Vọng tử

Năm nay Mùa Vọng đến khá sớm, nghĩa là còn khá lâu mới tới Noel. Đầu Mùa Vọng mà vẫn còn dính 3 ngày của tháng 11, tháng cầu cho các những người đã chết. Bởi đó, dựa vào giao thoa của thời gian, ta sẽ suy nghĩ về đề tài chờ (mùa vọng) chết (tháng 11). Chờ chết. Vọng tử

Vương Nguyên Mỹ dọn tiệc mời khách, có một người khách rất tinh thông thuật số, gieo quẻ đoán vận, nên khách khứa hăng say bu vào hỏi về tử vi bói toán số mạng. Vương Nguyên Mỹ chủ nhân mới nói: “Tôi tự mình cũng biết coi bói vậy”. Có người hỏi thử ông ta xem thế nào, họ Vương trả lời: “Tôi và các ngài ai cũng phải chết”. (trích Hài Tùng)

Đúng, đó là chân lý. Là sự thật, dẫu là phũ phàng: tất cả mọi người đều phải chết.

Vì thế có thể nói cách bi quan rằng: sống là chờ chết (như người bệnh nặng hết thuốc chữa chỉ còn nằm giường chờ chết). Triết hiện sinh còn quan niệm bi quan hơn thế: “Con người là hữu thể để chết”. Sein zum Tode (Heidegger). Càng sống thêm một ngày càng đi gần tới nấm mồ. Càng thở thêm một phút càng thấy quan tài rõ hơn một chút. Đó là cái nhìn bi quan.

Còn cái nhìn hy vọng của Kitô hữu: sống là chờ Chúa đến.

Con người ta ai cũng phải chết. Con người ai cũng phải đối diện với ngày Chúa đến. Đó là chân lý bất di bất dịch. Nhưng ngày giờ nào thì không ai rõ. Không ai biết được!

Bởi thế Chúa mới nói phải tỉnh thức. Tức là phải sống trong tư cách của người tỉnh thức.

1) Thức mà không tỉnh

Có nhiều cái thức mà không tỉnh. Có nhiều người thức mà  chứ chẳng tỉnh tí nào. Họ là ai?

-Họ là những kẻ thức thâu đêm tới sáng để ăn thua đủ bên canh bạc trên chiếu. Họ thức mà không tỉnh, nhưng mê ông bác thằng bần.

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh. Họ là người mê làm giàu: làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, Chúa nhật làm thêm cũng được. Họ không nhớ Lời Chúa: trước hết tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự đời sẽ được cho sau.  

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh là những kẻ thức trong mê man say đắm xác thịt. Thân xác thì thức để chờ đợi thỏa mãn cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.

-Những kẻ thức mà mê chứ không tỉnh, đó là những người có kiến thức, có tri thức rồi trở nên kẻ kiêu ngạo, họ thức trong kiến thức hạn hẹp của mình để lên án chỉ trích người này người kia. Họ quên lời Vua Kitô: Ai  xét đoán anh em, sẽ bị xét đoán.

-Cũng có những kẻ xem ra thực thi đúng Lời Chúa hôm nay: tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng lại trong một cung cách sai:

Cha Anthony de Mello, nhà tu đức nổi tiếng người Ấn Độ kể:

Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà La Môn bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.

Tiếc thay khi dọn bữa lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, bà lo cầu nguyện, quên chú tâm vào việc nấu ăn.

Vị khách mỉm cười đáp: “Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh Koran.”

Thế giới sẽ ra sao, nếu gần 2 tỉ người Kitô giáo thức dậy là vào ngay nhà thờ cầu nguyện, và mê man với việc ở lại trong Nhà Thờ, chỉ trừ có giờ ăn, giờ ngủ!

Công Đồng Vatican gọi một trong những tội của thời đại này, là con người đã sao nhãng việc trần thế. Dĩ nhiên có cách thức vừa làm việc vừa cầu nguyện được, nhưng chắc hẳn không phải là ở mãi trong Nhà Thờ: lấy ai đi chợ, lấy ai dọn bàn.

Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người thức mà như đang mê ngủ.

