ĐỂ LÊN TRỜI CẦN BẮT CHƯỚC CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ

ĐỂ LÊN TRỜI CẦN BẮT CHƯỚC CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ

Sống trên đời ai cũng có một người mẹ.  Người mẹ đó không chỉ sinh ra chúng ta mà còn yêu thương và nuôi dạy chúng ta lớn lên thành người.  Vì vậy, qua mọi thời, con người không ngớt lời ca ngợi công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ.  Con dân Nước Việt cũng có nhiều câu ca dao tục ngữ, để nói lên tình yêu vô bờ bến của người mẹ:

Đôi vai mẹ một gánh đầy huyền thoại,

tình yêu thương hào phóng đến khôn cùng;

Mênh mông bát ngát đại dương,

Cũng không sánh được tình thương mẹ hiền.

Nhưng cho dầu có dùng hết ngôn ngữ trần gian để ca tụng tình mẹ, thì cũng không thể nào diễn tả hết:

Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,

Đựng sao đầy hai tiếng: Mẹ ơi!

Trong đức tin Công giáo, mỗi người kitô hữu chúng ta có chung một người Mẹ, đó là Đức Maria.  Công ơn của Mẹ Maria đối với mọi người không những không thua kém người mẹ trần thế mà còn gấp ngàn lần.  Mẹ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh và là Mẹ của mỗi người chúng ta.  Nhờ Mẹ, chúng ta có Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc loài người.  Nhờ Mẹ chúng ta có tất cả trong đức tin: Được làm người Công giáo, được lãnh nhận các Bí tích, được có nhiều cơ hội để lo phần rỗi hầu ngày sau được về Thiên đàng.

Mẹ được Thiên Chúa ban cho 4 đặc ân cao cả: Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, đặc ân Đồng trinh trọn đời, đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa và đặc ân Hồn Lẫn Xác Lên Trời.  Đối với đặc ân Hồn Xác Lên Trời đã được truyền thống Giáo hội và các Kitô hữu tôn kính từ xa xưa, nhưng mãi tới ngày 01 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo hoàng Piô XII mới tuyên bố thành tín điều.  Mặc dầu trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ về đặc ân này, nhưng nếu chúng ta để ý thì chúng ta vẫn thấy đặc ân Mẹ Lên Trời cả hồn lẫn xác ẩn chứa trong nhiều đoạn Kinh Thánh.  Chẳng hạn, lời thiên thần chào Mẹ “Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ.” Hay lời ca tụng của bà Êlizabét: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).  Rồi, lời ca tụng Thiên Chúa của Đức Mẹ trong bài Magnificat: “Từ nay muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc, bởi Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả.” (x. Lc 1,48-49).  Mặt khác, bình thường chúng ta cũng có thể dễ chấp nhận đặc ân này.  Bởi vì, thân xác chết là do tội lỗi.  Nhưng Đức Maria không hề mắc tội Tổ tông truyền và tội riêng.  Do đó, thân xác Mẹ không bị hủy hoại tiêu tan.

Hơn nữa, các thánh và nhiều bậc thông thái trong Giáo hội cũng đã từng quả quyết về việc Đức Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn lẫn xác.  Thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: “Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.”  Cha Ađômêô thì nói rằng: “Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.”

Ngày lễ hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta tuyên xưng niềm tin hồn xác lên trời của Mẹ.  Đồng thời, chúng ta cùng cảm tạ Thiên Chúa vì đã thưởng công Mẹ hồn xác lên trời.  Mặt khác, đây là dịp nhắc nhở chúng ta rằng, quê hương chúng ta ở trên trời.  Mẹ đã lên trời, đó là niềm hy vọng để mỗi người chúng ta tiếp bước theo sau.  Nhưng để được lên trời với Mẹ chúng ta phải cố gắng sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi.  Sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi đó chính là noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ:

Thứ nhất, chúng ta bắt chước nhân đức khiêm nhường của Mẹ: Sau lời sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đã khiêm tốn thưa với Thiên thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” (Lc 1,38).  Từ đó, Mẹ sống tinh thần khiêm nhường thẳm sâu trước mặt Chúa và mọi người: Khi Bà Êlizabét ca ngợi Mẹ, Mẹ đã qui hướng tất cả những gì mình có là do tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn;”(Lc 1,49).  Mẹ sống âm thầm trong vai trò làm vợ và làm mẹ tại mái ấm gia đình Nagiarét đến nỗi không ai biết Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa; Khi Đức Giêsu được nổi danh do lời giảng dạy và các phép lạ Ngài làm, Đức Mẹ vẫn sống âm thầm và ẩn danh… Tất cả điều đó cho chúng ta thấy nhân đức khiêm nhường của Mẹ.  Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.

Thứ hai, chúng ta bắt chước Mẹ sống tin tưởng và phó thác vào Chúa: Sau khi thưa xin vâng, Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu.  Bào thai trong cung lòng của Mẹ ngày càng lớn lên.  Nhưng không ai hiểu về nguyên nhân, kể cả Thánh Giuse.  Bằng chứng là Thánh Giuse định tâm bỏ Mẹ mà trốn đi.  Rồi, người thân và làng xóm láng giềng, chắc chắn không thiếu những lời đàm tiếu, thị phi.  Vậy mà Mẹ vẫn tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.  Đúng như lời bà Thánh Êlizabét ca tụng Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).  Sự tin tưởng và phó thác vào Chúa của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.

Thứ ba, chúng ta bắt chước Mẹ để sống hiền lành và nhịn nhục: Từ khi cưu mang Đức Giêsu cho đến khi Con Mẹ chịu chết treo trên thập giá, Đức Mẹ phải đối diện với biết bao đau khổ: Đau khổ khi nghe ông Simêon nói tiên tri về Mẹ và Hài Nhi; Đau khổ khi đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập khỏi tay Hêrôđê lùng bắt; Đau khổ khi lạc mất Con ở Jêsusalem trong ba ngày; Đau khổ khi gặp Đức Giêsu vác Thập giá trên đường đến Núi Sọ; Đau khổ khi thấy Đức Giêsu bị đóng đinh; Đau khổ khi chứng kiến việc tháo xác Đức Giêsu xuống khỏi thập giá; Đau khổ khi phải chứng kiến việc chôn xác Đức Giêsu trong mồ.  Nhưng trong khi chịu đựng những đau khổ đó, Đức Mẹ không hề trách móc kêu la một lời nào.  Sự hiền lành và nhịn nhục của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta noi theo.

Thứ tư, chúng ta bắt chước Mẹ để hết lòng yêu mến Chúa: Lòng yêu mến Chúa của Mẹ được thể hiện qua những việc tiêu biểu như:  Ba tuổi Mẹ đã dâng mình trong đền thờ; Khi Thiên thần đến truyền tin cũng là lúc Mẹ đang đắm chìm trong lời kinh nguyện; Mẹ thưa “Xin Vâng” để cộng tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa; Hơn ba mươi năm Mẹ nuôi nấng chăm sóc Đức Giêsu; Mẹ chạy đôn đáo tìm cho bằng được khi Đức Giêsu đi lạc trong đền thờ…  Tất cả những thái độ trên đều thể hiện một lòng yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự của Mẹ.  Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.

Thứ năm, chúng ta bắt chước Mẹ để sống yêu thương hết mọi người: Vì yêu thương nhân loại nên Mẹ đã chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó nhân loại được cứu chuộc.  Vì yêu thương nên Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà Êlizabét để chia sẻ niềm vui có Chúa và để giúp đỡ bà chị họ trong những ngày thai nghén sinh nở.  Vì yêu thương nên Mẹ đã cầu bầu cùng Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu ngon để cứu gia chủ khi họ hết rượu.  Vì yêu thương nên khi đã về trời Mẹ vẫn hiện ra đây đó trên thế giới để ủi an nâng đỡ con cái loài người…  Đó là mẫu gương yêu người cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.

Như vậy, Đức Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhờ những đặc ân Thiên Chúa ban mà còn nhờ những nhân đức mà Mẹ ra sức rèn luyện.  Chúng ta muốn được lên Thiên đàng phải đi con đường Mẹ đã đi, phải sống như Mẹ đã sống, đó là biết noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.

Lạy Thiên Chúa là nguồn Tình Yêu, Chúa đã cho Mẹ hồn xác lên trời.  Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin giúp chúng con biết sống làm sao để một ngày kia cũng được hưởng hạnh phúc trên Trời với Mẹ.  Amen.

 Lm. Anthony Trung Thành

From Langthangchieutim

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

Trong Phúc âm, từ “đám đông” gần như luôn luôn được sử dụng với ngụ ý chê bai, thường xuyên đến mức lúc nào nhắc tới nó thì bạn liên tưởng đến tính từ “vô tâm.”

Đám đông không có tâm trí.  Họ được châm ngòi và thôi thúc bởi bất kỳ loại năng lượng gì đang phổ biến, đang phóng đại, thói thời thượng, đua đòi theo ý thức hệ, hay trong cơn cuồng loạn.  Trong Phúc âm, loại năng lượng này được gọi là “sự kinh ngạc.”  Rất nhiều trường hợp khi Chúa Giê-su nói hoặc làm điều gì gây ngạc nhiên cho đám đông, thì hầu như bao giờ cũng có câu này theo sau: “và đám đông kinh ngạc.”  Hiếm khi đó là một điều hay.

Tại sao?  Có vấn đề gì sai trái hay nguy hiểm về năng-lượng-đám-đông này?

Năng-lượng-đám-đông nguy hiểm bởi vì, trong hầu hết mọi trường hợp, nó không suy nghĩ.  Nó chỉ đơn thuần là dẫn và truyền đi năng lượng chứ không suy xét và chuyển hóa năng lượng.  Một hình ảnh minh họa thích hợp cho năng-lượng-đám-đông, sự kinh ngạc theo nghĩa trong kinh thánh, là sợi dây điện.  Sợi dây điện đơn thuần là để tải năng lượng đi qua.  Nó không phân biệt loại năng lượng đó tốt lành hay có tính hủy diệt.  Nó là vật dẫn thuần túy.  Bất cứ cái gì đi vào thì chính cái đó đi ra.

Các đám đông có xu hướng hành xử giống nhau.  Họ để năng lượng đi qua mình mà không phân biệt và suy xét năng lượng đó tốt hay xấu.  Ví dụ, chúng ta thường nói bị/được cuốn theo vào một loại năng lượng nào đó.  Đôi khi đó là năng lượng tốt, khi đám đông được cuốn theo một loại năng lượng tích cực, giúp xây dựng cộng đồng.  Ví dụ, trong mấy tuần qua, dân chúng trên thế giới cuốn theo cuộc giải cứu những người thợ mỏ bị mắc kẹt dưới hầm mỏ ở Chi-lê, và năng lượng chung đó đã giúp tạo ra một cộng đồng xuyên qua ranh giới các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo và chính trị.  Chúng ta cũng thấy hầu hết các năng-lượng-đám-đông tích cực xung quanh các sự kiện thể thao chẳng hạn như Giải Vô địch Bóng đá Thế giới World Cup, giải Vô địch Bóng chày Thế giới World Series of Baseball, hay nhiều giải quần vợt.

Nhưng hầu hết năng lượng của đám đông mang tính cách tiêu cực, năng lượng của ý thức hệ, của chủ nghĩa nguyên giáo, phân biệt chủng tộc, thói thời thượng, và sự phóng đại.  Năng-lượng-đám-đông là năng lượng thúc đẩy cưỡng bức tập thể.  Đó cũng là năng lượng đằng sau việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.  Vấn đề sáng tỏ khi nhìn đám đông đó trước và trong cuộc đóng đinh trên thập giá.  Năm ngày trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su bước vào thành Jerusalem và đám đông cuồng nhiệt hô vang lời tán tụng, muốn tôn người lên làm vua của họ.  Năm ngày sau, hầu như chẳng có gì thay đổi, cũng cùng đám đông đó la hét: “Đóng đinh hắn vào thập giá!  Đóng đinh hắn vào thập giá!”  Đám đông hay thay đổi vì đám đông không suy nghĩ.  Họ chỉ đơn thuần truyền tải bất cứ năng lượng gì đang bao phủ họ.

Phúc âm kể câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và bị đám đông nhiệt tình dẫn đến gặp Chúa Giê-su, ở đây chúng ta thấy một minh họa trọn vẹn nhất cho loại năng lượng không suy xét, nguy hiểm của đám đông tương phản với loại năng lượng có suy xét của cá nhân.  Câu chuyện kể đám đông dẫn người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su và yêu cầu Ngài phải đồng ý với họ về mặt luân lý rằng phải ném đá bà ta cho đến chết.  Nhưng Giê-su, với lời thách thức nổi tiếng, bảo họ rằng: “Ai thấy mình không có tội thì ném trước.”  Phản ứng của họ là: “Họ bỏ đi, từng người một, đầu tiên là người lớn tuổi nhất.”  Một đám đông vô tâm, bị cuốn theo cơn bốc đồng về luân lý, đã đem người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su.  Nhưng họ bỏ đi với tư cách cá nhân, từng người một, không còn bị cuốn đi trong cơn bốc đồng kinh ngạc đó nữa.

Tuy nhiên, cần phân biệt hết sức rõ ràng giữa kinh ngạc với ngưỡng mộ (wonder) và thán phục (awe).  Ngưỡng mộ và thán phục là phản đề của kinh ngạc.  Trong kinh ngạc, năng lượng chảy xuyên qua bạn. Trong ngưỡng mộ và thán phục, năng lượng làm bạn sững sờ, tê liệt, và giữ chặt bạn lại.  Danh hài George Carlin châm biếm một cách sắc sảo về sự khác biệt này: Khi giải thích tại sao ông vốn nghi ngờ phần lớn những người “tái sinh”, Carlin đã châm chọc như sau – rất nhiều người biết đến lời nổi tiếng này: “Tôi không tin những người tái sinh vì họ nói quá nhiều.  Khi tôi sinh ra tôi choáng váng tới mức không thể nào nói được gì trong hai năm liền!  Khi một người có một trải nghiệm tâm linh đủ mạnh mẽ để khiến họ im bặt trong vài năm, thì tôi mới tin họ!”

Có một thách thức trong những lời đó: Hãy ý thức về loại năng lượng phát ra từ đám đông.  Hãy ý thức về các thói thời thượng.  Hãy ý thức về mọi thể loại cường điệu.  Hãy ý thức về những người cổ vũ cho cả phe tự do lẫn phe bảo thủ.  Hãy ý thức về bất cứ đám đông nào muốn ném đá một ai đó cho tới chết nhân danh Chúa.

Hãy nghĩ lại tất cả những lần đóng đinh người khác trên thập giá mà bạn đã tham gia, và hãy nhớ lại, sau đó, khi tỉnh táo và nhìn nhận rõ ràng trong một bầu không khí khác, bạn đã tự hỏi mình: Làm sao mình lại có thể sai lầm đến vậy?  Tàn nhẫn đến vậy?  Ngu dại đến vậy?  Hãy đọc lại những câu chuyện trên báo chí và trên internet về những thanh niên có tâm tốt, đàng hoàng, bị cuốn theo năng lượng đám đông, đã tấn công qua mạng (cyber-bully) một người nào đó đến mức người đó phải tự vẫn.  Hãy suy nghĩ, trong mỗi trường hợp, nhiều người có trách nhiệm cuối cùng đã bỏ đi như thế nào, từng người một, tỉnh táo hơn nhiều và suy xét chín chắn hơn nhiều so với khi họ bị cuốn đi trong năng lượng vô tâm của đám đông.

Sau đó, có lẽ, một cách nhẹ nhàng hơn, bạn hãy bày ra những bức ảnh cũ chụp các kiểu tóc, kiểu áo quần của bạn qua nhiều năm, thì bạn sẽ có tất cả những lời nhắc nhở cần thiết rằng năng lượng của phút giây đó dễ thay đổi và vô tâm đến như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

LÀM VIỆC QUÁ MỨC, MỚI ĐẦU LÀ TỐT LÀNH, KẾT CUỘC LÀ CHẠY TRỐN

LÀM VIỆC QUÁ MỨC, MỚI ĐẦU LÀ TỐT LÀNH, KẾT CUỘC LÀ CHẠY TRỐN 

Có những mối nguy hại khi làm việc quá mức, dù việc làm hay động cơ của nó có cao đẹp thế nào đi chăng nữa.  Các hướng dẫn thiêng liêng, bắt đầu từ Chúa Giêsu, đã luôn luôn cảnh báo về những nguy hại của thói tham công tiếc việc.  Biết bao nhiêu bà vợ, trẻ con trong gia đình, biết bao nhiêu bạn bè, biết bao nhiêu người trong cộng đồng mong muốn người họ yêu thương chú tâm đến họ nhiều hơn thay vì cứ mải vùi đầu vào công việc.

Nhưng thật khó để tránh cho mình không rơi vào cảnh bận bịu quá mức và lao tâm khổ trí vì công việc, đặc biệt trong những năm tháng chúng ta dồi dào sinh lực, có những trách nhiệm nuôi nấng con cái, trả các khoản vay, điều hành giáo hội cũng như các tổ chức, đang ngày càng đè nặng hơn trên đôi vai chúng ta.  Nếu bạn là một người nhạy cảm, bạn sẽ đấu tranh không ngừng để những áp lực này không đè nặng trên bạn.  Về điểm này, Henry Nouwen mô tả đời sống của chúng ta như cái vali bị nhồi nhét quá nhiều.  Luôn luôn có việc phải làm, luôn luôn phải gọi điện thoại, phải gặp một ai đó, phải trả biên lai, phải kiểm tra một cái gì đó trên internet, phải đi khóa vòi nước bị hở, phải tuân theo thêm một đòi hỏi từ giáo hội hay xã hội, phải đi mua thêm thứ đồ gì đó.  Các đòi hỏi của đời sống cứ triền miên không dứt và chúng ta luôn nhận thấy vẫn còn có môt trách nhiệm gì đó mà chúng ta cần phải thực hiện.  Một ngày của chúng ta quá ngắn để làm cho hết những việc đó.

Và rồi chúng ta lao vào công việc.  Khởi đầu là một ý muốn tốt đẹp và vô hại, nhưng rồi nó biến qua thành một thứ khác.  Đầu tiên, chúng ta làm hết mình vì những đòi hỏi của cuộc sống buộc chúng ta phải làm như vậy, nhưng dần dần chúng ta gắn chặt với chúng, phục vụ tha nhân ngày càng ít mà thỏa mãn cá nhân ngày càng nhiều.

Đầu tiên, chúng ta thường thường mù quáng về điểm này, công việc sớm trở thành như một lối thoát.  Chúng ta luôn bận tâm bận trí, chúng ta có đủ lời để bào chữa và lý luận cố hữu sao cho khỏi đối diện với các mối mối quan hệ trong gia đình, giáo hội hay với Thiên Chúa.  Áp lực liên tục của công việc và trách nhiệm là gánh nặng nhưng lại là tấm chắn tối hậu của chúng ta.  Chúng ta không thấy được hương hoa cuộc sống nhưng cũng không đối diện với những điều sâu sắc nơi phần chìm của bề mặt cuộc sống.  Chúng ta có thể tránh né những vấn đề chưa giải quyết trong các mối quan hệ và trong tâm hệ mình.  Chúng ta có một lời bào chữa hoàn hảo!  Đó là chúng ta quá bận rộn.

Thường thì xã hội lại cổ võ cho xu hướng thoát ly này của chúng ta.  Với những thói nghiện khác, hẳn chúng ta đã phải đi gặp bác sĩ rồi, nhưng với thói nghiện công việc, thường thường chúng ta lại được ngưỡng mộ nếu nghiện nặng và được tuyên dương vì chính sự ích kỷ này: Nếu tôi ăn uống quá độ, nghiện chất kích thích, tôi bị người ta khó chịu và thương hại, nhưng nếu tôi làm việc quá độ đến đỗi thờ ơ với những cấp bách lớn lao và quan trọng của cuộc sống, người ta lại nói với tôi: “Hẳn bạn thật tuyệt vời!  Bạn tận tụy quá mức!”  Hội chứng nghiện công việc là một thói nghiện mà nhờ nó chúng ta được tuyên dương.

Ngoài việc nó cho chúng ta một lối không lành mạnh để thoát khỏi những vấn đề quan trọng mà đáng ra chúng ta phải giải quyết, thói làm việc quá mức còn gây nên một mối nguy lớn khác.  Chúng ta càng vùi đầu vào công việc thì càng dấn sâu vào mối nguy xem ý nghĩa đời sống dựa trên công việc hơn là dựa trên các quan hệ của mình.  Khi càng chìm đắm trong công việc, thì các mối quan hệ của chúng ta càng sứt mẻ nhiều hơn, và rồi ý nghĩa đời sống ngày càng phụ thuộc vào công việc hơn là quan hệ.  Vô số cây bút thiêng liêng đã nêu lên các mối nguy trong thói tham công tiếc việc, một điểm không nhỏ trong số đó là càng ngày chúng ta càng khó tìm ra ý nghĩa đời sống ở bất cứ nơi nào khác ngoài công việc.  Những thói quen cũ rất khó bị phá vỡ.  Nếu chúng ta đã dành nhiều năm để xây dựng bản sắc của mình qua cách làm việc cật lực và được yêu mến do tính cách nhà nghề hay lòng tận tụy của mình, thì thật khó để chúng ta thay đổi và tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời từ bất cứ điều gì khác. 

Các ngòi bút thiêng liêng kinh điển đều nhất loạt lưu ý về mối nguy trong sự làm việc quá mức và thói tham công tiếc việc.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã lưu ý Martha khi cô mải mê với những việc cần làm để dọn bữa ăn rồi phàn nàn Maria không chịu giúp cô.  Câu trả lời của Chúa thật bất ngờ, thay vì trách Maria lười biếng và khen Martha tận tụy, Chúa Giêsu lại nói Maria đã chọn phần tốt hơn, và rồi trong lúc đó và trong bối cảnh đó, tính lười biếng của Maria lại thắng sự bận rộn của Martha.  Tại sao vậy?  Bởi đôi khi trong đời sống có những điều quan trọng hơn cả công việc, cho dù đó là công việc cao quý và cần thiết để thể hiện lòng hiếu khách và để chuẩn bị bữa ăn cho mọi người.

Thói lười biếng hẳn là do ma quỷ, nhưng bận rộn không phải lúc nào cũng là một đức tính tốt. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: suyniemhangngay1& NguyenNThu

Vatican News – Chuyện thật hi hữu: Một linh mục Công Giáo Nga từng là Hồng quân Liên Sô, có vợ và hai con

Đặng Tự Do
01/08/2019

Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây

Hôm 31 tháng Bẩy, Cesare Lodeserto của Vatican News, cơ quan truyền thông chính thức của Tòa Thánh vừa thuật lại một câu chuyện rất hi hữu của một linh mục Công Giáo Nga là Cha Victor Pogrebnii người vừa được Đức Cha Anton Cosa của giáo phận Chisinau bổ nhiệm coi sóc ngôi làng cũ của vị linh mục ở Slobozia-Rascov.

Cha Victor được thụ phong linh mục ở tuổi 66 sau khi đã trải qua một cuộc đời lận đận của một người lính Liên Sô và một người cha gia đình với hai đứa con.

Ngài sinh tại làng Slobozia-Rascov, ở trung tâm của vùng Transnistria, một vùng lãnh thổ vẫn còn là một mối tranh chấp giữa Nga với Cộng hòa Moldova, sau sự sụp đổ của Liên Sô.

Ngôi làng nhỏ này đã sản sinh ra nhiều linh mục Công Giáo và một Giám mục, nhờ vào cộng đồng Công Giáo rất sống động. Đó là một cộng đồng không ngại làm chứng cho đức tin, đến mức vào năm 1970 đã dám xây dựng một nhà thờ mà không hề được bọn cầm quyền cộng sản lúc bấy giờ cho phép.

Từ bé, cậu Victor đã được nuôi dưỡng trong đức tin Công Giáo và có chí nguyện muốn trở thành một linh mục Công Giáo.

Chẳng may, ước mơ trở thành linh mục của Victor đã tan vỡ vào ngày anh bị bắt buộc thi hành nghĩa vụ quân sự trong lực lượng hải quân Liên Sô. Trước những chuyến hải hành xa vạn dặm, anh cảm thấy mình sẽ phải rời Slobozia-Rascov mãi mãi. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự như mọi người, Victor còn bị bó buộc trở thành sĩ quan và sau đó theo học trường quân sự ở Kaliningrad.

Cha Victor kể với Vatican News rằng việc sống đức tin của ngài khó khăn như thế nào dưới con mắt nghi ngờ của chế độ cộng sản, và trong một cấu trúc nghiêm ngặt của quân đội. “Trong một lần khi đang phục vụ tại một cơ sở quân sự ở Bắc Cực, cấp trên của tôi đã tìm thấy một cuốn Tin Mừng trên người tôi,” cha Victor nói. “Họ lập tức báo cáo chuyện này với KGB như thể tôi vừa phạm vào một tội ác rất nghiêm trọng.”

Kinh nghiệm sống còn của nhiều người là: Nơi nguy hiểm nhất có khi lại là nơi an toàn nhất. Cha Victor cũng có cùng một kinh nghiệm như thế.

“Tôi là một người Công Giáo bí mật, giấu kín và sợ hãi. Nhưng bất cứ khi nào có thể, tôi đã tham dự thánh lễ tại một nhà thờ Công Giáo đối diện ngay với một văn phòng của KGB.”

“Một lần tôi bị công an bắt khi đang giúp xây dựng ngôi nhà thờ trong làng trong một kỳ nghỉ phép. Họ báo cáo với cấp trên và thẩm vấn tôi.”

Ước mơ trở thành linh mục của Victor còn xa vời vợi hơn nữa khi vào năm 1970 anh kết hôn với một cô gái.

“Tôi rất yêu vợ. Đó là một cô gái tốt. Hai đứa trẻ được sinh ra, sau đó chúng kết hôn và tôi trở thành ông nội, và giờ đây có ba đứa cháu.”

Khi chế độ cộng sản sụp đổ, cuộc sống của Victor đã đạt đến một bước ngoặt khác: anh ta có thể thực hành niềm tin của mình một cách tự do, và giáo dục con cái theo đức tin Kitô mà không sợ hãi.

Sau khi giải ngũ, anh sống lặng lẽ với gia đình, bên những đứa con và cháu của mình. Năm 2008, vợ anh qua đời và Victor thấy mình cô đơn. Anh bắt đầu suy nghĩ lại về mục tiêu thời thơ ấu của mình là trở thành linh mục. Đó là một ơn gọi chưa bao giờ rời bỏ anh. Đức Giám Mục giáo phận Kyiv, của Ukraine chào đón anh đến chủng viện cùng năm đó.

Bốn năm sau, vào ngày 7 tháng Giêng năm 2012, Victor một lần nữa đứng trước bàn thờ của Chúa, nhưng lần này là để nhận chức linh mục của mình, được bao quanh bởi các thành viên gia đình và người em trai của mình, là người đã được thụ phong linh mục được vài năm.

Nhưng thử thách vẫn chưa kết thúc. Việc anh ta từng là một người lính Liên Sô và một công dân Nga có nghĩa là Victor không thể ở lại Ukraine, nhất là vào thời điểm quan hệ của Nga với Ukraine đặc biệt căng thẳng. Vì vậy, Cha Victor đã di chuyển đến Crimea và Đức Giám Mục giáo phận Odessa đã bổ nhiệm ngài vào một giáo xứ ở Sinferopoli, nơi ngài có thể tiếp tục phục vụ trong một cộng đồng khác.

Đầu năm 2019 này, Cha Victor đã tròn 73 tuổi. Ngài nhớ làng quê Slobozia-Rascov, và khao khát được trở lại đó. Cha Victor đã liên lạc với Đức Cha Anton Cosa, Giám mục Chisinau, và xin được về quê hương bản quán của mình.

Cảm động trước câu chuyện của vị linh mục này, Đức Cha Anton Cosa, đồng ý cho ngài nhập tịch giáo phận Chisinau và bổ nhiệm ngài trở về làng Slobozia-Rascov.

Cha Victor nói với Vatican News: “Đúng thật: Chúa đã lắng nghe và nhận lời cầu nguyện của tôi tớ thấp hèn này”.


Source:Vatican News

MỘT CẬU BÉ ĂN XIN NGƯỜI PHI LUẬT TÂN ĐƯỢC HỘI THÁNH CÔNG NHẬN LÀ TÔI TỚ CHÚA

MỘT CẬU BÉ ĂN XIN NGƯỜI PHI LUẬT TÂN ĐƯỢC HỘI THÁNH CÔNG NHẬN LÀ TÔI TỚ CHÚA

Tôi Tớ Chúa (Servant of God) là bước đầu tiên để có thể Tuyên Thánh ( gồm ba bước: Tôi Tớ Chúa – Á Thánh – Hiển Thánh ) cho một người đã chết, nhưng được nhìn nhận có những nhân đức anh hùng trong khi còn ở dương thế.

Từ khu ổ chuột, một thiếu niên Phi Luật Tân được Tòa Thánh công nhận là Tôi Tớ Chúa ngày 7.11.2018, vì luôn truyền cảm hứng của lòng tin, sự thánh thiện, niềm vui sống, tình yêu cuộc sống… cho đến khi trút hơi thở ở tuổi 17.

 1-TUỔI THƠ BẤT HẠNH

Darwin Ramos sinh tại khu ổ chuột của thành phố Pasay, ngoại ô Manila, Phi Luật Tân ngày 17.12.1994, trong một gia đình nghèo khổ. Mẹ là thợ giặt ủi. Cha nghiện rượu nặng. Khi Darwin đủ khôn lớn, người cha bắt cậu và đứa em gái Marimar đi bới rác kiếm tiền. Hai anh em không được đi học.

Lúc 5 tuổi, không hiểu sao cơ bắp Darwin Ramos cứ yếu dần. Cậu thường xuyên vấp té. Năm lên 7, hai chân càng lúc càng đau nhức, cuối cùng, cậu không thể tự đứng. Bác sĩ chẩn đoán cậu bị chứng loạn dưỡng cơ Duchenne.

Lẽ ra, biết con mình đau đớn bệnh tật, cha của cậu phải lo chạy chữa và cho con nghỉ ngơi. Ngược lại, ông lại thấy đây là cơ hội kiếm tiền. Mỗi sáng ông đưa đứa con tật nguyền tội nghiệp tới ga xe lửa Libertad, gần nhà để ăn xin.

Xót xa hơn, ông bắt cậu phải cho mọi người qua lại nhìn thấy đôi chân tật nguyền để đánh động lòng thương, sự trắc ẩn mà có thể có nhiều tiền…

Bất cứ ai biết hoàn cảnh của Darwin đều cảm thương cậu. Còn bản thân, với sự tốt bụng và hiền lành vốn có, dù mỗi ngày chỉ xin được ít tiền và bị cha lấy để uống rượu, Darwin không buồn, ngược lại, cậu thấy vui vì nghĩ, dù bệnh tật, mình vẫn có thể giúp mẹ và còn có thể có ích cho gia đình.

Cứ thế, trong nhiều năm, cuộc sống vất vả của Darwin vẫn phải tiếp tục trong hoàn cảnh: chui rúc trong khu ổ chuột, khuyết tật, chịu đựng sự đau đớn của căn bệnh, sống đói nghèo, và ăn xin…

 2-THAY ĐỔI LỚN

Đầu năm 2006, các chi dưới của Darwin hoàn toàn bất động. Mỗi khi di chuyển, cậu phải dùng tay để trườn người cách hết sức vất vả.

Cho đến một ngày, một nhóm giáo dục viên đường phố đến Libertad và phát hiện Darwin đang lê lết trên sân ga. Họ là những người thuộc Tổ Chức Nhịp Cầu Nối với Trẻ Em. Họ mang sứ mạng giúp đỡ người khyết tật và trẻ em tàn tật, bị vứt bỏ, sống lang thang trên đường phố Manila.

Sau nhiều lần chuyện trò, Darwin đồng ý theo họ về Trung Tâm Đức Mẹ Guadalupe, nơi nuôi dưỡng trẻ em tật nguyền. Cuộc đời Darwin bất ngờ biến đổi. Cậu được chăm sóc tử tế. Bệnh dù không thể khỏi, nhưng ít ra, cậu được quan tâm chu đáo và không phải ăn xin, không phải lê lết trên đường phố.

Tại đây, lần đầu tiên Darwin được biết Đức Tin Kitô giáo. Cậu mau chóng yêu mến Chúa Giêsu và đức tin. Dần dà, cậu khao khát trở thành Kitô hữu.

Darwin được lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy ngày 23.12.2006. Một năm sau, ngày 22.12.2007, cậu được Rước Lễ Lần Đầu và lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.

 3-HẠNH PHÚC TRONG CHÚA

Những người bị loạn dưỡng cơ Duchenne sẽ ảnh hưởng đến tim và phổi. Vì thế, cậu càng lúc càng khó thở, cần được hỗ trợ bằng những điều trị y khoa.

Trong khi tình trạng bệnh tật mỗi ngày một tồi tệ, Đức Tin của Darwin vào Thiên Chúa càng lúc càng sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn. Mối tương quan của cậu với riêng Chúa Giêsu càng ngày càng phát triển.

Cậu như chìm sâu vào lòng thương xót của Người đến độ, chính sự gắn kết chặt chẽ giữa cậu với Chúa Giêsu làm cho cậu được an ủi, được hạnh phúc lớn. Niềm an ủi và hạnh phúc này giúp cậu cảm thấy như không còn đau đớn và thống khổ về mặt thể xác. Người ta chưa bao giờ nghe cậu nói về bệnh tật, mà chỉ nghe cậu nói đến “nhiệm vụ vì Chúa Giêsu”.

Cậu dâng lên Chúa Giêsu mọi đau khổ như dâng chính hiến lễ đời mình. Cậu chấp nhận thánh giá và kết hợp cùng Thánh Giá của Chúa để thánh hóa mình. Có lần cậu nói với một Linh Mục trong ban điều hành trung tâm: “Con nghĩ, Chúa Giêsu muốn con kiên cường tới cùng, giống như Người vậy”.

 4-ĐỐI VỚI MỌI NGƯỜI XUNG QUANH

Như có sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu kể từ ngày đón nhận Đức Tin, vốn hiền từ, Darwn lại càng dễ mến hơn. Người ta thấy cậu cười nhiều hơn. Dù bệnh tật có tấn công đến mức nào, cậu vẫn giữ nét mặt thật đẹp, đôi môi thật tươi. Nụ cười của Darwin sáng ngời, có sức đem lại niềm vui cho bất cứ ai cậu gặp gỡ. Cậu hoàn toàn mở lòng với hết mọi người để sống với mọi người càng lúc càng thân thiện hơn, hạnh phúc hơn…

 5-TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG BẢN THÂN

Cứ thế, Darwin Ramos kiên cường chóng chọi với bệnh tật. Và rồi điều tồi tệ nhất vẫn xảy ra. Nhiều chứng nhân kể lại những ngày cuối của Darwin Ramos như là  tuần Thánh của riêng cậu. Cậu chiến đấu bất khuất, dũng cảm trong đức tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu và phó thác cho Người đến cùng.

Ngày thứ hai 16.9.2012, Darwin không thể thở nên phải dùng máy trợ thở. Cậu chỉ giao tiếp với mọi người bằng cách viết vào một cuốn sổ.

Thứ năm 20.9.2012, Darwin viết rằng cậu đang trải qua cuộc chiến đấu tâm linh với ma quỷ.

Thứ sáu, đúng ngĩa là thứ sáu Tuần Thánh, 21.9.2012, Darwin viết hai lời cuối vào sổ tay: “Rất cảm ơn” và “Con rất hạnh phúc”. Darwin được lãnh nhận Bí Tích Xức Dầu. Sau đó cậu im lặng cho đến hết ngày thứ bảy, một thứ bảy Tuần Thánh của bản thân theo đúng ngày thứ bảy Tuần Thánh ngủ yêu mà Chúa Giêsu đã từng trải qua.

Chúa nhật 23.9.2012, Darwin Ramos chính thức tham dự lễ Phục Sinh của Chúa Giêsu bằng sự hiến dâng trọn vẹn cuộc đời, linh hồn và thân xác của mình.

Darwin Ramos vĩnh viễn rời bỏ trần gian ở tuổi 17, lứa tuổi đẹp nhất đời người. Đức Giám Mục Honesto Ongtioco của Giáo Phận Cubao đã bắt đầu tiến trình Tuyên Thánh theo đề nghị của Hiệp Hội Những Người Bạn của Darwin Ramos. “Darwin là một ví dụ điển hình của sự thánh thiện”, Đức Cha nhận định, “Cậu thiếu niên gần gũi với Chúa Giêsu trong nỗi đau lẫn hạnh phúc”.

Lm. JB. NGUYỄN MINH HÙNG, Giáo Phận Phú Cường

LÀM VIỆC QUÁ MỨC, MỚI ĐẦU LÀ TỐT LÀNH, KẾT CUỘC LÀ CHẠY TRỐN 

LÀM VIỆC QUÁ MỨC, MỚI ĐẦU LÀ TỐT LÀNH, KẾT CUỘC LÀ CHẠY TRỐN 

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có những mối nguy hại khi làm việc quá mức, dù việc làm hay động cơ của nó có cao đẹp thế nào đi chăng nữa.  Các hướng dẫn thiêng liêng, bắt đầu từ Chúa Giêsu, đã luôn luôn cảnh báo về những nguy hại của thói tham công tiếc việc.  Biết bao nhiêu bà vợ, trẻ con trong gia đình, biết bao nhiêu bạn bè, biết bao nhiêu người trong cộng đồng mong muốn người họ yêu thương chú tâm đến họ nhiều hơn thay vì cứ mải vùi đầu vào công việc.

Nhưng thật khó để tránh cho mình không rơi vào cảnh bận bịu quá mức và lao tâm khổ trí vì công việc, đặc biệt trong những năm tháng chúng ta dồi dào sinh lực, có những trách nhiệm nuôi nấng con cái, trả các khoản vay, điều hành giáo hội cũng như các tổ chức, đang ngày càng đè nặng hơn trên đôi vai chúng ta.  Nếu bạn là một người nhạy cảm, bạn sẽ đấu tranh không ngừng để những áp lực này không đè nặng trên bạn.  Về điểm này, Henry Nouwen mô tả đời sống của chúng ta như cái vali bị nhồi nhét quá nhiều.  Luôn luôn có việc phải làm, luôn luôn phải gọi điện thoại, phải gặp một ai đó, phải trả biên lai, phải kiểm tra một cái gì đó trên internet, phải đi khóa vòi nước bị hở, phải tuân theo thêm một đòi hỏi từ giáo hội hay xã hội, phải đi mua thêm thứ đồ gì đó.  Các đòi hỏi của đời sống cứ triền miên không dứt và chúng ta luôn nhận thấy vẫn còn có môt trách nhiệm gì đó mà chúng ta cần phải thực hiện.  Một ngày của chúng ta quá ngắn để làm cho hết những việc đó.

Và rồi chúng ta lao vào công việc.  Khởi đầu là một ý muốn tốt đẹp và vô hại, nhưng rồi nó biến qua thành một thứ khác.  Đầu tiên, chúng ta làm hết mình vì những đòi hỏi của cuộc sống buộc chúng ta phải làm như vậy, nhưng dần dần chúng ta gắn chặt với chúng, phục vụ tha nhân ngày càng ít mà thỏa mãn cá nhân ngày càng nhiều.

Đầu tiên, chúng ta thường thường mù quáng về điểm này, công việc sớm trở thành như một lối thoát.  Chúng ta luôn bận tâm bận trí, chúng ta có đủ lời để bào chữa và lý luận cố hữu sao cho khỏi đối diện với các mối mối quan hệ trong gia đình, giáo hội hay với Thiên Chúa.  Áp lực liên tục của công việc và trách nhiệm là gánh nặng nhưng lại là tấm chắn tối hậu của chúng ta.  Chúng ta không thấy được hương hoa cuộc sống nhưng cũng không đối diện với những điều sâu sắc nơi phần chìm của bề mặt cuộc sống.  Chúng ta có thể tránh né những vấn đề chưa giải quyết trong các mối quan hệ và trong tâm hệ mình.  Chúng ta có một lời bào chữa hoàn hảo!  Đó là chúng ta quá bận rộn.

Thường thì xã hội lại cổ võ cho xu hướng thoát ly này của chúng ta.  Với những thói nghiện khác, hẳn chúng ta đã phải đi gặp bác sĩ rồi, nhưng với thói nghiện công việc, thường thường chúng ta lại được ngưỡng mộ nếu nghiện nặng và được tuyên dương vì chính sự ích kỷ này: Nếu tôi ăn uống quá độ, nghiện chất kích thích, tôi bị người ta khó chịu và thương hại, nhưng nếu tôi làm việc quá độ đến đỗi thờ ơ với những cấp bách lớn lao và quan trọng của cuộc sống, người ta lại nói với tôi: “Hẳn bạn thật tuyệt vời!  Bạn tận tụy quá mức!”  Hội chứng nghiện công việc là một thói nghiện mà nhờ nó chúng ta được tuyên dương.

Ngoài việc nó cho chúng ta một lối không lành mạnh để thoát khỏi những vấn đề quan trọng mà đáng ra chúng ta phải giải quyết, thói làm việc quá mức còn gây nên một mối nguy lớn khác.  Chúng ta càng vùi đầu vào công việc thì càng dấn sâu vào mối nguy xem ý nghĩa đời sống dựa trên công việc hơn là dựa trên các quan hệ của mình.  Khi càng chìm đắm trong công việc, thì các mối quan hệ của chúng ta càng sứt mẻ nhiều hơn, và rồi ý nghĩa đời sống ngày càng phụ thuộc vào công việc hơn là quan hệ.  Vô số cây bút thiêng liêng đã nêu lên các mối nguy trong thói tham công tiếc việc, một điểm không nhỏ trong số đó là càng ngày chúng ta càng khó tìm ra ý nghĩa đời sống ở bất cứ nơi nào khác ngoài công việc.  Những thói quen cũ rất khó bị phá vỡ.  Nếu chúng ta đã dành nhiều năm để xây dựng bản sắc của mình qua cách làm việc cật lực và được yêu mến do tính cách nhà nghề hay lòng tận tụy của mình, thì thật khó để chúng ta thay đổi và tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời từ bất cứ điều gì khác. 

Các ngòi bút thiêng liêng kinh điển đều nhất loạt lưu ý về mối nguy trong sự làm việc quá mức và thói tham công tiếc việc.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã lưu ý Martha khi cô mải mê với những việc cần làm để dọn bữa ăn rồi phàn nàn Maria không chịu giúp cô.  Câu trả lời của Chúa thật bất ngờ, thay vì trách Maria lười biếng và khen Martha tận tụy, Chúa Giêsu lại nói Maria đã chọn phần tốt hơn, và rồi trong lúc đó và trong bối cảnh đó, tính lười biếng của Maria lại thắng sự bận rộn của Martha.  Tại sao vậy?  Bởi đôi khi trong đời sống có những điều quan trọng hơn cả công việc, cho dù đó là công việc cao quý và cần thiết để thể hiện lòng hiếu khách và để chuẩn bị bữa ăn cho mọi người.

Thói lười biếng hẳn là do ma quỷ, nhưng bận rộn không phải lúc nào cũng là một đức tính tốt. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

MỘT VỊ THÁNH DÁM NGHĨ LỚN TRONG ĐỜI TU

MỘT VỊ THÁNH DÁM NGHĨ LỚN TRONG ĐỜI TU

Tôi có vài dịp trò chuyện với những người giúp khơi nguồn sáng tạo cho tuổi trẻ.  Họ cố gắng giúp người trẻ tìm được động lực không chỉ để làm giàu, nhưng còn để phát triển một cách bền vững.  Với những năm kinh nghiệm trong nghề, họ trích nhiều ví dụ sống động từ những người đã thành đạt và hạnh phúc trên thế giới.  Những điều họ chia sẻ cứ theo tôi hoài.  Tuy nhiên, là tu sĩ theo Chúa Giêsu, tôi có được phép nghĩ lớn và được làm những điều vĩ đại không?  Nếu cứ lướt trên những đường băng [1] mơ mộng ấy, liệu người tu sĩ có rơi vào con đường danh vọng và cao ngạo kiêu kỳ không?  Rối bời…

Tôi cầu nguyện, hỏi Chúa.  Chiêm ngắm những vị thánh, tôi thấy họ cũng có những ước mơ lớn lao.  Chỉ khác một điều là họ đặt ước mơ, hoài bão ấy trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Họ làm mọi thứ vì lòng yêu mến và dấn thân hết mình vì lý tưởng Giêsu.  Một trong những vị thánh mang những đặc tính ấy, chúng ta phải kể đến thánh I–nhã, Đấng sáng lập Dòng Tên.

Trước năm Columbus khám phá ra Châu Mỹ cũng là lúc I–nhã chào đời (năm 1491).  Được sinh ra trong một gia tộc giàu có ở Loyola, Tây Ban Nha, I–nhã mê thích chuyện binh đao thế sự. [2] Ông thích luyện võ nghệ và ước mơ chinh phục những tiểu thư xinh đẹp.  Người ta ngả mũ tán phục chàng hiệp sĩ I–nhã trong trận chiến ở pháo đài Pamplona (năm 1521).  Hào khí chiến đấu trong ông luôn hừng hực, kết quả là một viên đại bác đã khiến ông gãy chân.[3]  May mà quân Pháp tử tế giúp đưa ông về gia đình để điều trị.

Không hài lòng với lần phẫu thuật đầu tiên, ông đề nghị bác sĩ mổ lần hai để kéo dài chân ông ra.  Đau đớn vô cùng, vì thời đó không có thuốc gây mê, nhưng ông vẫn chấp nhận vì ông cần vẻ điển trai trước nhiều thiếu nữ.  Sau lần phẫu thuật đó, ông vẫn phải chấp nhận đi cà nhắc.[4]

Có lẽ cuộc đời ông thay đổi từ những ngày tháng trên giường bệnh.  Ông nhờ người tìm những sách kiếm hiệp, tiểu thuyết để giết thời gian.  Tiếc là người ta chỉ tìm được cho ông hai cuốn: Gương Chúa Giêsu và Hạnh các thánh.  Thôi thì có còn hơn không!  Ông đọc và đọc.  Trong sách đó, hai vị thánh tác động mạnh đến ông là thánh Phanxicô Assisi, và thánh Đa Minh.[5]  Ông nói hai vị đại thánh này làm được những điều trọng đại, ông cũng sẽ làm được và muốn làm vĩ đại hơn.  Họ ăn chay hãm mình, ông cũng muốn làm hơn họ.  Theo gương hai vị thánh này, I–nhã cũng muốn hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Kitô giáo.  Theo đó, người ta thấy tinh thần hiệp sĩ luôn chất chứa trong con người I–nhã.

Từ đó ông lên đường thực thi hoài bão lớn lao.  Thay vì trở lại phục vụ vua trần gian, ông quay sang phục vụ Vua Hằng Sống, đó là Thiên Chúa.  Chắc chắn đường lối huấn luyện của Thiên Chúa sẽ khác đường lối lập nghiệp của người đời hôm nay.  I–nhã tìm nguồn động lực, gợi hứng từ chính Thiên Chúa.  Ông rút lui vào cô tịnh.  Một mình đối diện với chính mình, với Thiên Chúa để ông tìm câu trả lời cho thành công của mình.

Người ta vẫn còn thấy biết bao đau khổ gian nan của chàng hiệp sĩ chập chững trên con đường thiêng liêng.  Ông nhiều lần muốn từ bỏ ước mơ thánh thiện, phụng sự Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân.  Những hào nhoáng vinh quang thế sự thi thoảng ùa về khiến ông rối bời.  Ngoài ra, hình ảnh những tiểu thư đài các khiến ông xao lòng.  Tuy nhiên, sau những lần đó, ông cảm thấy không được gợi hứng nhiều.  Ông thất vọng, nhụt chí và mất sức sống.  Ngược lại, những lần suy nghĩ về Thiên Chúa, những lần cầu nguyện nhiều giờ bên Chúa, ông lại tìm được nhiều hứng khởi; nhiệt huyết yêu mến trong ông dâng trào.  Kinh nghiệm ấy được ông gói gọn trong hai từ: Thần hiệp; nghĩa là, được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa.

Trong khi ở hang động Marêsa chừng 1 năm [6], ông viết lại những kinh nghiệm thiêng liêng trong một cuốn sách: Linh Thao.  Đây là công cụ để giúp người ta dám nghĩ lớn, dám làm lớn trong Thiên Chúa.  Ông lên đường để thực hiện giấc mơ ấy vào năm 1523.  Lúc nào ông cũng được thôi thúc nói về Thiên Chúa và giúp đỡ các linh hồn.  Tâm hồn thính giả cũng bừng sáng khi nghe I–nhã chia sẻ.  Từ đó, ông bắt đầu nổi tiếng.

Chưa dừng ở đó, I–nhã còn nghĩ lớn đến chuyện phải qua Giêrusalem để đi lại những chỗ Giêsu đã đi qua.  Ông muốn giống Đức Giêsu hoàn toàn.  Từ Barcelona, ông bắt tàu vượt biển đến Đất Thánh mà trong tay không có tiền (năm 1523).  Ông đi bằng niềm tin!  Chính Thiên Chúa đã giúp ông đến được Đất Thánh.  Nơi đây, người đời thấy chí khí của ông rõ hơn: ông muốn ở lại để truyền giáo cho người Hồi giáo.  Thời đó, dĩ nhiên không ai cho ông ở lại vì tính chất phức tạp và nguy hiểm của vùng đất này.  Ông bị đuổi về Tây Ban Nha.

Nơi quê nhà vào năm 1524, ông vẫn rong ruổi rao truyền kinh nghiệm thiêng liêng để giúp người ta yêu mến Chúa.  Ông nói những điều liên quan đến đức tin mà một giáo dân như ông thời đó không được phép.  Bởi thế, ông bị giáo quyền tra khảo, bỏ tù và dọa nạt.  Tuy nhiên, vẫn khí chất cương nghị, ông không từ bỏ ước mơ nói về Thiên Chúa cho con người.  Lúc ngoài 30 tuổi vẫn luôn đặt câu hỏi cho mình: “Tôi phải làm gì?”  Đó là câu hỏi đã đẩy ông đến vùng trời Paris.

Số là sau những lần khó khăn với giáo quyền, ông quyết định đi học để làm linh mục.  Vì khi có bằng cấp, ông được phép nói về Thiên Chúa và sẽ được nhiều người tin tưởng hơn.  Ông chọn một trường học tốt nhất thời đó: Đại Học Paris.[7]  Đây là giai đoạn thách đố với một người lớn tuổi (30) như ông, cặm cụi với từng con chữ.  Nhanh chóng ông quen dần với môi trường tri thức, và có những người bạn mới.  Ông gọi họ là những người bạn trong Chúa (friends in the Lord).  Trong đó phải kể đến thánh Phanxicô Xaviê, một người có hoài bão lớn không kém I–nhã.

Lúc này, năm 1534, nhóm của I–nhã có 9 anh em.  Ai cũng nuôi ước mơ lớn và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để tôn vinh Thiên Chúa hơn.  Sau khi tốt nghiệp đại học [8], họ khấn hứa giữ khó nghèo, khiết tịnh.[9]  Họ chọn một thủ lãnh là Chúa Giêsu.  Đó là nhóm Bạn Đường, tiền thân của Dòng Tên sau này.  Họ ước mơ xa hơn là đi đến Đất Thánh để phụng sự Chúa ở đó.[10]  Tuy nhiên, thời đó đang có chiến tranh, nên tàu đi đất thánh rất hiếm.  Trong hoàn cảnh đó, họ bàn thảo nghiêm túc với nhau dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.  Trong văn bản của cuộc họp đó, nhóm đã thống nhất: “Nếu trong vòng một năm không đi được Đất Thánh, họ sẽ về Rôma để đặt mình dưới chân Đức Giáo Hoàng.”  Chiến tranh mỗi lúc một leo thang, nên họ thực hiện kế hoạch về Rôma.

Khi về Rôma vào năm 1536, nhóm mạnh dạn xin với Đức Giáo Hoàng thành lập Dòng và lấy tên là Dòng Giêsu (The society of Jesus).  Bởi, họ biết chỉ có như thế nhóm mới liên kết được với nhau trong Chúa Kitô và trong Giáo hội.  Năm 1539, Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn.  Kể từ đây, ước mơ của I–nhã được Thiên Chúa đặt vào lòng Giáo Hội để phục vụ con người một cách hiệu quả.  Trong vai trò là bề trên tổng quyền, I–nhã cùng với Dòng phát triển nhanh chóng cả về hai phương diện: giáo dục và truyền giáo trên khắp thế giới: Âu, Á, Phi, Mỹ.

Thánh I–nhã qua đời tại Rôma vào ngày 31 tháng 7 năm 1556, để lại một con đường gợi hứng cho biết bao nhiêu người.  Con đường ấy phải bắt nguồn từ Thiên Chúa, và mọi gợi hứng, động lực đều chỉ với một mục đích: Cho vinh danh Thiên Chúa hơn – Ad Maiorem Dei Gloriam.

Trở lại vấn đề trên đây, hóa ra đi tu cũng đòi hỏi người tu sĩ nhiều ước mơ lớn lao.  Thiên Chúa đòi hỏi họ dấn thân hết mình, làm mọi sự với mục đích không vì danh vọng tiền tài.  Đích nhắm cho những cố gắng ấy là để làm cho vinh danh Chúa hơn và giúp cho nhiều linh hồn được cứu độ hơn.  Như thế, nguồn cảm hứng và động lực của người tu sĩ được kín múc từ Thiên Chúa.  Họ sẵn sàng bước vào những cuộc chiến đấu thiêng liêng.  Qua những môi trường huấn luyện như thế, họ biết mình, biết Chúa và biết phải làm gì.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ  

Nguồn: https://dongten.net/

Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn: Thư gửi dân Chúa Tổng Giáo phận Sài Gòn 22.7.2019

Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn: Thư gửi dân Chúa Tổng Giáo phận Sài Gòn 22.7.2019

+GM. Đỗ Mạnh Hùng & +GM Nguyễn Anh Tuấn

28/Jul/2019

Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn: Thư gửi dân Chúa Tổng Giáo phận Sài Gòn 22.7.2019
Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn
Ngày 22/07/2019
Chủ đề đức tin Từ khóa hợp nhất 

Thư mục vụ dưới đây của Đức cha Giám quản Giuse và Đức cha Louis, dựa trên thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nhằm thông tin cho dân Chúa trong Tổng giáo phận những nguy hại cho đức tin từ những sự kiện cụ thể, để hướng dẫn đời sống đức tin cho mọi thành phần dân Chúa.

TOÀ TỔNG GIÁM MỤC
180 Nguyễn Đình Chiểu – Quận 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐT: (84.28) 3930 3828
E.mail: tgmsaigon@gmail.com
Số: 246_190722_01

Ngày 22 tháng 07 năm 2019

Kính gởi: Quý cha, quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh
và toàn thể anh chị em giáo dân
trong đại gia đình Tổng giáo phận

Anh chị em rất thân mến,

1. Trong «Thư gửi cộng đồng dân Chúa về một số lưu ý trong đời sống đức tin» ngày 10/06/2019 vừa qua, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cảnh báo rằng: “Chúng tôi thấy hiện nay đang tồn tại và có chiều hướng gia tăng những hiện tượng và những cách thực hành đạo đức không xứng hợp, cụ thể là: tin dị đoan, ma thuật, bói toán; phổ biến những tư tưởng lệch lạc như Sứ điệp từ trời, Lòng Mẹ thương xót…; lạm dụng một số cử hành đạo đức của Hội Thánh như Lòng Chúa thương xót, đặc sủng chữa lành bệnh nhân, đặt tay cầu nguyện…” (số 1).

Chúng tôi nhận thấy Tổng giáo phận của chúng ta cũng đang bị ảnh hưởng bởi một số hiện tượng và thực hành đạo đức không xứng hợp, cụ thể như:

– Sự kiện “Lòng Mẹ thương xót” phổ biến những tư tưởng lệch lạc nguy hại cho đời sống đức tin do ông Tôma Maria Nguyễn Thanh Việt;

– Sự kiện “Giáo điểm Tin Mừng” với những lạm dụng trong cử hành tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, đặt tay cầu nguyện, chứng từ chữa lành bệnh nhân.

Vì thế, với trách nhiệm chủ chăn, dựa vào giáo huấn của Hội Thánh, chúng tôi gởi đến anh chị em thư mục vụ này nhằm hướng dẫn đời sống đức tin cho mọi thành phần dân Chúa.

2. Trước hết, xin được nhắc lại những chỉ dẫn tại các số 3 và 5 trong lá thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:

– Phải tránh những thực hành mê tín dị đoan, bói toán, lợi dụng lòng tin đơn thành của người tín hữu để trục lợi;

– Không được sử dụng, phổ biến các tài liệu có nội dung nghịch với đức tin Kitô giáo;

– Phải tôn trọng kỷ luật của Hội Thánh và quy định của Đấng Bản quyền liên quan đến Phụng vụ và việc đạo đức bình dân;

– Mọi tín hữu đều được tự do cầu nguyện xin ơn chữa lành;

– Trong giáo phận, mọi cử hành xin ơn chữa lành đều phải có phép rõ ràng của Bản quyền Giáo phận;

– Không được phép đưa các nghi thức chữa lành vào Thánh lễ và các cử hành Phụng vụ. Phải tránh các hình thức mang tính cuồng loạn, chứng nhân giả, diễn kịch hoặc kích động cảm xúc;

– Việc sử dụng các phương tiện truyền thông, nhất là trực tuyến, trong các cử hành xin ơn chữa lành, phải được Giám mục giáo phận cho phép.

– Trong các cử hành xin ơn chữa lành, nếu ơn được chữa lành xảy ra cho người tham dự, thì phải giữ sự thận trọng cần thiết và tường trình sự việc cho thẩm quyền Hội Thánh.

3. Riêng trong Tổng giáo phận của chúng ta:

a) Xin quý cha cùng với anh chị em đào sâu giáo lý của Hội Thánh Công Giáo và thực hành những hướng dẫn sống đức tin do Hội đồng Giám mục và Giám mục Giáo phận phổ biến.

b) Thể hiện tâm tình thờ phượng xứng hợp:

– Tham dự tích cực và sốt sắng vào các buổi cử hành Phụng vụ (Thánh lễ, chầu Thánh Thể, các Bí tích, Phụng vụ Các giờ kinh) và thực hành lòng đạo đức bình dân (đọc kinh, lần chuỗi Mân Côi, lần chuỗi Lòng Chúa thương xót…);

– Tránh những hình thức thờ phượng không đúng với hướng dẫn của Hội Thánh, cũng không xuất phát từ lòng đạo đức chân thật, và có nguy cơ làm sai lạc bản chất của việc thờ phượng như: lạm dụng việc rảy nước thánh; lạm dụng việc cầu nguyện đặt tay nhằm mục đích chữa lành bệnh tật, trừ tà…

c) Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi:

– Thi hành Thánh Ý Chúa qua việc chu toàn bổn phận (đối với gia đình, cộng đoàn, xã hội) và đón nhận những biến cố của đời sống thường ngày (vui, buồn, khó khăn, bệnh tật, đau khổ…).

– Sống điều răn Chúa dạy qua:

+ việc mến Chúa: được biểu lộ trong những cử hành Phụng vụ và thực hành lòng đạo đức bình dân, với ý thức về sự khác biệt và trổi vượt của Phụng vụ;

+ việc yêu người: tích cực xây dựng cộng đoàn yêu thương hợp nhất trong gia đình, giáo xứ, dòng tu; đồng thời mở ra cho thế giới qua các hoạt động từ thiện bác ái.

Với những lưu ý trên, trong tinh thần yêu thương, chúng tôi mong rằng mọi sinh hoạt cá nhân hay cộng đoàn tại Tổng giáo phận của chúng ta luôn diễn tả một đức tin tinh tuyền, sống động; đồng thời góp phần loan báo Tin Mừng và xây dựng sự hợp nhất trong toàn giáo phận.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho ước nguyện và những cố gắng của tất cả chúng ta.

(đã ký và đóng dấu)

+ Giuse Đỗ Mạnh Hùng

Giám quản Tông tòa

+ Louis Nguyễn Anh Tuấn

Giám Mục Phụ Tá

Ghi chú: Ngoài việc niêm yết tại nhà thờ, đề nghị quý cha đọc Thư mục vụ này trong tất cả các Thánh lễ Chúa Nhật 17 Thường niên, ngày 28/07/2019.

Lại nói về Lòng Chúa Thương Xót ở Giáo Điểm Tin Mừng, Sài Gòn

Vũ Văn An
29/Jul/2019
Trong bài “Nói về lòng Chúa thương xót nơi một số người Việt” đăng trên VietCatholicNews ngày 18 tháng 6 (xem http://www.vietcatholicnews.net/News/Html/250984.htm), chúng tôi có đề cập tới Cha Trần Đình Long và Giáo Điểm Tin Mừng, người được nhiều người ái mộ coi như một nhân vật đặc sủng nhưng không thiếu người cho là đi trệch ra ngoài kỷ luật phụng vụ của Giáo Hội qua việc cho người lên làm chứng các phép lạ chưa được giáo quyền kiểm chứng trên bục giảng trong Thánh Lễ cũng như đặt tay cầu nguyện xin chữa lành, và gieo rắc một quan điểm giữ đạo vì phép lạ. Từ đó đến nay, đã có nhiều bàn tán, thảo luận sôi nổi về Cha cũng như về Giáo Điểm Tin Mừng.

Nhiều người thấy Cha Long bình thản thi hành thừa tác vụ theo ý mình, bèn quay qua thẩm quyền Giáo Hội, tức Tòa Tổng Giám Mục Sài gòn để chờ mong một định hướng và quyết định thích đáng. Dù sao thẩm quyền này cũng là thẩm quyền duy nhất có trách nhiệm đối với thừa tác vụ của Cha Trần Đình Long.

Phải bình tâm mà xét, Đức Cha Đỗ Mạnh Hùng, Giám Quản Tổng giáo phận Sài Gòn hiện nay, là người kiên nhẫn làm việc và phương thức của ngài là tiến hành từng bước. Dù mất thì giờ, nhưng thiển nghĩ đúng với lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng Mt 18:15-20 hơn: không thể một lúc đem ra hội đồng phán xử được, trái lại trước nhất phải bảo khuyên, không nghe thì mời thêm một hai người nói chuyện với họ; họ cũng không nghe thì mới mang họ ra Giáo Hội; đến thế, mà họ cũng không nghe thì coi họ như người ngoài. Như thế là có đến 4 bước. 

Thiển Nghĩ cho đến nay, Đức Cha Giám Quản Sài Gòn đã thực hiện 3 bước đầu, chỉ còn bước thứ 4 nữa thôi và ta hy vọng bước ấy sẽ không diễn ra. 

Thực vậy, trong buổi cấm phòng của các linh mục Xóm Chiếu hồi tháng Tư, Đức Cha Giám Quản đã chính thức nhắc nhở Cha Long về các sai phạm của ngài (bước thứ nhất). Rồi sau Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 10/6/2019, Đức Cha Giám Quản, chính thức gửi văn thư cho Cha Trần Đình Long. Hành vi này nói lên sự kiện không phải riêng ngài quan tâm đến vấn đề mà cả Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng quan tâm đến nó (bước thứ hai). Vả lại thư ấy, đề ngày 28 tháng 6, đồng kính gửi Linh Mục Đoàn Văn Thịnh, hạt trưởng hạt Xóm Chiếu, không thể nói là chuyện tư riêng nữa. Trong thư này, ngài đặc biệt nói đến một số việc vốn diễn ra tại Giáo Điểm Tin Mừng: Tránh các hình thức trình diễn mang tính thế tục (ca hát, nhẩy múa, reo hò…) trên cung thánh; không công bố các lá thư cá nhân hay mời bất cứ ai lên làm chứng từ trong phần giảng lễ; với các trường hợp chữa lành, cần phải thận trọng và tường trình vụ việc lên thẩm quyền Giáo Hội; không được tách biệt việc đặt tay cầu nguyện và rẩy nước thánh khỏi các nghi thức phụng vụ vốn đi kèm theo chúng và không được cử hành chúng một cách long trọng trước mặt những người mong được chữa lành vì có nguy cơ biến việc đạo đức thành thực hành mê tín dị đoan. 

Ngày 22 tháng 7 vừa qua, Đức Cha Giám Quản Sài Gòn đã tiến sang bước thứ ba: không nói riêng với Cha Trần Đình Long hay Cha Đoàn Văn Thịnh nữa mà nói với toàn thể tổng giáo phận Sài Gòn qua văn thư “Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn: Thư gửi dân Chúa Tổng Giáo phận Sài Gòn 22.7.2019” của hai Đức Cha Đỗ Mạnh Hùng và Nguyễn Anh Tuấn (xem http://vietcatholic.net/News/Html/251536.htm). 

Thư trên không hoàn toàn nhắm vào Cha Trần Đình Long và Giáo Điểm Tin Mừng, vì có nhắc đến sự kiện “Lòng Mẹ thương xót” của Ông Nguyễn Thanh Việt, nhưng quả lưu ý đặc biệt tới “Sự kiện ‘Giáo điểm Tin Mừng’ với những lạm dụng trong cử hành tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, đặt tay cầu nguyện, chứng từ chữa lành bệnh nhân”. Vì các chỉ thị sau đó của các ngài cho người ta hiểu các ngài có ý nói đến Cha Trần Đình Long và Giáo Điểm Tin Mừng. Các chỉ thị này dựa vào Thư chung đã nhắc trên đây của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: 

– Phải tránh những thực hành mê tín dị đoan, bói toán, lợi dụng lòng tin đơn thành của người tín hữu để trục lợi;

– Không được sử dụng, phổ biến các tài liệu có nội dung nghịch với đức tin Kitô giáo;

– Phải tôn trọng kỷ luật của Hội Thánh và quy định của Đấng Bản quyền liên quan đến Phụng vụ và việc đạo đức bình dân;

– Mọi tín hữu đều được tự do cầu nguyện xin ơn chữa lành;

– Trong giáo phận, mọi cử hành xin ơn chữa lành đều phải có phép rõ ràng của Bản quyền Giáo phận;

– Không được phép đưa các nghi thức chữa lành vào Thánh lễ và các cử hành Phụng vụ. Phải tránh các hình thức mang tính cuồng loạn, chứng nhân giả, diễn kịch hoặc kích động cảm xúc;

– Việc sử dụng các phương tiện truyền thông, nhất là trực tuyến, trong các cử hành xin ơn chữa lành, phải được Giám mục giáo phận cho phép.

– Trong các cử hành xin ơn chữa lành, nếu ơn được chữa lành xảy ra cho người tham dự, thì phải giữ sự thận trọng cần thiết và tường trình sự việc cho thẩm quyền Hội Thánh.

Các ngài cũng chỉ thị thư trên phải được đọc trong các nhà thờ của tổng giáo phận vào Chúa Nhật 28 tháng 7.

Cũng Chúa Nhật đó, trong bài giảng về 10 điều răn, đến điều răn đừng làm chứng gian, Cha Trần Đình Long nói với cộng đoàn tại Giáo Điểm Tin Mừng rằng chỉ nghe đồn, nghe báo cáo láo, không chịu đến mà nghe, kiểm tra, mà đã kết tội này nọ. Phải đến tận nơi mà xem, đến tận nơi cũng chưa đủ, phải nghe; chứ chỉ dựa vào hiện tượng, chẳng biết chi đến bản chất của người ta đã vội kết án này nọ. Không được phép như vậy. Làm thế là phạm luật Chúa. Phạm tội mà cứ tưởng mình làm tốt (xem https://www.youtube.com/watch?v=u-Cw9pEjkJM&feature=youtu.be&fbclid=IwAR3-kkD69iWEtiiVnsMPWJ5Md7MBYBnTVcUHlV3wk4W9573aC1OM07qJUFA).

Có lẽ vì thế mà cùng với Thư Gửi dân Chúa nói trên, Đức Cha Giám Quản Đỗ Mạnh Hùng, ngày 29 tháng 7 hôm qua, đã ra “Bổ Nhiệm Thư” chính thức mời Cha Trần Đình Long rời Giáo Điểm Tin Mừng để về phục vụ tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng giáo phận ở số 6bis Đường Tôn Đức Thắng hạn chót là ngày 18 tháng 8. Đức Cha Giám Quản cho hay việc bổ nhiệm này là “vì lợi ích chung của Tổng giáo phận, sau khi suy nghĩ, cầu nguyện và bàn hỏi với Ban tư vấn cùng những người có trách nhiệm liên quan” (xem http://vietcatholic.net/News/Html/251552.htm).

Chỉ còn một bước nữa, bước coi Cha Long như người ngoài thì chưa và chúng ta hy vọng sẽ không bao giờ phải xẩy ra. Tuy nhiên tất cả tùy ở Cha Trần Đình Long.

Nói thì nói thế, chúng ta cũng có một phần trong đó. Và phần này, chúng tôi hy vọng Đức Cha Giám Quản cũng đã nghĩ đến rồi. Vì đây là thực hành quen thuộc của Giáo Hội hoàn vũ. McCarrick cũng như một số người sai quấy chỉ bị kỷ luật sau một cuộc điều tra rạch ròi. Chính Cha Trần Đình Long cũng mong có một cuộc đến nơi không những để xem mà còn để nghe, không chỉ xem nghe hiện tượng mà còn xem nghe bản chất nữa. Dĩ nhiên, để cuộc điều tra tiến hành công minh, Cha Trần Đình Long nên về Trung Tâm Mục Vụ, chờ kết quả cuộc điều tra này. Bất cứ hình thức kỷ luật cuối cùng nào với Cha Trần Đình Long đều không thể khả hữu nếu không có cuộc điều tra đến nơi đến chốn. Có người còn cho hay mình không tiến hành cuộc điều tra này, người khác sẽ tiến hành, và lúc đó, ta thêm tội bao che như trong các cuộc khủng hoảng giáo sĩ lạm dụng ở Hoa Kỳ, ở Úc, ở Chilê, ở khắp nơi hiện nay.

KHÚC CA TẠ ƠN. Ca sĩ: Phan Đình Tùng. HD.

httpv://www.youtube.com/watch?v=LwcmaANwwLE

KHÚC CA TẠ ƠN. Ca sĩ: Phan Đình Tùng. HD.

 

Sáng Tác: LM Thiên Ân

 

 Đời con là những nốt nhạc thiêng

Chúa thêu dệt nên thành khúc ca tuyệt vời

Đời con là khúc hát tri ân

 xin dâng một đời lời tạ ơn thiên Chúa

 Tạ ơn vì Chúa đã rộng ban phúc ân

 tràn lan tình mến thương vô vàn

Tạ ơn vì những nỗi oan khiên

 Chúa đã tôi luyện một niềm tin trung kiên.

 Xin tạ ơn con xin tạ ơn Chúa

mãi muôn đời con xin tạ ơn Chúa.

Dù trần gian bao khó nguy ngập tràn,

tình Ngài thương con bước đi bình an

Xin ngợi ca bao la tình thương Chúa

mãi muôn đời ca vang tình thương Chúa

Trọn niềm tin con phó trong tay Ngài

 vì đời con tất cả là hồng ân.

 

Đời con là những tháng ngày trôi

Chúa an bài cho thật biết bao lạ lùng.

Đời con là tiếng hát không ngơi

 ca khen muôn đời lời tạ ơn thiên Chúa

 Tạ ơn vì những lúc bình an

 Chúa thương tặng ban cuộc sống vui chan hòa

Tạ ơn vì những lúc nguy nan

Chúa đã thương ban niềm cậy trông miên man.

 

 Đời con là những lúc buồn vui

Chúa luôn kề bên cùng sớt chia vui buồn.

Đời con là tiếng hát vang xa

hoan ca muôn đời lời tạ ơn thiên Chúa

Tạ ơn vì những lúc hiền ngoan

Chúa thương tặng ban nguồn thánh ân tuôn tràn.

 Tạ ơn vì những lúc điêu ngoa

Chúa đã thương tha bằng tình yêu bao la.