BÀI GIẢNG LỄ VỌNG PHỤC SINH CỦA ĐTC PHANXICÔ

BÀI GIẢNG LỄ VỌNG PHỤC SINH CỦA ĐTC PHANXICÔ

Sau ngày Sabbath (Mt 28: 1), những người phụ nữ đã đi đến ngôi mộ.  Đây là cách Tin Mừng của Đêm Vọng thánh thiêng này bắt đầu: với ngày Sa-bát.  Trong Tam Nhật Thánh, chúng ta thường có xu hướng bỏ qua ngày này bởi ta đang háo hức chờ đợi bước chuyển từ mầu nhiệm Thánh Giá của ngày Thứ Sáu sang lời hoan ca Alleluia của Chúa Nhật Phục Sinh.  Tuy nhiên, năm nay, chúng ta đang trải nghiệm, hơn bao giờ hết, sự im lặng lớn lao của Thứ Bảy Thánh.  Chúng ta có thể tưởng tượng mình ở vị trí của những phụ nữ vào ngày đó.  Giống như chúng ta bây giờ, trước mắt họ là một thảm cảnh đau thương, một bi kịch xảy ra quá bất ngờ.  Họ đã nhìn thấy sự chết và nó đè nặng lên trái tim họ.  Nỗi đau xen lẫn nỗi sợ hãi: liệu họ có chịu chung số phận với Thầy mình?  Rồi sau đó là nỗi sợ về viễn tượng tương lai và tất cả những gì cần phải được xây dựng lại.  Một ký ức đau đớn, một niềm hy vọng bị cắt cụt. Giống như chúng ta bây giờ, đối với họ, đó là giờ phút đen tối nhất.

Tuy nhiên, trong tình huống này, những người phụ nữ không cho phép mình bị tê liệt.  Họ không chịu khuất phục trước sự ảm đạm của đau khổ và tiếc nuối; họ không tự thu mình lại, hay trốn chạy khỏi thực tại.  Họ đang làm một việc rất đơn sơ nhưng lại phi thường: chuẩn bị các hương liệu ở nhà để xức xác Chúa Giê-su.  Họ không ngừng yêu thương; từ trong đêm tối của cõi lòng, họ thắp lên một ngọn lửa thương xót.  Mẹ Maria của chúng ta đã trải qua ngày Thứ Bảy đó.  Đó là ngày xứng đáng dành để tôn vinh mẹ, trong tâm tình nguyện cầu và hy vọng.  Mẹ đã đáp lại nỗi buồn bằng niềm tin vào Thiên Chúa.  Những người phụ nữ này không thể ngờ được rằng, từ trong bóng tối của ngày Sa-bát đó, chính họ đang thực hiện những sự chuẩn bị cho “Bình minh của ngày thứ nhất trong tuần,” ngày sẽ thay đổi lịch sử.  Như hạt giống bị chôn vùi trong lòng đất, Đức Giêsu chuẩn bị làm cho đời sống mới được nở hoa trong thế giới này; và những người phụ nữ đó, bằng lời cầu nguyện và tình yêu, đã giúp tạo nên đóa hoa hy vọng đó.  Trong những ngày buồn thảm này, có biết bao người cũng đã và đang làm những điều mà những phụ nữ kia đã thực hiện, đó là gieo hạt mầm hy vọng, với những cử chỉ bé nhỏ của lòng quan tâm, của tình thương và lời cầu nguyện.

Rạng sáng, những người phụ nữ đi đến ngôi mộ.  Thiên thần nói với họ: “Đừng sợ.  Ngài không ở đây; vì Ngài đã sống lại.” (câu 5-6).  Họ nghe thấy những lời của sự sống ngay cả khi họ đang đứng trước một ngôi mộ…  Và sau đó họ gặp Đức Giê-su, đấng ban tặng tất cả mọi niềm hy vọng, Đấng xác chuẩn thông điệp và nói: “Đừng sợ” (câu 10).  Đừng sợ, đừng lui bước trước sợ hãi: Đây là thông điệp của hy vọng.  Nó được gửi đến chúng ta hôm nay.  Đây là những lời mà Thiên Chúa lặp lại với chúng ta ngay trong đêm nay.

Đêm nay, chúng ta được trao một quyền cơ bản mà không bao giờ bị lấy mất: quyền hy vọng.  Đó là niềm hy vọng hy sống động và mới mẻ đến từ Thiên Chúa.  Đó không phải là thứ lạc quan tếu; nó không phải là một cái vỗ nhẹ vào lưng hay một lời khích lệ trống rỗng.  Đó là một món quà từ thiên đường, thứ mà chúng ta không thể tự mình kiếm được.  Trong những tuần này, chúng ta đã lặp đi lặp lại rằng “tất cả sẽ ổn thôi.”  Đó là những lời nói bén rễ từ nét đẹp nhân bản và thúc đẩy những câu khích lệ nổi lên từ cõi lòng chúng ta.  Nhưng khi ngày tháng trôi qua và nỗi sợ hãi tăng lên, ngay cả niềm hy vọng táo bạo nhất cũng có thể tan biến.  Niềm hy vọng của Đức Giê-su mang lại thì rất khác.  Ngài gieo vào lòng chúng ta niềm tin rằng Thiên Chúa có thể biến mọi thứ trở nên tốt lành, vì chưng ngay cả từ ngôi mộ Ngài cũng đã mang lại sự sống.

Ngôi mộ là nơi không ai bước vào.  Nhưng Chúa Giêsu trỗi dậy vì chúng ta; Ngài đã sống lại cho chúng ta, để mang lại sự sống từ nơi của sự chết, để khởi đầu một lịch sử mới ở chính nơi bị chèn bởi tảng đá.  Đấng đã lăn hòn đá bịt kín lối vào ngôi mộ cũng có thể loại bỏ những viên đá trong trái tim chúng ta.  Vì vậy, chúng ta đừng nhụt chí; chúng ta đừng đặt tảng đá chắn mất niềm hy vọng.  Chúng ta có thể và phải hy vọng vì Thiên Chúa là Đấng thành tín.  Ngài không bỏ rơi chúng ta; Ngài đã viếng thăm ta, và đã bước vào những cảnh huống đau thương, thống khổ và chết chóc của chúng ta.  Ánh sáng của Ngài xua tan bóng tối của ngôi mộ; hôm nay Ngài muốn ánh sáng đó xuyên qua cả những góc tối nhất trong cuộc sống chúng ta.  Thưa quý anh chị em, ngay cả khi chúng ta đã chôn vùi niềm hy vọng trong trái tim mình, chúng ta cũng đừng từ bỏ, vì Thiên Chúa vẫn luôn lớn hơn.  Bóng tối và sự chết không có lời cuối cùng.  Hãy mạnh mẽ lên, vì với Chúa không có gì là hư mất!

Lòng can đảm.  Đây là một cụm từ thường được Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng.  Chỉ một lần những người khác dùng cụm từ này để khích một người đang cần giúp đỡ: Hãy can đảm đứng dậy, Ngài đang gọi anh đó! (Mc 10:49).  Chính Người, Đấng Phục Sinh, đã nâng chúng ta lên trong những lúc cần thiết.  Trên hành trình cuộc sống, nếu ta cảm thấy yếu đuối, mỏng dòn, hoặc sa ngã, xin đừng sợ, Thiên Chúa sẽ đưa tay giúp đỡ và nói với ta: “Dũng cảm lên!”  Tựa như Don Abbondio (trong tiểu thuyết của Manzoni), chúng ta cũng có thể nói “can đảm chẳng phải là điều gì bạn có thể tự trao cho mình” (I Promessi Sposi, XXV).  Đúng, ta không thể tặng nó cho chính mình, nhưng ta có thể nhận nó như một món quà.  Tất cả những gì ta phải làm là mở lòng cầu nguyện và nhẹ nhàng lăn đi tảng đá chặn lối vào trái tim của ta để ánh sáng của Chúa Giê-su có thể rọi vào.  Ta chỉ cần kêu cầu Ngài: “lạy Chúa Giêsu, hãy đến với con giữa nỗi sợ hãi này, và nói với con rằng: Hãy can đảm!”  Có Ngài, ôi lạy Chúa, chúng con sẽ chịu thử thách nhưng không bị lung lay.  Và, dù cho bất cứ nỗi buồn nào, chúng con sẽ được củng cố trong hy vọng, vì có Ngài, thập giá cũng dẫn đến sự phục sinh, bởi Ngài ở cùng chúng con trong màn đêm u tối; Ngài chính là sự vững vàng giữa những điều không chắc chắn của chúng con; Ngài là lời nói phát ra trong cơn thinh lặng của chúng con; và không gì có thể lấy đi tình yêu Ngài dành cho chúng con.

