MỘT CON TIM MỚI MẺ

MỘT CON TIM MỚI MẺ

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ rất bất ngờ khi Tin Mừng hôm nay cho thấy một kiểu đi nghỉ khác thường mà Chúa Giêsu mời các môn đệ Ngài cùng đi; qua đó, việc “nghỉ ngơi” bên Chúa sẽ làm cho họ có được “một con tim mới mẻ” như con tim của Ngài, một con tim cứu độ và xót thương.

Trở về sau những ngày rao giảng thấm mệt, và dẫu không nói ra điều đó, các môn đệ vẫn không tài nào giấu được đôi mắt tinh tường của Chúa Giêsu.  Sẽ không ngạc nhiên, khi với lòng trắc ẩn, Ngài lập tức mời họ xuống thuyền; Tin Mừng nói, “Thầy trò chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh.”  Ấy thế, khi thuyền vừa cập bến, đã có một đám đông đợi các ngài ở đó.  Như vậy, những người này đã đoán trước Thầy trò Chúa Giêsu sẽ đến đó; hoặc chí ít, đã có sự “rò rỉ” thông tin từ các tông đồ.  Qua đó chúng ta thấy lòng khao khát mãnh liệt được ở bên Chúa nơi những con người đang kiếm tìm Ngài.  Phải chăng đây cũng là cách đám đông “nghỉ ngơi” bên Chúa; và phải chăng đây cũng là cách “nghỉ ngơi” Chúa Giêsu mong muốn ở mỗi người chúng ta?  Lạ thay!  Ngài không bực nhọc; chẳng than thở, “Ôi chao, những người này không để mình yên dù chỉ một chút sao?”  Không, thay vào đó, “Thấy dân chúng thật đông, Ngài động lòng thương.”  Như thế, Ngài vẫn luôn giữ cho mình “một con tim mới mẻ” đầy cứu độ và thương xót ngay trong khoảng trời riêng tư của Ngài, Ngài chấp nhận thay đổi kế hoạch vì người khác.

Trong cuộc sống, sau khi phục vụ người khác chu đáo tận tình, ai trong chúng ta cũng muốn được nghỉ ngơi, đó là điều dễ hiểu; cả Chúa Giêsu cũng muốn điều này cho Ngài và các môn đệ.  Thế nhưng, một điều cho phép Ngài “làm gián đoạn” chương trình của mình chính là sự khát khao của những con người “muốn ở bên Ngài” và “được nuôi dưỡng bởi Lời Ngài”; Ngài sẵn sàng gác lại tất cả để thoả mãn khát khao của họ.  Như vậy, nơi Chúa Giêsu, xem ra không có “vacation”, kỳ nghỉ; nhưng chỉ có “salvation”, cứu độ.  Cũng thế, đối với bất cứ ơn gọi nào, bậc sống nào hay hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền và có thể nghĩ đến một khoảng riêng tư của mình; thế nhưng, nhiều lúc trách nhiệm lại buộc chúng ta chọn lựa một cách khác, “chọn lựa gián đoạn” kế hoạch của mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta có “một con tim mới mẻ”, con tim cứu độ giữa kỳ nghỉ và giờ nghỉ.

Chìa khoá để chúng ta có được “một con tim mới mẻ” như Chúa Giêsu chính là sự sẵn sàng; sẵn sàng với thời gian, sẵn sàng với sức lực của mình.  Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ luôn luôn biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của một ai; Người ban những ân sủng không bao giờ ngờ tới để chúng ta có thể rộng rãi trao ban.  Và tuyệt vời hơn, chính trong những thời điểm ngặt nghèo “bất tiện” nhất này, “một con tim mới mẻ” sẽ vui tươi làm những gì chợt đến, thì Thiên Chúa lại thường cho gặt hái những hoa trái mà đôi lúc suốt nhiều năm, chúng ta vất vả mà luống công; đó là lúc mà chính Chúa thực sự có thể biến đổi người khác.

Đang đi nghỉ ở Ireland, nhà sản xuất xe hơi, Henry Ford, được yêu cầu đóng góp cho một trại mồ côi mới xây.  Ford đã viết một tấm check trị giá hai nghìn bảng Anh, và thông tin đó đã xuất hiện trên các tờ báo địa phương.  Oái ăm thay, biên tập viên đã vô tình bất cẩn thông báo món quà là hai mươi nghìn bảng.  Giám đốc trại các em mồ côi lo lắng điện thoại xin lỗi Ford, “Tôi sẽ gọi ngay cho biên tập viên và yêu cầu anh ta sửa lại”, anh nói. “Không cần thiết phải như vậy!”, Ford trả lời; và ông nhanh chóng viết tấm check mười tám nghìn bảng bổ sung.

Anh Chị em,

Dẫu bị quấy rầy giữa kỳ nghỉ, nhưng Henry Ford đã có một tấm lòng nhân ái đáng trân trọng.  Với chúng ta, được nghỉ ngơi “vacation” bên Chúa Giêsu, con tim của chúng ta sẽ đầy sự cứu rỗi, “salvation” hơn Henry Ford biết bao!  Trong những ngày này, khi có thời giờ hơn để nghỉ ngơi, nếu không được nghỉ việc như những anh em đang sống ở hải ngoại, chúng ta vẫn có thời giờ nhiều hơn.  Đây là lúc chúng ta vào nơi thanh vắng để có thời gian ở bên người thân, làng xóm và nhất là được ở bên Chúa.  Hãy dừng lại để định hướng cho một năm mới, nhìn lại những gì đã qua hầu làm mới lại con tim của mình.  Đó chính là cách nghỉ ngơi đúng nghĩa mà Chúa Giêsu đang mong ước; và với ơn Chúa, sang năm mới, chắc chắn chúng ta sẽ có “một con tim mới mẻ.”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Cúi lạy Chúa tôi, một năm qua rồi; ngày giờ quý báu, đâu còn trở lui.”  Cám ơn Chúa, con được bình an qua một năm thế giới đầy tai ương và biến động.  Trong những ngày hôm nay, xin cho con biết dành giờ nghỉ ngơi” bên Chúa nhiều hơn, biết sống tâm tình cảm tạ và sám hối; với ân sủng biến đổi của Chúa, chắc chắn con sẽ đi vào năm mới với một con tim mới mẻ.’”  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 From: Langthangchieutim

HÀNH TRÌNH HẠNH PHÚC

HÀNH TRÌNH HẠNH PHÚC

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến.  Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn.  Trên con đường đời, bạn có thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc, nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định.  Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). 

Với những dòng trên, tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở bên cạnh và trong tầm tay của chúng ta.  Nếu chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích, chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía chân trời.  Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình.  Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời.  Không ai dựa vào sự kiện những người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại.  Dù cuộc đời còn nhiều gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện bên ta.  Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè, gia đình và môi trường xã hội.  Hãy có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá trị đang hiện hữu xung quanh.  Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài.  Mỗi hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người.  Thời gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa.  Biết trân quý thời gian và sử dụng thời gian để làm những việc có ý nghĩa là nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.

Ông Gióp trong Cựu ước là một người đạo đức và sống đẹp lòng Chúa.  Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp.  Ông lâm vào cảnh bất hạnh chỉ trong vài ngày.  Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi.  Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông.  Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.”

Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của một số người trong cuộc sống của chúng ta hôm nay.  Họ luôn cảm thấy cuộc đời này vô vị.  Họ bất mãn và nhìn cuộc đời với lăng kính u buồn.  Thay vì quan tâm đến người khác, họ chỉ muốn người khác quan tâm đến mình.  Họ phàn nàn trách Chúa, trong khi Ngài ban cho họ biết bao cơ hội để cải thiện đời sống.  Tuy vậy, nếu ông Gióp nhìn cuộc đời với cái nhìn bi quan, thì ông lại không bao giờ xúc phạm Chúa.  Ông tin Ngài sẽ giải cứu ông và cuối cùng, Chúa đã phục hồi cho ông những gì đã mất, đem lại cho ông danh dự và niềm vui.  Sau những tháng ngày gian truân, ông được bù đắp xứng đáng.  Tài sản có được tăng gấp nhiều lần so với trước đó.  Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông ta nhận được muôn hồng ân Chúa ban.

Như thế, mỗi người cần nhận ra những điều tốt đẹp Chúa ban, đồng thời chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống.  Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói về chính mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!  Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công.”  Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân cũng không quên sứ mạng quan trọng là giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.  Ông luôn tận dụng thời gian tối đa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì ông coi đó là một bổn phận Chúa trao.  Kể cả trong lao tù, thánh Phaolô cũng không quên nhiệm vụ quan trọng này.  Nhờ việc rao giảng Lời Chúa mà ông tìm được niềm vui và nghị lực, bởi ông thấy những hiệu quả của công việc ông đã làm, đó là những cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập và phát triển (Bài đọc II).

Nếu chúng ta cảm thấy cuộc sống lặng lẽ trôi một cách vô nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân.  Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc chúng ta có để ý hay không.  Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người thánh thiện hay tội lỗi.  Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa.  Thánh Máccô kể lại một ngày sống và làm việc của Chúa Giêsu.  Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn.  Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha.  Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường.  Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng.  Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc.  Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người.  Những việc làm của Chúa Giêsu tập trung ở ba khía cạnh: thứ nhất là rao giảng Tin Mừng; thứ hai là chữa lành các bệnh nhân đủ mọi tật nguyền; thứ ba là cầu nguyện.  Ba khía cạnh này đã tạo nên sự quân bình trong đời sống.  Đó cũng là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu của chúng ta.  Cần phải kết hợp khía cạnh “động” và khía cạnh “tĩnh” để tạo nên một thế quân bình.  Những giây phút tĩnh lặng trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhìn lại công việc chúng ta đang làm.  Những hoạt động hằng ngày là hoa trái của những suy tư và cầu nguyện trước nhan Chúa.

