CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tôi có dịp hành hương sang Ai Cập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái.”

Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái?  Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do.  Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê.  Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3). 

Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon.  Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai Cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai Cập! Thà làm nô lệ Ai Cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12)“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3)“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì?  Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai Cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong!  Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt?  Chúng tôi trở về Ai Cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).  

Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nỗi nhớ “thịt béo, củ hành, củ tỏi Ai Cập.”  Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa.  Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương.  Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân

 Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân.  Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân.  Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông.  Dân đối xử tệ bạc với Môsê.  Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy.  Thật bất công!  

Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân: “Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”

Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.

Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa

Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19).  Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharon và con cái Aharon để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46).  Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).

Môsê có những lúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30).  Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11).  Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11).  Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17).  Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).  Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người…  Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).

  1. Môsê, người liên đới với dân Chúa

Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).  Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động!  Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.

Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37).  Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ.  Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab.  Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng…  Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc.  Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!

Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân!  Môsê đã chết với dân và cho dân!  Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.

Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).

Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân.  Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.

  1. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô

 Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân.  Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.  Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15).  Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22).  Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).

Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn.  Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức.  Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai.  Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ.  Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.

Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).

Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai Cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa.  Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.

Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa.  Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17).  Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5, 9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8).  Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê?  Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x. Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).

  1. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời

 Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến,” các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ;” còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông.  Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người.  Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều.  Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.

Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê.  Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự.  Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực trường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”  Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa.  Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa.  Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống.  Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.

Chính Tôi là Bánh Hằng Sống.”  Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ.  Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không.  Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu.  Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.

Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống.  Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể.  Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể, và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.

Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống” như mana trong sa mạc.  Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát.  Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng.  Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống.  Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại.  Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời.  Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.

Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Bài đọc 2).

Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.  Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.

“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả.  Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.

Mỗi lần rước lấy Thánh Thể, Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Trận bịnh dịch virus corona (Covid 19) đã xảy ra hơn một năm nay, đến ngày hôm nay 05 tháng 05 năm 2021 đã lắng dịu. Số người bị bịnh và số người chết đã giảm xuống rõ rệt. Chừng nào tình trạng lây lan virus này chấm dứt hẳn, chưa biết?

**Cũng do không thể vào nhà thờ được nên lớp Tân Tòng mới tổ chức học trên Zoom, nhờ đó con trai tôi là Phùng A. Quốc, mới chịu học đạo, (học qua Zoom) và đã làm lễ rửa tội (thanh tẩy) vào đêm lễ Vọng Phục Sinh ngày 02 tháng 04 năm 2021 vừa qua.

**Vì lý do không thể rời khỏi nhà được trong cuối tháng 03 và đầu tháng 04 -2020 nên thầy Bạch và vợ chồng thầy Hưng (Lan) đã thành lập Zoom để đọc kinh mân côi và kinh lòng thương xót Chúa. Như vậy anh chị em gặp nhau trong Zoom hàng ngày 3 lần 8 giờ sáng, 3 giờ trưa và 9 giờ tối.

Đứa cháu nội Jayden, cũng như bao nhiêu người khác, phải ở trong nhà, nên cũng tham gia đọc kinh do thầy Hưng, cô Lan, tổ chức đọc kinh mỗi tối và do thói quen đó mà Jayden vẫn đều đặn đọc kinh mỗi tối cho đến ngày hôm nay.

Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Khi chúng ta thiệt thòi cái gì, Chúa sẽ đền bù cái khác cho chúng ta.

Những thử thách, những sự hy sinh, chịu đựng, những khó khăn, đau khổ, sau khi qua đi rồi, thông thường chúng ta được đền bù điều gì đó, cái gì đó tốt hơn.

** Nếu tôi không ở tù khổ sai gần 8 năm trong các trại cải tạo lao động của cộng sản, đã chịu đựng đói khổ triền miên, đã chịu nhiều đau khổ từ tinh thần đến vật chất từ trại Long Thành, Thủ Đức, Lào Cai, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh… Nếu ở tù dưới ba năm, tôi sẽ không được xếp vào diện HO, được đi cả gia đình (6 người) sang Mỹ định cư.

Ngày hôm nay các con tôi đều có gia đình riêng, có công ăn việc làm ổn định. Nếu không có đi tù cộng sản, tôi và các con tôi chắc cũng còn ở lại Việt Nam, đâu có hưởng được đời sống tự do, cuộc sống tiện nghi, ổn định, bình an. Riêng tôi không còn sợ cộng sản quấy nhiểu, theo dõi, hay bắt tôi bỏ tù lần nữa, tập trung cải tạo lần nữa.

Tạ ơn trời để cho tôi đã chịu đựng được những khó khăn, đau khổ gần 8 năm trong các trại cải tạo khắc nghiệt ở miền Bắc Việt Nam.

(Bỏ đỡ đầu của Phùng Quốc (2 người bên trái) cùng với gia đình  chụp hình kỹ niệm với Cha Chánh Xứ)

 

 

 

 

 

Phùng Quốc đã rửa tội trong mùa dịch Virus Corona

Phùng Văn Phụng

Ngày 05/05/2021

Dịch bệnh dưới góc nhìn của Kinh Thánh

Dịch bệnh dưới góc nhìn của Kinh Thánh

Những ngày này chúng ta hồi hộp với đại dịch virus corona. Số người tử vong và mắc bệnh tăng lên từng giờ. Đó chưa đến mức thảm họa, nhưng chắc chắn là bầu không khí u ám phủ đầy Trung Quốc, những nước lân cận và cả thế giới. Dĩ nhiên trước con virus này, ai cũng hy vọng các nhà khoa học sớm tìm ra phương thuốc chữa trị!

Trong lịch sử lúc nào cũng có bệnh tật. Thi thoảng nhân loại phải đương đầu với đại dịch cướp đi sinh mạng của vô số nạn nhân (HIV/AIDS, Đậu mùa, Sởi, Lao, Sốt rét, SARS, Ebola, v.v…). Trong Kinh Thánh, chúng ta cũng có thể đọc được những trình thuật nói về những lần đại dịch bệnh xẩy ra. Qua đó, chúng ta được nhiều bài học từ những lần đại dịch này.

  1. Thiên Chúa ở đâu trong các tai ương?

Vào thời cổ đại, người ta chứng kiến hằng loạt tai ương dân Ai Cập phải gánh chịu. Số là vua Pharaô một mực không để cho dân Ít-ra-en xuất hành trở về quê hương. Sau khi Môsê là người lãnh đạo dân, không thể thuyết phục Pharaô, Đức Chúa cho nước biến thành máu[1], nạn ếch nhái đánh phạt toàn thể lãnh thổ Ai Cập; nạn ruồi, muỗi, nhặng hoành hành. Từng đó tai ương vẫn chưa lay động lòng cứng cỏi của Pharaô. Thiên Chúa tiếp tục phái ông Môsê đến nói với Pharaô: “Hãy thả dân Ta ra, để chúng thờ phượng Ta” (Xh 9,1). Ông vẫn cố chấp. Hệ quả tiếp theo là ôn dịch xảy ra giết chết mọi xúc vật của người Ai Cập. Ngoài ra, khắp vùng phải chịu nạn châu chấu, cảnh tối tăm.

Tai họa sau cùng là các con trai đầu lòng Ai Cập đều bị sát hại. Tất cả vì lòng chai dạ đá của nhà vua mà thần dân của ông phải chịu biết bao tai họa. Những tai họa, dịch bệnh vẫn thường xảy ra. Thiên Chúa không tạo ra những tai ương đó! Kinh Thánh vận dụng các yếu tố thiên nhiên để diễn tả rằng: “tất cả ở trong quyền năng của Thiên Chúa.”

Rời Ai Cập, dân Chúa phải lang thang trong sa mạc 40 năm. Nơi đây, chính dân Chúa cũng nhiều lần cứng lòng tin, chối bỏ Thiên Chúa. Họ đòi  trở lại Ai Cập, vì trong sa mạc quá hà khắc và tương lai mịt mù. Thiên Chúa đã cho rắn độc đến sát hại nhiều người. Chính Đức Chúa lại cho họ phương thuốc chữa trị khi bị rắn cắn (x. Ds 21,4-9).

Cũng trong thời gian này, người dân Ít-ra-en phải đối diện với nhiều dịch bệnh[2]. Một trong những cơn đại dịch bệnh mà nó kéo dài cho tới thời đại chúng ta: bệnh phong (x. Ds 12, 10-15 và Đnl 24,8-9). Dĩ nhiên thời đó không có thuốc chữa. Họ cũng chẳng biết đó là con vi khuẩn Mycobacterium leprae (Hansen) tấn công. Tất cả bệnh nhân phong đều phải cách ly tuyệt đối và họ chết dần chết mòn với căn bệnh này.

Dù trong thời nào đi nữa, bệnh dịch luôn là nỗi ám ảnh cho con người. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm được: Thế nào là sự bất lực, giới hạn và đau khổ của kiếp người! Bệnh tật khiến con người ý thức về cái chết nhiều hơn. Trong nỗi đau đớn đó, nhiều người gào thét lên: “Thiên Chúa ở đâu trong khi con phải chịu căn bệnh này?”

Vâng, Thiên Chúa vẫn có đó, Ngài hiểu được những gì con người phải gánh chịu. Thời Cựu Ước và Tân Ước, người Do Thái nhìn nhận bệnh tật trong tương quan với Thiên Chúa. Khi bệnh dịch xuất hiện, họ than thở với Chúa (x. Tv 38) và xin Ngài cứu chữa. Thực vậy, khi họ trở về nẻo chính đường ngay, Thiên Chúa sẽ ra tay quyền lực để cứu họ. Thiên Chúa không vắng bóng khi dịch bệnh hoành hành.

Vả lại, bệnh tật có khi trở thành con đường hoán cải. Và Thiên Chúa có tha thứ thì bệnh nhân mới được lành (x. Tv 32,5; 107,20; Mc 2,5-12). Nghe có vẻ ngồ ngộ trong thời đại của chúng ta! Tuy vậy, đó là quan niệm rất xa xưa trong dân Do Thái. Không có khoa học, y khoa tân thời, dân Ít-ra-en tin rằng bệnh tật liên quan cách huyền nhiệm với tội lỗi và sự dữ. Do đó, càng trung thành giữ luật Chúa, họ càng tránh xa được dịch bệnh, tật nguyền. Họ tin chính Thiên Chúa ban cho họ sự sống, “vì Ta là Chúa, là Lương Y của ngươi.” (Xh 15,26).

  1. Thời Tân Ước với những căn bệnh

Cần lưu ý rằng Cựu Ước cũng như Tân Ước đều khởi đi từ cái nhìn đức tin: Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và là chủ tể muôn loài muôn vật và lịch sử. Thiên Chúa có thể dùng mọi biến cố, kể cả dịch bệnh để dạy dỗ con người. Thiên Chúa luôn cứu con người khỏi dịch bệnh, khi họ kêu cầu, thống hối.

Trước khổ đau của nhân loại, Đấng Cứu Độ đã xuất hiện: Đức Giêsu Kitô. Ngài không giấu giếm sứ mạng của mình nơi trần gian là: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. (x. Lc 2,18-19). Chỗ khác, Tin Mừng ghi lại sứ mạng của Đức Giêsu: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (Mt 11,2-6). Sứ mạng ấy vẫn tiếp diễn trong năm 2020 này, và cho đến muôn đời.

Có thể nói lời rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu thường đi đôi với những phép lạ. Vì Đức Kitô cảm thương người bệnh tật và chữa lành nhiều kẻ yếu đau (x. Mt 7,24), nên Ngài chữa lành họ với quyền năng và lòng thương xót[3]. Từ những ai bị quỷ ám, câm điếc, bại liệt, kinh phong, cho đến những người đã chết, Chúa Giêsu đã đoái thương họ. Đó là dấu chỉ tỏ tường Thiên Chúa viếng thăm dân người (Lc 7,16) và Nước Trời đã gần kề.

Đừng quên chính Đức Giêsu cũng mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. (x. Mt 8,17; Is 53,4). Nhờ đó, con người được giải thoát khỏi tội lỗi, bệnh tật và cái chết.

Sau khi phục sinh, chính Đức Giêsu sai phái các môn đệ, các tông đồ đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.” (Mc 6,12-13). Thuở Giáo Hội sơ khai, người ta đã chứng kiến nhiều phép lạ xảy ra[4]. Suốt dòng lịch sử Giáo Hội, phép lạ chữa lành bệnh tật cũng không thiếu. Nhất là những ai có dịp đến những nơi hành hương (Lộ Đức, Fatima hoặc Đức Mẹ La Vang, v.v…) có thể thấy biết bao dấu tích, câu chuyện và lời tạ ơn về sự chữa lành của Thiên Chúa.

Đó là quyền năng và sự lạ lùng của Thiên Chúa. Ngài có tự do để chữa cho người này khỏi bệnh, người kia gặp thầy gặp thuốc. Chắc chắn thân phận con người không thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, khi chúng ta gặp phải bệnh dịch, “Thiên Chúa muốn cứu chữa chúng ta cả xác lẫn hồn, Người mời gọi ta tin nơi Người và nhận ra rằng Nước Chúa đang đến.” (Youcat 241).

Trong dịch bệnh, Thiên Chúa không bỏ con người. Chính Thiên Chúa mời gọi con người nên tin tưởng vào quyền năng Chúa. Dĩ nhiên không ai muốn dịch bệnh, nhưng nó vẫn thường xảy ra.

  1. Lời kết

Chắc luôn còn đó những thắc mắc liên quan đến dịch bệnh xảy ra trong đời thường. Trong bản văn Kinh Thánh cũng thế. Một mặt, chúng ta thấy Thiên Chúa có vẻ “trừng phạt” dân (nhất là trong Cựu Ước), vì dân chống lại Thiên Chúa, họ không tin vào Ngài nữa. Mặt khác, khi dịch bệnh bào mòn sức khỏe con người, dân mới nhận ra lỗi lầm của mình, mà trở về với Thiên Chúa. Kết quả là họ được chữa lành và tiếp tục dấn thân.

Chúng ta đang sống trong thời đại của kỹ thuật khoa học, của những phát minh vĩ đại về y khoa. Mọi bệnh tật đều có nguyên nhân. Các nhà khoa học tin rằng mình có thể tìm ra phương pháp chữa trị. Nhiều người hoàn toàn không tin vào những chuyện “vớ vẩn”: van xin Thiên Chúa ra tay chữa lành. Với họ, tôn giáo và khoa học, hay y khoa hoàn toàn tách biệt! Tiếc rằng các nhà khoa học luôn bị thách đố bởi nhiều dịch bệnh mới. Nó như con quái vật, chặt đầu này nó mọc ra đầu khác, ngày càng hung dữ hơn. Vi trùng và virus luôn có những biến tướng. Nhiều thứ vi trùng, virus đã kháng thuốc, phải tìm thuốc mới. Khoa học vẫn không toàn năng!

Là người tín hữu, chúng ta có cái nhìn khang khác mỗi khi dịch bệnh xảy ra. Người quá khích cho đó là quả báo của những người tàn ác, chống lại Thiên Chúa. Người đạo đức cho rằng đó là dấu chỉ để mời gọi họ trở về với Thiên Chúa. Không ít người van xin Thiên Chúa soi sáng cho các nhà nghiên cứu tìm ra phương thuốc chữa trị. Trên hết, chúng ta tin rằng dù có khổ đau, bệnh tật, Thiên Chúa không bỏ con người. Ngài hằng ở với và đồng cam cộng khổ với con người. Từ đó, chúng ta được cứu độ và giải thoát.

Trước dịch virus corona, Đức Giáo Hoàng Phanxicô rơi lệ cầu nguyện cho các nạn nhân. Ngài nói thêm:

“Tôi mong ước gần gũi và cầu nguyện cho những bệnh nhân gây bởi virus đang lan rộng khắp Trung Quốc. Xin Thiên Chúa đón nhận những người đã qua đời trong bình an của Ngài, an ủi gia đình của họ và nâng đỡ sự dấn thân lớn của cộng đồng Trung Hoa.”

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

[1] Tác giả Kinh Thánh mượn yếu tố tự nhiên để làm nổi bật uy quyền toàn năng của Thiên Chúa.
[2] Xem sách Lêvi chương 13: mụn, lác, đốm; ung nhọt; phỏng; chốc; mày đay; sói đầu.
[3] Chữa người phong hủi (Mc 1, 40-42); Người chữa lành hai người mù (Mt 20, 29-34; Mc 10, 46-52); Người làm cho người câm nói được (Lc 11, 14); chữa người phụ nữ băng huyết (Mt 9, 20-22; Mc 5, 25-34); và Người làm cho một bé gái sống lại (Mt 9, 18. 23-25; Mc 5, 35-42).
[4] Xem thêm: https://thsedessapientiae.net/cac-phep-la-trong-sach-cong-vu-tong-do/

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thiên Chúa là tình yêu.  Con người là họa ảnh của Thiên Chúa.  Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian.  Thế gian cần có tình yêu để tồn tại.  Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đọa đầy. 

Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời.  Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ.  Tình yêu là lẽ sống còn của con người.  Con người không có tình yêu sẽ đầy đọa mình và làm khổ anh em.

Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau.  Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh.  Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau.  Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.

Em bé trong Tin Mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn.  Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói.  Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn.  Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình.  Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.

Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Đôi khi chúng ta cũng áy náy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ.  Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua.  Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.

Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng.  Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ.  Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi.  Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn.  Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi.  Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.

Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết.  Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng.  Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.

Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta.  Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời.  Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh.  Có thể là những cơ hội cứu sống người khác.  Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân.  Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình.  Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân.  Tha nhân là hiện thân của Chúa.  Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa.  Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình.  Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân. 

Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người.  Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi.  Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau.  Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta.  Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương. 

Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh.  Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Từ mọi thành phần.  Từ mọi tầng lớp.  Ngài đều thi ân giáng phúc.  Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn.”  Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm.”  Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu.  Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé.  Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu.  Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng.  Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài.  Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người.  Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen! 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

From: Langthangchieutim

MẢNH ĐẤT GIÀU

MẢNH ĐẤT GIÀU

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai có tai để nghe, thì hãy nghe!”

Một nghệ sĩ vĩ cầm bất ngờ khám phá tiếng đàn của mình có tác dụng thôi miên người nghe; anh cũng thấy tác động này trên các vật cưng trong nhà.  Và anh tự hỏi, điều ấy sẽ thế nào đối với những thú hoang?  Và ngày kia, đến một bìa rừng, anh cất tiếng đàn.  Điều kỳ diệu đã xảy ra!  Một con sư tử cái, một con voi và một con khỉ lao vào chỗ anh, chúng say mê lắng nghe.  Chẳng mấy chốc, động vật các loại đến chật ních.  Đột nhiên, một con sư tử khác lao ra khỏi rừng, vồ lấy người nghệ sĩ.  Sư tử cái hét lên, “Sao ông làm thế?”  Sư tử đực khum hai chân sau đôi tai đáp, “Cái gì?”

Kính thưa Anh Chị em,

Con sư tử đực kia xem ra không có một ‘đôi tai nội tâm’ và một ‘mảnh đất giàu’ bên trong như các con thú khác.  Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một ‘đôi tai’ và một ‘mảnh đất giàu’; nhưng ‘đôi tai’ Chúa Giêsu nói đến có nhiều điều hơn đôi tai thể lý.  Ngài nói đến một ‘đôi tai’, qua đó, chúng ta có thể nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý Thiên Chúa từ một ‘mảnh đất giàu’ của linh hồn.

Bằng nhiều cách, Chúa Giêsu nói Lời Thiên Chúa cho chúng ta, nhưng chúng ta có lắng nghe và sẵn sàng để Lời Ngài thấm nhuần hay không, điều này tuỳ thuộc nội tâm mỗi người.  Chỉ khi chăm chú vào Lời Ngài, chúng ta mới có thể nắm bắt ý muốn của Thiên Chúa; cùng lúc, tâm hồn chúng ta phải là một ‘mảnh đất giàu.’  Để có được ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ trong tâm hồn, quả không dễ!  Vì sẽ dễ hơn rất nhiều để đất khô cằn, gai gốc, sỏi đá và không đón nhận.  Vậy, làm sao để nuôi dưỡng một tâm hồn hầu nó có thể trở nên một ‘mảnh đất giàu?’

Để bắt đầu công việc này, một trong những nơi quan trọng nhất là chúng ta phải đi xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn.  Khiêm tốn, cuối cùng, là nhìn nhận sự thật về con người mình; và đặc biệt, nhận thức được sự cần thiết của ân sủng Thiên Chúa trong đời.  Việc khiêm tốn thừa nhận chúng ta bất lực nếu không có ân sủng là một điều cần thiết trước tiên để tạo ra một ‘mảnh đất giàu’ nội tâm; từ đó, chúng ta hoàn toàn cậy trông vào Chúa.  Lần đầu tiên, khi hạ mình xuống tận ‘vùng trũng’ lòng mình, tựa nương vào Đấng Quyền Năng, chúng ta bắt đầu ở trong tư thế sẵn sàng lắng nghe khi Thiên Chúa nói; và lúc Ngài mở lời, qua ‘đôi tai nội tâm’, chúng ta vui mừng lắng nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý; tức là vâng lời.  Chỉ khi đó, hoa trái tốt lành của lòng thương xót Chúa mới có thể đổ vào cuộc sống chúng ta và qua chúng ta, đổ vào cuộc đời những người khác.

Bài đọc Xuất Hành hôm nay là một minh họa cho thấy thái độ lắng nghe với ‘đôi tai nội tâm’ của Môisen và Aaron, những con người có những ‘mảnh đất giàu.’  Bị dân ta oán giữa sa mạc với những lời lẽ khó nghe nhất, “Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê!”, Môisen và Aaron vẫn không một lời phàn nàn hay khiển trách, một chỉ khiêm tốn lặng thinh, chờ đợi để lắng nghe Thiên Chúa.  Và Thiên Chúa đã phán cùng Môisen để ông nói lại cho dân, “Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê!”   Quả đúng như vậy!  Thú vị thay, ở sách Dân Số, Môisen sẽ nói với dân, “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi!”  Thánh Vịnh đáp ca hôm nay xác nhận điều đó, “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ!” khi Ngài cho chim cút và sương mai rơi rợp trại!

Anh Chị em,

Không ai đã bước xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn bằng Thiên Chúa.  Bằng chứng là dân, miệng vừa, “Vang lên muôn lời ca, ta ca ngợi Chúa!”, lại vừa ta oán Ngài.  Vậy mà, Thiên Chúa vẫn chịu đựng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe họ.  Ngày nay, vẫn vị Thiên Chúa đó, đang bước xuống trong Chúa Giêsu Kitô.  Ngài đã bước xuống thật thấp, thấp đến nỗi hiến mình treo cao trên nhục hình thập giá; thấp đến nỗi hiến mình lấy Máu Thịt nuôi dưỡng nhân loại trên các bàn thờ.  Ôi, một nhân loại vĩ đại, cao quý!  Chúng ta có nhận ra điều đó không, hay suốt ngày chỉ kiếm tìm những gì thỏa mãn cơn đói vật chất và để cho ‘đôi tai tâm hồn’ mình điếc đặc.  Chớ gì mỗi ngày, chúng ta biết cần mẫn khiêm tốn cúi xuống mảnh đất tâm hồn để nhặt đi những hòn sỏi ích kỷ, nhổ đi những cọng cỏ kiêu căng, hầu hạt giống Lời Chúa có thể mọc lên từ một ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin đừng để hạt giống Lời Chúa chết nghẹt nơi con; nhưng cho con biết cộng tác với ân sủng, từ việc đón nhận với ‘đôi tai nội tâm’ nhạy bén đến việc ra sức vun xới cho tâm hồn trở nên ‘mảnh đất giàu’; nhờ đó, Lời Chúa có thể sinh hoa trái cho linh hồn con và anh em con.  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

SỨC MẠNH CỦA NGUYỆN CẦU

SỨC MẠNH CỦA NGUYỆN CẦU

Một phụ nữ bước vào cửa tiệm tạp hóa lớn, cô ngó quanh dáo dát rồi đến bên quầy tính tiền nói với ông chủ.

“Thưa ông, tôi cần mua một ít thức ăn, nhưng tôi không có tiền ngày hôm nay. Ông có thể cho tôi mua chịu được không? Tôi hứa sẽ đem tiền đến trả ngay khi sớm nhất có thể.”, cô cuối đầu ngượng ngùng nói.

“Oh, không được đâu. Tôi đâu biết cô là ai? Làm sao tôi có thể bán chịu cho cô khi cô chưa từng là khách quen ở cửa tiệm tôi?”, ông chủ lắc đầu.

Nước mắt lưng tròng, người phụ nữ van xin: “Chồng tôi bị bệnh nặng, không thể đi làm được. Chúng tôi có 5 đứa con, và chúng đang rất đói. Xin ông hãy rủ lòng thuơng giúp đỡ cho một lần này thôi. Tôi hứa khi có tiền sẽ đem đến trả ông ngay!”.

Ông chủ tiệm chỉ tay ra phía cửa nói: “Cô vui lòng ra khỏi đây ngay. Đừng cản trở tôi mua bán chứ. Khách đang xếp hàng sau lưng cô kia kìa …”.

Từ phía sau người phụ nữ, một người đàn ông nãy giờ đã nghe 2 người đối thoại bước lên. Ông nói: “Hãy để tôi ứng tiền cho cô ấy, ông cứ để cô ấy lấy những gì cô ấy cần.”

Người chủ tiệm nhìn 2 người, lưỡng lự một chút, rồi ông ta chợt nảy ra ý tưởng hay. Ông hỏi người phụ nữ: “Cô có biết cô cần mua gì không? Nếu biết thì hãy viết ra giấy đưa cho tôi.”.

Người phụ nữ mừng rỡ nói: “Vâng, thưa ông. Tôi sẽ viết ngay đây.”

Nhưng ông chủ tiệm lại tiếp: “Viết xong đưa tờ giấy đó cho tôi, tôi sẽ bỏ lên bàn cân này. Nó nặng bao nhiêu thì cô cứ lấy những gì cô cần cho đến khi đủ. Tôi sẽ không tính tiền những gì cô lấy!”. Ông chủ tiệm cúi xuống gầm lôi lên bàn một cái cân to tướng, và chỉ vào một phía.

Người phụ nữ và ông khách phía sau ngạc nhiên trước thái độ ông chủ, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Người phụ nữ lục trong túi xách một mảnh giấy nhàu nát, cô run run viết lên tờ giấy đó .. Rồi cô gấp đôi tờ giấy lại đưa cho ông ta.

Ông chủ tiệm nhếch mép cười, rồi bỏ tờ giấy lên một bên cân. Nhưng lạ thay, mảnh giấy từ từ chìm xuống cho đến đụng đáy trước sự ngạc nhiên của 3 người. Người phụ nữ vội đi gom thức ăn bỏ vào bên thau bên kia, nhưng dù cô có bỏ lên bao nhiêu, phía bên tờ giấy vẫn không nhúc nhích. Ông chủ tiệm nhìn kỹ 2 bên cân, nhưng rõ ràng nó không có gì khác thường …

Cho đến khi thau đồ đã đầy, ông chủ tiệm đành để người phụ nữ ôm túi đầy thức ăn bước ra tiệm mà không thể tính tiền trước sự ngạc nhiên của người khách lạ.

Ông chủ tiệm lật hẳn cái cân lên coi, thì ra phía dưới một bên cân đã gãy. Ông tức tối nhặt tờ giấy người phụ nữ gấp lại mở ra để xem cô đã lấy đi những gì của ông, thì ra cô chẳng hề viết list đồ cô cần mua, mà chỉ vỏn vẹn có giòng chữ:

“Lạy Chúa, Người biết chúng con đang cần gì, con xin phó thác tất cả trong tay người.”

Ông chủ tiệm nhắm mắt ngước lên Trời, giờ thì ông đã hiểu …

Bạn, xin hãy đừng đánh giá thấp một lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng bao nhiêu.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,

 Lời nguyện

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng, thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa, dối trá,
xin được sống chân thật, đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc, đam mê,
xin được sống hồn nhiên, thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỷ người kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

NIỀM VUI – MỘT DẤU CHỈ CỦA THIÊN CHÚA

NIỀM VUI – MỘT DẤU CHỈ CỦA THIÊN CHÚA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chỉ có một nỗi buồn thực sự, đó là không làm thánh được!  Tiểu thuyết gia, triết gia người Pháp, Leon Bloy đã kết thúc quyển tiểu thuyết Người phụ nữ nghèo (The Woman Who Was Poor) bằng câu nói thường xuyên được trích dẫn này.  Còn đây là một câu khác của Leon Bloy ít được trích dẫn hơn, nhưng rất hữu ích để giúp ta hiểu lý do vì sao lại buồn khi không được làm thánh!  Niềm vui là dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống của một tâm hồn có Chúa trong lòng.

Niềm vui không chỉ là một dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống thuộc về Thiên Chúa, nó còn là dấu chỉ của một cuộc sống có Thiên Chúa.  Niềm vui cấu thành cuộc sống nội tâm có Thiên Chúa.  Thiên Chúa là niềm vui.  Đây là điều mà chúng ta không dễ gì tin.  Vì nhiều lý do, chúng ta thấy thật khó để nghĩ về một Thiên Chúa hạnh phúc, vui vẻ, thoải mái, tự tại và mỉm cười (theo lời Julian thành Norwich).  Kitô Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, dù có nhiều khác biệt, nhưng đều có điểm này là điểm chung.  Trong nhận thức chung của mình, chúng ta hình dung Thiên Chúa là người nam, độc thân, và thường không hài lòng, thường thất vọng về chúng ta.  Chúng ta khó nghĩ Thiên Chúa vui với cuộc sống chúng ta, và quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa là Đấng hạnh phúc, vui vẻ, tự tại và mỉm cười.

Sao lại có thể khác được chứ?  Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng tạo ra mọi sự tốt lành và mọi sự tốt lành đều đến từ Thiên Chúa.  Mà trên đời này, có sự gì tốt đẹp hơn hạnh phúc, vui vẻ, tiếng cười và vẻ đẹp mang lại sự sống của một nụ cười nhân hậu?  Rõ ràng là không.  Những điều này cấu thành sự sống thiên đàng và là những gì làm cho cuộc sống trên đời này đáng sống.  Chắc chắn chúng phải phát xuất từ Thiên Chúa.  Và như thế có nghĩa, Thiên Chúa vui vẻ, Thiên Chúa là niềm vui.

Nếu đúng thế, mà đúng thế thật, thì chúng ta không nên xem Thiên Chúa như một người yêu hay thất vọng, một người chồng hay giận dữ, một người mẹ hay đau lòng, cau mày trước những thiếu sót và phản bội của chúng ta.  Đúng hơn, chúng ta phải hình dung Thiên Chúa như người ông, người bà, vui mừng trước cuộc sống và sinh lực của chúng ta, thoải mái với những kém cỏi của chúng ta, tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta và luôn mãi nhẹ nhàng dỗ dành hướng chúng ta đến những gì cao đẹp hơn.

Một phần đang ngày càng phát triển trong dòng văn học hiện đại, gợi ý rằng sự hiện diện thuần khiết nhất của tình yêu và niềm vui trên trái đất này không phải là những gì giữa các tình nhân, giữa vợ chồng, hay thậm chí giữa bố mẹ và con cái.  Trong những mối quan hệ này, có đủ căng thẳng và sự vị kỷ không thể tránh khỏi và cũng không phải là chuyện lạ lùng gì, và chính chúng làm cho sự thuần khiết và niềm vui của các mối quan hệ này bị phủ lên một màu khác.  Nhưng điều này lại không mấy đúng trong quan hệ giữa ông bà và cháu chắt.  Mối quan hệ đó ít căng thẳng và vị kỷ hơn, thường là sự hiện diện thuần khiết của tình yêu và niềm vui trên trái đất này.  Trong mối quan hệ này, sự phấn khởi tuôn trào tự do hơn, thuần khiết hơn, đẹp đẽ hơn, và phản chiếu thuần khiết hơn những gì nội tại của Thiên Chúa, cụ thể là niềm vui và phấn khởi.

Thiên Chúa là tình yêu, Kinh Thánh cho chúng ta biết như vậy, nhưng Thiên Chúa còn là niềm vui.  Thiên Chúa là nụ cười nhân hậu của người ông người bà nhìn ngắm con cháu với niềm tự hào và phấn khởi.

Tuy nhiên, làm sao điều này hợp với đau khổ, với khổ nạn phục sinh, với một Đức Kitô chịu khổ nạn dùng máu và thống khổ để chuộc tội chúng ta?  Niềm vui của Thiên Chúa nằm ở đâu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu đau đớn trên thập giá?  Cũng vậy, nếu Thiên Chúa là niềm vui, làm sao chúng ta giải thích biết bao lần cuộc sống của chúng ta, dù chân thành tin tưởng và dâng hiến, lại chẳng cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, tiếng cười?

Niềm vui và đau đớn không phải là hai thứ bất tương hợp.  Hạnh phúc và buồn sầu cũng thế.  Đúng hơn, chúng ta thường cảm nhận chúng cùng đi với nhau.  Chúng ta có thể rất đau đớn mà vẫn hạnh phúc, cũng như chúng ta có thể không đau đớn, thấy khoái lạc, nhưng lại bất hạnh.  Niềm vui và hạnh phúc được khẳng định dựa vào một điều gì đó tồn tại được qua đau đớn, cụ thể là ý nghĩa, nhưng chuyện này không dễ gì hiểu được.  Chúng ta có xu hướng mang một ý niệm hời hợt vô ích về cấu thành của niềm vui và hạnh phúc.  Với chúng ta, chúng bất tương hợp với đau đớn, thống khổ và buồn sầu.  Tôi tự hỏi nếu vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu đang bị treo trên thập giá, mà có người hỏi “Ngài có hạnh phúc khi ở trên đó không?” thì Chúa sẽ trả lời thế nào.  Tôi cho rằng Ngài sẽ nói tương tự thế này. “Nếu ngươi hình dung hạnh phúc theo cách của ngươi, thì câu trả lời là không!  Ta không hạnh phúc!  Nhất là trong ngày hôm nay!  Nhưng giữa những thống khổ Ta trải qua hôm nay, Ta cảm nghiệm được ý nghĩa, một ý nghĩa quá sâu sắc đến nỗi nó bao hàm cả niềm vui và hạnh phúc đi kèm thống khổ.  Trong đau đớn, có một niềm vui và hạnh phúc thâm sâu từ việc hy sinh bản thân vì điều này.  Cái bất hạnh và thiếu vắng niềm vui như ngươi cảm nhận, là thứ đến rồi đi, nhưng ý nghĩa thì tồn tại mãi trong mọi cảm giác này.”

Biết được thế nhưng chúng ta vẫn không dễ gì chấp nhận Thiên Chúa là niềm vui và là một dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống thuộc về Thiên Chúa trong tâm hồn.  Tuy nhiên, biết được vậy là một khởi đầu quan trọng để dần dần chúng ta cảm nhận và ý thức thêm về nó.

Có một nỗi buồn thực sự khi không làm thánh.  Tại sao lại thế?  Vì khoảng cách giữa chúng ta với sự thánh thiện cũng là khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa, và khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng là khoảng cách giữa chúng ta với niềm vui.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Hành trang người môn đệ

 Hành trang người môn đệ

Điều gì quan trọng nhất??

CN 15 Thường niên – năm B. 

Lung Linh

Tin Mừng Chủ nhật 15 B Thường niên nói về việc rao giảng mà hiện nay chúng ta gọi là Loan báo Tin Mừng.

Trên internet chúng ta nhận được những lời khuyên thật chí tình:

Đây là những lời khuyên điển hình và giá trị nhất

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu.

Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác.

Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. 

Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương.

Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

***

Nhưng thực tế thì thế nào?

Từ lời khuyên tới thực hiện…từ lý thuyết tới thực hành..có một khoảng cách cả chục cây số!!!

Như vậy, chúng ta tha hồ khích lệ nhau..Hãy cố gắng mà chuẩn bị hành trang thật tốt để lên đường loan báo Tin Mừng…

Nhưng công cuộc Loan báo Tin Mừng dường như vẫn dậm chân tại chỗ

Hay nói u buồn hơn: công cuộc Loan báo Tin Mừng dường như bị chết yểu từ trong trừng nước..

Tại sao lại nói kiểu “Bùi Lan” – bàn lui hoặc ‘đâm sau lưng chiến sĩ’ như thế???

Vì những lý do sau:

Có tới hơn 90 % chúng ta vẫn nghĩ rằng:

Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha Là chuyện không tưởng.

Chúa thì thánh đức ngàn trùng, tôi thì thội lỗi phàm hèn…

Làm theo ý Chúa Cha Là chuyện mò kim đáy biển.

Làm sao biết chắc rằng đây là ý của Chúa Cha??? Toàn là đoán mò…!!!

Đây là 2 yếu tố nền tảng mà chúng ta không nắm được coi như chúng ta đã xây tòa nhà Loan Báo Tin Mừng trên cát mất rồi!!!

Sao lại xây trên cát: Vì lý do sau:

Dù tôi dụ được hàng ngàn người vào cộng đoàn..

Dù tôi thuyết trình hàng trăm lần trước hàng trăm cử tọa

Dù tôi đi Đông đi Tây, ra Bắc vào Nam để Loan Báo Tin Mừng

Dù tôi giúp cho nhiều người cảm thấy sống tốt hơn, vui vẻ hơn…

Nhưng còn chính mình thì sao nhỉ??? Chúa vẫn là người khách lạ ngay trong ngôi nhà tâm hồn mình.

Khi đi Loan Báo Tin Mừng, tôi lên kế hoạch thật hoàn hảo để đạt được hiệu quả cao. Đó chính là mục đích mà tôi phải đạt cho bằng được.

Còn chuyện Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha … Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới. Tôi chỉ thấy  tôi và một số anh chị em trong ban điều hành cùng nhau thực hiện thế nào cho thật hoành tráng.

Quả thực Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha Là chuyện không tưởng.

Kết luận:

Tới đây câu hỏi tựa để nêu ở trên cùng

Hành trang người môn đệ… Điều gì quan trọng nhất?

Đã có câu trả lời:

Nhận ra Chúa sống trong mình và tập sống kết hiệp với Ngài ngay trong đời sống hằng ngày của mình…

Làm sao nhận ra Chúa sống trong mình?

Thánh Phaolo nhắc nhở chúng tôi:

Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu. (Cv 17:28)  

Một ngày nào đó tôi có thể chọn một cử động nào đó như: lên xuống cầu thang; chạy xe đi làm, nhai cơm một mình…

Vừa cử động vừa lên xuống từng bậc thang, hay vừa vặn ga, hoặc vừa từ từ nhai cơm… vừa nhử lòng mình….từng cử động này đang được thực hiện trong Chúa…. Chúa Cha, Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần đều được..

Kiên trì tập ngày này qua ngày khác…tháng này qua thánh khác..năm này qua năm khác…Mỗi ngày khởi đầu khoảng  10 phút…30 phút…rồi 1 tiếng…đã là quý lắm rồi…

Chắc chắc một ngày đẹp trời nào đó.. tôi chắc chắn sẽ dần dần cảm nhận rằng mình quả thực đang sống từ nguồn sống của Ngài..

Lúc đó mới nói tới chuyện  Hoàn toàn kết hiệp với Chúa Cha.

Tất nhiên đây cũng chính là hành trang quan trọng nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng,

Thiếu điều này, tôi chỉ là một thùng rỗng… kêu hết sức to!!!

Nguồn  https://tramtubensuoi.blogspot.com/2021/07/hanh-trang-nguoi-mon-e-ieu-gi-quan.html

From: Kim Bang Nguyen

TÊN THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

TÊN THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

 Sương Mai

Mỗi người sinh ra đều được đặt một cái tên.  Tên hay còn gọi là danh xưng của một cá nhân nhằm xác định cụ thể và định dạng về một ai đó.  Nói đến tên là nói đến sự hiện hữu của người đó.  Mỗi cái tên mang một ý nghĩa và có một tầm quan trọng rất lớn.  Tên gắn bó với người đó trong suốt cuộc đời và còn mãi cho đến khi đã khuất tên vẫn còn “lưu truyền hậu thế,” như câu ngạn ngữ: “Hổ chết để da, con người ta chết để tiếng;” lưu truyền đó tốt hay xấu là do cách sống của ta.  Khi nói đến tên của ai đó ta nghĩ về cuộc đời và con người của họ.  Người Công giáo ngoài tên thường gọi, còn có tên Thánh, được đặt từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội.  Tên con người là thế, nhưng có ai đã đặt vấn đề: Con người sinh ra ai cũng có tên, vậy Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta, Ngài có tên không?  Và tên Ngài là gì?

Khi ta biết tên của ai đó là lúc ta bắt đầu biết về họ.  Chúng ta không ai biết tên Thiên Chúa.  Sở dĩ chúng ta biết tên Thiên Chúa là nhờ Ngài mạc khải chính tên của Ngài cho chúng ta.  Cho nên, khi con người biết tên Thiên Chúa là bước khởi đầu để con người có cơ hội biết về Ngài, và Ngài sẵn sàng thiết lập tương giao giữa Ngài với con người.  Điều này được thấy rõ trong Kinh Thánh Cựu Ước, khi Thiên Chúa mạc khải tên của Ngài cho dân qua Môsê trên núi Sinai (Xh 3,1-15).  Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết tên Ngài là Giavê (Yahweh), Đấng Tự Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob.”  Khi Thiên Chúa mạc khải tên của Ngài cũng là lúc Ngài mạc khải bản tính của Ngài.  Ngài là Thiên Chúa của tình yêu.

Theo dòng lịch sử của mình, Israel đã có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa chỉ có một động lực duy nhất khiến Ngài tự mạc khải cho họ, và chọn họ giữa mọi dân để họ là dân của Ngài: đó là tình yêu nhưng không của Ngài.  Nhờ các tiên tri, Israel hiểu rằng, cũng vì tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng giải cứu họ và tha thứ cho sự bất trung và tội lỗi của họ.  Tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel được so sánh với tình yêu của một người cha đối với con mình (Hs 11,1).  Tình yêu đó còn mạnh hơn tình yêu của một người mẹ dành cho con cái mình (Is 49, 14-15).  Thiên Chúa yêu dân Ngài hơn người chồng yêu người vợ yêu dấu của mình (Is 62,4-5). Tình yêu đó cũng chiến thắng những bất trung, tình yêu là tha thứ, và tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel là vĩnh cửu “tồn tại muôn đời” (Is 54,8).  “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi” (Is 54,10).  “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng thương xót” (Gr 31,3).  Tình yêu vĩnh cửu đó thể hiện rõ nhất qua việc “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16).  Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16), vì chính Hữu thể của Thiên Chúa là tình yêu.  Với mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh, tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể, rõ ràng qua dung mạo của Đức Giêsu Kitô.  Đức Kitô chính là lời mạc khải trọn vẹn về tình yêu Thiên Chúa.  Qua Con Một, Thiên Chúa mạc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Ngài: Chính Ngài là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và Ngài đã tiền định cho chúng ta được dự phần vào sự trao đổi tình yêu đó. (GLHTCG 218-221)

Chúng ta biết Tên của Thiên Chúa là Tình Yêu, và chúng ta được Thiên Chúa dựng nên bằng tình yêu của Ngài, khi Ngài cho con người giống hình ảnh Ngài, nên chúng ta được thông phần với tình yêu của Ngài.  Vì thế, tên của chúng ta cũng phải thể hiện được bản chất vốn sẵn có mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong mỗi người chúng ta đó là Tình Yêu.  Chúng ta được mời gọi hãy sống và phản chiếu dung mạo của Thiên Chúa là Tình yêu.  Khi ta sống trong tình yêu và thể hiện tình yêu ấy là ta đang sống đúng bản chất tình yêu như Thiên Chúa muốn ban tặng cho chúng ta; được kết hiệp nên một với Thiên Chúa, cuộc đời ta được tháp nhập hoàn toàn vào tình yêu của Ngài, dù tình yêu của ta nhỏ bé và giới hạn so với tình yêu của Thiên Chúa.

Từ muôn thuở Thiên Chúa đã khắc ghi tên ta là Tình yêu trong trái tim Ngài.  Ngài muốn hiện hữu cùng ta với tên gọi Tình yêu.  Ta là Tình yêu của Thiên Chúa.  Thế nhưng, đối với ta, Thiên Chúa có là Tình yêu của ta không?  Hay chỉ là một thụ tạo, một đam mê, một vui thú thế gian nào đó mới là tình yêu của ta?  Ta đã thực sự thông phần vào bản chất tình yêu mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong trái tim Ngài chưa?

Thân phận con người vốn mỏng manh, yếu đuối và dễ đổi thay.  Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can từng gang tấc nơi con người hơn bất cứ ai.  Ta đã từng khấn hứa giao ước tình yêu với Thiên Chúa, nhưng liệu ta có giữ mãi được lời thề hứa sắt son đó không?  Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu trung tín, không thay đổi; chỉ có tình yêu nơi con người mới đổi thay.  Thiên Chúa mãi mãi thể hiện đúng bản chất tình yêu của Ngài.

Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng có những lúc ta muốn buông xuôi tất cả, cảm thấy chán nản, thất vọng, đau khổ, sợ hãi, căng thẳng, mệt mỏi…  Có những lúc tình yêu và lòng nhiệt huyết đi theo Chúa của ta không còn nồng nàn như thuở ban đầu, ta cảm thấy tình yêu ta dành cho Chúa sao hời hợt, tẻ nhạt quá.  Dù như thế, ta hãy nhớ ta vẫn mãi là Tình yêu của Thiên Chúa vì ngay cả khi ta không trung tín với Ngài thì Ngài cũng vẫn tín trung, vì Ngài không thể nào tự chối bỏ chính mình (2Tm 2,13).  Dù ta có như thế nào Thiên Chúa chỉ muốn ta một điều đó là không được thay đổi tình yêu.  Tình yêu là chất keo gắn kết ta với Chúa và giúp ta hiệp thông với anh chị em.  Trung thành trong tình yêu là điều cần thiết để theo Ngài.  Cuộc sống có lúc thăng, lúc trầm, điều đó giúp cho cuộc sống ta thêm phong phú hơn, nó như một bản nhạc cuộc đời làm cho ta thêm khởi sắc hơn.  Ta hãy nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đức tin và trong cái nhìn tích cực để thúc đẩy ta trung thành với tình yêu giao ước thuở ban đầu của ta với Chúa.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sớm cảm nghiệm được tình yêu, nên ngài viết lên một lời bất hủ: “Trong lòng Giáo hội, con sẽ là Tình yêu.”  Một tình yêu âm thầm nhưng vĩ đại và sâu sắc.  Tình yêu của hoa hồng đầy gai nhưng tràn ngập hạnh phúc vì được yêu Chúa.  Chị thánh đã nói: “Tôi đã chẳng cho Thiên Chúa tốt lành điều gì ngoài tình yêu, và Ngài sẽ trả lại cho tôi chính tình yêu.”  Thánh nữ không chỉ là bông hoa bé nhỏ của Chúa Giêsu nhưng còn là của toàn Giáo hội, chị đã để lại một kho tàng quý giá là linh đạo “Con đường thơ ấu” với một tình yêu mạnh mẽ và vĩ đại.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã thương chọn gọi con, đã yêu thương con bằng mối tình muôn thuở, và đã khắc tên con trong trái tim Ngài.  Xin cho con biết thể hiện và sống đúng bản chất tên Tình yêu như Chúa.  Ước gì trái tim con luôn cùng nhịp đập với trái tim Ngài để con biết yêu thương như Ngài đã yêu bằng đời sống đức ái với anh chị em con.  Xin cho con được mãi trung thành với giao ước tình yêu mà Chúa dành cho con trong ơn gọi thánh hiến.   Amen!

 Sương Mai

Nguồn: https://dongten.net

LỜI DẶN DÒ CẦN THIẾT

LỜI DẶN DÒ CẦN THIẾT

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai.  Ngài cho các ông sống bên cạnh mình.  Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm.  Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo.  Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ.  Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ.  M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

*1) Hành trang người tông đồ                                                                           

 a)Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo.  Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu.  Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

  • Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.  Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

  • Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường.  Truyền giáo là ra đi.  Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.  Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”

  • Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu.  Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.  Đó là hành trang quan trọng hàng đầu.  Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.  Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

           b)Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc.  Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn. 

          c)Tương lai bấp bênh.  Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì.  Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó.  Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi.  Cần phải hy sinh bản thân.  Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi.  Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén.  Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.  Thành công cũng không thụ hưởng, mà thất bại cũng chẳng đắng cay.  Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghỉ trong những thành công tạm bợ… và không muốn ra đi.  Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ.  Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.  Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi.  Lên đường bao giờ cũng đẹp.  Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

*2) Phương thức hoạt động: “từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một,” Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9).  Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35).  Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15, 22)…  Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm.  Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu.  Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội.  Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

  • 3) Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì.”  Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống.”  Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó.  Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo.  Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23).  Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường.  Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34).  Có khi “mệt mỏi vì đường sá,” một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6).  Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.  Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).  Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên.  Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê.  Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống.  Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng.  Cánh huệ mọc ngoài đồng.  Đàn chim sẻ đang bay.  Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời.  Một mẻ cá lớn bên biển hồ.  Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn, giữa bụi gai, trên sỏi đá.  Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối.  Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi.  Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…  Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).  Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghỉ, hưởng thụ hay củng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình.  Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng.  Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ.  Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ.  Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.  Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.  Từ tòa đạo qua tòa đời.  Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô.  Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình.  Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá.  Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47).  “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).  Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết.  Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.  Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, củng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi.  Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.  Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghỉ.  Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới.  Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có.  Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.  Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần.  Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.  Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.  Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim