THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO – Ngày 10 tháng 8

May be art of 2 people

Ngày 10 tháng 8

THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO

“Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.”

Thánh Laurensô sinh tại thôn Huêca nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là người rất đạo hạnh. Quãng đời thơ ấu của Laurensô không được ghi lại tường tận, chỉ biết rằng: Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để sang du học tại Rôma và đã sống cả cuộc đời trần thế tại đây

Được sống nơi kinh đô Giáo Hội, Laurensô hăm hở học hành và rèn luyện nhân đức, nên chẳng bao lâu tiếng nhân đức và tài học rộng hiểu sâu của ngài vang lừng khắp nơi. Khi vừa lên ngôi ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức tân Giáo Hoàng Xíttô đã chọn Laurensô làm Phó tế giúp việc cho ngài.

Nhưng rồi cơn bách hại đạo làm cho Giáo Hội Chúa lại phải sống trong âu lo và thử thách. Giông tố đó do Hoàng đế Valêrianô gây ra. Để trốn tránh, giáo sĩ cũng như giáo dân phải sống dưới những hang toại đạo hoặc trong những nhà giáo dân kín cổng, cao tường.

Hoàng đế Valêrianô ra lệnh cho quân lính bí mật theo dõi Đức Giáo Hoàng và một đêm kia, quân lính đã tìm ra con đường nhỏ, quanh co dẫn xuống hầm giữa nghĩa địa Prêtêta. Bắt được Đức Giáo Hoàng đang ngồi giảng dạy Lời Chúa giữa đông đảo giáo dân. Quân lính xông vào bắt Đức Giáo Hoàng và đoàn tháp tùng đem nộp cho quan. Ngài bị án chém đầu. Được tin sét đánh này, thầy Phó tế Laurensô vội vã chạy theo Đức Giáo Hoàng và năn nỉ xin được cùng chết với vị cha chung. Nhưng Đức Giáo Hoàng Xíttô an ủi:

– Con yêu dấu, cuộc bách hại đạo dữ dội đang chờ đợi con, vài ngày nữa con sẽ theo Cha. Phần Cha, nay đã già cả, Cha sẽ trải qua những thử thách này cách nhẹ nhàng, nhưng con còn trẻ trung, đầy nghị lực, con sẽ phải trải qua cuộc bách hại đạo vẻ vang hơn nhiều. Rồi Đức Giáo Hoàng ban phép lành vĩnh biệt người con yêu dấu, để đi ra pháp trường.

Trước cái tang chung của Giáo Hội và trước cảnh “Đoàn chiên không chủ chăn”, thầy Phó tế Laurensô suốt ngày đêm đi săn sóc và an ủi giáo dân đang ẩn nấp, rải rác khắp thành Rôma.

Hoàng đế Valêrianô là con người độc ác, lại tham lam, khi biết Giáo Hội còn nhiều tài sản, lập tức, ông hạ lệnh bắt thầy Phó tế Laurensô tới để tra của. Hoàng đế nói với thầy:

– Giáo Hoàng và các người Kitô giáo trách ta xử ác với họ. Giờ đây ta hứa sẽ dễ dãi nếu ông đem nộp cho ta tất cả của cải như chén vàng, đĩa bạc, chân nến và các đồ thờ quý giá: Ta rất cần các đồ đó để tăng cường ngân quỹ quốc gia.

Thầy nhanh nhẹn trả lời:

– Thưa Hoàng đế, tôi rất giàu, chính kho bạc của Hoàng đế cũng không thấm vào đâu, tôi sẽ nộp cho Hoàng đế những vật quý báu ấy. Vậy xin Hoàng đế cho tôi ít ngày để kịp thu gom của cải đó lại.

Hoàng đế gia hạn ba ngày.

Còn thầy Phó tế Laurensô ngang nhiên đi khắp thành phố Rôma, tập trung các bệnh nhân mà Giáo Hội vẫn cấp dưỡng, gồm mọi thứ bệnh: Phong cùi, mù loà què quặt, độ chừng 1.500 người. Ngài thuê những chiếc xe ngựa chở họ thẳng tới cung điện Hoàng đế.

Thấy công việc kỳ lạ của thầy, dân thành Rôma rủ nhau đi xem rất đông. Đoàn xe ngừng trước cung điện Hoàng đế, thầy tâu trình lớn tiếng:

– Tâu Hoàng đế, đây là tất cả kho tàng quí báu của Giáo Hội Công giáo chúng tôi, đây là những người nghèo khổ, bệnh tật, nhưng chính nhờ công việc cứu trợ họ và chúng tôi đã tích trừ được nhiều kho báu trên trời. Xin Hoàng đế hãy đón nhận tất cả của cải này để dùng cho thành Rôma và cho chính Hoàng đế.

Trước những lời đầy khiêu khích đó, Hoàng đế Valêrianô đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng, ông truyền đánh đòn thầy bằng roi sắt; rồi truyền đem các dụng cụ hành hình ra trước mặt thầy và nói:

– Ngươi sẽ phải chết, nhưng ngươi đừng tưởng sẽ được chết ngay đâu ta sẽ kéo dài cái chết của ngươi bằng trăm ngàn cực hình .

Người lính dũng cảm của Chúa Kitô mạnh dạn thưa:

– Ngài tưởng tôi sợ cực hình sao? Không đâu! Ngài cho những cực hình đó là ghê sợ, nhưng tôi không sợ chút nào, mà còn ước mong từ lâu.

– Ngươi tưởng rằng, “những của cải quí báu” kia sẽ cứu ngươi thoát những cực hình sao?

– Tôi cậy vào của cải trên trời, đó là lòng Chúa nhân từ thương xót. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi được giải thoát, dù khi thân xác tôi phải phanh ra làm trăm ngàn mảnh.

Hoàng đế truyền đánh đòn thầy lần nữa. Đồng thời, Hoàng đế truyền cho lý hình nung đỏ những thanh sắt dí vào khắp mình ngài.

Không kêu la, than trách, thầy ngửa mặt lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương đến tôi tớ Chúa đã bị kết án là không chối Chúa, đã bị tra tấn vì dám tuyên xưng Danh Thánh Chúa giữa trăm ngàn cực hình”.

Hoàng đế tức giận hét lên:

– Mày là thằng phù thủy, mày coi khinh cực hình, nhưng nhân danh các thần minh, nếu mày không tế lễ các ngài, ta sẽ hành hạ mày như chưa từng ai có thể làm được.

Thầy mạnh dạn trả lời:

– Nhờ ơn Chúa, tôi không sợ chút nào, mọi cực hình sẽ qua đi. Chúc Hoàng đế hăng hái thi hành điều ngài dự định để làm khổ tôi.

Được lệnh, lý hình lấy roi sắt tua gắn chì đánh túi bụi vào thân xác ngài, đến nỗi những mảnh thịt bóc ra tung toé. Khắp mình mẩy tím bầm, đẫm máu. Thầy tưởng giờ phút vinh quang đã tới. Nhưng từ trời có tiếng vang lên báo cho ngài biết ngài còn phải chịu đựng thử thách gay go hơn nữa. Chính Hoàng đế cũng nghe thấy những tiếng vang đó, Hoàng đế kêu lên:

– Đoàn quân Rôma, các ngươi không nghe thấy ác quỉ đang kéo tới cứu phạm nhân, khinh dể thần minh và coi thường các khổ hình sao?

Như không để ý đến lời hò hét của Hoàng đế, thầy sốt sắng cầu xin:

– Lạy Chúa, xin thương đến người tôi tớ bất xứng này, con nguyện xin Chúa hãy ban cho những người có mặt đây được trở lại cùng Chúa. Xin Chúa hãy an ủi họ trước toà phán xét.

Bấy giờ, một Thiên thần lấy hình một thanh niên tới an ủi và lau chùi các vết thương cho thầy. Một binh sĩ tên là Rômanô được Chúa cho xem thấy sự lạ này, đã mạnh dạn tiến thẳng tới xin thầy Phó tế Laurensô rửa tội cho anh và sau đó Rômanô cũng được phúc tử đạo.

Hoàng đế Valêrianô vẫn chưa nguôi căm tức, Hoàng đế truyền đặt trước mặt thầy những dụng cụ hành hình có thể làm sởn tóc gáy người xem. Hoàng đế hỏi lý lịch, thầy trả lời:

– Quê tôi ở Tây Ban Nha, từ nhỏ tôi đến ở Rôma được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo.

– Ngươi tôn thờ Thiên Chúa, Đấng dạy ngươi bất kính các thần minh và coi thường các khổ hình phải không?

– Nhân danh Chúa Kitô, tôi không sợ khổ hình chút nào .

Nghe lời thách thức đó, Hoàng đế căm giận như điên cuồng, truyền nung đỏ giường sắt và đặt thầy lên giường sắt nung đỏ. Lúc đó, ngài cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin nhận hy lễ xông hương thơm ngọt ngào này.

Rồi, quay sang phía Hoàng đế, ngài nói:

– Tâu Hoàng đế, Hoàng đế có biết không, lửa này chỉ làm cho tôi tươi tỉnh hơn, nhưng nó sẽ dành sức nóng để thiêu đốt Hoàng đế đời đời.

Hoàng đế Valêrianô tức giận, sùi bọt mép và trở nên mù quáng trong giận dữ còn thầy tươi cười nói tiếp:

– Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.

Khi lý hình đã lật thầy lên, ngài nói:

– Đã chín rồi, mời Hoàng đế ăn đi.

Lúc đó, đoàn giáo dân đứng vây quanh, thấy một vầng sáng lạ lùng bao quanh thầy và xác ngài toả ra hương thơm ngào ngạt.

Biết rằng cuộc chiến đấu sắp hoàn tất, thầy cảm tạ Thiên Chúa:

– Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa mà con sắp được vào nước hạnh phúc,

Rồi ngài tắt thở, hôm đó là ngày 10 tháng 8 năm 258.

Xác thầy được hai linh mục kính cẩn an táng một nơi cách thành phố Rôma hai ngàn thước. Thế kỷ IV, Hoàng đế Constantinô đã xây cất một ngôi thánh đường nguy nga trên chính mộ thánh nhân và được mang tên thánh Laurensô.

TgpSaigon.net  

NHÀ

NHÀ

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Nhà không chỉ là một ngôi nhà hay một nơi chốn trên bản đồ.  Nó là một nơi trong lòng người, nơi mà đến tận cùng chúng ta muốn tìm về nhất.  Ý niệm ẩn dụ về nhà có thể giúp chúng ta giải quyết nhiều điều, thậm chí cả cách mà tình dục liên hệ với tình yêu.

Tình dục không bao giờ đơn giản là chuyện qua đường, chỉ phục vụ cho mục đích giải trí, một thứ không liên quan đến linh hồn.  Tình dục luôn chạm đến linh hồn, dù tốt hay xấu.  Hoặc tốt đẹp hoặc gây hại.  Hoặc củng cố hoặc phá nát linh hồn.  Khi đúng đắn, nó làm chúng ta tốt đẹp lên, và khi sai trái, nó làm chúng ta bớt nhân cách.  Nói một cách ẩn dụ, khi đúng đắn, nó đưa chúng ta về nhà, khi không đúng đắn, nó đẩy chúng ta xa cách nhà.  Tình dục do Thiên Chúa tạo nên và theo lẽ tự nhiên là để đưa chúng ta về nhà.  Thật sự là, nó được định để làm nhà cho chúng ta.  Nếu chúng ta về nhà sau khi làm tình, thì có một cái gì đó sai trái rồi.  Trước hết, tôi nói thế không phải là để phán xét về đạo đức, nhưng đây là một nhận định nhân học thay mặt linh hồn.

Như chúng ta biết, linh hồn không phải là một vài tế bào tâm linh vô hình trôi nổi trong cơ thể chúng ta.  Không thể họa nên linh hồn theo tưởng tượng, nhưng có thể hiểu được nó như một nguyên tắc.  Khi nhìn vào những diễn tả thấu suốt của các triết gia như Aristotle và Tôma Aquinô, linh hồn là một nguyên tắc kép trong chúng ta.  Nó là nguyên tắc của sự sống (của mọi sinh lực trong chúng ta) và là nguyên tắc của sự tích hợp (những gì giữ chúng ta trọn vẹn).  Điều này có vẻ mơ hồ, nhưng không phải thế.  Nếu bạn từng ở bên người hấp hối, bạn biết chính xác lúc nào hồn lìa khỏi xác.  Không phải vì bạn thấy một linh hồn bay khỏi thể xác, nhưng vì mới đây cơ thể còn sống, còn là một tổ chức, ngay sau đó nó trơ ra, vô hồn, đã chết và bắt đầu phân rữa.  Linh hồn giữ chúng ta sống và linh hồn giữ chúng ta cố kết với nhau.

Nếu đúng là thế, và là thế thật, thì bất kỳ việc làm có ý nghĩa nào của chúng ta, bất kỳ điều gì chạm đến tâm can chúng ta, tác động trên linh hồn chúng ta, động đến cả chất lửa và chất keo của linh hồn, thì nó sẽ làm suy yếu hoặc tăng cường.  Tình dục cũng vậy.  Thật sự, đó là một ví dụ rõ nhất.  Tình dục rất mạnh và chính vì thế nó không bao giờ là chuyện vặt vãnh.  Nó xây dựng hoặc phá nát linh hồn.

Ba mươi năm trước, khi dạy một lớp đêm ở đại học, tôi đã đưa cho lớp đọc quyển nghị luận của Christopher de Vinck, Chỉ Những Trái Tim Mới Biết Cách Tìm Ra Nhau – Ký Ức Quý Báu Về Thời Gian Không Có Đức Tin (Only the Heart Knows How to Find Them – Precious Memories for a Faithless Time).  Những bài luận này là các suy ngẫm của tác giả về cuộc đời của mình trong tư cách người chồng, người cha.  Những câu chuyện ấm áp, không lãng mạn vô cớ, đầy tính nghệ thuật và không có chỗ cho những thứ đa cảm.  Chúng là tiếng nói ủng hộ cho hôn nhân, không phải bằng những lập luận biện giải, mà đơn giản bằng cách chia sẻ làm thế nào mà hôn nhân có thể đem lại một nhà, một nơi thanh bình của sự cô tịch chung, có thể đưa chúng ta vượt lên những cuộc tìm kiếm miệt mài bủa vây chúng ta ở tuổi dậy thì, và đẩy chúng ta ra khỏi nhà cha mẹ để đi tìm nhà của mình.  Hôn nhân và chiếc giường hôn nhân có thể đưa chúng ta về lại nhà.

Đến cuối học kỳ, một nữ sinh viên gần 30 tuổi, đến văn phòng tôi nộp bài.  Cô cầm theo quyển sách của Vinck và chia sẻ thế này: “Đây là quyển sách hay nhất em từng đọc.  Em lớn lên mà không có nhiều hướng dẫn về tôn giáo hay đạo đức, và em đã ngủ lang khắp nửa nước Canada, nhưng bây giờ em biết mình thật sự muốn gì rồi.  Em muốn cái mà tác giả này có!  Em muốn chiếc giường hôn nhân.  Em muốn tình dục đưa em về nhà, trở nên ngôi nhà của em.”  Thấu suốt của cô xứng đáng được nhắc lại, không phải chỉ vì trong văn hóa thời nay, tình dục thường bị tách biệt khỏi hôn nhân và nhà.

Khi đi dạy và làm mục vụ, có những thời gian tôi làm việc nhiều với thanh niên, những người đang cố xác định ý nghĩa của tình yêu, quyết định kết hôn với ai và cố sống cả đời với ai, có một câu hỏi thường xuất hiện trong đầu tôi: Làm sao để nhận ra loại tình yêu nào có thể làm nền tảng để xây dựng hôn nhân?  Đây là câu hỏi tối quan trọng, vì tình yêu không phải là thứ dễ hiểu hay dễ đánh giá.  Chúng ta có thể phải lòng với đủ loại người, thường là nhầm người, những người chúng ta có thể tán tỉnh hoặc có thời gian mặn nồng ngắn ngủi nhưng lại không thể sống đến trọn đời.

Loại tình yêu nào có thể làm nền tảng để xây dựng hôn nhân?  Cần có loại tình yêu đưa chúng ta về nhà.  Chúng ta cần nhận thức rõ ràng, chẳng hạn với người này, chúng ta được ở trong nhà, vì hôn nhân rất khác với trăng mật.  Đi trăng mật xong, là chúng ta về nhà.  Trong hôn nhân, chúng ta ở trong chính căn nhà của mình.

Cả tình dục cũng thế.  Nó phải là thứ đưa chúng ta về nhà và là nhà của chúng ta, chứ không phải một thứ mà khi xong việc, chúng ta lại đi về nhà.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: Langthangchieutim

NGUỒN TRỢ LỰC SIÊU NHIÊN

NGUỒN TRỢ LỰC SIÊU NHIÊN

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Lời Chúa trong sách Các Vua kể với chúng ta việc ông Êlia chạy trốn vua Akáp.  Là người thực thi sứ mạng Chúa trao, ngôn sứ Êlia đã nhiệt thành can đảm, dám đương đầu với 450 tiên tri của thần Baal.  Kết quả là 450 tiên tri này đã bị giết chết.  Sự thua cuộc bẽ bàng đã khiến cho hoàng hậu Zerabel nổi giận và thề giết cho được Êlia.  Nghe tin dữ đó, Êlia đã chạy trốn.  Trong tâm trạng buồn chán, ông xin Chúa cho mình được chết đi.  Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai dấn thân phụng sự Ngài.  Chính vào lúc Êlia đang buồn chán thì Chúa can thiệp.  Ngài đã sai sứ thần đem đến cho Êlia bánh và nước.  Nhờ bánh và nước này mà vị ngôn sứ của chúng ta có đủ sức trong 40 ngày trên đường tiến về núi Horeb.  Bánh và nước đã cho ông sức mạnh để tìm về núi Hôreb, là núi của Thiên Chúa, để tìm ở đó nguồn sức mạnh siêu nhiên.

Nếu ngôn sứ Êlia được Chúa nuôi dưỡng trên đường lên núi Horeb ngày xưa, thì hôm nay Chúa cũng đang nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình trần thế.  Cuộc sống của con người, theo nhãn quan Kitô giáo, cũng là một hành trình vượt sa mạc để lên núi của Thiên Chúa.  Cuộc hành trình và lên núi này đòi hỏi chúng ta phải có đủ sức mạnh thể lý và tinh thần, vì đây là hành trình đầy gian nan và cám dỗ.  Lương thực mà Chúa ban cho chúng ta chính là Thánh Thể và Lời Chúa.  Nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên này mà chúng ta có thể tiến bước trong bình an và hạnh phúc.

Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh.  Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người sẽ ban.  Người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu nói tới.  Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban.  Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống.  Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là chính Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta.  “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”  Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người.  Nếu mầu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14), thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51).  Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm.  Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế.  Đây là lương thực thiêng liêng, là lương thực giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày trong hành trình lên núi của Thiên Chúa về quê trời.

Cơn đói bánh là nỗi lo của con người mọi thời đại.  Những xung đột và chiến tranh xảy ra cũng nhằm để giải quyết cơn đói này.  Đâu là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nhắn gửi nhân loại, khi hiến trao thân mình Người cho chúng ta?  Đó là sứ điệp của sự sẻ chia, dấn thân phục vụ.  Thánh Thể là bài học yêu thương.  Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian.  Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự và trao phó cho con người quản lý.  Nếu biết phân phối công bằng, thì của cải trên thế giới đủ để nuôi sống tất cả mọi người.  Nghèo đói, bất công là con người ích kỷ, chỉ biết chiếm hữu cho mình mà quên tha nhân.  Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Sự phân phối bất công của cải vẫn tồn tại, tạo nên tình trạng tội lỗi mang tính xã hội, tình trạng ấy kêu thấu trời xanh và làm cho quá nhiều anh chị em chúng ta không có khả năng đạt được một cuộc sống đầy đủ hơn.”  Nghĩa cử quảng đại chia sẻ sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc, vì “Chỉ khi nào biết xả thân cho người khác, chúng ta mới thành công trong đời sống và mới cảm nghiệm được nỗi vui mừng của Thiên Chúa” (Michel Quoist).

Được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể, cuộc đời người Kitô hữu phải được canh tân.  Thánh Phaolô nói với giáo dân Êphêsô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác.  Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô.”  Vị Tông đồ dân ngoại cũng khuyên các tín hữu hãy chia sẻ quảng đại theo gương Đức Giêsu: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.” (Bài đọc II).

Trong những ngày này, qua các phương tiện thông tin, chúng ta được biết có hàng ngàn hàng vạn người dân nghèo vội vã rời bỏ các đô thị có dịch để trở về quê, tránh đại dịch Covid-19.  Nhiều cảnh đời rất đáng thương, vạ vật bên đường.  Không chỉ những người trên đường về quê, có nhiều nơi đang phải cách ly, phong toả và giãn cách.  Họ đang cần lắm những “sứ thần” mang đến cho họ sự giúp đỡ.  Nếu không có khả năng giúp đỡ vật chất, chúng ta đều có thể cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho những người nghèo khó và đau khổ được ơn nâng đỡ nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên.  Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, Chúa có thể làm những điều kỳ diệu để nâng đỡ chúng ta.  Ngài chính là nghuồn trợ lực siêu nhiên đối với những ai tin tưởng trông cậy nơi Ngài, như tác giả Thánh vịnh chia sẻ với chúng ta: “Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người.  Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org

From: Langthangchieutim

Đám đông lầm lũi đi theo người  

Đám đông lầm lũi đi theo người  

Tramtubensuoi

Tin Mừng Gioan 6: 2

Có đông đảo dân chúng đi theo Người,

bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ

Người đã làm cho những kẻ đau ốm.

