hẳn mọi người còn nhớ Joseph, con trai của Giacóp bị các người anh của mình bán làm nô lệ cho Ai Cập, nhưng anh đã trỗi-dậy trở thành người quản-gia phục-vụ trong triều Pharaô. Suốt nhiều năm tháng kể từ ngày Israel phải chịu cơn đói kém trải dài, mấy người anh của Joseph đã thân chinh lên đường đi Ai Cập để kiếm cách độ nhật. Và theo lệnh Joseph, toàn-thể gia đình những người thân đã qua đó làm nô-lệ phục-vụ vua quan ở đó suốt 400 năm, khiến gia-tăng dân số lên gấp bội.

 Kế đó, tổ-phụ Môsê cũng đưa họ ra khỏi Ai Cập mãi đến lúc tử-thần chợt đến vào ban đêm giết sạch các con trai đầu lòng và cả thú vật của họ; riêng dân Do-thái được lệnh bôi máu chiên lên thành cửa thoát nạn, tình-hình khi ấy trở nên thập phần bi-đát khiến vua Pharaô biết chuyện đành phải thả họ về nước. (X. Sách Xuất hành đoạn 12 câu 1 đến câu 32)

Sau đó không lâu, người Do-thái-giáo đã cử-hành mừng lễ hội này vào mỗi tháng, tức: đúng buổi chiều ngày thứ 14 tháng Nisan, tức ngày tròn trăng của mùa Xuân. Và khi ấy, đã có lệnh lan truyền rằng: mỗi gia đình đều phải ăn một con trừu được hiến tế vào sáng sớm trong ngày cùng với bánh không men và rau đắng; đồng thời, mọi người được bảo phải uống thật nhiều rượu và đọc lời cầu sau nghi thức được chỉ định. 

Mọi nam-nhân khi ấy đều phải chuẩn bị đi Giêrusalem dự lễ hội và Đức Maria cùng thánh Giuse cũng đều tới đó mỗi năm (Lc 2: 41; Xh 23: 14-17). Lễ hội Vượt Qua kéo dài một tuần lễ, trong những ngày này mọi người chỉ được phép ăn bánh không men thôi.

 Tin Mừng thánh Mátthêu, Máccô và Luca, rõ ràng có chép: Đức Giêsu cũng cử-hành tiệc Tạ-từ qua nghi-thức mừng Lễ Vượt Qua như mọi người (Mc 26: 17). Làm thế, Ngài đã biến Lễ hội Vượt Qua thành Tiệc Thánh Thể mừng kính sự-kiện Thiên Chúa giải-thoát dân con loài người khỏi tình-trạng nô-lệ tội lỗi, nỗi chết và ác thần sự dữ bằng cái chết của Con Chiên Thiên Chúa trên thập-tự.

 Lại có lễ-hội khác, qua đó người Do-thái-giáo nối-kết với Lễ hội Vượt qua, là Lễ Bánh không men, bên tiếng Hy Lạp gọi là Azymes, tức: lễ hội ngày mùa qua đó nhà nông cùng nhau tụ-tập tiến dâng hoa quả đầu mùa lên Thiên Chúa  (x. Sách Lêvi 23: 15; sách Đệ Nhị Luật 16: 9)              

Do bởi người Do-thái không có khả năng trồng trọt và canh-tác mãi đến lúc họ trở về vùng đất hứa 40 năm sau  khi rời bỏ đất Ai Cập, rõ ràng là lễ hội này được định-vị từ ngày ấy mà thôi. Như thế còn có nghĩa, đã từ lâu lễ này được cử hàng cùng với lễ Vượt Qua bởi lẽ cả hai lễ hội đều chú trọng đến bánh không men và cả hai đều được mừng kính cùng một thời-điểm trong năm.

 Nghi-lễ này chính-thức được định-vị trong những năm tháng ngày dài sau đó, cả hai lễ hội này đều được mừng kính tại Giêrusalem. Nghi-thức được cử-hành bằng thức ăn của lễ Vượt Qua vào đêm tối trước ngày 14 tháng Nisan. Lễ hội này kéo dài suốt tuần lễ và suốt thời gian này dân con mọi người bị cấm chỉ không được ăn bánh có lên men hoặc men bột được cất giữ ở trong nhà. Và, các ngày lễ trọng thể nhất là ngày đầu và ngày cuối của lễ hội ấy cùng với ngày sabát rơi vào những ngày từ 14 đến 21 của tháng Nisan.

 Ngoài ra, còn một lễ hội khác cũng quan trọng không kém đối với người theo Do-thái-giáo, đó là: Lễ Ngũ Tuần hoặc còn gọi là Lễ Hiện Xuống. Lễ này được thiết-lập để dân con trong Đạo cảm-tạ Thiên Chúa đã phú ban cho họ hoa quả, đậu hạt, lúa miến, lúa mạch cùng nhiều lúa khác có màu đen. Dân con trong Đạo cử hành mừng lễ thất tuần hoặc 50 ngày sau lễ hội Bánh KHông Men , bên tiếng Hy Lạp gọi là Lễ Ngũ Tuần (Hiện Xuống).

 Đương nhiên, lễ hội này được nối kết chặt chẽ với lễ Bánh Không Men được cử hành xen kẽ vào ngày đầu và cuối vụ gặt. Với Lễ Vượt Qua, tất cả nam-nhân Do-thái phải có mặt ở đền thờ ở Giêrusalem để mừng lễ Hiện Xuống.

 Điều này cũng giải thích lý do tại sao tất cả mọi người Do-thái-giáo ở khắp mọi nơi trên thế-giới đều về Giêrusalem mừng lễ kỷ niệm ngày Thánh Thần Chúa hiện xuống với các thánh tông-đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần (x. sách Công vụ đoạn 2 câu 5-11). Bầu khí tưng bừng vây quanh lễ hội này, là niềm vui cao cả, trong đó có yến-tiệc linh-đình hội-tụ tất cả mọi thành viên trong gia đình, từ người giúp việc cho đến khách quí được mời như người cùng nhà.” (X. Lm John Flader, Jewish feasts the roots of today’s Christian faith, The Catholic Weekly 14/8/2018 tr. 29)       

Trong những ngày vui đình đám như thế, giả như ai đó trong nhóm dân con đi Đạo lại cứ rủ nhau quay quần mà vui chơi, ăn uống luôn tiện mừng kính mọi ý-nghĩa này khác của đời người, hẳn mọi người sẽ không còn bận tâm gì đến lời lẽ của nhạc phẩm được trích dẫn ở trên với những ca-từ từa tựa như:

“Sống trên đời này

người giàu sang cũng như người nghèo khó.

Trời đã ban cho ta cám ơn trời dù sống thương đau

Mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu khó như nhau

Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao.”

(Lê Dinh – bđd)

Để minh-họa tình-tiết của lễ-hội vui, buồn đình đám nói ở trên, thiết tưởng cũng nên đi vào vùng trời truyện kể, để kiếm tìm một câu truyện làm nền, hầu ghi nhớ. Truyện, là những câu chuyện được gửi gắm cho nhau, đến với nhau, những niềm vui như sau:

“Tôi không phiền lòng chuyện bạn tù của tôi là một “vợ”. Hắn rộng rãi chia với tôi những thỏi chocolate và thuốc lá mà bọn “chồng” mua cho hắn. Tôi cũng không khó chịu việc hắn là trí thức. Tôi cũng trí thức. Trong chốn này, chỉ cần kể được tên thủ phủ hai tiểu bang và đọc bảng chữ cái không vấp, người ta được coi là trí thức. Nhưng chúng tôi trí thức thứ thiệt. Chúng tôi biết cách lý lẽ. Khác nhau duy nhất giữa tôi và hắn: tôi trí thức hữu cơ, hắn trí thức vô cơ.

 Tôi nói vô cơ theo nghĩa, logic của hắn không được logic lắm. Hắn cho biết cả đời bị ám ảnh vì hình dạng những lưỡi kéo: “Tao khoái một số lưỡi kéo đầu tà, một số đầu nhọn. Chúng có thể đâm, cắt, mở toang hoác như miệng.” Hắn đưa hai ngón tay ngang mũi làm động tác cắt, cười tinh quái. Hắn nói cảm thấy ngây ngất được ở chốn này: “Suốt đời tao mong vào đây, dù không biết nó thế nào. Không phải sai lầm đâu, chỉ là một chọn lựa. Người ta chọn số phận mình.”

 Vớ vẩn. Tôi đâu chọn vào đây. Không ai chọn vào đây. Lý do đẩy tôi vào tù là một cơn bệnh ngoài tầm kiểm soát. Không ai có thể nói tôi thích tù hơn cuộc sống bên ngoài. Vì kiểu lý lẽ đó, hắn là một trí thức vô cơ. Hắn suy diễn những quy luật phổ quát dựa trên nhầm lẫn cá nhân. Hắn nói thêm: “Biết chấp nhận số phận, thậm chí một số phận quái đản, đầy đau đớn khổ sở của chính mình và kẻ khác, sau cùng ta trở nên thanh thản, thăng hoa!”

 Ý tưởng này đến từ tên tù chung thân không có khả năng được ân xá! Chuyện hắn đã làm chắc chắn là tội ác, nhưng không ghê tởm hơn tôi, hay hầu hết những kẻ trong này. Tôi không lên án hắn. Cũng không mong hắn ăn năn. Ðiều tôi phản đối là cách hắn nhìn tội ác như một phương tiện khám phá bản thể. “Ðể hoàn thiện một người,” hắn triết lý, “nhiều kẻ khác phải bị hủy hoại. Ðiều này cũng đúng với những quốc gia.”

 Nếu điều này là sự thật, tôi không hứng thú với sự viên mãn kiểu đó. Tôi thà làm nửa người đứng đắn còn hơn thành quỷ sứ nguyên con. Tôi vào đây vì đã làm tổn thọ mười hai mạng. Tôi không hãnh diện. Tôi lấy làm tiếc việc phải tiêu phần đời còn lại của chính mình trong sở thú bê-tông và song sắt, giữa đám nửa người nửa ngợm. (Tôi phục vụ trong quân đội bốn năm, nhưng chuyện đó chẳng nhằm nhò gì so với tù.)

 Hàng tuần, trước khi được uống Depo-Provera, một thần dược giúp giảm cơn dày vò tính đực, tôi là kẻ nửa người nửa quái vật, nhưng lúc này quái vật đang ngủ yên trong ruột, nên phần lớn tôi có thể được xem là người.

 Tôi tổn thương, khích động và căng thẳng đến mức bất kỳ kích thích nhỏ nào – mẩu quảng cáo đồ lót, tách cafe, chiếc bánh donut – cũng đủ khiến tôi nghĩ: Máu! Tôi từng nghĩ thân thể mình là lưỡi dao dài, ngày ngày thọc về phía trước tìm kiếm nạn nhân.

 Khởi đầu, tôi nhắm mắt giết bừa, như điên, chẳng triết lý, nhưng đến khi nạn nhân thứ sáu hoặc bảy gì đó câm miệng (Diana? Susan?), khi là kẻ duy nhất còn lại trong phòng, tôi bỗng nhận chân được mục đích. Hơn cả chuyện dứt bóng những mạng sống, tôi quan tâm việc tạo mối liên hệ với nạn nhân thông qua sự làm nhục. (Còn gì gần gũi hơn việc chia xẻ ô nhục). Sau phát hiện đó, mỗi lần chuẩn bị cắt cổ nạn nhân, tôi nói: “Giờ thì chúng ta đã biết bí mật nhau, đã hạ nhục nhau, chẳng còn gì ngoài việc gặp lại kiếp sau. Anh yêu em.” Quá xúc động bởi tuyên bố tình yêu, mắt tôi đẫm lệ. Tôi hôn hàm răng lạnh giá những người đàn bà.

 Có một sự im lặng kỳ lạ sau mỗi lần ra tay. Có vẻ xác chết đang hút hết tiếng động thế giới vào quỹ đạo phân rã của nó. Ngay khi vừa giết xong, ta có cảm tưởng mình là người cuối cùng trên mặt đất. Một cảm giác thanh bình, tuyệt diệu. Người ta từng bịt mắt cả tá nô lệ ném vào vòng đánh nhau cho đến khi chỉ sót lại một mạng. 

Sau nạn nhân thứ mười, tôi cảm thấy ngây ngất đến độ tin rằng Thượng Ðế sẽ gọi tôi. Tôi chăm chú nhìn chiếc điện thoại, chắc rằng nó sẽ reng. Tôi tin Thượng Ðế sẽ chúc mừng tôi việc tham dự trò đùa của ngài. Phụ nữ thông hiệp với Thượng Ðế ở điểm khởi đầu trò đùa bằng sinh sản. Ðàn ông ở điểm kết thúc, bằng giết chóc.

 Mắt của nạn nhân thứ mười một mở trừng trừng. Tôi hơi run. Trong lớp dạy làm thơ, tôi được học về chủ nghĩa Tượng trưng và Siêu thực. Tôi viết: “Mắt là cửa sổ tâm hồn. Khi tâm hồn rời chỗ lưu tồn, mắt nên nhắm lại.” (Thầy giáo tôi, Mr. William, khen ngợi hiệp vần “hồn” với “tồn”, “sổ” với “chỗ”). Tôi tham dự tất cả những lớp học trong tù. Ðiều quan trọng là không phung phí thời gian và phải mở rộng chân trời hiểu biết. 

Nhưng nhân tố lớn nhất giúp tôi hồi phục sự tỉnh táo là những trao đổi với một bạn thư, tên Julie.

Julie ở Úc. Nàng ba mươi chín tuổi, ly dị, và ung thư vú. Trong quá khứ, khi đau khổ của người khác là nguồn mạch hoan lạc của tôi, sự kiện sau cùng này sẽ khiến tôi ngây ngất. Nhưng giờ đây, tôi chỉ gởi lời an ủi đến nàng. Tôi cũng đều đặn tiêm cho nàng những liều bất hạnh của tôi, phóng đại khi cần thiết, để nàng cảm thấy dễ chịu khi so sánh. Tôi quan tâm Julie đến nỗi để giành lại hầu hết những chuyện tồi tệ nhất của đời sống ngục tù, chỉ chia xẻ khi nàng thật sự xuống tinh thần. Tôi nhạy cảm đến thế. 

Tôi cũng lưu ý giữ cân bằng giữa những chuyện kinh tởm và những chuyện thuần túy khôi hài. Chỉ trong thư thứ ba, tôi kể chuyện những tay gác tù phải khám dái và đít tôi thế nào trước khi cho phép vào sân đi dạo. Làm phụ nữ cười là điều tốt. Nụ cười sảng khoái có thể trì hoãn ung thư. Nhưng tôi thấy bạn đang nhăn. Bạn thấy tôi rơi vào trò tự bốc thơm. Bọn tù chúng tôi vẫn thường được coi là chỉ quan tâm đến mình. Ðủ rồi. Tôi phải hít một hơi dài và đổi giọng đơn điệu.

 Julie cho phép tôi dòm ngó vào đời sống thường nhật của nàng. Trước nay tôi chưa bao giờ quan hệ bình thường với phụ nữ. Nàng kể chuyện ăn sáng món gì, đọc sách gì. Nàng mô tả chiếc áo choàng đang mặc khi viết thư.

 Thư của Julie không mùi. Giấy chẳng có mùi. Tuy vậy, nó đã được chạm vào bởi một phụ nữ, một phụ nữ bằng xương bằng thịt. Vì thế tôi áp chặt lá thư vào mũi hít lấy một cách ngây ngất. Ðây là mẩu giấy có mùi tuyệt dịu nhất trần đời. Tôi không ngại thú nhận rằng tôi cũng vuốt ve mảnh giấy lên những bộ phận khác của cơ thể. 

Một vài tay trong tù lạm dụng bạn thư bằng những trò đại loại như yêu cầu các nàng ngồi lên máy photocopy, nhưng tôi không phải loại đó. Thực ra, tôi chưa xin Julie tấm ảnh nào.

 Julie chưa bao giờ hỏi lý do tù tội của tôi. “Tất cả chúng ta đều có một quá khứ đáng tiếc,” nàng viết, “Em cũng vậy. Ai cũng có quyền giữ bí mật riêng mình. Nếu tất cả bí mật được phơi bày, chúng ta sẽ bị khai trừ vĩnh viễn khỏi xã hội loài người.”

“Nếu gặp em cách đây mười năm,” tôi viết, “anh đã không vào tù.” 

Kiếp này tôi sẽ chẳng bao giờ được ôm Julie trong tay. Hẹn kiếp sau. Mặt khác, tôi lấy làm vui vì Julie ở rất xa, tôi sẽ chẳng bao giờ làm được chuyện khủng khiếp với nàng. Không phải tôi muốn chuyện như vậy. Julie sẽ không bao giờ là nạn nhân thứ mười ba. Ðiều quan trọng là trong đời, đàn ông ít nhất phải một lần có quan hệ thành công với phụ nữ. Giờ tôi đã làm được chuyện đó. 

Bác sĩ tâm lý của chúng tôi, ông Fang, nói sở dĩ tôi sợ đàn bà là vì trong quá khứ họ đã bắt tôi chiều chuộng, ý tứ, đê tiện, hy vọng, và can đảm, tất cả những phẩm chất tôi không có, không bao giờ quan tâm phát triển. Ông nói: “Tất cả các anh đều sợ đàn bà. Ðó là lý do khiến các anh vào đây.” 

Trong sâu xa tôi vẫn tin sẽ có ngày thoát khỏi nơi này. Có thể động đất hay một cuộc cách mạng sẽ khiến cửa tù bật mở. Có thể một cuộc xâm chiếm của người hành tinh. Có thể một thiên thạch.

Ðôi khi, khoảng trước giấc ngủ, lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi mơ thấy đang thả bộ trên đường Pine ở Philadelphia. Nhưng mình không thể thả bộ được, đang ở tù mà! Trong giấc mơ chập chờn, tôi ý thức đang nằm trên giường, dưới tấm mềm mỏng ngứa ngáy, nhưng lại thấy rất rõ tiệm café Last Drop, đối diện bên kia đường là quán rượu Dirty Frank. Nếu thật tập trung, tôi có thể mở cửa Dirty Frank, bước vào. Tôi cảm thấy cơn giận khủng khiếp dâng lên, mắt mở to, nhìn thấy đáy giường gã bạn tù. 

Một lần, trong tình trạng như vậy, tôi gọi gã bằng những cái tên ghê tởm mà tôi lập tức hối hận. Khi hắn thức dậy, tôi biện hộ vừa trải qua cơn ác mộng.

Gã bạn tù của tôi lập gia đình năm năm. Năm năm tuyệt diệu, hắn kể. “Tụi tao làm tình mỗi tuần hai lần, cãi nhau to tiếng mỗi tháng một lần, nấu nướng ngoài trời và đi biển mỗi mùa hè.” Nhưng hắn đã vứt bỏ tất cả chỉ vì bị ám ảnh bởi hình dạng những lưỡi kéo. “Suốt đời, tao bị thôi thúc không chịu nổi việc phải đâm đàn bà. Chỉ sau khi đâm chết vợ trong khi ả đang ngủ, chẳng vì lý do gì, bằng một chiếc kéo, tao mới nhận ra ham muốn thầm kín được ở tù. Tao muốn được ở giữa những thằng đàn ông. Tao muốn đến phiên mình được đâm để thỏa mãn số phận.”

Phan Nhiên Hạo dịch từ nguyên bản tiếng Anh “Two Intellectuals” trong Linh Dinh, Blood and Soap (New York: Seven Stories Press, 2004).

Sống trong đời, mà lại ví dụ như nhà tù, thì thật không phải. Thế nhưng, đời người có gì là phải hoặc không phải. Nói cho cùng, cũng chỉ là lý-luận phải trái với nhau, mà thôi. Lý và luận, hết mọi sự trên đời. Cả trong cuộc đời đi Đạo hoặc sống Đạo ở ngoài đời. Nhất nhất, cũng chỉ là những ngày dài trong cõi đời, nhiều ngày sống.

Nói cách khác, tất cả chỉ là những ngày đi Đạo trong đời người cũng suy-tư, nguyện cầu hoặc nói năng cho trọn ngày, đoạn tháng, cũng thế thôi.

Nói thế rồi, nay mời bạn, mời tôi, ta kết thức câu chuyện phiếm lai rai, đường dài khá lẩn thẩn và vô bổ. Nghĩ thế rồi, nay mời mọi người hãy cùng tôi kết thức những giòng chữ trải dài một cách vô duyên, vô bổ và vô tích sự, ở trong đời. 

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày dài

Vẫn quan niệm

Tựa hồ như thế.

LỜI NGUYỆN XIN TĨNH LẶNG 


LỜI NGUYỆN XIN TĨNH LẶNG 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Hãy làm thinh và biết Ta là Đức Chúa.

Kinh thánh quả quyết với chúng rằng nếu chúng ta làm thinh thì sẽ biết Chúa, nhưng có được sự lặng yên thì nói dễ hơn làm.  Như Blaise Pascal từng nói, “Mọi khốn khổ của con người là do chẳng ai có thể ngồi yên trong một tiếng đồng hồ.”  Đạt được sự tĩnh lặng có vẻ là việc quá tầm chúng ta, và như thế chúng ta gặp một song đề: chúng ta cần tĩnh lặng để tìm Chúa, nhưng cần Chúa giúp để  tìm

sự tĩnh lặng.  Nghĩ như thế, tôi xin đưa gởi gắm các bạn một lời nguyện xin sự tĩnh lặng. 

Lạy Thiên Chúa của tĩnh lặng…

Xin làm tĩnh lặng những bồn chồn tuổi trẻ của con, tĩnh lặng cơn đói khát cứ ập vào con, cơn đói khát muốn nối kết với mọi người, muốn thấy và thưởng nếm mọi thứ, cơn đói khát khiến con mất bình an những buổi tối cuối tuần.  Xin tĩnh lặng những giấc mơ tự đại muốn mình nổi bật với người khác.  Xin cho con ơn sống hài lòng hơn với bản thân con.

Xin tĩnh lặng cơn bồn chồn khiến con thấy mình quá nhỏ bé.  Xin cho con biết rằng đời con là đủ, và con không cần đòi hỏi về mình, dù cho cả thế giới đang cố lôi kéo con làm thế với vô vàn những hình ảnh tiếng động khắp nơi.  Xin cho con ơn sống bình an trong cuộc đời mình. 

Xin làm tĩnh lặng tính dục của con, chỉnh đốn những khao khát bừa bãi, dục vọng của con, nhu cầu không ngơi muốn được thân mật hơn nữa của con.  Xin tĩnh lặng và chỉnh đốn những dục vọng trần tục của con mà không cần phải xóa bỏ chúng đi.  Xin cho con biết nhìn người khác mà không phải với con mắt tình dục ích kỷ. 

Xin tĩnh lặng những lo âu, trăn trở của con và đừng để con lúc nào cũng sống ngoài giây phút hiện tại.  Xin cho con biết ngày nào có mối lo của ngày ấy.  Xin cho con ơn biết rằng Chúa đã gọi con trong yêu thương, viết sẵn tên con trên thiên đàng, và con được tự do sống mà không cần lo lắng. 

Xin tĩnh lặng nhu cầu muốn bận rộn luôn mãi của con, muốn kiếm việc gì đó để làm, muốn lên kế hoạch cho ngày mai, muốn hoạt động mọi phút giây, muốn tìm cái gì đó để lấp đầy khoảng thinh lặng.  Xin cho con biết thêm tuổi thêm khôn ngoan.  Xin làm nguôi đi những cơn giận âm ỉ vô thức của con vì thấy quá nhiều mong muốn của mình chưa thành sự.  Xin tĩnh lặng sự chua cay vì thất bại của con.  Xin giữ con khỏi ghen tương khi con cay đắng chấp nhận những giới hạn của cuộc sống mình.  Xin cho con ơn chấp nhận những thất bại và hoàn cảnh của mình. 

Xin tĩnh lặng nỗi sợ chính mình, nỗi sợ trước những thế lực tăm tối đang đe dọa con trong vô thức.  Xin cho con can đảm để đối diện với bóng tối cũng như ánh sáng của chính mình.  Xin cho con ơn đừng sợ sự phức tạp của mình.

Xin tĩnh lặng nỗi sợ bẩm tại của con là sợ mình không được yêu thương, sợ con không xứng đáng để yêu.  Xin làm tĩnh lặng sự hoài nghi dằn vặt rằng con luôn là kẻ ngoài cuộc, rằng cuộc sống thật bất công, rằng con không được tôn trọng và thừa nhận.  Xin cho con ơn biết rằng con là con yêu dấu của Chúa, Đấng yêu thương con vô điều kiện.

Xin tĩnh lặng trong con nỗi sợ vô cớ đối với Chúa, để con đừng thấy Chúa xa cách và đáng sợ, mà thay vào đó là nhìn thấy Chúa nồng ấm và thân thiện.  Xin cho con ơn liên kết với Chúa thật hồn nhiên, như một người bạn mà con có thể chuyện trò, đùa giỡn, vui vẻ và thân thiết.

Xin tĩnh lặng trong con những suy nghĩ bất dung, về những giận hờn từ quá khứ, những bội bạc, lăng mạ mà con phải chịu.  Xin tĩnh lặng trong con những tội mà chính con đã phạm.  Xin tĩnh lặng trong con những tổn thương, cay đắng và giận hờn.  Xin cho con sự tĩnh lặng từ sự tha thứ, từ con và cho con. 

Xin tĩnh lặng những nghi ngờ, lo lắng về sự hiện diện của Chúa, về lòng trung tín của Chúa.  Xin tĩnh lặng trong con xung lực muốn để lại dấu ấn, muốn tạo nên gì đó bất tử cho bản thân mình.  Xin cho con ơn biết tin tưởng, ngay cả trong tối tăm và nghi hoặc, rằng chính Chúa sẽ cho con sự sống đời đời. 

Xin tĩnh lặng tâm hồn con để con biết Chúa là Thiên Chúa, và cho con biết Chúa đã tạo dựng và gìn giữ mọi hơi thở của con, rằng Chúa yêu thương con cũng như hết thảy mọi người, rằng Chúa muốn cuộc sống chúng con bừng nở, Chúa muốn chúng con hạnh phúc, Chúa yêu thương và chăm lo hết mọi người, rằng chúng con sẽ được an bình trong bàn tay nhân từ của Chúa, ở đời này và đời sau.  Amen! 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From NguyenNThu

Nước Trời ở khúc giữa… ngay hôm nay

Nước Trời ở khúc giữa… ngay hôm nay

Lc 17,26-37; 2Ga 1,4-9

– Nước Trời đến lần thứ nhất như thế nào thì ai cũng biết cả rồi

– Nước Trời đến lần thứ hai thì cũng đã được nói trước rồi nhưng còn thực tế như thế nào thì chưa biết

– Phần đầu của Nước Trời cũng đến bất ngờ và phần cuối của Nước Trời cũng lại đến bất ngờ (chuyện ông Nô-ê và chuyện ông Lót) nên có cảm tưởng quá xa vời thế nào í ! Thôi lo phần giữa Nước Trời vậy !

+ Nước Trời nhìn thấy được đang lù lù trước mắt (hữu hình), đó là Giáo Hội, cộng đoàn… Nhiều người mơ ước một Nước Trời êm ả ngon lành, thế mà Nước Trời Giáo Hội này quá nhiều bất toàn, vì những con người cụ thể, bằng xương bằng thịt, rồi biết bao nhiêu chuyện vớ vẩn, làm cho nhiều người sốt ruột, rồi thất vọng. Luôn cần phải có cái nhìn của đức tin nhé !

Nước Trời trong tâm hồn thì không nhìn thấy được, nhưng cảm nhận một sức sống, ân ban Thánh Thần tác động, thành chứng nhân hùng hồn, tình yêu chứa chan tuyệt vời… Thánh Têrêsa Lisieux thấy điều đó trong kinh nghiệm bản thân : “Vị Thầy của các tiến sĩ dạy chúng ta không bằng những tiếng vang động. Tôi không hề nghe Người nói, song tôi biết Người ở trong linh hồn tôi.

Mọi lúc Người hằng hướng dẫn và cảm hứng cho tôi, và là vào đúng những lúc tôi cần, những ‘soi sáng’ mà cho tới đó tôi không hề thấy. Hầu hết không phải là những lúc cầu nguyện mà là khi tôi làm việc hằng ngày” (Truyện Một Tâm Hồn, chương 8).

Có được phần giữa Nước Trời rồvì “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” thì không còn bận tâm lo lắng tới những vấn đề thời giờ, lúc nào và nơi chốn, đang ở kia kìa hay đang ở đây này : “Lạy Chúa, ở đâu ?”. Người Pharisêu đã hỏi Chúa khi nào Nước Thiên Chúa đến (câu 20). Giờ đây, sau khi nghe Chúa cắt nghĩa, tò mò tự nhiên, các môn đệ cũng hỏi “Sẽ xẩy ra… ở đâu ?”.

Bận tâm chuyện xảy ra ở đâu lúc nào làm quên phéng ngay đi chuyện hoán cải, đổi mới con người ngay từ hôm nay, lúc này, phút giây hiện tại… cảm nghiệm ngọt ngào, gặp gỡ Chúa.

Trước sau gì rồi cũng gặp Chúa thì gặp Chúa ngay từ đời này đi cho cuộc sống vui tươi hạnh phúc tưng tửng. Luôn tỉnh thức đáp lại tiếng Chúa gọi : Này con đây đã sẵn sàng.

“Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó”. Hồi nhỏ tôi nghe câu này thì được giải thích là có Chúa (Bí tích Thánh Thể) ở đâu thì tình yêu lôi cuốn hấp dẫn mọi người tìm đến.

Bây giờ lại nói danh từ Hy lạp có nghĩa phượng hoàng hay là diều hâu. Với bất cứ nghĩa nào, câu cách ngôn này cũng nói tớitính cách nhanh chóng : như chim chụp bắt mồi bất thần nhanh chóng thế nào thì việc Người đến lần thứ hai hay cuộc phán xét sau cùng sẽ bất thần và bất ngờ như vậy.

Về ngày và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh  em. Vì chính anh  em đã biết rõ : ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5,1-2).

Hoặc giải thích (BPVCGK) nữa là những con chim ăn thịt hay xuất hiện trong những đoạn Cựu Ước về cuộc phán xét (Is 18,6 ; 34,15 ; Gr 7,33 ; 12,9 ; 15,3 ; Ed 39,17).

Đức Giêsu trả lời các môn đệ về nơi chốn : Ở đâu có xác, thì ở đó có diều hâu, nghĩa là cuộc phán xét xảy ra ở bất cứ nơi nào ; nói cách khác : không ai có thể thoát khỏi cuộc phán xét.

Vậy thì dấu hiệu đã sống Nước Trời ở khúc giữa ngay hôm này : “đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu- đó là : chúng ta phải yêu thương nhau. Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là : anh em phải sống trong tình thương”.

ÔTC

Edit  https://tramtubensuoi.blogspot.com/2018/11/nuoc-troi-o-khuc-giua-ngay-hom-nay.html

CHÚNG TA SẼ NGHE VÀ NHÌN TRÊN THIÊN ĐÀNG

CHÚNG TA SẼ NGHE VÀ NHÌN TRÊN THIÊN ĐÀNG

Charles E. Miller

Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời.  Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy.  Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9.  Ông đã không nghe một nốt nào.  Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ.  Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình.  Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình, và Edison ở trong phát minh của mình.  Beethoven biết tốt hơn.  Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời.”  Ông ta nói rất đúng.

Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông.  Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận.  Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời.  Lời đó chính là Con Thiên Chúa.  Edison liều lĩnh phát minh ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc.  Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien.  Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc.  Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù.  Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi.”  Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.

Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy.  Và cả chúng ta cũng như thế nữa.  Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay.  Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.

Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie.  Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người.  Nó tấn công con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già.  Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp, và những dân nhập cư.

Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế.  Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam.  Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành.  Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi.  Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời.”  Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.

 Charles E. Miller

Trích trong “Mở Ra Những Kho Tàng”  

From Langthangchieutim

Còn có chỗ nào đâu mà nhớ đến Chúa

Còn có chỗ nào đâu mà nhớ đến Chúa

Lc 17,7-10 ; Tt 2,1-8.11-14

Bản văn bài Tin Mừng nếu chỉ là lời khuyên răn để sống khiêm tốn, chôn vùi, xóa mình thì chẳng có giá trị bao nhiêu.

Vậy xét về mặt tâm linh, đức tin thì cần phải sống thế nào ?

Đời sống tự nhiên

Ngày nay trong thế giới văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực nên con người đối xử với nhau cách sòng phẳng, chẳng cần ai biết ai, chẳng cần ai nhớ công ai, giám đốc và công nhân chẳng có liên quan dính dáng gì tới nhau… mỗi ngày anh đến đúng giờ, làm việc đủ giờ, năng xuất đúng tiêu chuẩn, sản phẩm đạt chuẩn mẫu… cuối tháng lãnh lương… có trục trặc thì xé hợp đồng thế là xong !

Trong các gia đình thuê người giúp việc (ô sin) cũng thế, vẫn vẫn cứ sòng phẳng để khỏi nghĩ ngợi. Nhưng cũng có những trường hợp chẳng những ông bà chủ không biết ơn mà còn khinh rẻ, chửi mắng, đánh đập…

Trong các sinh hoạt tôn giáo nhiều nơi cũng thế thôi. Phụ giúp một chút gì trong công việc chung giáo xứ hay nhà thờ cũng vẫn có lương, không trả bằng cách này cũng trả bằng các khác. Còn đối với chúng tôi ở đây thì những thời giờ, công sức bỏ ra, chúng tôi không có lương nhưng mỗi dịp lễ hội lớn bé chúng tôi đều được vị có trách nhiệm cám ơn cách long trọng… rất là hãnh diện !nếu có bị quên sót thì chúng tôi rất buồn và vị có trách nhiệm phải xin lỗi lên xin lỗi xuống !

Đời sống tâm linh

Bài Tin Mừng này nói đến đầy tớ đi cày, đi cày là đầy tớ đấy, ấy thế mà người được Chúa yêu thương lại cứ thích người khác phải tôn lên, gọi mình là Ông Thợ Cày cơ !

“Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ…?”.

Chúng tôi đi tham dự thánh lễ hằng ngày, chúng tôi lần hạt dài mấy cây số, chúng tôi thực thi bác ái từ thiện khắp nơi, chúng tôi tập tành các nhân đức ngày đêm, chúng tôi lãnh nhận các bí tích đều đặn, chúng tôi hy sinh hãm mình ăn chay khổ chế… để khi chết, chúng tôi được lên chốn nghỉ ngơi, sáng láng vui vẻ vô cùng amen. 

“Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ…?”.

“Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến’ (Lc 13,26-27) 

“Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ…?”.

 

Chọn Chúa hay chọn việc làm của Chúa ?

Thưa rằng là chọn Chúa ạh !

Đây là điều căn bản trong đời sống đạo mà ít người cảm nhận được.

Chọn Chúa là sống gắn bó nghĩa tình với Chúa trong cuộc sống hằng ngày mọi nơi mọi lúc…

Có người phản ứng lại là có rảnh rang nhàn rỗi, có của ăn của để như..Ông Thợ Cày thì mới thực hành được…

chứ còn như chúng tôi từ sáng sớm đến tối khuya, đầu tắt mặt tối bao nhiêu chuyện phải lo lắng, rồi bận tâm bận trí suốt cả ngày…

 thì còn có chỗ nào đâu mà nhớ đến Chúa, kết hợp mật thiết với Chúa hở ?

Thế là người được Chúa yêu thương tịt, cứng họng, không trả lời được.

Từ đời sống chọn Chúa là gia nghiệp, khi ra với những việc làm hằng ngày, sẽ trở thành những việc làm của Chúa chứ không phải là việc làm của mình nên không có tự mãn“chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”.

Bởi vì sống với, sống trong, sống cùng với Đức Kitô thì đã được lấp đầy rồi nên có làm việc nhiều hay làm việc ít thì cũng vẫn cảm thấy nhưchẳng làm gì cả. Tức là không có cảm giác lâng lâng tự hào tự mãn, ngồi bấm đốt ngón tay vì những việc mình đã làm.

Chúng tôi, những người đã được Chúa thánh hiến vì chúng tôi đã dâng hiến trót cả bản thân mình trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội và đặc biệt là trong ngày khấn hứa, tuyên hứa, cam kết… từ nay hoàn toàn thuộc về Chúa, hiểu ngầm bên trong là trao tặng cả bản thân mình cho tha nhân mặc dù không nói ra.

Chúng tôi, những người lăn lội giữa biển đời… cứ tưởng mình là giáo dân hạng hai… hóa ra mình cũng đucợ Chúa thánh hiến trò đầy ngay từ khi còn trong lòng mẹ:

Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi,
Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân
  (Gr 1: 5)

Thánh hóa để tôi cũng hoàn toàn thuộc trọn về Chúa.

Tuy bên ngoài, tôi phải từ sáng sớm đến tối khuya, đầu tắt mặt tối, bao nhiêu chuyện phải lo lắng, rồi bận tâm bận trí suốt cả ngày…

Nhưng ngay cả khi bận rộn suốt ngày như vậy, tôi vẫn thảnh thơi …trong tâm hồn…

 lâu lâu lại nhớ rằng: Chúa đang cùng đồng hành với mình mà…

Như thế là tôi đã chọn Chúa làm ưu tiên trong cuộc sống của mình…

Không còn cảnh bận tâm bận trí suốt cả ngày…đến nỗi thành tâm thần luôn.

OTC 

Nguồn   https://tramtubensuoi.blogspot.com/2018/11/con-co-cho-nao-au-ma-nho-en-chua.html

SỐNG VỚI ƠN LO LIỆU CỦA CHÚA THÁNH THẦN     

SỐNG VỚI ƠN LO LIỆU CỦA CHÚA THÁNH THẦN     

  1. Lịch sử như một dòng chảy. Dòng chảy này hiện đang diễn biến phức tạp và nguy hiểm, với những bất ngờ đau đớn.

Tôi trôi giữa dòng chảy đó. Tôi rất lo. Chúa thương xót tôi, nên dạy tôi hãy biết sống với ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần.

Với ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần, tôi coi việc bám vào Chúa là hết sức quan trọng.

  1. Tôi bám vào Chúa là tôi tin Chúa, tôi cậy trông Chúa, tôi gắn bó với Chúa.

Chúa, mà tôi tin cậy mến là Đấng quyền năng, giàu lòng thương xót. Ngài là Tình yêu. Ngài cho tôi được gọi Ngài là Cha.

Tôi biết dòng chảy của lịch sử sẽ chuyển động. Có quãng sẽ như thác đổ. Có quãng sẽ như triều cường với những sạt lở ghê gớm. Có quãng sẽ như biển động với những sóng ngầm dâng cao.

Chúa gọi tôi hãy bám chặt lấy Chúa. Nếu tôi không bám vào Chúa, thì lỗi tại tôi. Nếu tôi lại bám vào những gì khác, thì quả là quá dại.

  1. Với ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần, tôi cũng coi việc tôi bám vào Đức Mẹ, vào thánh Giuse là hết sức quan trọng.

Xưa Đức Mẹ và thánh Giuse đã sống trong một dòng lịch sử rất phức tạp, rất nguy hiểm, với những bất ngờ đau đớn. Các ngài đã bám chặt vào Chúa với ơn lo liệu Chúa ban cho. Nên các ngài đã trải qua một hành trình dài, cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa một cách trung tín và khôn ngoan.

  1. Với ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần, tôi cũng coi việc tôi bám vào Hội thánh Chúa là rất quan trọng. Vì thế, tôi thận trọng xa tránh những gì xúi giục tôi chống phá Hội thánh bất cứ cách nào, cách riêng những gì đó là các thứ đạo đức giả.
  2. Với ơn lo liệu của Chúa Thánh Thần, tôi cũng coi sự tôi nhận biết những yếu đuối của tôi là rất lớn, để có những lo liệu sao cho thích hợp với các gánh nặng tôi phải vác.

Theo tôi, gánh nặng lớn nhất của tôi là chính tôi. Với biết bao giới hạn, với biết bao yếu đuối về mọi phương tiện. Vì thế, biết lo liệu là hãy sống đơn sơ với những gì bé nhỏ, với những gì âm thầm, với những gì thu gọn.

Chẳng hạn, trong mỗi ngày có khá nhiều tài liệu được gửi tới tôi, tôi biết mình không có sức đọc hết được, nên phải biết chọn lựa hợp với sức mình và hợp với nhiệm vụ của mình. Đó là biết lo liệu mà Chúa muốn.

  1. Biết lo liệu, mà Chúa dạy tôi còn là biết nhận mình là kẻ tội lỗi. Hội thánh giúp tôi điều đó với kinh thú tội:

“Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em.

Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.

Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Vì vậy, tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta”.

  1. Khi đọc kinh thú tội trên đây, với ơn Chúa Thánh Thần, tôicảm được thấm thía mình phải rất khiêm nhường và rất yêu thương.

Đừng bao giờ kết án ai. Đừng tìm cách đổ lỗi cho người khác. Đó là một sự lo liệu đạo đức, mà Chúa muốn tôi phải có trong hành trình sống của mỗi ngày và của suốt cuộc đời. Ở đây, tôi nhớ lại dụ ngôn: “Hai người lên đền thờ cầu nguyện” mà Chúa Giêsu đã nêu lên, để nhấn mạnh đến khiêm nhường và yêu thương, như một ơn lo liệu cần thiết (x. Lc 18, 10-14).

  1. Thú thực là yêu thương và khiêm nhường không bao giờ là hành trình dễ dàng cho hành trình đời tôi. Có thể là đối với ai cũng vậy. Vì thế, mà tôi luôn xin Đức Mẹ thương giúp tôi. Với Đức Mẹ ở bên, tôi cảm thấy yêu thương và khiêm nhường, tuy rất khó, nhưng lại rất vui.
  2. Cảm thấy vui, đó cũng là một ơn Chúa Thánh Thần hay ban cho con cái Chúa. Tôi có ít nhiều kinh nghiệm về điều đó. Chúa đã ban cho tôi qua những người lo cho tôi. Ở đây, tôi nhớ lại cách đặc biệt Đức cố Hồng Y Phanxicô XaviêNguyễn Văn Thuận. Ngài là bạn thân của tôi. Ngài biết tôi hay sợ, lại được Chúa sai vào những hoàn cảnh khó khăn. Nên ngài luôn tìm cách làm cho tôi vui. Ngài lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ. Luôn với nụ cười, luôn với những lời trấn an, luôn với những giúp đỡ tế nhị nhất.
  3. Từ những kinh nghiệm như thế, tôi nhận ra điều này: Có được những người bạn tốt, những người cộng tác trung tín và khôn ngoan, thì đúng là một lo liệu hết sức quí báu cho hành trình cuộc đời.
  4. Hạnh phúc cho tôi là tôi được Chúa lo liệu cho về phương diện đó. Tôi có những người bạn tốt, tôi có những người cộng tác trung thành và khôn khéo. Họ ở gần và họ ở xa. Họ ở trong công giáo và họ ở ngoài công giáo.
  5. Chúa đang lo liệu cho tôi, để biết phục vụ Chúa trong thời điểm khó khăn này. Chúa đang lo liệu cho mọi người tin cậy Chúa sẽ luôn được gặp Chúa, dù cho thời thế bùng nổ những bất ngờ nguy hiểm.
  6. Biết lo liệu cho những tình huống khó khăn. Đó là điều tôi tự nhủ, và xin được nhắn gửi anh chị em.
  7. Lo liệu tốt nhất là hãy bám vào Chúa,để nhờ Chúa mà tập trung vào bổn phận chính yếu của mình, và biết bám vào những ai mà Chúa muốn.

Long Xuyên, ngày 12.11.2018 

+ Gm. Gioan B Bùi Tuần

 From NguyenNThu

NHỮNG CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG

NHỮNG CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG

Người ta thường có một thái độ rất mông lung trước cái chết.  Một đàng người ta không muốn nhắc đến nó, vì sợ rằng sẽ có điều không may xảy đến, nhưng đàng khác, người ta lại rất tò mò về nó, muốn tìm hiểu và khám phá nó.  Dù sao đi nữa, dù có muốn hay không, chúng ta đều biết rằng một ngày nào đó mình sẽ phải đối diện với cái chết.  Cái chết trở thành một phần của sự sống, của thân phận thụ tạo.  Nó là điểm chấm hết cho một cuộc hành trình.  “Cái chết” là một từ ngữ buồn bã.  Nó làm tắt đi tất cả nguồn sức sống, sinh lực.  Nó đưa ta về với vùng trời u ám mà chẳng ai muốn vào.  Tuy nhiên, giữa cuộc sống này, “cái chết” lại mang rất nhiều màu sắc.  Nói cách khác, có rất nhiều loại “chết”, trong đó, có cái làm ta buồn, nhưng cũng có cái làm cho ta được trở nên giá trị hơn.

Kiểu chết mà ta nghĩ đến đầu tiên là cái chết sinh học.  Cái chết này mang đến cho người ta sự tang thương chia cắt.  Bản thân người chết lẫn người thân của họ đều phải đối diện với sự tang tóc, đau buồn.  Cái chết này làm người ta đặt dấu hỏi về ý nghĩa của sự hiện hữu trên đời.  Có đó rồi mất đó.  Từ bụng mẹ chui ra rồi trở về lòng đất.  Có một thời ta đã không hiện hữu, rồi sau một thời gian ngắn được hít thở chút không khí, ta lại trở về với cái “không hiện hữu”.  Ta có thể còn tồn tại không ký ức, trong nỗi nhớ, nơi kỷ niệm, nhưng ta giờ đây chẳng còn là gì nữa.  Một thoáng mây bay, một kiếp hoa dại.  Cái chết này cho thấy sự mỏng dòn, yếu đuối của bản thân.  Nó đập tan tất cả mọi tham vọng, ngạo nghễ.  Nó sẽ ập đến bất cứ lúc nào nó muốn, không phân biệt thanh xuân hay tuổi già; giàu sang hay nghèo khổ; thông minh hay ngu dốt; khoẻ mạnh hay bệnh tật…  Nó là kẻ thù đáng sợ nhất của con người và mãi mãi, con người chẳng bao giờ có thể chiến thắng được nó.  Còn mang thân xác này, là còn phải đối diện với nó vào một khoảnh khắc nào đó ta chẳng hay.

Cái chết thứ hai là kiểu chết về tinh thần.  Cái chết này không làm cho người ta tắt thở, không đưa người ta vào lòng đất, nhưng đục khoét con người và làm cho con người “sống không bằng chết.”  Đó là khi người ta mất hết nhuệ khí, chẳng còn hy vọng.  Người ta chỉ có đó, hít thở không khí, chứ chẳng hề “sống” thật sự.  Từng ngày tháng dài trôi qua một cách vật vã.  Người ta không thấy được ý nghĩa của cuộc sống, không biết mình hiện hữu để làm gì, không biết tại sao mình lại được sinh ra trên đời, và đặc biệt, họ không thấy mình được yêu thương.  Họ chẳng biết yêu là gì.  Không được sưởi ấm và che chở bởi tình cảm nhân sinh.  Họ chỉ sống bằng một thân xác chơ vơ, ngày ngày kiếm sống như bao loài động vật khác.  Họ bị cô lập hoặc tự mình cô lập trong thế giới này.  Họ nhốt mình trong quá khứ buồn, trong những ký ức xa xưa, đến nỗi chẳng còn một ý chí thúc đẩy họ vươn tới, hướng về tương lai phía trước.

Cái chết thứ ba mang tính luân lý và tôn giáo.  Đó là cái chết của người không còn sống theo tiếng lương tâm ngay lành mách bảo.  Họ chẳng còn ý thức gì về sự chính trực, sự công bằng, về đạo đức.  Họ phạm tội này đến tội khác nhưng cứ xem đó như là niềm hãnh diện của mình, chứ không ý thức rằng, cứ mỗi lần phạm tội là họ tự chà đạp nhân phẩm của mình, làm cho sự hiện hữu của mình mất đi ý nghĩa.  Cứ để ý mà coi, người ta càng sống trong tội, càng cảm thấy bất an, sợ sệt.  Còn người nào càng tích trữ nhân đức cho mình thì càng sống cách an nhiên, tự tại, vui sướng.  Khi người ta thấy hạnh phúc, là khi sự sống trong họ trở nên trào tràn, họ thấy mình sung mãn năng lượng để vui hưởng cuộc sống.  Người nào không đặt đời mình trên nền tảng các nhân đức thì sẽ thấy những gì mình làm chẳng có giá trị tốt đẹp nào cả.  Càng sống trong đầm lầy của tội, người ta càng tự thấy mình dần chết đi.  Chính họ, chứ không phải ai khác, kết án mình và huỷ hoại sự sống của mình.

Cái chết cuối cùng đáng được nhắc tới lại có âm vị khác hẳn.  Nó là cái chết mà ai ôm ấp nó thì trở thành anh hùng và sống mãi trong trái tim của mọi người.  Người ta thường gọi cái chết thứ tư này bằng hai chữ rất thân thương: hy sinh.  Hy sinh là tiêu hao đi, là chịu thiệt thòi (vốn dĩ là những điều chẳng ai muốn), nhưng người ta chấp nhận nó vì một mục đích cao cả, và người ta chỉ có thể đón nhận nó bằng lực đẩy của tình yêu.  Phải, cái gì gắn liền với tình yêu thì luôn cao đẹp.  Điều kỳ lạ là, cứ mỗi lần người ta “chết” theo kiểu này, người ta lại càng cảm thấy như mình đang sống và sống cách sung mãn hơn, đến nỗi có thể nói như thế này: muốn sống thì phải biết hy sinh, phải biết chết đi để được sống.  Sống giữa đời, nếu không có những kiểu “chết” này thì cũng sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.  Cuộc sống của chúng ta có trở nên đẹp, chính là nhờ cái chết này.  Dù là nhỏ nhoi, dù là ít ỏi, nhưng mỗi lần ta hy sinh lợi ích của mình cho người khác, sự mất mát đó lại trổ sinh hoa trái, sự sống trong ta lại trở nên dồi dào và ta cảm thấy có một niềm vui thiêng liêng nào đó tràn ngập tâm hồn không sao diễn tả nổi.

Chúng ta sẽ là “người” hơn khi biết hy sinh cho nhau.  Đó không chỉ là bí quyết của cuộc sống mà còn là ơn gọi, là sứ mạng, là mệnh lệnh của Tạo Hoá dành cho chúng ta.  Khi ta tự nguyện thực hành những hy sinh trong cuộc sống, sự sống của ta trở nên đong đầy, đến nỗi, cả khi phải đối diện với cái chết sinh học, ta chẳng còn cảm thấy sợ hãi nữa; ta sẽ thấy mình được đong đầy bởi tình yêu nên cũng không còn cái chết tinh thần; và nhờ tích góp nhiều nhân đức, ta cũng thoát khỏi cái chết luân lý.  Một chút hy sinh ở đời này là góp phần dựng xây hạnh phúc ở đời sau.  Hay đúng hơn, ngay khi ta biết hành động với tình yêu trong những sự hy sinh nhỏ bé, chính là ta đã nếm được sự viên mãn của tâm hồn rồi.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From Langthangchieutim

Làm thế nào để nghe tiếng Chúa khi (bạn nghĩ) Ngài thinh lặng?

 Làm thế nào để nghe tiếng Chúa khi (bạn nghĩ) Ngài thinh lặng?

Dường như có một mẫu sẵn về cách thức Thiên Chúa nói với chúng ta. Đôi khi, chúng ta nghĩ về cuộc hoán cải của Sa-un (tên cũ của thánh Phao-lô), người đã nghe tiếng Thiên Chúa qua những đám mây: “Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Có những lúc chúng ta chờ đợi và muốn nghe tiếng của Ngài khi chúng ta cảm thấy bối rối và cần câu trả lời. Ngày nay, tôi không nghĩ rằng sẽ không thể nghe tiếng Chúa theo nghĩa đen. Tôi biết nhiều người nói rằng họ đã nghe tiếng Chúa và mô tả cách thức họ đã nghe như thế nào.

Tuy vậy, sẽ rất nguy hiểm, nếu chúng ta bị cuốn vào những ý tưởng đó mà chính chúng ta không nghe thấy tiếng Thiên Chúa xung quanh chúng ta. Thực vậy, chúng ta thường chờ đợi những khoảnh khắc ‘ngoại thường’ mà chúng ta bỏ lỡ những cách thức mà Thiên Chúa đang nói với chúng ta.

Chúng ta có thể làm gì để khắc phục những lúc như vậy? Trước hết, chúng ta nên biết rằng việc học cách nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa không phải là chuyện một sớm một chiều, nhất là khi chúng ta đã bị định hình bởi một ý tưởng nào đó trong một thời gian dài. Thứ đến, ngay cả khi chúng ta học cách nghe Ngài nói với chúng ta, thì chúng ta vẫn bị lôi cuốn vào những chuyện thường ngày mà có thể dễ dàng bỏ lỡ tiếng Chúa. Chúng ta cần phải dành thời gian và phải có một trái tim quảng đại và tâm trí rộng mở mới có thể nghe được lời Ngài.

Sau đây là 5 cách mà chúng ta có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa.

  1. Một trực giác:

Chúng ta thi thoảng cũng có một “cảm giác” phải làm gì đó mà chúng ta không biết tại sao. Cảm giác ấy có thể là phải rời xa ai hay một tình huống nào đó, phải cầu nguyện cho ai đó, hoặc cảm thấy một điều gì đó sắp xảy ra và bạn cần sự trợ giúp của người khác. Một trong những kinh nghiệm về trực giác gần đây nhất của tôi là khoảng bốn tháng trước. Tôi đã có mặt tại một hội nghị và có cơ hội tuyệt vời để gặp Hallie Lord và nhận được cuốn sách đã được cô ấy ký tên: “Phía sau sự sợ hãi: Cách Tôi Tìm Thấy Bình An”. Trong khi xếp hàng, tôi cảm thấy cần phải gửi một bản sao cho người bạn linh mục của tôi. Tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi chỉ biết là phải làm điều ấy. Vào sáng thứ Hai sau đó, tôi đã đi đến cửa hàng chuyển phát nhanh và gửi nó cho cha bạn, cuốn sách được ký bởi Hallie và với một lưu ý giải thích lý do tại sao tôi đã gửi nó cho cha. Khoảng một tuần sau, tôi nhận lại được một tin nhắn từ cha với nội dung: linh tính của tôi rất đúng và cha ấy đã tìm thấy một cuốn sách chứa đầy sự khôn ngoan. Khoảnh khắc đó làm tôi xác tín rằng Thiên Chúa thực sự nói với chúng ta qua “trực giác”.  Hãy lắng nghe nó, theo dõi nó, vì chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta.

Woman, 32 years old, with open arms raised to angel in the clouds

2.Âm thanh của thế giới xung quanh chúng ta:

Đôi khi, chúng ta không thấy Thiên Chúa đáp lời, vì đã có những lần chúng ta không cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta ước ao có được “cảm nghiệm trọn vẹn” về Thiên Chúa sau khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, hoặc gặp gỡ Ngài khi xưng tội. Nhưng chúng ta lại không có được những cảm giác ấm áp, yêu thương, vui tươi và yên bình trong tâm hồn mình. Nếu bạn gặp giằng có như thế, bạn hãy thử nhìn ngắm thế giới xung quanh bạn. Chắc chắn, có rất nhiều điều trong thế giới này chưa được đẹp. Nhưng cũng có rất nhiều điều tuyệt vời là một phần công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Đó là cầu vồng trên bầu trời sau cơn bão, âm thanh của tiếng chim hót líu lo, một đứa trẻ cười, sóng biển vỗ bờ, và mặt trời chiếu sáng trên chúng ta, giúp chúng ta có ánh sáng và có cuộc sống tốt đẹp. Hãy nhìn vào tất cả những điều đẹp ấy và nhớ rằng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Thậm chí chỉ cần học biết cách thức thế giới hoạt động như thế nào, một hệ thống hoạt động phức tạp có thể minh chứng cho sự vĩ đại của Thiên Chúa. Khi nhìn thấy những gì chúng ta có thể làm, chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu hơn Thiên Chúa thực sự là ai.

  1. Hành động giữa người khác:

Trong tác phẩm Những Người Cùng Khổ, Victor Hugo viết rằng: “Yêu người khác là phải nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa” và khi chúng ta nhìn mọi người với lòng yêu thương, và sống tử tế với người khác, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa tỏ lộ nơi người ấy. Thiên Chúa là tình yêu, cho nên tất cả mọi hành động yêu thương thực sự phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa. Ngay cả khi một người nào đó thực hiện những hành động yêu thương mà chưa nhận ra Thiên Chúa, thì tôi cũng chẳng nghi ngờ rằng Thiên Chúa đang làm việc thông qua người đó.

  1. Cầu nguyện:

Liệu đây có phải là một gợi ý đúng đắn hay không? Nhưng hãy nghĩ về điều này… làm thế nào có động lực để cầu nguyện khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa? Đôi khi chúng ta cảm thấy như chúng ta đang rơi xuống tận đáy vực thẳm của công việc. Nhưng còn hơn như thế…vào một ngày khác, liệu chúng ta chỉ cảm thấy thường thường thôi chăng? Không phải lúc nào chúng ta cũng cầu nguyện, nhưng hãy nhớ: đôi khi Thiên Chúa chỉ chờ chúng ta hướng lòng lên Ngài để Ngài có thể nói chuyện với chúng ta. Hoặc, có lẽ chúng ta cần thử áp dụng một cách thức cầu nguyện cụ thể: lắng nghe nhiều hơn là nói. Cầu nguyện là một cuộc trò chuyện với Thiên Chúa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta luôn là những người nói thao thao bất tuyệt. Thực vậy, làm thế nào chúng ta có thể nghe tiếng Chúa khi chúng ta không cho Ngài cơ hội để nói chuyện? Điều này không có nghĩa là chúng ta KHÔNG BAO GIỜ nên nói với Thiên Chúa những gì chúng ta đang trải qua. Chúng ta nên thân thưa với Ngài, và Thiên Chúa cũng muốn chúng ta làm như vậy. Tuy nhiên, Ngài cũng muốn chúng ta hướng lòng lên Ngài, vì có thể chúng ta chỉ nghe thấy tiếng Ngài trong sự thinh lặng của tâm hồn. Ngoài ra, chúng ta cũng nên viếng Thánh Thể. Hãy ở cùng Ngài trong sự hiện diện đích thực của Ngài. Còn điều gì tuyệt hơn những giây phút đó?!

  1. Kinh Thánh:

Một trong những cách cầu nguyện yêu thích của tôi là Lectio Divina. Về cơ bản, đó là cách đọc cẩn thận bản văn Kinh Thánh, hiểu bản văn, suy gẫm ý nghĩa bản văn, và cầu nguyện với bản văn. Hãy để tôi nói cho bạn cách cầu nguyện này tuyệt vời như thế nào! Ngay cả khi bạn đã đọc cùng một đoạn 20 lần, Thiên Chúa vẫn có khả năng chỉ ra điều gì đó cho bạn mà bạn chưa từng nhận ra trước đây. Sau hết, bạn nên đọc Lời Chúa, đọc ngay cả khi đó không phải là Chúa Nhật và để cho Ngài nói chuyện với bạn. Hãy nhớ … có thể không phải là Ngài im lặng … nhưng có thể là chúng ta không lắng nghe.

Nguồn: https://catholic-link.org/how-to-hear-god-when-you-think-he-is-being-silent/

Chuyển ngữ: Pr. Nguyễn Văn Đương, S.J.

ÁNH MẮT THIÊN CHÚA

ÁNH MẮT THIÊN CHÚA

TGM Ngô Quang Kiệt

 Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra ánh mắt thế ấy. 

Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ.

Người đã thấy, và đã phán đoán và có thể thấy được tâm hồn của người dâng cúng tiền.

Hàng hàng lớp lớp người đến dâng cúng. Chúa quan tâm tới người bé nhỏ.

Tin Mừng thuật lại: “Có những người bỏ thật nhiều tiền. Có một bà góa nghèo khó đến bỏ vào đó 2 đồng tiền kẽm, trị giá ¼ đồng bạc Roma”.

Thật lạ lùng, biết bao nhiêu người bỏ rất nhiều tiền mà Chúa chẳng quan tâm, mà chỉ quan tâm đến một người nghèo nhất, đó là một bà góa ăn mặc rất đơn sơ.

Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ người đàn bà nghèo khó lạc giữa đám đông. 

Với Trái Tim Nhân Hậu và Ánh Mắt yêu Thương nên Chúa đã nhìn thấy nơi người bàn đàn nghèo khó ấy có một tấm lòng vĩ đại.

Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. 

Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút tiền bạc dư thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”…

Chúa đã nhìn thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.

Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi, vừa dậy dỗ tôi về cách sống đạovà về cách nhìn người.

Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giầu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy chú ý đến những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội.

Đừng xét đoán người theo hình thức bề ngoài, hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người.

Có những người địa vị cao sang, nhưng tâm hồn lại thấp hèn.

Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng.

Có những người giầu có nhưng rất bủn xỉn.

Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.

Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình, vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. 

Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa.

Đùng khoe khoang, kiêu ngạo. Vì Chúa chỉ yêu thích những tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường.

Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.

 * Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em. Amen.

         TGM   Ngô Quang Kiệt.    

From Tramtubensuoi