Ngoài Chúa Giêsu ra, Đức Maria còn có những người con khác nữa không?

Mến chúc bạn ngày Thứ 2 vui tươi và thật tốt lành trong Chúa. Tuần tới là bước vào Tuần Thánh rồi đấy nhé. Bạn chuẩn bị tâm hồn chưa?

Cha Vương

Thứ 2: 04/04/2022

GIÁO LÝ: Ngoài Chúa Giêsu ra, Đức Maria còn có những người con khác nữa không? Không. Chúa Giêsu là người con trai duy nhất của Đức Maria xét theo nghĩa huyết tộc. (YouCat, số 81)

SUY NIỆM: [Đây là câu hỏi mà nhiều giáo phái tin lành đã đặt ra. Hầu hết người Tin Lành ngày nay tin rằng Chúa Giêsu được sinh ra bởi một Trinh Nữ, nhưng không chấp nhận quan niệm là Ðức Mẹ đồng trinh trọn đời. Họ nghĩ rằng Đức Maria còn có những người con khác nữa.] Hội thánh sơ khởi đã quả quyết là Đức Mẹ đồng trinh trọn đời, điều này loại trừ việc có những anh chị em ruột thịt của Chúa Giêsu. Trong tiếng Araméen là tiếng mẹ đẻ của Chúa Giêsu, chỉ có một từ để chỉ anh em và chị em ruột cũng như anh em và chị em họ. Nên trong các Tin Mừng, khi nói đến “anh chị em” Chúa Giêsu (Mc 3,31-35 chẳng hạn) là nói đến anh chị em họ của Người. (YouCat, số 81 t.t)

❦ Nguyên thủy của Ngài [Đức Kitô] thì khác nhau, nhưng bản tính [con người] thì giống nhau. Phong tục và tập quán con người thiếu sót, nhưng bởi quyền năng một Trinh Nữ đã thụ thai, một Trinh Nữ đã sinh con, và Trinh Nữ vẹn toàn. (Thánh Giáo hoàng Leo I, Sermons 22:2 [A.D. 450]) 

❦ Vì thế, những ai từ chối rằng Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha nhưng chính thật, thì từ căn bản sự từ chối của họ, cũng chối bỏ Ngài mang thân xác con người từ Đức Maria trọn đời đồng trinh” (Thánh Athanasius, Discourses Against the Arians 2:70 [A.D. 360]). 

LẮNG NGHE: Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1:34)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, thật là một diễm phúc vì Mẹ đã được Thiên Chúa thánh hiến để trở thành đền thờ cho Ngôi Lời Nhập Thể ngự không thể còn được biết đến người nam theo nghĩa xác thịt nữa. Xin giúp con thấu hiểu ý sâu xa và cao cả này để sống xứng đáng là con của Mẹ.

THỰC HÀNH: Chạy đến Mẹ qua việc đọc 10 Kinh Kính Mừng, hãy xin Mẹ cất hết những nỗi ưu phiền trong tâm hồn bạn hôm nay nhé

From: Đỗ Dzũng

Thiên Chúa là chủ thời gian

Chúc bạn và gia đình ngày Chúa Nhật bình an và hạnh phúc nhé.

Cha Vương

CN: 03/04/2022

TIN MỪNG: Người phán như sau: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn. (Is 43:18-19)

SUY NIỆM: Sống trong xã hội quá bận rộn vì mưu kế sinh nhai đôi khi bạn quên đi một điều rất quan trọng đó là Thiên Chúa là chủ thời gian. Ngài là quá khứ, hiện tại và tương lai, Ngài hiện diện với bạn trong từng giây phút của cuộc đời, Ngài là hơi thở mà bạn hít thở hằng ngày. Giả như bạn có được tí thời gian để nghỉ ngơi thì những ký ức tiêu cực trong quá khứ lại ẩn hiện trong đầu cướp lấy sự bình an trong giây phút hiện tại. Lời Ngôn Sứ I-sai-a nhắc nhở bạn hôm nay hãy bỏ lại đằng sau những những trách móc hoặc những niềm đau của quá khứ mà hãy sống trong giây phút hiện tại. Chúa “sắp làm một việc mới” nơi bạn. Ngài có thể và sẽ hàn gắn những rạn nứt đang ngăn cản bạn sống một cuộc sống thanh thản và bình an. Điều then chốt là bạn có đủ can đảm để “buông bỏ và để cho Thiên Chúa” (let go and let God) làm việc nơi bạn hay không? Ký ức tươi đẹp của tuổi thơ, hình ảnh tích cực và lịch sử cuộc đời có khả năng mở ra cho bạn một cuộc gặp gỡ đích thực với bản thân, tha nhân và với Thiên Chúa. Vậy bạn hãy tận dụng nó và đừng quên Chúa luôn đồng hành với bạn trong mọi cảnh huống cuộc đời đó.

LẮNG NGHE: Quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su. (Pl 3:13b-14)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, thời gian mang đến cho con những trải nghiệm buồn vui, hành trình cuộc đời mang lại cho con những thành công và thất bại. Xin cho con luôn bám chặt lấy Chúa là chủ thời gian để mầm tình yêu trong con được nảy nên từ nguồn suối yêu thương là chính Chúa. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa.

THỰC HÀNH: Tập “buông” một chuyện buồn trong quá khứ và quyết tâm không “nhai đi nhai lại nữa”.

From: Đỗ Dzũng

Tại sao Đức Maria Đồng trinh?

Tại sao Đức Maria Đồng trinh?

Cảm ơn bạn đã cầu nguyện cho mình hôm qua cùng với những tiếng cười vui của ngày “April Fool”, mọi sự bình yên không có gì xảy ra cả. Một cuối tuần tốt lành bên Chúa và Mẹ yêu nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 02/04/2022

GIÁO LÝ: Tại sao Đức Maria Đồng trinh? Vì Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu Kitô có một người Mẹ thực sự là loài người, còn về Cha thì chỉ mình Thiên Chúa là Cha Người. Như thế Ngài muốn khai mở một sự khởi đầu mới nơi Chúa Giêsu, khởi đầu này được mọi người nhận biết là do chính Thiên Chúa là Cha, chứ không do bất cứ một quyền lực trần thế nào khác. (YouCat, số 80)

SUY NIỆM: Việc Đức Maria đồng trinh không phải là một ý niệm thần thoại lỗi thời, nhưng là điều căn bản cho cuộc đời Chúa Giêsu. Người được sinh ra bởi một phụ nữ nhưng Người không có Cha là loài người. Chúa Giêsu là một khởi đầu mới trong trần gian, do Thiên Chúa tạo nên. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Đức Maria hỏi Sứ Thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Sứ Thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,34-35). Dù từ những thế kỷ đầu tiên Hội Thánh đã gặp nhiều chế nhạo về việc Đức Maria đồng trinh, Hội Thánh vẫn luôn tin rằng Đức Maria đồng trinh thực sự chứ không phải tượng trưng. (YouCat, số 80 t.t)

❦ Điều mà đức tin Công giáo tin về Đức Maria đặt nền móng trên điều Hội Thánh tin về Chúa Kitô. (Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo 487)

❦ Nếu ai không tuyên xưng rằng: Đức Emmanuel là Thiên Chúa thật và Đức Maria là trinh nữ Mẹ Thiên Chúa… thì bị mắc vạ tuyệt thông. (Công đồng Ephêsô 431)

❦ Ở đâu đức tin về Mẹ Thiên Chúa lu mờ thì đức tin về Con Thiên Chúa và về Thiên Chúa cũng bị lu mờ. (Ludwig Feuerbach, Triết gia người Đức)

LẮNG NGHE: Sự đồng trinh của Đức Maria cho thấy mầu nhiệm Nhập Thể hoàn toàn do Thiên Chúa khởi xướng. Đức Giêsu chỉ có Thiên Chúa là Cha.” (Lc 2: 48-49)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, Mẹ được ân huệ do Thiên Chúa ban cho Mẹ để nhờ Mẹ con được đến gần Thiên Chúa. Con cảm ơn Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” để sinh Chúa vào đời. Xin giúp con sống một cuộc đời như Mẹ: đơn sơ, điềm tĩnh, khôn ngoan, hiền dịu và quả cảm.

THỰC HÀNH: Mời bạn đưa câu phương châm: “Qua Mẹ đến với Chúa” (Louis Grignion de Montfort) vào cuộc sống hằng ngày qua việc đặt trong tay Mẹ yêu mến tất cả sức khỏe, lo âu, bất ngờ, công việc và mọi điều vật chất của bạn.

From: Đỗ Dzũng

SUY TƯ VỀ GIUĐA ÍTCARIỐT

 SUY TƯ VỀ GIUĐA ÍTCARIỐT
Joe Heschmeyer

(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ)

Theo truyền thống, Thứ Tư Tuần Thánh được gọi là “Spy Wednesday,” (Thứ Tư Do Thám) vì đó là ngày tông đồ Giuđa phản bội Thầy Giêsu.  Đó là lời nhắc nhở chúng ta đã ít nghĩ về Giuđa… có lẽ vì chúng ta không thích những gì chúng ta biết.  Đây là 8 điều đáng để chúng ta suy tư:
 

  1. Giuđa Thuộc Nhóm Mười Hai

Nói chung, đó là điểm rõ ràng và không thú vị.  Nhưng đó là điều thực sự đáng cân nhắc.  Điều đó cho thấy rằng Giuđa là một trong số mười hai môn đệ đầu tiên được Đức Kitô truyền chức thánh trong Giáo Hội – được chính Chúa Giêsu tuyển chọn, Ga 6:70-71.  Điều đó gợi nhiều ẩn ý.

Vào lúc nào đó, Giuđa đã bỏ mọi sự để theo Đức Kitô (Mc 10:28).  Các câu chuyện như vậy thật rắc rối.  Tôi nhớ rằng Charles Templeton là người đi loan báo Tin Mừng cùng với Billy Graham, nhưng rồi từ bỏ Kitô giáo và theo thuyết bất khả ngộ hoặc vô thần.  Có lẽ nhiều người cho rằng không thể có chuyện như vậy, thế nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật.  Thánh Phaolô biết lịch sử Israel, cho biết rằng nhiều người được Thiên Chúa cứu khỏi Ai Cập nhưng rồi lại từ bỏ Ngài và chết.  Thánh Phaolô nói: “Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1 Cr 10:12).  Giuđa nhắc chúng ta nhớ tới điều tương tự.  Nếu Giuđa có thể bỏ mọi sự và dành nhiều thời gian cho Đức Kitô, thậm chí là thân thiết với Ngài, mà vẫn sa ngã, bạn và tôi không nên tự phụ.  Nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta tiến bước.

  1. Giuđa Không Kỳ Cục

Không có lý do gì để tin rằng Giuđa là trường hợp duy nhất.  Nghĩa là dễ rơi vào cái bẫy suy nghĩ của Giuđa là trường hợp duy nhất trong lịch sử sa đọa đến nỗi ông có thể phản bội Chúa Giêsu như thế.  Dĩ nhiên điều đó không thật.  Ông không là Kitô hữu duy nhất, cũng chẳng là giáo sĩ duy nhất.  Chúng ta có gợi ý về điều này trong những lần thất bại của các môn đệ khác – chẳng hạn, Phêrô chối Thầy, hoặc các môn đệ khác bỏ của chạy lấy người khi Chúa Giêsu bị bắt.  Nhưng chúng ta có gợi ý về điều này trong Giáo Hội về các vụ bê bối ngày nay.
 

  1. Giuđa Che Giấu Cuộc Chiến Nội Tâm

Vấn đề của Giuđa không bắt đầu trong Tuần Thánh.  Đã có vẻ như Giuđa không là môn đệ trung thành, và rồi ông đã phản bội Chúa Giêsu không biết vì lý do gì.  Không phải vậy, có một đường dài dần dần ông chuyển từ ánh sáng sang bóng tối.  Trong Ga 6:70-71, Chúa Giêsu cho biết rằng Giuđa thoái hóa, khi đó Ngài nói về Thánh Thể.  Sau khi Ngài nói rằng thịt và máu Ngài là của ăn và của uống thật, nhiều môn đệ đã xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá!  Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60).  Phêrô nói thay cho cả Nhóm Mười Hai, xác tín vào Chúa Giêsu, nhưng lúc đó Ngài ám chỉ việc phản bội của Giuđa.  Có điều gì đó có vẻ buồn cho Giuđa.  Thánh sử Gioan cho chúng ta biết rằng Giuđa ăn cắp tiền (Ga 12:6).  Nếu bạn phạm tội trọng, đó là tội lăng nhăng ngoài hôn nhân hoặc tội gì đó, có cơ hội tốt để tội đó không là điểm khởi đầu.  Một loạt các hành vi xấu xa dẫn tới hậu quả rất tồi tệ.  Thánh Phanxicô Salê mô tả quá trình đó là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.” 

Một người vợ yêu dấu của người chồng, có người gởi tin nhắn cám dỗ người vợ này không chung thủy.  Thứ nhất, tin nhắn đó là đề nghị của người đàn ông kia.  Thứ hai, người vợ có thể chấp nhận hoặc từ chối.  Thứ ba, cô ta có thể bằng lòng hoặc khước từ.  Mặc dù vậy, khi Satan, thế gian, và xác thịt nhìn vào linh hồn gắn liền với Con Thiên Chúa, chúng đặt ra những chước cám dỗ và lời đề nghị với linh hồn đó, do đó – [1] Tội lỗi được đề nghị với linh hồn đó; [2] Lời đề nghị có thể làm vui hoặc không vui đối với linh hồn đó; [3] Linh hồn đó có thể bằng lòng hoặc từ chối.  Nói cách khác, có bộ ba là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.”  Mặc dù bộ ba này có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng và dễ nhận ra, mà chúng theo dấu trong các tội trọng. 

Thánh Giacôbê nói rằng có hệ lụy tất yếu: “Một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15).  Vấn đề ở đây không phải là Giuđa chiến đấu với cơn cám dỗ – tất cả chúng ta cũng vậy.  Mà vấn đề là Giuđa có vẻ chiến đấu một mình, cứ để chúng cắn rứt cho tới lúc dám phản bội Thầy.  Thánh Gioan nói: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19).  Ma quỷ phát triển trong bóng tối, thế nên nếu bạn chiến đấu về điều gì đó về tâm linh, hãy chia sẻ điều đó với một người mà bạn tin tưởng – một linh mục, một người uy tín, một người thân, một người bạn,… Và bạn sẽ ngạc nhiên thấy chước cám dỗ phải teo dần trong ánh sáng.
 

4.Giuđa Không Quan Tâm Thần Học

Là Kitô hữu, chúng ta thuộc về “Israel Mới.”  Nhưng điều đó có ý nghĩa gì?  Đáng nhớ tên gọi này có từ đâu.  Tổ phụ Giacóp được đổi tên thành Israel sau khi vật lộn suốt đêm với thiên thần.  Cuối cùng, thiên thần nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacóp nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng” (St 32:29).  Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa là Đấng trở thành sự cố gắng.  Và Giuđa có vẻ phiền vì sứ điệp của Chúa Giêsu, nhưng ông không quan tâm hoặc không muốn cố gắng.
 Một điều nổi bật về Giuđa là, qua các Phúc Âm, chúng ta không thấy ông nói về chính mình và tiền bạc.  Có lẽ những gì ông nói là tự thêu dệt hoặc kêu gọi về tài chính.  Trong Tuần Thánh, tại nhà ông Simon Cùi, cô Maria ở Bêtania xức dầu thơm hảo hạng lên chân Chúa Giêsu, Giuđa đã phản đối: “Phí dầu thơm như thế để làm gì?  Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo” (Mc 14:4-5).  Chúa Giêsu nói: “Cứ để cho cô làm.  Sao lại muốn gây chuyện?  Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa.  Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được!  Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!  Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng.  Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô” (Mc 14:6-9). 

Câu trả lời của Chúa Giêsu là thần học.  Khó có thể tưởng tượng rằng điều đó lại vô nghĩa đối với Giuđa, bởi vì ông không có ánh mắt cần thiết (ít là ngay lúc đó) để biết tại sao điều đó tốt đẹp đối với Thiên Chúa.  Lý luận của Giuđa là sự lạnh nhạt của thời hiện đại – những thứ tốt đẹp và mắc tiền như nước hoa phải bán đi để lấy tiền mua lương thực cho người nghèo, hoặc ít ra là để dằn túi của những người như Giuđa và những người có thói quan liêu. 

Nói cách khác, đó là lần duy nhất chúng ta nghe Giuđa yêu cầu điều gần gũi với vấn đề tôn giáo, điều thuần túy là “Phúc Âm công bình xã hội” không có chỗ cho sự siêu việt, vẻ đẹp, Thập Giá, hoặc Thiên Chúa.  Bức tranh về Giuđa nổi bật trong Tân Ước là con người không thể nắm bắt chiều kích “thẳng đứng” của Kitô giáo, nhưng là con người chỉ nghĩ theo chiều ngang.  Sự tập trung của ông có vẻ ít tập trung vào Thiên Chúa, mà tập trung vào con người – và cuối cùng là tập trung vào chính mình.

  1. Giuđa Không Tôn Kính Thánh Thể

Trước tiên, Giuđa có vẻ bắt đầu tách khỏi Đức Kitô sau khi nghe giáo huấn về Thánh Thể trong Ga 6, có vấn đề là không biết Giuđa có được thúc đẩy bởi các lý lẽ thần học hay không (không thích điều Chúa Giêsu nói), hoặc những điều cá nhân (không thích khi thấy Chúa Giêsu bị người ta bỏ rơi).  Nhưng điều này lên cao điểm trong việc phản bội vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh.  Đáng chú ý cách phản bội của Giuđa được mô tả là có liên quan Thánh Thể. 

Thánh Luca kể: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.  Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.”  Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.  Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy.  Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người” (Lc 22:19-22). 

Chúa Giêsu tố cáo sự trơ tráo của Giuđa khi tham dự Thánh Lễ đầu tiên mà lại mưu tính phản bội.  Các môn đệ cũng lầm lẫn về ý nghĩa của lời nói gở của Chúa Giêsu, và họ bắt đầu hỏi nhau xem Chúa Giêsu ám chỉ ai.  Thánh Gioan kể lại những gì tiếp tục xảy ra: 

Chúa Giêsu nói: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy.”  Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt.  Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y.  Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!”  Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Ngài nói với y như thế.  Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giêsu nói với y: “Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ,” hoặc bảo y bố thí cho người nghèo.  Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra.  Lúc đó, trời đã tối. (Ga 13:26-30) 

Giuđa nhận miếng bánh một cách bất xứng – rước lễ bất xứng, Gioan mô tả việc lãnh nhận bất xứng đó là lúc Satan nhập vào Giuđa.  Sau đó, Giuđa đứng dậy và bỏ đi – dĩ nhiên mang theo cả túi tiền.  Như vậy, Giuđa coi thường việc tham dự nghi lễ tôn giáo – dạ tiệc mừng Lễ Vượt Qua, Thánh Lễ đầu tiên, chỉ vội đi lo chuyện xấu xa.  Điều đó cũng giống như khi chúng ta rước lễ xong rồi ra ngoài ngay, không ở lại cho đến hết lễ – và không tâm sự với Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong lòng mình.
 

  1. Giuđa Hợp Tác Với Satan

Điều kinh khủng về Giuđa không chỉ là một Kitô hữu phản bội Đức Kitô, mà còn là một trong Nhóm Mười Hai lại liên minh với ma quỷ – nghĩa là Giuđa biết mình đang tuân lệnh của Satan, còn hơn là sự yếu đuối bình thường của nhân loại.  Điều ranh mãnh siêu nhiên là chỗ đó.  Nếu chúng ta rời ánh mắt khỏi những điều thuộc về Trời, chúng ta sẽ chỉ chú ý vào những gì thuộc thế gian.  Lúc đó, chúng ta nửa hướng mắt nhìn lên, nửa hướng mắt nhìn xuống những gì ở bên dưới chúng ta. 

Đừng bao giờ tự mãn, hãy luôn bám chặt vào Đức Kitô, đặc biệt là kết hiệp với Ngài qua bí tích Thánh Thể.  Một người cai rượu nói: “Nếu tôi uống lại, vấn đề sẽ tồi tệ hơn trước.”  Đó là vấn đề quan trọng đối với bạn và tôi.  Sự cám dỗ trở thành sự thích thú, sự thích thú trở thành tội lỗi.  Đào vi thượng sách, tránh voi chẳng xấu mặt.  Tội nhỏ trở thành tội lớn, nếu chúng ta không đưa nó ra ánh sáng.  Đó là bài học đắt giá chúng ta học được từ Giuđa. 

Joe Heschmeyer

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ ShamelessPopery.com)

 Tại sao chúng ta chỉ hiểu được Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm?

 Tại sao chúng ta chỉ hiểu được Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm?

Chúc 1 ngày thật mạnh mẽ trong đức tin, bền vững trong đức cậy, tràn đầy trong đức mến nhé. 

Cha Vương

Thư 5: 31/03/2022

GIÁO LÝ: Tại sao chúng ta chỉ hiểu được Chúa Giêsu như là một mầu nhiệm? Vì Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người thật, nên ta không thể hiểu Chúa Giêsu nếu ta loại bỏ thực tại vô hình của Thần tính Người. (YouCat, số 78)

SUY NIỆM: Mầu nhiệm là gì? Mầu nhiệm là một thực tại (hoặc là một mặt của thực tại) mà sự hiểu biết do lý trí không thể đạt tới được. (YouCat, số 78 t.t)

❦Khía cạnh hữu hình của Chúa Giêsu chuyển dẫn ta đến khía cạnh vô hình của Người. Có những yếu tố rất quan trọng trong cuộc đời Người mà ta chỉ hiểu được như là các Mầu nhiệm, chẳng hạn thân phận làm Con Thiên Chúa, việc nhập thể, cuộc khổ nạn và sự sống lại của Người. (Jeremy Taylor, 1613-1667, văn sĩ tôn giáo Anh)

LẮNG NGHE: Mầu nhiệm này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật, để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền năng thượng giới được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hành động như thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở và đã thực hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Ep 3:9b-11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, mọi sự bởi Chúa mà ra, mọi loài do Chúa mà có, mọi việc nhờ Chúa mà thành, xin Chúa nâng đỡ và gia tăng đức tin yếu hèn của con để con có thể thấy Chúa mọi nơi, nhận ra Chúa trong mọi người, sống với Chúa trong mọi lúc, đón nhận Chúa trong mọi sự hôm nay.  

THỰC HÀNH: Dâng một lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã dựng nên bạn và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn chịu chết vì bạn. 

From: Đỗ Dzũng

Khi nói Chúa Giêsu Kitô “vừa là Thiên Chúa thật lại vừa là người thật” nghĩa là gì?

Khi nói Chúa Giêsu Kitô “vừa là Thiên Chúa thật lại vừa là người thật” nghĩa là gì?

Chúc bạn ngày Thứ 4 với nhiều tiếng cười thật to như pháo ran vậy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 30/03/2022

GIÁO LÝ: Khi nói Chúa Giêsu Kitô “vừa là Thiên Chúa thật lại vừa là người thật” nghĩa là gì? Nghĩa là nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở nên một con người như chúng ta và cũng là anh em của chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn đồng thời là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta. Công đồng Calcêđôn (năm 451) dạy rằng: Thiên tính và Nhân tính đã nên một trong Chúa Giêsu Kitô “không chia lìa hoặc lẫn lộn”.  (YouCat, số 77)

SUY NIỆM: Hội thánh đã vất vả lâu năm để diễn tả cho đúng mối quan hệ giữa thiên tính và nhân tính nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên tính và nhân tính không cạnh tranh với nhau dường như có lúc Chúa Giêsu là người có lúc là Thiên Chúa. Ta cũng không thể nói là thiên tính và nhân tính hòa trộn với nhau trong Chúa Giêsu, cũng không thể nói rằng Thiên Chúa chỉ giả vờ mặc lấy thân xác con người nơi Chúa Giêsu (thuyết docétisme); Thiên Chúa làm người thật sự. Không phải là nơi Chúa Giêsu có hai ngôi vị liên hợp với nhau (thuyết Nestorianisme). Sau hết quả quyết rằng nhân tính hoàn toàn biến mất trong thiên tính cũng là lạc giáo (thuyết monophysisme). Chống lại các thứ lạc giáo kể trên, Hội thánh duy trì chắc chắn đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người nơi một ngôi vị duy nhất. Công thức nổi tiếng của Công đồng Chalcedoine là “không chia rẽ không lẫn lộn”, công thức này không cố gắng để giải nghĩa điều vượt trên hiểu biết của con người, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến hai điểm then chốt của đức tin. Công thức cho biết “cái hướng ta phải theo để tìm hiểu mầu nhiệm của ngôi vị Chúa Giêsu. (YouCat, số 77 t.t)

❦ Hiểu biết về Thiên Chúa mà không hiểu biết về khốn khổ của mình làm cho kiêu ngạo. Hiểu biết về khốn khổ của mình mà không hiểu biết Thiên Chúa làm cho thất vọng. Hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô làm cho ta ở giữa, bởi vì ta thấy ở đó có cả Thiên Chúa cả khốn khổ của ta nữa. (Blaise Pascal)

LẮNG NGHE: Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14:10)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì tội mà Con Thiên Chúa phải xuống thế làm người, mặc lấy xác phàm và mang lấy cảnh lâm than đau đớn; tình yêu của Thiên Chúa là thế đó. Xin giúp con thấu hiểu được ân huệ lớn lao này để khi gặp những điều gây hoài nghi thắc mắc về Chúa, con vẫn vững vàng tin tưởng luôn tiến lên trong khiêm nhường, mạnh mẽ và chắc chắn không bối rối.

THỰC HÀNH: Nếu bạn không hài lòng với những gì bạn đang có, mình khuyên bạn: Đừng nhìn vào hạnh phúc của người mà thèm khát nhưng hãy nhìn vào nỗi khổ của người để thấy mình vẫn còn hạnh phúc hơn họ. Mời bạn thay đổi góc độ nhìn của mình hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

Ơn hoán cải của triết gia Eric-Emmanuel Schmitt

Ơn hoán cải của triết gia Eric-Emmanuel Schmitt

Ông Eric-Emmanuel Schmitt, một triết gia, nhà biên kịch và tiểu thuyết gia, là một nhân vật được quốc tế biết đến nhiều nhất của văn hoá Pháp. Sinh năm 1960, được giáo dục từ cha mẹ là những người không tin, nhưng ông Schmitt đã gặp được Chúa và trở thành Kitô hữu. Câu chuyện hoán cải được chính ông kể lại.

Vào năm 1989 ở sa mạc Sahara, đã xảy đến một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ của một người vô thần với Chúa. Ông Schmitt nói: “Ở đó, tôi một mình với Chúa. Nói rằng một người hoán cải có nghĩa là người này đã có một chọn lựa chủ động và tự nguyện. Tôi phải thừa nhận rằng điều này không diễn tả chính xác những gì tôi đã trải qua trong đêm sa mạc đó. Đúng hơn tôi đã nhận được một ân sủng và một hồng ân đặc biệt. Và tôi đã dành tất cả không gian trong tôi cho hồng ân này. Vì vậy, nếu mọi người gọi tôi là người được ơn trở lại, tôi thích được  gọi là một người đã nhận được một ơn mặc khải”.

Triết gia không thích nói về hoán cải. Nhưng khẳng định đã nhận được một mặc khải. Ông giải thích: “Đây là biểu hiện đặc trưng nhất của tôi, bởi vì nó nói lên sự ngạc nhiên về hồng ân mà tôi đã lãnh nhận được. Tôi không tìm kiếm Chúa và tôi không biết Chúa đang tìm kiếm tôi. Tôi đã được cho một điều gì đó mà tôi không tìm kiếm. Đối với tôi, mặc khải này chỉ là khởi đầu”.

Thực tế, khi trở lại Pháp, nhà soạn kịch đã dành hết tâm trí để đọc nhiều thơ thần bí thuộc các tôn giáo khác nhau. Ông chia sẻ: “Sau mặc khải đó, tôi đã thực hiện một cuộc hành trình để khám phá Tin Mừng. Và có một hoạt động rất tích cực từ phía tôi, chính xác là để hiểu văn bản đầy mâu thuẫn này. Trong điều này, tôi có thể nói rằng tôi đã trải qua một sự hoán cải. Vì vậy, tóm lại: trong sa mạc, một sự mặc khải; với Tin Mừng, một cuộc hoán cải”.

Có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng câu chuyện về sự mặc khải này rất giống với câu chuyện của nhà thám hiểm người Pháp Charles de Foucauld. Như Schmitt, Charles de Foucauld cũng đã hoán cải sau cuộc gặp gỡ với Chúa ở tâm điểm Sahara. Từ lúc đó, de Foucauld, người đã trở thành một ẩn sĩ, bắt đầu thực hiện công cuộc loan báo Tin Mừng vĩ đại ở những vùng đất đó. Ông Schmitt nhận xét: “Sức mạnh của Charles de Foucauld không phải là việc cố gắng Kitô hóa những dân tộc đó bằng sức mạnh, nhưng là để làm chứng cho Tin Mừng bằng mẫu gương sống. Như Chúa Kitô đã làm trong thời của Người”.

Theo ông Schmitt, nhà truyền giáo này không sống truyền giáo theo cách của một đế quốc nhưng đi giữa mọi người, một dân tộc mà vào thời điểm đó chưa được biết đến, không phải để thay đổi họ nhưng trái lại để chính mình được họ thay đổi.

Ông thích so sánh hình ảnh của Charles de Foucauld với Đức Thánh Cha Phanxicô: “Tôi thấy giống như de Foucauld, Đức Thánh Cha đã đưa ra một hình ảnh của Kitô giáo có thể được đánh giá cao ngay cả đối với người không tin hoặc không phải là Kitô hữu. Điều này thấy rõ khi ngài đến đến Lampedusa và nói về ‘toàn cầu hoá của sự dửng dưng’. Ở điểm này, Đức Thánh Cha đã chạm đến nội tâm của nhiều người không phải là Kitô hữu. Rồi ở châu Mỹ Latinh, vào mùa hè 2014, ngài đã công bố các nguyên tắc cơ bản của nhân loại và điều này đã làm cho nhiều người chưa tin hiểu ngài”.

Đức tin đã nâng đỡ cuộc đời ông Schmitt. Một đức tin mà đối với người từng vô thần như Schmitt, ngay cả trong giây phút đau đớn phải lìa xa mẹ, đã trở thành điểm tựa để nâng đỡ. Trong sách mới “Nhật ký của một tình yêu bị mất”, ông giãi bày nỗi lòng của một người con trước cái chết của mẹ mình; những lời thú nhận lo lắng, bồn chồn của một người tin khi đối diện với mầu nhiệm của cái chết.

Tác giả khẳng định luôn cầu nguyện cho người mẹ đã khuất: “Tôi cầu nguyện cho mẹ tôi vài lần trong ngày. Tôi cầu nguyện, xin cho mẹ tôi đến vương quốc mà bà sẽ đến không phải lo lắng và hoảng sợ. Tôi cầu nguyện xin cho mẹ tôi được bước đi trong hạnh phúc”. Và triết gia nói: “Tôi tin vào sức mạnh của đức tin”.

Và ông đã lặp lại điều này trong sách nói về “tôn giáo”. Ông Schmitt viết: “Tôi có đức tin. Không có gì trong xác tín của tôi cho tôi biết về thế giới bên kia, đơn giản tôi chỉ nuôi dưỡng lòng tin. Hãy tin tưởng vào mầu nhiệm làm chúng ta hiện hữu. Tin tưởng vào cuộc sống. Tin tưởng vào cái chết. Cuộc sống là một bất ngờ tốt đẹp, cái chết sẽ là một bất ngờ tốt đẹp. Loại nào? Tôi không có ý kiến!”.

Ngọc Yến – Vatican News

Ba nỗi đau khổ – Lm. Mark Link.

Ba nỗi đau khổ – Lm. Mark Link.

“Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trong ba phương cách như chúng ta chịu về tinh thần, thể xác và tâm linh”

Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau. Nơi đây, ngài bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ. Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua. Cuối cùng ngài bị chết vì bị tra tấn. Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của ngài. Ngài kể lại rằng, sở dĩ ngài có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế. Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, ngài viết: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.” (Kilian Healy, Walking with God). 

Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử. Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Ngài hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách. 

Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.

 Trước hết là đau khổ tinh thần. Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết. Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: “Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi. Tôi luôn cô độc… Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi. Chắc là tôi tệ lắm. Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi.” Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó la biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách. 

Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác. Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác. Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970. Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ. Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.

 Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày. Nhớ về sự thử thách ấy cô viết: “Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu. Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững.“

Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này.

 Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh. Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người. Chúa Giêsu cầu xin: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con” (TV 22:1). Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm. Có lúc, tâm linh ngài bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng. Nhưng thay vì đầu hàng, ngài lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách. Cha Walter Ciszel viết: “Tôi thưa với Chúa rằng, hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của tôi… Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự ‘phó mặc‘”

 Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc. 23:46). Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp ngài kiên định và sống sót.

 Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải. Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội. Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi. Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu. Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma. Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.”

Tại sao Thiên Chúa lại nhập thể nơi Đức Giêsu?

Mến Chào bạn một ngày mới, hôm qua mình đã chúc hết lòng rồi. Thôi thì cứ thế nhé đừng quên cầu nguyện cho nhau là được rồi, nhất là cho nền hoà bình trên thế giới.

Cha Vương

Thư 3: 29/03/2022

GIÁO LÝ: Tại sao Thiên Chúa lại nhập thể nơi Đức Giêsu? Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã dạy: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.  (YouCat, số 76)

SUY NIỆM: Thiên Chúa đã giao hòa thế giới với Người và giải thoát con người khỏi tội trong Chúa Giêsu Kitô. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người” (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy xác phàm phải chết của ta nơi Chúa Giêsu (nhập thể), đã chia sẻ thân phận trần thế, những đau khổ và cái chết của ta và trở nên một người như ta trong hết mọi sự, trừ tội. (YouCat, số 76 t.t)

❦ Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không tự bảo vệ mình được để ta có thể yêu mến Người. (Đức Bênêđictô XVI, 24-12-2005) Nhận định này tuyệt vời quá phải không bạn?

LẮNG NGHE: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3:16)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, tin có nghĩa là đón nhận—đón nhận tình yêu Thiên Chúa, đón nhận Đức Giêsu Con Thiên Chúa vào cuộc đời với những thuận lợi cũng như khó khăn, với những biến cố vui buồn, những thành công và thất bại.  Xin đừng để bất cứ ai hay bất cứ lời nói hoặc lời dạy nào làm con nghi ngờ sự hiện diện của Chúa đang ở trong con.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Sấp Mình: Lạy Chúa con, con sấp mình xuống trước mặt Chúa con. Con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, hằng xem thấy con, hằng nghe lời con cầu nguyện. Xin Chúa rất nhân từ hãy đoái xem sự nghèo ngặt con và nhận lời con nguyện. Lạy Chúa, xin hãy mở miệng lưỡi con ra, thì con sẽ cao rao những lời ngợi khen Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Tại sao Kitô hữu gọi Đức Giêsu là Chúa?

Không biết nên chúc bạn gì bây giờ? Thôi thì cầu chúc cho bạn thứ 2 an lành, khoẻ mạnh cho thứ 3, nụ cười thật to cho thứ 4, thánh thiện cho thứ 5, yêu thương và tha thứ cho thứ 6, thứ 7 thư giãn và Chủ nhật nhiều niềm vui bên Chúa và gia đình. Đủ chưa? Ngày mai sẽ không chúc nữa nhé :).

Cha Vương

Thứ 2: 28/03/2022

GIÁO LÝ: Tại sao Kitô hữu gọi Đức Giêsu là Chúa? Vì chính Đức Giêsu nói: Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa thì thật đúng, vì Ta là như vậy (Ga 13,13). (YouCat, số 75)

SUY NIỆM: Đối với các Kitô hữu thời đầu tiên, nói Đức Giêsu là Chúa đó là chuyện hiển nhiên vì biết rằng danh hiệu này trong Cựu ước dùng để chỉ Thiên Chúa. Bằng nhiều dấu hiệu Chúa Giêsu đã tỏ cho họ biết Chúa có một sức mạnh thần linh trên thiên nhiên, trên ma quỉ, tội lỗi và sự chết. Nguồn gốc thần linh của sứ vụ Chúa Giêsu được bày tỏ khi Người sống lại từ cõi chết. Thánh Tôma tuyên bố: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Nếu Chúa Giêsu “là Chúa”, thì Kitô hữu không được quì gối trước một sức mạnh nào khác! (YouCat, số 75 t.t)

❦ Ở đâu Thiên Chúa không chiếm chỗ nhất…. ở đó nhân phẩm con người bị đe dọa. Như vậy rất cần hướng dẫn con người thời nay khám phá lại bộ mặt đích thực của Thiên Chúa, được mặc khải cho ta nơi Chúa Giêsu Kitô. (Đức Bênêđictô XVI, 28-8-2005)

LẮNG NGHE: Chúa Giê-su nói: “Tôi và Chúa Cha là một.”(Ga 10:30)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin mở mắt con để con thấy Đức Ki-tô đang sống, đang hiện diện và hoạt động khắp mọi nơi, nhất là nơi những người đang đau khổ để con biết chia sẻ gánh nặng với họ.

THỰC HÀNH: Làm minh chứng cho Đức Giê-su bằng một hành động bác ái cụ thể.

From: Đỗ Dzũng

“Sự đau khổ sẽ khiến bạn trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn”

ĐAU KHỔ

Cha Mark Link, S.J.

 Chủ đề: “Sự đau khổ sẽ khiến bạn trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn”

Chúa Giêsu nói, “Hãy đứng vững, và anh chị em sẽ cứu được chính mình” Luca 21:19

Cha Anton Luli là một linh mục dòng Tên. Ngài bị Cộng Sản bắt ngay trước ngày Giáng Sinh 1947. Ngài viết trong nhật ký:

Vào đêm Giáng Sinh… họ dùng dây treo tôi lơ lửng trên không… có nhón gót thì mới chạm được mặt đất.

[Sau khi bị treo ba giờ đồng hồ] Tôi cảm thấy thân thể… như lìa xa tôi. Cái lạnh từ từ len vào mọi chi thể và… tim tôi như ngừng đập… Tôi kêu lên tuyệt vọng…

Những người tra tấn bước vào… kéo tôi xuống, và họ đá tôi túi bụi. Đêm hôm đó… tôi mới cảm nghiệm được ý nghĩa thực sự của… Thập Giá.

Nhưng cùng với sự đau khổ tôi chịu… tôi cảm thấy sự hiện diện đầy an ủi của Chúa Giêsu ở trong lòng… Vào những lúc ấy, sự hỗ trợ của Người là một điều mà tôi chỉ có thể gọi là “phi thường” thật vui sướng thật an ủi mà Chúa Giêsu đã đem cho tôi.

Điều mà Cha Luli không thấy trong đêm Giáng Sinh kinh hoàng ấy là ngài bị kết án tù 40 năm. Trong thời gian ấy, mười bẩy năm ngài bị giam riêng trong ngục tối. Ngài kết thúc nhật ký bằng những lời sau:

Họ thả tôi trong dịp ân xá năm 1989. Lúc ấy tôi đã 79 tuổi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy oán giận những người đã cướp đi cuộc đời tôi.

Sau khi được phóng thích, tình cờ tôi gặp lại một trong những người đã tra tấn tôi trên đường phố: tôi cảm thấy thương hại anh ta… và tôi đến ôm lấy anh.

Có hàng ngàn linh mục từng bị bách hại vì… Đức Kitô… nhưng không ai có thể cướp đi tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa Giêsu trong tâm hồn.

Câu chuyện lạ thường của Cha Luli đưa chúng ta về bài Phúc Âm hôm nay. Trong đó, Chúa Giêsu nói về sự phá hủy Đền Thờ và ngày tận thế.

Khi các môn đệ hỏi Người khi nào những sự kiện ấy sẽ xảy đến, Chúa Giêsu nói họ phải thấy ba dấu hiệu.

Trước hết, các ngôn sứ giả mạo sẽ xuất hiện. Chúa Giêsu nói: “Nhiều người, tự xưng là phát ngôn viên của Thầy, sẽ đến và tuyên bố… ‘Đã đến lúc!’ Nhưng đừng theo họ.” Luca 21:8

Thứ hai, các điều kinh hoàng sẽ xảy ra trên mặt đất và trên trời.

Thứ ba, và sau cùng, Chúa Giêsu nói:

Trước khi những điều ấy xảy ra… anh chị em sẽ bị… bách hại… bị giam tù… [và] bị đưa ra trước vua quan vì Thầy. Đây sẽ là cơ hội cho anh chị em loan báo Tin Mừng… Hãy đứng vững [qua mọi điều ấy] và anh chị em sẽ cứu được chính mình.” Luke 21:12-13, 19

Và điều đó đưa chúng ta trở về với câu chuyện của Cha Luli. Ngài đã kinh qua những thử thách, bách hại, và tù đầy vì Chúa Giêsu.

Và ngài đã dùng những điều ấy như một cơ hội để loan báo Tin Mừng. Cũng như Chúa Giêsu, ngài đã tha thứ cho những người bách hại ngài. Và như Chúa Giêsu, ngài đã đứng vững cho đến cùng.

Một trong những kết quả ấy là câu chuyện đời ngài khuyến khích và phấn khởi chúng ta hãy đáp ứng với các thử thách và đau khổ như ngài đã thi hành.

Có lẽ chúng ta không còn sống để chịu những thử thách và đau khổ của ngày tận thế. Nhưng chắc chắn một lúc nào đó mọi người sẽ phải trải qua những thử thách và đau khổ trong cuộc đời.

Điều này khiến câu chuyện của Cha Luli thích hợp với các bài đọc hôm nay. Câu chuyện ấy đảm bảo rằng nếu chúng ta chấp nhận những thử thách và đau khổ của chúng ta, những gian nan ấy có thể trở nên nguồn ơn sủng lớn lao cho chúng ta, như đã xảy ra cho Cha Luli.

Tỉ như, một kết quả của những đau khổ và thử thách là Cha Luli đã cảm được sự hiện diện đầy trợ giúp của Thiên Chúa mà chưa bao giờ ngài cảm được-và rất ít người có được.

Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng. Mọi thử thách và đau khổ sẽ khiến chúng ta trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn, tùy theo phương cách mà chúng ta chấp nhận.

Câu chuyện thật sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều này.

Vào một ngày kia khi học lớp bẩy, John Erickson nhìn lên bảng và không thấy gì hết. Em sững sờ. Sau đó em lại thấy được nhưng không rõ như trước.

Ít lâu sau, cơn ác mộng được sáng tỏ. Em biết là có thể em sẽ bị mù. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban phúc cho em để có được một người em sinh đôi. Cha mẹ em mua chiếc xe đạp hai chỗ ngồi, và hai em có thể đi bất cứ đâu. John ngồi đằng sau; em kia ngồi đằng trước.

Khi đến tuổi trung học, John cũng đi học chung với em mình-thay vì học trường dành cho người khiếm thị.

Để rút ngắn câu chuyện, John làm trưởng lớp. Em bơi lội, trượt tuyết, và làm đủ mọi chuyện y như các trẻ em khác.

Sau khi xong trung học, John lên đại học và tốt nghiệp MBA ở trường Northwestern University. Ngày nay em là phó chủ tịch ngành đầu tư chứng khoán của một ngân hàng lớn nhất Chicago. Em cũng lấy vợ và rất yêu thương gia đình.

Ngày nay, hiển nhiên là em bị mù, nhưng em rất biết ơn Thiên Chúa về những phúc lành. Một trong những phúc lành lớn lao nhất, em cảm thấy là “sự thách đố” Người ban cho em đó là sự tương giao cá biệt với Chúa Giêsu.

John cho biết vào năm 23 tuổi, em tham dự nhóm học hỏi Kinh Thánh. Một ngày kia, bỗng dưng em nhận ra Chúa Giêsu ở với em-và luôn luôn hiện diện trong một phương cách đặc biệt. Sau đó, em không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Và vì thế các bài đọc ngày hôm nay đảm bảo chúng ta rằng nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì trong những lúc thử thách và đau khổ-như Cha Luli và John đã trải qua-chúng ta sẽ chiến thắng, như họ.

Đây là tin mừng trong các bài đọc hôm nay.
Đây là tin mừng mà chúng ta cử mừng trong phụng vụ này.
Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đem về nhà hôm nay.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu. Những lời này tóm lược lý do tại sao chúng ta sẽ kết thúc cách vinh quang nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì khi bị thử thách và đau khổ. Chúa Giêsu nói:

Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như một cành không thể tự nó sinh hoa trái trừ khi dính liền với thân, các con cũng vậy nếu các con không ở trong Thầy.

“Thầy là thân cây, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy trong họ thì sẽ sinh nhiều hoa trái.” John 15:4-5

Cha Mark Link, S.J.

Lòng Nhân Từ Vượt Trên Sự Công Lý Trong Xã Hội

  ĐÓN NHẬN SỰ CÔNG CHÍNH CỦA CHÚA

CHỦ NHẬT 24 NĂM C
Các bài đọc:  Ex 32:7-11, 13-14; 1 Tim 1:12-17; Lk 15:1-32 hay Lk: 1-12
Lòng Nhân Từ Vượt Trên Sự Công Lý Trong Xã Hội

Ông bà anh chị em thân mến,

Mở đầu bài tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Luca cho biết các người thu thuế và các người tôi lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.  Thấy vậy, những người Pharisiêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng…”. Xầm xì như thế có nghĩa là họ đòi hỏi công lý cần phải thi hành, phải tôn trọng.  Giờ đây, qua bài Tin Mừng, cùng nhau chúng ta suy niệm xem cách con người lập luận và thể hiện về công lý trong đời sống thường nhật như thế nào và cách Chúa hành động về công lý đối như thế nào. Sau đó, làm cách nào để cảm nghiệm, để sống thể hiện công lý như Ngài hầu tâm hồn mình luôn được hân hoan vui mừng.  Theo phụng vụ, Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay hôm nay cũng được gọi là Chúa Nhật của Hân Hoan, Vui Mừng.

 CÔNG BẰNG/CÔNG LÝ TRONG ĐỜI SỐNG THƯỜNG NHẬT
Trước hết trong đời sống thường nhật, đa số chúng ta lập luận về công bằng hay công lý dựa vào tiêu chuần của lề luật trong gia đình, trong xã hội, tiêu chuẩn của kẻ trên người dưới, tiêu chuẩn của người được coi là đạo đức và của giới bị coi là tội lỗi.  Hiểu một cách đơn giản về công bằng hay công lý là nếu có ai làm thiệt hại cho mình thì mình có quyền trả đũa cân xứng.  Chúng ta thường nghe ăn miếng trả miếng là một lối lập luận nghe như hợp pháp về công bằng, công lý.  Hoặc nếu ai có tội thì phải bị phạt, hoặc có mắc nợ thì phải trả. Chính vì thế mà họ lẫm bẫm trách móc Ngài sao ăn uống với những người tội lỗi mà không tôn trọng luật giai cấp trong xã hội. Chính vì thế – chắc hẳn chúng ta còn nhớ -mà các người kinh sư và pharisiêu mang đến Chúa Giê su người phụ nữ bắt gặp đang ngoại tình để đòi ném đá theo luật.  Chính vì thế mà một số cha mẹ đau buồn khi phải cắt đứt liên lạc với con cái đang ăn ở với bạn của mình trước khi thành hôn, vì chúng sống không phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức. Như thế, muốn thi hành công bằng hay công lý cũng phải có luật lệ, phải có nguyên tắc thì tòa án công lý mới phân biệt trắng đen được.  Công bằng hay công lý theo quan niêm trên thì vẫn tốt hơn là bất công, vẫn tốt hơn là dùng bạo lực hoặc quyền hành áp chế người khác.

CÔNG LÝ CỦA CHÚA DỰA TRÊN LÒNG NHÂN TỪ VÀ YÊU THƯƠNG
Còn Chúa Giê-su, Ngài đã thể hiện công lý đối với chúng ta như thế nào. Thưa, để trả lời những người kinh sư, biệt phái lên án Ngài không giữ tiêu chuẩn về công lý ở đời, Ngài đã dùng dụ ngôn NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH để giải thích cho họ và cho cả chúng ta về hành động công lý của Ngài. Người Cha Nhân Lành ở đây là hình ảnh của Thiên Chúa.

Trong dụ ngôn này, người con thứ và người anh cả cũng đòi công bằng, công lý theo quan niệm bình thường trong xã hội. Người con thứ xin cha chia gia tài, bởi vì theo luật thì các con đều được chia gia tài. Tuy nhiên, cũng theo luật xã hội Do Thái, người cha vẫn có quyền chưa chia gia vì cha còn sống.  Thế nhưng người cha trong dụ ngôn lại không thi hành công bằng công lý theo tiêu chuẫn ở đời. Ông đã chia gia tài cho cậu con thứ.  Điều này chỉ có thể hiệu vì ông đã quá thương yêu con, đã tôn trọng tự do của con hay đúng hơn là của mọi người. Công lý của ông cha là ở hành động đầy yêu thương nhưng cũng đầy xót xa vì ngày ngày ra cửa trông chờ con trở về. Điều này cũng có nghĩa một khi cậu con thứ chọn lựa tự do trẩy đi phương xa, cậu mặc nhiên coi như cha đã chết, mặc nhiên bỏ lại mọi liên hệ gia đình, xóm làng.

Còn người con cả, cũng đòi công bằng công lý : Khi từ ngoài đồng về, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, được biết cha đang đãi tiệc mừng em mình trở về, anh đã cảm thấy mình bị bất công. Cả cuộc đời hầu hạ cha mà anh chẳng thấy phần thưởng đâu cả, chẳng được một con bê béo đãi chúng đãi bạn, chẳng thấy công bằng công lý ở đâu cả.  Ghen tị là phải, nổi giận là phải, không chịu vào nhà khi nghe yến tiệc linh đình bên trong là phải, bởi vì người cha hành động hoàn toàn ngược lại với công bằng mà xã hội mọi thời quan niệm. Chúng ta chắc hẳn cũng cảm thông với anh. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của người anh, chắc một số chúng ta nỗi khùng lên được, không phải một lần mà chắc đã nhiều lần trong đời rồi!  Người cha này hành động quá bất thường, không công bằng chút nào cả!

Vậy người cha đã phản ứng thế nào để giải thích sự công bằng, công lý của mình cho hai người con và cho cả chúng ta. Đối với người con thứ, nhìn thấy con từ đàng xa trở về, người cha đã vội vã chạy ra trước, ôm lấy con và hôn lấy hôn để – chẳng đợi con xin lỗi, chẳng quan tâm con mình hối hám vì ăn đồ ăn của heo, chẳng coi con là kẻ bần cùng nhất như xã hội nhục mạ, nhưng người cha mau mau phục hồi phẫm giá ngay cho con : khoác áo choàng tượng trưng danh giá của con, đeo nhẫn tượng trưng quyền bính của con, mang dày tượng trưng tư do của con và bắt bê béo đặt tiệc ăn mừng vì con tôi đã chết nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy. Niềm hân hoan vui sướng của người cha khi thấy cách thể hiện công lý của mình đã có kết quả, đó là người con trở về sau thời gian sống xa mình. Cha chỉ cầu con trở về, thế là quá đủ !

Đối với người con cả, khi cơn ghen tị nổi lên vì cho rằng người cha bất công, cha quá rộng lượng với cậu em, anh anh quyết định không vào nhà dự tiệc mừng em về, một người em mà vì ghen tị, anh còn đi xa hơn để kết tội em đã ăn chơi với bọn đàng điếm. Hay biết anh nhất quyết không vào nhà, thái độ này hẳn giúp người cha thấy rằng từ lâu anh ở bên cha, trong nhà thật- nhưng tâm hồn hẳn luôn ở ngoài.  Thế nhưng, để thể hiện công bằng, công lý, công chính của mình, người cha đã ra ngoài nan nỉ và tuyên bố với anh ta rằng : mọi sự của cha là của con. Và một lần nữa, người cha xác quyết cách mình thể hiện công bằng, công lý, công chính là qua niềm hân hoan vui mừng : nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy. Giá như người anh cả nghiệm được câu vui mừng nảy lần thứ hai, anh thấy mình đã chết và CẦN sống lại, đã mất và CẦN trở vào nhà để được tim thấy.

Đối với con người công bằng hay công lý dựa trên tiêu chuẩn : ăn miếng thì phải trả miếng, có tội thì phải phạt như đa số đã chấp nhận như thế.  Chính vì thế mà cho đến giờ này một số người trong hay ngoài gia đình vẫn chưa làm hòa, vẫn cầm buộc nhau, vẫn chưa bình an, vẫn xa cách nhau. Trong khi Chúa lại dạy rằng ai tát má này thì đưa thêm má kia cho họ vả, ai lỗi phạm thì không phải tha bảy lần mà bảy mươi bảy lần bảy.  Sự công chính của Ngài dựa trên tình yêu thương vô điều kiện, lòng xót thương vô bờ bến với mọi người, luôn thấp thỏi chờ mong mỗi người, miễn là kẻ có tội ăn năn xám hối. Vậy làm sao cảm nhận, làm nhìn thấy được lòng nhân lành yêu thương -sự công chính của Chúa Ngài dành cho mỗi chúng ta đây- hầu chúng ta có thể thể hiện sự công chính của Ngài cho tha nhau!

ĐÓN NHẬN SỰ CÔNG CHÍNH CỦA CHÚA

Một cô bé đang ngồi trên lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ: “- Mẹ ơi, con có thê nhìn thấy lòng mẹ không?” Bà mẹ đáp: “- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?” Cô bé nhướng mình lên, mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên: “- Mẹ ơi, con nhìn thấy lòng mẹ rồi, còn hiểu mẹ thương con vì ở trong đôi mắt mẹ, con nhìn thấy một cô bé tí xíu – là chính con đó mẹ ạ !”
Như cô bé, trong mùa chay, chúng ta chạy đến ngồi vào tòa hòa giải với linh mục, như ngồi vào lòng Chúa -để cảm nhận lòng công chính của Chúa thật tuyệt vời dành cho mỗi chúng ta trong đôi mắt Ngài mà cậu con thứ cảm nhận rõ nhờ trỗi dậy trở về làm hòa với Cha. Chúa chỉ mong có thế. Một khi được Chúa tháo cởi lỗi phạm, chúng ta tháo cởi cho những ai mình đang cầm buộc.  Chắc hẳn CHÚA SẼ VUI LẮM, vui mừng như NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH và vui mừng vì sự công chính được đón nhận.

(Phó tế NGUYỄN SĨ BẠCH