Ngày xưa, dân chúng đi theo Người vì những dấu lạ: chữa bệnh, trừ quỷ,

vì được ăn no nê còn dư 7 thúng đầy.

Ngày nay, chúng tôi theo Chúa vì những điều gì?

Có nhiều nguyên nhân, nhiều mục đích lắm, tùy mỗi người, tùy mỗi hoàn cảnh, thay đổi theo thời gian.

Còn nhỏ, chúng tôi theo Chúa bằng cách giữ đạo vì cha mẹ ép buộc.

Lớn lên, theo Chúa… kiểu ai sao tôi vậy. làm dấu, đi lễ, đọc kinh như người máy.

Khá hơn chút nữa, chúng tôi tham gia vào hội đoàn. Nghe có vẻ như là những con chiên ngoan đạo qua những việc đạo đức rầm rộ bên ngoài…nhất là những dịp lễ lớn…

Tuy nhiên, thấp thoáng đâu đây những tranh đua ngấm ngầm làm cách nào cho hội đoàn tôi nổi nhất xứ thậm chí qua những bộ đồng phục không đụng hàng !!!

Ngoài ra, ngay trong một hội đoàn, chúng tôi còn phân biệt ra ngô ra khoai thành những ốc đảo rõ rệt: nhà giàu chơi với nhau, không thèm đếm xỉa tới xóm nhà lá bần hàn. Khi phân chia công tác, cũng ưu tiên cho khu nhà ngói những việc quan trọng như đọc sách, lời nguyện giáo dân… Thánh Giá nên cao dẫn đầu đoàn rước kiệu…còn xóm nhà lá chịu khó quét sân, lau cửa kiếng nhà thờ.

Có lẽ ngon lành nhất là khi chúng tôi có dịp tham gia vào những cộng đoàn. Nơi đây, hàng tháng, chúng tôi được học hỏi rất bài bản, tương đương với chương trình thần học giáo dân, chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ đời sống ơn phúc …

Đặc biệt là trong thời gian đầu, chúng tôi nhận được khá nhiều ơn…khiến gia đình chúng tôi hạnh phúc hẳn lên…

Chúng tôi tự phong cho mình là những người Kitô hữu đích thực, hơn hẳn những người Kitô hữu tình tang khác.

Thậm chí, có anh trưởng kia còn hùng hồn tuyên bố: Ai muốn được cứu độ, phải vào trong cộng đoàn mình!!!

Nhưng có điều rất kỳ lạ, sau những tháng ngày bồng bềnh thú vị ban đầu, lòng sốt mến nguội dần, chúng tôi từ từ lùi về gần như ngày xưa…

Bằng chứng là sau hơn 10 năm chia sẻ Lời Chúa, chúng tôi vẫn dậm chân tại chỗ ở mức trên trung bình một tí !!! Nói Lời Chúa vanh vách nhưng chẳng biết áp dụng vào cuộc sống hàng ngày của mình…như thế nào cả.

Vẫn biết mến Chúa, yêu người…nhưng lòng mến Chúa giống như giả vờ, lúc nóng lúc lạnh, lúc gần lúc xa…

còn yêu anh em bằng mình mới cực kỳ khó… yêu những ai đây?…ngoài một số anh chị em trong tổ,  trong cộng đoàn của mình.

Yêu thế nào cho đủ?

Khi chia sẻ đời sống, chúng tôi tránh né bằng cách kể lại những chuyện của anh em khác, và lờ đi chuyện chính gia đình mình.!!!

Lâu lâu, chúng tôi nhắc lại mục đích của cộng đoàn mình là Nên Thánh…nhưng dường như chúng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ tới chuyện cao siêu này…

Bằng chứng là vừa rước Chúa vào lòng xong, chúng tôi tranh nhau lên hôn tượng Chúa bằng thạch cao một cách rất ư là thành kính. Chúa ở đâu nhỉ???

Thánh lễ đã hết chúng tôi ra về…Chúa ở lại trong nhà Tạm nhé.

Hóa ra một mặt, chúng tôi vỗ ngực tự phong cho mình là những người Kitô hữu đích thực…

Mặt khác,  chúng tôi vẫn đi theo Chúa kiểu nửa nóng nửa lạnh mà thôi.

Nói theo tục ngữ thế gian: Đường ai nấy đi.

Chúa khác – tôi khác.

Chúa đi đường Chúa – tôi đi đường tôi giữa cuộc đời lữ hành đầy sóng gió này.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng chìm trong đám đông lầm lũi đi theo người

tuy có vẻ gần gũi…qua những việc đạo đức thường ngày…

Nhưng trong thực tế cuộc sống, tôi và Chúa dường như xa xôi thế nào ấy !!!

Quả thật, chúng tôi thấy mình dường như vẫn còn đang chìm trong đám đông lầm lũi đi theo người

From: KimBang Nguyen

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tôi có dịp hành hương sang Ai Cập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái.”

Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái?  Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do.  Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê.  Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3). 

Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon.  Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai Cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai Cập! Thà làm nô lệ Ai Cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12)“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3)“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì?  Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai Cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong!  Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt?  Chúng tôi trở về Ai Cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).  

Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nỗi nhớ “thịt béo, củ hành, củ tỏi Ai Cập.”  Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa.  Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương.  Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân

 Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân.  Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân.  Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông.  Dân đối xử tệ bạc với Môsê.  Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy.  Thật bất công!  

Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân: “Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”

Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.

Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa

Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19).  Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharon và con cái Aharon để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46).  Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).

Môsê có những lúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30).  Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11).  Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11).  Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17).  Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).  Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người…  Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).

  1. Môsê, người liên đới với dân Chúa

Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).  Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động!  Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.

Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37).  Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ.  Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab.  Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng…  Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc.  Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!

Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân!  Môsê đã chết với dân và cho dân!  Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.

Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).

Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân.  Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.

  1. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô

 Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân.  Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.  Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15).  Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22).  Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).

Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn.  Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức.  Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai.  Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ.  Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.

Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).

Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai Cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa.  Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.

Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa.  Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17).  Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5, 9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8).  Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê?  Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x. Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).

  1. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời

 Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến,” các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ;” còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông.  Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người.  Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều.  Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.

Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê.  Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự.  Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực trường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”  Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa.  Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa.  Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống.  Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.

Chính Tôi là Bánh Hằng Sống.”  Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ.  Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không.  Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu.  Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.

Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống.  Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể.  Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể, và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.

Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống” như mana trong sa mạc.  Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát.  Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng.  Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống.  Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại.  Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời.  Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.

Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Bài đọc 2).

Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.  Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.

“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả.  Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.

Mỗi lần rước lấy Thánh Thể, Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Trận bịnh dịch virus corona (Covid 19) đã xảy ra hơn một năm nay, đến ngày hôm nay 05 tháng 05 năm 2021 đã lắng dịu. Số người bị bịnh và số người chết đã giảm xuống rõ rệt. Chừng nào tình trạng lây lan virus này chấm dứt hẳn, chưa biết?

**Cũng do không thể vào nhà thờ được nên lớp Tân Tòng mới tổ chức học trên Zoom, nhờ đó con trai tôi là Phùng A. Quốc, mới chịu học đạo, (học qua Zoom) và đã làm lễ rửa tội (thanh tẩy) vào đêm lễ Vọng Phục Sinh ngày 02 tháng 04 năm 2021 vừa qua.

**Vì lý do không thể rời khỏi nhà được trong cuối tháng 03 và đầu tháng 04 -2020 nên thầy Bạch và vợ chồng thầy Hưng (Lan) đã thành lập Zoom để đọc kinh mân côi và kinh lòng thương xót Chúa. Như vậy anh chị em gặp nhau trong Zoom hàng ngày 3 lần 8 giờ sáng, 3 giờ trưa và 9 giờ tối.

Đứa cháu nội Jayden, cũng như bao nhiêu người khác, phải ở trong nhà, nên cũng tham gia đọc kinh do thầy Hưng, cô Lan, tổ chức đọc kinh mỗi tối và do thói quen đó mà Jayden vẫn đều đặn đọc kinh mỗi tối cho đến ngày hôm nay.

Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Khi chúng ta thiệt thòi cái gì, Chúa sẽ đền bù cái khác cho chúng ta.

Những thử thách, những sự hy sinh, chịu đựng, những khó khăn, đau khổ, sau khi qua đi rồi, thông thường chúng ta được đền bù điều gì đó, cái gì đó tốt hơn.

** Nếu tôi không ở tù khổ sai gần 8 năm trong các trại cải tạo lao động của cộng sản, đã chịu đựng đói khổ triền miên, đã chịu nhiều đau khổ từ tinh thần đến vật chất từ trại Long Thành, Thủ Đức, Lào Cai, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh… Nếu ở tù dưới ba năm, tôi sẽ không được xếp vào diện HO, được đi cả gia đình (6 người) sang Mỹ định cư.

Ngày hôm nay các con tôi đều có gia đình riêng, có công ăn việc làm ổn định. Nếu không có đi tù cộng sản, tôi và các con tôi chắc cũng còn ở lại Việt Nam, đâu có hưởng được đời sống tự do, cuộc sống tiện nghi, ổn định, bình an. Riêng tôi không còn sợ cộng sản quấy nhiểu, theo dõi, hay bắt tôi bỏ tù lần nữa, tập trung cải tạo lần nữa.

Tạ ơn trời để cho tôi đã chịu đựng được những khó khăn, đau khổ gần 8 năm trong các trại cải tạo khắc nghiệt ở miền Bắc Việt Nam.

(Bỏ đỡ đầu của Phùng Quốc (2 người bên trái) cùng với gia đình  chụp hình kỹ niệm với Cha Chánh Xứ)

 

 

 

 

 

Phùng Quốc đã rửa tội trong mùa dịch Virus Corona

Phùng Văn Phụng

Ngày 05/05/2021

Dịch bệnh dưới góc nhìn của Kinh Thánh

Dịch bệnh dưới góc nhìn của Kinh Thánh

Những ngày này chúng ta hồi hộp với đại dịch virus corona. Số người tử vong và mắc bệnh tăng lên từng giờ. Đó chưa đến mức thảm họa, nhưng chắc chắn là bầu không khí u ám phủ đầy Trung Quốc, những nước lân cận và cả thế giới. Dĩ nhiên trước con virus này, ai cũng hy vọng các nhà khoa học sớm tìm ra phương thuốc chữa trị!

Trong lịch sử lúc nào cũng có bệnh tật. Thi thoảng nhân loại phải đương đầu với đại dịch cướp đi sinh mạng của vô số nạn nhân (HIV/AIDS, Đậu mùa, Sởi, Lao, Sốt rét, SARS, Ebola, v.v…). Trong Kinh Thánh, chúng ta cũng có thể đọc được những trình thuật nói về những lần đại dịch bệnh xẩy ra. Qua đó, chúng ta được nhiều bài học từ những lần đại dịch này.

  1. Thiên Chúa ở đâu trong các tai ương?

Vào thời cổ đại, người ta chứng kiến hằng loạt tai ương dân Ai Cập phải gánh chịu. Số là vua Pharaô một mực không để cho dân Ít-ra-en xuất hành trở về quê hương. Sau khi Môsê là người lãnh đạo dân, không thể thuyết phục Pharaô, Đức Chúa cho nước biến thành máu[1], nạn ếch nhái đánh phạt toàn thể lãnh thổ Ai Cập; nạn ruồi, muỗi, nhặng hoành hành. Từng đó tai ương vẫn chưa lay động lòng cứng cỏi của Pharaô. Thiên Chúa tiếp tục phái ông Môsê đến nói với Pharaô: “Hãy thả dân Ta ra, để chúng thờ phượng Ta” (Xh 9,1). Ông vẫn cố chấp. Hệ quả tiếp theo là ôn dịch xảy ra giết chết mọi xúc vật của người Ai Cập. Ngoài ra, khắp vùng phải chịu nạn châu chấu, cảnh tối tăm.

Tai họa sau cùng là các con trai đầu lòng Ai Cập đều bị sát hại. Tất cả vì lòng chai dạ đá của nhà vua mà thần dân của ông phải chịu biết bao tai họa. Những tai họa, dịch bệnh vẫn thường xảy ra. Thiên Chúa không tạo ra những tai ương đó! Kinh Thánh vận dụng các yếu tố thiên nhiên để diễn tả rằng: “tất cả ở trong quyền năng của Thiên Chúa.”

Rời Ai Cập, dân Chúa phải lang thang trong sa mạc 40 năm. Nơi đây, chính dân Chúa cũng nhiều lần cứng lòng tin, chối bỏ Thiên Chúa. Họ đòi  trở lại Ai Cập, vì trong sa mạc quá hà khắc và tương lai mịt mù. Thiên Chúa đã cho rắn độc đến sát hại nhiều người. Chính Đức Chúa lại cho họ phương thuốc chữa trị khi bị rắn cắn (x. Ds 21,4-9).

Cũng trong thời gian này, người dân Ít-ra-en phải đối diện với nhiều dịch bệnh[2]. Một trong những cơn đại dịch bệnh mà nó kéo dài cho tới thời đại chúng ta: bệnh phong (x. Ds 12, 10-15 và Đnl 24,8-9). Dĩ nhiên thời đó không có thuốc chữa. Họ cũng chẳng biết đó là con vi khuẩn Mycobacterium leprae (Hansen) tấn công. Tất cả bệnh nhân phong đều phải cách ly tuyệt đối và họ chết dần chết mòn với căn bệnh này.

Dù trong thời nào đi nữa, bệnh dịch luôn là nỗi ám ảnh cho con người. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm được: Thế nào là sự bất lực, giới hạn và đau khổ của kiếp người! Bệnh tật khiến con người ý thức về cái chết nhiều hơn. Trong nỗi đau đớn đó, nhiều người gào thét lên: “Thiên Chúa ở đâu trong khi con phải chịu căn bệnh này?”

Vâng, Thiên Chúa vẫn có đó, Ngài hiểu được những gì con người phải gánh chịu. Thời Cựu Ước và Tân Ước, người Do Thái nhìn nhận bệnh tật trong tương quan với Thiên Chúa. Khi bệnh dịch xuất hiện, họ than thở với Chúa (x. Tv 38) và xin Ngài cứu chữa. Thực vậy, khi họ trở về nẻo chính đường ngay, Thiên Chúa sẽ ra tay quyền lực để cứu họ. Thiên Chúa không vắng bóng khi dịch bệnh hoành hành.

Vả lại, bệnh tật có khi trở thành con đường hoán cải. Và Thiên Chúa có tha thứ thì bệnh nhân mới được lành (x. Tv 32,5; 107,20; Mc 2,5-12). Nghe có vẻ ngồ ngộ trong thời đại của chúng ta! Tuy vậy, đó là quan niệm rất xa xưa trong dân Do Thái. Không có khoa học, y khoa tân thời, dân Ít-ra-en tin rằng bệnh tật liên quan cách huyền nhiệm với tội lỗi và sự dữ. Do đó, càng trung thành giữ luật Chúa, họ càng tránh xa được dịch bệnh, tật nguyền. Họ tin chính Thiên Chúa ban cho họ sự sống, “vì Ta là Chúa, là Lương Y của ngươi.” (Xh 15,26).

  1. Thời Tân Ước với những căn bệnh

Cần lưu ý rằng Cựu Ước cũng như Tân Ước đều khởi đi từ cái nhìn đức tin: Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và là chủ tể muôn loài muôn vật và lịch sử. Thiên Chúa có thể dùng mọi biến cố, kể cả dịch bệnh để dạy dỗ con người. Thiên Chúa luôn cứu con người khỏi dịch bệnh, khi họ kêu cầu, thống hối.

Trước khổ đau của nhân loại, Đấng Cứu Độ đã xuất hiện: Đức Giêsu Kitô. Ngài không giấu giếm sứ mạng của mình nơi trần gian là: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. (x. Lc 2,18-19). Chỗ khác, Tin Mừng ghi lại sứ mạng của Đức Giêsu: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (Mt 11,2-6). Sứ mạng ấy vẫn tiếp diễn trong năm 2020 này, và cho đến muôn đời.

Có thể nói lời rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu thường đi đôi với những phép lạ. Vì Đức Kitô cảm thương người bệnh tật và chữa lành nhiều kẻ yếu đau (x. Mt 7,24), nên Ngài chữa lành họ với quyền năng và lòng thương xót[3]. Từ những ai bị quỷ ám, câm điếc, bại liệt, kinh phong, cho đến những người đã chết, Chúa Giêsu đã đoái thương họ. Đó là dấu chỉ tỏ tường Thiên Chúa viếng thăm dân người (Lc 7,16) và Nước Trời đã gần kề.

Đừng quên chính Đức Giêsu cũng mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. (x. Mt 8,17; Is 53,4). Nhờ đó, con người được giải thoát khỏi tội lỗi, bệnh tật và cái chết.

Sau khi phục sinh, chính Đức Giêsu sai phái các môn đệ, các tông đồ đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.” (Mc 6,12-13). Thuở Giáo Hội sơ khai, người ta đã chứng kiến nhiều phép lạ xảy ra[4]. Suốt dòng lịch sử Giáo Hội, phép lạ chữa lành bệnh tật cũng không thiếu. Nhất là những ai có dịp đến những nơi hành hương (Lộ Đức, Fatima hoặc Đức Mẹ La Vang, v.v…) có thể thấy biết bao dấu tích, câu chuyện và lời tạ ơn về sự chữa lành của Thiên Chúa.

Đó là quyền năng và sự lạ lùng của Thiên Chúa. Ngài có tự do để chữa cho người này khỏi bệnh, người kia gặp thầy gặp thuốc. Chắc chắn thân phận con người không thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, khi chúng ta gặp phải bệnh dịch, “Thiên Chúa muốn cứu chữa chúng ta cả xác lẫn hồn, Người mời gọi ta tin nơi Người và nhận ra rằng Nước Chúa đang đến.” (Youcat 241).

Trong dịch bệnh, Thiên Chúa không bỏ con người. Chính Thiên Chúa mời gọi con người nên tin tưởng vào quyền năng Chúa. Dĩ nhiên không ai muốn dịch bệnh, nhưng nó vẫn thường xảy ra.

  1. Lời kết

Chắc luôn còn đó những thắc mắc liên quan đến dịch bệnh xảy ra trong đời thường. Trong bản văn Kinh Thánh cũng thế. Một mặt, chúng ta thấy Thiên Chúa có vẻ “trừng phạt” dân (nhất là trong Cựu Ước), vì dân chống lại Thiên Chúa, họ không tin vào Ngài nữa. Mặt khác, khi dịch bệnh bào mòn sức khỏe con người, dân mới nhận ra lỗi lầm của mình, mà trở về với Thiên Chúa. Kết quả là họ được chữa lành và tiếp tục dấn thân.

Chúng ta đang sống trong thời đại của kỹ thuật khoa học, của những phát minh vĩ đại về y khoa. Mọi bệnh tật đều có nguyên nhân. Các nhà khoa học tin rằng mình có thể tìm ra phương pháp chữa trị. Nhiều người hoàn toàn không tin vào những chuyện “vớ vẩn”: van xin Thiên Chúa ra tay chữa lành. Với họ, tôn giáo và khoa học, hay y khoa hoàn toàn tách biệt! Tiếc rằng các nhà khoa học luôn bị thách đố bởi nhiều dịch bệnh mới. Nó như con quái vật, chặt đầu này nó mọc ra đầu khác, ngày càng hung dữ hơn. Vi trùng và virus luôn có những biến tướng. Nhiều thứ vi trùng, virus đã kháng thuốc, phải tìm thuốc mới. Khoa học vẫn không toàn năng!

Là người tín hữu, chúng ta có cái nhìn khang khác mỗi khi dịch bệnh xảy ra. Người quá khích cho đó là quả báo của những người tàn ác, chống lại Thiên Chúa. Người đạo đức cho rằng đó là dấu chỉ để mời gọi họ trở về với Thiên Chúa. Không ít người van xin Thiên Chúa soi sáng cho các nhà nghiên cứu tìm ra phương thuốc chữa trị. Trên hết, chúng ta tin rằng dù có khổ đau, bệnh tật, Thiên Chúa không bỏ con người. Ngài hằng ở với và đồng cam cộng khổ với con người. Từ đó, chúng ta được cứu độ và giải thoát.

Trước dịch virus corona, Đức Giáo Hoàng Phanxicô rơi lệ cầu nguyện cho các nạn nhân. Ngài nói thêm:

“Tôi mong ước gần gũi và cầu nguyện cho những bệnh nhân gây bởi virus đang lan rộng khắp Trung Quốc. Xin Thiên Chúa đón nhận những người đã qua đời trong bình an của Ngài, an ủi gia đình của họ và nâng đỡ sự dấn thân lớn của cộng đồng Trung Hoa.”

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

[1] Tác giả Kinh Thánh mượn yếu tố tự nhiên để làm nổi bật uy quyền toàn năng của Thiên Chúa.
[2] Xem sách Lêvi chương 13: mụn, lác, đốm; ung nhọt; phỏng; chốc; mày đay; sói đầu.
[3] Chữa người phong hủi (Mc 1, 40-42); Người chữa lành hai người mù (Mt 20, 29-34; Mc 10, 46-52); Người làm cho người câm nói được (Lc 11, 14); chữa người phụ nữ băng huyết (Mt 9, 20-22; Mc 5, 25-34); và Người làm cho một bé gái sống lại (Mt 9, 18. 23-25; Mc 5, 35-42).
[4] Xem thêm: https://thsedessapientiae.net/cac-phep-la-trong-sach-cong-vu-tong-do/