Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao?

Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao?

Một ngày an lành nhé. Hơn bao giờ hết, nhu cầu giáo dục giới tính rất cần thiết trong thời đại ngày nay, hy vọng bài giáo lý hôm nay giúp bạn nhìn lại vai trò của mình trong công việc giáo dục đức tin trong gia đình.

Cha Vương

Thứ 3: 15/02/2022

GIÁO LÝ: Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao? Hội Thánh tin rằng, trong trật tự tạo dựng, Thiên Chúa đặt để cho người nam và người nữ cần đến nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau để sinh sản con cái. Vì vậy, Hội Thánh không thể chuẩn nhận những thực hành đồng tính luyến ái. [Tức là Hội Thánh kết án hành vi tính dục đồng tính] Tuy nhiên các Kitô hữu phải tôn trọng và yêu thương mọi người, không xét đến khuynh hướng tính dục của họ, vì tất cả mọi người đều được Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương. (YouCat, số 65)

SUY NIỆM: Không một người nào trên trần gian không phải là kết quả của mối quan hệ giữa một người mẹ với một người cha. Thật là kinh nghiệm đau khổ cho một số người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, họ không cảm thấy được lôi cuốn bởi người khác giới, và phải từ chối việc thụ thai theo thể lý bằng quan hệ tình dục phù hợp với bản tính con người và trật tự do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng những đường lối của Chúa thì không biết trước được: một sự thiếu sót, một mất mát hay một vết thương được chấp nhận và đảm nhận có thể trở thành một bàn đạp để gieo mình vào tay Chúa, Đấng luôn làm cho mọi sự tốt hơn và Người còn tự mặc khải như Đấng cứu độ lớn hơn là Đấng tạo hóa. (YouCat, số 65 t.t)

❦ Hội Thánh không kết án những người có khuynh hướng đồng tính, mà chỉ kết án những hành vi tình dục đồng tính mà thôi: Hội Thánh mời gọi những người có khuynh hướng đồng tính trung thành gìn giữ đức khiết tịnh, phẩm giá đích thực của con người. Hội Thánh không loại trừ họ, nhưng tôn trọng, thông cảm và nâng đỡ họ sống hoàn thiện hơn. Ngược lại, Hội Thánh lên án những hành vi tính dục đồng tính và chống đối quy chế hôn nhân giữa hai người đồng giới.

❦ Chúa Giêsu nói: “Quả vậy, có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn; và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19, 12).

LẮNG NGHE: Ngươi [người đàn ông] không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm. (Lv 18:22)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, nhân loại đang đương đầu với nhiều thù nghịch cả trong lẫn ngoài, ma quỷ đang rình rập lẻn vào gia đình và tầm hồn dưới nhiều hình thức để cướp lấy những phẩm giá đích thực của con người. Xin cho những người có khuynh hướng đồng tính biết can đảm sống đức khiết tịnh, bền vững trong cơn cám dỗ, chấp nhận sự thiếu sót và mất mát để được Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Dâng một hy sinh nhỏ trong ngày hôm nay để cầu nguyện cho người tội lỗi biết ăn năn trở lại.

httpv://www.youtube.com/watch?v=0U0igCUUANk

Thánh Ca | Cám Dỗ Trong Đời – Diệu Hiền

From: Đỗ Dzũng

Hiền lành và khiêm nhường

Hiền lành và khiêm nhường

July 5, 2011 

  1. DẪN NHẬP.

Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta co dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.

Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô. Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ: sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường”: lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật”: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Dcr 9,8-10: Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết: Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.

Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt:
. Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
. Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
. Ngài rất hiền lành: không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.

Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.

+ Bài đọc 2: Rm 8,9.11-13: Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.

Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.

+ Bài Tin mừng: Mt 11,25-30: Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính:

  1. a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái đáng lẽ ra phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.
  2. b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.

Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Người hiền lành khiêm nhường

Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

  1. Nói về Hiền Lành và Khiêm Nhường
  2. Nói về hiền lành.

Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người, có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.

Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”. Người ta từng nói: “No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này:

Tảo cấp tắc bại sự
Nóng tính thì hỏng việc.

  1. Nói về khiêm nhường.

Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào: từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.

Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.

Truyện: hoàng đế Napoléon kiêu ngạo.

Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ấn độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: “THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này: “CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa: “Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).

  1. Người Đời Nghĩ Thế Nào?

Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.

  1. Thái độ hèn nhát.

Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).

Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục.

Truyện: Anh chàng Tân Ti Tụ.

Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.

Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.

Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng:

– Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.

Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết.

(Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)

  1. Thái độ can đảm

Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.

Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.)

Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý:

“Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.

Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục. Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.

Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.

Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha.

Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:

– Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.

Tương Như nói:
– Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?

Bọn xá nhân đáp:
– Không.

Tương Như nói:

– Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng:
– Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.

(Nguyễn duy CầnCái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)

III. Chúng ta nghĩ sao?

Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?

Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.

Truyện: BEN HUR

Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô:

Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi:

– Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?

Đức Giêsu lặng thinh.

– Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?

Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.

– Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy…

Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên:

– Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?

Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.

Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.

Truyện: Đức Gioan 23 và bức thư.

Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.

Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.

Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng:

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó:

ANH là người tự biết mình.
HÙNG là người tự thắng mình.

Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.

Trong bài giảng “Tám mối phúc thật”, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Nếu người ta nói: “Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ? Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Nước Trời là gì vậy Thầy?

Nước Trời là gì vậy Thầy?

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Lúc tàu của cha Đức Lộ[1] cập bến ở Cửa Bạng, Thanh Hóa, người Việt hồ hởi ùa đến. Số là những tàu thương nhân Tây Ban Nha thường mang theo mặt hàng quý báu từ Phương Tây. Lúc lên bờ, người ta hỏi Đắc Lộ có gì bán cho họ không? Cha chậm rãi nói bằng Tiếng Việt: “Tôi có viên ngọc quý. Đây là báu vật tôi muốn trao cho các bạn.”[2] Bà con lúc ấy mừng khôn tả. Họ vây quanh ông Tây để mong được chút báu vật ấy. Cha nhìn quanh và nói: “Báu vật của tôi là Tin Mừng Nước Trời, là Lời của Thiên Chúa muốn dành cho mỗi người Việt nơi đây.

Hẳn là cha Đắc lộ đã thuộc nằm lòng dụ ngôn bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 hôm nay[3]:  Kho báu và ngọc quý. Đây là loạt dụ ngôn Đức Giêsu giới thiệu về Nước Trời cho dân chúng và các môn đệ. Điệp khúc “Nước Trời giống như…” là lối nói dụ ngôn vốn rất tiêu biểu trong cách giảng dạy của Đức Giêsu để diễn giải về Nước Trời. Gọi là dụ ngôn vì Đức Giêsu dùng những ngôn ngữ và hình ảnh đời thường để giúp chúng ta hiểu những điều bí nhiệm của Nước Trời. Chẳng hạn, chúng ta nghe Tin Mừng hôm nay: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng.” (Mt 13,44). Hình ảnh này nói lên giá trị của Nước Trời. Hẳn là cha Đắc Lộ cũng cảm nhận được niềm sung sướng của người nhận ra và đặt được kho báu này. Cha muốn người Việt cũng được biết và thừa hưởng Nước Trời.

Cựu Ước không có khái niệm Nước Trời. Có chăng các thánh vịnh gia chỉ đề cập đến Thiên Chúa là Vua (Tv 47,49). Chỉ tới thời Tân Ước, trung tâm lời giảng của Chúa Giêsu chính là Nước Trời. Lúc ấy người ta vẫn còn xa lạ với thuật ngữ này. Lạ lùng vì dân chúng thời ấy cũng chẳng hiểu thầy Giêsu đang nói về vùng trời nào mà Thiên Chúa của họ ngự trị. Bởi đó, thầy Giêsu mới tìm mọi cách để giúp dân hiểu và hướng cuộc đời họ vào mục đích là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết. (Mt 6,33).

Thật may cho con người vì Đức Giêsu chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ Nước ấy bằng những hình ảnh như: người tù được tha, người mù được thấy, người què đi được,… Đó là Vương Quốc của tình yêu, công chính, bình an và niềm vui trong Thần Khí (Rm 14,17). Chúng ta vẫn quen gọi Nước ấy là Thiên Đàng, vì có Thiên Chúa ngự trị.

Chúng ta chưa một lần bước vào Vương Quốc ấy! Có chăng chúng ta chỉ cảm nghiệm được hạnh phúc vô bờ khi được ở gần Chúa. Rồi mọi bôn ba của kiếp người cũng để tìm được nguồn hạnh phúc bình an đích thực. Nếu quy chiếu khao khát này vào tình trạng của Nước Trời, hẳn là người ta phải ưu tiên tìm kiếm cho bằng được Nước Trời! Đó là kho báu mà người ta sẵn sàng bán mọi thứ để mua cho bằng được. Đó là viên ngọc quý mà thương gia nào cũng muốn bán tất cả để sở hữu được nó. Nghe có vẻ ngồ ngộ, vì thực tế biết bao người đâu để ý đến Nước Trời trong thời đại của chúng ta. Người đời vẫn lao vào cuộc sống mưu sinh, chạy theo niềm vui thế trần.

Tiếc là với tội lỗi và hậu quả của nó, con người ngày càng xa lạ với Thiên Đàng. Họ thích bám vào mặt đất này hơn. Vật chất trần gian chiếm hết tâm trí nhiều người. Biết bao vinh hoa phú quý bủa vây lòng dạ người ta. Đó chưa kể là để được kho tàng Nước Trời, Chúa đòi người ta “bán tất cả” để đạt được. Vả lại, không phải ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21).

Hoặc giải thích như Đức Bênêdictô XVI: “Chúa Giêsu đã đến để dạy ta rằng Người muốn cho mọi người được lên Thiên đàng; còn hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến nhưng nó vẫn có đó, và nó chỉ là đời đời đối với tất cả những ai khép lòng mình lại trước tình yêu của Người.” Người ta có tự do để đón nhận Thiên Chúa, hoặc loại Ngài ra khỏi đời sống của họ.

Vài lý do này cho thấy Nước Thiên Chúa vẫn còn xa vời với nhiều người.

Trước thực tế ấy, dĩ nhiên Đức Giêsu không bỏ cuộc. Giáo Hội vẫn luôn giới thiệu cho nhân loại biết Nước Trời quý giá như kho báu và ngọc đẹp. Bởi, “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý.” (1Tm 2,4). Như Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng mang hạt giống Nước Thiên Chúa gieo trồng và làm sao cho hạt giống ấy được phát triển trong mọi dân tộc. Một khi Nước Trời gần với ai đó, người ấy sẽ được tình yêu, hạnh phúc và bình an. Khi ấy, họ “muốn tất cả những gì Chúa muốn, và muốn như thế trong mọi hoàn cảnh và không ngập ngừng; đó là Nước Trời đang ở trong họ rồi.” (François Fénelon). Hoặc nói như Mẹ Têrêsa Calcutta:

Chúng ta thường luyến nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Chúa ngự. Chính mỗi người đều có khả năng ở với Chúa trên trời ngay từ bây giờ, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Nhưng được hạnh phúc với Chúa ngay từ bây giờ nghĩa là gì: là giúp đỡ như Chúa giúp đỡ, cho đi như Chúa cho đi, phục vụ như Chúa phục vụ, cứu độ như Chúa cứu độ, yêu mến như Chúa yêu mến.” (Youcat 52)

Chúng ta kết thúc bài suy niệm với niềm vui của cha Đắc Lộ. Trong ít ngày cha đã rửa tội cho 32 người, thuộc nhiều tầng lớp dân chúng, không chỉ tại xóm Cửa Bạng, nơi tàu đậu, mà cả những làng lân cận, dân chúng vì hiếu kỳ đến xem đã được cha truyền đạo cho[4]. Chắc hẳn họ là những người đã nhận ra sự cao quý của Nước Trời. Từ vài nhóm khởi đầu như thế, Giáo Hội Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh như ngày hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hạnh phúc vì được biết đến mầu nhiệm Nước Trời. Tuy không hiểu hết, nhưng chúng con ước ao thuộc về Vương Quốc ấy, ngay trên trần gian này. Rồi sau cái chết, hy vọng Thiên Chúa đón chúng ta vào Nước Trời hưởng cuộc sống hạnh phúc thiên thu. Amen

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

………….

[1] Sau hơn một năm học tiếng Việt ở Đàng Trong, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) trở lại Macao để chuẩn bị tới Đàng Ngoài truyền giáo. Cùng với Pedro Marques, cha cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19 tháng 3 năm 1627.

[2] Đọc thêm: https://www.giaophandanang.org/chua-nhat-iii-mua-chay-nam-a.html

[3] 26-7-2020: Chúa Nhật 17 Mùa TN. Rm 8, 28-30; Mt 13,44–52.

[4] Cha Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam, Tập I, trang 124-125.

Đức Mẹ Lộ Đức

Đức Mẹ Lộ Đức

Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành! Hôm nay ngày 11/2, Giáo Hội mừng kính Lễ Đức Mẹ Lộ Đức nơi mà rất nhiều bệnh nhân đã tìm đến hang đá và suối nước này cầu nguyện và cảm thấy được Mẹ nâng đỡ, nhiều người còn được ơn chữa lành. Chính vì vậy, Giáo hội cũng chọn ngày này là ngày quốc tế bệnh nhân. Ta hãy làm việc hy sinh và cầu nguyện xin ơn chữa lành cho các bệnh nhân hôm nay nhé.

Cha Vương

Tín điều “Đức Mẹ Vô nhiễm” mà Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 như một ngọn đèn pha chiếu sáng vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu thế để củng cố đức tin dân Chúa trong thế kỷ XIX, khi mà làn sóng vô thần tại  Âu châu từ nền văn minh khoa học nổi lên chống Thiên Chúa cứ mỗi ngày tràn lan. Đức Mẹ đã hiện ra tại Paris, La Salette, và Lộ Đức để cản ngăn. Nhất là tại Lộ Đức, Đức Mẹ hiện ra năm 1858 để chuẩn nhận tín điều “Mẹ Vô nhiễm” năm 1854.

Lộ Đức năm 1858 là một thành phố chừng 5,000 cư dân, nằm cạnh sông Pau, lối vào thung lũng dẫy núi Pyrénées phía đông nam nước Pháp, giáp ranh giới Tây Ban Nha. Đức Mẹ chọn Bernađetta Soubinous, 14 tuổi, con nhà nghèo, đau yếu, đơn sơ thật thà tuy chưa học giáo lý. Trưa ngày 11 tháng 2 là thứ Năm sau lễ Tro, Bernađetta cùng với em là Antoinetta và cô bạn Jeanna đi vào rừng kiếm củi đốt lò sưởi. Cô em và cô bạn lội qua sông nước cạn, Bernađetta chưa kịp trụt giầy lội theo, còn đang đứng trước hang Massabielle. Bỗng một cơn gió mạnh, Bernađetta nhìn lên thấy một áng mây vàng và một Bà Đẹp hiện ra. Bà mặc áo dài trắng, đội khăn lúp dài trắng, thắt lưng xanh lơ, đeo tràng hạt vàng ở cánh tay phải. Mỗi chân Bà có một bông hồng vàng. Bà nhìn Bernađetta, mỉm cười và làm dấu thánh giá lần chuỗi, môi không mấy máy. Bernađetta quì xuống lần chuỗi với Bà. Bà làm hiệu bảo Bernađetta tới gần, nhưng Bernađetta sợ không dám. Rồi Bà biến đi. Cô em và cô bạn không thấy gì, chỉ có Bernađetta được thấy sự lạ.

Lần thứ hai, trưa Chúa nhật ngày 14, mười người kể cả cô em và cô bạn cùng với Bernađetta ra hang. Bà hiện ra. Bernađetta vẩy nước phép để biết chắc không phải là ma quái. Bà chỉ mỉm cười, không nói gì.

Từ ngày 18-2 tới ngày 4-3, Bà hiện ra 13 lần và ban sứ điệp cho Bernađetta. Số người đi xem từ mấy người tăng dần tới 8,000 người.

Ngày 25 tháng Ba là lễ Truyền tin. Bà xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai” (“I am the Immaculate Con-ception”). Bà còn hiện ra hai lần nữa, ngày mồng 7-4 và ngày 16-7. Như vậy Bà Đẹp đó là chính Đức Mẹ. Người hiện ra tại hang Massabielle tất cả 18 lần. Đức Mẹ nói tiếng thổ ngữ Burgundian mà Bernađetta thường nói.

Năm 1866, Bernađetta nhập tu dòng Nữ tử Bác ái tại tu viện St. Gildard thành phố Nevers. Chị bị bệnh xuyễn và lao xương chân đau đớn và qua đời ngày 16 tháng 4 năm 1849, chẵn 35 tuổi. Lời nguyện cuối cùng trên môi miệng chị là: “Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho con là một tội nhân khốn nạn”. Trong thời gian chịu bệnh đau đớn, chị viết một câu tóm lược đời sống của chị: “Vâng lời là yêu mến!  âm thầm chịu khổ vì Chúa Kitô là vui sướng. Chân thành yêu mến là hiến dâng mọi sự, kể cả nỗi đớn đau”.Chị Bernađetta được phong Á Thánh năm 1925 và Hiển Thánh năm 1933.

Những sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức ban:

(1) Sứ điệp riêng cho Bernađetta: Đức Mẹ nói với Bernađetta: “Con có muốn đến đây mỗi ngày trong hai tuần không? Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau”. Đức Mẹ còn nói với Bernađetta ba điều bí mật mà Bernađetta không bao giờ tiết lộ.

(2) Sứ điệp thống hối đền tội: Hiện ra lần thứ 8 ngày 24 tháng 2, Đức Mẹ nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội. Hãy ăn năn đền tội. Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân. Hãy quì lê vào hang và hôn đất để đền tội cho các tội nhân”. Hiện ra lần thứ 9 ngày 25 tháng 2, Đức Mẹ chỉ bảo “bới dưới tảng đá để có mạch nước vọt lên và hãy uống. Hãy ăn một ít cỏ mọc chung quanh mạch nước”.

(3) Sứ điệp cho Giáo hội: Hiện ra lần thứ 13 ngày mồng 2 tháng 3, Đức Mẹ xin “xây một đền thờ tại đây và muốn hang Massabielle sẽ là nơi hành hương và những cuộc rước”.

(4) Sứ điệp vinh quang của Đức Mẹ: Hiện ra lần thứ 16 trùng lễ Truyền tin ngày 25 tháng Ba, vì Bernađetta khẩn khoản nài xin, Đức Mẹ xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai”.

(5) Sứ điệp của Mẹ âm vang Phúc âm: 1) Hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt 26:41). 2) Hãy cải thiện đời sống, Nước Trời đã gần đến (Mt 4:17). 3) Ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát (Ga 4:14). 4) Con là Đá. Trên đá này, Ta sẽ xây Giáo hội của Ta (Mt 16:18). 5) Ta luôn ở cùng các con cho tới ngày tận thế (Mt 28:20). (Nguồn: Đồng Công)

❦ Để bày tỏ lòng yêu mến Mẹ, mời Bạn hãy siêng năng lần hạt Mân Côi nhé.

From: Đỗ Dzũng

HAI CON ĐƯỜNG

HAI CON ĐƯỜNG

Khi đọc Thánh Kinh, nhất là phần Tân Ước, chúng ta thấy các tác giả thường trình bày những nhân vật hay hình ảnh đi cặp đôi với nhau, ví dụ: hai con đường, một con đường hẹp và một con đường rộng; hai người con, một người con bỏ nhà đi hoang, một người con ở nhà với cha; hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái.  Chúa Giêsu thường dùng cách diễn tả này để nói với chúng ta: con người có tự do chọn lựa một trong hai lối sống, giữa trung thành và phản bội, giữa thánh thiện và tội lỗi.  Đó là hai con đường mà chúng ta tự do lựa chọn, một dẫn tới hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh.  Một khi đã lựa chọn, chúng ta phải lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy.

Thiên Chúa không tạo dựng nên sự dữ.  Sự dữ là sản phẩm do tội lỗi và ích kỷ của con người.  Thiên Chúa cũng không định cho ai phải đau khổ.  Ngài không gò ép ai, nhưng để con người tự do chọn lựa.  Đây cũng là quan điểm của dân gian Việt Nam: ai gieo gió ắt sẽ gặt bão, trồng cây nào, ăn quả nấy.

Những ai tin vào người đời, gạt bỏ Thiên Chúa và coi những giá trị trần tục như lý tưởng, giống như cây mọc trong sa mạc.  Cây trong sa mạc sẽ khô cằn, không sinh hoa kết trái.  Những ai tin tưởng phó thác vào Chúa, xa tránh những hành vi bất hảo và chọn Chúa làm gia nghiệp, giống như cây mọc bên bờ suối, bốn mùa quanh năm đều cành lá xanh tươi và hoa trái dồi dào.

Từ hai ngàn năm, chứng từ về sự phục sinh của Chúa Kitô được rao giảng cho mọi người.  Có rất nhiều người đón nhận với thành tâm thiện chí, nhờ đó mà trở nên hoàn hảo.  Trái lại, có những người lại nghi nan chối từ, cho đó là chuyện hão huyền, vì vậy mà trở nên bất hạnh.  Trong thư gửi giáo dân Corinthô, thánh Phaolô khẳng định: Chúa đã sống lại.  Sự phục sinh của Chúa là nền tảng Đức tin đối với Kitô hữu, đồng thời mặc cho phẩm giá con người một ý nghĩa mới, tức là con người sẽ được sống lại với Chúa sau khi đã kết thúc cuộc sống trần gian.

Tác giả Thánh vịnh thứ nhất tiếp nối dòng suy tư của ngôn sứ Giêrêmia.  Ông ca tụng những người khôn ngoan, biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa.  Những người này giống như cây trồng bên suối nước, quanh năm ra hoa kết trái.  Ông cũng phê phán những người chỉ biết có đời này, và đắm chìm trong ăn chơi sa đọa.  Họ giống như vỏ trấu, sẽ bị gió cuốn đi.  Tương lai của họ là hư vô.

“Hạnh phúc thay! Bất hạnh thay!”  Đó là những lời mở đầu mà Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả những người thiện chí và những người dửng dưng với Nước Trời.  Nếu thánh Matthêu ghi lại tám mối phúc thật, là phần khởi đầu của bài giảng trên núi, thì thánh Luca lại ghi lại bài giảng của Chúa Giêsu với một hình thức khác.  Nội dung của Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bốn mối phúc và bốn mối họa được trình bày song đối với nhau.  Thực ra, những lời được gọi là “chúc dữ” không hẳn là những lời nguyền rủa khi người ta giận dữ và muốn “trù ẻo” người khác.  Thiên Chúa tự bản chất là Đấng tốt lành, không lẽ Đức Kitô lại buông những lời nguyền rủa đối với con người, mặc dù họ xấu xa và tệ hại đến đâu đi nữa.  Để dễ hiểu hơn, thay vì dịch “Khốn cho các ngươi…”, nên dịch là “Thật bất hạnh cho các ngươi…”  Vì đây là những lời than vãn và luyến tiếc cho những con người đáng lẽ ra phải sống tốt lành, nhưng trong thực tế lại không được như vậy.  Đây cũng là những lời cảnh báo vì thấy trước những nguy hiển đang chờ đợi họ ở tương lai, là kết quả của lối sống vô tín đối với Chúa, và vô trách nhiệm đối với tha nhân.

Nguyên nhân của những than vãn hay của những lời chúc dữ ấy là gì?  Đó là sự cậy dựa vào sức mạnh phàm nhân.  Theo lời Chúa Giêsu, đó còn là sự kiêu ngạo, cậy vào của cải trần thế.  Họ là những người giàu có, no nê và đang vui cười.  Dường như họ không cần đến Thượng Đế, vì họ tự cho mình có sức mạnh vô song, có khả năng làm mọi sự.  Có một thời, ở Việt Nam, người ta cho rằng niềm tin vào Thượng Đế đã lỗi thời và lạc hậu.  Vì vậy, con người có thể “thay trời làm mưa.”  Người ta cũng thường rêu rao “bàn tay ta làm nên tất cả.”  Đây là lối suy nghĩ ảnh hưởng thuyết vô thần duy vật, coi con người như những “thượng đế” và tự quyết định tương lai, không cần đến thần linh hay Đấng Cao cả nào khác.  Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy một xã hội loại trừ Thiên Chúa sẽ trở nên bất hạnh.  Hậu quả là bạo lực, dối trá, lường gạt tràn lan mọi lãnh vực của cuộc sống.

Chúng ta vừa vui mừng đón xuân mới Nhâm Dần.  Mùa xuân là thời điểm cây cối đâm chồi nảy lộc.  Mùa xuân cũng tượng trưng cho sức sống, tình yêu và hy vọng.  Ước chi mỗi Kitô tín hữu chúng ta đâm chồi nảy lộc trong đời sống thiêng liêng và trong những nghĩa cử bác ái.

Hạnh phúc hay bất hạnh, được cứu rỗi hay bị trầm luân, được khen thưởng hay bị kết án… tất cả đều do chúng ta chọn lựa.  Trước mặt chúng ta luôn có hai con đường.  Nếu chúng ta chọn lựa con đường thánh thiện, Chúa sẽ luôn đồng hành và chúc phúc cho chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

VĨ ĐẠI HƠN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ

VĨ ĐẠI HƠN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ

“Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel! Trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài!”.
Trong tác phẩm của mình, “Surprised by the Power of the Spirit”, “Ngạc Nhiên Trước Sức Mạnh của Thần Khí”, Jack Deere viết, “Tất cả chúng ta đều là những người thụ hưởng các truyền thống tốt đẹp, khôn ngoan, và đúng đắn; tuy nhiên, chúng ta cũng là nạn nhân của những truyền thống kém cỏi, thiếu khôn ngoan và thiếu vững chắc!”.
Kính thưa Anh Chị em,

“Chúng ta là nạn nhân của những truyền thống kém cỏi, thiếu khôn ngoan và thiếu vững chắc”. Thật chí lý câu nói của Jack Deere! Thật trùng hợp, phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến truyền thống, nói đến những diễn giải của con người; qua đó, một sự thật được tiết lộ, Thiên Chúa luôn ‘vĩ đại hơn bất cứ điều gì’ mà con người có thể tạo ra, cho dù, đó là một truyền thống tôn giáo lâu đời!

Bài đọc Cựu Ước cho biết, Salômon đã khởi xướng xây cất một đền thờ đồ sộ, nguy nga cho Thiên Chúa; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ tâm tình hân hoan của vua, “Lạy Chúa tể càn khôn, cung điện Ngài xiết bao khả ái”. Thế nhưng, trước một Thiên Chúa, Đấng ‘vĩ đại hơn bất cứ điều gì’, Salômon, người được Ngài ban cho khôn ngoan và giàu có nhất trần gian đó vẫn cảm thấy nhỏ bé và yếu hèn, “Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel! Trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, phương chi ngôi nhà con xây cất đây!”. Ý thức mình mỏng giòn, tội lỗi, Salômon thân thưa, “Từ thiên cung, nơi Chúa ngự, xin lắng nghe, lắng nghe và tha thứ!”.

Trong Tin Mừng hôm nay, các biệt phái và luật sĩ lên án các môn đệ Chúa Giêsu “không theo đúng truyền thống của tiền nhân”, vì họ không rửa tay trước khi ăn. Dẫu không chống lại việc rửa tay, Chúa Giêsu vẫn lên tiếng bảo vệ các môn đồ của Ngài. Điều Ngài chống lại giới biệt phái kinh sư là chủ nghĩa pháp lý; theo họ, chỉ cần tuân thủ một số hành động bên ngoài, con người sẽ được gọi là công chính! Ngài tuyên bố, “Các người đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ truyền thống của các người!”. Giới răn của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa, vốn quan trọng hơn truyền thống. Ngài muốn nói, Thiên Chúa, Đấng ‘vĩ đại hơn bất cứ điều gì’, không thể bị trói buộc trong bất kỳ truyền thống nào, dù truyền thống đó được tôn kính đến đâu. Truyền thống có ra là để giúp con người thể hiện tốt hơn mối tương giao của nó với Thiên Chúa, sống giới răn yêu thương Ngài dạy. Thế nên, một khi truyền thống trở nên “kém cỏi, thiếu khôn ngoan và thiếu vững chắc”, khiến “con người trở thành nạn nhân”, cản trở nó kính mến Chúa và yêu thương người, thì truyền thống đó cần được cải cách hoặc đổi mới.

Anh Chị em,

Với Chúa Giêsu, không phải mọi truyền thống đều đáng để giữ lấy. Tất cả truyền thống phải được đo lường bằng chính Lời Chúa; chúng ta phải xét xem truyền thống này, tập tục kia, có thực sự phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa vốn được tiết lộ trong Thánh Kinh hay không. Đó là lý do tại sao việc tiếp tục lắng nghe Lời Chúa là một điều không thể thiếu trong đời sống Kitô hữu. Đây cũng là điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô rất mực quan tâm; ngài đặc biệt nhắc nhở chúng ta phải đọc và học biết lắng nghe Lời Chúa qua các Phúc Âm một cách thường xuyên. Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, Thiên Chúa, Đấng ‘vĩ đại hơn bất cứ điều gì’, đã bày tỏ khuôn mặt đích thực của Ngài một cách độc đáo và trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha mà chúng ta đang tìm kiếm, đã tìm kiếm và phải tìm kiếm mỗi ngày. Hãy quay về với Chúa Giêsu, lấy Ngài làm chuẩn mực cho mọi đối chiếu; hãy để Lời ngài soi sáng tâm trí, bổ sức linh hồn; và như thế, chúng ta sẽ được bổ trợ để thấy rõ hơn điều gì là của Thiên Chúa và điều gì không thuộc về Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho con ngày càng yêu mến việc đọc Lời Chúa và đào sâu Lời Chúa bằng việc cầu nguyện và chiêm ngắm; nhờ đó, Lời Chúa sẽ không trở nên vô hiệu nơi con!”, Amen. 

From: Kim Bang Nguyen 

TÌNH YÊU MUỐN CHÚNG TA LÀM GÌ LÚC NÀY?

TÌNH YÊU MUỐN CHÚNG TA LÀM GÌ LÚC NÀY?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

“Hoàn toàn có thể cho rằng chúng ta tạo nên Thiên Chúa theo hình ảnh mình, khi mà hóa ra Chúa ghét mọi người chúng ta ghét.”  Anne Lamott

Những lời này đáng để suy ngẫm, khi nhìn vào mọi mặt của sự phân rẽ chính trị và tôn giáo thời nay.  Chúng ta đang sống trong sự chia rẽ đầy cay đắng.  Từ các viên chức chính phủ cho đến bàn ăn trong gia đình, có thể thấy được một sự căng thẳng và chia rẽ về chính trị, tôn giáo và những sự thật tùy biến đến độ vô lý lố bịch.  Đáng buồn thay, những chia rẽ này lại khơi lên những gì xấu xa nhất trong tất cả chúng ta.  Sự lễ độ đã rạn vỡ và cùng với nó là một thứ gì đó minh họa rõ ràng định nghĩa trong Kinh thánh về “ma quỷ”, nói cụ thể chính là, sự vô lễ, thù ghét, và xem người ta là ma quỷ, ngày càng lan rộng.  Tất cả chúng ta giờ thiển cận tự mãn cho rằng Chúa ghét hết tất cả những người mà chúng ta ghét.  Sự phân cực trong cuộc bầu cử mới đây ở Hoa Kỳ, vụ tấn công chiếm điện Capitol, những tranh cãi luân lý và tôn giáo đầy chua cay về phá thai, và việc mất đi khái niệm về sự thật, tất cả những điều này làm rõ rằng sự khiếm nhã, thù ghét, vô lễ và sự thật tiện dụng đang thống trị thời này.

Chúng ta sẽ đi về đâu đây?  Tôi là thần học gia, không phải chính trị gia hay nhà phân tích xã hội, nên những ý kiến của tôi thiên về cương vị môn đệ Kitô giáo, và sự trưởng thành nhân văn căn bản hơn là về các phản ứng chính trị.  Trong mặt tôn giáo, chúng ta sẽ đi về đâu đây?

Có lẽ để tìm hiểu cách phản ứng hợp lý trong Kitô giáo, chúng ta nên đặt vấn đề như thế này: trong một thời như thế này, yêu thương nghĩa là gì?  Yêu thương nghĩa là gì trong một thời mà người ta không còn nhất trí rằng cái gì là sự thật?  Làm sao chúng ta lễ độ và lịch sự khi cảm thấy không thể nào tôn trọng những người bất đồng với mình?

Để làm rõ một vấn đề quá phức tạp, đôi khi nên thực hiện bằng Via Negativa, nghĩa là hỏi xem mình nên tránh làm gì?  Chúng ta không nên làm gì trong thời nay?

Trước hết, chúng ta không được bỏ qua phép lễ độ và biến cung cách vô lễ và quỷ hóa người khác thành chuyện hợp tình hợp lý, nhưng chúng ta cũng không nên tiêu cực không lành mạnh, sợ rằng nói ra sự thật sẽ khiến người khác bực mình.  Chúng ta không nên bất chấp sự thật và để cho những dối trá, bất công trơ tráo diễu võ dương oai.  Quá đơn giản để nói rằng cả hai phía đều có người tốt, để rồi chúng ta dựa vào đó mà trốn tránh đưa ra phán quyết thật sự về sự thật.  Cả hai phía đều có những người chân thành, nhưng sự chân thành cũng có thể bị dẫn dụ.  Chúng ta phải chỉ thẳng mặt dối trá và bất công.  Cuối cùng, chúng ta phải chống lại cám dỗ tinh vi đến nỗi gần như không thể chống lại, dụ chúng ta để cho sự công chính của mình biến thành tự phụ, một trong những thứ gây chia rẽ nhất do cái tôi quá lớn.

Chúng ta cần làm gì vì tình yêu thương?  Fyodor Dostoevsky từng viết rằng yêu thương là một thứ đáng sợ và khắc nghiệt, và phản ứng đầu tiên của chúng ta là phải chấp nhận sự thật như thế.  Yêu thương là thứ khắc nghiệt, nó không chỉ là sự khó chịu khi đối đầu người khác hoặc bị họ đối đầu.  Sự khắc nghiệt của yêu thương thể hiện rõ nhất (gần như là không chấp nhận nổi) khi chúng ta phải dằn sự tự phụ của mình xuống để có được một mức độ trưởng thành cao hơn, để chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những người chúng ta ghét không kém gì yêu thương chúng ta, và trong mắt Thiên Chúa, họ cũng quý báu và quan trọng y hệt như chúng ta.

Khi chấp nhận được điều này, chúng ta có thể bắt đầu lên tiếng vì sự thật và công lý.  Rồi sự thật có thể đương đầu với “sự thật tùy biến” và sự chối bỏ sự thật.  Nhiệm vụ của chúng ta là thế đấy.  Phải vạch trần sự dối trá, và chúng ta cần điều này trong các tranh luận chính trị, trong hội thánh và trên bàn ăn gia đình mình.  Có nhiều lúc, đấu tranh này đòi buộc chúng ta phải bỏ đi “sự ân cần” vốn là một chuyện rất khó với những người nhạy cảm.  Tuy nhiên, dù không thể nào luôn mãi ân cần, nhưng chúng ta có thể luôn lễ độ và lịch sự.

Một trong những nhân vật mang tính ngôn sứ đương thời, linh mục Dòng Tên Mỹ Daniel Berrigan, bất chấp nhiều lần bị bắt vì bất tuân luật dân sự, đã kiên quyết khẳng định rằng một ngôn sứ phải có lời khấn yêu thương chứ không phải lời khấn ghét bỏ.  Do đó, trong mọi nỗ lực để bảo vệ sự thật, để lên tiếng vì công lý, và nói lên sự thật với cường quyền, thì chúng ta phải nói bằng yêu thương, chứ không phải giận dữ hay thù ghét.  Hơn nữa, việc chúng ta hành động bằng yêu thương hay ghét bỏ, sẽ luôn thể hiện ra nơi phép lễ độ hoặc thiếu lễ độ.  Dù chúng có giận dữ đến đâu đi nữa, tình yêu thương vẫn giữ cho chúng ta một phép lễ độ, lịch sự bắt buộc phải có.  Mỗi khi thấy mình rơi vào sự hấp tấp muốn quy chụp ai đó, là chúng ta có thể chắc chắn rằng mình đã rời xa tinh thần môn đệ, tinh thần ngôn sứ và những gì tốt đẹp nhất trong chúng ta.

Cuối cùng, cách chúng ta phản ứng với thời đại vẫn là một chuyện rất riêng của chúng ta.  Không phải tất cả chúng ta đều được mời gọi làm một việc như nhau.  Thiên Chúa đã cho chúng ta những ơn gọi độc nhất vô nhị, có người được gọi để phản kháng công khai, có người được gọi để phản kháng thầm lặng.  Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều được kêu gọi tự vấn mình cùng một câu hỏi rằng: trước những chuyện hiện giờ, tình yêu muốn mình làm gì đây?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Do đâu con người có linh hồn?  