Đây là sứ điệp Phục Sinh, sứ điệp của hy vọng.  Sứ điệp này chứa một phần nữa, đó là sứ mạng được sai đi.  Đức Giê-se bảo các phụ nữ: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê” (Mt 28:10).  Thiên thần đã báo trước: “Người đi Ga-li-lê trước các ông” (câu 7).  Chúa đi trước chúng ta.  Thật đáng khích lệ khi biết rằng Ngài đi trước chúng ta trong cuộc sống và trong cái chết; Ngài đến Galilê trước chúng ta.  Với Đức Giê-su và các môn đệ, nơi này gợi nhớ tới cuộc sống hàng ngày, tới gia đình và công việc.  Chúa Giêsu muốn chúng ta mang lại hy vọng ở đó, cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta.  Đối với các môn đệ, Galilê cũng là nơi đáng nhớ, vì đó là nơi đầu tiên họ được kêu gọi.  Trở về Galilê có nghĩa là nhớ rằng chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi.  Chúng ta cần tiếp tục cuộc hành trình, nhắc nhở bản thân rằng chúng ta được sinh ra và tái sinh nhờ một lời mời gọi được trao tặng nhưng không cho chúng ta vì tình yêu.  Đây luôn là điểm mà chúng ta luôn có thể làm mới lại, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và thử thách.

Nhưng còn hơn thế nữa.  Galilê là khu vực xa nhất tính từ chỗ họ đang ở, tức từ Jerusalem.  Và không chỉ về mặt địa lý.  Galilê cũng là nơi cách xa sự thánh thiêng của Thành Thánh nhất.  Đó là khu vực của những người thuộc các tôn giáo khác nhau sinh sống: đó là “Galilee của Dân Ngoại” (Mt 4:15).  Chúa Giêsu sai họ đến đó và yêu cầu họ bắt đầu lại từ đó.  Điều này nói gì với chúng ta?  Nó nói rằng thông điệp hy vọng không nên bị giới hạn vào những chốn thánh thiêng của riêng chúng ta, mà cần được mang đến cho mọi người.  Bởi vì tất cả mọi người đang cần sự trấn an, và nếu chúng ta, những người đã chạm được vào “Lời của sự sống” (1Ga 1: 1), không trao ban sự trấn an đó thì ai sẽ làm thay?  Đẹp biết bao khi trở thành những Kitô hữu mang đến sự an ủi, trở thành người mang vác gánh nặng của người khác, và thành người khích lệ: đó là những sứ giả của sự sống trong thời điểm chết chóc!  Ước gì chúng ta có thể mang lời ca sự sống đến mọi thứ ‘Galilee’, mọi khu vực của gia đình nhân loại mà tất cả chúng ta thuộc về và là một phần của chúng ta, vì tất cả chúng ta đều là anh chị em.  Chúng ta hãy làm cho những kêu gào của sự chết phải im lặng; cho mọi thứ chiến tranh phải dừng lại!  Ước gì chúng ta có thể ngừng sản xuất và buôn bán vũ khí, vì chúng ta cần lương thực chứ không phải súng ống!  Hãy kết thúc việc phá thai và giết hại người vô tội.  Ước gì trái tim của những người dư dả có đủ sự cởi mở để trao ban các nhu cầu thiết yếu vào những đôi tay trống trơn của người nghèo.

Sau hết, những phụ nữ đó đã níu giữ chân Chúa Giê-su (Mt 28: 9).  Đó là đôi chân đã đi rất xa để gặp gỡ chúng ta: đến tận mức đi vào và trỗi dậy từ ngôi mộ.  Những phụ nữ ôm lấy đôi chân đã giẫm đạp cái chết và đã mở ra con đường hy vọng.  Hôm nay, như những người lữ hành tìm kiếm hy vọng, chúng con muốn bám vào Ngài, lạy Đức Giê-su Phục Sinh!  Chúng con quay lưng với cái chết và mở rộng trái tim cho Ngài, vì chính Ngài là Sự Sống.

Chuyển dịch: Khắc Bá, SJ – CTV Vatican News

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-04/toan-van-bai-giang-le-vong-phuc-sinh-dtc-phanxico.html

From: Langthang chieutim

CHỜ MONG NHỮNG PHÉP MÀU


CHỜ MONG NHỮNG PHÉP MÀU

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Tin Mừng thánh Luca “quay lại” quang cảnh chiều tối ngày thứ Sáu Tuần Thánh như sau: “Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày Sa–bát, các bà nghỉ lễ như Luật Truyền.” (Lc 23,56).

Những người chứng kiến cái chết của Đức Giêsu ra về, mỗi người một ý nghĩ.  Có những người sợ hãi.  Không ít người lắc đầu nhìn ông Giêsu thất bại ê chề trên đỉnh đồi Canvê.  Có những người đấm ngực.  Các thượng tế giết được Đức Giêsu rồi vẫn chưa hả hê ngồi yên.  Nhóm môn đệ thì rút về nhà, cửa đóng then cài, tự cách ly.  Đối với các ông, giấc mộng theo Chúa Giêsu lúc này dường như chấm hết.  Bầu không khí thê lương ngột ngạt đè lên các môn đệ…  Trong khi đó, số đông những người Do Thái khác vẫn hân hoan mừng Lễ Vượt Qua.

Ngày Chúa yên nghỉ trong mồ, truyền thống Giáo Hội dành thời gian thinh lặng thánh để chờ mừng Chúa Phục Sinh.

Nếu ghép đoạn phim năm xưa trên đây vào bối cảnh lúc này trong đại dịch, chắc chúng không khác nhau nhiều.  Người ta phải ở nhà, cách li phòng chống dịch.  Không ít người hoang mang, sợ hãi và buồn sầu.  Sầu buồn vì đã có biết bao người thân yêu ra đi.  Hiện có cả triệu người phải điều trị căn bệnh virus này.  Khả năng người nhiễm vẫn có nguy cơ tăng.  Những điều ấy buộc nhiều quốc gia ban hành lệnh phong tỏa.

Là người Công Giáo, bầu không khí ấy không thể lấy đi niềm tin và hy vọng của mỗi người.  Chúng ta đang chờ đợi phép mầu.  Cùng với Chúa Giêsu trong mồ, chúng ta vẫn thấy nơi đó phép lạ có thể xảy ra.

  1. Chờ mong Chúa phục sinh

Dĩ nhiên Đức Giêsu đã chiến thắng tử thần trong biến cố phục sinh.  Hằng năm Giáo Hội cử hành tưởng nhớ biến cố này để người tín hữu thêm tin tưởng vào Chúa.  Trong cảnh chết chóc và sầu buồn, Giáo Hội luôn khơi lên cho con cái mình lòng mong chờ một phép mầu sẽ xảy đến.  Đặc biệt, nếu không có đại dịch Covid–19, chúng ta sẽ được cùng nhau tham dự đêm canh thức phục sinh.  Đó là khoảng thời gian vô cùng thánh thiêng để trông đợi Chúa Kitô sống lại.

Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh luôn cho người ta sức mạnh.  “Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì…đức tin của bạn cũng vô ích.” (1Cr 15,14).  Phép màu Phục Sinh là “bảo bối và bí kíp” để chúng ta vượt qua đại dịch lần này.  Hoặc nói như Đức Bênêđictô XVI: “Đó là điểm tựa cho đức tin của ta, là đòn bảy mạnh mẽ cho tin tưởng vững chắc của ta, là luồng gió mạnh quét sạch mọi sợ hãi và lưỡng lự, mọi hồ nghi và tính toán của loài người.”[1]

Cụ thể trong ngày Thứ Bảy này, hẳn là có bao người tin tưởng chờ mong một ngày rất gần: dịch bệnh sẽ chấm dứt.  Đó là thời khắc cả nhân loại được phục sinh, được sống lại những dự định, ước mơ và tiếp tục tiến bước.  Thời khắc đó sẽ đánh tan mọi nỗi buồn sầu sợ hãi.  Mỗi người đều tin khoa học sẽ tìm ra lời giải cho bài thuốc chủng ngừa và phương thuốc chữa trị căn bệnh này.

Là người Công Giáo, chúng ta vẫn hằng tin Chúa đã, đang và sẽ làm những phép mầu nơi cuộc đời mỗi người.  Trong đức tin, ta có thể đón nhận đau khổ và chia sẻ với đau khổ của những người khác.  Bằng cách đó, đau khổ loài người được hội nhập vào tình yêu cứu chuộc của Chúa Kitô; nhờ đó đức tin trở nên thành phần hấp dẫn của sức mạnh thần linh lôi kéo thế giới tới hạnh phúc. (x. Youcat số 102).

Với đức tin, chúng ta thấy tương lai tươi sáng hơn.  Nơi đó, Thiên Chúa vẫn đang hoạt động để giúp các nhà khoa học tìm ra phương thuốc.  Nơi đó, Chúa vẫn thôi thúc các nhà chức trách phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với dân.  Nơi đó, Chúa mời gọi tôi trở về để: “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cor 13,7).

Hóa ra giữa cơn dịch này, các tín hữu phải nên nguồn động viên tinh thần lớn lao.  Chúng ta có Thiên Chúa, Đấng an bài mọi sự.  Thiên Chúa không chết như triết gia Friedrich Nietzsche tuyên bố.  Ngay cả trong cái chết, người tín hữu luôn tin sự sống sẽ hồi sinh.  Đó là món quà để giúp người ta vượt qua mọi bão táp phong ba.