“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày” (Ga 4, 3).  Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc, tùy theo khả năng và địa vị của mình.  Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui.  Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui.  “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.

Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Tân Sửu.  Thời điểm cuối năm nhắc chúng ta nhìn lại những việc đã làm.  Cuối năm cũng là lúc nhìn lại chặng đường đã đi.  Có những con đường lệch lạc được tô vẽ bằng những màu sắc hấp dẫn nhiều người muốn đi.  Có những con đường ngay chính nhưng phải ngang qua cửa hẹp ít người muốn vào.  Người tin Chúa cần phải cẩn trọng, vì có những ngã rẽ làm chúng ta đau khổ suốt đời.

Năm Canh Tý sắp qua có biết bao biến động, do thiên tai và nhất là do đại dịch Covid-19.  Phải chăng đây là những dấu chỉ thời đại, nhắc nhở chúng ta suy tư về sự mỏng giòn của kiếp con người.  Những dấu chỉ thời gian này cũng mời gọi chúng ta có trách nhiệm hơn đối với tha nhân, với môi trường và với thiên nhiên vũ trụ.  Đừng đổ lỗi cho Chúa như một số người vô thần.  Trái lại, hãy nhận ra quyền năng của Ngài xuyên qua những hiện tượng xảy đến trong cuộc sống.

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về cuộc sống hôm nay.  Bởi lẽ giữa những thử thách chông gai và bon chen tính toán, tình yêu Chúa vượt lên trên tất cả.  Những nhỏ nhen sẽ qua đi và tình yêu tồn tại mãi.  Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm.  Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không.  Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được.  Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân.  Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.

 

Hãy yêu mến cuộc sống hiện tại và hãy chuyên tâm làm việc thiện, vì tất cả những gì tốt lành chúng ta làm ở đời này, sẽ theo chúng ta đến cõi trường sinh.  Ước gì ngay ngày hôm nay, chúng ta biết quý trọng những người xung quanh, vì họ là những người Chúa gửi đến cho chúng ta để đồng hành cùng chúng ta trên đường về quê trời.  Như thế, hạnh phúc chẳng ở đâu xa mà ở bên cạnh và xung quanh chúng ta.  Hạnh phúc không phải là một đích điểm, mà là một hành trình.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 From: Langthangchieutim

TÔNG THƯ PATRIS CORDE CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Con chép lại dưới đây Tông Thư  về Thánh Giuse,

nếu đọc rồi, mong đọc l ại, và Thánh Giuse Thần Thế Phù Hộ chúng ta thêm. Con bỏ hầu hết các chú thích khi đọc lại.

Trọng kính,

lmpcqminh,sj.

TÔNG THƯ

PATRIS CORDE

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

NHÂN KỶ NIỆM 150 NĂM
TÔN VINH THÁNH GIUSE
LÀ BỔN MẠNG HỘI THÁNH

VỚI TRÁI TIM CỦA NGƯỜI CHA: đó là cách mà Thánh Giuse yêu thương Chúa Giêsu, Đấng mà cả bốn sách Phúc âm đều gọi là “con của ông Giuse”.[1]

Matthêô và Luca, hai Thánh sử nói nhiều nhất về thánh Giuse, lại kể rất ít, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy được ngài là người cha như thế nào và Chúa quan phòng đã giao phó cho ngài sứ mệnh gì.

Chúng ta biết rằng thánh Giuse là một người thợ mộc đơn sơ (x. Mt 13,55), đã đính hôn với Đức Maria (x. Mt 1,18; Lc 1,27). Ngài là “người công chính” (Mt 1,19), luôn sẵn sàng thi hành thánh ý Thiên Chúa như đã được mạc khải trong Lề Luật (x. Lc 2,22.27.39) và trong bốn giấc mơ (x. Mt 1,20; 2: 13.19.22). Sau chuyến hành trình dài và mệt nhọc từ Nadarét đi Bêlem, ngài được chứng kiến Đấng Mêsia sinh ra trong chuồng bò, vì “không có chỗ cho họ” trong quán trọ (x. Lc 2,7). Ngài đã chứng kiến các mục đồng (x. Lc 2,8-20) và các đạo sĩ (x. Mt 2, 1-12) đến thờ lạy Chúa, họ là những người đại diện cho dân Israel và các dân ngoại.

Thánh Giuse đã can đảm trở thành người cha của Chúa Giêsu theo lề luật, Đấng mà ngài đã đặt cho cái tên được mặc khải qua sứ thần báo trước: “Ông hãy đặt tên cho Người là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,21). Như chúng ta biết, đối với các dân tộc cổ đại, đặt tên cho một người hoặc một sự vật, như Ađam đã làm trong trình thuật ở Sách Sáng thế (x. 2,19-20), là để thiết lập một mối tương quan.

Bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã dâng con mình cho Chúa trong Đền thờ, và ngạc nhiên lắng nghe lời tiên tri của ông Simeon về Chúa Giêsu và Mẹ Người (x. Lc 2,22-35). Để bảo vệ Chúa Giêsu thoát khỏi tay Hêrôđê, Thánh Giuse đã sang Ai Cập sống như một người ngoại kiều (x. Mt 2,13-18). Sau khi trở về quê hương, ngài sống ẩn dật ở ngôi làng Nadarét nhỏ bé và ít người biết đến thuộc xứ Galilê, cách xa Bêlem, là ngôi làng của tổ tiên ngài, và cách xa cả Giêrusalem và Đền thờ. Người ta nói về Nadarét rằng “Không có ngôn sứ nào xuất thân từ đây” (x. Ga 7,52) và quả thật, “Ở Nadarét nào có chi hay!” (x. Ga 1,46). Trong cuộc hành hương lên Giêrusalem, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã lạc mất Chúa Giêsu khi ấy mười hai tuổi, họ lo lắng đi tìm và gặp thấy Người trong Đền thờ, đang trao đổi với các tiến sĩ Luật (x. Lc 2,41 -50).

Sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, không có vị thánh nào được nhắc đến thường xuyên trong huấn quyền của Giáo hoàng hơn Thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ. Các vị tiền nhiệm của tôi đã suy tư về sứ điệp trong thông tin giới hạn được các sách Phúc Âm ghi lại để đánh giá đầy đủ hơn vai trò trung tâm của Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ. Chân phước Piô IX đã tôn vinh Thánh Giuse là “Bổn mạng Hội Thánh”,[2] Đấng đáng kính Piô XII gọi ngài là “Bổn mạng của người lao động”[3] và Thánh Gioan Phaolô II tuyên xưng ngài là “Đấng bảo vệ Chúa Cứu Thế”.[4] Thánh Giuse được mọi người kêu cầu là “Bổn mạng kẻ mong sinh thì”.[5]

Giờ đây, một trăm năm mươi năm sau khi Chân phước Piô IX công bố Thánh Giuse là Bổn mạng Hội Thánh (ngày 8 tháng 12 năm 1870), tôi muốn chia sẻ một vài suy tư cá nhân về dung mạo phi thường này, thật gần gũi với kinh nghiệm của con người chúng ta. Vì, như Chúa Giêsu đã nói, “lòng đầy miệng mới nói ra” (Mt 12,34). Mong muốn ấy của tôi càng thêm mãnh liệt trong những tháng đại dịch này, khi chúng ta cảm nghiệm, giữa cuộc khủng hoảng, rằng “cuộc sống của chúng ta được đan dệt với nhau và được nâng đỡ nhờ những con người bình thường – những người thường bị quên lãng, – họ không xuất hiện trên báo chí, hay trong những chương trình truyền hình mới nhất, nhưng ngay trong những ngày này, chắc chắn họ đang làm nên những biến cố quan trọng của lịch sử chúng ta. Các bác sĩ, y tá, các chủ cửa hiệu và nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, người chăm sóc người già và bệnh nhân, công nhân vận chuyển, những người cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục, nam nữ tu sĩ, và rất nhiều người khác. Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình… Có biết bao người hằng ngày vẫn kiên nhẫn gieo niềm hy vọng, lo sao để không gieo rắc hoảng loạn nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Có biết bao người cha, người mẹ, ông bà, thầy cô, chỉ cho con cái chúng ta – qua những cách thức nhỏ bé hằng ngày – cách thức đón nhận và đương đầu với khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Có biết bao người cầu nguyện, dâng những hy sinh và chuyển cầu cho thiện ích của tất cả mọi người”.[6] Mỗi người chúng ta đều có thể khám phá rằng Thánh Giuse –  một người chẳng được để ý – vẫn hiện diện hằng ngày cách âm thầm kín đáo, để cầu thay nguyện giúp, trợ giúp và hướng dẫn chúng ta khi gặp khó khăn. Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng những ai ẩn mình hay sống trong bóng tối có thể đóng một vai trò không thể sánh được trong lịch sử cứu độ. Tất cả những người ấy đều đáng được nhìn nhận và biết ơn.

  1. Một người cha yêu thương

Sự vĩ đại của Thánh Giuse ở chỗ ngài là bạn trăm năm của Đức Maria và là cha của Chúa Giêsu. Như thế, theo lời Thánh Gioan Kim khẩu, Thánh Giuse đã tự đặt mình “phục vụ toàn bộ kế hoạch cứu rỗi”.[7]

Thánh Phaolô VI đã chỉ ra rằng Thánh Giuse đã thể hiện một cách cụ thể vai trò làm cha của mình “bằng cách biến cuộc đời mình trở thành của lễ hy sinh phục vụ mầu nhiệm nhập thể cùng với sứ vụ cứu thế. Thánh Giuse dùng quyền hạn hợp pháp của mình đối với Thánh Gia để cống hiến hết mình cho các ngài trong cuộc sống và công việc của mình. Ngài đã biến ơn gọi sống tình yêu gia đình của phàm nhân thành sự dâng hiến siêu phàm chính mình, trái tim và tất cả khả năng của mình, một tình yêu được dành để phục vụ Đấng Mêsia đang lớn lên trong mái ấm của ngài”.[8]

Vì vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, Thánh Giuse luôn được các Kitô hữu tôn kính là cha. Điều này được thể hiện qua vô số nhà thờ dâng kính ngài trên khắp thế giới, nhiều học viện tôn giáo, hội đoàn và các nhóm giáo hội lấy cảm hứng từ linh đạo của Thánh Giuse và mang tên ngài, cùng với nhiều cách bày tỏ lòng đạo đức truyền thống cũng tôn vinh ngài. Vô số các thánh nam nữ đã rất sùng kính ngài. Trong số đó có Thánh Têrêsa Avila, đã chọn Thánh Giuse làm đấng bênh vực và cầu thay cho mình, đã thường xuyên đến với ngài và bất cứ ơn nào xin với Thánh Giuse đều được toại nguyện. Được khích lệ bởi kinh nghiệm của chính mình, Thánh Têrêsa còn thuyết phục những người khác cũng vun trồng lòng sùng kính đối với Thánh Giuse.[9]

Sách kinh nào cũng có những kinh cầu nguyện với Thánh Giuse. Có những kinh đặc biệt cầu cùng Thánh Giuse vào các ngày thứ Tư và nhất là trong tháng Ba, theo truyền thống được dành để kính Thánh Giuse.[10]

Lòng tín thác của mọi người vào Thánh Giuse được thể hiện trong câu “Hãy đến cùng Giuse”, gợi lại nạn đói ở Ai Cập, khi người Ai Cập xin Pharaô cho họ bánh ăn. Ông trả lời: “Hãy đến cùng Giuse; và hãy làm những gì ông ấy bảo” (St 41,55). Pharaô muốn nói đến Giuse, con của Giacob, là người đã bị anh em mình bán làm nô lệ do lòng ghen tị (x. St 37,11-28) và là người – theo lời Kinh thánh – sau đó trở thành phó vương Ai Cập (x. St 41,41-44).

Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đavít (x. Mt 1, 16-20), là cội rễ mà từ đó Chúa Giêsu sẽ sinh ra theo lời hứa đã được tiên tri Nathan báo cho Đavít (x. 2 Sm 7), và là bạn trăm năm của Đức Maria thành Nadarét, như thế Thánh Giuse tượng trưng cho mối liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước.

  1. Một người cha dịu dàng và yêu thương

Thánh Giuse đã chứng kiến Chúa Giêsu lớn lên từng ngày “về khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Lc 2,52). Như Thiên Chúa đã làm với Israel, Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu: “ngài dạy bước đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).

Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa: “Như người cha yêu thương con cái mình, Chúa xót thương những ai kính sợ Người” (Tv 103, 13).

Trong hội đường, khi cầu nguyện bằng Thánh vịnh, chắc chắn Thánh Giuse đã nghe đi nghe lại nhiều lần rằng Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa chạnh lòng thương,[11] là Đấng nhân hậu với tất cả mọi người, Đấng “nhân từ hơn tất cả những gì Ngài đã làm”. (Tv 145,9).

Lịch sử cứu độ được hoàn thành “trong hy vọng dù không còn hy vọng” (Rm 4,18), qua những yếu đuối của chúng ta. Chúng ta thường nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hoạt động qua những mặt tốt của chúng ta, nhưng hầu hết các kế hoạch của Ngài đều được thực hiện qua các yếu đuối của chúng ta và bất chấp sự yếu đuối ấy. Vì vậy, Thánh Phaolô mới nói: “Để cho tôi khỏi tự cao tự đại, thân xác tôi như bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến để hành hạ tôi, để cho tôi khỏi huênh hoang. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi điều này, rằng nó sẽ rời bỏ tôi, nhưng Người bảo tôi: ‘Ơn Ta đủ cho con, vì quyền năng của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2 Cr 12,7-9).

Vì đây là một phần của toàn bộ kế hoạch cứu độ, chúng ta phải học cách nhìn vào những yếu đuối của mình với lòng thương xót dịu dàng.[12]

Kẻ Ác khiến chúng ta thấy được và lên án sự yếu đuối của chúng ta, trong khi Thánh Thần đưa nó ra ánh sáng bằng tình yêu dịu dàng. Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ tố cáo (x. Kh 12,10). Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt là trong bí tích Hòa giải, nơi chúng ta cảm nghiệm được sự thật và lòng dịu dàng của Ngài là điều rất quan trọng. Nghịch lý thay, Kẻ Ác cũng có thể nói sự thật với chúng ta, nhưng hắn làm vậy chỉ để lên án chúng ta. Chúng ta biết rằng sự thật của Thiên Chúa không lên án, nhưng đón nhận, ôm lấy chúng ta, nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta. Sự thật ấy luôn được bày tỏ cho chúng ta như người cha nhân hậu trong dụ ngôn của Chúa Giêsu (x. Lc 15,11-32). Sự thật ấy đến gặp chúng ta, phục hồi phẩm giá của chúng ta, nâng chúng ta dậy và vui mừng vì chúng ta, vì như người cha đã nói: “Con trai ta đã chết và nay sống lại; nó đã mất và nay được tìm thấy” (câu 24).

Ý Chúa, lịch sử và kế hoạch của Ngài vẫn hoạt động, ngay cả qua nỗi sợ hãi của Thánh Giuse. Vì thế, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn.

  1. Một người cha vâng phục

Như đã thực hiện nơi Đức Maria, Thiên Chúa cũng mạc khải kế hoạch cứu độ của Ngài cho Thánh Giuse. Thiên Chúa đã làm như vậy bằng cách dùng những giấc mơ, mà trong Kinh thánh và trong tất cả các dân tộc cổ đại, được coi là một cách để cho biết ý muốn của Ngài.[13]

Thánh Giuse vô cùng bối rối trước việc mang thai lạ lùng của Đức Maria. Ngài không muốn “công khai tố giác bà”,[14] nên đã quyết định “lặng lẽ rời bỏ bà” (Mt 1,19).

Trong giấc mơ đầu tiên, một sứ thần giúp ngài giải quyết tình huống khó xử nghiêm trọng: “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay: “Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần Chúa truyền” (Mt 1,24). Thái độ vâng phục đã giúp Thánh Giuse vượt qua khó khăn và cứu được Đức Maria.

Trong giấc mơ thứ hai, sứ thần bảo Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại; vì Hêrôđê sắp lùng bắt Hài nhi để giết đi” (Mt 2,13). Thánh Giuse đã không ngần ngại vâng lời, bất kể khó khăn gian khổ: “Ngài trỗi dậy trong đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (Mt 2,14-15).

Ở Ai Cập, Thánh Giuse kiên nhẫn chờ sứ thần báo tin có thể trở về nhà an toàn. Trong giấc mơ thứ ba, sứ thần cho ngài biết những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết và truyền cho ngài trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trở về đất Israel (x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, Thánh Giuse lại mau mắn vâng lời. “Ông trỗi dậy, đưa Hài nhi và mẹ trở về đất Israel” (Mt 2,21).

Trên đường trở về, “khi Giuse nghe tin Archelaô lên làm vua xứ Giuđê thay cho cha mình là Hêrôđê, thì ông sợ không dám về đó. Được cảnh báo trong giấc mơ” – đây là lần thứ tư – “ông lui về miền Galilê. Ở đó, ngài lập cư tại một thành gọi là Nadarét” (Mt 2,22-23).

Còn thánh sử Luca cho chúng ta biết rằng Thánh Giuse đã trải qua cuộc hành trình dài và vất vả từ Nadarét đến Bêlem để ghi tên vào sổ bộ nơi nguyên quán của gia đình mình trong cuộc điều tra dân số của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Chúa Giêsu đã được sinh ra trong hoàn cảnh đó (x. Lc 2,7) và được ghi vào sổ bộ của Đế quốc Rôma, giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Luca đặc biệt quan tâm kể lại việc cha mẹ của Chúa Giêsu đã tuân giữ tất cả các quy định của Luật: nghi thức cắt bì cho Chúa Giêsu, nghi thức thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con, nghi thức dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).[15]

Trong mọi hoàn cảnh, Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình, cũng như khi Đức Maria được sứ thần truyền tin và như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.

Trong vai trò là chủ gia đình, thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), theo lệnh truyền của Chúa (x. Xh 20,12).

Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse để làm theo ý của Chúa Cha. Ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người (x. Ga 4,34). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình,[16] trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng phục qua những gì Người phải chịu” (5,8).

Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng “Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm cha” và như thế, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ cao cả và thực sự là một thừa tác viên của ơn cứu độ”.[17]

  1. Một người cha chấp nhận

Thánh Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Ngài tin vào lời sứ thần đã nói. “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định”.[18]

Trong cuộc sống, vẫn có những điều xảy ra mà chúng ta không hiểu được ý nghĩa. Phản ứng đầu tiên của chúng ta thường là thất vọng và nổi loạn. Thánh Giuse đã gạt bỏ ý riêng của mình để chấp nhận các sự kiện xảy đến và, dù các sự kiện ấy xem ra gây hoang mang, ngài vẫn đón nhận, nhận trách nhiệm và biến chúng thành một phần lịch sử của chính mình. Nếu chúng ta không hòa hợp với lịch sử của chính mình, chúng ta sẽ không thể đi tiếp, vì chúng ta sẽ luôn là con tin cho những kỳ vọng và những thất vọng theo sau.

Con đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải thích, mà là con đường chấp nhận. Chỉ khi nào biết chấp nhận và giao hoà như thế, chúng ta mới có thể bắt đầu nhìn thấy một lịch sử bao quát hơn, một ý nghĩa sâu sắc hơn. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa, sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10).

Chắc chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can đảm và vững vàng. Trong cuộc sống của chúng ta, việc chấp nhận và đón nhận có thể là một biểu hiện của ơn Sức Mạnh của Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để chấp nhận cuộc sống như nó vốn thế, với tất cả những mâu thuẫn, nản lòng và thất vọng của nó.

Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đó là một ơn của Chúa Cha, giúp mỗi người chúng ta có thể hòa hợp với lịch sử cụ thể của đời mình, cả khi chúng ta không hiểu được hoàn toàn.

Cũng như Chúa đã nói với Thánh Giuse: “Hỡi Con vua Đavít, đừng sợ!” (Mt 1,20), dường như Ngài cũng nói với chúng ta: “Đừng sợ!” Chúng ta cần gạt bỏ mọi tức giận và thất vọng để đón nhận mọi thứ như chúng vốn thế, cả khi chúng không diễn ra như chúng ta mong muốn. Không phải là đành chịu mà đầy hy vọng và can đảm. Như thế, chúng ta sẽ mở ra với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Cuộc sống của chúng ta sẽ được tái sinh một cách kỳ diệu nếu chúng ta can đảm sống theo Phúc Âm. Sẽ chẳng có vấn đề gì nếu mọi thứ dường như đã tồi tệ hoặc có điều gì không sửa chữa được nữa. Chúa có thể làm cho hoa mọc lên từ đá. Ngay cả khi lòng chúng ta kết án chúng ta, “Thiên Chúa lớn hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi sự” (1 Ga 3,20).

Ở đây, một lần nữa, chúng ta gặp lại chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo vốn không phủ nhận những gì hiện hữu. Thực tại, trong tính phức tạp bí ẩn và không thể giải thích của nó, có một ý nghĩa hiện sinh, với tất cả ánh sáng và bóng tối của nó. Thế nên Tông đồ Phaolô mới nói: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Thánh Augustinô nói thêm, “ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”.[19] Theo góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay buồn.

Chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng tin có nghĩa là tìm ra các giải pháp dễ dàng và an ủi. Đức tin mà Chúa Kitô đã dạy chúng ta là những gì chúng ta thấy nơi Thánh Giuse. Ngài không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy.

Thái độ của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27). Thiên Chúa là “Cha kẻ mồ côi và là Đấng che chở những người góa bụa” (Tv 68,6), Ngài truyền cho chúng ta phải yêu thương người xa lạ ở giữa chúng ta.[20] Tôi thích nghĩ rằng chính từ Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã có cảm hứng để kể câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).

  1. Một người cha có lòng can đảm đầy sáng tạo

Nếu giai đoạn đầu tiên của mọi chữa lành nội tâm thực sự là chấp nhận lịch sử cá nhân của chúng ta và chấp nhận cả những gì trong cuộc sống mà chúng ta đã không chọn lấy, thì nay chúng ta phải thêm một yếu tố quan trọng khác: lòng can đảm đầy sáng tạo. Lòng can đảm này thể hiện đặc biệt trong cách chúng ta đối phó với những khó khăn. Đối mặt với khó khăn, chúng ta có thể đầu hàng và bỏ cuộc hay nhập cuộc cách nào đó. Đôi khi, khó khăn làm bật ra những nguồn lực mà chúng ta thậm chí không nghĩ rằng mình đang có.

Khi đọc các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta thường thắc mắc tại sao Thiên Chúa không hành động một cách trực tiếp và rõ ràng hơn. Nhưng Thiên Chúa lại hành động qua các biến cố và qua con người. Thánh Giuse là người được Chúa chọn để hướng dẫn giai đoạn khởi đầu của lịch sử cứu chuộc. Ngài là “dấu lạ” thực sự mà Chúa dùng để cứu hài nhi Giêsu và mẹ của Người. Thiên Chúa đã hành động qua thái độ tin tưởng vào lòng can đảm đầy sáng tạo của Thánh Giuse. Khi đến Bêlem và không tìm được chỗ cho Đức Maria sinh con, Thánh Giuse đã chuẩn bị một cái chuồng bò và làm hết sức có thể để biến nó thành ngôi nhà chào đón Con Thiên Chúa đến thế gian (x. Lc 2, 6-7). Trước nguy cơ sắp xảy ra là Hêrôđê muốn giết Hài nhi Giêsu, một lần nữa trong giấc mơ, thánh Giuse đã được báo mộng để bảo vệ Hài nhi, và nửa đêm thức dậy chuẩn bị trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-14 ).

Khi đọc lướt qua những câu chuyện này có thể chúng ta thường có cảm tưởng rằng thế giới được phó mặc cho những kẻ mạnh và kẻ có quyền, nhưng “tin mừng” của Phúc âm là ở chỗ cho thấy rằng, bất chấp thói kiêu ngạo và bạo lực của các quyền lực thế gian, Chúa luôn tìm ra cách thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Cuộc sống của chúng ta vậy, đôi khi xem ra bị phó mặc trong tay kẻ có quyền, nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy điều gì mới là đáng giá. Thiên Chúa luôn tìm ra cách để cứu chúng ta, miễn là chúng ta thể hiện lòng can đảm đầy sáng tạo như người thợ mộc thành Nadarét, người có thể biến vấn đề thành khả năng bằng cách luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Nếu có lúc dường như Chúa không giúp chúng ta, thì chắc chắn không có nghĩa là chúng ta bị bỏ rơi, mà là chúng ta đang được Chúa tin tưởng để tự mình lên kế hoạch, sáng tạo và tìm ra giải pháp.

Lòng can đảm đầy sáng tạo đó đã được những người bạn của người bại liệt thể hiện, họ đã dỡ mái nhà hạ anh xuống để đưa anh đến với Chúa Giêsu (x. Lc 5, 17-26). Khó khăn đã không ngăn cản được sự mạnh dạn và kiên trì của những người bạn đó. Họ tin chắc rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành cho anh, và bởi “không tìm được cách nào để đưa anh ta vào vì đám đông dân chúng, họ đã trèo lên mái nhà và thả anh xuống cùng với chiếc giường vào giữa đám đông đang ở trước mặt Chúa Giêsu. Nhìn thấy đức tin của họ, Chúa Giêsu nói: “Này bạn, tội lỗi của bạn đã được tha’” (câu 19-20). Chúa Giêsu nhìn nhận đức tin sáng tạo mà nhờ đó họ đã tìm cách đưa người bạn đau yếu đến với Ngài.

Phúc Âm không cho chúng ta biết Đức Maria, Thánh Giuse và Hài nhi ở lại Ai Cập bao lâu. Tuy nhiên, chắc chắn các ngài cần phải có cái ăn, có một mái nhà và có việc làm. Chẳng cần phải tưởng tượng nhiều cũng thấy được những chi tiết đó. Thánh Gia đã phải đối mặt với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác, giống như rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta, là những người ngày nay cũng phải liều mạng để thoát khỏi bất hạnh và đói khát. Về khía cạnh này, tôi coi Thánh Giuse là Đấng bảo trợ đặc biệt của tất cả những ai buộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh, hận thù, đàn áp và nghèo đói.

Ở cuối mỗi câu chuyện mà thánh Giuse là nhân vật chính, Phúc Âm kể lại rằng ngài trỗi dậy, ẵm lấy Hài nhi và cùng với Mẹ Người làm như Thiên Chúa đã truyền (x. Mt 1,24; 2,14.21). Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ Người là kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta.[21]

Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa,  Chúa Con không tách rời khỏi Đức Maria Mẹ của Người, Đấng đã “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất với Con cho đến tận bên chân Thập giá”.[22]

Chúng ta cần luôn xét xem, liệu chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay không, vì các Ngài cũng được trao phó cho trách nhiệm của chúng ta một cách mầu nhiệm, để chăm sóc và giữ gìn. Con của Đấng Toàn Năng đã đến trần gian của chúng ta trong tình trạng thật yếu đuối mỏng giòn. Ngài cần được Thánh Giuse che chở, bảo vệ, chăm sóc và nuôi nấng. Thiên Chúa đã tin cậy Thánh Giuse, cả Đức Maria cũng thế, Mẹ là người đã thấy nơi Thánh Giuse một người không chỉ cứu mạng mình mà còn luôn chăm lo cho mình và con của mình nữa. Theo nghĩa này, Thánh Giuse không khác gì Đấng Bảo vệ Hội Thánh, vì Hội Thánh là sự tiếp nối Nhiệm Thể Chúa Kitô trong lịch sử, cũng như tư cách làm mẹ của Đức Maria được phản ánh trong tư cách Mẹ của Hội Thánh.[23] Khi tiếp tục bảo vệ Hội Thánh, Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài nhi và mẹ Người, và cả chúng ta nữa, khi yêu mến Giáo hội, là chúng ta tiếp tục yêu Hài nhi Giêsu và mẹ Người.

Hài nhi ấy là Đấng sẽ nói: “Điều ngươi đã làm cho một trong những người nhỏ bé nhất trong gia đình của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Vì vậy, tất cả những ai nghèo khổ, thiếu thốn, đau khổ hay đang hấp hối, tất cả những ai là người xa lạ, tù nhân hay bệnh nhân đều là “hài nhi” mà Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ. Bởi thế, Thánh Giuse được kêu cầu như Đấng che chở cho người bất hạnh, người túng thiếu, lưu đày, đau khổ, nghèo đói và hấp hối. Và Hội Thánh không thể không bày tỏ tình yêu thương đặc biệt đối với những người anh chị em hèn mọn nhất của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến họ và đồng hoá với họ. Từ nơi Thánh Giuse, chúng ta cũng phải học cách chăm sóc và trách nhiệm ấy. Chúng ta phải học cách yêu thương Hài nhi và mẹ Người, yêu mến các bí tích và đức bác ái, yêu mến Giáo hội và người nghèo. Mỗi thực tại ấy luôn là Hài nhi và mẹ Người.

  1. Một người cha làm việc

Một khía cạnh của Thánh Giuse đã được nhấn mạnh từ khi Đức giáo hoàng Lêô XIII ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, là mối quan hệ của ngài với công việc. Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuôi sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình.

Trong thời đại của chúng ta, khi việc làm một lần nữa trở thành một vấn đề xã hội cấp bách, và tình trạng thất nghiệp đôi khi lên đến mức kỷ lục ngay cả ở các quốc gia đã được hưởng một mức độ thịnh vượng nhất định trong nhiều thập kỷ, thì cần ý thức lại để biết quý trọng việc làm đem lại phẩm giá mà Thánh Giuse là vị bổn mạng mẫu mực.

Việc làm là một phương tiện để tham dự vào công trình cứu chuộc, một cơ hội để làm cho Nước Trời mau đến, để phát triển tài năng và khả năng của chúng ta, và để phục vụ xã hội và tình hiệp thông huynh đệ. Nó trở thành cơ hội để hoàn thiện không chỉ bản thân mình, mà cả tế bào căn bản của xã hội là gia đình. Một gia đình không có việc làm đặc biệt dễ gặp khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí tan vỡ. Làm sao chúng ta có thể nói về phẩm giá con người mà lại không hành động để bảo đảm cho ai cũng có thể kiếm được một cuộc sống tử tế?

Những người đang làm việc, dù làm việc gì, đều đang hợp tác với chính Thiên Chúa, và theo một cách nào đó trở thành những người sáng tạo thế giới xung quanh chúng ta. Cuộc khủng hoảng của thời đại chúng ta – về kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần – có thể là lời kêu gọi tất cả chúng ta khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc làm để mang lại một sự “bình thường” mới mà không ai bị loại ra. Việc làm của Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc. Tình trạng mất việc làm vốn ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta và đã gia tăng do hậu quả của đại dịch Covid-19, cần được coi như một lời kêu gọi xét lại các ưu tiên của chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse Thợ giúp chúng ta tìm ra những cách thể hiện niềm tin vững vàng rằng không một người trẻ nào, không một người nào, không một gia đình nào không có việc làm!

  1. Một người cha trong bóng tối

Nhà văn Ba Lan Jan Dobraczyński, trong tác phẩm “Hình bóng của Chúa Cha”,[24] đã kể câu chuyện về cuộc đời của Thánh Giuse theo hình thức tiểu thuyết. Ông dùng hình ảnh gợi liên tưởng của một cái bóng để nói về Thánh Giuse. Trong mối tương quan với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Cha trên trời: Ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ để Chúa Giêsu đi một mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong sa mạc … ngươi đã thấy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi bồng bế ngươi như người ta bồng bế con mình, trên mọi nẻo đường các ngươi đi” (Đnl 1,31). Tương tự như vậy, Thánh Giuse đã đóng vai trò một người cha trong suốt cuộc đời của ngài.[25]

Chúng ta không sinh ra là cha, nhưng trở thành người cha. Một người không trở thành cha đơn giản chỉ vì sinh ra một đứa con, nhưng vì đảm nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con ấy. Bất cứ khi nào một người nhận trách nhiệm về cuộc sống của một người khác, thì một cách nào đó, họ trở thành cha của người ấy.

Trẻ em ngày nay dường như mồ côi cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Lời thánh Phaolô nói với các tín hữu Côrintô vẫn còn hợp thời: “Dù anh em có vô số người hướng dẫn trong Đức Kitô, nhưng anh em không có nhiều người cha đâu!” (1 Cr 4,15). Mỗi linh mục hay giám mục đều có thể nói thêm, cùng với vị Tông đồ rằng: “Tôi đã trở thành cha của anh em trong Chúa Giêsu Kitô nhờ Phúc âm” (ibid.). Thánh Phaolô cũng nói tương tự như vậy với các tín hữu Galata: “Hỡi các con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em!” (4,19).

Làm cha có nghĩa là đưa con cái đến với cuộc sống và với thực tế. Không giữ chúng lại, không bảo bọc chúng quá đáng hay sở hữu chúng, mà là giúp cho chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì thế mà ngoài danh hiệu cha, truyền thống còn gọi Thánh Giuse là Đấng “cực thanh cực tịnh”. Tước hiệu đó không đơn thuần là một dấu chỉ của lòng yêu mến, mà còn là tóm lược một thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Thanh khiết là sự tự do thoát khỏi thái độ chiếm hữu trong mọi lĩnh vực đời sống của mình. Chỉ khi nào tình yêu thanh khiết, đó mới là tình yêu thực sự. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng sẽ trở nên nguy hiểm: nó giam hãm, bóp nghẹt và gây đau khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu thanh khiết; Ngài để chúng ta được tự do, thậm chí phạm tội và chống lại Ngài. Luận lý của tình yêu luôn là luận lý của tự do, và Thánh Giuse biết cách yêu thương với thái độ tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về cuộc đời của Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Thánh Giuse tìm được hạnh phúc không phải ở sự hy sinh bản thân mà là ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy nỗi thất vọng mà chỉ thấy niềm tin tưởng. Sự thinh lặng kiên nhẫn của ngài dẫn tới những thể hiện cụ thể của lòng tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không chấp nhận những bạo chúa, những kẻ hà hiếp người khác như một phương tiện để bù đắp cho nhu cầu của chính họ. Nó từ chối những người nhầm lẫn quyền hành với độc đoán, phục vụ với tùng phục, thảo luận với áp bức, bác ái với trợ giúp, sức mạnh với hủy diệt. Mọi ơn gọi đích thực đều được sinh ra từ việc tự hiến, là hoa trái của sự hy sinh chín chắn. Chức linh mục và đời sống thánh hiến cũng đòi hỏi phải có sự chín chắn như vậy. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, kết hôn, độc thân hay sống trinh khiết, việc cho đi chính mình sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh; nếu thế, thay vì trở thành một dấu chỉ của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu, việc cho đi chính mình sẽ có nguy cơ trở thành biểu hiện của bất hạnh, buồn bã và thất vọng.

Khi người cha từ bỏ cám dỗ sống cuộc sống của con cái mình, những khung cảnh mới mẻ và bất ngờ sẽ mở ra. Mỗi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể được tỏ lộ nhờ sự giúp đỡ của người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con ấy. Một người cha sẽ nhận ra mình là một người cha và một nhà giáo dục nhất vào lúc mình trở thành “vô dụng”, khi thấy con mình trở nên độc lập và có thể bước đi trên con đường của cuộc đời mà không cần ai đi kèm. Khi người cha ấy trở nên giống như Thánh Giuse, luôn biết rằng con mình không phải là của riêng mình mà chỉ được giao phó cho mình chăm sóc mà thôi. Cuối cùng, đây là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu khi Người nói: “Các con đừng gọi ai ở dưới đất là cha, vì các con chỉ có một người Cha ở trên trời” (Mt 23, 9).

Mỗi khi thi hành thiên chức làm cha, chúng ta phải luôn nhớ rằng thiên chức ấy không liên quan gì đến sự chiếm hữu, mà là một “dấu chỉ” hướng đến một tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như Thánh Giuse: là cái bóng của Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như người lành, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Và là cái bóng bước theo Con của Ngài.

*  *  *

Thiên Chúa nói với Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn đi” (Mt 2,13).

Mục đích của Tông thư này là làm cho chúng ta thêm lòng yêu mến Thánh cả, khuyến khích cầu xin ngài chuyển cầu cho chúng ta và noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của ngài.

Thật vậy, sứ mệnh cụ thể của các thánh không chỉ là chuyển ban phép lạ và ơn thánh(*), nhưng là chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa, như Ápraham[26] và Môsê[27], và như Chúa Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất” (1 Tm 2,5), là “Đấng bảo trợ” cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (1 Ga 2,1) và là Đấng “hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,25; x. Rm 8,34).

Các thánh giúp tất cả các tín hữu “phấn đấu nên thánh và theo đuổi sự trọn lành của bậc sống mình”.[28] Cuộc sống của các ngài là bằng chứng cụ thể cho thấy có thể sống Phúc Âm.

Chúa Giêsu đã nói: “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Cuộc đời của các thánh cũng là những tấm gương để noi theo. Thánh Phaolô nói rõ điều này: “Anh em hãy bắt chước tôi!” (1 Cr 4,16).[29] Bằng sự thinh lặng hùng hồn, Thánh Giuse cũng nói như vậy.

Trước tấm gương của biết bao vị thánh nam và nữ, Thánh Augustinô đã tự hỏi: “Điều các ngài đã làm được, mi không làm được sao?” Và thế là ngài đã dứt khoát hoán cải và thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi Vẻ Đẹp vẫn cổ xưa mà luôn tươi mới!”[30]

Vậy chúng ta hãy cầu xin với Thánh Giuse ban cho chúng ta ơn của các ơn: đó là ơn hoán cải.

Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện với ngài:

Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.

Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm,(*)
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Ban hành ở Rôma, tại Đền Thờ Latêranô,

ngày 8 tháng 12, Đại lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Vô nhiễm Nguyên tội, năm 2020,

năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

Bản dịch chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ (10.12.2020)

[10] Mỗi ngày, trong hơn bốn mươi năm, sau Kinh Sáng, tôi đều đọc một kinh cầu nguyện với Thánh Giuse trích trong quyển Sách kinh của Pháp vào thế kỷ mười chín của Dòng Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Kinh này nói lên lòng yêu mến và tin tưởng, và thậm chí còn đặt ra một thách đố cho Thánh Giuse nữa: “Lạy Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, là Đấng có quyền năng biến điều không thể thành có thể, xin đến cứu giúp con trong những lúc đau khổ và khó khăn này. Xin bảo vệ con trước những tình thế ngặt nghèo và rắc rối mà con phó thác cho cha đây, hầu có một kết thúc tốt đẹp. Lạy cha yêu dấu của con, con đặt trọn niềm tin tưởng nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha luống công vô ích, và vì cha có thể làm mọi sự với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cha cho con thấy rằng lòng nhân hậu của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. Amen.

000***000

Xin cầu cho con nữa,

Hết lòng Biết Ơn,

  1. phêrô chu quang minh, s.j.

HÃY XUẤT KHỎI NGƯỜI NÀY

HÃY XUẤT KHỎI NGƯỜI NÀY

Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.

Mác-cô không cho ta biết Đức Giêsu đã giảng gì.  Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.  Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền.  Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền.  Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.  Một cách mới mẻ và đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến, triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.

Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ.  Đức Giêsu ra lệnh: “Hãy câm đi và xuất khỏi người này.”  Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở.  Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.  Đức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ.  Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất.  Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế.  Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.

Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ.  Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta.  Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.  Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào.  Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.  Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều.  Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.

Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.  Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa.  Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.  Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo.  “Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả.”  Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!  Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám.  Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác: tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ…

Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh…  Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.  Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.  Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.  Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình.  Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.  Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.

“Hãy xuất ra khỏi người này”: Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.

Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?

“Hãy xuất ra khỏi thế giới này”: Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.

**** 

 Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu (Trích trong ‘Manna’)

Những Vị Thánh Vô Danh

Những Vị Thánh Vô Danh

 Có một vị thánh nọ thánh thiện đến độ, không hề dám có ý nghĩ rằng mình là một con người thánh thiện.  Ngày kia, một thiên thần đến nói với ngài: “Chúa sai tôi đến gặp ngài. Ngài hãy xin bất cứ điều gì ngài muốn. Chúa sẽ ban cho ngài. Vậy ngài có muốn được ơn chữa bệnh không?”

Vị thánh trả lời: “Không.  Thà để cho chính Chúa chữa trị thì tốt hơn”.

Vị sứ thần đề nghị điều khác: “Ngài có muốn đem những người tội lỗi trở về đường công chính không?”

Vị thánh cũng lắc đầu từ chối: “Không.  Cải hóa tâm hồn không phải là việc của tôi. Ðó là công việc của các thiên thần”.

Vị sứ giả của Chúa mới gợi ý thêm: “Ngài có muốn trở thành một mẫu gương để thiên hạ luôn đến để bắt chước không?”

Vị thánh cũng khiêm tốn trả lời: “Không.  Bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý”.

Thiên thần mới hỏi: “Vậy thì ngài mong muốn điều gì?”.

Vị thánh trả lời: “Ơn Chúa, có ơn chúa, đó là điều tôi hằng khao khát”.

Vị thiên thần được Chúa sai đến vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nên đề nghị lần cuối cùng: “Ngài phải xin một phép lạ. Nếu không tôi đành phải để phép lạ xảy ra vậy.”

Vị thánh của chúng ta đành phải ưng thuận: “Vậy thì tôi xin điều này: ước gì mọi việc thiện được thực thi qua tôi mà tôi không hề hay biết”.

Thế là để là cho lời ước của vị thánh thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng phía sau của ngài được mọi thứ quyền năng.  Nơi nào có cái bóng ngài đi qua, thì nơi đó, người bệnh được lành, đất đai trở thành phì nhiêu, nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui trở lại trên những khuôn mặt sầu khổ.  Nhưng vị thánh không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chú ý đến cái bóng đến độ quên hẳn con người.

***

Hôm nay, ngày 28 tháng 12, Giáo Hội kính nhớ các thánh Anh-Hài, những vị thánh đã chết vì Ðức Kitô mà cũng không hề hay biết rằng mình phải chết vì Ngài.  Các trẻ em ấy là kiểu mẫu của không biết bao nhiêu vị thánh vô danh.

  • Có những Mẹ Têrêxa Calcutta, những linh mục Pierre mà thế giới không ngừng nhắc đến, nhưng…
  • Cũng có không biết bao nhiêu những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ ngày ngày âm thầm hy sinh trong không biết bao nhiêu công việc vô danh, phiền toái mỗi ngày. 
  • Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện của mình.
  • Có biết bao nhiêu người âm thầm phục vụ tha nhân cách này hay cách khác mà không hề được đền đáp hay nhắc nhớ.

Trong ánh sáng của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày.

Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Bê Lem, 30 năm âm thầm của Ngài tại Nazareth: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày của chúng ta.

Hài Nhi Giêsu mời gọi chúng ta nhận ra giá trị của cuộc sống ấy.  Thiên Chúa thi ân tùy theo cách thế Ngài muốn.  Cuộc sống âm thầm và hy sinh từng ngày của chúng ta là một trong muôn nghìn cách thế thi ân của Ngài mà chúng ta không thể đo lường được.

Ngoài sự tưởng tượng và dự đoán của chúng ta, những hy sinh từng ngày của chúng ta được Chúa dùng như cái bóng vô hình nhờ đó Ngài thông ban muôn ơn lành cho người khác.

 Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

LỜI CHÚA GỌI HÔM NAY- Lm. Mark Link, SJ.

LỜI CHÚA GỌI HÔM NAY

Lm. Mark Link, SJ.

 Khi 15 tuổi, Margaret Mehren là một thành viên của phong trào thanh thiếu niên Đức Quốc Xã ở Đức.

Sau cuộc chiến, cô tìm hiểu về sự diệt chủng trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Và cô thật sửng sốt.  Bỗng dưng cô nhận ra rằng Hitler không phải là một người lãnh đạo đáng vinh dự như cô nghĩ.  Cô thề sẽ không bao giờ tin vào người lớn.

Chính trong tâm trạng này mà Margaret cũng bắt đầu hồ nghi về thái độ vô thần của cô.  Một ngày kia cô cầu xin với Thiên Chúa, “Lạy Chúa, nếu Ngài thực sự hiện diện, hãy cho con những dấu hiệu.”

Khoảng thời gian này, tình cờ cô đọc Kinh Thánh.  Cô cố gắng đọc một vài lần, nhưng chẳng tìm thấy ý nghĩa gì cả.  Và rồi một đêm kia, cô lại cầm quyển sách ấy lên.  Lần này, nó thật có ý nghĩa!  Sau này cô viết:

Điều gì đó đã xảy đến với tôi khi đọc những lời của Chúa Giêsu.  Tôi biết Người đang sống!… Tôi biết Người ở đó, tuy tôi không nghe và thấy gì cả.

Đức Giêsu thì có thật, thật hơn bất cứ gì chung quanh tôi – bàn ghế, sách vở, chậu kiểng.  Tôi không còn cô độc.  Cuộc đời tôi không còn là một ngõ cụt.

Một vài năm sau, khi 21 tuổi, Margaret trở nên một nữ tu dòng Phanxicô.  Ngày nay, 25 năm sau, chị là một nữ tu truyền giáo, dạy học sinh ở Nam Phi Châu.

Câu chuyện của Chị Margaret Mehren nói lên sự kiện là Thiên Chúa vẫn kêu gọi con người ngày nay, cũng như Thiên Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và ông Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước, trong bài phúc âm hôm nay.

Khi chúng ta nói Thiên Chúa kêu gọi người ta trở thành ngôn sứ của Chúa, hoặc Chúa Giêsu kêu gọi người ta trở thành môn đệ của Người, chúng ta thường đề cập đến điều đó là một ơn gọi.  Chữ ơn gọi xuất xứ từ chữ Latinh có nghĩa “kêu gọi.”

Chúng ta cũng nghĩ và nói về lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với người trẻ.  Và điều đó chắc chắn đúng.

Một trong những người lãnh đạo tinh thần vĩ đại trong thời đại chúng ta là linh mục dòng Tên người Ấn là Anthony de Mello.  Anthony nói rằng cha cảm thấy lời mời gọi của Chúa khi còn là thanh niên.

Khi Anthony xin cha của mình cho phép đi tu làm linh mục, cha của Anthony trả lời không.  Ông chỉ còn lại hai người con gái nên nhiệm vụ của Anthony là nối dõi tông đường.

Sau đó, sau một thời gian 14 năm không sinh nở, mẹ của Anthony lại mang thai.  Khi bà được đưa vào bệnh viện để sinh, Anthony đã phải chạy bộ bốn dặm đến nhà thương.

Khi đến nơi, vừa thở hổn hển Anthony vừa hỏi, “Đó là con trai hay con gái?” Khi cha của anh trả lời đó là con trai, Anthony nói, “Hay quá! Thế là con có thể làm linh mục.”

Khi 16 tuổi, Anthony gia nhập một tiểu chủng viện ở Bombay. Sau đó người trở nên nổi tiếng toàn thế giới.

Nhưng người lớn tuổi cũng được mời gọi để theo Chúa.  Thật vậy, điều này dường như trở nên một khuôn khổ mới đang ló dạng.

Để minh hoạ, hãy nghĩ đến năm thanh niên từ một danh sách rất đông những người vào dòng Tên năm 1987.

Trước hết, có Vince, 33 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Pittsburgh và dậy cũng như huấn luyện thể thao ở cấp trung học cũng như đại học.

Kế đến là Mike, 26 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Harvard và làm việc với người vô gia cư ở Baltimore, và là một giáo chức với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Nam Thái Bình Dương.

Thứ ba là Rene, 27 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học California và là một kỹ sư của hãng Texas Instruments.

Thứ tư là David, 28 tuổi vừa mới trở lại đạo Công Giáo.  Anh tốt nghiệp Đại Học Nam Alabama, trong hải quân bốn năm, và sau này là một trị liệu gia thể lý.

Sau cùng là George, 30 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Syracuse, đã năm năm là kiểm tra viên hàng không, và làm việc với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Alaska tại một đài phát thanh.

Chỉ có năm người được chọn trong một danh sách những người vào dòng năm 1987.

Điểm chính là: Thiên Chúa vẫn kêu gọi người ta hôm nay, cũng như Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước.

Và Thiên Chúa đang kêu gọi người nam cũng như nữ.  Và Thiên Chúa đang kêu gọi người trẻ cũng như già.

Điều này đưa chúng ta đến một áp dụng thực tế vào đời sống chúng ta.

Trước hết, nếu chúng ta là cha mẹ, chúng ta có nói con cái hãy cầu xin sự hướng dẫn khi chúng phải chọn lựa công việc trong đời không?

Thứ hai, có bao giờ chúng ta xin Chúa gọi một đứa con của chúng ta để nó tận hiến phục vụ Hội Thánh không?

Và nếu chúng ta là người độc thân – trong tuổi thiếu niên, thanh niên, hay ba mươi – chúng ta có cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta khi phải chọn công việc trong tương lai không?

Hoặc có bao giờ chúng ta xin Chúa giúp chúng ta tận hiến phục vụ Hội Thánh không?

Hoặc có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc tình nguyện cả đời để phục vụ Hội Thánh, như Mike, 26 tuổi, làm việc tình nguyện ở Nam Thái Bình Dương, hoặc như George, 30 tuổi, làm việc tình nguyện ở Alaska không?

Làm việc tình nguyện với những người tình nguyện khác – nam cũng như nữ – là một cách để biết có phải một cuộc đời phục vụ Hội Thánh là điều làm chúng ta hạnh phúc, hoặc là một loại thành quả mà chúng ta đang tìm kiếm không.

Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ xuất phát từ các bài đọc hôm nay.

Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ mà cha mẹ cũng như người độc thân phải suy nghĩ theo ánh sáng của các bài đọc hôm nay.

Thật vậy, vì Thiên Chúa đang mời gọi người ta trong thời đại chúng ta, cũng như Thiên Chúa đã mời gọi con người trong thời Kinh Thánh. Và Thiên Chúa đang mời gọi người nam cũng như nữ, trẻ cũng như già.

Chúng ta hãy kết thúc với một suy nghĩ của Hồng Y Newman:

Thiên Chúa đã giao cho tôi một số công việc

mà Người không giao phó cho người khác.

Tôi có một sứ vụ…

Do đó, tôi sẽ tín thác vào Người…

Người không để nó trở thành vô hiệu…

Người biết điều Người thi hành.

Ôi lạy Chúa, con không dè dặt phó thác trong tay Ngài.

Lm. Mark Link, SJ.

From: Langthangchieutim

Jesus calls Peter & Andrew.jpg

NỤ HÔN CỦA CHÚA GIÊSU: BÀI HỌC TỪ MỘT CẬU BÉ GIÚP LỄ

NỤ HÔN CỦA CHÚA GIÊSU: BÀI HỌC TỪ MỘT CẬU BÉ GIÚP LỄ

TGPSG / Aleteia — Khi cậu bé lần đầu tiên giúp lễ làm một việc khác thường (đón nhận nụ hôn của Chúa Giêsu), cậu đã giúp cha xứ có thêm hiểu biết mới về tình yêu của Chúa Kitô.

Khi Linh mục José Rodrigo López Cepeda thụ phong linh mục được 6 tháng, Đức Giám mục đã chỉ định ngài đến phục vụ tại giáo xứ Đền Thánh Orosia, Tây Ban Nha, thay cho một linh mục đã làm cha xứ ở đó gần 30 năm.

Ban đầu, điều đó không hề dễ dàng đối với vị linh mục trẻ, vì dân chúng đã quen với cách làm việc lâu năm của cha xứ cũ.  Linh mục José nói rằng “mặc dù nhiệm vụ khó khăn, nhưng nó đã đạt kết quả tốt, và nó sẽ không thành công như bây giờ nếu không có sự giúp đỡ của một cậu bé tên là Gabriel.”  Linh mục José đã chia sẻ câu chuyện trên Facebook vào đầu năm nay và nó rất đáng đọc.

Cậu bé Gabriel

 Tuần thứ hai sau khi cha José về giáo xứ, một cặp vợ chồng trẻ đã đến nói chuyện với ngài cùng với cậu con trai Gabriel tám tuổi của họ – cậu bé đã gặp một số thử thách mà cha José miêu tả là “đặc biệt về mọi mặt.”

Cha mẹ của Gabriel đã xin cha xứ mới cho con trai mình được giúp lễ.  Lúc đầu, vị linh mục hơi do dự, không phải vì cậu bé có điều chi kém cỏi, mà chỉ vì ngài đang gặp nhiều khó khăn khi điều khiển giáo xứ.  Tuy nhiên, cậu bé có một “vũ khí bí mật” để chiếm được trái tim của vị linh mục.  Khi cha José hỏi cậu bé có muốn trở thành người giúp lễ không, thay vì trả lời bằng lời nói, cậu bé đã ôm chặt lấy thắt lưng vị linh mục (cao vừa mức cậu bé có thể với tới).  Làm sao vị linh mục này có thể từ chối cho được?

Thánh lễ đầu tiên của Gabriel trong tư cách là người giúp lễ

Cha José bảo cậu bé đến dự Thánh lễ sớm 15 phút vào Chủ nhật tuần sau để có thể kịp giờ giúp lễ lần đầu tiên.

Gabriel đến đúng giờ cùng với toàn bộ gia đình – những người đang mong chờ được nhìn thấy cậu giúp lễ.  Cậu mặc chiếc áo dài màu đỏ và áo choàng trắng có viền ren do bà ngoại làm.  Gia đình của cậu bé đã đã làm cho cộng đoàn dự lễ tăng số người lên cách đáng kể!  Cha José đã mô tả những gì xảy ra sau đó.

“Tôi đã phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho Thánh lễ.  Tôi không có ‘ông từ giúp nhà thờ’ hoặc người kéo chuông, vì vậy tôi phải chạy tới chạy lui và phải đến khi Thánh lễ sắp bắt đầu, tôi mới phát hiện ra rằng Gabriel chưa hề biết giúp lễ.  Vì thời gian còn quá ít, tôi nảy ra một ý và nói với cậu bé: “Gabriel, con cứ làm những gì cha làm nhé!  Được không?”

Gabriel là một cậu bé rất ngoan ngoãn và thật thà.  Khi Thánh lễ bắt đầu, vị linh mục hôn lên bàn thờ, cậu bé cũng làm như vậy.  Khi đến bài giảng, cha José nhận thấy rằng mọi người đều đang mỉm cười và chú ý – nhưng không phải chú ý nhìn ngài, mà nhìn chú giúp lễ bé nhỏ kháu khỉnh đang ngoan ngoãn làm hết sức mình để bắt chước mọi cử chỉ của vị linh mục.

Nụ hôn

Sau thánh lễ, cha José kể lại, ngài đã nói với Gabriel những gì cậu nên và không nên làm trong Thánh lễ.  Cha José nói thêm rất rõ rằng, hôn bàn thờ là một cử chỉ dành riêng cho linh mục; Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, và linh mục, trong khi cử hành Tiệc Thánh, được kết hợp với Ngài một cách đặc biệt.

Cha José viết: “Cậu bé nhìn tôi với đôi mắt to đầy thắc mắc và không hiểu hết những lời tôi đang giải thích cho cậu ấy.”  Mặc dù Gabriel ngoan ngoãn nhưng cậu ấy cũng thẳng thắn và không ngần ngại nói: “Con cũng muốn hôn bàn thờ.”  Những lời giải thích lặp đi lặp lại cũng không giúp thay đổi mong muốn được hôn bàn thờ của cậu bé.  Cuối cùng, cha José nói rằng cha sẽ hôn bàn thờ “cho cả hai người.”  Cậu bé dường như chấp nhận giải pháp này, ít nhất là vào giây phút ấy.

“Bàn thờ đã hôn con”

 Chúa nhật tiếp theo, khi Thánh lễ bắt đầu, vị linh mục hôn lên bàn thờ và quan sát xem cậu bé sẽ làm gì.  Gabriel không hôn bàn thờ với cha José.  Thay vào đó, cậu áp má vào bàn thờ và giữ như thế “với nụ cười thật tươi trên khuôn mặt bé bỏng” cho đến khi cha José bảo cậu dừng lại.

Sau thánh lễ, vị linh mục nhắc lại với cậu bé rằng cậu không được hôn bàn thờ và vị linh mục đang làm điều đó “cho cả hai.”  Câu trả lời của cậu bé khiến vị linh mục ngạc nhiên: “Con không hôn bàn thờ; mà bàn thờ đã hôn con.”  Rất ngạc nhiên, cha José nói: “Gabriel, con đừng đùa giỡn với cha!” Cậu bé không đổi ý: “Thật mà, thưa cha, Chúa đã cho con ngập tràn những nụ hôn.”

Thật đơn giản mà đẹp thay!  Chuyện này không thể không làm cho ta nhớ đến những lời Chúa Giêsu đã nói về trẻ em, được Thánh sử Mátthêu ghi lại:

“Khi ấy, Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu kín những điều này không cho người khôn ngoan, thông minh biết nhưng lại tiết lộ cho trẻ thơ…” (Mt 11, 25), “Nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời (Mt 18, 3).  Cha José nói rằng những lời của Gabriel khiến ngài tràn ngập “sự ghen tị thánh thiện.”  Ngài cũng muốn có được những nụ hôn ấy!  Vì vậy, sau khi mọi người đã về hết, cha José đóng cửa nhà thờ, đi đến bàn thờ và bắt chước cậu bé giúp lễ, áp má vào bàn thờ và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hôn con như Ngài đã hôn Gabriel.”

Hãy để mình được Chúa Giêsu yêu thương trước

 Trong bài viết của mình, cha José nói rằng cậu bé Gabriel đã dạy ngài về tầm quan trọng của việc để bản thân mình được Chúa Giêsu yêu thương trước, và giữ mình kết hiệp thân mật với Chúa trong những lúc khó khăn.  Cha José nói: Cậu bé đã nhắc tôi nhớ rằng, việc mục vụ không phải là việc của riêng tôi, và việc chiếm được trái tim tha nhân chỉ có được khi tôi sống thân mật ngọt ngào với Đức Kitô – vị Linh mục duy nhất.

Từ đó, cha José giải thích, mỗi khi hôn bàn thờ, ngài thường đặt má lên đó để “đón nhận nụ hôn của Chúa”, bởi vì “nhờ Gabriel – cậu bé giúp lễ cũng là thầy của tôi, tôi học được rằng trước khi hôn bàn thờ Chúa, tôi cần được Ngài hôn.”

Hiện tại, Gabriel đã 25 tuổi và vẫn sống ở thị trấn đó.  Cha López Cepeda hiện đang thi hành chức vụ linh mục ở Mexico (quê hương của Gabriel) và đã không trở lại Tây Ban Nha kể từ năm 2010.  Trước khi ra đi, ngài đã chào cậu giúp lễ này, khi ấy đã thành chàng thanh niên.  Bất chấp khoảng cách xa xôi, họ vẫn kể lại cho nhau nghe ký ức đẹp đẽ này, trong đó Đức Kitô đã và sẽ luôn là nhân vật chính của câu chuyện.

Cecilia Zinicola & Matthew Green (Aleteia)
Nguyệt Nguyễn chuyển ngữ (TGPSG

From: Langthangchieutim

Nu hon cua Chua Giêsu.jpg

TỪ VÔ THẦN TRỞ LẠI ĐẠO CÔNG GIÁO: JOHN VON NEUMANN, CHA ĐẺ CỦA NGÀNH KHOA HỌC MÁY TÍNH

Image may contain: 1 person, text that says 'John Von Neumann (cha đẻ ngành khoa học máy tính hiện đại) "Có lẽ phải có Chúa hiện hữu. Vì nhiều vấn đề (trong khoa học) sẽ dễ dàng lý giải hơn nếu có Chúa hơn là không có Chúa."'

LỜI MỜI GỌI TRƯỞNG THÀNH – KHÓC CHO THÀNH GIÊRUSALEM

LỜI MỜI GỌI TRƯỞNG THÀNH – KHÓC CHO THÀNH GIÊRUSALEM

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Trưởng thành có nhiều mức độ khác nhau.  Trưởng thành cơ bản được định nghĩa chính yếu là phải vượt qua tính ích kỷ bản năng mà chúng ta được sinh ra, để bây giờ động lực và hành động của chúng ta được định hình qua nhu cầu của người khác chứ không chỉ qua nhu cầu của chúng ta.  Đó là mức tối thiểu cơ bản, mức tối thiểu để được trưởng thành.  Sau mức độ này, còn có các mức độ và trình độ tùy theo mức độ động cơ và hành động của chúng ta là vị tha hay vị kỷ.

Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta có các mức độ trưởng thành ngày càng sâu sắc hơn, dù đôi khi chúng ta có thể bỏ lỡ lời mời vì nó được thể hiện một cách tinh tế chứ không như lời mời đạo đức được truyền đạt một cách rõ ràng.  Một lời mời tinh tế, nhưng rất sâu sắc để có được một mức độ trưởng thành cao hơn như việc Chúa Giêsu khóc cho thành Giêrusalem.  Có gì bên trong hình ảnh này?

Và đây là hình ảnh và khung bối cảnh của nó.  Chúa Giêsu vừa bị bác bỏ, cả về con người lẫn thông điệp của Ngài, và Ngài thấy rõ nỗi đau mà người dân sẽ gánh chịu do sự từ chối này.  Phản ứng của ngài là gì? Ngài có phản ứng theo cách mà hầu hết chúng ta thường nghĩ: “Quỷ tha ma bắt!  Tôi hy vọng bạn gánh đủ toàn bộ hậu quả của chính sự ngu ngốc này của bạn!”  Không!  Ngài khóc, giống như cha mẹ đối xử với đứa con ương ngạnh bằng tình yêu; ngài mong trong từng thớ thịt, có thể cứu con mình khỏi các hệ quả của các lựa chọn không tốt của nó.  Ngài cảm nhận được vết thương của con cái hơn là vui vẻ nhìn nỗi đau của chúng.

Ở đây có một thách thức kép.  Đầu tiên là vấn đề cá nhân: chúng ta vui mừng khi những người từ chối lời khuyên của chúng ta đau khổ vì sự sai trái của họ, hay chúng ta khóc trong lòng vì nỗi đau mà họ đã tự mang lại?  Khi chúng ta thấy các hệ quả trong cuộc sống của những người có các chọn lựa không đúng, dù đó là do vô trách nhiệm, do lười biếng, do ma túy, tình dục, phá thai, do ý thức hệ, do thái độ chống tôn giáo, hoặc do ý xấu, chúng ta có vui mừng khi các lựa chọn bắt đầu cắn họ như rắn cắn (Này, đã làm thì ráng chịu!) hay chúng ta khóc vì họ, vì bất hạnh của họ?

Phải thừa nhận, thật khó để không vui khi thấy người từ chối lời khuyên của mình bị lãnh đủ với quyết định cứng đầu của họ.  Đó là cách hoạt động tự nhiên của trái tim, vì thế sự đồng cảm có thể đòi hỏi một mức độ trưởng thành rất cao.  Ví dụ, trong đại dịch Covid-19, các chuyên gia y tế (hầu như không có ngoại lệ) yêu cầu chúng ta mang khẩu trang để bảo vệ người khác và bảo vệ chính mình.  Phản ứng tự phát khi chúng ta thấy ai coi thường cảnh báo này, chúng ta có nghĩ họ thông minh hơn bác sĩ, không mang khẩu trang và sau đó bị nhiễm vi-rút không?  Chúng ta có vui thầm khi thấy họ phải gánh hậu quả việc họ làm hay chúng ta, một cách ẩn dụ, “khóc cho thành Giêrusalem” không?

Ngoài thách thức đưa ra cho mỗi chúng ta để tiến tới một mức độ trưởng thành cao hơn, hình ảnh này còn chứa đựng một thách thức mục vụ quan trọng đối với Giáo hội: trong tư cách Giáo hội, làm thế nào chúng ta thấy một thế giới thế tục hóa đã khước từ nhiều niềm tin và giá trị của chúng ta?  Khi chúng ta thấy các hệ quả thế giới đang phải trả cho điều này, chúng ta vui mừng hay thông cảm?  Chúng ta có thấy thế giới thế tục với tất cả những vấn đề mà nó đang tự gây ra do từ chối một số giá trị Tin Mừng như một đối thủ (người mà chúng ta cần bảo vệ cho chính chúng ta) hay như đứa con đau khổ của mình?  Nếu bạn là cha mẹ hoặc ông bà đang đau khổ vì đứa con hay đứa cháu chướng khí, bạn sẽ có thể hiểu ý nghĩa của “khóc cho Giêrusalem.”

Hơn nữa, cuộc đấu tranh để “khóc” cho thế giới thế tục (hoặc với bất cứ ai từ chối các giá trị chúng ta bảo vệ) còn bị làm trầm trọng hơn vì một động lực khác chiến đấu chống lại sự cảm thông.  Trong chúng ta có một khuynh hướng cảm xúc và tâm lý sai lệch hoạt động theo cách này.  Bất cứ khi nào chúng ta bị tổn thương nặng nề, chúng ta cần phải đổ lỗi cho ai đó, cần phải tức giận chống ai đó và cần phải đả kích ai đó.  Và bạn biết ai là người chúng ta luôn chọn để đổ lỗi không?  Một người mà chúng ta cảm thấy đủ an toàn để làm tổn thương vì chúng ta biết họ đủ trưởng thành để không trả đũa lại!

Có rất nhiều chỉ trích Giáo hội ngày nay.  Đúng, có rất nhiều lý do chính đáng để chỉ trích.  Do các thiếu sót của Giáo hội, một phần của sự thù địch này là chính đáng; nhưng một số sự thù địch thường vượt ra ngoài những gì được chứng minh.  Cùng với sự tức giận chính đáng, đôi khi cũng có rất nhiều tức giận vô cớ, tự nguyện.  Phản ứng của chúng ta trước những tức giận vô cớ và lời buộc tội không công bằng đó là gì?  Chúng ta có phản ứng bằng trả đũa không?  “Anh vượt giới hạn rồi, đi chỗ khác mà nổi giận!”  Hay là, như Chúa Giêsu khóc cho thành Giêrusalem, chúng ta đáp lại tức giận và buộc tội bất công bằng nước mắt cảm thông, và lời cầu nguyện rằng một thế giới đang giận dữ với chúng ta sẽ được tha thứ cho các lựa chọn không đúng của họ không?

Triết gia Soren Kierkegaard đã viết câu nổi tiếng: Chúa Giêsu muốn có đồ đệ, Ngài không muốn có người ngưỡng mộ Ngài!  Lời khôn ngoan.  Trong phản ứng của Chúa Giêsu trước sự từ chối mình, khi Ngài khóc cho thành Giêrusalem, chúng ta thấy sự tinh tế trong mức độ trưởng thành con người.  Và chúng ta được kêu gọi trưởng thành trong tư cách cá nhân cũng như trong tư cách cộng đồng giáo hội.  Chúng ta cũng thấy đây là trái tim rộng lớn cảm nhận được nỗi đau của người khác, ngay cả nỗi đau của người từ chối mình.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: Langthangchieutim

Jesus Wept - James Tissot.jpg