THÁNH NICÔLA – GIÁM MỤC (Thế kỷ IV)

THÁNH NICÔLA – GIÁM MỤC(Thế kỷ IV)

Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết.  Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ.  Sau đó dường như các nhà chép sử lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra.  Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.

Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện.  Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ.  Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là “sự chiến thắng của dân.”  Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.

Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là “Mặt trời soi chiếu thế gian.”  Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời.  Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay.  Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.

Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu.  Cha mẹ mất sớm.  Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù.  Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay.  Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương.  Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi.  Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô.  Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình.  Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.

Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa.  Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion.  Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình.  Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển.  Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi…

Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này.  Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: “Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng.”

Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.

Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập.  Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập.  Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.

Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới.  Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới nhà thờ trước hết.  Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục.  Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại.  Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.

Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn.  Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều.  Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.

Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập.  Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do.  Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng.  Ngài làm nhiều phép lạ như mưa.  Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.

Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa.  Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ.  Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức.  Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ.  Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.

Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời.  Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea.  Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời.  Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.

Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples.  Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng.  Mỗi miền nói theo cách của mình.  Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời.  Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái.  Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu “bia.”

Các vua nước Pháp sùng kính Ngài.  Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla.  Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được?  Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay.

Nguồn: https://tgpsaigon.net

From: Langthangchieutim

NHỚ LẠI VÀ LẮNG NGHE

NHỚ LẠI VÀ LẮNG NGHE

 ĐGM. Bùi Tuần

Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ.  Có nhiều cách mừng.  Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.  Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi.  Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.

Nhớ lại.

Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.  Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm.  Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.  Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:

Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.  Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25).

Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá.  Ít là phần nào.  Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8).

Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng.  Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình.  Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.  Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.

Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ.  Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị.  Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.  Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều.  Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.

Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.  Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ.  Đó là thánh Phaolô.  Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi.  Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..

Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.  Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa.  Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí.  Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn!  Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?  Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).

Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go.  Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói.  Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại.  Vì thế mà tôi sám hối.  Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm.  Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.

Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác.  Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.  Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng.  Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).

Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27).  Mẹ đã không cứu được con mình.  Nhưng Chúa lại muốn như vậy.  Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.

Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người.  Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình.  Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa.  Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.

Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần.  Tôi muốn giúp.  Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi.  Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên.  Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.

Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.

Lắng nghe.

 Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại.  Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm.  Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.

Ô nhiễm khắp nơi.  Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm.  Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này: Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.

Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức.  Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.  Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ.  Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.  Giới phái là nam, là nữ.  Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.

Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại.  Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó.  Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv….  Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.

Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện.  Kẻo sẽ quá muộn.

Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa.  Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.

Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng.  Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.

Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).  Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm.  Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.

Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.

Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm.  Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện.  Không bị nhiễm là nhờ thánh giá.  Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.

Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm.  Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta.  Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người.  Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối.  Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.

ĐGM. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

“HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA”

“HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Mỗi năm khi Mùa Vọng về, hình ảnh ông Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ.  Ông là con của Bà Elisabét, đã nhảy mừng khi còn là hài nhi trong lòng mẹ, khi Đức Trinh nữ Maria viếng thăm.  Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế.  Gioan là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành.  Ông nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.  So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể.  Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể.  Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người.  Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan Tẩy giả vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường.  Ông kêu gọi “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng.”  Mọi người nghe Gioan Tẩy giả đều hiểu nội dung của lời kêu gọi này, đó là sửa sọan tâm hồn và ăn năn sám hối để đón chào Đấng Thiên Sai.  Kết quả là từng đoàn người đông đảo khiêm tốn đến với ông và chịu dìm mình trong dòng nước sông Giođan để được ơn tha tội.

Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa.  Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại.  Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải can đảm vượt qua những chướng ngại đó.  Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa.  Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc.  Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng.  Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.

Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.  Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát.  Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường.  Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi, hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em.  Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài.  Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.

Lễ Giáng Sinh là ngày lễ của niềm vui, bởi có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng được Thiên Chúa hiện diện.  Ngôn sứ Barúc đã khẳng định điều đó (Bài đọc I).  Ông kêu gọi mọi người hãy thay áo tang chế khổ nhục bằng áo choàng công chính.  Vị Ngôn sứ được chiêm ngưỡng một khung cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem trong tương lai.  Muôn dân nước cũng tuôn đổ về thành phố có tên gọi “hòa bình” này để tôn thờ và ca tụng Chúa.  “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Người.”  Đó là thời Chúa tỏ mình ra.  Khi đó, vũ trụ này sẽ không còn đau khổ, nhưng sự bình an và hạnh phúc sẽ như đại dương bao trùm tất cả.  Cùng chung một ý tưởng với Gioan Tẩy giả sau này, Ngôn sứ Barúc cũng kêu gọi mọi người hãy lấp đầy thung lũng, hạ thấp núi cao để có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện.  Lời của vị ngôn sứ đã mang đến cho Israen niềm hy vọng tràn trề, để rồi giữa trăm bề đau khổ, Dân Chúa vẫn vững tin rằng, Đấng Thiên Sai sẽ đến.

Như thánh Gioan Tẩy giả, mỗi người tín hữu cũng được mời gọi trở nên những sứ giả của niềm vui, giữa cuộc đời còn phủ đầy bóng tối và tràn lan bạo lực.  Bí tích Thanh tẩy trao cho chúng ta ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế.  Nhờ ba chức năng này, người tín hữu trở nên những “tiền hô” loan báo và chứng minh cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống, dù bất cứ hoàn cảnh nào.

Trong niềm hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta đang cử hành Thượng Hội đồng Giám mục thế giới ở cấp giáo phận.  Đức Thánh Cha muốn lắng nghe những ý kiến của Dân Chúa từ khắp các châu lục, để đưa ra những định hướng mục vụ phù hợp với bối cảnh thế giới hôm nay.  Là phần tử của Giáo Hội, chúng ta hãy cảm thức với Giáo Hội, chia sẻ niềm vui và những ưu tư trăn trở của Giáo Hội, với ước vọng làm cho Đức Giêsu được nhận biết và tôn vinh.  Chúa Giêsu vẫn đang đến với chúng ta.

Người kiên nhẫn gõ cửa tâm hồn chúng ta.  Có những người nhiệt thành đón tiếp Chúa với con tim nồng ấm, có những người lại từ chối Người với tâm hồn giá băng.  Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh: những ai thành tâm đón Chúa sẽ tìm thấy tâm hồn bình an và sẽ trở nên hoàn thiện.  Đức Thán Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” như sau: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày.  Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì “không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến.”  Chúa không làm thất vọng những ai chấp nhận sự liều lĩnh này; mỗi khi chúng ta bước một bước đến gần Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ra rằng Người đã đang ở đó, đang mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta” (số 3).  Đức Giêsu đã đến trần gian, và giáo huấn của Người làm thay đổi cuộc sống của những ai chân thành đón tiếp Người.  Nơi khác, vị Giáo Hoàng người Achentina cũng khẳng định: “Chúa Giêsu chính là Chân Lý: Chân Lý “đã trở thành nhục thể,” đã đến giữa chúng ta để chúng ta biết Chân Lý ấy.  Không thể nắm bắt Chân Lý như nắm bắt một sự vật.  Chân Lý phải được gặp gỡ.  Đó không phải là một vật sở hữu, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Ngôi Vị.”

Kính thưa Quý vị và Anh Chị Em

Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm.  Tuy vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm.  Trong mối tương quan hằng ngày, người ta vẫn tiếp tục xây những bức tường chia rẽ, vẫn đào những thung lũng hận thù và xây những núi đồi của kiêu ngạo.  Lời Chúa khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ Đấng Tối cao.  Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ nơi hang đá khó nghèo.  Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta được vinh quang.  Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm, nhờ đó chúng ta mang lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính,” như thánh Phaolô nhắn nhủ giáo dân Philiphê (Bài đọc II).

Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã viết: “Thiên Chúa không ở đâu xa cả.  Ngài không phải là một đấng nào đó không thể mường tượng được, nhưng Ngài ở bên ta.  Ngài đã trở nên một với ta, đụng vào ta, đón nhận ta, cũng như ta đụng chạm được Ngài và có thể đón nhận Ngài” (Thiên Chúa và Trần thế, Tr 227).  Vâng, Đấng Emanuel, Thiên Chúa ở với ta, đó chính là nét mới mẻ của Kitô giáo.  Đó cũng là thông điệp của Mùa Giáng Sinh đang đến gần.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

CẦU NGUYỆN ĐI TÌM MỘT CHIỀU SÂU

CẦU NGUYỆN ĐI TÌM MỘT CHIỀU SÂU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Bài thứ nhất trong loạt bốn bài mùa Vọng về cầu nguyện

Trong những phút giây chiêm nghiệm sâu đậm, chúng ta cảm nhận tầm quan trọng của cầu nguyện; thế nhưng chúng ta lại gắng gỗ chật vật để cầu nguyện.  Cầu nguyện sâu đậm, bền bỉ chẳng dễ dàng đến với chúng ta.  Tại sao vậy?

Trước hết, chúng ta gắng gỗ chật vật để sắp xếp thì giờ cầu nguyện.  Buổi cầu nguyện chẳng tựu thành được điều gì thực tế cho chúng ta, đó là phí phạm thì giờ xét về mặt phải xoay xở giữa những áp lực và nhiệm vụ của đời sống hàng ngày, và vì thế chúng ta ngại đi tới đó.  Thêm vào đó, chúng ta thấy khó mà tin tưởng được buổi cầu kinh thật sự có tác dụng và đưa lại điều gì đó thực tế trong đời sống chúng ta.  Ngoài chuyện đó ra, chúng ta chật vật để tập trung cho được khi cố gắng cầu nguyện.  Một khi thu xếp ngồi xuống cầu nguyện, thì chẳng mấy chốc chúng ta thấy mình tràn ngập trong những mơ mộng hão huyền, những cuộc chuyện trò lỡ dở, những giai điệu nhớ nhớ quên quên, những vụ đau tim, lịch trình công việc, và những nhiệm vụ đang treo lơ lửng sẽ ùa đến ngay khi chúng ta đứng dậy khỏi nơi cầu nguyện.  Cuối cùng, chúng ta chật vật cầu nguyện bởi vì thật sự không biết nên cầu nguyện như thế nào.  Có thể chúng ta quen thuộc với nhiều hình thức cầu nguyện khác nhau, từ những buổi cầu kinh sùng đạo cho đến những kiểu thiền định khác nhau, nhưng thông thường chúng ta thiếu tự tin nên không nghĩ rằng cái cách cầu nguyện cụ thể của chính mình, với tất cả những điều làm phân tâm, sao nhãng và sơ suất trong đó, chính là kiểu cầu nguyện một cách sâu đậm.

Một trong những nơi chúng ta có thể nhờ cậy là Phúc âm thánh Luca.  Hơn bất cứ Phúc âm nào, Phúc âm thánh Luca là Phúc âm về cầu nguyện.  Trong Phúc âm này có nhiều nơi mô tả Chúa Giêsu cầu nguyện nhiều hơn ở tất cả các sách Phúc âm khác cộng lại.  Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện trong gần như tất cả trạng huống: Người cầu nguyện khi tràn đầy niềm vui, Người cầu nguyện khi đang trong cơn thống khổ; Người cầu nguyện với những người ở bên cạnh, và Người cầu nguyện khi một mình giữa đêm vắng, xa khỏi mọi mối liên hệ với con người.  Người cầu nguyện trên núi, ở nơi thiêng liêng, ở bình địa, nơi cuộc sống bình thường diễn ra.  Trong Phúc âm của thánh Luca, Chúa Giêsu cầu nguyện rất nhiều.  Và các môn đồ của người hiểu rõ bài học này.  Họ cảm nhận rằng chiều sâu và sức mạnh thật sự của Chúa Giêsu được khởi từ cầu nguyện của Người.  Họ biết rằng điều khiến Người đặc biệt như vậy, hết sức khác những nhân vật tôn giáo khác như vậy, là vì Người được kết nối ở một nơi sâu sắc nào đó với một quyền năng nằm ngoài thế giới này.  Và họ cũng muốn họ được như vậy.  Đó là lý do tại sao họ đến gặp Chúa Giêsu và xin: “Xin Chúa dạy cho chúng con cầu nguyện!”

Nhưng chúng ta cần cẩn thận để không bị hiểu sai điều gì đã thu hút họ như vậy, và họ mong mỏi gì khi xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện.  Họ cảm nhận cái mà Chúa Giêsu lấy được từ chiều sâu cầu nguyện của mình trước hết không phải là quyền năng để làm phép lạ hay để làm câm bặt các kẻ thù của mình bằng một kiểu trí thông minh siêu việt nào đó.  Điều khiến họ cảm động và điều họ cũng muốn cho cuộc sống của chính mình là chiều sâu và lòng khoan dung độ lượng của tâm hồn Người.

Sức mạnh mà họ khâm phục và mong muốn là sức mạnh của chúa Chúa Giêsu trong yêu thương và tha thứ kẻ thù thay vì làm bẽ mặt và chà đạp họ.  Điều họ mong muốn là sức mạnh của Chúa Giêsu để chuyển hóa một không gian, không phải bằng một hành động phép lạ nào đó, mà bằng sự trong trắng và tính chất dễ bị tổn thương như thể khiến mọi người đều hạ vũ khí, cũng như sự có mặt của một đứa bé khiến cho mọi người quan tâm để ý đến cách cư xử và lời nói của mình.  Điều họ muốn là sức mạnh từ bỏ cuộc đời trong sự tự hy sinh, kể cả khi có được khả năng đáng ghen tị là tận hưởng những niềm vui thú của cuộc đời mà không bị tội lỗi.  Điều họ muốn là sức mạnh tấm lòng quảng đại của Chúa Giêsu, để thương yêu vượt ra bên ngoài dòng tộc mình, và thương yêu người giàu lẫn người nghèo, thương yêu từ trong lòng nhân từ, vui vẻ, bình an, kiên nhẫn, tốt lành, chịu đựng, trung tín, nhẹ nhàng, và trinh bạch, bất chấp mọi thứ trong đời ngăn cản những đức hạnh này.  Điều họ mong muốn là từ chiều sâu và lòng bao dung độ lượng trong tâm hồn Chúa Giêsu.

Và họ nhận ra rằng cái sức mạnh này không phải đến từ bên trong Người, mà từ một nguồn cội bên ngoài Người.  Họ thấy Người kết nối với một nguồn cội sâu xa thông qua cầu nguyện, thông qua việc liên tục nâng cao lên đến với Chúa vốn ở trong tâm trí Người.  Họ thấy điều đó và họ cũng muốn mối-liên-hệ-chiều-sâu đó cho chính mình.  Vì vậy họ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện.

Rốt cùng, chúng ta cũng muốn có được chiều sâu và lòng khoan dung độ lượng của Chúa Giêsu trong đời sống của chính mình.  Giống như các môn đồ của Chúa Giêsu, chúng ta cũng biết rằng chúng ta chỉ có thể đạt được điều này thông qua cầu nguyện, thông qua tiếp cận một sức mạnh nằm ở bên trong chiều sâu sâu thẳm nhất của tâm hồn mình và vượt ra khỏi tâm hồn mình.  Chúng ta cũng biết rằng con đường dẫn đến chiều sâu đó nằm ở cuộc hành trình vào nội tâm, trong im lặng, thông qua cả nỗi đau đớn lẫn thầm lặng, hỗn loạn và bình an, con đường sẽ hiện ra với chúng ta khi ta lắng mình để cầu nguyện.

Trong những giây phút chiêm nghiệm sâu xa, và những phút giây tuyệt vọng, chúng ta đều cảm thấy cần phải cầu nguyện và cố gắng đi đến chỗ sâu xa đó.  Nhưng, vì chúng ta thiếu lòng tin tưởng và thiếu thực hành, nên chúng ta gắng gỗ chật vật để tới đó.  Chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào hay làm sao để duy trì việc cầu nguyện bền bỉ.

Nhưng như vậy chúng ta đang song hành với các môn đồ của Chúa Giêsu.  Và thế là, một khởi đầu tốt sẽ là nhận ra chúng ta cần cái gì và tìm ra nó ở đâu.  Chúng ta cần bắt đầu với một lời nài xin khẩn thiết: Xin Chúa dạy cho chúng con cầu nguyện!

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Vọng tử

Năm nay Mùa Vọng đến khá sớm, nghĩa là còn khá lâu mới tới Noel. Đầu Mùa Vọng mà vẫn còn dính 3 ngày của tháng 11, tháng cầu cho các những người đã chết. Bởi đó, dựa vào giao thoa của thời gian, ta sẽ suy nghĩ về đề tài chờ (mùa vọng) chết (tháng 11). Chờ chết. Vọng tử

Vương Nguyên Mỹ dọn tiệc mời khách, có một người khách rất tinh thông thuật số, gieo quẻ đoán vận, nên khách khứa hăng say bu vào hỏi về tử vi bói toán số mạng. Vương Nguyên Mỹ chủ nhân mới nói: “Tôi tự mình cũng biết coi bói vậy”. Có người hỏi thử ông ta xem thế nào, họ Vương trả lời: “Tôi và các ngài ai cũng phải chết”. (trích Hài Tùng)

Đúng, đó là chân lý. Là sự thật, dẫu là phũ phàng: tất cả mọi người đều phải chết.

Vì thế có thể nói cách bi quan rằng: sống là chờ chết (như người bệnh nặng hết thuốc chữa chỉ còn nằm giường chờ chết). Triết hiện sinh còn quan niệm bi quan hơn thế: “Con người là hữu thể để chết”. Sein zum Tode (Heidegger). Càng sống thêm một ngày càng đi gần tới nấm mồ. Càng thở thêm một phút càng thấy quan tài rõ hơn một chút. Đó là cái nhìn bi quan.

Còn cái nhìn hy vọng của Kitô hữu: sống là chờ Chúa đến.

Con người ta ai cũng phải chết. Con người ai cũng phải đối diện với ngày Chúa đến. Đó là chân lý bất di bất dịch. Nhưng ngày giờ nào thì không ai rõ. Không ai biết được!

Bởi thế Chúa mới nói phải tỉnh thức. Tức là phải sống trong tư cách của người tỉnh thức.

1) Thức mà không tỉnh

Có nhiều cái thức mà không tỉnh. Có nhiều người thức mà  chứ chẳng tỉnh tí nào. Họ là ai?

-Họ là những kẻ thức thâu đêm tới sáng để ăn thua đủ bên canh bạc trên chiếu. Họ thức mà không tỉnh, nhưng mê ông bác thằng bần.

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh. Họ là người mê làm giàu: làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, Chúa nhật làm thêm cũng được. Họ không nhớ Lời Chúa: trước hết tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự đời sẽ được cho sau.  

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh là những kẻ thức trong mê man say đắm xác thịt. Thân xác thì thức để chờ đợi thỏa mãn cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh, đó là những người có kiến thức, có tri thức rồi trở nên kẻ kiêu ngạo, họ thức trong kiến thức hạn hẹp của mình để lên án chỉ trích người này người kia. Họ quên lời Vua Kitô: Ai  xét đoán anh em, sẽ bị xét đoán.

-Cũng có những kẻ xem ra thực thi đúng Lời Chúa hôm nay: tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng lại trong một cung cách sai:

Cha Anthony de Mello, nhà tu đức nổi tiếng người Ấn Độ kể:

Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà La Môn bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.

Tiếc thay khi dọn bữa lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, bà lo cầu nguyện, quên chú tâm vào việc nấu ăn.

Vị khách mỉm cười đáp: “Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh Koran.”

Thế giới sẽ ra sao, nếu gần 2 tỉ người Kitô giáo thức dậy là vào ngay nhà thờ cầu nguyện, và mê man với việc ở lại trong Nhà Thờ, chỉ trừ có giờ ăn, giờ ngủ!

Công Đồng Vatican gọi một trong những tội của thời đại này, là con người đã sao nhãng việc trần thế. Dĩ nhiên có cách thức vừa làm việc vừa cầu nguyện được, nhưng chắc hẳn không phải là ở mãi trong Nhà Thờ: lấy ai đi chợ, lấy ai dọn bàn.

Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người thức mà như đang mê ngủ.

Trên đây ta đã tạm liệt kê những người thức chờ Chúa đến mà không tỉnh. Họ thức trong mê: mê đỏ đen, mê làm giàu, mê lạc thú, kể cả mê cầu nguyện mà quên việc bổn phận hằng ngày…, cũng vẫn là thức mà không tỉnh.

2) Cái tỉnh đúng đắn

-Cái tỉnh đúng đắn là nhận chân rằng: số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Khi chết rồi là không thể sữa chữa được nữa.

-Cái tỉnh đúng đắn nhất là biết sẵn sàng đón tiếp Chúa đến bất cứ lúc nào. Nói cách khác, sống mà như sẵn sàng chết. Một câu nói lừng danh: BẠN CHƯA SẴN SÀNG SỐNG CHO TỚI KHI NÀO BẠN SẴN SÀNG CHẾT. “You are not ready to live until you’re ready to die”. Tức là: Bạn chưa biết sống nếu bạn chưa biết chếtBạn sẽ không biết sống thế nào, nếu bạn chưa biết ta chết làm sao. Chết là lúc gặp Chúa.

Hãy thử xem bạn muốn gặp Chúa ra sao, thì bạn sẽ sống theo như vậy.

Một bà đạo đức được Chúa hứa đến thăm vào ngày bà cầu xin.

Sáng sớm hôm đó, bà lo dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, rồi ngồi chờ Chúa. Nghe tiếng gõ cửa, bà tin là Chúa đến, vội chạy ra mở  cửa… Nhưng đó là người ăn xin. Bà buồn bã đóng cửa lại.

Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa. Bà vội mở cửa nhanh hơn vì chắc là Chúa đến… Nhưng đó là một người mù. Và cửa đóng lại.

Mấy phút trôi qua, lại có tiếng gõ cửa. Bà nghĩ nhất quá tam, chắc chắn Chúa đến nên chạy nhanh mở cửa. Thì ra là một người ăn mặc rách rưới, bà vừa buồn vừa giận, nói: Tôi bận đón Chúa, tôi không giúp anh được!

Rồi màn đêm xuống cũng chưa thấy Chúa đến. Bà buồn rầu than:

– Chẳng biết Chúa bận việc gì mà quên lời hứa. Mòn mỏi quá bà ngủ quên và thấy Chúa đến nói:

Ta đã đến với con 3 lần, mà cả 3 lần đều bị con đuổi đi !…

Trên bia mộ trong một nghĩa trang, có mấy dòng chữ đáng ta suy nghĩ.

Những gì tôi có, nay đã thuộc về người khác.

Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng.

Những gì tôi làm phúc và cho đi, nay thuộc về tôi.

Đó chính là cách thức tỉnh thức thích hợp khi ta chờ Chúa đến.

  Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm – (góp nhặt)

Hẹn gặp lại

 From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

MÙA VỌNG – ĐỌC DẤU CHỈ CỦA NIỀM HY VỌNG

MÙA VỌNG – ĐỌC DẤU CHỈ CỦA NIỀM HY VỌNG

Trần Văn Ngữ, SJ

Trong thời gian đại dịch Covid, không ít “ngôn sứ giả” đã lên tiếng nói về ngày tận thế.  Hầu hết các ngôn sứ này đều loan báo những tin gây hoang mang và gieo lo sợ cho người khác.  Chưa kể đến việc những ai nhận được các tin ấy, phải có trách nhiệm loan tin đến với người khác nữa.  Thế là số lượt thích (lượt like) các tin giả và giật gân được tăng lên mỗi ngày, tỉ lệ thuận với sự lo lắng và hoảng sợ lan tỏa trong cộng đồng.  Nếu để ý một chút, chúng ta có thể nhận ra các điều này dường như đi ngược lại cái nhìn của Ki-tô giáo.  Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa không dùng những sự kiện kinh thiên động địa của vũ trụ để hù dọa con người.  Ngược lại, những điều ấy xảy ra, người Ki-tô hữu được mời gọi nhìn ra sự hữu hạn và bấp bênh của thế giới này, đặt niềm tin vào những điều bền vững hơn.  Nói một cách khác, người Ki-tô hữu được mời gọi đọc ra những dấu chỉ của niềm hy vọng.  

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng[1], chúng ta thấy Đức Giê-su dùng những ngôn từ mang tính ngôn sứ để nói về những điều sẽ xảy đến trong tương lai và ý nghĩa của chúng[2].  Ngài nói về sự hỗn loạn của các tinh tú trên trời và sự đảo lộn các vật thể dưới đất.  Trong tình cảnh ấy, mọi người sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.  Họ sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc[3], chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.  Có thể nói, đây là những phản ứng rất tự nhiên và bình thường của con người.  Nhưng điều gây ngạc nhiên cho chúng ta là góc nhìn và cách giải thích ý nghĩa của Đức Giê-su.  Ngài khẳng định: khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.

Chúng ta hiểu điều này thế nào đây?  Khi có ai đó nói rằng sự hỗn loạn của vũ trụ xảy ra như là những dấu chỉ của niềm hy vọng, chứ không phải là thời của sự hủy diệt vĩnh viễn.  Những lời này thật là tuyệt vời, khi chúng ta đang phải chung sống với đại dịch Covid.  Nhưng chúng ta vẫn chưa hoàn toàn dập tắt được nỗi nghi ngờ, phải chăng mình đang ảo tưởng?

Với những suy luận của lý trí, chúng ta thấy khó hiểu câu nói của Đức Giê-su: “Khi những điều này bắt đầu xảy ra, hãy nhìn lên và ngẩng đầu lên, vì sự cứu chuộc[4] đã gần đến” (c. 28).  Chưa kể là những lời này có vẻ xa lạ đối với chúng ta.  Các nhà chú giải Kinh Thánh khuyên chúng ta không nên hiểu những lời này theo các sự kiện cụ thể, nhưng thay vào đó, chúng ta cần hiểu rằng đây là lời hứa của Thiên Chúa.  Ngài sẽ can thiệp một cách dứt khoát vào lịch sử của con người.  Cho nên, đây không phải là một lời đe dọa, mà là một lời hứa!

Sau khi dạy cách đọc và giải thích ý nghĩa, cũng như mục đích của các dấu chỉ thời đại, bây giờ Đức Giê-su cảnh báo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.  Ví như người đi đón chàng rể (Mt 25,1-13).  Thời gian chờ đợi là lúc quyết định.  Phần thưởng chỉ dành cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức.  Câu hỏi được đặt ra: Ai có thể tỉnh thức, khi sự chờ đợi thường rất buồn tẻ?  Và nếu không tỉnh thức, thì sao?

Đức Giê-su căn dặn các môn đệ: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.”  Có thể diễn tả lại những lời này bằng ngôn ngữ tích cực hơn: Anh em hãy sử dụng các năng lượng sống một cách tích cực; đừng sử dụng những tài năng Chúa ban một cách vô ích. 

Trong ngôn từ của Kinh Thánh, đừng chè chén say sưa [5], có thể hiểu là hãy cố gắng tận dụng tối đa các nguồn lực Chúa ban, để đem lại ích lợi cho chính mình và cho người khác.  Nói một cách khác, hãy trở nên người quản lý khôn ngoan và tài giỏi những ơn lành Chúa ban.  Vì việc sử dụng năng lượng và tài nguyên một cách vô ích, cũng giống như tình trạng của người say xỉn.  Họ lãng phí thời gian, tiền bạc và sức khỏe… vào các thú vui mau qua – chúng đem đến những cảm giác sung sướng hạnh phúc lâng lâng, nhưng sau đó là sự hụt hẫng và cô đơn vì thiếu vắng hy vọng.

Nếu việc chè chén say sưa trái ngược với sự quản lý tài giỏi, thì sự lo lắng[6] đi ngược lại với đời sống đức tin lành mạnh.  Giống như việc chè chén say sưa, sự lo lắng tiêu hao hết năng lượng sống của chúng ta, mà không sinh ra bất cứ điều hữu ích gì.  Sự lo lắng có thể kéo theo cảm giác mệt mỏi và khiến chúng ta tăng huyết áp.  Sự lo lắng còn làm tê liệt cuộc sống, khiến chúng ta không phản ứng kịp với các nguy hiểm đang đến gần.

Nhìn vào trong cộng đoàn, chúng ta thấy mỗi người có những khó khăn riêng.  Có người trở nên nặng nề vì say xỉn; nhiều người khác lại gặp vấn đề với những lo lắng thái quá của cuộc sống hằng ngày.  Cả hai đều có hại.  Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi nghe thấy rằng lo lắng cũng gây ra tác hại như việc chè chén say sưa.  Vì nếu đưa lên bàn cân để đong đếm, thì có lẽ sự lo lắng có vẻ là một lỗi nhẹ hơn nhiều.  Nhưng thực ra sự lo lắng lại bóp nghẹt tinh thần sống và làm xơ cứng đời sống đức tin.  Không quá lời, nếu nói sự lo lắng gây hại đến đời sống đạo của chúng ta hơn.  Ở đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su mời gọi tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo.[7]

Vậy điều chúng ta nên làm là gì?  Đức Giê-su mời gọi: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.  Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tránh được sự nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng thái quá.  Lời cầu nguyện còn giúp chúng ta mở lòng ra để nhận được các ơn lành của Thiên Chúa và sử dụng các năng lượng một cách tích cực và khôn ngoan.  Hãy tỉnh thức, là mời gọi hãy dành thời gian để duyệt xét lại lối sống hiện tại và loại bỏ đi những thú vui thiếu niềm hy vọng.  Đừng chạy theo những bình an và hạnh phúc mau tàn chóng qua, thay vào đó đi tìm và xây dựng niềm an vui đích thực.  Trong mùa Vọng này, xin cho chúng con sẵn sàng và luôn sẵn sàng, để nhận ra và mở lòng đón nhận Ơn Cứu Chuộc đang đến gần.

Trần Văn Ngữ, SJ

Nguồnhttps://dongten.net

From: Langthangchieutim

…………..

[1] Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C (Lc 21, 25-28, 34-36).

[2] Như lời của ngôn sứ I-sai-a: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn toả sáng.” (Is 13, 10). Xem thêm (Is 34, 4; Ge 2,10; 3,4; 4,15).

[3] Từ Hy-lạp ἀποψυχόντων (apopsuchonton) = sợ kinh hãi hoặc sợ chết. Ở đây còn có nghĩa là bị đóng băng, bị tê liệt.

[4] Từ Hy Lạp ἀπολύτρωσις (apolytrosis) = sự cứu rỗi, tiền chuộc… Ở đây được hiểu là ơn cứu độ.

[5] Từ Hy-lạp κρεπάλῃ (kraipale) = chóng mặt; và μέθῃ (methe) = say rượu. Trong tiếng Hy Lạp, từ kraipale thường được dùng để chỉ cảm giác buồn nôn hoặc lú lẫn do say rượu. Ngoài ra, từ này còn dùng để nói về những thú vui chơi tiêu khiển nữa. Nó ám chỉ đến những ham mê, thú vui quá độ hoặc phóng đãng…. Tuy nhiên, điểm chung là đều quy về tình trạng say rượu.

[6]  Từ Hy-lạp μερίμναις βιωτικαῖς (merimnais biotikais) = quan tâm, lo lắng những thứ cần thiết hàng ngày của cuộc sống mưu sinh.

[7] Tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6, 25-34).

BÍ ẨN ĐẠI VĂN HÀO VOLTAIRE NHÌN THẤY QUỶ DỮ PHÚT HẤP HỐI

Make Christianity Great As Always

BÍ ẨN ĐẠI VĂN HÀO VOLTAIRE NHÌN THẤY QUỶ DỮ PHÚT HẤP HỐI

Bức phù điêu bằng sáp này được làm vào cuối thế kỷ 18 bởi Samuel Percy ((1750-1820), nay được trưng bày tại bảo tàng Victoria & Albert ở Luân Đôn mô tả những giờ phút cuối cùng trước khi lâm chung của đại văn hào nước Pháp Voltaire với gương mặt hoảng loạn, đau đớn, vật vã.

Tài liệu ghi lại các nhân chứng chứng kiến lại trong giây phút hấp hối, Voltaire đã hoảng loạn và gào thét những điều khó hiểu, như thể ông trông thấy quỷ.

François-Marie Arouet hay Voltaire (1694 – 1778) là một nhà văn, nhà triết học người Pháp nổi tiếng trong phong trào” triết học ánh sáng” và những quan điểm ngụy biện về quyền “tự do” của con người. Ông là nhà văn chống Chúa và đánh phá Kitô giáo, đấu tranh cho những mục tiêu chính trị núp bóng danh nghĩa là quyền bình đẳng của xã hội…

Nhắc đến nước Pháp thế kỷ 18 và nhắc đến cuộc Cách mạng Pháp đẫm máu bạo lực, độc tài đã đưa mấy ngàn người vô tội lên máy chém, bỏ tù hàng vạn người Công giáo gồm nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ không thể không nhắc tới Voltaire có đóng góp rất lớn cho cuộc cách mạng này.

Sinh thời, Voltaire được biết đến là người bài xích Kitô giáo một cách ngông cuồng. Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc, cha là một quan chức thuế và mẹ thuộc dòng dõi cao quý nhưng ông lại chống Chúa và đánh phá Công giáo.

Tư tưởng bài xích Kitô giáo bằng ngôn từ sắc sảo khiến Voltaire trở thành biểu tượng cho phong trào chống Chúa lúc bấy giờ.

Ngày 30/5/1778, Voltaire qua đời ở tuổi 84. Có nhiều tài liệu nghiên cứu về cái chết của một nhà văn, triết gia lỗi lạc này; đặc biệt là khoảnh khắc hấp hối khó hiểu của ông.

Một số tài liệu ghi lại Voltaire qua đời do đột quỵ. Nhưng trong giây phút đau đớn, ông đã phát ra những tiếng hét đáng sợ mà không ai hiểu được.

Theo lời kể lại của bà giúp việc trong nhà ông thì Voltaire đã nhìn thấy những hình ảnh ghê rợn, rồi ông tru tréo: “Một bàn tay đang kéo tôi xa rời Chúa Trời…quỷ bắt lấy tôi rồi…,tôi trông thấy hỏa ngục… Hãy cút đi, chính mày đã đưa ta đến tình trạng này, hãy buông tha cho ta”.

Có lúc, ông lại van xin trong ai oán: “Xin Chúa Trời hãy thương xót”, rồi quay ra than vãn với người trong nhà rằng “Ta phải ra đi trong sự bỏ rơi của Chúa”.

Theo một tài liệu khác, nhân chứng tận mắt thấy những giờ phút cuối đời của Voltaire tả rằng: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ dội như Voltaire”.

Wikipedia không ghi rõ chi tiết về cái chết của Voltaire nhưng có đề cập tới một số giả thiết khó hiểu về giây phút lâm chung đau đớn của đại văn hào. Wiki cũng đề cập thêm rằng sau khi qua đời, Voltaire bị các thánh đường tại Paris từ chối chôn cất bởi ông đã không ít lần báng bổ Chúa bằng giọng văn châm biếm, miệt thị.

Bạn bè thân và gia đình đã phải mang thi thể ông tới Scellières, thuộc thành phố Champagne, cách Paris khoảng một trăm dặm. Tại đây, một linh mục bằng lòng cho chôn cất Voltaire với đầy đủ nghi lễ Công giáo.

Đó chỉ là trường hợp đặc biệt và còn nhiều nhân vật khác chống lại Thiên Chúa. Một cá nhân dù là người nổi tiếng hay là không nổi tiếng, nếu báng bổ Thiên Chúa, chính là không biết tôn trọng lương tri, đạo đức con người, người đó sẽ phải chịu nhận hậu quả đáng tiếc, sau này dẫu có hối hận cũng muộn màng. Từ cổ chí kim tới nay những kẻ chống lại Thiên Chúa chẳng bao giờ có kết cục tốt đẹp cả, cho nên đừng có dại mà chống lại Ngài.

Nguồn : Chiến sĩ Chúa Kitô

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

Tạ ơn Chúa vì con bị HIV!

Đây là lời cầu nguyện “ngược đời” của một con người hạnh phúc trong khổ đau. Chị là một người giữa bao người. Chị bình thường trong một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, một ngày đã tới, ngày mà chị biết mình bị nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV. Chẳng mấy chốc, mọi người đều rời xa chị. Chị cô đơn đến tuyệt vọng. Chị kiệt sức. Chị muốn chết.

Phúc thay, chị được đưa đến mái ấm có các sơ chăm sóc. Dần dần, sức khỏe chị khá lên. Ngày qua ngày, niềm vui chị nhận được từ những người xa lạ, dần lớn lên trong chị. Lần đầu tiên trong đời chị biết Chúa Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận được tình thương mến lạ lùng từ những người tin vào Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị nhận ra ơn của Chúa ngay trong nghịch cảnh, nhận ra sức sống ngay trong sự tiều tụy. Sự kinh ngạc và niềm vui lớn tới nỗi chị thốt lên: “Nếu con không bị HIV, con nào biết Chúa trên đời. Vì con bị HIV như thế này mà con có dịp biết Chúa. Tạ ơn Chúa.”

Vâng, con người bỏ rơi nhau, còn Chúa thì không bao giờ.

Tại sao con theo đạo Phật, mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?

Đó là lời “than trách khó hiểu” của một bà bị tai biến, hiện liệt nửa người, đang ở trong nhà dưỡng lão mà các sơ chăm sóc. Trước kia, bà vốn ở một mình. Nhìn khuôn mặt bà, nghe bà kể chuyện, tôi nhận thấy niềm tiếc nuối rất lớn về quá khứ. Bà nói: “Trước kia con đẹp lắm, làm ăn được lắm, có của ăn của để, bạn bè rất nhiều… Đến một ngày, con bị tai biến, liệt nửa người. Thế là, tiền bạc của con có dư thì cũng không cứu được con. Bạn bè con bỏ con hết, chẳng còn ai. Người thân của con thì ai họ cũng phải lo việc nhà của họ. Con còn lại một mình.”

“Cũng chẳng biết ở đâu, vì không có người chăm sóc, con đành ở trong nhà dưỡng lão này. Từ trước tới giờ, con sùng đạo Phật lắm. Khi vào đây ở, có các sơ, con mới biết Chúa. Các sơ có an ủi con thế này: Bà chịu khó vác thánh giá Chúa trao.”

Bà thắc mắc về số phận khó chấp nhận của mình, bà hỏi tôi: “Khi con bị tai biến, con đâu biết Chúa. Tại sao con theo đạo Phật mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?” Nhìn bà, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bệnh tật là một phần của đời người, chẳng ai tránh được. Chỉ có điều, mỗi người đối diện với bệnh tật một cách mà thôi. Bà buồn rầu và thất vọng không phải vì bà bị bệnh, mà là vì bà bị bỏ rơi và bị quên lãng, là vì bà chưa có sức mạnh từ bên trong, là vì bà chưa có những người thực sự thân thiết yêu thương.”

Cầu chúc bà có thể nhận thấy tình thương mến của những người đang sống với bà.

Đối diện với đau khổ và cái chết, mỗi người chọn cho mình một thế đứng. Tùy điểm tựa mà mỗi người vững vàng hay sụp đổ. Có một điều chắc chắn là ai cũng chết, cũng có một điều khá chắc chắc là hầu như người ta cứ nghĩ mình còn lâu mới chết. Giá trị đời người và giá trị con người, ngày càng bị lãng quên trong cuộc sống xô bồ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tìm điểm tựa nơi Ngài, để con sống một cuộc đời đáng sống và chết một cái chết bình an, và dù có chết thì con vẫn sống trong Ngài. Amen.

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

No photo description available.