  1. Hy vọng những phép màu

Trong cảnh loạn lạc chiến tranh, đau thương chết chóc, tuyệt vọng là điều khó tránh.  Người ta cũng có thể mường tượng ra các môn đệ đang cạn dần hy vọng.  Truyền thống Giáo Hội sơ khai tin rằng chính Đức Mẹ là chỗ dựa để các ông không bỏ cuộc.  Mẹ động viên, nâng đỡ và gợi lại những gì Con của Mẹ đã nói năm xưa về cái chết và sự phục sinh.  Hôm nay, Mẹ Maria và mẹ Giáo Hội cũng đang “xốc” lại tinh thần cho con cái mình.

Thực vậy, Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Á Châu vừa ban hành Thông điệp Phục sinh trong thời kỳ âu lo.  Trong đó ngài thấy niềm hy vọng của toàn thể nhân loại bị bóp nghẹt bởi bóng đêm tuyệt vọng của Covid–19.  Ngài so sánh tình cảnh lúc này như “Đêm Tối của Linh Hồn” mà thánh Gioan Thánh Giá đã trải nghiệm.[2]  Ai cũng hiểu và chấp nhận đây là những thời điểm khó khăn, thời điểm bất thường, hy vọng của chúng ta đối với tương lai bị lu mờ.  Tệ hơn nữa việc chối bỏ Thiên Chúa cũng có thể xảy ra trong thời gian này.

Bạn nghĩ sao khi lời Thánh Vịnh nhắc với từng người rằng:

“Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa? Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn,
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.” (TV 27, 1.5)

Chúng ta đừng đánh mất khả năng kinh ngạc và niềm mong chờ Chúa sống lại.  Đó là sự kiện đã xảy ra và là trọng tâm đức tin của chúng ta lúc này.  Nơi bệnh viện, đã có biết bao người đang nỗ lực cứu chữa bệnh nhân.  Có biết bao người đã khỏi bệnh, có bao quốc gia đồng lòng chống dịch.  Biết bao con người đang giúp người già yếu, nghèo khổ.  Biết bao chuyên gia y tế miệt mài nghiên cứu thuốc men.  Hàng triệu, hàng tỷ người đang cùng nhau nguyện cầu.  Dịch càng tăng nhanh, dòng người ấy càng không bỏ cuộc.  Đó chẳng phải là những điều kỳ diệu đang diễn ra đó sao?

  1. Lời nguyện cầu xin ơn

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
Chúa là nơi chúng con ẩn náu khi gặp hiểm nguy,
là Đấng chúng con tìm đến trong cơn hoạn nạn;
chúng con tin tưởng nài xin Chúa
thương nhìn đến những người đang đau khổ,
cho kẻ đã qua đời được nghỉ yên,
và an ủi những ai đang ưu phiền,
xin Chúa chữa lành các bệnh nhân
và ban bình an cho người đang hấp hối,
xin ban sức mạnh cho các nhân viên y tế,
ơn khôn ngoan cho các nhà lãnh đạo
và lòng can đảm để đến với mọi người trong yêu thương,
nhờ đó chúng con được cùng nhau tôn vinh Danh thánh Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa, Chúa chúng con,
Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa,
trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời
[3].  Amen

 Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Nguồn: https://dongten.net/2020/04/11/cho-mong-nhung-phep-mau/

[1] x. Youcat 105

[2] Thông điệp Phục sinh trong thời kỳ âu lo, Đức Hồng Y Charles Maung Bo, Tổng Giám mục Yangon, Myanmar (Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Á Châu – FABC).

[3] Trích: Thánh lễ trong thời đại dịch, phần Lời nguyện nhập lễ.

From:Langthangchieutim

Chia Sẻ với anh em Linh Mục về nội dung các bài giảng về Sự Đau Khổ

Chia Sẻ với anh em Linh Mục về nội dung các bài giảng về Sự Đau Khổ

LM Matthêu Nguyễn Khắc Hy PSS

05/Apr/2020

Trong tình trạng đại dịch coronavirus đang hoành hành khắp thế giới, và Giáo Hội đang chuẩn bị bước vào tuần thánh mừng mầu nhiệm Thương Khó, Chết, và Sống Lại của Đức Giêsu Kitô qua nghi thức phụng vụ chưa từng có trong lịch sử, đó là, giáo dân tham dự phụng vụ qua màn hình của truyền thông hiện đại, tâm tư giáo dân xoay quanh câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa để những đau khổ này xảy ra? Ngài có thật sự yêu thương con người không? Hay Thiên Chúa có trừng phạt con người vì tội lỗi của họ không?

Một số người còn thêm kịch tính khi cho rằng bí mật thứ Ba của sứ điệp Fatima chưa được tiết lộ… Vì thế, đại dịch covid-19 này là bí mật thứ ba được Đức Mẹ báo trước từ năm 1917.

Anh em linh mục có trách nhiệm giúp giải thích những thắc mắc này trong các bài giảng lễ, nhất là trong tuần thánh này, để giáo dân tăng thêm kiến thức đức tin, và tin tưởng hơn vào Thiên Chúa.

Linh mục chúng ta thường hay bị mắng là trả lời những câu không ai hỏi… Và chúng ta cũng phải thú nhận là nhiều câu trả lời của chúng ta thiếu rõ ràng hay không đúng trọng tâm những gì người khác hỏi. Một số những giải thích thiếu rõ ràng, ngay cả thậm chí sai trái, khiến giáo dân hoang mang.

Tôi muốn chia sẻ với anh em vài điểm đáng chú ý khi chúng ta giải thích tương quan giữa Sự dữ (evil) và Thiên Chúa trong các bài giảng.

Thứ nhất, cần nhấn mạnh: sự dữ và đau khổ là một huyền nhiệm (mystery) . Ta không biết nó đến cách nào, và tại sao nó tồn tại. [2] Ngay cả khoa học cũng không biết tại sao, vì khoa học chỉ cắt nghĩa được những hiện tượng xảy ra mà thôi. Cũng như ta đọc Kinh Thánh, tác giả không hề nói tại sao hay cách nào con rắn đến với con người, mà chỉ đơn giản nói việc con rắn xuất hiện cám dỗ hai ông bà nguyên tổ, một biểu tượng của sự dữ trong đời sống con người.

Thánh Phao lô đã nói: “Điều tôi muốn tôi không làm, và tôi làm điều tôi không muốn” (Rm 7:15), như một thú nhận trước mầu nhiệm cuộc sống. Sự dữ là một huyền nhiệm. Vì thế, ta không thể chấp nhận những câu trả lời đơn giản cho những câu hỏi hóc búa, hay những câu trả lời từ chối trách nhiệm cá nhân (như Satan khiến tôi làm…) hay cho rằng sự dữ không có thực, hay ta không đánh giá đúng mức sự thương khó (đau khổ) của Đức Kitô, Đấng đồng cảm với những đau khổ của con người.

Thứ hailoại bỏ tư tưởng vô cảm khi cho rằng sự dữ và đau khổ là ý niệm tương đối, nghĩa là, nó không thật sự là sự dữ nếu không gây đau khổ cho ta. Ví dụ, động đất là động đất, và nó không thật sự là sự dữ hay gây đau khổ nếu xảy ra trong vùng hoang vu, không bóng người. Rắn độc tự nó là rắn độc, nhưng không là sự dữ nếu không cắn ta. Ngay cả những lý luận gần hơn như bệnh nhân ung thư chết hàng ngàn người trong một ngày, nhưng ta không quan tâm đơn giản vì ta không biết họ, hay sự dữ không trực tiếp ảnh hưởng đến ta. Chỉ khi nào “xui xẻo” đến với ta hay gia đình, người thân… lúc đó ta mới cho nó là sự dữ (và đau khổ).

Ta cần khơi dậy ý thức cộng đoàn, nghĩa là, tất cả đều là con Thiên Chúa. Đức tin Công Giáo không cho phép ta vô cảm trước những đau khổ của tha nhân, bất kể người đó ở đâu hay đến từ đâu. Chỉ có Đức Giê su mới dạy môn đệ Ngài “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho ai ngược đãi con” mà thôi (cf. Mt 5:44).

Thứ bata luôn tìm thấy “may trong rủi” . Vì ta không có kiến thức tương lai, và ta bị hạn chế trong những khủng hoảng đang có, nên ta quên những cái tốt do những khủng hoảng này mang lại. Ví dụ, cái chết một người có thể đem lại bình an cho gia đình; việc phong tỏa và cách ly trong thời gian gần đây giúp con người ý thức hơn về giá trị cuộc sống, về những hoang phí thời gian hay tiền bạc họ đã làm, về sự cần thiết gần gũi nhau trong gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái… Tính lạc quan giúp ta luôn tìm được lý do để tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (1 Tx 5,18). Ta luôn nhớ rằng sự dữ tự nó không có cái kết, mà cuối cùng nó sẽ bị đánh bại, rằng chúng ta không bao giờ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Vì thế, hãy nhìn những sự kiện diễn ra trong đức tin vào Thiên Chúa, hơn là tìm Thiên Chúa trong lăng kính của những diễn tiến này.

Thứ tưcẩn thận khi cắt nghĩa rằng mọi sự xảy ra đều là Ý Chúa. Dĩ nhiên điều này không đúng (nếu hiểu là Thiên Chúa muốn đau khổ cho con người). Cần phân biệt sự khác nhau giữa “Ý Chúa muốn” và “Chúa cho phép xảy ra”. Ý của Thiên Chúa rõ ràng là cho thế gian được cứu chuộc, tuy nhiên Thiên Chúa cho phép chúng ta và vũ trụ được tự do đáp trả lời mời gọi này trong nhiều cách. Không phải mọi sự xảy ra đều là Ý Thiên Chúa, vì còn có tự do của con người đóng góp đưa đến những kết quả này. Vì thế, nếu nói Ý Chúa dẫn đến những đau khổ, liệu ta có vẽ lên một Thiên Chúa độc ác không? Và nếu Thiên Chúa muốn những điều ác độc như thế, Thiên Chúa đó không đáng cho ta tôn thờ.

Thứ nămtránh từ ngữ Thiên Chúa trừng phạt con người. Quan niệm trong dân gian về sự thưởng phạt nhãn tiền của thần thánh khiến nhiều khi ta dùng từ ngữ cắt nghĩa những hiện tượng trước mắt như sự trừng phạt của Thiên Chúa. Nhiều người còn trích dẫn các câu chuyện Kinh Thánh trong Cựu Ước để chứng minh Thiên Chúa “thưởng phạt nhãn tiền” những ai chống lại Ngài. Giáo lý Công Giáo dạy rằng có sự Thưởng – Phạt ở đời sau. Tuy nhiên, nếu kết án Thiên Chúa (Thưởng) – Phạt thì ta trốn trách nhiệm tự do con người sử dụng. Nếu một người sống đời tội lỗi, và kết quả sau này là phải bị xuống hỏa ngục trầm luân, liệu đây là hình phạt Thiên Chúa áp dụng cho họ, hay chính họ tự chọn cái kết cho chính mình? Trong một đất nước dân chủ và sống theo pháp luật như Hoa Kỳ, những ai ở trong tù không phải bị chính phủ Phạt, cho bằng họ có hành động gì sai, và tự họ Phạt họ trong tù qua sự can thiệp của chính quyền.

Thứ sáu là Số phận. Đây là quan niệm Phật giáo, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân Việt nam, và nhiều người Công Giáo cũng bị ảnh hưởng. Điều bị hiểu lầm nhiều nhất là quan niệm “số phận” hạn chế hay dẹp bỏ tự do định đoạt của con người, và điều này sai với giáo lý Công Giáo. Quan niệm “tiền định” được nhắc đến trong thư Phao lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.29 Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.30 Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:28-30)

Tiền định là tín lý thuộc về kết cục chứ không là bắt đầu trong đời sống Kitô hữu, nghĩa là nói đến hậu kết của đời sống mỗi người sau này. Ngay câu đầu “chúng ta biết rằng, Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” được xem là câu tiêu chuẩn để hiểu đúng nhất về tiền định. Tin vào Chúa Kitô là không để bất cứ yếu tố ngoại cảnh nào hủy hoại ý định và mục đích Thiên Chúa dành cho mỗi con người, đó là yêu thương và kết hợp với Ngài muôn đời: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giesu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:38-39)

Thứ bảytránh cực đoan và cuồng tín. Khi Đức Thánh Cha và các giám mục quyết định không dâng thánh lễ để tránh tập trung đông người khiến bệnh dịch có thể lây lan, một số người lên án quyết định này khi cho rằng đây là quyết định sai lầm, hay cho rằng những ai tin vào Đức Kitô thì “dù cầm rắn trong tay, hay uống nhầm thuốc độc cũng chẳng sao” (Mk 16:18). Nghĩa là, họ cho rằng tham dự thánh lễ chung nơi đông người không làm họ lây nhiễm coronavirus. Đây là lý luận “cùn” vì họ quên rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo nên mọi sự (cả coronavirus) và cho nó luật tự nhiên (là gây hại khi nhiễm vào con người). [3]

Vì thế, trong những bài giảng thuyết, chúng ta nên nhắc nhở vài điều quan trọng:

Đầu tiênsự dữ và đau khổ sẽ được chế ngự bởi tình thương và cảm thông (chia sẻ) . Chúng ta tin Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô, và tất cả là anh chị em một nhà. Ông Gióp dù không hiểu tại sao mình chịu đau khổ (bỏ rơi), nhưng chính ông không quên nâng đỡ những người bất hạnh: “Con kêu lên Ngài, nhưng Ngài không đáp, con trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm. 21 Ngài đối xử với con tàn nhẫn… 24 Dù vậy, nào tôi đã chẳng giơ tay trợ giúp, kẻ khốn cùng kêu cứu lúc lâm nguy? Tôi đã chẳng khóc người lầm than vất vả, chẳng động lòng thương kẻ túng nghèo?” (Job 30:20-25) Thánh Phaolô khẳng định rằng Thiên Chúa cũng cảm thông với ta trong mọi hoàn cảnh: “Người [Thiên Chúa] luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.” (2 Cor 1:4)

Thứ haiđau khổ cần được san sẻ, và sự dữ (evil) cần phải đối đầu. Đó cũng là lý do cho ông ta dạy khi ai gặp nạn thì mình đến “chia buồn” (còn ai hạnh phúc thì mình đến “chung vui” chứ không lấy bớt đi hạnh phúc của họ). Vì thế, việc thăm viếng, an ủi, cầu nguyện và nâng đỡ nhau trong lúc khốn quẩn vô cùng quan trọng, vì đây là dấu chỉ cụ thể sự hiện diện của Thiên Chúa với những ai đang đau khổ qua trung gian của chúng ta. Trong kinh tin kính các tông đồ, khi tuyên xưng “Đức Giêsu xuống ngục tổ tông” là nói đến chính Đức Giêsu chia sẻ những đau khổ con người, và “ngục tổ tông” là bước cuối cùng con người chịu được trước khi được cứu chuộc để về kết hợp với Thiên Chúa. Chính đau khổ gắn bó con người với nhau, và gắn bó Thiên Chúa với con người, qua Đức Kitô, Đấng sống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (Heb 4:15).

Cuối cùnghy vọng là niềm tin Kitô giáo. Chúng ta luôn sống trong hy vọng, và đức tin vào Chúa Giêsu Kitô là động lực của mọi hy vọng. Hy vọng không chỉ nhắm đến đời sau, mà còn ở đời này. Nếu những gì ta mong ước không được như ý ở đời này, thì chính hy vọng cho ta động lực và ý nghĩa sống. Đức Kitô là hy vọng của mọi người (1 Tim 1), và trong Đức Kitô con người hy vọng được cứu rỗi: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô, thì không còn bị lên án nữa.” (Rom 8:1). Hơn nữa, chính sự sống lại của Đức Kitô đem lại cho nhân loại hy vọng (1 Cor 15 ff), vì “sự chết là kẻ thù cuối cùng đã bị đánh bại” (1 Cor 15:26), và Chúa Kitô Phục Sinh cho ta niềm tin để sống, cho ta giá trị và lý do để chết.

Một vài những suy tư với anh em linh mục trong dịp đại dịch xảy ra trong tuần thánh năm nay. Tôi có cảm tưởng chúng ta là những người “không nói cũng không được, mà nói cũng không xong” khi đối diện với đau khổ của người khác. Trước “tiến thoái lưỡng nan”, đừng để cám dỗ rút lui im lặng, hay chỉ nói qua loa… hay tệ hơn (dù họ không biết là họ đang làm sai) đi vào vết cũ của lạc giáo Ảo Thân thuyết (Docetism), Ngộ Đạo thuyết (Gnosticism) hay một lạc giáo hỗn tạp của những giải thích bâng quơ, không chính xác.

Để hiểu rõ thêm về thần học Công Giáo dạy gì về sự dữ và đau khổ trong đời sống con người, xin mời anh em đọc thêm bài đính kèm sau.

———–

[1] “Ba Bí Mật Fatima” là cụm từ nói đến những điều Mẹ Maria nhắn với ba em Lucia Santos, Jacinta Marto và Francisco Marto khi hiện ra 6 lần với các em từ ngày 13-5-1917 đến 13-10-1917. Theo Lucia, ngày 13-7-1917 Mẹ Maria trao cho các em Ba Bí Mật. Năm 1941, theo yêu cầu của Đức Giám Mục Jose Alves Correia da Silva, giám mục Leiria, Lucia đã tiết lộ Hai Bí Mật, nhưng không muốn tiết lộ Bí Mật Thứ Ba. Tháng 10 năm 1943, theo yêu cầu của Đức Giám Mục địa phương, chị Lucia tiết bộ Bí Mật Thứ Ba bằng cách viết thư nhưng dán kín, và xin đợi cho đến năm 1960 rồi mới mở ra, vì lúc đó sẽ “rõ hơn.” Bức thư Bí Mật Thứ Ba này được đức thánh giáo hoàng Gioan Phao lô II cho công khai vào năm 2000, nhưng một số vẫn cho rằng đức Gioan Phao lô II đã không công bố toàn bộ lá thư, dù Vatican đã vài lần lên tiếng chính thức là bức thư đã được công khai hoàn toàn.

[2] Một số thường trích thư thánh Phaolô: “Tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12), để giải thích đau khổ và sự chết đến thế gian. Đừng quên Đức Giêsu Kitô hoàn toàn vô tội nhưng Ngài cũng chịu đau khổ và chết. Vì thế giáo lý vẫn dạy sự hiện diện của sự dữ và đau khổ là một mầu nhiệm.

[3] Mục sư Jamie Coots của nhà thờ Full Gospel Tabernacle ở Kentucky chết ngày 15-2-2014 khi cầm rắn độc trong tay để chứng minh cho giáo dân rằng nếu tin thì rắn độc không làm hại ông (xem Mark 16:18). Đến tháng 8-2018, con ông nối nghiệp là mục sư Cody Coots cũng bị rắn cắn và phải đi nhà thương, nhưng may mắn được cứu sống.

ĐƯA CHÚA RA XỬ ÁN

ĐƯA CHÚA RA XỬ ÁN

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cả trong tâm thức sùng tín lẫn bất khả tri, có những lần chúng ta đưa Chúa ra xét xử, và bất kỳ lúc nào làm thế, cuối cùng chúng ta là người bị phán xét.  Chúng ta thấy điều này trong các đoạn Tin mừng về cuộc xử án Chúa Giêsu, nhất là trong Tin mừng theo thánh Gioan.

Như chúng ta biết, Tin mừng theo thánh Gioan họa lên hình ảnh Chúa Giêsu từ góc nhìn thiên tính, chứ không phải nhân tính của Ngài.  Như thế, trong Tin mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu không có sự yếu đuối của loài người.  Ngài là Thiên Chúa từ dòng đầu cho đến dòng cuối trong Tin mừng theo thánh Gioan.  Điều này đúng cho đến từng chi tiết nhỏ nhất.  Ví dụ như, trong Tin mừng theo thánh Gioan, trong phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ xem họ có bao nhiêu bánh và cá.  Thánh Gioan viết thêm: “Ngài đã biết trước rồi.”  Không gì nằm ngoài dự liệu của Chúa Giêsu.

Chúng ta thấy điều này rõ ràng nhất trong cách thánh Gioan viết về cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.  Không như các Tin mừng khác diễn tả Chúa Giêsu lo sợ trước số phận khủng khiếp của mình, trong Tin mừng theo thánh Gioan, xuyên suốt con đường thương khó, Chúa Giêsu không chút sợ hãi, hoàn toàn tự chủ, bình tâm, vác thập giá của mình, hoàn toàn đối ngược với hình ảnh một nạn nhân.  Tư thế của Chúa Giêsu luôn là hành động tự do, vì lòng yêu thương, và có uy quyền hoàn toàn trên tình cảnh đó.

Thánh Gioan minh họa rất rõ điểm này.  Khi quân lính đến bắt, Chúa Giêsu bước ra và tất cả những ai xáp lại phía Ngài đều ngã gục xuống đất, và trong sự phủ phục đó thể hiện sự tôn kính với Ngài.  Và những hình ảnh mang tính biểu tượng còn nhiều nữa.  Chúa Giêsu bị tuyên án tử hình vào lúc giữa trưa, đúng vào giờ các tư tế bắt đầu sát tế những con chiên vượt qua.  Sau khi chết, Chúa Giêsu được mai táng với dầu thơm và lô hội, vốn chỉ dùng cho vua, và Ngài được đưa vào huyệt đá “mới tinh” (cũng như ngài được sinh ra trong cung lòng trinh nữ.)  Thánh Gioan làm rõ rằng, chúng ta đang nhìn vào Đức Chúa.

Với tâm thức đó, hiểu rằng Chúa Giêsu luôn luôn có uy quyền và làm chủ mọi chuyện, chúng ta sẽ có thể hiểu rõ hơn ý định của thánh Gioan muốn nói với chúng ta trong trình thuật tử nạn của Chúa Giêsu.  Thánh Gioan tập trung nhiều nhất vào cuộc xử án Chúa Giêsu.  Trình thuật thương khó tập trung quanh vụ xử án và các nhân vật chính trong vụ xử án.  Nhưng trình thuật này có một điểm đảo chiều đầy mỉa mai: Có vẻ là Chúa Giêsu bị xử án, nhưng thật ra, Ngài là người duy nhất không bị xử án.  Philatô, các chức sắc tôn giáo, dân chúng, cả chúng ta ngày nay, mới bị xử án.  Tất cả đều bị xử án, trừ Chúa Giêsu.

Philatô bị xử án vì nhiều tội: Biết Chúa Giêsu vô tội nhưng không đủ can đảm để đương đầu với đám đông, rồi để cho sự điên cuồng thất thường vô tri của đám đông quyết định.  Philatô bị phán xét vì sự yếu đuối của ông.  Nhưng ông còn bị xử án vì chủ nghĩa bất khả tri của ông, cụ thể là ông tin rằng mình có thể xem chân lý và đức tin như những thứ mà ông có thể tránh né, có thể định giá chúng từ vị trí trung lập, xem đó là việc của người khác, không dính dáng gì đến mình.  Nhưng ông bị phán xét chính vì lẽ đó.  Chẳng ai có thể dửng dưng hỏi rằng: “Sự thật là gì?” như thể câu trả lời chẳng ảnh hưởng gì đến mình vậy.  Phiên tòa của Chúa Giêsu xác định Philatô và những người như ông, là có tội, tội bất khả tri, tội tránh né, tội dửng dưng, và cuối cùng là bất lương.  Mỉa mai thay, sự yếu đuối của Philatô khi không giải cứu Chúa Giêsu, cuối cùng lại biến ông thành tổng trấn và thẩm phán tai tiếng nhất lịch sử.  Với cái tên có trong kinh Tin kính, hàng triệu người đọc tên ông mỗi ngày.

Nhưng không chỉ mình Philatô bị xử án, mà còn các chức sắc tôn giáo thời đó nữa.  Trong nỗ lực bảo vệ Thiên Chúa khỏi những gì mà họ xem là bất kính, ngoại giáo, và phạm thượng, họ đã đồng lõa trong tội “giết” Chúa.  Phán quyết trong phiên tòa của Chúa dành cho họ, cũng chính là phán quyết cho nhiều chức sắc tôn giáo đến tận thời nay, đó chính là khuynh hướng nhiệt thành bảo vệ Thiên Chúa lại thường góp một tay đóng đinh Chúa trên thế giới này.

Và cuối cùng, vụ xử án những người đương thời với Chúa Giêsu, cũng như chính chúng ta.  Trong cơn cuồng loạn vô tri bừng bừng của đám đông, họ đã từ bỏ hy vọng mong chờ Đấng Thiên sai để hô vang: “Đóng đinh nó!”  Thật cũng không khác gì mấy nhiều khẩu hiệu tôn giáo và chính trị mà chúng ta hô vang ở những buổi tập hợp thời nay.  Phiên tòa xử Chúa Giêsu lại là một phán quyết rất dữ dội cho sự vô tri, thất thường và nguy hiểm của tâm tính đám đông.

Với sự tinh tế của mình, thánh Gioan đã cho chúng ta thấy, bất kỳ lúc nào bằng nhiệt thành lòng đạo sai lầm hay bằng chủ nghĩa bất khả tri lạnh lùng, mà chúng ta đem Chúa ra xử án, thì kết cục, chính chúng ta là người bị phán xét.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From:Langthangchieutim

NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG CHÚNG TA

NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG CHÚNG TA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Khi người Rôma thiết lập đóng đinh thập giá là phương thức tử hình, họ không chỉ nghĩ đến việc giết một ai đó.  Họ muốn đạt được một điều khác nữa, cụ thể là khiến cái chết này thật ghê gớm để làm nhụt chí người ta, khiến bất kỳ ai chứng kiến nó sẽ phải nghĩ lại về chuyện phạm cùng tội như tội của người đang bị đóng đinh đó.

Thế nên, đóng đinh thập giá được thiết kế để làm vài điều khác nữa, chứ không chỉ giết ai đó.  Nó được thiết kế để gây ra đau đớn ghê gớm nhất mà thân thể con người có thể chịu nổi.  Do đó, đôi khi họ cho người bị hành hình thuốc an thần, không phải để đỡ đau, mà để người đó tỉnh táo nhằm phải chịu nhiều đau đớn hơn nữa.  Có lẽ điều tàn ác nhất, là đóng đinh thập giá được thiết kế để sỉ nhục tận cùng thân thể của người bị đóng đinh.  Người đó bị lột trần, những phần phải giấu kín giờ phơi ra hết, và khi cơ thể co thắt chắc chắn bộ ruột của người đó sẽ phơi rõ toàn bộ.  Còn sự sỉ nhục nào tệ hơn thế?

Tôi tin là có những đau khổ của con người gần hoặc tương đương như thế, và đáng buồn là những thứ này ngày càng phổ biến.  Những trường hợp bạo lực xảy ra hằng ngày trong thế giới chúng ta (bạo hành gia đình, bạo lực tình dục, tra tấn, bắt nạt nhẫn tâm, và tương tự thế) đang bắt chước sự sỉ nhục của thập giá.  Và đôi khi, chúng ta thấy dạng sỉ nhục thân thể này nơi những người chết vì ung thư, và những chứng bệnh gây suy kiệt khác.  Người đó không chỉ chết, mà còn chết trong đau đớn, thân thể bị sỉ nhục, phẩm giá bị xói mòn, những gì phải giấu kín giờ bị phơi bày, hệt như Chúa Giêsu khi chết trên thập giá.

Tôi ngờ rằng đây là lý do Thiên Chúa để cho (dù không dự tính) Chúa Giêsu chịu đựng đau khổ và sỉ nhục như thế trong giờ chết.  Nhìn cách Chúa Giêsu chết, thật khó để ai đó nói: “Quá dễ cho Ngài, Ngài đâu có chịu đau khổ như tôi!”  Sự sỉ nhục của thập giá khiến Chúa Giêsu đồng cảnh ngộ với tất cả những ai từng biết đến đau khổ và nỗi hổ thẹn khi bị sỉ nhục.

Nhưng hoa trái của việc Chúa Giêsu đồng cảnh ngộ với chúng ta không chỉ là sự an ủi khi biết rằng chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trước, nhưng nó còn cho chúng ta chia sẻ những gì diễn ra sau khi đóng đinh thập giá, cụ thể là theo lời Thánh kinh, chia sẻ sự an ủi với Ngài.  Những lời thật không dễ nghe.  Có sự an ủi khi bị sỉ nhục chứ?  Được gì khi phải chịu đau đớn tủi hổ như thế?  Nói đơn giản, điều ta đạt được là sự sâu sắc của linh hồn.

Không gì, tuyệt đối không điều gì, thúc đẩy chúng ta đi vào chiều sâu của tâm hồn và linh hồn cho bằng sự sỉ nhục.  Cứ hỏi mình câu này đi: Điều gì cho tôi chiều sâu cá tính?  Điều gì cho tôi chiều sâu tâm hồn con người?  Điều gì cho tôi nhận thức sâu sắc hơn?  Tôi ngờ rằng, câu trả lời trong mọi trường hợp là một điều gì đó mà bạn hổ thẹn không dám nhắc đến, một sự sỉ nhục nhức nhối với nỗi đau và nỗi xấu hổ của nó đẩy bạn vào chốn thâm sâu hơn trong lòng.

Tôi tin rằng, các Tin mừng dạy chúng ta điều đó.  Ví dụ như, khi hai tông đồ Giacôbê và Gioan đến với Chúa Giêsu và hỏi xem liệu khi đến ngày vinh quang họ có thể được ngồi bên tả và bên hữu Ngài hay không, Chúa Giêsu đã không nhân cơ hội đó mà dạy họ về sự khiêm nhượng.  Thay vào đó, Ngài dạy họ rằng họ thiếu hiểu biết về ý nghĩa của vinh quang và con đường dẫn đến vinh quang.  Dĩ nhiên, họ đã nhầm lẫn khái niệm về vinh quang là mọi thứ đối ngược với sự sỉ nhục, yếu đuối và đồng cảnh ngộ.  Với họ, và tôi cho rằng với tất cả chúng ta nữa, vinh quang được xem là tách biệt với quần chúng, vượt trên quần chúng, được là cầu thủ xuất sắc nhất, là giành giải Nobel, là ngôi sao điện ảnh mà ai cũng ghen tị, là người hấp dẫn không dễ gì bị sỉ nhục, là người vượt trên muôn người.  Và Chúa Giêsu hỏi Giacôbê và Gioan xem họ có thể “uống chén đắng”, và chén đó như chúng ta đã thấy nơi cuộc đấu tranh của Chúa Giêsu trong Vườn Giếtsêmani, chính là chén sỉ nhục.

Theo Chúa Giêsu và theo những gì chân thật nhất trong cảm nghiệm của chính chúng ta, uống chén sỉ nhục, chấp nhận thập giá, chính là những gì cho chúng ta vinh quang, cụ thể là, chiều sâu tâm hồn, chiều sâu linh hồn và chiều sâu nhận thức và cảm thông.  Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã cảnh báo, uống chén sỉ nhục này, dù nó tự động cho chúng ta chiều sâu, nhưng không tự động bảo đảm cho chúng ta vinh quang (như Chúa Giêsu đã nói, “vinh quang đó ta không ban cho được”).  Sự sỉ nhục cho chúng ta chiều sâu, nhưng nó không cho chúng ta chiều sâu theo cách đúng đắn.  Nó cũng có thể cho chúng ta tác động ngược lại.

Đây chính là phép tính cho chúng ta: Như Chúa Giêsu, chúng ta đều sẽ chịu sỉ nhục trong đời, chúng ta đều sẽ uống chén đắng, và nó sẽ cho chúng ta chiều sâu, nhưng rồi chúng ta phải có một lựa chọn: Sự sỉ nhục này sẽ cho chúng ta sâu sắc trong sự cảm thương và thông hiểu, hay nó sẽ khiến chúng ta sâu sắc trong giận dữ và cay đắng.  Đây quả thật là lựa chọn luân lý cao nhất mà ta đối diện trong đời, không phải chỉ là trong giờ chết mà là vô số lần trong đời.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, và những gì nó đòi buộc nơi chúng ta, là điều mà chúng ta phải đương đầu hằng ngày.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Con người đích thực trong bão dịch Corona

Con người đích thực trong bão dịch Corona

Tramtubensuoi 

Trong cơn bão dịch Corona, chúng tôi được dịp nhìn con người đích thực của mình.

Trước đây, chúng tôi cho rằng đây là một dịp thuận tiện để nhìn nhận thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình để tín thác vào Chúa Quan Phòng.

10 điểm – đúng giáo huấn của Giáo hội.

Hiện nay, chúng tôi xem lại 3 câu Kinh Thánh dưới đây

Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh Thiên Chúa, (St 1: 27)

Hình ảnh Thiên Chúa thực sự… chứ không giống như chúng tôi, con người thật, với hình chụp ở đâu đó trên giấy hay trên điện thoại di động.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 2: 7).

Câu chuyện mang tính biểu tượng – ý muốn diễn tả con người thực sự gồm có thân xác và Sự Sống Thần Linh của Chúa.

Mùa chay nhắc nhở thân phận con người là bụi tro…nhấn mạnh con người thân xác.

Cùng một lúc khích lệ đổi mới tâm hồn

Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá (Cl 3;10).

Cuối cùng, Phoalo khẳng định:

Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến. (1Cr 15:49).

Với con người bởi đất: Chết vì gì cũng sẽ thành tro bui. Nhưng hãy khôn ngoan như con rắn: tìm mọi cách để khỏi nhiễm Corona. Nếu lỡ nhiễm, tìm mọi cách bình phục…

Với con người tâm linh: ẩn sâu trong lòng mình. Có lẽ chúng tôi lâu nay không để ý…thì đây là dịp nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Thánh để khám phá con người mang hình ảnh Đấng từ trời… kẻo uổng cả một đời theo Chúa mà cứ phải cúi đầu chấp nhận thân phận yếu hèn của con người bởi đất…

mà quên béng con người tâm linh với Sự Sống Thần Linh của Chúa, có đầy đủ khả năng vươn tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô. (Ep

THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

Chiều hôm qua, lúc 18h thứ Sáu, 27.03.2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành nghi thức ban phép lành Urbi et Orbi cho toàn thế giới trong cơn mưa chiều buồn bã của thành Rôma.

Tuy nhiên, chính trong khung cảnh có vẻ lạnh lẽo ấy, một “hình ảnh sống động” được trang Vaticannews ngay sau đó đưa bản tin với tiêu đề: “Il Crocifisso bagnato dalle lacrime del Cielo” – tạm dịch: THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO.

Phải chăng, Trời cao đã khóc?

Vâng, có lẽ thế!

–   Trời cao đã khóc vì một thế giới đang khổ đau đối mặt với tai ương, dịch bệnh.

–   Trời cao đã khóc cho một nhân loại đang oằn mình chiến đấu với hậu quả từ lỗi lầm của một ai đó, hay từ những bất toàn của thế gian này.

–   Trời cao đã khóc như một lời đáp trả của Cha Nhân Từ với lời van xin thống thiết của người đứng đầu Dân Ngài là Đức Thánh Cha Phanxicô, và của hàng triệu tín hữu gần xa tham dự trực tuyến: “LẠY CHÚA, XIN HÃY THỨC DẬY.”

–   Trời cao đã khóc như một lời nhắn nhủ của Đức Kitô với mọi người và từng người rằng: “CỨ YÊN TÂM, CÓ THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ” (x. Ga 6,20).

Vâng, Trời cao đã khóc!

–   Nước mắt Trời cao hòa lẫn với nước mắt của những bệnh nhân vẫn đang gồng mình chống chọi tìm sự sống trong cô đơn, hay trong những khoảnh khắc hấp hối cuối đời, mà không có một cái nắm tay an ủi của người thân kề cạnh.

–   Nước mắt Trời cao tuôn chảy cùng biết bao con người sắp mất đi người thân yêu, mà thậm chí không thể gặp gỡ lần cuối để nói một lời từ biệt.

–   Nước mắt Trời cao chan hòa trên bờ mi đẫm lệ của những người còn ở lại, bất lực nhìn những chiếc xe quân đội chở quan tài người thân của mình đi chôn cất qua ống kính truyền hình, mà không thể chạm vào, tiễn đưa, đồng hành, đặt một nhành hoa hay thắp một ngọn nến từ biệt.

–   Nước mắt Trời cao vẫn luôn chực tràn trên đôi mắt của những người không biết người thân mình giờ đang ở đâu, hay trong tình trạng thế nào, chỉ thấy được qua vài hình ảnh lượm lặt, hay trong một video clip nào đó trôi nổi trên mạng; bởi có một người con sống tại Bergamo – Italia, khi thấy đoàn xe tang đi qua nhà mình, cô ấy đã thốt lên rằng: “Có lẽ, Bố tôi giờ đang nằm trong những chiếc xe tải đó.  Cả một đời ông ấy đã sống cho tôi, vậy mà giờ ông ấy phải ra đi lạnh lẽo một mình”.

– Nước mắt Trời cao cảm thấu với hy sinh cao cả của biết bao con người, đang trực tiếp dấn thân chống chọi đại dịch; trong đó, không thể không nhắc đến những anh hùng đã tử nạn vì hy sinh phục vụ người khác: Linh mục người Ý Berardelli, – 72 tuổi đã chết vì nhường máy thở cho bệnh nhân trẻ tuổi hơn.

–   Nước mắt Trời cao cũng đã hòa lẫn với nước mắt của các Kitô hữu trong Thánh lễ cuối cùng, trước khi lệnh tạm ngưng các Thánh lễ với đông người tham dự chính thức có hiệu lực.

–   Nước mắt Trời cao cũng cuộn trào trong lòng các Linh mục khi cử hành Thánh lễ không còn giáo dân như một Linh mục chia sẻ: “Khi giang tay đọc: Chúa ở cùng anh chị em, không một lời thưa, chẳng một lời đáp… mà lòng muốn khóc!”

–   Nước mắt Trời cao hẳn như đang muốn xóa nhòa nỗi lo sợ của biết bao con người: Lo sợ vì thấy những con số ca nhiễm, người chết cứ tăng dần đều trên màn ảnh; lo sợ vì nghe tiếng còi xe cấp cứu ngoài kia cứ khoảng dăm mười phút lại ầm ĩ một lần; lo sợ vì không biết người mình đang giao tiếp có nhiễm bệnh hay không…

–   Nước mắt Trời cao chắc chắn vẫn đang lặng lẽ chảy trong lòng chúng ta – những con người đang trăn trở về một điều gì đó: những người trẻ lo cho ông bà, ông bà lo cho các cháu, chính phủ lo cho công dân, người chủ gia đình lo về cái ăn cái mặc ngày mai không biết thế nào, các chủ doanh nghiệp lo không biết lấy gì để trả lương cho nhân viên, các mục tử lo cho phần thiêng liêng của các tâm hồn tín hữu khi mọi cử hành phụng vụ phải tạm dừng…  Những ngày dài vô tận, những đêm dài thức trắng, những con đường trống vắng, những quảng trường, chợ búa, quán ăn tấp nập ngày nào nay không bóng người qua lại…; và, tất cả mơ về những điều bình thường của cuộc sống trước đây.

Vâng, ngày hôm qua,

THẬP GIÁ ĐÃ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

Nước mắt từ Trời cao rơi xuống như hòa lẫn với dòng máu chảy ra từ cạnh sườn của Đấng vì yêu nên đã làm người.

Và điều đó chứng tỏ rằng:

–   Dù thế nào, Chúa vẫn ở đó – nước mắt của Ngài hòa lẫn với nước mắt thống khổ của nhân loại này.

–   Dù thế nào, Thập Giá đồi Calvê vẫn ở đó – lặng lẽ nhưng hiên ngang, âm thầm mà sống động, nhỏ bé nhưng vẫn đủ sức gánh đỡ những gánh nặng khổ đau của nhân loại này.

Vậy,

–  Nếu một Thiên Chúa làm người đã tự nguyện vác lấy cây Thập Giá, để gánh đỡ những gánh nặng của ta… thì ta được khích lệ đón lấy những thập giá đời mình trong bình an.

–   Và, nếu nước mắt từ Trời cao đã hòa lẫn với nước mắt thống khổ của nhân loại này, thì nếu có phải khóc, hãy cứ tiếp tục khóc, nhưng khóc trong niềm tin tưởng, và khóc với niềm hy vọng… tất cả rồi sẽ ổn thôi, vì “Cứ yên tâm, có Thầy đây, đừng sợ” (x. Ga 6,20)

Đaminh Thứ Trưởng

Rôma 28.03.2020

Nguồn https://dongten.net/2020/03/28/thap-gia-tham-dam-nuoc-mat-troi-cao/

From: Langthangchieutim

KINH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Tin là sẽ được. Mời đọc “Kinh Lòng Chúa Thương Xót”, lúc 3 giờ chiều mỗi ngày, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho giáo hội được bình an, cho loài người thoát khỏi cơn đại dịch Virus Corona tàn phá khủng khiếp này.

httpv://www.youtube.com/watch?v=QVZifUHppck&feature=share&fbclid=IwAR3Hqoo-6DslfLFa0w5eCk0Vk84R8ndc04mK43C7ZhjiH53ZInw6HfDs49M

Chuỗi Kinh Lòng Chúa Thương Xót (15 phút mỗi ngày)

Cả thế giới nguyện cầu cho đại dịch Covid-19 mau chấm dứt

Cả thế giới nguyện cầu cho đại dịch Covid-19 mau chấm dứt

Có người nhận xét rằng: “Chúng ta đang sống trong chiến tranh thế giới thứ 3!” Cuộc chiến này không có súng đạn, không có chanh chấp chủ quyền quốc gia. Đối thủ duy nhất mà nhân loại phải đối đầu là con virus cực nhỏ Covid-19. Tổ chức y tế thế giới (WHO), xác nhận đây là đại dịch, nghĩa là toàn dân, mọi quốc gia phải phòng chống dịch. Lời hiệu triệu toàn dân phòng chống dịch sẽ không thừa trong thời gian này: Nào là ở nhà hạn chế tiếp xúc, nào là vệ sinh rửa tay sạch sẽ, tránh tâm lý hoang mang hoảng loạn. Những tín hữu, cụ thể người Công Giáo còn có một vũ khí hữu hiệu khác để bám vào: cầu nguyện.

Cầu nguyện là trò chuyện, thưa lên Thiên Chúa những tâm tình: ngợi khen, tạ ơn và van xin:

  1. Tâm tình ngợi khen

Người Công giáo ngợi khen Thiên Chúa vì muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương. Thiên Chúa không bỏ con người. Ngược lại, lời hứa cứu độ của Thiên Chúa tồn tại muôn năm. Giáo Hội nhận thấy mọi biến cố xảy ra trên mặt đất này đều trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Giáo Hội luôn mời gọi mỗi người chạy đến với Thiên Chúa để nhận ra điều này: Thiên Chúa yêu thương con người, và con người có khả năng đáp lại tình yêu ấy.

Chính tâm tình ngợi khen tán dương là nguồn sức mạnh để con người có thể sống còn trong cuộc chiến này. Thiên Chúa vẫn ở đó, hiện diện với mỗi người chúng ta. Nhất là chúng ta có lý do tán dương Thiên Chúa, giống như Mẹ Maria, chúng ta xin vâng để Chúa cứ làm cho chúng ta như điều Chúa muốn. (Lc 1,38)

  1. Tạ ơn

Trong cuộc chiến này, thật khó để diễn tả tâm tình tạ ơn trước hậu quả khủng khiếp mà Covid-19 gây ra. Chắc chắn chúng ta không đơn thuần tạ ơn Chúa vì có con virus này. Chúa không làm ra sự dữ. Ngài cũng không tạo ra con virus quái ác này. Dù sao cuộc chiến với nó đang diễn ra. Chúng ta đang sống chung với dịch bệnh.

Tâm tình tạ ơn mà Giáo Hội mời gọi là trong cuộc chiến, chúng ta còn có Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là món quà cho nhân loại mà chúng ta cần mang tâm tình biết ơn. Giả sử trong cuộc chiến này: “Nếu không có Chúa, không có tôn giáo, thử hỏi con người biết bám víu vào điều gì, vào ai?”

Tạ ơn vì Thiên Chúa nói một cách chắc chắn là chúng ta có thể an toàn lao vào vòng tay của Cha trên trời, Đấng đã ban sự sống cho chúng ta, và tiếp tục ban nó cho chúng ta mọi lúc. Ngài sẽ kiên quyết nâng đỡ chúng ta; đồng thời, chúng ta sẽ cảm thấy rằng Ngài hoàn toàn tôn trọng sự tự do của chúng ta[1].

  1. Van xin

Đây là điều quá cần thiết đến nỗi các nhà thiêng liêng khuyên người cầu nguyện nên có lòng khao khát. Khao khát xin điều mình muốn. Đặc biệt trong đại dịch này, dĩ nhiên ai cũng xin Thiên Chúa cho nó mau chấm dứt. Nếu đọc những bình luận trên Internet, chúng ta có thể thấy hàng tỷ lời van xin như thế. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu van xin Thiên Chúa ra tay quyền lực dẹp tan virus này.

Là người Công Giáo, chúng ta không chỉ cầu nguyện, hoặc van xin một mình. Nếu để ý, chúng ta thấy lời van xin của hàng triệu, hàng tỷ người dâng về Thiên Chúa. Bằng cách nào? Số là các tín hữu đang hưởng ứng tích cực lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, cùng nhau chầu Thánh Thể, cùng nhau lần hạt mân côi. Tắt một lời, cùng với vị cha chung, vị đại diện của Chúa ở trần gian, chúng ta xin Thiên Chúa cho dịch Covid-19 mau chấm dứt!

Chúng ta thử tưởng tượng đã có bao ước nguyện dâng về Thiên Chúa vào buổi trưa hôm qua (25-03-2020). Số là như đã hẹn, tất cả các Kitô hữu trên toàn thế giới cùng đọc Kinh Lạy Cha, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Trong đó có biết bao lời van xin thật đẹp. Chúng ta hướng về Chúa Cha, như những người con đầy lòng tin tưởng. Giây phút đó chúng ta ước mong khẩn cầu lòng thương xót xuống trên toàn nhân loại trong cơn thử thách của đại dịch virus Corona này. Chúng ta cùng cầu nguyện với nhau, những Kitô hữu thuộc mọi Giáo Hội và Cộng đoàn, mọi truyền thống, thuộc mọi lứa tuổi, thuộc mọi ngôn ngữ và quốc gia.[2]

Trên đây chỉ là một ví dụ để chúng ta thấy hằng phút giây, Thiên Chúa đón nhận biết bao lời khẩn nài. Trong niềm tin yêu phó thác, chúng ta biết Thiên Chúa sẽ nhận lời. Bởi, “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49,15).

Trong cuộc chiến này, dẫu có đau đớn nhưng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi! Vì con virus này, dẫu cho mất mát tang thương, nhưng bình an sẽ đến. Đại dịch sẽ chấm dứt, cuộc chiến sẽ vào hồi kết, nếu chúng ta cùng nhau phòng chống dịch và tiếp tục nguyện cầu với Thiên Chúa.

Thay lời kết

Thiên Chúa của chúng ta thì gần gũi. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta hãy gần gũi với nhau, đừng xa cách người khác.[3] Cùng nhau nguyện cầu, trở về và làm hòa với Thiên Chúa. Đừng quên, chúng ta “được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp chúng ta đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho chúng ta.”[4]

Một khi dịch chấm dứt, chúng ta nhìn lại thời gian này quả là một kinh nghiệm đẹp. Không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quốc gia văn hóa, nhà nhà, người người ước mong, nguyện cầu cho thế giới được an bình, hết đại dịch. Là người Công Giáo, khi đó chúng ta cũng sẽ thấy được sức mạnh của lời cầu nguyện trong thời khắc nguy hiểm này.

Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa yêu con người. Lúc này, xin giúp chúng con cố gắng ngừng lại trong giây lát, để chúng con được ở trong vòng tay yêu thương của Ngài, để nguyện cầu với Ngài thật nhiều. Amen

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

[1] Tôn Huấn Đức Kitô sống số 113

[2] Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện Kinh Lạy Cha

[3] X. Bài giảng của ĐTC tại Santa Marta (18.3.2020).

[4] Linh Thao số 23

Nợ tiền… nợ tội… nợ tình…!

Nợ tiền… nợ tội… nợ tình…!

Mt 18,21-35; Dn 3,25.34-43

Ông Phêrô này, căn cứ theo Tin Mừng thì ông là người nóng nảy, bộc trực, vội nói… vì thế chắc là nhiều người (xúc phạm) hay làm ông bực mình khó chịu tức tối nên ông mới đến gần Thầy Giêsu để hỏi cho ra nhẽ. Số lần trong ngày làm ông bực mình khó chịu chắc là nhiều hơn bảy lần nên ông hỏi là có phải bảy lần không ? Và nếu đúng vậy thì từ lần thứ tám là ông có quyền “phang” lại người ta (đứt tai) nhưng câu trả lời của Thầy Giêsu đã làm ông chưng hửng nhỉ !

– Nợ tiền.

Câu chuyện Nước Trời cũng “ngộ” thật. Đầy tớ nợ tiền và được chủ nợ tha cho số tiền quá lớn. Tưởng thế là xong, không ngờ ra về gặp bạn, y lại bóp cổ tên bạn bắt trả nợ tiền cho y có tí xíu… Khi tôn chủ của y biết được chuyện đã xảy ra như thế, tôn chủ đã kêu y lại mà xiết nợ : “tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ”“Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông”.

Đọc đến câu này mới buồn đây : “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế”. Buồn, bởi vì sao mà tha được, nó nợ con nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, xe cộ, vợ con và cả tỉ tỉ tiền mặt nữa, chứ đâu chỉ có vài trăm quan tiền… Thế là biết chắc Chúa cũng không tha cho con rồi ! Tiêu đời rồi con !

– Nợ tội.

Nó xúc phạm đến con, làm mất mặt con, nguyền rủa chửi bới con, vùi dập con xuống tận đất đen… Nói chung lại nó đã nợ tội con, làm sao mà dễ dàng tha thứ hay quên cho nó được ?

Gồng mình lên mà có tha thứ được một tí thì thiên hạ sẽ chửi thốc vào mặt con, bảo con là đồ điên dại, khù khờ, ngu như bò….

Nó đạp vào mặt cho mà không biết đạp lại ! Không tha thì sao Chúa tha cho con được đây ? Tiêu đời rồi con !

– Nợ tình người.

Ở đây không muốn bàn đến chuyện tình trai gái, chuyện tình lứa đôi. Nhưng là chuyện tình con người với nhau và ai cũng mắc nợ nhau nên thánh Phaolô viết cho tín hữu Rôma “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái ; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8).

Mắc nợ nhau vì chưa yêu thương đủ mà có ai tự hào là mình đã yêu thương đủ hay hết mức rồi. Chúa đã chết vì yêu thương chúng tôi cho dù chúng tôi còn là tội nhân, đó mới là yêu thương thật.

Với người Kitô giáo không thể sống nếp sống cô lập, chủ trương sống khép kín, không đụng chạm đến ai để khỏi ai đụng chạm đến mình, không nói xấu ai để ai cũng đừng nói xấu mình, mình không mắc nợ ai để ai khỏi mắc nợ mình…. Chúng tôi sống lơ là, lấp lửng, thờ ơ, lạnh lùng với người chung quanh là chúng tôi đang mắc nợ tình yêu họ rồi còn gì.

Tôi có mắc nợ Chúa không ?

Trời ạ ! Nợ ngập đầu ngập cổ mà có trả nợ suốt đời cũng không xong.

Chúa có nợ tôi không ?

Có đấy, mỗi lần đến nhà thờ là tôi đòi Chúa đủ thứ. Chúa cứ im lặng không trả cho tôi những thứ tôi đòi, tôi muốn nhưng đòi riết rồi cũng chán, thất vọng chẳng thèm đòi nữa !!! lơ luôn.

Còn có người “xiết nợ” Chúa là bắt tưởng ảnh quay mặt vào tường hoặc đập tan nát hay quẳng xuống giếng… cho khuất mắt !

Trong tình yêu thì luôn đi kèm theo với lòng tha thứ bao dung. Trong tình yêu thì luôn có việc dâng hiến trao tặng… Câu chuyện nợ tiền để áp dụng cho nợ tình nhất là khi bị xúc phạm.

“Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

Chúa có “đối xử với anh em như thế” không ?

Chúa có đòi buộc khắt khe như thế không ?

Hay chỉ là kiểu nói, nói thế mà không phải thế.

Chúa đã tha thứ sạch bách rồi và lại còn trao ban chính bản thân để nói lên tình yêu đến cùng…

Con người không thích, không thèm, không đón nhận thì Chúa cũng bó tay. Tha thứ mà không nhận ra thì cũng như không tha thôi.

Nhận ra lòng yêu thương tha thứ của Chúa để hiểu, để cảm thông thân phận làm người có giới hạn ; đã làm người thì vẫn còn những sai trái ngay trong bản thân mình, chẳng tránh hết được, chẳng làm chủ được, chẳng đề phòng canh chừng mãi được. Mức độ sống kết hợp mật thiết với Chúa trong lòng bao nhiêu để tình yêu của Chúa bộc lộ qua con người của mình bấy nhiêu, để mau chóng bình tĩnh lại, hối hận lại, sửa lỗi lại…. ngã rồi lại đứng lên đi tiếp, không thất vọng hay tuyệt vọng.

Gớm ! Nợ tình thương con người với nhau cũng lắm chuyện nhỉ ?

“Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan”.

OTC

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen