CẢM THƯƠNG LÀ CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ

CẢM THƯƠNG LÀ CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ

  1. Tôi rất đau khổ, cả phần xác lẫn phần hồn. Đau khổ nào cũng khủng khiếp, gây nên cô đơn sâu thẳm.
  2. Trong mọi đau khổ, tôi không ngừng cầu xin Chúa thương đỡ nâng tôi. “Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời”. Bài hát đó của Dao Kim thường âm ỷ trong tôi.
  3. Rất thực là Chúa đã nâng đỡ tôi suốt cuộc đời dài. Tôi cảm được rất rõ Chúa xót thương tôi. Tôi gọi sự Chúa nâng đỡ tôi suốt cuộc đời là dòng chảy ơn cảm thương Chúa dành cho tôi, để cứu độ tôi.
  4. Cảm thương và thương cảm, đó là những đợt sóng, lúc lớn lúc nhỏ, lúc nổi lúc chìm, luôn hoạt động trong tôi.
  5. Tôi nhận được sự cảm thương nơi nhiều người Chúa dùng để cứu tôi. Cảm thương của họ rất là trong sáng. Tôi cảm được tình thương của họ một cách dễ dàng, tư riêng và cao quí.  6.Tôi nhận được sự cảm thương từ nhiều giống vật. Như mấy con chó của tôi luôn gắn bó, trung thành. Như đàn chim sẻ hằng ngày bay đến gần tôi, để xin ăn nuôi mình và nuôi nhau. Cảnh con mẹ mớm mồi cho con nhỏ rất nhiều lần đã mở lòng tôi ra, để đón nhận ơn thương cảm của Chúa.
  1. Tôi cũng nhận được sự cảm thương từ nhiều cây cốitrước mặt tôi. Có những cành những lá những hoa tự rụng xuống, như để nhường sức sống cho những cành, những lá, những hoa mới mọc, còn non. Chúng như cảm thương nhau, một cách tự nhiên, lặng lẽ.
  1. Một cách đặc biệt, tôi nhận được sự cảm thương nơi vô số người gần xa. Họ đối xử với nhau bằng cảm thương sâu sắc chân thành.

Biết bao người đã dám chết đi cho người khác, coi đó là hạnh phúc đời mình.

Biết bao người đã coi sự mình biết cảm thương những người đau khổ chính là ơn gọi cao quí Chúa dành cho mình. Nếu được tự hào, thì họ tự hào về ơn đó.

  1. Riêng tôi, càng về già, thì càng nghĩ tới sự chết. Mà nghĩ tới sự chết thì tự nhiên nghĩ tới sự Chúa phán xét, để được thưởng hay bị phạt.

Phán xét của Chúa sẽ theo tiêu chuẩn nào? Thưa: Theo sự người ta có cảm thương người đau khổ hay không. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng và chắc chắn về tiêu chuẩn cảm thương người đau khổ trong Phúc âm thánh Mátthêu:

“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người. Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê thì bên trái.

       Bấy giờ Đức vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp đón; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.

       Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. Có bao giờ Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu.

       Để đáp lại, Đức vua sẽ bảo họ rằng Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31-40).

  1. Với những lời Chúa phán trên đây, Chúa dạy chúng ta điều quan trọng này: Ai cảm thương những người đau khổ, thì được Chúa kể như là cảm thương chính Chúa. Chúa ở trong những người đau khổ. Do đó, mà kẻ cảm thương sẽ được Chúa thưởng phúc thiên đàng.
  2. Rồi, Chúa phán tiếp: “Ai không cảm thương những kẻ khổ đau, thì bị Chúa kể như không cảm thương chính Chúa. Do đó, họ sẽ bị Chúa phạt phải xuống hỏa ngục”(Mt 25, 41-46).
  3. Chúng ta có quan tâm đủ đến luật cảm thương, mà Chúa đã dạy không? Chúng ta sẽ thi hành luật đó tại Việt Nam hôm nay thế nào? Thiết tưởng chúng ta cần cầu nguyện và tỉnh thức.
  4. Nếu chúng ta thực sự cầu nguyện và tỉnh thức, chúng ta sẽ được Chúa cho thấy: Cảm thương là con đường cứu đạo, cứu đời, cứu chính bản thân mỗi người.
  5. Đơn sơ thế thôi, nhưng cảm thương như Chúa dạy đâu là chuyện dễ. Chính vì vậy, mà rất cần tìm đỡ nâng ở Chúa. “Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời”. Và thực sự Chúa đã đỡ nâng tôi từng giờ, từng phút, từng giây.
  6. Chúa nâng đỡ tôi một cách đặc biệt, đôi khi chỉ bằng một lời Chúa hứa:

“Phúc thay ai xót thương người,

       Vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5, 7).

Xót thương, cảm thương, đó là tiếng Chúa gọi chúng ta. Chúa đợi chúng ta trên con đường đó.

Long Xuyên, ngày 14.1.2019

+ Gm. Gioan B BÙI TUẦN

From: vongtaysongnguyen & NguyenNThu

CHỨNG TỪ ĐỨC TIN THỜI INTERNET

CHỨNG TỪ ĐỨC TIN THỜI INTERNET

 Trước lễ Hiển Linh vừa qua, tôi đã trải qua một ngày Thứ Bảy rất cảm kích.

Mười giờ sáng, có tiếng gọi cửa dồn dập. Nhìn ra, vườn nhà hưu dưỡng Tòa giám mục Qui Nhơn nắng đẹp như đón chờ lễ Hiển Linh, lễ của ánh sang, đang đến vào hôm sau. Tôi mở cửa. Không phải ba đạo sĩ nhưng là ba phụ nữ, so với khung cảnh nhà chung này, cũng cổ quái không thua gì các đạo sĩ từ phương Đông. Hai người đã trên sáu mươi, y phục cư sĩ Phật giáo, màu lam, vai mang tay nải. Người thứ ba là một nữ tu trẻ dòng Mến Thánh Giá, nhân viên của quầy sách… Chị đẩy hai vị khách vào. Có việc gì đây? Hai vị khách khệ nệ đặt xuống mười chai nước lớn và sáu cây nến màu vàng có dán hình thập giá màu đỏ.

– Xin cha làm phép giúp chúng con.

– Nhưng đầu đuôi câu chuyện thế nào ạ?

– Thưa cha, hai bà này người lương. Họ sẽ tự kể chuyện cho cha nghe.

Chị nữ tu trả lời và rút lui. Hai người tự giới thiệu:

– Chúng con đã tìm hiểu Kinh thánh và càng lúc càng thấy Chúa thương chúng ta quá. Chúng con rất thương Chúa. Mấy năm qua chúng con tu theo Phật. Nay nhờ Kinh thánh chúng con biết chỉ có Chúa là Đấng Tối cao Duy nhất. Chúng con tin Chúa. Xin cha cho chúng con được rửa tội.

Họ ở cách Tòa giám mục 90 km, tại một nơi mà 180 năm trước Thầy Sáu Do đã đi qua và về sau đã rải rác có vài nếp nhà thờ nhưng nửa thế kỷ nay không còn dấu vết. Nghe đâu còn ẩn khuất đâu đó dăm bảy gia đình Công giáo nhưng mấy lần về ăn giỗ đồng tộc tôi vẫn dò la mà chưa gặp được ai. Tôi còn quá nhát đảm ! Chỉ tìm gặp những người đồng đạo mà còn dè dặt đến thế, làm sao mà rao giảng Tin mừng ? Thế mà hôm nay từ chính địa phương ấy lại có những người được ơn tin Chúa thật mãnh liệt, đang tìm đến tận nơi ở của tôi !

– Các chị đã đọc những kinh sách nào rồi?

– Bản chỉ dẫn về chuỗi Mân Côi, mấy quyển này… Chúng con mới thỉnh, nhưng chúng con đã nghiên cứu Kinh thánh.

– Kinh thánh? Ai đã cho các chị?

– Con có cái Ipad này. Ở nhà con không dám mở nhưng chị Bốn đây sống một mình. Con gửi ở nhà chị, con sang đó cùng nhau đọc bài trên mạng rồi nghe các bài giảng của cha Long về Lòng Chúa Thương Xót, nghe mãi không chán. Ôi Chúa thương chúng ta biết chừng nào !

Tôi rất ngạc nhiên khi thăm dò về việc cầu nguyện hằng ngày, được nghe hai vị nói đến cả ba kinh Lạy Cha, Kính mừng và Sáng danh một cách hồn nhiên.

Hai vị quen biết một thiếu phụ Công giáo và đã nhờ chị đưa tới nhà thờ giáo xứ cách đó gần 50 km, vào một ngày Chúa nhật, có « ông cha đội mũ tím » về làm lễ. Họ đã được giới thiệu với cả cha sở và Đức Cha Matthêô, giám mục Giáo phận Qui Nhơn. Tôi bấm máy cho Đức Cha. Đức Cha hỏi thăm, khích lệ và xin Chúa ban phúc lành cho họ. Họ hết sức mừng rỡ.

Tôi cũng gọi đến cha sở. Đường tới nhà thờ khá trắc trở, họ lại không có xe máy. Nếu đi Qui Nhơn, họ có thể đón xe buýt trước cửa nhà và đi thẳng. Do đó, cha sở đề nghị tôi chăm sóc giáo lý cho họ rồi cử hành bí tích luôn.

– Các chị có tâm nguyện muốn được rửa tôi nhưng cần có một thời gian chuẩn bị nhé!

Tôi xin số điện thoại và đang tính hẹn ngày, thì chị lớn tuổi hơn nhanh nhẩu:

– Nếu được thì cho chúng con học chiều nay luôn, bốn giờ chúng con mới lên xe về.

– Vâng, để tôi nói các sơ dọn phòng cho các chị nghỉ trưa và mời các chị dùng bữa.

– Ồ, chúng con ăn chay trường, để chúng con ra ngoài ăn.

– Không sao, các sơ có đủ cơm trắng, rau luộc, xì dầu, dưa leo và muối đậu phụng.

– Vậy thì tốt quá!

Tới một giờ rưỡi, nghỉ trưa dậy, tôi đưa hai vị vào nhà nguyện, đến trước hang đá Bê lem, kể chuyện Chúa giáng sinh, chuyện các đạo sĩ, những ngày tháng bên Ai Cập rồi Gia đình thánh về Nazarét, tiếp đến là những năm rao giảng, cái chết thập giá và sự Phục sinh của Chúa.

Sau đó, tôi đưa hai vị trở lại phòng, tiếp tục câu chuyện ban sáng:

– Các chị muốn xin làm phép nước để dùng hằng ngày cho “đạo mỗi ngày một thấm thêm vào lòng”. Trong ước nguyện ấy có hai điểm: Trước hết là việc cầu nguyện xin Chúa ban phúc lành cho nước uống hằng ngày. Việc này chính các chị có thể tự làm lấy với lời nguyện trước bữa ăn ở trang 23 quyển Kinh Nguyện Gia Đình này.

Còn ý thứ hai là để cho “đạo mỗi ngày một thấm thêm vào lòng” là các chị đang linh cảm thấy nước hằng sống mà Chúa Cứu Thế đem đến. Xin mời các chị cùng đọc với tôi câu chuyện Chúa Giêsu trao đổi với người phụ nữ đến múc nước ở giếng Giacóp (Ga chương 4).

Hai vị tỏ ra kinh ngạc, không ngờ câu chuyện Kinh thánh rất giống với chuyện những chai nước họ khệ nệ đem tới đây.

– Các chị cũng hiểu là, bình thường Chúa Giêsu rất dè dặt, không nói rõ về bản thân Ngài cho đám đông, nhưng ở đây vì người phụ nữ đã lắng nghe và  sẵn lòng đổi mới đời sống, nên khi chị ấy nhắc đến Đấng Cứu Thế, Chúa không ngần ngại tiết lộ rằng Ngài chính là Đấng ấy. Ngài là Nước hằng sống.

Đây chính là điểm khác biệt then chốt giữa Kitô giáo và mọi tôn giáo khác. Nơi các tôn giáo khác, vị giáo chủ nào cũng khẳng định con đường họ giới thiệu là chân lý: “Thưa quý vị, đây là con đường, đây là sự thật tuyệt đối”. Tuy nhiên không một vị nào dám nói và có thể nói như Chúa Giêsu: “Chính tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Mọi giáo chủ đều chỉ vẽ cho môn sinh thấy một con đường đến với Chân lý Tuyệt đối ở bên ngoài bản thân các vị, duy chỉ một mình Chúa Giêsu mới thẳng thắn quả quyết: “Tôi là Chân lý, là Sự thật tuyệt đối” (Ga 14,6). Điểm trung tâm của giáo lý Chúa Giêsu là chính bản thân Ngài. Cho nên điều quan trọng là phải xây dựng tình thân giữa mình với Ngài. Các chị có thể là chẳng bao giờ thầm nói với Đức Phật một lời mà vẫn là một cư sĩ Phật giáo tốt. Thế nhưng, khi các chị đã là môn đệ Chúa Giêsu thì Chúa muốn các chị phải trò chuyện với Ngài mỗi ngày nhiều lần, thân mật hơn là tình bạn giữa hai chị dành cho nhau. Mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và mỗi chúng ta tựa như giữa cây và cành, cành lìa khỏi cây sẽ chết.

– Thưa cha, Đức Bổn sư cũng có nói điều cha nói đó. Ngài nói ngài là ngón tay chỉ mặt trăng, và các bạn phải tự thắp đuốc mà đi tìm chân lý.

Tôi vói tay rút quyển Các Giờ Kinh Phụng Vụ, lấy cho hai vị xem một tấm ảnh ngăn trong đó. Một vị ngạc nhiên:

– Ô! Cha cũng giữ hình Đức Bổn sư!

– Vâng, tôi giữ tấm hình này để nhắc mình những lời hay ý đẹp của ngài và nhất là để cầu nguyện cho những người từng say mê giáo lý ngài như các chị.

Như các đạo sĩ xưa, các chị đã gặp được Đức Bổn sư như một ngôi sao dẫn đường đến với Chúa Cứu Thế.

Ba đạo sĩ đã để lại vàng, hương và một dược, còn hai vị cư sĩ? Một vị rút ra 200.000 đồng “cúng dường” để góp phần “ấn tống” kinh sách. Còn vị kia rút ra một gói gạo lứt sấy:

– Đây là đồ chay chúng con đem theo dự tính ăn trưa nay, nhưng đã được các sơ mời cơm rồi, xin gửi lại cha dùng cho vui.

Tôi đã không thể tìm được một con chiên lạc nào ở vùng ấy, rồi giờ đây Internet tìm giúp tôi những người ăn chay trường, giúp họ biết giáo lý Chúa và đưa họ về với Chúa. Nếu tôi bàn ra việc ăn chay tốt lành của họ, e rằng tôi tự chuốc lấy lời Chúa đã khiển trách người Pharisêu (x. Mt 23,15).

– Vâng, tôi cũng muốn nói với các chị điều ấy: Các chị đã được ơn ăn chay trường, hãy cứ tiếp tục. Trước hết, ăn chay trường có lợi cho sức khỏe. Tiếp đến, nó nhắc mình rèn luyện đức từ bi nhân ái. Tôi không ăn chay trường nhưng cũng có những thời gian ăn chay.

– Vậy thì con mừng quá. Theo Chúa, con được thêm nhiều điều hay mà không bỏ mất điều hay đã có được!

Mấy chục năm trước, đã có những đoàn dài những người H’Mông vượt núi rừng đi tìm nơi thờ phượng Chúa tại Giáo phận Hưng Hóa và Tổng giáo phận Hà Nội. Cũng đã có những đoàn người Êđê, Jarai, Bahnar tại Gia Lai và Kon Tum chia nhau đi lung tìm linh mục của Chúa. Họ đã nghe Lời Chúa qua các chương trình phát thanh Tin lành và Công giáo. Giờ đây anh chị em người Kinh, từ những vùng sâu, vùng xa lại kiếm tìm trên Internet rồi kéo nhau về tận Tòa giám mục.

Chiều đến, ngồi dùng bữa, tôi nhắc lại  với các cha lời một anh em linh mục đã nói ngay tại bàn ăn này: “Rồi người ta sẽ ùn ùn trở lại nhưng mình sẽ tìm đâu ra người dạy giáo lý?” Người anh em ấy là linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Trí, đã về với Chúa năm 2014, thọ 70 tuổi. Quả tình những năm qua, câu nói của Cha Trí vẫn là một băn khoăn lớn cho tôi. Thế nhưng giờ đây, trong ngày vọng lễ Hiển Linh, tôi được tận mắt chứng kiến Thiên Chúa đang cho đáp số đến từ một phía không ngờ: Lời Chúa đang được rao báo trên mái nhà của truyền thông.

Trước công việc Thiên Chúa làm, tôi nhớ đến những lời hứa đầy lạc quan trong Gr 31,31-34; Is 62,1; đặc biệt là:

11Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.

12Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.

13Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Israel, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được.

14Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel.

15Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng.

16Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về;

con nào bị thương, Ta sẽ băng bó;

con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh;

con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng.

Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,11-16).

Thật đầy an ủi, khi ta đã cố gắng hết sức mà không làm được, Thiên Chúa sẽ can thiệp. Tuy nhiên, liệu chừng ta đã cố gắng hết sức chưa? Ta làm sao có thể phớt lờ những câu thật đáng sợ đi liền trước đoạn vừa trích?

5Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. 6Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.

 7Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. 8Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng -, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta,9nên hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa:

10Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta;

Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình.

 Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,7-10).

Thiên Chúa không những ngỏ lời với các mục tử mà còn nói thẳng với đàn chiên:

17Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.18Được chăn trong đồng cỏ tốt tươi đối với các ngươi phải chăng còn quá ít, mà các ngươi lại lấy chân giày đạp phần đồng cỏ còn lại của các ngươi, được uống nước trong mà các ngươi lại lấy chân quậy đục phần còn lại ?

19Vì thế, đàn chiên của Ta phải gặm phần cỏ chân các ngươi đã giày đạp, phải uống phần nước chân các ngươi đã quậy đục.

 20Bởi vậy, Đức Chúa là Chúa Thượng phán với chúng như sau: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên béo với chiên gầy.

21Vì các ngươi thúc vào sườn, vào vai và lấy sừng mà húc vào mọi con chiên đau yếu đến độ các ngươi làm cho chúng phải tản mác ra ngoài,

22nên Ta sẽ cứu thoát chiên của Ta để chúng không còn bị cướp phá, Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên” (Ed 34,17-21; xt Gr 23,1-4).

Ta cũng không thể quên một lời khác, lời ông Marđôkê nhắn gửi con đỡ đầu của ông là hoàng hậu Esther, tiêu biểu cho những người ưu tú trong Dân Chúa:

Vì đến lúc này mà con vẫn cứ ngậm miệng làm thinh, thì người Do Thái sẽ nhận được sự trợ giúp và giải cứu từ một nơi khác; còn chính con và nhà cha con lại bị tru diệt” (Et 4,14).

Thiên Chúa từng ưu ái tỏ ra rằng Ngài cần đến chúng ta, tuy nhiên nếu chúng ta không quảng đại hưởng ứng lời Ngài mời gọi, Ngài cũng thẳng thắn cho thấy thật ra Ngài chẳng cần gì đến chúng ta.

Nếu chúng ta không chịu lên đường rao giảng, thì chúng ta sẽ phải tự chịu trách nhiệm trước mặt Ngài, còn Lời hằng sống sẽ vẫn cứ vang vang từ chân trời này tới chân trời khác, bằng nhiều cách, cụ thể ngày nay sẽ bằng cả Internet.

Điều đáng mừng là cuối cùng nữ hoàng Esther đã chỗi dậy vì đồng bào, chính Chúa lại an ủi:

“Ta sẽ cho các ngươi những mục tử đẹp lòng Ta; chúng sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt các ngươi”  (Gr 3,15).

31Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới,…

33Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.

 34Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa (Gr 31,31.33-34).

 Và rồi hôm nay, vẫn còn đó những anh chị em miệt mài lặng lẽ tải Lời của Chúa lên Internet mỗi ngày bằng nhiều cách thế. Xin cám ơn và chúc mừng những anh chị em đang dấn thân loan báo Tin mừng và đang gìn giữ để ánh sao Hiển linh không tắt mất.

“2Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm.

3Ngày qua mách bảo cho ngày tới,

đêm này kể lại với đêm kia.

4Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,

5mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 18/19,2-5).

 

Qui Nhơn, lễ Hiển Linh 06-01-2019

Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

LỜI HỨA 9 NGÀY THỨ SÁU ĐẦU THÁNG

LỜI HỨA 9 NGÀY THỨ SÁU ĐẦU THÁNG

Thánh nữ Marguerite-Marie Alacoque (1647-1690)

Là vị tông đồ nhiệt thành truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nói đúng hơn, Đức Chúa GIÊSU chọn thánh nữ để tỏ bày Trái Tim Chí Thánh Từ Bi của Ngài cho toàn thể loài người. Đức Chúa GIÊSU chọn thánh nữ làm sứ giả loan báo đặc ân Ngài dành cho những ai yêu mến và đền tạ Thánh Tâm Ngài. Trong lần hiện ra vào một ngày thứ 6 năm 1688, Đức Chúa GIÊSU long trọng nói với thánh nữ:
   – Trong mức độ tột cùng lòng từ bi Trái Tim Cha, Cha hứa với con rằng: Tình Yêu toàn năng Cha sẽ ban ơn hoán cải sau cùng cho những ai rước lễ 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp. Những người này sẽ không chết khi còn mắc tội trọng nhưng sẽ được lãnh nhận các Bí Tích và trong giờ sau hết, Trái Tim Cha sẽ là nơi nương náu vững vàng nhất.
   Lời Đức Chúa GIÊSU hứa đã thực hiện trải qua bao thế hệ và còn tiếp tục cho đến tận thế. Sau đây là trường hợp điển hình.
   Khi sống trong nội trú, Matteo – thiếu niên Ý – sốt sắng thi hành thói quen đạo đức là tham dự Thánh Lễ và rước lễ trong 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp. Nhưng khi rời ghế nhà trường, lăn lộn với đời, Matteo sống cuộc đời ăn chơi buông thả.
   Chàng xin một chỗ làm trong ngân hàng, nhưng không bao lâu sau thì bị đuổi khỏi sở vì tính tình phóng túng. Chán nản, chàng rời Ý và sang sống bên Anh quốc. Nơi đây, chàng làm nghề hầu bàn, quét dọn phòng cho khách trọ. Không đầy một năm sau, thân tàn ma dại khi mới 23 tuổi, Matteo thất thểu trở về quê sinh.
   Sức khoẻ hao mòn và thần chết thập thò trước cửa, nhưng tâm hồn Matteo chai cứng. Chàng giả điếc làm ngơ trước mọi lời nhắn nhủ của người thân và bạn bè quen thuộc, khuyên lơn chàng trở về với Chúa, dọn mình xưng tội rước lễ lần cuối cùng.
   Nhưng Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU hằng dõi bước chăm sóc người con tội lỗi, từng yêu mến Trái Tim Ngài. Chúa soi sáng cho vị Linh Mục đạo đức, bạn học của Matteo khi hai người còn là học sinh nội trú, đến thăm người bệnh nặng. Matteo vui mừng tiếp chuyện vị Linh Mục trong tư cách ngài là bạn, thế thôi. Vì thế, vừa khi vị Linh Mục trẻ tìm lời khuyên bạn dọn mình xưng tội, Matteo nói ngay:
   – Nếu anh không còn gì để nói thì hãy đi đi! Tôi tiếp anh vì anh là bạn chứ không phải vì anh là Linh Mục. Vậy xin anh hãy ra khỏi nhà .. tôi không muốn nói chuyện với Linh Mục!
   Vị Linh Mục vẫn nhẫn nhục kiên trì, không thối lui. Ngài tìm lời khuyên bạn. Nhưng Matteo nổi giận, nói lớn tiếng:
   – Anh hãy im đi. Tôi đã nói là tôi không muốn tiếp chuyện Linh Mục mà! Anh có chịu ra khỏi nhà này hay không?

Vị Linh Mục đành nói:
   – Nếu quả thật bạn đuổi tôi, tôi xin chào vĩnh biệt bạn.
   Nói xong, Cha đứng lên bước ra khỏi phòng. Nơi ngưỡng cửa, Cha còn quay lại nhìn người bạn thân yêu lần cuối và buột miệng thốt lên:
   – Đây quả là lần đầu tiên không thực hiện lời Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã hứa!
   Người bệnh ngạc nhiên hỏi:
   – Anh lẩm bẩm thế?
   Vị Linh Mục tức khắc trở vào phòng, bước lại gần giường người bệnh và lập lại:
   – Tôi nói rằng, đây có lẽ là lần đầu tiên không thực hiện lời Trái Tim Đức Chúa GIÊSU hứa ban ơn chết lành cho những ai rước lễ 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp.
   Người bệnh còn đủ sức hỏi vặn lại:
– Điều đó có liên quan gì tới tôi mà anh phải nói thế?
  Vị Linh Mục nói nhanh:
   – Có, chứ sao lại không! Bạn không nhớ hồi chúng mình ở nội trú, chúng ta từng rước lễ 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp, hay sao? Bạn thi hành thói quen đạo đức với trọn lòng kính mến Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, như lời Chúa mời gọi. Vậy mà giờ đây, bạn chống cưỡng lại ơn thánh, không muốn trở về với lượng từ bi bao la của Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU!
   Người bệnh lặng lẽ nghe và hai hàng nước mắt chảy dài trên má. Rồi vừa nức nở khóc, Matteo vừa nói với người bạn Linh Mục:
  – Bạn hãy mau mau giúp tôi, đừng bỏ rơi người bạn khốn cùng này, tội nghiệp! Xin bạn mời vị Linh Mục dòng Cappuccino ở giáo xứ gần đây, đến ngay giúp tôi dọn mình chết lành.
   Chàng thanh niên Matteo lãnh nhận đủ các Bí Tích sau cùng và êm ái trút hơi thở trong ơn nghĩa Chúa, đúng như lời Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ hứa cho những ai sốt sắng rước lễ 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp.
… ”Hỡi anh em thân mến, hãy xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, hãy cố gắng sống mãi trong Tình Yêu THIÊN CHÚA, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức GIÊSU KITÔ, Chúa chúng ta, để được sống đời đời .. Xin kính dâng Đấng có quyền phép gìn giữ anh em khỏi sa ngã và cho anh em đứng vững, tinh tuyền, trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc, xin kính dâng THIÊN CHÚA duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức GIÊSU KITÔ, Chúa chúng ta, kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời! Amen” (Thư thánh Giuđa 20-25).
(”Sembra impossibile .. Eppure è così”, Editrice Comunità, 1992, trang 51-53)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

Đức Tin- Đức Cậy-Đức Mến

httpv://www.youtube.com/watch?v=ByHk_Po0wvo

ĐỨC TIN – LM. GIUSE NGUYỄN VĂN THẬT, DCCT NÀ PHẶC – TĨNH TÂM MV NGÀY 1 DCCT THÁI HÀ

httpv://www.youtube.com/watch?v=M0JDeFukkuw

ĐỨC CẬY – LM. GIUSE NGUYỄN VĂN THẬT, DCCT NÀ PHẶC – Tĩnh tâm ngày 2 tại Thái Hà

httpv://www.youtube.com/watch?v=gSEYl0tXoeQ

ĐỨC MẾN – LM. GIUSE NGUYỄN VĂN THẬT, DCCT NÀ PHẶC- Tĩnh tâm ngày 3 – DCCT Thái Hà

SẴN SÀNG CHO GIÁNG SINH

SẴN SÀNG CHO GIÁNG SINH

Nhiều người bước vào lễ Giáng Sinh một cách mệt mỏi, bận rộn, xao lãng, và bị vắt kiệt với đủ mọi ánh đèn, ca nhạc, và ăn mừng Giáng sinh.  Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị cho Giáng Sinh, nhưng với nhiều người trong chúng ta, đây không phải là thời gian chuẩn bị để Chúa Kitô có thể sinh ra lần nữa một cách sâu đậm trong đời sống mình.  Thay vào đó, việc chuẩn bị cho Giáng Sinh, hầu như là để chuẩn bị cho các buổi ăn mừng với gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.  Những ngày hướng đến Giáng Sinh hiếm khi được yên bình.  Thay vào đó, chúng ta cứ hối hả vội vã lo trang trí, mua quà, gởi thiệp, chuẩn bị đồ ăn, và dự các liên hoan Giáng Sinh.  Hơn nữa, khi Giáng Sinh về, chúng ta đã chán ngấy các bài hát Giáng Sinh, đã nghe chúng cả trong các điệu nhạc giật gân trong các trung tâm mua sắm, trong nhà hàng, quảng trường, và trên đài phát thanh.

Và rồi Giáng Sinh đến với chúng ta trong một không gian chật chội và mệt mỏi, chứ không thư thái và yên bình.  Thật vậy, đôi khi mùa Giáng Sinh như bài kiểm tra sức chịu đựng hơn là thời gian vui vẻ thực sự.  Hơn nữa, và còn nghiêm trọng hơn, nếu chúng ta thành thật với bản thân, chúng ta phải công nhận, trong khi chuẩn bị chúng ta ít chừa chỗ cho việc thiêng liêng, cho Chúa Kitô sinh ra một cách sâu đậm trong lòng mình.  Thời gian chuẩn bị thường dành để chuẩn bị nhà cửa hơn là chuẩn bị tâm hồn, mua sắm hơn là cầu nguyện, tiệc tùng hơn là chay tịnh chuẩn bị cho đại lễ.  Mùa Vọng thời nay có lẽ là để ăn mừng trước hơn là chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh.

Và kết quả là, như các chủ trọ đã không còn phòng cho Đức Mẹ và thánh Giuse trong mùa Giáng Sinh, chúng ta cũng thường “không còn phòng” không còn chỗ trong đời mình cho sự tái giáng sinh thiêng liêng.  Lòng chúng ta thì tốt, chúng ta muốn Giáng Sinh tái sinh chúng ta về đường thiêng liêng, nhưng cuộc sống của chúng ta quá nhiều áp lực, quá nhiều hoạt động và quá mệt mỏi, đến nỗi chúng ta không còn sinh lực thực sự để làm cho Giáng Sinh trở nên thời gian đặc biệt để canh tân tâm hồn mình.  Tinh thần Giáng Sinh vẫn ở trong chúng ta, vẫn thật, nhưng như đứa trẻ trong nôi bị bỏ bê đang chờ được bồng ẵm.  Và chúng ta muốn bồng đứa trẻ lên, nhưng lại không bao giờ đến gần cái nôi cả.

Vậy thì chúng ta thật tệ biết bao?

Điều này thách thức chúng ta hãy nhìn vào chính mình, nhưng không đến nỗi xấu như nhiều chỉ trích lòng đạo thường hay nói đâu.  Dự lễ Giáng Sinh với một cuộc sống quá bận rộn và quá lơ là việc dành chỗ cho Chúa Kitô, không biến chúng ta thành người xấu.  Như thế không có nghĩa chúng ta là những kẻ ngoại đạo vô tâm.  Và cũng không có nghĩa là Chúa Kitô đã chết trong lòng chúng ta.  Chúng ta không xấu xa, mất đức tin và ngoại đạo chỉ vì chúng ta hướng đến Giáng Sinh theo thói quen một cách quá lơ là, quá bận rộn, quá áp lực và quá mệt mỏi đến nỗi không thể có một nỗ lực ý thức để làm cho đại lễ này trở thành dịp để canh tân linh hồn thực sự trong đời mình.  Tình trạng thờ ơ đường thiêng liêng của chúng ta định rõ chúng ta là con người hơn là thiên thần, trần tục hơn là thuần khiết, và duy cảm hơn là duy thiêng.  Tôi cho rằng Chúa hoàn toàn hiểu tình trạng này của chúng ta.

Thực sự, tất cả mọi nguời đều đấu tranh với điều này theo nhiều cách.  Không ai hoàn hảo, không ai dành trọn không gian của đời mình cho Chúa Kitô, ngay cả trong thời gian Giáng Sinh.  Điều này sẽ cho chúng ta đôi chút an ủi.  Nhưng cũng cho chúng ta một thách thức cấp thiết.  Trong cuộc sống bận rộn và lơ đãng của chúng ta, có quá ít chỗ cho Chúa Kitô!  Chúng ta phải hành động dọn đôi chỗ cho Chúa Kitô, khi làm cho Giáng Sinh thành một thời gian phục hồi linh hồn và canh tân đời sống.

Làm sao chúng ta làm được chuyện này?

Trong những ngày cận kề Giáng Sinh, chúng ta cố gắng làm đủ mọi chuyện cần thiết để sẵn sàng cho tất cả những gì cần có trong nhà, trong nhà thờ, và nơi làm việc.  Chúng ta đi mua quà, gởi thiệp, treo đèn và trang trí, soạn thực đơn, mua đồ ăn, dự đủ tiệc liên hoan Giáng Sinh ở nơi làm việc, nhà thờ và nhà bạn bè. Điều này, cộng thêm vào áp lực sẵn có trong cuộc sống, thường làm cho chúng ta nghĩ: Tôi sẽ không làm được! Tôi sẽ không sẵn sàng! Tôi sẽ không sẵn sàng cho Giáng Sinh! Đây là cảm giác chung của mọi người.

Nhưng, sẵn sàng cho Giáng Sinh, làm mọi việc cần làm, không phải là hoàn tất các việc chúng ta đã lên danh sách như mua quà, gởi thiệp, thức ăn, các bổn phận xã hội. Ngay cả khi danh sách những việc cần làm chỉ mới xong được một nửa, nhưng nếu bạn đi lễ nhà thờ ngày Giáng Sinh, nếu bạn ngồi được trong bàn ăn với gia đình vào ngày Giáng Sinh, và nếu bạn thăm hỏi hàng xóm và đồng bạn với đôi chút nồng hậu hơn, thì điều này không có nghĩa là bạn lơ là, mệt mỏi, quá tải, và không suy nghĩ rõ về Chúa Giêsu, và có nghĩa là bạn đã làm trọn những việc để đón Giáng Sinh rồi đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu

CÁCH SỐNG THÁNH MÙA VỌNG

CÁCH SỐNG THÁNH MÙA VỌNG

Mùa Vọng đã về.  Đó là thời gian chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh – Sinh Nhật Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Cứu Độ.  Niềm vui Lễ Giáng Sinh tùy vào cường độ mà chúng ta sống Mùa Vọng.  Chúng ta hãy làm theo các gợi ý cụ thể và sống Mùa Vọng với niềm vui mừng, cầu nguyện, yêu thương và cương quyết.  Hãy sống Mùa Vọng này như thể là Mùa Vọng cuối cùng trong cuộc đời mình.  Hãy mạnh mẽ lên!  Chúa Giêsu luôn nhắc chúng ta tỉnh thức, sẵn sàng và chuẩn bị cho cuộc tái lâm của Đức Kitô, bởi vì chúng ta chẳng biết lúc nào.

Đây là 5 gợi ý hữu ích để chúng ta làm cho Mùa Vọng này là Mùa Thánh Đức:

1/ Duy Trì Thinh Lặng

Hãy nhớ cuộc gặp gỡ của ngôn sứ Êlia với Thiên Chúa trên núi và trong thinh lặng: “Người nói với ông: ‘Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.  Kìa Đức Chúa đang đi qua.’  Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão.  Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất.  Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.  Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.  Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang.  Bấy giờ có tiếng hỏi ông: ‘Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?’  Ông thưa: ‘Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài.  Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” (1 V 19:11-13).

Hãy cố gắng loại bỏ những thứ không cần thiết và dành những phút thinh lặng cho Thiên Chúa.  Hãy “lên núi” và thinh lặng để lắng nghe Ngài, đừng chia trí vì những loại ô nhiễm nào khác.

2/ Cầu Nguyện Liên Lỉ

Hãy dành nhiều thời gian cầu nguyện trong Mùa Vọng Thánh này.  Giáo hội khuyến khích chúng ta gia tăng cầu nguyện hàng ngày.  Có nhiều cách cầu nguyện, đây là vài cách khả thi hữu ích:

–       Kinh Phụng Vụ.

–       Thánh Vịnh – cách cầu nguyện bằng Kinh Thánh.

–       Giờ Thánh, đọc và suy niệm Lời Chúa.

–       Thánh Lễ – cách cầu nguyện đặc biệt.

–       Khẩu nguyện – đọc thật chậm, chú ý tới lời kinh với lòng yêu mến.

–       Xét mình nghiêm túc.

–       Kinh Mai Côi – cuốn Kinh Thánh rút gọn.

Chiêm ngưỡng Hang Đá, theo bước các mục đồng,… Những điều này có thể hữu ích thêm vào việc cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng (sách đạo đức).  Có nhiều cách, nhưng hãy chọn cách tốt nhất cho chính mình!

 3/ Giúp Đỡ Người Nghèo

Trong Mùa Vọng này, có thể bạn tìm được cách phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo.  Hãy nhớ rằng chính Chúa Giêsu hiện thân nơi người nghèo.  Mẹ Thánh Teresa Calcutta nói rằng chúng ta nên tìm kiếm Chúa Giêsu nơi người nghèo.  Hãy đọc trình thuật Mt 25:31-46 – cuộc phán xét chung.  Chúa Giêsu cho thấy rằng cuộc phán xét cuối cùng được dựa trên đức ái – cách chúng ta đối xử với người nghèo.  Đừng bao giờ quên điều này: Bác Ái Bắt Đầu Từ Gia Đình.

4/ Tham Dự Thánh Lễ

Trong Mùa Vọng này, hãy cố gắng tham dự Thánh Lễ hàng ngày.  Nếu bạn làm được như vậy, bạn có thể tiến tới một hoặc hai bước khác, hơn cả những gì bạn đang làm.  Cố gắng đi lễ sớm để chuẩn bị đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào “Hang Belem” của bạn – gọi là Nhà Bánh, tức là cõi lòng của bạn.  Hãy cố gắng khuyến khích các thành viên trong gia đình và bạn bè cùng gặp gỡ Chúa Giêsu qua Bí tích Thánh Thể.  Thánh Anrê tông đồ đã đưa người khác đến gặp Chúa Giêsu, bạn cũng được mời gọi đưa người khác đến với Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa và Đấng cứu độ nhân loại.  Thật vậy, Chúa Giêsu là ngọc quý và là kho tàng vô giá. Hãy chia sẻ Ngài với người khác!

5/ Noi Gương Đức Mẹ

Trong cuốn sách “True Devotion to Mary” (Tôn Sùng Đức Maria, số 108), Thánh Louis de Montfort chỉ ra 10 nhân đức của Đức Mẹ: khiêm nhường, tín thác, tuân phục tuyệt đối, cầu nguyện không ngừng, luôn từ bỏ mình, khiết tịnh, yêu mến, kiên trì, tử tế, và khôn ngoan.

Hãy chọn một hoặc hai trong số các nhân đức của Đức Mẹ, cầu xin Mẹ cầu giúp nguyện thay để chúng ta noi gương Đức Mẹ. Trong Mùa Vọng này, hãy nỗ lực cụ thể là sống các nhân đức.  Đức Mẹ là con đường ngắn nhất, mau nhất và dễ dàng nhất để đến với Thánh Tâm Chúa Giêsu: Ad Jesum Per Mariam – Nhờ Mẹ Đến Với Chúa Giêsu.

Lm Ed Broom (OMV – Oblates of the Virgin Mary – Dòng Tận Hiến Trinh Nữ Maria)

Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From Langthangchieutim

Nữ tu Ba Lan dòng Đa Minh 110 tuổi, người Công Chính Giữa Các Dân Nước, vừa từ giã cõi đời

Nữ tu Ba Lan dòng Đa Minh 110 tuổi, người Công Chính Giữa Các Dân Nước, vừa từ giã cõi đời

 Đặng Tự Do

 22/Nov/2018

 

Sơ Cecylia Maria Roszak, nữ tu dòng Đa Minh, người Ba Lan, được ghi vào Guiness là “nữ tu cao niên nhất trên thế giới” đã qua đời ở tuổi 110. Tổng giáo phận Krakow đã công bố như trên hôm 17 tháng 11.

Sơ Cecylia nhũ danh Maria Roszak, sinh ngày 25 tháng 3 năm 1908 tại thị trấn Kielczewo ở tây-trung Ba Lan. Sau khi tốt nghiệp trường thương mại ở tuổi 21, sơ xin vào tu viện On Gródek của dòng Đa Minh ở Krakow.

Năm 1938, cô đi cùng một nhóm nữ tu cùng dòng đến Vilnius (hiện nay thuộc Lithuania, nhưng vào thời điểm đó là một phần của Ba Lan). Các nữ tu hy vọng thành lập thêm một tu viện tại đây. Tuy nhiên, Thế chiến thứ hai bùng nổ đã ngăn cản ước muốn của các sơ.

Theo mật ước Molotov–Ribbentrop, ba nước vùng Baltic, trong đó có Lithuania, rơi vào tay Liên Xô. Tháng 10 năm 1939, 20,000 quân Liên Xô tràn vào Lithuania. Nhiều người Do Thái bị lùng bắt. Sơ Roszak và các nữ tu, dẫn đầu bởi Mẹ bề trên Bertranda, đã can đảm mạo hiểm mạng sống che giấu 17 thành viên kháng chiến Do Thái trong tu viện của họ.

Theo viện Yad Vashem, tức là Trung tâm Tưởng nhớ Cuộc Diệt chủng người Do Thái, những người Do Thái được cho ẩn náu trong tu viện là những thành viên của một phong trào Do Thái phi chính thống, tức là những người Do Thái nhưng không theo Do Thái Giáo.

“Mặc dù có sự khác biệt rất lớn giữa hai nhóm, mối quan hệ rất gần gũi đã được hình thành giữa các nữ tu Công Giáo và những người Do thái thế tục cánh tả. Những kháng chiến quân này tìm được một nơi trú ẩn an toàn phía sau các bức tường của tu viện. Họ giúp các nữ tu trong công việc canh tác và tiếp tục các hoạt động chính trị của họ. Họ gọi Mẹ bề trên của tu viện là Ima, tức là Mẹ theo tiếng Do Thái”, viện Yad Vashem đã cho biết như trên.

Tháng 6, 1941, Lithuania lại rơi vào tay Quốc Xã Đức. Những kháng chiến quân Do Thái đã quyết định rời tu viện và trở về khu Do Thái để giúp thiết lập một ổ kháng cự ở đó. 

Vào tháng 9 năm 1943, mẹ Bertranda bị bắt, tu viện Vilnius bị đóng cửa và các nữ tu bị phân tán. Sơ Roszak trở về Krakow, do chiến tranh, các chị em của sơ cũng đã bị trục xuất khỏi nhà mẹ “On Grodek”. Sơ Roszak phải tá túc cùng với một số chị em khác vào thời điểm đó.

Vào năm 1947, Sơ Roszak và những sơ dòng Đa Minh khác trở về nhà mẹ, nơi sơ phục vụ như một người quản lý, người tổ chức và ca trưởng trong nhiều năm, và nhiều lần được bầu là Mẹ Bề Trên.

Năm 1984, Sơ Bertranda và các nữ tu tại tu viện Vilnius trong đó có Sơ Roszak đã được viện Yad Vashem trao tặng danh hiệu “Người Công Chính Giữa Các Dân Nước”. Đây là danh hiệu cao quý người Do Thái trao tặng cho những người không phải là người Do Thái đã liều mất mạng sống, tự do hoặc vị thế xã hội của họ để giúp đỡ người Do Thái trong thời kỳ Holocaust.

Năm 101 tuổi, Sơ Roszak đã trải qua phẫu thuật hông và đầu gối nhưng vẫn có thể tham gia vào nhiều hoạt động bình thường của tu viện, bao gồm cả việc tham gia cùng các chị em cầu nguyện và thăm các chị em bị bệnh.

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2018, Sơ Roszak tổ chức sinh nhật lần thứ 110 tại tu viện của mình, nơi sơ được Tổng giám mục Marek Jedraszewski của Krakow đến viếng thăm.

Sơ Roszak qua đời vào ngày 16 tháng 11 năm 2018.

ĐI VÀO SA MẠC CỦA NGHÈO KHÓ VÀ SIÊU THOÁT

ĐI VÀO SA MẠC CỦA NGHÈO KHÓ VÀ SIÊU THOÁT

Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau.  Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê.  Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của một kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria.  Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.

Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh.  Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc.  Môisen đã phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc.  Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa.  Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ.  Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.

Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn.  Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình.  Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội.  Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn.  Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có.  Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.

Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin.  Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi.  Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng.”  Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa.  Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố giác hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài.  Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.

Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri.  Đó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y.  “Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào.”  Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình.  Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công.  Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất.  Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.

Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá.  Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay.  Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng.  Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa.  Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi.  Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng.”

Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.

Radio Veritas Asia

Trích trong “Suy Niệm Lời Chúa”

From Langthangchieutim

TẠI SAO ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI?

TẠI SAO ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI?

Vô Nhiễm Nguyên Tội là đặc ân Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ.  Nhưng tại sao là Đức Maria mà không là người khác?  Tại sao chúng ta phải chịu hệ lụy của Tội Nguyên Tổ?  Tại sao Áp-ra-ham, Mô-sê hoặc Đa-vít được tuyển chọn mà không là người khác?

Theo Kinh Thánh, người được tuyển chọn luôn được chọn vì người không được chọn.  Như vậy, Áp-ra-ham được chọn để các quốc gia không được chọn trên trái đất sẽ được chúc lành qua ông.  Cũng vậy, Mô-sê và dân Ít-ra-en được chọn để họ có thể là dân tư tế vì các dân-tộc-không-được-chọn trên thế giới.  Đa-vít được chọn để con trai của ông có thể dẫn đưa các dân-tộc-không-được-chọn đến với Vương Quốc của Thiên Chúa.

Với Đức Maria cũng vậy.  Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa hoàn tất qua Mẹ.  Ơn Cứu Độ hoàn toàn mang tính ngăn ngừa chứ không mang tính chữa trị, không là dấu chỉ loại trừ.  Đó là dấu chỉ về quyền năng cứu độ nơi Chúa Giêsu, dành cho chúng ta theo sự quan phòng mầu nhiệm của Thiên Chúa, để chúng ta chiến đấu với Tội Nguyên Tổ.  Vì Đức Mẹ là biểu tượng của Giáo hội và là thụ tạo đặc biệt trong các thụ tạo của Thiên Chúa, chính Đức Mẹ có thể đưa ra một ước lệ đối với sự kiêu ngạo và lời hứa giải thoát qua cuộc nổi loạn bằng cách cho chúng ta thấy rằng:

Con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

Con người phát xuất từ Thiên Chúa và được tạo nên để kết hiệp với Ngài.

Quyền tha tội của Chúa Giêsu được biểu hiện trọn vẹn nơi Đức Mẹ, chúng ta có thể biết chắc rằng Ngài cũng có quyền tha tội của chúng ta, dù tội nặng tới mức nào.

Con người là sản phẩm tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Tội lỗi không là sự thật nền tảng, cũng không là nền tảng cuối cùng của con người.  Chính Chúa Giêsu mới là nền tảng.

Con người được xác định bởi tình yêu, chứ không bởi sự hận thù.

Con người được mời gọi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

Con người phản ánh lý lẽ, trật tự và tình yêu của Thiên Chúa.

Con người tìm thấy sự sống khi mất sự sống và tiếp nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Con người chỉ trở nên “người” hơn qua tình yêu, lòng khiêm nhường và lòng thương xót.

Con người lớn lên trong tình yêu bằng cách quan tâm “những người bé mọn” vì họ quý giá đối với Đức Kitô, Đấng đã tự hạ tới mức sinh nơi hang đá.

Con người nên tìm kiếm tình yêu tự dâng hiến ngay trên thế gian và phần thưởng trên trời, vì cuộc đời này không tồn tại mãi.

Chúng ta nên khiêm nhường vì chúng ta “được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa”, và sự thật là thế. Khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình cần có ơn Chúa.

Bản chất Thiên Chúa là tình yêu.  Chúng ta chỉ là thụ tạo, chúng ta không tìm thấy mình bằng cách tôn thờ bản chất đó mà bằng cách tôn thờ chính Thiên Chúa, Đấng tạo nên chúng ta và cứu độ chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.

Tóm lại, khi nhân loại tạo nên văn hóa sự chết, Chúa Thánh Thần đã đưa Giáo hội đến với Đức Mẹ, Đấng trung gian cầu xin Thiên Chúa cứu độ chúng ta.  Đức Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nhân chứng duy nhất về ơn cứu độ của Đức Kitô.  Là người che chở nhân loại, Đức Mẹ như hàng rào bao quanh sự thật về Ơn Cứu Độ của Đức Kitô.  Là Tông Đồ mẫu mực, Đức Mẹ cho chúng ta biết Ơn Cứu Độ vô biên của Đức Kitô có thể tẩy sạch tội lỗi của chúng ta và cho chúng ta biết sự xứng đáng về nguồn gốc của chúng ta từ Thiên Chúa.  Đức Mẹ là “máng chuyển” ơn Chúa, như Thánh Irênê nói: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống viên mãn.”

Mark Shea

Trầm Thiên Thu, chuyển ngữ từ http://www.ncregister.com/