Do đâu con người có linh hồn?  

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, ước mong bạn đừng quá bận với công việc phần xác mà quên đi nỗi khắc khoải  của con tim đang khao khát Chúa.

Cha Vương

Thứ 3: 8/2/2022

GIÁO LÝ: Do đâu con người có linh hồn? Linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, chứ không phải là “sản phẩm” bởi cha mẹ. (YouCat, số 63)

SUY NIỆM: Hồn của con người không thể là sản phẩm do tiến trình biến hóa của vật chất, cũng không phải là kết quả của cha mẹ sinh ra. Mỗi con người sinh ra là một ngôi vị độc nhất và linh thiêng, Hội Thánh giải nghĩa mầu nhiệm này như sau: Thiên Chúa ban cho ta một linh hồn không thể chết được, dù khi ta chết ta phải lìa khỏi xác để chờ khi sống lại xác được nhập lại với ta. Nói “Tôi có linh hồn” có nghĩa là: “Thiên Chúa không tạo dựng tôi như một sự vật, nhưng như một ngôi vị và mời gọi tôi có quan hệ không ngừng với Người”. (YouCat, số 63 t.t)

❦   Nhờ có nguồn gốc từ trái đất, con người được liên kết với mọi sinh vật, nhưng chỉ nhờ có linh hồn do Thiên Chúa “thổi vào” họ mới là người. Điều đó ban cho họ một phẩm giá độc nhất, nhưng đồng thời cũng trao một trách nhiệm độc nhất. (Hồng y Christoph Schönborn, 1945, Tổng giám mục Áo)

LẮNG NGHE: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (Mt 10:28)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, xin cho con luôn biết khát khao đi tìm gặp Chúa để nhờ đó tâm hồn được vui vẻ và thảnh thơi.

THỰC HÀNH: Hôm nay mời bạn hãy từ bỏ một nhu cầu vật chất để tâm hồn chỉ biết khát khao ơn Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Linh hồn là gì?

Linh hồn là gì?

Những ngày Tết ăn nhậu quá! Chúc bạn ngày Thứ 2 đi đứng nhẹ nhõm như con cọp vậy nhé. Đừng quên cầu nguyện cho nhau.

Cha Vương

Thứ 2: 07/02/2022

GIÁO LÝ: Linh hồn là gì vậy? Linh hồn là cái làm cho ta thành một con người. Nó là nguyên lý linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người. Linh hồn làm cho thể xác vật chất trở nên thân xác sống động của con người. Nhờ linh hồn, con người có thể xác nhận cái “Tôi” của mình, và đứng trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay thế được. (YouCat, số 62)

SUY NIỆM: Con người là một hữu thể có xác và hồn. Hồn con người có phận vụ khác hơn phận vụ xác và không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lý của họ. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lý linh thiêng nối kết với xác, mà không vì thế cũng giống y như xác. Ta gọi là «hồn». Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng.

❦ Hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác. (Thánh Têrêsa Avila)

❦ Con người trở nên thực sự là con người khi hồn và xác

hiệp nhất sâu xa với nhau… Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác vì là di sản của sinh vật, thì cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Đàng khác, nếu họ muốn từ bỏ tinh thần và coi vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất của mình thôi, thì họ cũng mất giá trị cao cả của mình. (Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI), (YouCat, số 62 t.t)

LẮNG NGHE: ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 2:7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã dựng nên con có xác và hồn để nhận biết, phục vụ và yêu mến Chúa, xin giúp con biết sống đúng với vai trò làm con của mình để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trên Thiên Đàng.

THỰC HÀNH: Hằng ngày bạn tập trung rất nhiều thời gian và lỗ lực để chăm sóc cho thân xác mà lơ là phần linh hồn. Nếu linh hồn đòi hỏi nơi bạn hôm nay thì bạn phải trả lời thế nào hả? Thật bất công quá đi thôi! Tập quan tâm đến linh hồn một tí nhé.

From: Đỗ Dzũng  

httpv://www.youtube.com/watch?v=-Q6P2qvO7WU

Linh Hồn Tôi Tung Hô Chúa. Lm Nguyễn Sang, Hương Lan

Dấu Thánh Giá kép

Dấu Thánh Giá kép

Chúc bạn một ngày thật vui và ấm áp trong niềm tin vào Chúa là Đấng tặng cho bạn từng hơi thở mà bạn không phải tốn một đồng xu nào. Nào cùng nhau Tạ ơn Chúa!!!

Cha Vương

CN: 06/02/2022

TIN MỪNG: Bấy giờ tôi thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”… Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.” (Is 6:5-7)

SUY NIỆM: Người Công giáo Việt Nam khi đọc kinh tối sáng, khi đọc kinh cầu cho thân nhân đã qua đời, thường hay làm Dấu Thánh Giá kép tức là làm dấu hình Thánh giá 3 lần: trên trán, trên môi miệng và trên ngực. Hoặc trong Thánh Lễ, trước khi nghe lời Chúa trong Phúc âm, bạn cũng làm dấu Thánh Giá “kép” trên trán, trên môi miệng và trên ngực. Việc ghi dấu Thánh giá “kép” nhắc nhở bạn 3 điều chính yếu của đời sống đức tin Công Giáo:

1- Vẽ dấu Thánh Giá trên trán, bạn muốn nói: Vâng, con nghe hay đọc lời Chúa với sự hiểu biết của trí khôn con.

2- Trên môi miệng, bạn cũng muốn biểu lộ: Và con còn muốn qua môi miệng loan truyền Lời Chúa mà con đã nghe, đã đọc.

3- Rồi trên ngực, bạn muốn tuyên xưng: Con xin tin và yêu mến Lời Chúa.

Thánh Giáo phụ Gioan Kim Khẩu (347-407 SCN ) dạy rằng: “Trong mỗi hành động, mỗi bước đi, hãy giơ tay làm dấu Thánh Giá. Hãy đóng chặt cánh cửa tâm hồn và hãy bảo vệ làm dấu Thánh Giá trên đầu óc bạn bằng việc ghi dấu Thánh Giá trên trán. [hoặc trên môi, trên ngực] Dấu này sẽ xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật tâm hồn. Dấu này là vũ khí bách chiến bách thắng, là tường lũy vững vàng, là khiên mộc chở che vững chắc”.  Nếu bạn thành tâm kiểm điểm lại lời ăn tiếng nói của mình mỗi ngày, có bao giờ môi miệng bạn thốt lên những lời ô uế tục tĩu không? Thật “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế…” Như ngôn sứ I-sai-a đã được Chúa đưa hòn than chạm vào miệng ông và ông đã được tha tội: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.” thì việc ghi dấu Thánh giá trên môi cũng mang lại cho bạn một hiệu quả tương tự vì dấu Thánh Giá được coi là dấu hiệu mang lại phúc lành và sự che chở. Mời bạn hãy tận dụng dấu Thánh giá đơn sơ đầy ý nghĩa này để xin Chúa thánh hoá môi miệng bạn mỗi ngày nhé.

LẮNG NGHE: Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. (Tv 51:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, lời nói kiêu căng tự phụ tục tĩu làm thoả mãn “cái tôi” như thực ra nó lại làm tổn thương đến những người xung quanh, xin dạy con biết kiềm chế miệng lưỡi và sử dụng nó theo Thánh Ý Ngài, biết cầu nguyện, biết cẩn thận từng lời ăn tiếng nói, khi nào nên nói và khi nào nên im lặng để mang lại bình an và hạnh phúc cho những người con gặp hôm nay.

THỰC HÀNH: Tập là Dấu Thánh Giá kép một cách chậm rãi và kính cẩn để bày tỏ lòng tôn vinh vào quyền năng và sức mạnh của Chúa Cha toàn năng.

From: Đỗ Dzũng

httpv://www.youtube.com/watch?v=yDrNNg75af0

Làm Dấu | Phan Đinh Tùng & Hợp Xướng Thánh Ca Việt Nam

Chúa chọn và gọi

Chúa chọn và gọi

Tác giả:  Huệ Minh

Chúa Nhật V Thường niên

Lc 5,1-11

          Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.

          Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai.

          Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.

          Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.

          “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.

          Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.

          Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.

          Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.

          Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.

          Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.

          Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.

          Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.

          Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.

ĐÊM TẠ ƠN  

ĐÊM TẠ ƠN

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến.  Trong khoảnh khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Đấng Tạo dựng muôn loài, Đấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.

Đêm nay người ta vẫn gọi là đêm giao thừa, là nhịp cầu chuyển tiếp giữa cũ và mới.  Ai ai cũng mong muốn trút khỏi lòng mình mọi lo âu phiền muộn, không ai dám nhắc tới những rủi ro bất hạnh của ngày hôm qua, dường như ai cũng thầm mong ước cho đêm nay như là một khởi đầu tốt đẹp cho hành trình mới của tương lai.  Ai cũng gác lại quá khứ để bước vào năm mới trong niềm vui và hy vọng như câu ca dao xưa:

“Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng bần ra cửa.

Sáng mồng một giang tay bồng ông phước vào nhà.”

Thực vậy, mùa xuân, ngày tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước lộc, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài lộc, nhiều tiền, nhiều của.  Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là ân lộc trời ban.  Nhưng phước hạnh đời người mà chúng ta cầu chúc cho nhau không chỉ là nhắm đến tài lộc mà là hạnh phúc miên trường, hạnh phúc của người có tâm hồn bình an.

Nhìn lại một năm qua, có những người được hạnh phúc vì làm ăn thuận buồm xuôi gió, công thành danh toại, có những người hạnh phúc vì tìm được chân lý, tìm được lẽ sống, tìm được bình an trong tâm hồn.  Nhưng vượt lên trên tất cả cái may mắn đó, chính là sự sống, là sự bình an của đời người. 

Sự sống luôn ở bên ngoài khả năng của chúng ta, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.  Hạnh phúc là ân ban của Thiên Chúa.  Con người không thể kiến tạo hạnh phúc cho mình bằng thủ đoạn, bằng gian dối hay sự ác.  Con người phải sống ngay lành nhờ đó mà Thiên Chúa mới ban phúc lành là bình an.  Một năm qua với những vụ trọng án cho ta thấy con người không thể tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng quyền lực để tham nhũng hại dân mà phải bằng tấm lòng luôn đi theo chân thiện mỹ.  Đâu ai ngờ một ông Đinh La Thăng dám nói dám làm đầy quyền thế lại phải hầu tòa?  Đâu ai ngờ một Trịnh Xuân Thanh luôn sống trong nhung lụa giầu có quyền thế lại phải thân tàn ma dại?  Đâu ai ngờ một đại gia Vũ Nhôm khuynh đảo thành phố đáng yêu Đà Nẵng lại có kết cục trong tù tội…?

Hạnh phúc đến từ lộc Trời ban xuống thì con người phải sống theo lẽ Trời.  Phải sống ăn ở ngay lành và làm việc thiện phúc đức.  Quy luật của trời đất là “Xởi lởi trời gửi của cho – Co ro trời co của lại.”   Càng gieo nhân nghĩa con người lại càng tìm được niềm vui hạnh phúc tự trong tâm hồn.  Đây gọi là tích đức để Trời sẽ ban hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người thân nhờ công đức của ta.

Nếu hiểu rằng hạnh phúc – bình an là lộc ban từ Trời thì giây phút này là giây phút tạ ơn về quá khứ đã qua.  Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta 365 ngày bình an.  Tạ ơn Chúa vì những biến cố xảy ra trong cuộc đời giúp ta nhận ra tình yêu của Chúa luôn bao bọc gìn giữ chúng ta.  Có thể đó là những đau khổ, là những mất mát nhưng chúng ta lại được bàn tay Chúa dìu dắt và bồng ẵm chúng ta qua những thăng trầm cuộc đời.  Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin tưởng vào Chúa, nếu không, biết đâu giờ này chúng ta đang rơi vào tâm trạng tuyệt vọng vì không đủ can đảm đối diện trước gian nan.

Nguyện xin Chúa Xuân đang về trên quê hương ban cho chúng ta những giây phút đầu xuân tràn đầy bình an và hoan lạc.  Xin Chúa Xuân chúc lành cho giây phút giao thừa này được vơi đi những ưu phiền để người người hưởng một mùa Xuân thánh ân hạnh phúc dư tràn.  Amen!

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen