SỰ GIÀU CÓ CỦA THIÊN CHÚA LÀ LỜI MỜI GỌI CHO LÒNG QUẢNG ĐẠI 

SỰ GIÀU CÓ CỦA THIÊN CHÚA LÀ LỜI MỜI GỌI CHO LÒNG QUẢNG ĐẠI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Mặt trời hào phóng một cách lạ thường, không giây phút nào là nó không chiếu sáng nhất.

Các nhà khoa học cho biết, bên trong mặt trời, cứ mỗi giây có một tỉ lệ tương đương với bốn triệu con voi được chuyển hóa thành ánh sáng, một thứ quà tặng chỉ biết cho đi, không bao giờ biết nhận lại.  Mặt trời vẫn tiếp tục đốt cháy nó.  Nếu sự hào phóng này ngừng lại, đương nhiên tất cả năng lượng sẽ mất nguồn cung cấp, mọi sự sẽ chết và bất động.  Chúng ta, và mọi vật trên hành tinh này, sống được là nhờ sự hào phóng của mặt trời.

Trong sự hào phóng này, mặt trời phản ánh sự giàu có của Thiên Chúa, một sự hào phóng mời gọi chúng ta cũng trở nên hào phóng theo, mở rộng quả tim, dấn thân nhiều hơn để tận hiến bản thân mình trong công việc hy sinh, để làm chứng nhân cho sự giàu có của Thiên Chúa.

Nhưng điều này không dễ.  Một cách bản năng, chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là tích trữ và để dành để cho cuộc sống được an toàn.  Bản chất chúng ta là sợ và sống chùm với nhau.  Vì vậy, dù nghèo hay không, chúng ta đều có cảm nhận thiếu thốn, luôn luôn sợ mình không có đủ, và vì không có đủ, chúng ta phải cẩn thận khi cho, chúng ta không thể quá hào phóng được.

Nhưng Thiên Chúa làm ngược lại với điều tự nhiên trên.  Thiên Chúa rộng rãi, giàu có, quảng đại, và hào phóng vượt ra ngoài những lo sợ và tưởng tượng nhỏ nhoi của chúng ta.  Vũ trụ của Thiên Chúa quá phong phú và phi thường.  Kích thước của vũ trụ, chỉ tính riêng về những gì con người đã khám phá, cũng đã là không tưởng tượng nổi.  Quá dồi dào và hào phóng là đặc nét của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy điều này qua dụ ngôn Người gieo giống trong Kinh Thánh: Người gieo giống, đại diện cho Thiên Chúa, người mà Đức Giê-su mô tả, không phải là người tính toán, gieo cẩn thận và chỉ gieo ở những mảnh đất màu mỡ.  Người gieo giống này gieo không phân biệt nơi gieo: bên vệ đường, trong bụi gai, trên đá, nơi mảnh đất cằn cỗi, cũng như nơi tốt tươi.  Hình như ông quá dư hạt giống nên có thể nói cách gieo giống của ông xuất phát từ tính hào phóng của sự dồi dào hơn là tính thận trọng của sự thiếu thốn.  Chúng ta cũng thấy sự giàu có này trong dụ ngôn người làm công vườn nho, gia chủ, đại diện cho Thiên Chúa, trả công đồng đều cho tất cả người làm công, không phân biệt ai trước ai sau.  Thiên Chúa, như chúng ta biết, giàu có vô hạn và không bao giờ tính toán chi ly trong việc ban phát.

Thiên Chúa cũng rộng rãi và quảng đại khi tha thứ, như chúng ta thấy trong các phúc âm.  Trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, người cha tha cho người con hoang đàng, ông cho vượt lên sự giàu có của ông, nhiều khi sự giàu có này làm cho nhân phẩm bị mất vì quá tính toán cho mình.  Chúng ta cũng thấy sự rộng rãi này nơi Đức Giê-su khi Người tha thứ cho kẻ hành hình cũng như tất cả những ai bỏ Người trong cuộc thương khó.  Qua những gì chúng ta thấy, Thiên Chúa quá giàu tình yêu, quá giàu lòng thương xót nên Ngài mới phung phí, quá quảng đại, không tính toán, không kỳ thị, dám nhận bất trắc, và có quả tim rộng lượng vượt quá trí tưởng tượng chúng ta.

Và đó là lời mời gọi: Để có được một khái niệm về sự giàu có của Thiên Chúa, một giàu có dám nhận bất trắc, chúng ta cần có một quả tim luôn rộng mở và một lòng quảng đại vượt lên trên bản năng sợ hãi, bản năng làm chúng ta nghĩ rằng, chỉ vì chúng ta không có đủ nên cần tính toán chi ly nhiều hơn.

Trong tất cả các phúc âm, phúc âm thánh Lu-ca chứa đựng một trong những sứ điệp mạnh mẽ nhất về đức công bình (cứ sáu hàng là có một thách thức trực tiếp với đức công bình đối với người nghèo) nhưng tuy thế, trong phúc âm thánh Lu-ca, Đức Giê-su vẫn nhắc nhở về mối hiểm nguy của giàu có, Ngài không bao giờ lên án sự giàu có hay người giàu có.  Hơn thế Người phân biệt sự giàu có quảng đại và giàu có bủn xỉn.  Người giàu có quảng đại tốt lành vì họ tỏa ra và hiện thân cho sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa, trong khi người giàu có bủn xỉn không tốt bởi vì họ đưa ra một hình ảnh sai lầm về sự giàu có, quảng đại, và quả tim rộng lớn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta đong đấu nào sẽ nhận lại đấu đó.  Điểm chính là nói lên rằng không khí chúng ta thở ra là không khí chúng ta hít vào.  Điều đó không chỉ đúng về mặt sinh thái học mà nó còn đúng cho mọi khía cạnh chung của cuộc sống.  Nếu chúng ta thở ra sự bủn xỉn, chúng ta sẽ hít vào sự bủn xỉn; nếu chúng ta thở ra tính nhỏ nhen, chúng ta sẽ hít vào tính nhỏ nhen; nếu chúng ta thở ra sự gắt gỏng cay chua, chúng ta cũng sẽ hít vào sự gắt gỏng cay chua đó; và nếu chúng ta thở ra sự thiếu thốn khiến chúng ta tính toán và dè dặt, thì sự toán tính và dè dặt đó sẽ là không khí chúng ta hít vào.  Nhưng, nếu nhận thức được sự giàu có của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thở ra lòng quảng đại và bao dung, và khi đó chúng ta sẽ hít không khí quảng đại và bao dung vào.  Chúng ta hít vào những gì chúng ta thở ra.

Tôi chưa bao giờ gặp ai thật sự có lòng quảng đại mà họ lại không nói rằng, lúc nào họ cũng nhận được nhiều hơn cho.  Và tôi cũng chưa bao giờ gặp một ai thật sự có quả tim rộng rãi mà lại sống trong cảm nhận mình thiếu thốn.  Để có lòng quảng đại và quả tim rộng mở thì trước hết chúng ta phải tin vào sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa.

Nhờ sự giàu có của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được ánh sáng mặt trời, một vũ trụ lớn lao hào phóng vượt sức tưởng tượng của loài người.  Đó không phải chỉ là thử thách cho tinh thần và trí tưởng tượng, nhưng đặc biệt là thử thách cho quả tim, để nó trở nên giàu có và quảng đại hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

CĂN BỆNH NGUY HIỂM

CĂN BỆNH NGUY HIỂM

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

 Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990). 

Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin.  Ba láp!  Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc.  Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng, và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa, tôi nghiệm ra thật có một căn bệnh như thế.  Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy.  Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn.  Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu.  Có ba dấu vết:

  1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.

 Tiền bạc vốn lạnh lùng.  “Lạnh như tiền.”  Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ.  Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.

Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa.  Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân.  Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin.”

Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông, và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo.  Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp, và già cần tiền để dưỡng thân.  Đời cần tiền để phát triển, nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.

Tiền cần nên tiền quý.  Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì.  Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người.  Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người.  Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy.  Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả.  Và nguy hiểm là ở chỗ đó.

Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.

  1. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.

 Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày.  Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.

Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa, thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính, có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.

Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện.  Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác.  Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền, và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi.  Thiên Chúa ư?  Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!

Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền.  Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm.  Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.

Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm:“Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe.” Mà nào có được đâu!  Mời suy nghĩ.

  1. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền. 

Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền.  Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế.  Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn.  Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính…  Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”  Ngoài ra chấm hết.  Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ.”  Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật con người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe người già, là cái đà danh vọng, là chiếc lọng che thân, là cán công công lý.  Hết ý!”

Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền.  Nhưng khi cẩn trọng quá hoá keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít.  Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.

Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít.  Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai.  Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ,” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài.  Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ, thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền, và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.

Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền?  Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín.  Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu.  Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng.  Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền.  Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.

Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

– Trích dẫn từ “Nút vòng xoay”

CHÚA DẠY LÀ PHẢI KÍNH CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI

CHÚA DẠY LÀ PHẢI KÍNH CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI

(CN XV TN, Năm C)

Tuyết Mai

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”. Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. (Lc 10, 25-37).

——————————————————————————

** Chúng ta phải công nhận rằng con người trần gian suốt từ bao nhiêu thế kỷ qua luôn sống trong sự hời hợt, ích kỷ, vô tình, vô cảm và vô ơn nên Chúa Giêsu mới cần dạy hết thảy chúng ta là “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Nhưng buồn thay là xã hội xưa và nay thiếu lắm những tấm gương của những người sống biết quan tâm đến người khác hay người biết chạnh lòng thương như bài Phúc Âm Chúa dạy chúng ta trong tuần này.

** Nhất là tấm gương ấy cần phải sống động; có nghĩa người ấy phải là tấm gương luôn tỏa chiếu sự sống khiêm nhường, trong sáng, minh bạch, đạo đức, hiền lành, thánh thiện; có cuộc sống đơn giản, không duy vật chất, không chứa chất tiền của nhất là lấy của người làm của riêng mình và luôn sống hỉ xả, luôn cho đi. Sống thực tế và cần thực hành những điều ở trên bắt đầu từ trong gia đình, từ khi con cái chúng có trí khôn.

** Hay như chúng ta thấy có nhiều gia đình đã dạy dỗ cho chúng trẻ con biết bỏ heo mà giúp trẻ nghèo. Rồi từ từ chúng lớn lên thì cho con cái chúng đi sinh hoạt trong giáo xứ như vào TNTT, ca đoàn, đội múa dâng hoa, v.v… Và nhất là bậc cha mẹ cũng rất nên tham gia vào hội đoàn trong giáo xứ ở hai ngày cuối tuần chớ chỉ gởi gắm để chúng có nơi sinh hoạt thì e rằng chưa đủ đâu. Vì chúng sẽ nghĩ rằng chúng bị bỏ vào nhà thờ là để cha mẹ trốn đi chơi riêng với nhau!?.

** Cái lỗi thông thường thì bậc cha mẹ chúng ta hầu hết sống rất thiếu trách nhiệm cùng bổn phận trên con cái vì lấy cớ phải làm việc nhiều, cần tiền nhiều, sắm vật chất nhiều; muốn có nhà cao tầng, có xe hơi và cả trăm thứ không nhất thiết có, cho bằng chúng con trẻ chỉ khao khát thời giờ của cha mẹ dành cho chúng mà thôi. Và quên rằng con cái sanh chúng ra thì đấy là trách nhiệm của cha mẹ chớ không phải của ông bà, của nơi nhà trẻ, của nhà trường, hay của xã hội.

** Do đó chúng ta đẻ nhiều mà không có kế hoạch thì chỉ làm cho con cái chúng sẽ rất khổ sở mà thôi. Chẳng những thế mà sau này ở ngày sau hết mọi cha mẹ đều phải trả lời cho Chúa, ở từng đứa con mà Chúa ban cho. Là bỏ bê con cái hoặc cưng chìu quá mà làm cho chúng hư đốn. Biến chúng thành gánh nặng của xã hội hay biến chúng thành những tệ nạn của xã hội. Rồi đẻ nhiều mà không nuôi nổi thì chúng thường xuyên bị la chửi, đánh đập, bắt đi làm việc ở tuổi rất sớm còn không thì đi phá thai vì lý do cá nhân.

** Chúng ta thường chỉ nghĩ cách rất hời hợt và rất nông cạn trong 2 giới răn yêu thương của Chúa ấy là Kính Chúa qua giữ Lễ ngày Chúa Nhật và yêu người qua cái cho đi những thứ dư thừa của mình. Ngay cả không đóng góp cho đủ 10% trong số lương hằng năm mà giáo hội yêu cầu chớ nói chi đến hy sinh cho người bằng dốc hết cả cái mình đang có mang theo trên mình. Như người Mỹ họ có câu là “Loose an arm or loose a leg” – có nghĩa cho mà như mất cả cánh tay hay mất cả cái chân mới đau xót.

** Hoặc ít nhất là bằng với người Samaritan trong bài Phúc Âm của tuần này CN XV TN . Là ông ấy đã có lòng xót thương người, xuống ngựa băng bó vết thương cho người bị nạn gần chết; đỡ người ấy lên lưng ngựa chở đến quán trọ; đưa tiền cho người chăm sóc và hứa khi ông quay trở về còn thiếu bao nhiêu ông sẽ thanh toán cho đủ. Trong khi thì đường đường là hàng tư tế và trợ tế đó nhưng cũng đã nhắm mắt làm ngơ bỏ đi như không trông thấy.

** Cho chúng ta thấy rằng tuy dù là những người mang danh Chúa đấy như thành phần Pharisêu, nhà thông luật và hàng biệt phái mà Chúa lên án gắt gao xưa ấy là vì họ chỉ sống lợi dụng danh Đức Chúa mà thôi. Họ chỉ cốt được ở nhà mát ăn bát vàng, mặc áo cho đẹp cho sang để khoe chức vụ của mình; rua áo cho dài chớ họ rất ngại để đi ra khỏi sự thoải mái của mình. Mục đích chính của họ là để trục lợi người nghèo khổ và các bà góa nghèo chớ tâm hồn của họ thì sáo rỗng và trái tim thì chai đá lạnh lùng. Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

14 tháng 7, 2019

CHỈ VÀI BƯỚC THÔI

CHỈ VÀI BƯỚC THÔI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng.  Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó (x. Lc 16,19-26).  Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời.  Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận…  Dụ ngôn người Samari tốt lành (x. Lc10,30-32) cho thấy: cũng chỉ vài bước thôi, thầy Tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân.  Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân.  Và họ an tâm.  Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt.”

Lối hành xử của ông Phú hộ “mackeno” hay thầy Tư tế và Lêvi “tránh sang một bên”, biểu tượng cho thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ, đó là căn bệnh thời đại: vô cảm.

Có ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.

Thứ nhất là vô cảm trước người khác, hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.

Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.

Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.

Tạm thời, xin gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai.  Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình.  Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.

Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ.  Đất nước nghèo đói ư?  Mặc kệ!  Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư?  Mặc kệ!  Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư?  Mặc kệ!  Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư?  Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư?  Mặc kệ!  Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư?  Mặc kệ!  Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm.

Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm?  Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm.  Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội.  Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự.  Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề.  Kẻ thì bị đạp vào mặt.  Kẻ thì bị bắt bớ.  Kẻ thì bị đe dọa.  Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng.  Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ. (x. Blog của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

Một trong những phát minh vĩ đại của khoa học là sáng chế ra rôbốt.  Nhưng khoa học không thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến rôbốt biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận.  Căn bệnh vô cảm biến con người thành rôbốt, vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.  Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức.  Thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục.  Gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện.  Đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối.  Thời nay, ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém… nhưng lại ít thấy ai ra can ngăn, cứu giúp.  Không dại gì dây dưa vào, mackeno, là biểu hiện của bệnh vô cảm.

Lối sống dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ đang hình thành một nền “văn hóa vô cảm” trong xã hội chúng ta.  Thái độ này đang được thể hiện tràn lan trong cuộc sống.  Hình ảnh những người trẻ nhường chỗ trên xe buýt cho người lớn tuổi hoặc phụ nữ có thai như là chuyện cổ tích; chuyện dửng dưng chứng kiến người thanh niên lừa một người mù đi bán vé số để cướp số tiền mưu sinh nhỏ nhoi được coi như chuyện nhỏ không đáng phải can thiệp, hay như chuyện một người phụ nữ bị đánh đập, bị lột hết quần áo và bị trói nằm trước mặt người qua đường mà chẳng ai quan tâm tới…  Môi trường sống hôm nay tràn lan những câu chuyện vô cảm như thế xảy ra hằng ngày.

Chỉ vài bước thôi ông nhà giàu có thể đến với Ladarô nghèo khổ.  Chỉ vài bước thôi thầy Tư tế và Lêvi sẽ chạm đến người bị nạn trên đường.  Chỉ vài bước thôi, sao mà khó đến vậy?  Âu cũng chỉ vì họ mắc bệnh vô cảm.

Sự vô cảm vì con người ích kỷ, tham lam.  Vì thế, suy cho cùng, bệnh vô cảm là do thiếu vắng tình yêu, xa cách với tình yêu, không quen nói về tình yêu, không quen thể hiện yêu thương, không bao giờ nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh trái ngược.  Tư tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu ước.  Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu.  Tư tế và Lêvi là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng nhất trong xã hội.  Họ chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa nhưng lại dửng dưng trước đau khổ của anh em đồng loại.  Một người Samari (thường bị người Do thái khinh bỉ, khai trừ, coi là ngoại đạo, tránh giao tiếp) tình cờ đi ngang qua, thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn nên động lòng thương.  Chuyện tình cờ xảy ra trên đường: đức ái không luôn luôn đến từ nơi người ta chờ đợi.  Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân là người Do thái hay không, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bất hạnh này.  Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”  Chính hành động làm cho anh em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ, dù đó là thầy Tư tế hay thầy Lêvi đi nữa.  Đối với nghĩa vụ đức ái, không có bất kỳ hạn định nào.  Bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người khác thật sự theo khả năng của mình.

Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương.  Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm.”  Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc.  Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu chỉ với vài bước thôi, chúng con đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thì xin cho chúng con có nhiều bước chân đi để đến với mọi người.  Chúng con biết, cuộc sống đạo sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc, Kitô hữu mà không thực hành bác ái bằng việc làm trong đời sống thì cũng chỉ là hữu danh vô thực.  Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ, chai đá, dửng dưng trước những bất hạnh khổ đau của anh em.  Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

HIỂU RÕ HY SINH

HIỂU RÕ HY SINH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chúng ta nghĩ gì khi nói mình hy sinh?  Tôi hy sinh nghề nghiệp vì con cái!  Tôi hy sinh rất nhiều cho công việc!  Tình yêu đòi hỏi chúng ta rất nhiều hy sinh!  Đôi khi chúng ta phải hy sinh chính đời sống để giữ chính trực!  Chúa Ki-tô hy sinh chính mình vì tội lỗi chúng ta!  Bí tích Thánh Thể là một hy sinh!

Từ các thành ngữ chung này, chúng ta xem thêm định nghĩa của hy sinh trong tự điển Webster: Từ bỏ một cái gì có giá trị để mưu ích cho một cái khác.

Đây là một định nghĩa đúng, nhưng nội dung còn hàm chứa nhiều điều hơn là mới nhìn lướt qua, rõ rệt hơn khi chúng ta xem lại khái niệm về hy sinh trong Sách Thánh của Do Thái và Kitô giáo.  Lấy ví dụ câu chuyện hy sinh I-xa-ác của tổ phụ Áp-ra-ham.  Đâu là lời lời kêu gọi tối hậu của Chúa khi Chúa đòi hỏi ông Áp-ra-ham hy sinh I-xa-ác.

Đây là các yếu tố bên ngoài của câu chuyện: Đã từ lâu Áp-ra-ham không có con trai.  Cuối cùng, khi mọi hy vọng của loài người không còn, bà Xa-ra thụ thai và sinh cho ông một đứa con trai, I-xa-ác, người Áp-ra-ham mô tả là “độc nhất”, “quý nhất” của ông.  Nhưng Chúa xin ông dùng I-xa-ác làm vật hiến tế.  Với tấm lòng nặng trĩu, Áp-ra-ham đồng ý và cùng I-xa-ác, hai cha con mang củi, lửa lên đường.  Trên đường đi, ông phải trả lời các câu hỏi hiếu kỳ của con vì sao họ không mang vật hiến tế đi theo.

Khi đến nơi, Áp-ra-ham nhóm củi, đốt lửa, trói I-xa-ác, rồi đưa dao lên cổ để giết.  Nhưng Chúa can thiệp.  Cuộc hiến tế ngưng lại, Chúa cho Áp-ra-ham con cừu đực làm vật hiến tế.  Câu chuyện kết thúc, ông Áp-ra-ham cùng I-xa-ác đi về trên vùng đất riêng của mình.  Đâu là bài học sâu xa trong chuyện này?

Ở một mức độ, bài học là Chúa không muốn con người hy sinh, nhưng ở một mức sâu thẳm hơn, mật thiết hơn, bài học tự trong lòng dạy chúng ta một cái gì về một nhu cầu sâu thẳm bên trong tâm hồn chúng ta, nhu cầu được tỏ tấm lòng muốn hy sinh.  Nói cách khác, bài học như sau: Để một cái gì đó được nhận như quà tặng, nó phải được nhận hai lần.  Điều này ngụ ý gì?

Theo định nghĩa, món quà là vật được tặng, tự nguyện cho, không buộc phải xứng đáng mới được nhận.  Phản ứng đầu tiên khi chúng ta nhận quà là gì?  Là câu trả lời bộc phát: “Tôi không thể nhận!  Tôi không xứng đáng nhận!”  Phản ứng bộc phát lành mạnh này là ngụ ý trả lui lại món quà.  Nhưng đương nhiên, người cho từ chối, họ trao lại món quà với lời trấn an: “Nhưng tôi muốn bạn nhận món quà này!”  Khi nhận lần thứ nhì, bây giờ món quà mới thật của mình, vì, khi muốn trả lại món quà, chúng ta nhận ra đây đúng là món quà không xứng đáng mà được hưởng.

Đây đúng là năng động trong câu chuyện hiến tế I-xa-ác.  I-xa-ác là món quà lớn nhất trong cuộc đời Áp-ra-ham, món quà ông không xứng đáng được hưởng.  Ý chí muốn hy sinh của ông đi đôi với hành vi bộc phát: “Tôi không xứng đáng được!  Tôi không thể nào nhận món quà này!”  Ông trả lại món quà.  Nhưng người cho, chính là Tình Yêu, chận đứng hành vi hy sinh và trả lại món quà.  Bây giờ Ap-ra-ham mới dám nhận I-xa-ác như một món quà, không mặc cảm có tội.  Khi họ cùng nhau đi về nhà, bây giờ I-xa-ác là đứa con theo một cách khác đứa con trước đây của ông.  Áp-ra-ham đã nhận món quà hai lần khi hy sinh món quà lần đầu.

Đó là cốt tủy của hy sinh: Để nhận cho đúng một cái gì, ngay cả chính cuộc đời chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải biết nhận thức đó là món quà, một cái gì không xứng đáng mà được hưởng.  Và đã nhận món quà thì phải hy sinh, vui lòng cho lại một phần hay trọn món quà cho người đã cho.

Đây là năng động ngụ ý trong tục lệ hiến tế ngày xưa.  Ví dụ: Nhà nông gặt hái vụ mùa.  Nhưng trước khi ông và gia đình ăn no, ông phải lấy một ít (hoa quả đầu mùa) dâng lên Chúa dưới hình thức hiến tế, thường thường đốt để khói bay lên trời, xem như một ít hoa quả dâng trả lại Chúa vì họ xem hoa quả này là món quà Chúa cho họ.  Sau khi hy sinh theo kiểu này, người nông dân và gia đình mới thoải mái ăn no mà không có mặc cảm mang tội vì, qua hành vi trả lại người cho, họ ý thức đó là món quà.  Bây giờ họ mới thưởng thức mà không mang mặc cảm tội, vì họ đã hy sinh, họ đã biết đây là món quà.

Đó là cốt tủy bên trong của mọi hy sinh, dù hy sinh nghề nghiệp vì con cái hay hy sinh của Chúa Giê-su trên thập giá.  Hy sinh là nhận biết món quà là món quà.  Giống như ông Áp-ra-ham, cố gắng trả lại món quà cho người cho, nhưng người cho chận lại sự hy sinh và cho ông lại một cách sâu xa hơn. 

Chúng ta sẽ tận hưởng cuộc sống sâu đậm hơn nếu chúng ta hiểu được điều này.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From:Langthangchieutim

GỢI Ý CỦNG CỐ GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO

GỢI Ý CỦNG CỐ GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO

Để ý quan sát, chúng ta có thể thấy rằng gia đình đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Là những người theo Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội nhỏ bé là gia đình mình, chúng ta phải cố gắng cứu lấy con cái, cứu lấy giới trẻ, bằng cách cứu lấy chính gia đình của mình. Tính bi quan, tính diễu cợt, và tính hoài nghi không thể ngự trị trong tâm hồn chúng ta, mà phải là sự tự tin và hy vọng để chúng ta có thể xây dựng thế giới tốt đẹp hơn bằng cách cố gắng làm cho gia đình thánh thiện hơn.

Chúng ta có Mười Vitamin để tăng sức sống cho gia đình. Bằng cách này, chúng ta có thể giúp nhau thanh lọc, cải thiện, và làm cho gia đình hoàn hảo hơn. Thánh GH Gioan Phaolô II diễn tả sự thật này rất rõ ràng: “Gia đình là tòa nhà nền tảng của xã hội… Gia đình tiến bộ thì xã hội cũng tiến bộ”. Hy vọng rằng các gợi ý dưới đây thực sự tạo sự khác biệt trong cuộc chiến làm cho gia đình tốt đẹp. Đừng bao giờ quên những lời an ủi của Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

  1. CẦU NGUYỆN CHUNG

Một trong các lý do đầu tiên để xung khắc, cãi nhau, cay đắng, lạnh nhạt và chia tay là thiếu cầu nguyện trong gia đình. Ôxy cần cho phổi, cầu nguyện cần cho linh hồn. Cầu nguyện là trung tâm và là trái tim của gia đình. Hãy nhớ lời của một linh mục mệnh danh là linh mục của Kinh Mân Côi – Lm Patrick Peyton: “Gia đình nào cầu nguyện với nhau thì hài hòa với nhau”.

  1. NGƯỜI CHA VÀ NGƯỜI MẸ

Người cha phải là đầu của gia đình, người mẹ phải là trái tim của gia đình. Gia đình không có đầu thì giống như quái vật Frankenstein; gia đình không có trái tim là gia đình chết. Mong sao người cha là người lãnh đạo tinh thần của gia đình!

Người cha cũng phải là người bảo vệ sự sống, luôn yêu thương vợ con. Là người lãnh đạo tinh thần của gia đình, nghĩa là người cha dẫn đầu trong cuộc sống cầu nguyện của gia đình. Người cha nên noi gương sáng của Đức Thánh Giuse.

  1. THA THỨ VÀ THƯƠNG XÓT

Trong nhiều gia đình, sự lạnh nhạt, sự hờ hững, và thậm chí là sự cay đắng thâm nhập vào cơ cấu gia đình. Tại sao? Một trong các lý do là thiếu sự tha thứ. Các thành viên gia đình phải có lòng thương xót và tha thứ, không chỉ 7 lần mà 70 lần 7 – nghĩa là tha thứ luôn luôn! Nếu chúng ta muốn được tha thứ thì chúng ta phải thật lòng tha thứ cho người khác. Lời Kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

  1. LỜI HAY Ý ĐẸP

Thi sĩ Alexander Pope, người Anh, viết: “To err is human, to forgive is divine” (Sai lầm là phàm nhân, tha thứ là siêu phàm). Các thành viên gia đình phải học cách nói những lời hay ý đẹp: Xin lỗi, cảm ơn,… Lời này rất quan trọng: “Thôi, bỏ qua!”. Những lời tốt lành như vậy được thường xuyên sử dụng sẽ có thể cứu được gia đình!

  1. THÁI ĐỘ PHỤC VỤ

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, đã rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Mỗi thành viên gia đình không chỉ mong được phục vụ, mà còn phải luôn luôn sẵn sàng phục vụ mọi người trong gia đình. Yêu thương và phục vụ luôn đồng nghĩa với nhau.

  1. BÀY TỎ BIẾT ƠN

Mặc dù có thể là điều nhỏ và không quan trọng, nhưng lời cảm ơn là loại gia vị nên thêm vào “thực đơn sống” của gia đình. Thánh Inhaxio Loyola nói: “Bản chất của tội lỗi là sự vô ơn”. Hãy nuôi dưỡng lòng biết ơn trong gia đình! Có điều gì chúng ta có mà không nhận từ Thiên Chúa? Chỉ có một điều: Tội lỗi của chúng ta – chúng ta tự chọn cho chính mình. Thiên Chúa yêu thương những tâm hồn khiêm hạ và biết ơn!

  1. HOẠT ĐỘNG DỨT KHOÁT

Thời gian quan trọng trong đời sống gia đình là giờ ăn. Đó là lúc gia đình nối kết, chia sẻ kinh nghiệm, dành thời gian cho nhau, và là lúc phát triển tình yêu thương dành cho nhau. Mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13:34).

Có truyện khôi hài về gia đình: Cùng ngồi bên nhau nhưng người cha xem ti-vi, người mẹ dùng điện thoại thông minh, các con thì đứa này chơi game, đứa kia lướt weg, đứa nọ chat qua zalo, viber, twitter, hoặc gắn tai nghe… Một cảnh tượng bình thường ngày nay mà lại rất ư là bất thường. Họ ngồi gần nhau nhưng lại rất xa nhau. Vấn đề cần làm ngay để cứu lấy gia đình là phải dẹp bỏ hết mọi thứ để cùng nhau ăn cơm và chia sẻ với nhau trong khoảng 30 phút. Đặc biệt là hãy cùng nhau cầu nguyện, ít là một chục Kinh Mân Côi, trước khi đi ngủ. Tùy thuộc vào mỗi chúng ta mà hòa bình có hay không đối với thế giới và chính đất nước mình. Đức Mẹ vẫn luôn chờ đợi chúng ta!

  1. HỌC CÁCH LẮNG NGHE

Lắng nghe là nghệ thuật khó, nhất là đối với các thành viên gia đình. Chúng ta có xu hướng tránh né nhau, và không muốn lắng nghe nhau, thế nhưng lại dễ nghe người ngoài – mà rồi họ chỉ xúi dại chứ đâu có thật lòng. Hãy cảnh giác, và hãy nghe Kinh Thánh dạy: “Trước mặt người lạ, chớ làm điều phải giữ kín, vì con chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Đừng tâm sự với bất cứ người nào, đừng tưởng làm như vậy là người ta thích” (Hc 8:18-19).

  1. KỶ NIỆM

Các dịp lễ, tết, sinh nhật, giỗ chạp,… hoặc ngày rửa tội, thêm sức,… Đó là những cơ hội tốt để thể hiện tình cảm gia đình. Chúng ta nên có thói quen tốt đẹp đó. Thánh Phaolô đã động viên:“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4)

  1. TẬN HIẾN CHO ĐỨC MẸ

Khi hiện ra tại Fátima, một trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ nhắn nhủ là “tôn sùng Mẫu Tâm”. Có nhiều cách yêu mến Đức Mẹ, một cách phổ biến và đơn giản là đọc Kinh Mân Côi – và cũng là một mệnh lệnh khác trong ba mệnh lệnh Đức Mẹ đưa ra tại Fátima. Với 20 mầu nhiệm Mân Côi, chúng ta “đi tắt” suốt Tân Ước và “trải qua” các chặng đời của Đức Kitô. Như Đức Mẹ đã hứa, lòng sùng kính Đức Mẹ sinh nhiều hoa trái trong gia đình: bình an, vui mừng, yêu thương, hạnh phúc, chia sẻ, hiểu nhau, kiên nhẫn, thanh khiết, khiêm nhường, tử tế,… Tóm lại, tận hiến cho Đức Mẹ là nhờ Mẹ mà tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, gia đình sẽ trở nên nơi thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

  1. ED BROOM, OMV

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Chiều 13-6-2019

BÌNH AN

BÌNH AN

 Nói đến các trường đại học nổi tiếng tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, người ta không thể không nhắc đến đại học Ateneo de Manila của các Linh mục Dòng Tên.  Đây là một trong những trường cung cấp rất nhiều nhân tài cho nước Phi Luật Tân và dĩ nhiên là đa số học sinh và sinh và sinh viên của đại học này đều là thành phần khá giả trong xã hội. 

Dưới chân trường học nằm trên một ngọn đồi này là một khu lao động nghèo mà có lẽ nhiều người không biết đến, và trong cái xóm nghèo nàn ấy có một cộng đoàn tu sĩ mà có lẽ nhiều người không biết đến, đó là cộng đoàn các tiểu đệ Charles de Foucaul, đa số các tu sĩ sống ở đây là người Việt Nam hoặc từng sống ở Việt Nam.

 Một hôm, một Linh Mục Dòng Tên người Mỹ là giáo sư đại học Ateneo tình cờ đi lạc vào trong cái khu lao động ấy, điều làm cho ông ngạc nhiên là trong cái khu nghèo nàn đó lại có một người Bỉ, đây là một tiểu đệ đã sống ở Việt Nam gần 30 năm và đã bị trục xuất sau năm 1975.  Sau một hồi trao đổi với nhau, vị linh mục người Mỹ mới hỏi người Bỉ như sau: Ông làm gì ở đây?  Người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, tôi nấu ăn, tôi giặt quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu lao động này.

 Nghe thế vị linh mục người Mỹ như có vẻ tiếc rẻ sự hy sinh lãng phí của người Bỉ.  Ông nói về mình như sau: Còn tôi, tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình.  Tôi đi đây đi đó, tôi đào tạo những người hữu ích cho xã hội.

 Cuộc gặp gỡ và đối thoại trên đây giữa hai vị tu sĩ trong Giáo Hội, có lẽ cho chúng ta thấy được một số những khía cạnh khác nhau trong công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội.  Vị Giáo sư người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo trong xã hội trên khắp thế giới, từ thành thị cho đến thôn quê, từ học đường cho đến các xưởng, từ đất Kinh đến miền thượng… nơi nào cũng có những nhà truyền giáo ngày đêm hăng say truyền giáo và hoạt động.  Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động và rao giảng, thì cũng có những nhà truyền giáo sống giống như chứng nhân Tin Mừng.

 Việc tiểu đệ Charles de Foucaul người Bỉ trên đây có lẽ là tiêu biểu của không biết bao nhiêu nhà truyền giáo âm thầm lấy cuộc sống chia sẻ của mình như một chứng từ cho Nước Chúa.  Tựu trung tích cực hoạt đồng hay âm thầm sống chứng nhân, cả hai hình thức đều có chung một sứ mệnh, đó là làm chứng cho Đức Kitô và mở mang Nước Chúa.  Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã đề ra cho các đồ đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng.  Ngài nói với các ông: “Các con đừng mang theo túi, tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường.”  Như vậy, một cuộc sống siêu thoát một cuộc sống không lệ thuộc vào những của cải trần gian này, đó là biểu hiện tiên quyết của những chứng nhân Nước Trời.

 Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương xứ sở của mình để đến một vùng đất xa lạ.  Ra đi thiết yếu là ra khỏi chính mình, ra khỏi con người ích kỷ của mình để đi đến với tha nhân trong tinh thần hòa giải, yêu thương, phục vụ quên mình.  Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh mà Đức Giêsu trao ban các môn đệ khi Ngài nói: “Vào nhà nào trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này.”  Hiện diện với tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông, tha thứ, đó là sự ra đi đích thực của nhà truyền giáo.

 Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.  Điều đó có nghĩa là Giáo Hội phải thể hiện ý muốn của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo, nước của công lý, nước của hòa bình, nước của yêu thương, nước đó phải được tìm thấy trong Giáo Hội của Đức Kitô.  Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu chúng ta tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo.  Điều đó cũng có nghĩa là những giá trị của Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống của chúng ta. 

Người tín hữu Kitô sẽ chỉ là người có tên gọi, có danh nghĩa mà không có thực chất nếu cuộc sống của họ chưa thực sự là một chứng nhân của Nước Trời.  Trong một xã hội nếu chỉ có những lời lẽ rêu rao và những khẩu hiệu rỗng tuếch thì con người chưa đạt được những thực tại của Nước Trời, hơn bao giờ hết người tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn, đó là trở thành những điểm tựa đáng tin cậy, những chứng từ sống động của những thực tại Nước Trời.

 Chúng ta sẽ phải sống như thế nào để những người xung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ như các người Do thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải thốt lên: “Xem kìa, họ thương nhau là dường nào.”  Kitô giáo thiết yếu là một sức sống, sức sống ấy chính là Đức Giêsu Kitô, và sống đạo là sống bằng chính sức sống của Chúa Giêsu và truyền đạt sức sống ấy cho mọi người xung quanh.  Chúng ta hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn để đón nhận sức sống ấy và chia sẻ sức sống ấy với tất cả mọi người qua mọi thế hệ. 

Sưu tầm

 From: Langthangchieutim

CHỨNG KIẾN TOMA Ở MỌI THỜI ĐẠI

Ngày 3 tháng 7
Lễ Thánh Tôma Tông Ðồ

Tuyết Mai

CHỨNG KIẾN TOMA Ở MỌI THỜI ĐẠI

 

Nhắc đến thánh Toma Tông Đồ, một tông đồ có lòng tin yếu kém thì không ai lại không biết vì chính chúng ta đây cũng là Toma ở thời đại của ngày hôm nay. Bất chấp anh chị em nào có bảo cho chúng ta biết rằng họ đã thấy Chúa không bằng mắt thịt nhưng bằng đức tin vì họ được Chúa chữa lành, được ơn trở lại sau mấy mươi năm sống xa Chúa, gia đình được yên ấm không còn xào xáo vì trẻ già xung khắc, chồng bỏ được rượu chè hay ít nhất là được Chúa ban cho ơn bình an trong tâm hồn để mà về chuẩn bị cho sự ra đi mãi mãi.

Chúng ta thử hỏi xem nếu Toma Tông Đồ ngày xưa mà Chúa Giêsu không hiện ra bằng xương bằng thịt để cho ông xỏ tay vào lỗ đinh hay xỏ tay vào cạnh sườn Ngài thì làm gì chúng ta có được bài học về đức tin yếu kém giống như Tông Đồ Toma nhỉ?. Nhờ bài học về Tông Đồ Toma mới cho chúng ta thấy rằng đức tin của tất cả mọi người đều yếu kém y như thế; nếu Chúa không ban cho ta ơn để biết cảm nhận từ một sự việc mà các bác sĩ không có thể giải thích được là tại sao khối ung thư trong hình chụp X-quang ấy bây giờ nó biến đâu mất tiêu?.

Và khi chúng ta cảm nhận được những ơn Chúa ban cho như một phép lạ thì khó lòng cho chúng ta ngậm miệng lại được lắm mà không cao rao những lời ngợi khen Chúa và rao truyền mạnh mẽ cho mọi người cùng biết với để cùng tạ ơn Chúa. Như chuyện dụ ngôn xưa Chúa Giêsu kể về người đàn bà đã mất 1 đồng tiền mà sau khi soi đèn tìm thấy được thì bà đã vô cùng vui mừng mời anh chị em lối xóm để chung vui với bà; mà đấy chỉ là một chuyện nhỏ và là niềm vui nho nhỏ. Huống gì khi chúng ta nhận được một ơn vô cùng lớn lao mà biết rằng chỉ duy nhất có Chúa mới có thể ban cho chúng ta mà thôi … Thiết nghĩ không ai có thể giữ riêng cho mình ở điều nhận được mà cho ta hạnh phúc đến vậy.

Chúng ta cũng nên hiểu rằng tuy tông đồ Toma có đức tin yếu kém hẳn Chúa Giêsu biết rất rõ điều đó và biết cả tấm lòng nhiệt huyết của Toma nên Chúa Giêsu đã phải hiện ra để củng cố thêm niềm tin cho ông. Để ông rồi không còn một chút nghi ngờ, một chút lấn cấn mà mạnh bước trên con đường Rao Giảng Tin Mừng và Nước Trời đến cho muôn dân và đến tận cùng thế giới; trong khả năng có giới hạn mà Chúa ban riêng cho ông.

Thế đấy, Chúa có cách riêng của Ngài mà chúng ta cần nên biết như thế nên chúng ta cũng đừng nên nghi ngờ về công việc làm của Chúa qua anh chị em của chúng ta trải qua nhiều thời đại, khi còn sống. Đơn giản là vì sự hiểu biết của chúng ta quá yếu kém, quá hạn hẹp, quá hẹp hòi và quá lý giải nên Ý Chúa không được thực thi nơi chúng ta mà thôi. Cũng là vì Thiên Chúa không có thành kiến. Mà điều nguy hiểm nhất là chúng ta lại làm rào cản cho những ai muốn đến với Chúa mà không đến được.

Thiên Chúa luôn yêu thương những ai như Toma vì đâu phải ai cũng thấy được Chúa đâu mà dễ tin đến vậy nên đâm ra cứng lòng tin, là chuyện bình thường. Nhất là trong cuộc sống mà người vô thần thì nhiều, gương xấu cũng nhiều, tội lỗi thì tràn lan và riết rồi con người luôn chuộng vật chất hơn. Họ luôn chạy chức, chạy quyền để một bước ra ngoài là có ô tô; có người cầm dù che nắng, che mưa và cầm giùm cặp táp cho như thể bị bại liệt.

Lạy Chúa Giêsu vì đức tin của chúng con cứng cỏi và chai lì giống tông đồ Toma, xin thương ban cho hết thảy chúng con được thấy Chúa trong niềm tin, cậy, mến và luôn mở lòng để đón ý Chúa. Vì chúng con tin rằng không một ai con cái của Chúa ngay cả người khuyết tật mà không làm được gì sau khi được Chúa đã ban cho một đặc ân riêng, một khí cụ thích hợp để góng góp bàn tay trong công trình của Chúa nơi trần gian này. Amen.

Y Tá của Chúa, 
Tuyết Mai 
3 tháng 7, 2019

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI


SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Tận hưởng giây phút hiện tại, ngày mai có việc của ngày mai!  Ai cũng muốn tận hưởng giây phút hiện tại.  Nhưng như tiểu thuyết gia người Ái Nhĩ Lan John McGahern nói: “Không có điều gì khó hơn là tận hưởng giây phút hiện tại!”  Tại sao?  Bởi vì chúng ta rất ngây thơ về chuyện này.

Chẳng hạn, như chàng thanh niên trẻ từng viết thư cho thi sĩ Rainer Marie Rilke than phiền anh muốn trở thành nhà thơ, nhưng cuộc sống thường ngày không tạo cho anh nhiều cảm hứng.  Anh phàn nàn cuộc sống của anh không phải là chất liệu cho thi ca, cuộc sống trong một ngôi làng nhỏ quá nhiều vất vả và áp lực.  Làm sao anh có thể làm thơ trong hoàn cảnh như vậy?  Chàng trai kết thúc bức thư nói rằng anh thèm có một cuộc sống như Rilke: thi sĩ được mến mộ, sống ở thành phố lớn, gặp được nhiều người thú vị.  Rilke dứt khoát không đồng ý với anh, ông hồi âm: “Cuộc sống hằng ngày có vẻ nhàm chán đối với bạn, hay bạn không đủ chất thơ để phát huy hết tất cả nét phong phú của cuộc sống này.  Vì đối với một thi sĩ, không đâu là không thú vị, không cảnh huống nào là không thú vị.”  Giây phút hiện tại vẫn còn đó để mình tận hưởng.

Robertson Davies, một văn sĩ nổi tiếng Canada kể lại câu chuyện tương tự, ông nói có lần ông nhận được bức thư của một chàng thanh niên nhờ ông viết thư giới thiệu xin tiền trợ cấp cho anh đi nghỉ mát ở Mê-xi-cô viết cuốn tiểu thuyết tiếp theo, vì anh là một cây viết đầy triển vọng.  Davies trả lời ông sẽ không viết lá thư đó, không phải vì không muốn giúp anh, ngược lại ông còn chúc anh trở thành một nhà văn nổi tiếng, nhưng vì ông cảm thấy chàng trai có ảo tưởng sai lầm nghĩ rằng mình sẽ tận hưởng giây phút đó để viết tiểu thuyết.  Davies khuyên anh nên cẩn thận về tính lãng mạn đặt không đúng chỗ: “Bạn muốn viết một điều gì đó sâu đậm và đầy cảm hứng trong lúc uống rượu và đi bộ trên bãi biển chăng?”  Nhà thơ khuyến cáo, không phải như vậy mà viết được.  Hãy ở nhà và viết cuốn tiểu thuyết của bạn.  Bà Annie Dillard cũng đưa ra lời khuyên tương tự.  Bà thích viết trong một túp lều gỗ kín mít.  Đối với bà, tận hưởng giây phút hiện tại ở một nơi yên tĩnh thì dễ hơn là nơi đông đúc, nơi ai cũng thấy.

Những ví dụ này cho thấy chúng ta thường bỏ quên giây phút hiện tại vì chúng ta có một ý niệm quá lãng mạn, sai lầm giống như hai chàng thanh niên xin các ông Rilke và Davies giúp đỡ.  Bằng cách nào để chúng ta có thể tận hưởng giây phút hiện tại?

Tôi thích câu trả lời của David Steindl-Rast.  Ông đưa ra một ẩn dụ rất hay về ý nghĩa tận hưởng giây phút hiện tại: Đối với ông, chúng ta nên hưởng giây phút hiện tại bằng cách “gặp thiên thần của từng giờ”.  Những thiên thần này là ai?  Họ là tài sản phong phú duy nhất gắn liền với từng giờ.

Mỗi mùa, tùy theo niên lịch văn hóa hay tôn giáo đều mang đến một tinh thần, một tâm trạng, một cảm xúc nào đó mà thỉnh thoảng chúng ta níu giữ lại, nhưng đôi khi chúng ta lại để hụt mất.  Cũng vậy với các giây phút trong ngày – sáng, trưa, xế chiều, chiều, tối, khuya.  Mỗi khoảnh khắc có một ánh sáng duy nhất, một tác động duy nhất lên cảm xúc chúng ta, và nói theo kiểu ẩn dụ, mỗi khoảnh khắc có mỗi thiên thần riêng đem đến cho chúng ta các ơn huệ đặc biệt.  Chẳng hạn, ánh sáng bình minh khác với ánh sáng hoàng hôn.  Vì thế, thiên thần bình minh tác động lên chúng ta khác với thiên thần hoàng hôn.  Tận hưởng giây phút hiện tại là gặp các thiên thần và để họ ban phúc lành cho chúng ta.

Tuy nhiên, chúng ta rất dễ quên điều này.  Ai trong chúng ta cũng đã từng nói: “Năm nay tôi bận rộn và căng thẳng đến nỗi quên khuấy mùa xuân đã trôi qua.”  “Năm nay tôi không chuẩn bị được lễ Giáng Sinh, bạn tôi vừa chết đầu tháng mười hai.”  “Tôi hụt mất mùa Chay năm nay.  Tôi lu bu nhiều việc đến nỗi mùa chay đến và đi hồi nào không hay.  Bạn biết những chuyện này xảy ra như thế nào rồi còn gì!”

Đúng là chúng ta đều đã làm như vậy.  Nhiều thứ ngăn cản chúng ta đến với các thiên thần của mỗi giờ – bận rộn, mệt mỏi, tiêu khiển, đau buồn, giận dữ, mơ mộng, căng thẳng, hấp tấp.  Bỏ quên một mùa đặc biệt cũng dễ và bỏ quên một buổi sáng, một buổi chiều, một buổi tối, hay một ngày bình thường lại càng dễ hơn.

Chúng ta phải làm gì để không bỏ quên những giây phút này?  Chúng ta cần cầu nguyện.  Đơn giản: Nếu chúng ta không cầu nguyện vào một buổi sáng nào đó, sự thiếu sót này làm mất lòng Thiên Chúa.  Chúng ta không được Chúa trợ giúp khi cầu nguyện.  Cầu nguyện là món quà, không phải là món nợ.  Nhưng, nếu chúng ta quên cầu nguyện vào một buổi sáng nào đó thì kinh nghiệm trở đi trở lại cho thấy, một cách rõ ràng, mối nguy hiểm thật sự là chúng ta cũng sẽ bỏ quên luôn cả buổi sáng hôm đó.  Buổi sáng sẽ đến và đi và chúng ta sẽ không gặp lại các thiên thần của buổi sáng – ánh sáng, tâm trạng, tinh thần, và sự tươi mới độc đáo của nó nữa.  Buổi trưa sẽ túm lấy chúng ta thậm chí trước khi chúng ta kịp nhận ra vừa có một buổi sáng.  Mặt trời buổi trưa và chiều sẽ mang đến những thiên thần mới, nhưng khi chúng ta bỏ quên các thiên thần buổi sáng, chúng ta cũng có thói quen bỏ quên luôn các thiên thần buổi trưa.  Một ngày sẽ đến và sẽ đi và chúng ta sẽ không giữ lại được… và nó cũng chẳng thay đổi gì quan trọng, theo cách nói của ơn huệ và hân hoan trong cuộc sống dù cho chúng ta có đang dạo bước trên bờ biển Mê-xi-cô hay ngồi trong túp lều gỗ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From:Langthangchieutim