BÀ MẸ CỦA 5 NGƯỜI CON: 1 NỮ TU, 4 LINH MỤC TRONG LỄ KIM KHÁNH KHẤN DÒNG CỦA CON



BÀ MẸ CỦA 5 NGƯỜI CON: 1 NỮ TU, 4 LINH MỤC TRONG LỄ KIM KHÁNH KHẤN DÒNG CỦA CON
#GNsP– Ngày 27/8/2018 vừa qua nhân lễ Thánh Monica, Bổn Mạng các Bà Mẹ Công Giáo, tại Giáo xứ Thanh Bình thuộc Gp. Xuân Lộc đã diễn ra thánh lễ Tạ ơn Kim Khánh Khấn Dòng của nữ tu Agatha Trương Thị Minh Đức thuộc Hội Dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn.
Dịp kỷ niệm này của Nữ tu Agatha Minh Đức không chỉ là lời tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho Sơ, một người trung kiên dâng hiến trọn đời cho Chúa, mà còn là dịp tôn vinh sự hy sinh cao cả của Bà Mẹ – người đã sinh ra Sơ, người chị Cả và bốn em trai kế đã dâng hiến cho Chúa trong đời sống linh mục. Lần lượt các em trai Linh mục của Sơ: Phaolô Trương Đình Tu, Gp. Quy Nhơn; Giuse Trương Đình Hiền, Gp. Quy Nhơn; Tôma Trương Đình Sơn, DCCT và G.B Trương Đình Hà, Gp. Bà Rịa.
Thánh lễ tạ ơn Chúa hôm nay đã quy tụ đầy đủ 5 người con sống đời thánh hiến đã làm cho lời tạ ơn thêm thánh thiêng và sáng ngời mẫu gương cao cả hy sinh của Người Mẹ, người đã sinh thành dưỡng dục và dâng cho Chúa 5 người con trong tổng số 7 người con của mình. Bà Cố hiện nay đã gần đến tuổi 100 và trong những ngày cuối cùng đón đợi giây phút Chúa gọi về. Mặc dù không thể tham dự hiến tế Tạ ơn đặc biệt này cùng các con tại ngôi thánh đường thân thương mà bà Bà đã gắn bó gần 40 năm qua, nhưng nằm trên giường bệnh, Bà đang dâng hiến lễ hy sinh lên Chúa trong từng hơi thở khó khăn vào những ngày cuối đời của mình.
Sau biến cố chiến tranh ly loạn của 1975, Gia đình Ông Bà Cố đã trôi dạt về Giáo xứ Thanh Bình, thuộc Giáo phận Xuân Lộc và định cư ở đó cho đến ngày nay. Bỏ lại sau lưng quê nhà Trà Câu, Quảng Ngãi, vùng đất anh dũng và giàu truyền thống đạo đức vì máu của các chứng nhân đức tin đã đổ ra ở đây trong cuộc “Bình Tây – Sát Tả” mà quân Văn Thân đã gây ra vào năm 1885. Giáo xứ Trà Câu là mảnh đất gia đình Bà Cố đã gắn bó bao đời, nằm tại thôn Đông Quan, xã Phổ Văn, cùng với chứng tích “VỰC ĐẠO” (vực Ô rô) nằm ở khúc sông sâu thăm thẳm và cũng rộng mênh mông, nơi mà Văn Thân đã vùi thây các Kitô hữu xuống vực này, trong đó có các vị tiền bối của gia đình Bà Cố.
Do được sinh ra từ dòng máu của các vị tử đạo, chứng tá đời sống đức tin và anh dũng kiên trì vượt qua khó khăn mà Ông Bà Cố đã giáo dục các người con của mình trưởng thành và lần lượt dâng hiến cho Chúa trong đời sống tu trì.
Cô con gái và là chị Cả của các em đã tiên phong bước vào đời sống tu trì trong Hội Dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn và khấn Dòng năm 1968 tại Quy Nhơn. Sau đó lần lượt các em trai vào Chủng viện Quy Nhơn và DCCT.
Sau biến cố 1975, đời sống tu trì vô cùng khó khăn và chặng đường phía trước hết sức u tối. Nhưng nhờ thừa hưởng gia sản đức tin và được trui rèn qua thử thách, các người con trai vẫn kiên trì trong đời tu và lần lượt tiến đến chức linh mục.
Với sự đóng góp vô cùng lớn lao cho Giáo hội Công Giáo – dâng hiến 5 người con: một nữ tu và bốn linh mục- Bà Cố Mátta Nguyễn Thị Liêm đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI trao tặng danh hiệu Hiệp Sĩ, một danh hiệu cao quý trong Giáo Hội. Nhưng có lẽ ân phúc lớn lao nhất là Bà sẽ được Thiên Chúa ân thưởng, ôm vào lòng như một ái nữ suốt đời trung kiên theo Chúa và nêu cao mẫu gương sáng cho các bà mẹ trong việc giáo dục con cái trong bối cải của những khủng hoảng của đời sống hôn nhân gia đình.
Pv. GNsP
Mỗi Người Chúng Ta Được Chúa Thương #Cha PHẠM QUANG HỒNG
httpv://www.youtube.com/watch?v=lQUwCfyl7Ic
Mỗi Người Chúng Ta Được Chúa Thương #Cha PHẠM QUANG HỒNG
Tấm lòng lương thiện
Nhà văn Mỹ Elbert Hubbard từng nói: Bạn có thể là người làm nên kỳ tích. Là người thông minh ai cũng hiểu được chân lý này: Cách duy nhất để giúp đỡ mình, chính là giúp đỡ người khác.
Một công ty nọ có truyền thống tổ chức tiệc và rút thăm trúng thưởng vào Giáng sinh mỗi năm. Theo quy định rút thăm trúng thưởng, mỗi thành viên tham gia đều phải đóng góp 10 USD làm lệ phí.. Toàn công ty có 300 người, và phần thưởng chính là tổng số tiền của 300 người gộp lại: 3.000 USD. Ai may mắn sẽ được mang toàn bộ số tiền đó về nhà.
Vào ngày tổ chức lễ bốc thăm, không khí náo nhiệt tưng bừng hơn bao giờ hết, ai nấy cũng mong đợi tới giờ vàng để thử vận may của mình. Mỗi người đều được phát một mẩu giấy để ghi tên mình trước khi bỏ vào thùng bốc thăm trúng thưởng. Và trong lúc chuẩn bị ghi tên, một cậu nhân viên trẻ chợt phân vân suy nghĩ:
“Cô lao công Sarah là người có gia cảnh khó khăn nhất, con cái lại mắc nhiều bệnh tật, mà cô thì không có tiền để phẫu thuật cho con. Giá như cô có được số tiền này thì tốt biết mấy, nhưng cô lấy đâu ra 10 USD để tham gia cơ chứ?”.
Nghĩ rồi cậu không cần đắn đo mà quyết định sẽ ghi tên cô Sarah thay vì ghi tên mình lên đó. Mặc dù vẫn biết cơ hội quá mong manh, chỉ có 1/300 cơ hội, nhưng cậu vẫn cầu mong vận may mỉm cười với cô.
Tới lúc chuẩn bị rút thăm, không khí hồi hộp không kém phần căng thẳng. Mọi người cùng nhìn lên khán đài khi giám đốc công ty chọn ra tấm phiếu may mắn. Ở bên dưới, cậu thanh niên trẻ không ngừng cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp đỡ cô Sarah…
Vị giám đốc từ từ mở mẩu giấy ra… Tích tắc, tích tắc, mọi người đều nín thở chờ đợi đến mức tiếng kim đồng hồ cũng có thể nghe thấy. Khi nhìn vào cái tên trên tấm phiếu may mắn ấy, giám đốc bất giác mỉm cười… rồi ông đọc to lên. Và… kỳ tích thật sự đã xuất hiện! Khi cái tên Sarah được xướng lên, những tràng vỗ tay chúc mừng vang lên không ngớt tràn ngập cả hội trường. Cô Sarah vừa vui mừng vừa bất ngờ vì không biết mình được tham gia. Khi bước lên bục nhận phần thưởng, cô rối rít cảm ơn: “Tôi thật may mắn, có số tiền này con tôi được cứu rồi, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người!”.
Buổi tiệc diễn ra trong những tiếng nói cười và tiếng nâng ly chúc tụng. Chàng nhân viên trẻ miên man suy nghĩ về cái kết có hậu của đêm Giáng sinh năm ấy, bởi mọi thứ xảy ra như một kỳ tích. Cậu vừa bước dạo xung quanh vừa chúc tụng mọi người một Giáng sinh vui vẻ. Vô tình đi qua thùng phiếu, thuận tay cậu rút lấy 1 tờ ra xem, và… lạ chưa kìa, trên mảnh giấy đó có tên cô Sarah. Cậu không dám tin vào mắt mình nên vội vàng rút ra thêm một mẩu giấy, và một mẩu giấy nữa, tất đều có tên cô Sarah trên đó.
Một nỗi xúc động dâng trào trong lòng cậu, giống như những cơn sóng thuỷ triều dâng lên mãnh liệt. Hai mắt cậu đỏ lên, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng tuôn rơi. Cậu nhận ra một điều, thế giới này thực sự tồn tại “kỳ tích đêm Giáng sinh”, chỉ có điều kỳ tích đó không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó được tạo ra bởi những con người có tấm lòng lương thiện quanh ta.
Câu chuyện này gợi tôi nhớ đến trải nghiệm của chính bản thân mình.
Đó là một buổi chiều rảnh rỗi, tôi cùng cậu bạn thân đi dạo trong ngoại ô thành phố. Đột nhiên có một cụ già mặc bộ áo nâu cũ kỹ đi tới, gánh một gánh rau chào mời chúng tôi mua hàng. Nhìn những bịch rau đã héo rủ xuống, những chiếc lá dập nát như vừa trải qua một trận phong ba, không những vậy lại còn bị sâu ăn lỗ chỗ rất nhiều. Nhưng cậu bạn đi cùng tôi không hề tỏ ra khó chịu mà còn vui vẻ mua liền một nửa gánh rau cho cụ.
Cụ già ngại ngùng giải thích: “Số rau này do lão tự trồng, mấy hôm trước gặp trận mưa to, rau đều bị dập hết, nhìn thực sự rất xấu, thành thật xin lỗi”. Sau khi cụ già đi rồi, tôi hỏi bạn mình: “Cậu thực sự mang số rau này về sao?” Bạn tôi trả lời rằng: “Không, số rau này chắc không thể ăn được nữa rồi”.
Vậy cậu mua về làm gì?”
Vì mình biết sẽ chẳng có ai mua, nếu như mình cũng không mua thì e rằng cụ già sẽ không bán được hàng”.
Tấm lòng lương thiện của người bạn khiến tôi vô cùng xúc động và khâm phục. Tôi chạy theo cụ già mua giúp cụ nửa gánh rau còn lại. Cụ già thấy vậy rất vui mừng: “Lão đi bán cả ngày trời nhưng ngoài hai cậu ra thì không có ai mua cả, thực sự lão rất cảm ơn hai cậu”…
Tựa như bản nhạc có nốt bổng nốt trầm, cuộc sống luôn có những thăng trầm khiến ta thấy cần lắm một bờ vai, cần lắm một chỗ dựa. Và khi ta đang chới với giữa dòng đời, nếu như có một bàn tay sẵn sàng nâng đỡ ta lên, cho ta một điểm tựa, giúp ta vượt qua gian khó, thì tấm lòng thiện lương ấy sẽ là nguồn sức mạnh giúp ta vượt qua mọi giông bão của cuộc đời.
Có một bài hát rất hay rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Lòng tốt như ngọn cỏ, dẫu bạn chỉ bắt đầu nó bằng 10 đô la hay 1 mớ rau đã dập nát, nhưng nó sẽ lan toả và bạn sẽ bất ngờ khi thấy cả một thảm cỏ xanh ngát của tình yêu thương, sự đồng cảm, chia sẻ mà chúng ta có thể dành cho nhau.
Và thế giới này sẽ trở thành thiên đường mà không cần bạn phải là vĩ nhân. Đôi khi bạn sẽ thấy những gì mình cho đi quá nhỏ nhoi, đến độ bạn thấy dù có làm nó hay không thì cũng không có gì đáng kể. Đó là lý do nhà Phật căn dặn rằng: “Đừng thấy việc Thiện nhỏ mà không làm”.
Bởi vì ngay cả một cái cây cổ thụ cũng bắt đầu chỉ bằng một mầm xanh bé nhỏ.. Chỉ cần bạn gieo nó, như bắt đầu một câu chuyện nhỏ, nó có thể đi xa tới mức khi nhìn lại bạn sẽ không ngờ rằng nó chính là kiệt tác của cuộc sống.
Chỉ cần bạn bắt đầu bằng một ngọn cỏ, thế giới sẽ trở thành cánh đồng hoa rực rỡ.
Rose-Marie Xuân sưu tầm
From: Tu-Phung
BÍ QUYẾT CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG
BÍ QUYẾT CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG
Đây là 25 bí quyết chiến đấu thiêng liêng – cách chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ, mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina Maria Kowalska (1905-1938).
Tại Cracow-Pradnik, ngày 2-6-1938, Chúa Giêsu đã hướng dẫn nữ tu trẻ người Ba Lan là Faustina về việc tĩnh tâm ba ngày. Chị cố gắng ghi lại lời hướng dẫn của Chúa Giêsu vào nhật ký – sổ tay thần bí về cầu nguyện và Lòng Thương Xót.
Đây là những tiếng thì thầm của Chúa Giêsu nói với Thánh Faustina về cách tự bảo vệ khỏi những đợt tấn công của ma quỷ. Hướng dẫn này đã trở nên vũ khí của Thánh Faustina trong cuộc chiến thiêng liêng. Chúa Giêsu nói: “Này ái nữ, Ta muốn dạy con biết cách chiến đấu thiêng liêng” (số 1760).
1. Đừng bao giờ tin vào chính mình mà hãy hoàn toàn tin vào thánh ý của Ta.
Tín thác là vũ khí thiêng liêng, loại khiên thuẫn đức tin mà Thánh Phaolô đề cập trong chương 6 của thư gởi giáo đoàn Êphêsô: Binh giáp của Thiên Chúa. Từ bỏ mình để theo Ý Chúa là hành vi tín thác, tin vào sức mạnh xua đuổi ác thần.
2. Khi ở trong tình trạng phiền muộn, tăm tối và hoài nghi, hãy cậy nhờ Ta và cha linh hướng của con, ngài sẽ trả lời con nhân danh Ta.
Trong cuộc chiến thiêng liêng, hãy cầu nguyện với Chúa Giêsu. Hãy cầu khấn Thánh Danh Ngài, âm binh run sợ khi nghe Thánh Danh Giêsu. Hãy đem bóng tối ra ánh sáng bằng cách cho cha linh hướng hoặc cha giải tội và làm theo hướng dẫn của ngài.
3. Đừng thỏa thuận với cơn cám dỗ, hãy ẩn náu vào Thánh Tâm của Ta.
Trong Vườn Địa Đàng, Bà Êva đã mặc cả với ma quỷ và đã thua cuộc. Hãy chạy đến với Chúa Giêsu và ẩn náu vào Thánh Tâm, lúc đó chúng ta quay lưng lại với ma quỷ.
4. Ngay lần đầu, hãy cho cha giải tội biết cơn cám dỗ.
Xưng tội nên, cha giải tội tốt lành, và hối nhân chân thành là bí quyết để chiến thắng cơn cám dỗ và ma quỷ – không thất bại.
5. Hãy đặt tính ích kỷ vào chỗ cuối để nó không làm hư hỏng hành động của mình.
Ích kỷ là tự nhiên, nhưng phải diệt trừ nó để khỏi kiêu ngạo. Khiêm nhường đánh bại ma quỷ, loài kiêu ngạo vô cùng. Ma quỷ cám dỗ chúng ta ích kỷ để đưa chúng ta vào tròng kiêu ngạo của nó.
6. Hãy kiên nhẫn chịu đựng chính mình.
Kiên nhẫn là vũ khí bí mật giúp chúng ta bình an trong tâm hồn ngay cả khi bão tố cuộc đời dữ dội. Chịu đựng chính mình là thành phần của sự khiêm nhường và tín thác. Ma quỷ cám dỗ chúng ta đừng kiên nhẫn, chống lại chính mình và tức giận. Hãy nhìn mình trong tầm mắt của Thiên Chúa, Đấng vô cùng kiên nhẫn.
7. Đừng coi thường sự đau khổ nội tâm.
Kinh Thánh dạy rằng một số ma quỷ chỉ có thể trục xuất bằng cầu nguyện và ăn chay. Sự đau khổ nội tâm là vũ khí chiến đấu, có thể là hy sinh nhỏ bé nhưng với lòng mến to lớn. Sức mạnh của tình yêu hy sinh có thể trục xuất kẻ thù.
8. Hãy luôn bảo vệ ý kiến của bề trên và cha giải tội của con.
Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina đang ở trong nhà dòng. Chúng ta cũng có những người có quyền đối với chúng ta. Ma quỷ muốn chia rẽ và chiến thắng, thế nên đức vâng lời vì khiêm nhường là vũ khí thiêng liêng.
9. Hãy tránh xa lời đàm tiếu như bệnh dịch.
Miệng lưỡi có thể gây nguy hại nhiều. Đàm tiếu, tán gẫu, bép xép, lắm chuyện… là những thứ không bao giờ thuộc về Thiên Chúa. Ma quỷ là kẻ lừa dối, nó khuấy động những lời kết án và tán gẫu để có thể giết người khác. Hãy xa tránh thói “bà tám” lắm chuyện!
10. Hãy hành động như chính hành động và như mình muốn.
Quan tâm công việc của mình là bí quyết trong cuộc chiến thiêng liêng. Ma quỷ luôn rình rập để thừa cơ lôi kéo người ta. Hãy làm vui lòng Chúa bằng cách bỏ ý mình và tôn trọng ý kiến của người khác.
11. Hãy hết lòng giữ luật.
Ở đây Chúa Giêsu muốn nói tới Luật Dòng. Nhưng đa số chúng ta cũng đã thề hứa điều gì đó với Thiên Chúa và Giáo Hội, chúng ta nên trung thành với những lời thề hứa đó – ví dụ, lời thề hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy hoặc bí tích Hôn Phối. Ma quỷ luôn cám dỗ chúng ta không trung thành, không vâng lời, và không giữ luật. Lòng trung thành chính là vũ khí để chiến thắng.
12. Nếu có ai gây rắc rối cho con, hãy nghĩ tới điều tốt con có thể làm cho họ.
Trở nên chiếc bình chứa đựng Lòng Thương Xót là vũ khí chiến đấu vì điều tốt và đánh bại ma quỷ. Ghen ghét, tức giận, thù hận, không tha thứ… là “đặc tính” của ma quỷ. Cũng có lúc người khác làm chúng ta tổn thương. Chúng ta đáp lại bằng điều tốt nào? Cầu chúc tốt lành là cách phá vỡ xiềng xích của sự nguyền rủa và thù hận.
13. Đừng bày tỏ cảm xúc của mình.
Người nói nhiều sẽ dễ bị ma quỷ tấn công. Hãy chỉ bày tỏ cảm xúc với Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng thần lành và thần dữ đều nghe thấy những gì con nói. Cảm xúc sẽ qua đi. Sự hồi tưởng nội tâm là chiếc áo giáp thiêng liêng.
14. Hãy im lặng khi bị khiển trách.
Đa số chúng ta đều đã từng bị khiển trách. Chúng ta không kiểm soát được điều đó nhưng chúng ta có thể kiểm soát cách phản ứng của mình. Lúc nào cũng muốn mình đúng có thể mắc bẫy của ma quỷ. Thiên Chúa biết sự thật. Im lặng là bảo vệ. Ma quỷ có thể làm chúng ta té nhào bằng cái bẫy “tự nhận mình công chính.”
15. Đừng hỏi ý kiến mọi người, chỉ hỏi vị linh hướng, cứ chân thật đơn sơ như trẻ em.
Sống đơn giản có thể xua đuổi ma quỷ. Chân thật là vũ khí đánh bại kẻ đại bịp Satan. Khi chúng ta giả dối, chúng ta đặt một chân vào “vùng độc” của nó, và nó sẽ tìm cách quyến rũ chúng ta nữa.
16. Đừng thất vọng vì sự vô ơn.
Không ai muốn người khác vô ơn với mình. Nhưng khi chúng ta gặp tình huống vô ơn hoặc vô cảm, sự thất vọng có thể kéo chúng ta xuống. Hãy chống lại sự thất vọng, vì điều đó không bao giờ thuộc về Thiên Chúa. Đó là một trong các cám dỗ hiệu quả nhất của ma quỷ. Hãy biết ơn về mọi thứ và không buồn vì người ta vô ơn.
17. Đừng tò mò về con đường Ta đưa con đi.
Muốn biết và tò mò về tương lai là loại cám dỗ đã đưa rất nhiều người tìm đến ông đồng, bà cốt, thầy bói, thầy tướng số, tử vi… Hãy quyết tâm bước đi trong đức tin, quyết tâm tín thác vào Thiên Chúa, chính Ngài dẫn đưa con trên đường về trời. Hãy luôn luôn chống lại thói tò mò, hiếu kỳ.
18. Khi con buồn vì chán nản và bất đồng, hãy chạy ra khỏi chính mình và ẩn mình vào Thánh Tâm Ta.
Chúa Giêsu đưa ra cùng một sứ điệp lần thứ hai. Bây giờ Ngài nói tới sự chán nản. Ở đầu cuốn Nhật Ký, Ngài đã nói với Thánh Faustina rằng ma quỷ rất dễ dàng cám dỗ những người rảnh rỗi, ăn không ngồi rồi. Hãy nhận biết sự chán nản là tình trạng lơ mơ hoặc trầm cảm – ma quỷ ban ngày. Những người rảnh rỗi là mồi ngon đối với ma quỷ. Hãy bận làm việc cho Chúa.
19. Đừng sợ chiến đấu, hãy can đảm chống lại cám dỗ, chúng không dám tấn công nữa.
Sợ hãi là thủ đoạn phổ biến thứ hai của ma quỷ (thứ nhất là kiêu ngạo). Sự can đảm làm cho ma quỷ nhụt chí – nó sẽ chuồn đi khi gặp lòng can đảm kiên quyết dựa trên Đá Tảng Giêsu. Mọi người đều chiến đấu, Thiên Chúa là sự quan phòng của chúng ta.
20. Luôn chiến đấu với niềm tin sâu sắc rằng Ta ở với con.
Chúa Giêsu đã hướng dẫn một nữ tu vào dòng để “chiến đấu” với sự tin chắc. Nữ tu này có thể làm vậy vì có Chúa Giêsu đồng hành. Các Kitô hữu được mời gọi chiến đấu với niềm tin tưởng chống lại mưu ma kế quỷ. Ma quỷ cố gắng khủng bố và chiếm lấy các linh hồn, hãy chống lại! Hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần suốt ngày.
21. Đừng theo cảm xúc, vì không thể luôn kiểm soát được; nhưng công trạng nằm trong ý muốn.
Mọi công trạng đều nằm trong ý muốn vì yêu thương là hành động của ý muốn. Chúng ta hoàn toàn tự do trong Đức Kitô. Chúng ta phải chọn lựa, tự quyết định làm điều tốt hay xấu. Chúng ta đang sống trong vùng nào?
22. Hãy luôn tùy thuộc bề trên, ngay cả những điều nhỏ nhất.
Đây là hướng dẫn Chúa Giêsu dành cho Thánh Faustina. Nhưng chúng ta đều có Chúa là Bề Trên của mình. Tùy thuộc vào Thiên Chúa là vũ khí của cuộc chiến thiêng liêng vì chúng ta không thể chiến thắng nhờ sức mình. Tuyên xưng Đức Kitô chiến thắng ma quỷ là bổn phận của người môn đệ. Đức Kitô đến để chiến thắng tử thần và ma quỷ. Hãy tuyên xưng Ngài!
23. Ta sẽ không lừa dối con bằng viễn cảnh bình an và an ủi, nhưng chuẩn bị những cuộc chiến đấu cam go.
Thánh Faustina chịu đau khổ cả thể lý và tinh thần. Chị được chuẩn bị cho những cuộc đại chiến bằng ân sủng của Thiên Chúa, Đấng nâng đỡ Chị. Đức Kitô hướng dẫn chúng ta qua Kinh Thánh để chuẩn bị cho những cuộc chiến cam go, để mặc áo giáp của Thiên Chúa và chống lại ma quỷ. Hãy luôn tỉnh thức và ý thức.
24. Hãy nhớ rằng con ở trong giai đoạn quan trọng mà cả trời đất đều nhìn con.
Tất cả chúng ta đang ở trong giai đoạn mà cả trời đất đều theo dõi. Cuộc đời chúng ta có sứ điệp gì? Điều gì tỏa ra từ chúng ta – ánh sáng hay bóng tối? Cách chúng ta sống thu hút nhiều ánh sáng hay bóng tối? Nếu ma quỷ không thành công trong việc lôi kéo chúng ta vào miền tối tăm, nó sẽ cố gắng giữ chúng ta trong vùng hâm hẩm – không nóng, không lạnh, dở dở ương ương. Và như thế thì Thiên Chúa không vui lòng.
25. Hãy chiến đấu như một hiệp sĩ để Ta có thể ban thưởng cho con. Đừng sợ hãi, vì con không đơn độc.
Lời Chúa Giêsu nói với Thánh Faustina có thể trở thành lời tâm niệm của chúng ta: Hãy chiến đấu như một hiệp sĩ! Hiệp sĩ của Đức Kitô biết rõ lý do mình chiến đấu, sự cao cả của sứ vụ, Vị Vua mà mình phục vụ, và tính chắc chắn của sự chiến thắng mà chiến đấu tới cùng, chiến đấu bằng mọi giá. Nếu một nữ tu ít học, giản dị, nhưng kết hiệp với Đức Kitô, có thể chiến đấu như một hiệp sĩ, thì mọi Kitô hữu – trong đó có mỗi chúng ta – cũng có thể chiến đấu như vậy. Tin tưởng sẽ chiến thắng!
Kathleen Beckman
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ Aleteia.org)
From: Langthangchieutim
THÁNH AUGUSTINÔ, BẬC TRÍ THỨC CỦA MỌI THỜI
THÁNH AUGUSTINÔ, BẬC TRÍ THỨC CỦA MỌI THỜI
Đối với Augustinô, người Kitô hữu phải kết hợp thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô. Vả lại, cuộc sống Kitô hữu là gì, nếu không phải là mặc lấy Chúa Kitô, tái sinh trong Thiên Chúa và trong sự thăng tiến tâm linh cho đến lúc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt?
- Hối nhân trở thành thánh nhân
Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354, tại Tagaste, nay là thành phố Souk-Ahras thuộc nước Algeria, nằm phía Bắc Phi Châu. Cha ngài là thị trưởng Patricius, thuộc gia tộc quyền quý và mẹ là Monica, một tín hữu công giáo, đạo hạnh, gương mẫu và giàu nhân đức. Mẹ Monica đã kiên trì cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn và mở lòng người chồng và người con trai yêu quý tìm về nguồn Chân Thiện Mỹ. Ơn Chúa rất huyền nhiệm và linh động nơi cuộc đời Augustinô.
Khi còn bé, Augustinô là một cậu bé tinh nghịch, thông minh xuất chúng, nên cậu là niềm hãnh diện của ông Patricius. Sau 16 năm sống với gia đình tại Tagaste, ngài đã được cha mẹ cho đi học về văn khoa hùng biện tại Carthage vào cuối năm 370.
Thành phố Carthage là một thành đô phồn thịnh, những toà nhà nguy nga lộng lẫy, thổ dân ở đây đa số là đa thần, và lối sống cao xa dễ đưa con người vào con đường xa hoa trụy lạc. Cuộc sống ở đô thành đã thu hút biết bao bạn trẻ, và Augustinô cũng không ngoại lệ. Tuy con đường học vấn trổi vượt hơn các bạn học nhưng đời sống tâm linh và luân lý bị suy sụp.
Năm 19 tuổi, Augustinô đã trở thành giáo sư triết học. Sự thành công trong học vấn đã tạo cho ngài một chỗ đứng vững vàng trong xã hội. Những kiến thức thâm thúy và sự khôn ngoan của triết gia Cicero đã gợi trong tâm thức Augustinô nỗi khát vọng tìm kiếm sự khôn ngoan chân thật. Khi nghe giáo chủ của giáo phái Manikê hùng biện về giáo thuyết của họ, ngài bị thu hút và đã gia nhập giáo phái này. Với tài hùng biện sẵn có, ngài đã thuyết phục được bao nhiêu người gia nhập vào giáo phái đó.
Sau những năm theo học tại Carthage, năm 373, ngài trở về quê Tagaste, nhưng mẹ ngài không thể đón nhận một người thuộc bè phái Manikê dù đó là con trai của mình. Nhưng tình yêu đã khiến Monica tha thứ và hết lời khuyên con trở về chính lộ. Thời gian ở Tagaste, Augustinô đã mở lớp dạy môn khoa Ngữ Văn để kiếm tiền sinh sống.
Suốt 9 năm làm tín đồ Manikê, đến năm 383, khi tròn 29 tuổi, ngài ao ước sang Ý để lập nghiệp, nhưng ý định này không được mẹ tác thành. Tuy nhiên, ngài vẫn trốn mẹ mà đi sang thánh đô Rôma, nước Ý. Khi đến nơi, ngài đã lâm trọng bệnh và sau khi hồi phục ngài đã mở lớp dạy chuyên khoa văn hùng biện. Học sinh ở đây không trả lệ phí nên ngài nản lòng và bỏ dạy. Cuối cùng, ngài xin dạy tại đại học ở Milan. Là một giáo sư dạy triết học, ngài say mê tìm kiếm và đào sâu vào triết lý của Plato.
Năm 384-387, là giai đoạn khủng hoảng niềm tin. Giai đoạn khủng hoảng được chấm dứt khi ngài nghe bài giảng thật huyền nhiệm của thánh Giám mục Ambrôsiô. Phục Sinh năm 387, Augustinô được Rửa tội tại Nhà thờ Milan. Ít lâu sau, đang khi phải chiến đấu dữ dội với những ham muốn của xác thịt, ngài đã nghe như có tiếng thúc bách từ nội tâm là hãy cầm sách Thánh lên để đọc. Ngài mở thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Rôma: “Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14). Niềm vui và sự bình an khôn tả tràn ngập tâm hồn Augustinô và đã biến đổi cuộc đời của ngài hoàn toàn.
Hè năm 387, Augustinô cùng với mẹ và các bạn đồng hành đến cảng Ostia. Ít lâu sau, mẹ ngài qua đời và được chôn cất tại đây. Năm 388, ngài trở về Tagaste. Cùng với người bạn Alypius, ngài đã thành lập đan viện để sống chiêm niệm. Năm 391, ngài được phong chức linh mục thành Hippo và ở đây cho đến chết.
Khi nhận ra Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ, ngài đã viết rất nhiều sách để phi bác các lạc thuyết thời bấy giờ. Năm 395, ngài được phong làm phụ tá Đức Giám mục thành Hippo. Sau khi Đức Giám mục Valerius thành Hippo băng hà năm 396, thánh Augustinô lên kế vị. Sự khôn ngoan và thánh thiện của ngài đã giúp cho Giáo hội Phi Châu tiến triển rất nhiều. Ngài còn để lại những bộ sách quý giá về thần học, minh giáo và chú giải Thánh Kinh. Trong suốt quãng thời gian làm Giám mục, ngài còn thể hiện một tinh thần khiêm tốn và tình huynh đệ bác ái tuyệt hảo đối với các linh mục dưới quyền ngài.
Sau khi trở lại, thánh Augustinô sống nhưng không còn phải là ngài sống nữa, mà là Đức Kitô sống nơi ngài. Khi mọi sự đã hoàn tất, Chúa đã gọi ngài một lần nữa qua cơn bệnh trầm trọng và đã qua đời ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippo. Ngài đã được phong thánh và được nâng lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1303.
Thánh Augustinô trở lại vào năm 33 tuổi và 3 năm sau Ngài trở thành linh mục, rồi năm 41 tuổi làm giám mục. Ngài biết Chúa và yêu Chúa tuy muộn màng nhưng thật nồng cháy “Con đã yêu mến Ngài quá muộn, ôi Đấng tốt đẹp rất cổ kính và rất tân kỳ! Con đã yêu mến Ngài quá muộn!
“Này, Ngài vốn ở trong con, mà con lại ở ngoài con và vì thế con tìm Ngài ở bên ngoài; là kẻ xấu xa, con đã lăn xả vào những vật xinh đẹp Ngài đã tạo dựng nên. Ngài đã ở với con mà con lại không ở với Ngài. Chính những vật, nếu không hiện hữu trong Ngài thì không bao giờ hiện hữu, đã cầm giữ con xa Ngài. Ngài đã kêu gọi, đã gào thét, đã thắng sự điếc lác của con. Ngài đã soi sáng, đã chiếu rọi, đã xua đuổi sự mù lòa của con. Ngài đã tỏa mùi thơm của Ngài ra và con đã được hít lấy và đâm ra say mê Ngài. Con đã được nếm Ngài, và đâm ra đói khát Ngài; Ngài đã đụng tới con và con ước ao sự bình an của Ngài” (Tự thuật X, 27, 38). Ngài đã cầu nguyện, đọc tìm hiểu Kinh Thánh và lắng nghe Lời Chúa nên luôn thao thức “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1, 1).
- Thánh Augustinô, bậc trí thức của mọi thời
Thánh Augustinô để lại cho Giáo hội một kho tàng tư tưởng quý giá trong 252 cuốn sách lớn nhỏ, 509 bài giảng đủ loại, và 207 lá thư xa gần. Những tư tưởng bất hủ của ngài thường được trích từ ba cuốn sách nổi tiếng là: Những thú nhận, Thành trì của Thiên Chúa, về Chúa Ba Ngôi.
Nội dung tư tưởng phần lớn tập trung vào ba lãnh vực: Triết học, thần học, linh đạo. Hình thức ngài dùng để diễn tả nội dung là rất phong phú. Tất cả đều mang dấu ấn của một người học cao về văn chương và hùng biện.
Đọc những tác phẩm của thánh Augustinô, người nghiên cứu thấy: Phần, mà ngài nhận được bởi người khác, là rất đa dạng. Phần, mà ngài tự suy nghĩ ra, là rất sâu sắc. Ngài đã là giáo sư ở Thagaste, Carthage, Roma và Milan. Ngài có quan hệ mật thiết với nhiều bạn bè trí thức, trong đó có thánh Ambrôsiô.
Trí thức của thánh Augustinô được nhận thấy ở điểm chung này là: Say mê đi tìm sự thật, lẽ phải và đức khôn ngoan. Đối tượng là Thiên Chúa và con người. Sau khi đã mải miết đi tìm ở các trường phái, các trường học, các học giả, thánh nhân đã đi tìm nơi Đức Kitô. Ngài thú nhận: Chỉ Đức Kitô mới cho ngài thấy rõ sự thực, lẽ phải và sự khôn ngoan. Chỉ Đức Kitô mới là thầy chỉ cho ngài thấy con đường phần rỗi. Đức Kitô dạy ngài qua gương đạo đức của mẹ ngài là thánh Monica, qua Lời Chúa và trong nội tâm sâu thẳm của ngài. Ngài ghi lại tất cả cuộc đời thăng trầm của ngài một cách rất khiêm nhường. Với những tư tưởng trí thức trộn vào những kinh nghiệm bản thân, thánh Augustinô đã phản bác các bè rối một cách trí thức và đạo đức. Cũng với trí thức và đạo đức, ngài đã lập cộng đoàn tu viện ở Thagaste, đã sống đời mục vụ khi làm giám mục ở Hippone. Tại đây, ngài cũng đã trí thức trong lối sống của ngài.
Một chọn lựa đã được thánh Augustinô hay nhắc tới, đó là đời sống bên trong hơn đời sống bên ngoài. Trong mục vụ, thánh Augustinô lo cho đời sống bên ngoài của con chiên bằng nhiều cách, nhất là bằng cách dạy bảo, cảnh báo, khuyên răn. Nhưng điều quan trọng hơn ngài luôn cố gắng là, lo cho con chiên đi vào nội tâm mình, để gặp gỡ Đức Kitô. Trong cố gắng ấy, ngài thường nhấn mạnh đến đời sống phục vụ trong yêu thương, tình nghĩa theo gương Đức Kitô. Chính Đức Kitô mới là Đấng dạy dỗ nội tâm và đổi mới con người bên trong. Vì thế, mục đích sau cùng, mà ngài nhắm tới trong mọi bài giảng, là dẫn con người đến với Đức Kitô.
Thánh Augustinô là niềm tự hào của giáo phận Hippone, của Hội Thánh Phi châu, của Hội Thánh toàn cầu.
Nếu nhìn Hội Thánh Việt Nam qua gương trí thức của ngài, chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều điều phải cố gắng thêm.
Bước đầu của trí thức là biết nhận thấy vấn đề. Trong lãnh vực tư tưởng cũng như trong lãnh vực đời sống, trí thức vẫn là một tiếng gọi. Dù đối thoại, dù đối kháng, chúng ta cần phải trí thức. Nhất là trí thức Phúc Âm. Những chọn lựa đạo đức, nếu thiếu chiều sâu trí thức, sẽ khó có thể làm cho Chúa được vinh quang trên đất nước Việt Nam hôm nay một cách hữu hiệu và lâu bền.
Trên đất nước Việt Nam hôm nay và ngày mai, trí thức đang và sẽ phát triển ở mọi tầng lớp. Trí thức cũng đang được khát khao ngay ở thôn quê bình dân nghèo túng.
Ước mong Công giáo Việt Nam khi hiện diện và đồng hành, sẽ không thiếu một đội ngũ trí thức tầm cỡ đi đầu. Vừa trí thức trong đạo, vừa trí thức ngoài đời. Khối trí thức ấy sẽ sát cánh kề vai với các trí thức xã hội, để cùng với tất cả đồng bào, xây dựng quê hương chung là Việt Nam yêu mến của chúng ta. Chúng ta thành khẩn dâng lên Chúa mong ước trên đây với tâm tình cầu nguyện khiêm cung. (x. Vietcatholic 27-8-2010, nhân lễ kính thánh Augustinô, suy nghĩ về trí thức; ĐGM Bùi Tuần).
- “Giám mục vì anh chị em, Kitô hữu với anh chị em”
Cho anh chị em, tôi là Giám mục, cùng với anh chị em tôi là Kitô hữu. Tước hiệu thứ nhất là trách vụ đã lãnh nhận, tước hiệu thứ hai là của ân sủng. Tước hiệu đầu nói lên mối nguy hiểm, tước hiệu sau nói lên ơn cứu độ.
Thánh Augustinô đã sống một đời sống cầu nguyện liên lỉ, không ngừng đào sâu Kinh Thánh. Kinh nguyện trong cộng đoàn giúp ngài thêm mạnh mẽ. Sự ân cần của ngài đối với mọi người luôn là một huyền thoại: những người dự tòng chuẩn bị bí tích Rửa Tội, những người bị mất phương hướng luân lý viết thư xin ngài chỉ giáo, những giáo lý viên chán nản, những linh mục mất định hướng thần học…
Đối với Augustinô, người Kitô hữu phải kết hợp thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô. Vả lại, cuộc sống Kitô hữu là gì, nếu không phải là mặc lấy Chúa Kitô, tái sinh trong Thiên Chúa và trong sự thăng tiến tâm linh cho đến lúc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt?
Cầu nguyện
Ôi thánh Augustinô ngàn đời hạnh phúc.
Thiên Chúa đã chọn Ngài để trở thành mục tử của Hội Thánh.
Thiên Chúa đã ban cho Ngài đầy tinh thần Khôn ngoan và thông hiểu.
Suốt đời, Ngài đã tìm kiếm Thiên Chúa với cả con tim thổn thức của mình.
Trong đức tin, với lòng tín thác, tình yêu và sự bền chí, chúng con kêu cầu Ngài vì Ngài là cha chúng con:
Xin giúp chúng con được củng cố trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Xin giúp chúng con biết noi gương Ngài luôn khát khao Thiên Chúa là nguồn mạch của sự khôn ngoan đích thực.
Xin cũng giúp chúng con tìm thấy sự nghỉ an trong Thiên Chúa, chủ thể tình yêu vĩnh cửu mà thôi. Amen.
(Lời nguyện trong tuần cửu nhật chuẩn bị Năm Thánh của Tiểu chủng viện Thánh Augustinô-Koupélà).
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
SỰ GIÀU CÓ CỦA THIÊN CHÚA LÀ LỜI MỜI GỌI CHO LÒNG QUẢNG ĐẠI
SỰ GIÀU CÓ CỦA THIÊN CHÚA LÀ LỜI MỜI GỌI CHO LÒNG QUẢNG ĐẠI
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Mặt trời hào phóng một cách lạ thường, không giây phút nào là nó không chiếu sáng nhất.
Các nhà khoa học cho biết, bên trong mặt trời, cứ mỗi giây có một tỉ lệ tương đương với bốn triệu con voi được chuyển hóa thành ánh sáng, một thứ quà tặng chỉ biết cho đi, không bao giờ biết nhận lại. Mặt trời vẫn tiếp tục đốt cháy nó. Nếu sự hào phóng này ngừng lại, đương nhiên tất cả năng lượng sẽ mất nguồn cung cấp, mọi sự sẽ chết và bất động. Chúng ta, và mọi vật trên hành tinh này, sống được là nhờ sự hào phóng của mặt trời.
Trong sự hào phóng này, mặt trời phản ánh sự giàu có của Thiên Chúa, một sự hào phóng mời gọi chúng ta cũng trở nên hào phóng theo, mở rộng quả tim, dấn thân nhiều hơn để tận hiến bản thân mình trong công việc hy sinh, để làm chứng nhân cho sự giàu có của Thiên Chúa.
Nhưng điều này không dễ. Một cách bản năng, chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là tích trữ và để dành để cho cuộc sống được an toàn. Bản chất chúng ta là sợ và sống chùm với nhau. Vì vậy, dù nghèo hay không, chúng ta đều có cảm nhận thiếu thốn, luôn luôn sợ mình không có đủ, và vì không có đủ, chúng ta phải cẩn thận khi cho, chúng ta không thể quá hào phóng được.
Nhưng Thiên Chúa làm ngược lại với điều tự nhiên trên. Thiên Chúa rộng rãi, giàu có, quảng đại, và hào phóng vượt ra ngoài những lo sợ và tưởng tượng nhỏ nhoi của chúng ta. Vũ trụ của Thiên Chúa quá phong phú và phi thường. Kích thước của vũ trụ, chỉ tính riêng về những gì con người đã khám phá, cũng đã là không tưởng tượng nổi. Quá dồi dào và hào phóng là đặc nét của Thiên Chúa.
Chúng ta thấy điều này qua dụ ngôn Người gieo giống trong Kinh Thánh: Người gieo giống, đại diện cho Thiên Chúa, người mà Đức Giê-su mô tả, không phải là người tính toán, gieo cẩn thận và chỉ gieo ở những mảnh đất màu mỡ. Người gieo giống này gieo không phân biệt nơi gieo: bên vệ đường, trong bụi gai, trên đá, nơi mảnh đất cằn cỗi, cũng như nơi tốt tươi. Hình như ông quá dư hạt giống nên có thể nói cách gieo giống của ông xuất phát từ tính hào phóng của sự dồi dào hơn là tính thận trọng của sự thiếu thốn. Chúng ta cũng thấy sự giàu có này trong dụ ngôn người làm công vườn nho, gia chủ, đại diện cho Thiên Chúa, trả công đồng đều cho tất cả người làm công, không phân biệt ai trước ai sau. Thiên Chúa, như chúng ta biết, giàu có vô hạn và không bao giờ tính toán chi ly trong việc ban phát.
Thiên Chúa cũng rộng rãi và quảng đại khi tha thứ, như chúng ta thấy trong các phúc âm. Trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, người cha tha cho người con hoang đàng, ông cho vượt lên sự giàu có của ông, nhiều khi sự giàu có này làm cho nhân phẩm bị mất vì quá tính toán cho mình. Chúng ta cũng thấy sự rộng rãi này nơi Đức Giê-su khi Người tha thứ cho kẻ hành hình cũng như tất cả những ai bỏ Người trong cuộc thương khó. Qua những gì chúng ta thấy, Thiên Chúa quá giàu tình yêu, quá giàu lòng thương xót nên Ngài mới phung phí, quá quảng đại, không tính toán, không kỳ thị, dám nhận bất trắc, và có quả tim rộng lượng vượt quá trí tưởng tượng chúng ta.
Và đó là lời mời gọi: Để có được một khái niệm về sự giàu có của Thiên Chúa, một giàu có dám nhận bất trắc, chúng ta cần có một quả tim luôn rộng mở và một lòng quảng đại vượt lên trên bản năng sợ hãi, bản năng làm chúng ta nghĩ rằng, chỉ vì chúng ta không có đủ nên cần tính toán chi ly nhiều hơn.
Trong tất cả các phúc âm, phúc âm thánh Lu-ca chứa đựng một trong những sứ điệp mạnh mẽ nhất về đức công bình (cứ sáu hàng là có một thách thức trực tiếp với đức công bình đối với người nghèo) nhưng tuy thế, trong phúc âm thánh Lu-ca, Đức Giê-su vẫn nhắc nhở về mối hiểm nguy của giàu có, Ngài không bao giờ lên án sự giàu có hay người giàu có. Hơn thế Người phân biệt sự giàu có quảng đại và giàu có bủn xỉn. Người giàu có quảng đại tốt lành vì họ tỏa ra và hiện thân cho sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa, trong khi người giàu có bủn xỉn không tốt bởi vì họ đưa ra một hình ảnh sai lầm về sự giàu có, quảng đại, và quả tim rộng lớn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta đong đấu nào sẽ nhận lại đấu đó. Điểm chính là nói lên rằng không khí chúng ta thở ra là không khí chúng ta hít vào. Điều đó không chỉ đúng về mặt sinh thái học mà nó còn đúng cho mọi khía cạnh chung của cuộc sống. Nếu chúng ta thở ra sự bủn xỉn, chúng ta sẽ hít vào sự bủn xỉn; nếu chúng ta thở ra tính nhỏ nhen, chúng ta sẽ hít vào tính nhỏ nhen; nếu chúng ta thở ra sự gắt gỏng cay chua, chúng ta cũng sẽ hít vào sự gắt gỏng cay chua đó; và nếu chúng ta thở ra sự thiếu thốn khiến chúng ta tính toán và dè dặt, thì sự toán tính và dè dặt đó sẽ là không khí chúng ta hít vào. Nhưng, nếu nhận thức được sự giàu có của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thở ra lòng quảng đại và bao dung, và khi đó chúng ta sẽ hít không khí quảng đại và bao dung vào. Chúng ta hít vào những gì chúng ta thở ra.
Tôi chưa bao giờ gặp ai thật sự có lòng quảng đại mà họ lại không nói rằng, lúc nào họ cũng nhận được nhiều hơn cho. Và tôi cũng chưa bao giờ gặp một ai thật sự có quả tim rộng rãi mà lại sống trong cảm nhận mình thiếu thốn. Để có lòng quảng đại và quả tim rộng mở thì trước hết chúng ta phải tin vào sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Nhờ sự giàu có của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được ánh sáng mặt trời, một vũ trụ lớn lao hào phóng vượt sức tưởng tượng của loài người. Đó không phải chỉ là thử thách cho tinh thần và trí tưởng tượng, nhưng đặc biệt là thử thách cho quả tim, để nó trở nên giàu có và quảng đại hơn.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi”.
Anh Tran and 2 others shared a post.

Trong một ngôi nhà thờ bên trong tu viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau :
“Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này tthường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa : “Ðây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời : “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa”.
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ…
Internet
Con thuyền Hội Thánh
Con thuyền Hội Thánh
Saladin, vua Hồi giáo, gởi giấy cho Đức Giáo Hoàng: “ Ta sẽ lấy đền thờ Phêrô làm đền thờ Mahomet! “ Đức Giáo Hoàng trả lời: “ Thuyền Thánh Pherô có thể lúc lắc nhưng nhất định không chìm” (Fluctuat nec mergitur).
Câu nói thời danh này đã đi vào lịch sử.
+ Suốt đời Luther dã dùng mọi phương kế để lăng nhục và đánh đổ Hội thánh, nhưng ông ta không đạt được mong ước. Trên giường bệnh, ông còn xin cục phấn và gắng gượng viết lên vách câu này: “ Hỡi giáo hoàng, ta là thứ dịch tễ cho mi thì khi chết, ta sẽ chôn vùi mi theo”.
+ Nối chí ấy có ông Voltaire ở thế kỷ XVIII. thông minh nhưng nham hiểm, ông đã viết bao nhiêu sách và đã diễn thuyết bao nhiêu bài cổ động, hô hào tiêu diệt Hội Thánh Công giáo. Ông công khai tuyên bố rằng chỉ 20 năm nữa thôi thì Hội Thánh đi đời. Thế nhưng, câu đoán đó của ông đã. . . trật lất!
+ Khi làm Thủ tướng nước Đức, Bismarck (1815-1898), một tay anh hùng đầy thế lực quyết đánh đổ Hội Thánh trong chiến dịch văn hóa của ông (Kulturkampf).
Để củng cố đức tin của các tín hữu và khơi động lòng cậy trông vào Chúa, có người đã bí mật dán lên mấy cửa hiệu một mẫu truyền đơn bằng tranh như sau: Trên một tờ giấy lớn vẽ một núi đá to, sóng biển liên tục tấn công tới tấp, lại có một đám đông người tý hon ăn mặc như Bismarck đang hợp lực với sóng gió để xô đổ quả núi. Nhưng chính phía bên kia có một tên quỉ, đứng khinh bỉ nhìn bọn người tý hon kia, lên tiếng: “ Đã non 2000 năm, tao đã cùng hoả ngục nỗ lực làm đổ mà tảng đá đó vẫn không nao núng thì sá gì lũ tý hon tụi bay”.
+ Năm 1903, Jaures (1859-1914), nhà hùng biện người Pháp, thấy Hội Thánh phải đương đầu với nhiều khó khăn, cùng lúc nhiều nước có đạo bỏ rơi, ông vui mừng reo lên: “ Sóng đưa thuyền Phêrô vào bờ, bây giờ nước rút, thuyền mắc cạn, nằm trơ trẽn bãi cát! “
Nhưng sự thực thì nước rút rồi nước lại lên, và thuyền Phêrô lại tiếp tục ra khơi.
+ Cũng ở nước Pháp, trước Jaures, có Napoléon một nhân vật đã làm chấn động trời Âu. Khi thấy Napoléon bắt đầu giam giữ ĐGH Piô VII (1742-1823), các kẻ nghịch reo lên: “ Đây là Giáo Hoàng cuối cùng”. Nhưng rồi Napoléon thất bại, bị cầm tù tại đảo St. Hélène, và Đức Giáo Hoàng lại trở về Rôma. Chính Đức Piô VII đã đứng lên đón rước và giúp đỡ gia đình tan rã của Napoléon -gồm bà mẹ, 4 anh em là Lucien, Jérôme, Louis và Pauline, kể cả ông cậu là Hồng Y Fesch-, sau khi ông bị đi đày.
* Tóm lại, trước đây cũng như mãi mãi về sau, dù Hội thánh địa phương có thể mất vì nhiều nguyên do, nhưng Hội thánh toàn cầu nhất định sẽ mãi mãi tồn tại. Henrich Heine (1797-1856), thi hào người Đức, đã phải đồng ý như thế khi ông viết: “ Đã lâu tôi không còn công kích Hội thánh Công giáo nữa. Tôi đã đo sức trí khôn của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.”

ĐỂ LÊN TRỜI CẦN BẮT CHƯỚC CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ
ĐỂ LÊN TRỜI CẦN BẮT CHƯỚC CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ
Sống trên đời ai cũng có một người mẹ. Người mẹ đó không chỉ sinh ra chúng ta mà còn yêu thương và nuôi dạy chúng ta lớn lên thành người. Vì vậy, qua mọi thời, con người không ngớt lời ca ngợi công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ. Con dân Nước Việt cũng có nhiều câu ca dao tục ngữ, để nói lên tình yêu vô bờ bến của người mẹ:
Đôi vai mẹ một gánh đầy huyền thoại,
tình yêu thương hào phóng đến khôn cùng;
Mênh mông bát ngát đại dương,
Cũng không sánh được tình thương mẹ hiền.
Nhưng cho dầu có dùng hết ngôn ngữ trần gian để ca tụng tình mẹ, thì cũng không thể nào diễn tả hết:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,
Đựng sao đầy hai tiếng: Mẹ ơi!
Trong đức tin Công giáo, mỗi người kitô hữu chúng ta có chung một người Mẹ, đó là Đức Maria. Công ơn của Mẹ Maria đối với mọi người không những không thua kém người mẹ trần thế mà còn gấp ngàn lần. Mẹ là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Nhờ Mẹ, chúng ta có Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc loài người. Nhờ Mẹ chúng ta có tất cả trong đức tin: Được làm người Công giáo, được lãnh nhận các Bí tích, được có nhiều cơ hội để lo phần rỗi hầu ngày sau được về Thiên đàng.
Mẹ được Thiên Chúa ban cho 4 đặc ân cao cả:Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, đặc ân Đồng trinh trọn đời, đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa và đặc ân Hồn Lẫn Xác Lên Trời. Đối với đặc ân Hồn Xác Lên Trời đã được truyền thống Giáo hội và các Kitô hữu tôn kính từ xa xưa, nhưng mãi tới ngày 01 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo hoàng Piô XII mới tuyên bố thành tín điều. Mặc dầu trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ về đặc ân này, nhưng nếu chúng ta để ý thì chúng ta vẫn thấy đặc ân Mẹ Lên Trời cả hồn lẫn xác ẩn chứa trong nhiều đoạn Kinh Thánh. Chẳng hạn, lời thiên thần chào Mẹ “Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ.” Hay lời ca tụng của bà Êlizabét: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42). Rồi, lời ca tụng Thiên Chúa của Đức Mẹ trong bài Magnificat: “Từ nay muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc, bởi Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả.” (x. Lc 1,48-49). Mặt khác, bình thường chúng ta cũng có thể dễ chấp nhận đặc ân này. Bởi vì, thân xác chết là do tội lỗi. Nhưng Đức Maria không hề mắc tội Tổ tông truyền và tội riêng. Do đó, thân xác Mẹ không bị hủy hoại tiêu tan.
Hơn nữa, các thánh và nhiều bậc thông thái trong Giáo hội cũng đã từng quả quyết về việc Đức Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn lẫn xác. Thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: “Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.” Cha Ađômêô thì nói rằng: “Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.”
Ngày lễ hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta tuyên xưng niềm tin hồn xác lên trời của Mẹ. Đồng thời, chúng ta cùng cảm tạ Thiên Chúa vì đã thưởng công Mẹ hồn xác lên trời. Mặt khác, đây là dịp nhắc nhở chúng ta rằng, quê hương chúng ta ở trên trời. Mẹ đã lên trời, đó là niềm hy vọng để mỗi người chúng ta tiếp bước theo sau. Nhưng để được lên trời với Mẹ chúng ta phải cố gắng sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi. Sống như Mẹ, đi con đường Mẹ đã đi đó chính là noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ:
Thứ nhất, chúng ta bắt chước nhân đức khiêm nhường của Mẹ: Sau lời sứ thần truyền tin, Đức Mẹ đã khiêm tốn thưa với Thiên thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” (Lc 1,38). Từ đó, Mẹ sống tinh thần khiêm nhường thẳm sâu trước mặt Chúa và mọi người: Khi Bà Êlizabét ca ngợi Mẹ, Mẹ đã qui hướng tất cả những gì mình có là do tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn;”(Lc 1,49). Mẹ sống âm thầm trong vai trò làm vợ và làm mẹ tại mái ấm gia đình Nagiarét đến nỗi không ai biết Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa; Khi Đức Giêsu được nổi danh do lời giảng dạy và các phép lạ Ngài làm, Đức Mẹ vẫn sống âm thầm và ẩn danh…Tất cả điều đó cho chúng ta thấy nhân đức khiêm nhường của Mẹ. Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ hai, chúng ta bắt chước Mẹ sống tin tưởng và phó thác vào Chúa: Sau khi thưa xin vâng, Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Giêsu. Bào thai trong cung lòng của Mẹ ngày càng lớn lên. Nhưng không ai hiểu về nguyên nhân, kể cả Thánh Giuse. Bằng chứng là Thánh Giuse định tâm bỏ Mẹ mà trốn đi. Rồi, người thân và làng xóm láng giềng, chắc chắn không thiếu những lời đàm tiếu, thị phi. Vậy mà Mẹ vẫn tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Đúng như lời bà Thánh Êlizabét ca tụng Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Sự tin tưởng và phó thác vào Chúa của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ ba, chúng ta bắt chước Mẹ để sống hiền lành và nhịn nhục: Từ khi cưu mang Đức Giêsu cho đến khi Con Mẹ chịu chết treo trên thập giá, Đức Mẹ phải đối diện với biết bao đau khổ: Đau khổ khi nghe ông Simêon nói tiên tri về Mẹ và Hài Nhi; Đau khổ khi đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập khỏi tay Hêrôđê lùng bắt; Đau khổ khi lạc mất Con ở Jêsusalem trong ba ngày; Đau khổ khi gặp Đức Giêsu vác Thập giá trên đường đến Núi Sọ; Đau khổ khi thấy Đức Giêsu bị đóng đinh; Đau khổ khi chứng kiến việc tháo xác Đức Giêsu xuống khỏi thập giá; Đau khổ khi phải chứng kiến việc chôn xác Đức Giêsu trong mồ. Nhưng trong khi chịu đựng những đau khổ đó, Đức Mẹ không hề trách móc kêu la một lời nào. Sự hiền lành và nhịn nhục của Mẹ là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta noi theo.
Thứ tư, chúng ta bắt chước Mẹ để hết lòng yêu mến Chúa: Lòng yêu mến Chúa của Mẹ được thể hiện qua những việc tiêu biểu như: Ba tuổi Mẹ đã dâng mình trong đền thờ; Khi Thiên thần đến truyền tin cũng là lúc Mẹ đang đắm chìm trong lời kinh nguyện; Mẹ thưa “Xin Vâng” để cộng tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa; Hơn ba mươi năm Mẹ nuôi nấng chăm sóc Đức Giêsu; Mẹ chạy đôn đáo tìm cho bằng được khi Đức Giêsu đi lạc trong đền thờ… Tất cả những thái độ trên đều thể hiện một lòng yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự của Mẹ. Đó là mẫu gương cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Thứ năm, chúng ta bắt chước Mẹ để sống yêu thương hết mọi người: Vì yêu thương nhân loại nên Mẹ đã chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó nhân loại được cứu chuộc. Vì yêu thương nên Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà Êlizabét để chia sẻ niềm vui có Chúa và để giúp đỡ bà chị họ trong những ngày thai nghén sinh nở. Vì yêu thương nên Mẹ đã cầu bầu cùng Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu ngon để cứu gia chủ khi họ hết rượu. Vì yêu thương nên khi đã về trời Mẹ vẫn hiện ra đây đó trên thế giới để ủi an nâng đỡ con cái loài người… Đó là mẫu gương yêu người cho tất cả mỗi người chúng ta noi theo.
Như vậy, Đức Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhờ những đặc ân Thiên Chúa ban mà còn nhờ những nhân đức mà Mẹ ra sức rèn luyện. Chúng ta muốn được lên Thiên đàng phải đi con đường Mẹ đã đi, phải sống như Mẹ đã sống, đó là biết noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ.
Lạy Thiên Chúa là nguồn Tình Yêu, Chúa đã cho Mẹ hồn xác lên trời. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin giúp chúng con biết sống làm sao để một ngày kia cũng được hưởng hạnh phúc trên Trời với Mẹ. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen
BI KỊCH THẬT SỰ CỦA TỘI LỖI
BI KỊCH THẬT SỰ CỦA TỘI LỖI
Bi kịch thật sự của tội lỗi thường là người bị tội lỗi chống lại, cuối cùng lại trở thành tội nhân, họ giáng xuống người khác điều mà họ từng phải gánh chịu. Có những điều nghịch lý trong chúng ta, bằng cách nào đó khi chúng ta bị tội lỗi chống lại, chúng ta thường có khuynh hướng tiếp nhận tội lỗi, cùng với sự yếu đuối nơi tội lỗi phát ra, sau đó là cuộc chiến đấu để không hành động cùng một cách thức sai phạm như vậy. Thắng lợi chủ yếu nhất của tội lỗi là lần đầu tiên bị tội lỗi chống lại, chúng ta thường trở thành những tội nhân.
Chúng ta hiểu điều này, ở dạng sơ đẳng nhất, họ bị ảnh hưởng từ những “nghi thức chào đón” tàn bạo nào đó (chào đón thành viên mới, sinh viên mới) mà họ đã trải qua. Từ đội bóng trường cấp ba, liên đoàn trường cao đẳng đến một số trường huấn luyện quân sự nào đó, chúng ta thấy nghi thức chào đón tàn bạo được dùng như nghi lễ khởi đầu. Điều thú vị là những người đã trải qua điều đó thường không thể chờ đến lúc họ giáng xuống người khác điều đó. Đã chịu đựng những điều tàn bạo, bạo tàn sẽ nảy sinh trong họ.
Có một chân lý trong các trường tâm lý học cho rằng, mọi kẻ ngược đãi đều từng bị lạm dụng trước đó. Hầu hết đều đúng vậy. Những kẻ bắt nạt là những người đã bị bắt nạt, người tàn bạo đều đã từng là những nạn nhân, người ngoài cuộc gay gắt xa lánh (trong sự kiêu ngạo, chúng ta gọi họ là “kẻ thua cuộc”) chính là người đã bị loại trừ một cách cách bất công. Điều gì tạo ra một người ngoài cuộc? Việc gì làm nên một kẻ hung tàn? Thực tế, điều gì tạo thành một kẻ giết người hàng loạt? Phải có điều gì đó đã xảy ra với trái tim họ, khiến họ trở thành một chiến binh mệt mỏi cầm lấy khẩu súng tấn công, và bắt đầu bắn vào những đứa trẻ không nơi nương tựa?
Bệnh tâm thần thường là một yếu tố, không nghi ngờ gì, nhưng có nhiều yếu tố khác mà phần lớn trong đó, chúng ta không đủ can đảm để thành thật đối diện. Sự phán xét tức thời của chúng ta về thủ phạm của cuộc bắn phá hàng loạt, hay vụ khủng bố bom cách tự nhiên nhất thường thể hiện theo cách này: “Tôi hi vọng hắn bị thiêu trong địa ngục!” Điều sai với phản ứng đó, là không hiểu rằng người ấy đã bị thiêu trong những địa ngục cá nhân, và hành động khủng khiếp này là một nỗ lực để thoát khỏi địa ngục hoặc ít nhất là đẩy nhiều người như ông cùng vào địa ngục. Cái mà phần lớn các thủ phạm của bạo lực muốn làm là phá hủy thiên đường đối với những người khác, kể từ khi họ cảm thấy mình đã bị tước mất thiên đường một cách không công bằng. Dĩ nhiên không phải lúc nào điều đó cũng đúng, vì bệnh tâm thần và mầu nhiệm tự do của con người cũng được sử dụng, nhưng nó đúng đủ để thách thức chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết rõ ràng hơn về lý do tại sao có những người lại mang một trái tim gay gắt, bạo lực trong khi những người khác lại nhã nhặn, yêu thương. Điều gì nắn đúc nên một trái tim? Điều gì làm con người ta nên gay gắt hay nhã nhặn?
Tội lỗi và ân sủng hình thành nên tâm can con người, trước hết làm biến dạng và sau đó lại chữa lành. Tội lỗi, những điều riêng của chúng ta không ít hơn những người khác, gây tổn thương người khác và bảo vệ chính mình khỏi những bệnh hoạn bên trong bởi vì chúng ta đã đổ lên người khác bệnh tật của chúng ta, làm người đó trở nên yếu đuối. Ân sủng thì ngược lại. Nó giải phóng người khác khỏi những đau yếu mà họ phải chịu đựng cách bất công, giúp họ từ gay gắt trở nên hiền hòa, xoa dịu tận gốc rễ những tổn thương của họ.
Vì vậy, chúng ta cần ngưng hành động phân cấp mọi người là “người chiến thắng” hay “người thua cuộc” như thể họ phải chịu trách nhiệm một mình về sự thành công hay thất bại của họ. Không có nhiều Mẹ Têrêxa, tôi nghi ngờ đã bị lạm dụng cách tổn thương khi còn trẻ. Không có nhiều Thánh Phanxicô đã chịu đựng sự nhạo báng làm suy nhược như những đứa trẻ nhỏ đã bị “ném đá” trên Facebook hay nhạo cười vì sự xuất hiện của chúng. Sự tàn ác hay ân sủng như Leonard Cohen đưa ra, cả hai đều đến với chúng ta cách không xứng đáng. Và sau đó chúng in dấu vào tâm lý và thậm chí cả cơ thể chúng ta nữa. Làm thế nào chúng ta tự mang mình, hình dáng cơ thể chúng ta. Làm thế nào chúng ta lan tỏa tinh thần, sự tự tin, nỗi xấu hổ, lòng quảng đại hay tính nhỏ nhen, khả năng thể hiện yêu thương hay sự kháng cự tình yêu, bao nhiêu lời chúc phúc, bao nhiêu điều chúc dữ của chúng ta… phụ thuộc rất nhiều vào ơn lành bất xứng hay sự nguyền rủa chúng ta đã lãnh nhận. Điều đó thể hiện những ân sủng bất xứng hay những bạo tàn mà chúng ta đã trải qua.
Phải thú nhận rằng, điều này vẫn mang màu sắc của mầu nhiệm sự tự do của con người. Một vài việc Mẹ Têrêxa làm xuất phát từ nền tảng việc lạm dụng, và một số điều Thánh Phanxicô đã chịu đựng tính bạo lực và bị bắt nạt khi còn là một đứa trẻ và chưa trở thành một trong hàng triệu người chữa lành thương tích, đã biến những tội lỗi của chính họ thành ân sủng chữa lành mạnh mẽ. Đáng tiếc thay, họ là ngoại lệ chứ không phải thường lệ, và sự vĩ đại của họ, hơn bất kỳ điều gì khác, nằm trong những thành tựu đúng đắn đó.
Có nhiều thách thức đối với chúng ta trong vấn đề này: Trước hết, chúng ta không được để cảm xúc lôi kéo chúng ta vào việc xét đoán điều mà chúng ta mong muốn thấy ai đó bị “thiêu trong ngục.” Thứ hai, chúng ta nên giảm bớt sự tự mãn, tính kiêu căng của mình đối với những người mà chúng ta gọi là “kẻ thua cuộc.” Tiếp đến, chúng ta cần phải học biết rằng thử thách căn bản của nhân tính và tinh thần là không để người khác vì chúng ta mà phải chịu đựng những gì chúng ta đã trải qua do lỗi lầm và bạo lực mà một vài người nào đó đã gây ra cho chúng ta. Cuối cùng, hiểu một cách sâu xa về những gì trong cuộc sống không dẫn chúng ta đến việc biết ơn một cách sâu sắc hơn đối với Chúa và với tất cả mọi người, những người xứng đáng cũng như không xứng đáng có tình yêu và khả năng thiên bẩm của chúng ta.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
From: Langthangchieutim
LỬA TRÊN MẶT ĐẤT
LỬA TRÊN MẶT ĐẤT
Tin Mừng hôm nay là lời tâm sự của Đức Giêsu, Ngài khẳng định mục đích của đời mình là ném lửa trên mặt đất và Ngài mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên. Lửa Đức Giêsu mang lại là lửa nào? Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari (Lc 9,55)? Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15, 6)? Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Đức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3). Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau. Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa. Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Đức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Đừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra. Lửa thiêu hủy những cằn cỗi. Lửa thanh lọc những ô nhơ. Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá. Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật. Chúng ta cần làm cho mong muốn của Đức Giêsu thành tựu. Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Đức Giêsu chia sẻ cho ta điều đang đè nặng trên Ngài. Ngài linh cảm về thử thách lớn lao Ngài sắp chịu. Đúng là Ngài đang lên đường đi gặp nó. Ngài gọi đó là Phép Rửa mà Ngài phải chịu. Đức Giêsu can đảm đón nhận Phép Rửa đáng sợ này. Ngài thấy mình sẽ bị nhận chìm thật sâu trong đó.
Đức Giêsu tiếp tục nói điều phải nói, làm điều phải làm. Ngài dám trả giá cho sự trung tín của mình. Nỗi khổ đau và cả cái chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều đó chẳng làm Ngài chùn bước.
“Các anh có thể chịu Phép Rửa mà Thầy sẽ phải chịu không?” Ngài đã hỏi các con ông Dêbêđê như thế (Mc 10,38), và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế.
Chẳng có Phép Rửa nào khác ngoài Phép Rửa Ngài đã chịu. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi. Tin Mừng Đức Kitô dành cho người hiền hòa, chứ không nhu nhược. Chúng ta phải có cùng một mong muốn và khắc khoải như Giêsu.
****************************
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình Yêu và gieo rắc Tình Yêu khắp nơi. Amen!
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
(Trích từ ‘Manna’)