Trên đây ta đã tạm liệt kê những người thức chờ Chúa đến mà không tỉnh. Họ thức trong mê: mê đỏ đen, mê làm giàu, mê lạc thú, kể cả mê cầu nguyện mà quên việc bổn phận hằng ngày…, cũng vẫn là thức mà không tỉnh.

2) Cái tỉnh đúng đắn

-Cái tỉnh đúng đắn là nhận chân rằng: số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Khi chết rồi là không thể sữa chữa được nữa.

-Cái tỉnh đúng đắn nhất là biết sẵn sàng đón tiếp Chúa đến bất cứ lúc nào. Nói cách khác, sống mà như sẵn sàng chết. Một câu nói lừng danh: BẠN CHƯA SẴN SÀNG SỐNG CHO TỚI KHI NÀO BẠN SẴN SÀNG CHẾT. “You are not ready to live until you’re ready to die”. Tức là: Bạn chưa biết sống nếu bạn chưa biết chếtBạn sẽ không biết sống thế nào, nếu bạn chưa biết ta chết làm sao. Chết là lúc gặp Chúa.

Hãy thử xem bạn muốn gặp Chúa ra sao, thì bạn sẽ sống theo như vậy.

Một bà đạo đức được Chúa hứa đến thăm vào ngày bà cầu xin.

Sáng sớm hôm đó, bà lo dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, rồi ngồi chờ Chúa. Nghe tiếng gõ cửa, bà tin là Chúa đến, vội chạy ra mở  cửa… Nhưng đó là người ăn xin. Bà buồn bã đóng cửa lại.

Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa. Bà vội mở cửa nhanh hơn vì chắc là Chúa đến… Nhưng đó là một người mù. Và cửa đóng lại.

Mấy phút trôi qua, lại có tiếng gõ cửa. Bà nghĩ nhất quá tam, chắc chắn Chúa đến nên chạy nhanh mở cửa. Thì ra là một người ăn mặc rách rưới, bà vừa buồn vừa giận, nói: Tôi bận đón Chúa, tôi không giúp anh được!

Rồi màn đêm xuống cũng chưa thấy Chúa đến. Bà buồn rầu than:

– Chẳng biết Chúa bận việc gì mà quên lời hứa. Mòn mỏi quá bà ngủ quên và thấy Chúa đến nói:

Ta đã đến với con 3 lần, mà cả 3 lần đều bị con đuổi đi !…

Trên bia mộ trong một nghĩa trang, có mấy dòng chữ đáng ta suy nghĩ.

Những gì tôi có, nay đã thuộc về người khác.

Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng.

Những gì tôi làm phúc và cho đi, nay thuộc về tôi.

Đó chính là cách thức tỉnh thức thích hợp khi ta chờ Chúa đến.

  Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm – (góp nhặt)

Hẹn gặp lại

 From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

MÙA VỌNG – ĐỌC DẤU CHỈ CỦA NIỀM HY VỌNG

MÙA VỌNG – ĐỌC DẤU CHỈ CỦA NIỀM HY VỌNG

Trần Văn Ngữ, SJ

Trong thời gian đại dịch Covid, không ít “ngôn sứ giả” đã lên tiếng nói về ngày tận thế.  Hầu hết các ngôn sứ này đều loan báo những tin gây hoang mang và gieo lo sợ cho người khác.  Chưa kể đến việc những ai nhận được các tin ấy, phải có trách nhiệm loan tin đến với người khác nữa.  Thế là số lượt thích (lượt like) các tin giả và giật gân được tăng lên mỗi ngày, tỉ lệ thuận với sự lo lắng và hoảng sợ lan tỏa trong cộng đồng.  Nếu để ý một chút, chúng ta có thể nhận ra các điều này dường như đi ngược lại cái nhìn của Ki-tô giáo.  Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa không dùng những sự kiện kinh thiên động địa của vũ trụ để hù dọa con người.  Ngược lại, những điều ấy xảy ra, người Ki-tô hữu được mời gọi nhìn ra sự hữu hạn và bấp bênh của thế giới này, đặt niềm tin vào những điều bền vững hơn.  Nói một cách khác, người Ki-tô hữu được mời gọi đọc ra những dấu chỉ của niềm hy vọng.  

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng[1], chúng ta thấy Đức Giê-su dùng những ngôn từ mang tính ngôn sứ để nói về những điều sẽ xảy đến trong tương lai và ý nghĩa của chúng[2].  Ngài nói về sự hỗn loạn của các tinh tú trên trời và sự đảo lộn các vật thể dưới đất.  Trong tình cảnh ấy, mọi người sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.  Họ sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc[3], chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.  Có thể nói, đây là những phản ứng rất tự nhiên và bình thường của con người.  Nhưng điều gây ngạc nhiên cho chúng ta là góc nhìn và cách giải thích ý nghĩa của Đức Giê-su.  Ngài khẳng định: khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.

Chúng ta hiểu điều này thế nào đây?  Khi có ai đó nói rằng sự hỗn loạn của vũ trụ xảy ra như là những dấu chỉ của niềm hy vọng, chứ không phải là thời của sự hủy diệt vĩnh viễn.  Những lời này thật là tuyệt vời, khi chúng ta đang phải chung sống với đại dịch Covid.  Nhưng chúng ta vẫn chưa hoàn toàn dập tắt được nỗi nghi ngờ, phải chăng mình đang ảo tưởng?

Với những suy luận của lý trí, chúng ta thấy khó hiểu câu nói của Đức Giê-su: “Khi những điều này bắt đầu xảy ra, hãy nhìn lên và ngẩng đầu lên, vì sự cứu chuộc[4] đã gần đến” (c. 28).  Chưa kể là những lời này có vẻ xa lạ đối với chúng ta.  Các nhà chú giải Kinh Thánh khuyên chúng ta không nên hiểu những lời này theo các sự kiện cụ thể, nhưng thay vào đó, chúng ta cần hiểu rằng đây là lời hứa của Thiên Chúa.  Ngài sẽ can thiệp một cách dứt khoát vào lịch sử của con người.  Cho nên, đây không phải là một lời đe dọa, mà là một lời hứa!

Sau khi dạy cách đọc và giải thích ý nghĩa, cũng như mục đích của các dấu chỉ thời đại, bây giờ Đức Giê-su cảnh báo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.  Ví như người đi đón chàng rể (Mt 25,1-13).  Thời gian chờ đợi là lúc quyết định.  Phần thưởng chỉ dành cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức.  Câu hỏi được đặt ra: Ai có thể tỉnh thức, khi sự chờ đợi thường rất buồn tẻ?  Và nếu không tỉnh thức, thì sao?

Đức Giê-su căn dặn các môn đệ: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.”  Có thể diễn tả lại những lời này bằng ngôn ngữ tích cực hơn: Anh em hãy sử dụng các năng lượng sống một cách tích cực; đừng sử dụng những tài năng Chúa ban một cách vô ích. 

Trong ngôn từ của Kinh Thánh, đừng chè chén say sưa [5], có thể hiểu là hãy cố gắng tận dụng tối đa các nguồn lực Chúa ban, để đem lại ích lợi cho chính mình và cho người khác.  Nói một cách khác, hãy trở nên người quản lý khôn ngoan và tài giỏi những ơn lành Chúa ban.  Vì việc sử dụng năng lượng và tài nguyên một cách vô ích, cũng giống như tình trạng của người say xỉn.  Họ lãng phí thời gian, tiền bạc và sức khỏe… vào các thú vui mau qua – chúng đem đến những cảm giác sung sướng hạnh phúc lâng lâng, nhưng sau đó là sự hụt hẫng và cô đơn vì thiếu vắng hy vọng.

Nếu việc chè chén say sưa trái ngược với sự quản lý tài giỏi, thì sự lo lắng[6] đi ngược lại với đời sống đức tin lành mạnh.  Giống như việc chè chén say sưa, sự lo lắng tiêu hao hết năng lượng sống của chúng ta, mà không sinh ra bất cứ điều hữu ích gì.  Sự lo lắng có thể kéo theo cảm giác mệt mỏi và khiến chúng ta tăng huyết áp.  Sự lo lắng còn làm tê liệt cuộc sống, khiến chúng ta không phản ứng kịp với các nguy hiểm đang đến gần.

Nhìn vào trong cộng đoàn, chúng ta thấy mỗi người có những khó khăn riêng.  Có người trở nên nặng nề vì say xỉn; nhiều người khác lại gặp vấn đề với những lo lắng thái quá của cuộc sống hằng ngày.  Cả hai đều có hại.  Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi nghe thấy rằng lo lắng cũng gây ra tác hại như việc chè chén say sưa.  Vì nếu đưa lên bàn cân để đong đếm, thì có lẽ sự lo lắng có vẻ là một lỗi nhẹ hơn nhiều.  Nhưng thực ra sự lo lắng lại bóp nghẹt tinh thần sống và làm xơ cứng đời sống đức tin.  Không quá lời, nếu nói sự lo lắng gây hại đến đời sống đạo của chúng ta hơn.  Ở đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su mời gọi tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo.[7]

Vậy điều chúng ta nên làm là gì?  Đức Giê-su mời gọi: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.  Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tránh được sự nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng thái quá.  Lời cầu nguyện còn giúp chúng ta mở lòng ra để nhận được các ơn lành của Thiên Chúa và sử dụng các năng lượng một cách tích cực và khôn ngoan.  Hãy tỉnh thức, là mời gọi hãy dành thời gian để duyệt xét lại lối sống hiện tại và loại bỏ đi những thú vui thiếu niềm hy vọng.  Đừng chạy theo những bình an và hạnh phúc mau tàn chóng qua, thay vào đó đi tìm và xây dựng niềm an vui đích thực.  Trong mùa Vọng này, xin cho chúng con sẵn sàng và luôn sẵn sàng, để nhận ra và mở lòng đón nhận Ơn Cứu Chuộc đang đến gần.

Trần Văn Ngữ, SJ

Nguồnhttps://dongten.net

From: Langthangchieutim

…………..

[1] Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C (Lc 21, 25-28, 34-36).

[2] Như lời của ngôn sứ I-sai-a: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn toả sáng.” (Is 13, 10). Xem thêm (Is 34, 4; Ge 2,10; 3,4; 4,15).

[3] Từ Hy-lạp ἀποψυχόντων (apopsuchonton) = sợ kinh hãi hoặc sợ chết. Ở đây còn có nghĩa là bị đóng băng, bị tê liệt.

[4] Từ Hy Lạp ἀπολύτρωσις (apolytrosis) = sự cứu rỗi, tiền chuộc… Ở đây được hiểu là ơn cứu độ.

[5] Từ Hy-lạp κρεπάλῃ (kraipale) = chóng mặt; và μέθῃ (methe) = say rượu. Trong tiếng Hy Lạp, từ kraipale thường được dùng để chỉ cảm giác buồn nôn hoặc lú lẫn do say rượu. Ngoài ra, từ này còn dùng để nói về những thú vui chơi tiêu khiển nữa. Nó ám chỉ đến những ham mê, thú vui quá độ hoặc phóng đãng…. Tuy nhiên, điểm chung là đều quy về tình trạng say rượu.

[6]  Từ Hy-lạp μερίμναις βιωτικαῖς (merimnais biotikais) = quan tâm, lo lắng những thứ cần thiết hàng ngày của cuộc sống mưu sinh.

[7] Tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6, 25-34).

BÍ ẨN ĐẠI VĂN HÀO VOLTAIRE NHÌN THẤY QUỶ DỮ PHÚT HẤP HỐI

Make Christianity Great As Always

BÍ ẨN ĐẠI VĂN HÀO VOLTAIRE NHÌN THẤY QUỶ DỮ PHÚT HẤP HỐI

Bức phù điêu bằng sáp này được làm vào cuối thế kỷ 18 bởi Samuel Percy ((1750-1820), nay được trưng bày tại bảo tàng Victoria & Albert ở Luân Đôn mô tả những giờ phút cuối cùng trước khi lâm chung của đại văn hào nước Pháp Voltaire với gương mặt hoảng loạn, đau đớn, vật vã.

Tài liệu ghi lại các nhân chứng chứng kiến lại trong giây phút hấp hối, Voltaire đã hoảng loạn và gào thét những điều khó hiểu, như thể ông trông thấy quỷ.

François-Marie Arouet hay Voltaire (1694 – 1778) là một nhà văn, nhà triết học người Pháp nổi tiếng trong phong trào” triết học ánh sáng” và những quan điểm ngụy biện về quyền “tự do” của con người. Ông là nhà văn chống Chúa và đánh phá Kitô giáo, đấu tranh cho những mục tiêu chính trị núp bóng danh nghĩa là quyền bình đẳng của xã hội…

Nhắc đến nước Pháp thế kỷ 18 và nhắc đến cuộc Cách mạng Pháp đẫm máu bạo lực, độc tài đã đưa mấy ngàn người vô tội lên máy chém, bỏ tù hàng vạn người Công giáo gồm nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ không thể không nhắc tới Voltaire có đóng góp rất lớn cho cuộc cách mạng này.

Sinh thời, Voltaire được biết đến là người bài xích Kitô giáo một cách ngông cuồng. Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc, cha là một quan chức thuế và mẹ thuộc dòng dõi cao quý nhưng ông lại chống Chúa và đánh phá Công giáo.

Tư tưởng bài xích Kitô giáo bằng ngôn từ sắc sảo khiến Voltaire trở thành biểu tượng cho phong trào chống Chúa lúc bấy giờ.

Ngày 30/5/1778, Voltaire qua đời ở tuổi 84. Có nhiều tài liệu nghiên cứu về cái chết của một nhà văn, triết gia lỗi lạc này; đặc biệt là khoảnh khắc hấp hối khó hiểu của ông.

Một số tài liệu ghi lại Voltaire qua đời do đột quỵ. Nhưng trong giây phút đau đớn, ông đã phát ra những tiếng hét đáng sợ mà không ai hiểu được.

Theo lời kể lại của bà giúp việc trong nhà ông thì Voltaire đã nhìn thấy những hình ảnh ghê rợn, rồi ông tru tréo: “Một bàn tay đang kéo tôi xa rời Chúa Trời…quỷ bắt lấy tôi rồi…,tôi trông thấy hỏa ngục… Hãy cút đi, chính mày đã đưa ta đến tình trạng này, hãy buông tha cho ta”.

Có lúc, ông lại van xin trong ai oán: “Xin Chúa Trời hãy thương xót”, rồi quay ra than vãn với người trong nhà rằng “Ta phải ra đi trong sự bỏ rơi của Chúa”.

Theo một tài liệu khác, nhân chứng tận mắt thấy những giờ phút cuối đời của Voltaire tả rằng: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ dội như Voltaire”.

Wikipedia không ghi rõ chi tiết về cái chết của Voltaire nhưng có đề cập tới một số giả thiết khó hiểu về giây phút lâm chung đau đớn của đại văn hào. Wiki cũng đề cập thêm rằng sau khi qua đời, Voltaire bị các thánh đường tại Paris từ chối chôn cất bởi ông đã không ít lần báng bổ Chúa bằng giọng văn châm biếm, miệt thị.

Bạn bè thân và gia đình đã phải mang thi thể ông tới Scellières, thuộc thành phố Champagne, cách Paris khoảng một trăm dặm. Tại đây, một linh mục bằng lòng cho chôn cất Voltaire với đầy đủ nghi lễ Công giáo.

Đó chỉ là trường hợp đặc biệt và còn nhiều nhân vật khác chống lại Thiên Chúa. Một cá nhân dù là người nổi tiếng hay là không nổi tiếng, nếu báng bổ Thiên Chúa, chính là không biết tôn trọng lương tri, đạo đức con người, người đó sẽ phải chịu nhận hậu quả đáng tiếc, sau này dẫu có hối hận cũng muộn màng. Từ cổ chí kim tới nay những kẻ chống lại Thiên Chúa chẳng bao giờ có kết cục tốt đẹp cả, cho nên đừng có dại mà chống lại Ngài.

Nguồn : Chiến sĩ Chúa Kitô

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

Tạ ơn Chúa vì con bị HIV!

Đây là lời cầu nguyện “ngược đời” của một con người hạnh phúc trong khổ đau. Chị là một người giữa bao người. Chị bình thường trong một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, một ngày đã tới, ngày mà chị biết mình bị nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV. Chẳng mấy chốc, mọi người đều rời xa chị. Chị cô đơn đến tuyệt vọng. Chị kiệt sức. Chị muốn chết.

Phúc thay, chị được đưa đến mái ấm có các sơ chăm sóc. Dần dần, sức khỏe chị khá lên. Ngày qua ngày, niềm vui chị nhận được từ những người xa lạ, dần lớn lên trong chị. Lần đầu tiên trong đời chị biết Chúa Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận được tình thương mến lạ lùng từ những người tin vào Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị nhận ra ơn của Chúa ngay trong nghịch cảnh, nhận ra sức sống ngay trong sự tiều tụy. Sự kinh ngạc và niềm vui lớn tới nỗi chị thốt lên: “Nếu con không bị HIV, con nào biết Chúa trên đời. Vì con bị HIV như thế này mà con có dịp biết Chúa. Tạ ơn Chúa.”

Vâng, con người bỏ rơi nhau, còn Chúa thì không bao giờ.

Tại sao con theo đạo Phật, mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?

Đó là lời “than trách khó hiểu” của một bà bị tai biến, hiện liệt nửa người, đang ở trong nhà dưỡng lão mà các sơ chăm sóc. Trước kia, bà vốn ở một mình. Nhìn khuôn mặt bà, nghe bà kể chuyện, tôi nhận thấy niềm tiếc nuối rất lớn về quá khứ. Bà nói: “Trước kia con đẹp lắm, làm ăn được lắm, có của ăn của để, bạn bè rất nhiều… Đến một ngày, con bị tai biến, liệt nửa người. Thế là, tiền bạc của con có dư thì cũng không cứu được con. Bạn bè con bỏ con hết, chẳng còn ai. Người thân của con thì ai họ cũng phải lo việc nhà của họ. Con còn lại một mình.”

“Cũng chẳng biết ở đâu, vì không có người chăm sóc, con đành ở trong nhà dưỡng lão này. Từ trước tới giờ, con sùng đạo Phật lắm. Khi vào đây ở, có các sơ, con mới biết Chúa. Các sơ có an ủi con thế này: Bà chịu khó vác thánh giá Chúa trao.”

Bà thắc mắc về số phận khó chấp nhận của mình, bà hỏi tôi: “Khi con bị tai biến, con đâu biết Chúa. Tại sao con theo đạo Phật mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?” Nhìn bà, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bệnh tật là một phần của đời người, chẳng ai tránh được. Chỉ có điều, mỗi người đối diện với bệnh tật một cách mà thôi. Bà buồn rầu và thất vọng không phải vì bà bị bệnh, mà là vì bà bị bỏ rơi và bị quên lãng, là vì bà chưa có sức mạnh từ bên trong, là vì bà chưa có những người thực sự thân thiết yêu thương.”

Cầu chúc bà có thể nhận thấy tình thương mến của những người đang sống với bà.

Đối diện với đau khổ và cái chết, mỗi người chọn cho mình một thế đứng. Tùy điểm tựa mà mỗi người vững vàng hay sụp đổ. Có một điều chắc chắn là ai cũng chết, cũng có một điều khá chắc chắc là hầu như người ta cứ nghĩ mình còn lâu mới chết. Giá trị đời người và giá trị con người, ngày càng bị lãng quên trong cuộc sống xô bồ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tìm điểm tựa nơi Ngài, để con sống một cuộc đời đáng sống và chết một cái chết bình an, và dù có chết thì con vẫn sống trong Ngài. Amen.

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

No photo description available.

SỰ CHẾT – MỘT BẢN ÁN CÔNG KHAI

SỰ CHẾT – MỘT BẢN ÁN CÔNG KHAI

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Người ta vui mừng khi được thoát chết.  Có khi ăn mừng liên hoan nữa.  “Sắp chết thì lo âu, nhưng được lành bệnh thì vui mừng” là tâm tình chung của con người mà ngôn sứ Isaia đã nói trong chương 38.
 
Phải chết là một nỗi đau khổ của con người vì là án phạt công khai nặng nề của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ sa ngã phạm tội (St 3).  Con người phải cúi mặt đau khổ và chấp nhận thân phận của mình từ nay về sau.  Sẽ mãi vẫn là thân phận thụ tạo thôi dù họ có địa vị cao sang hay tri thức cao vời đến mấy đi nữa.  Không có hình ảnh nào diễn tả đúng nghĩa nhất thân phận nào cho bằng hình ảnh bụi đất.”  Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19b).  Bụi đất của hôm nay và bụi đất của ngày mai chính là sự mỏng giòn và giới hạn rõ rệt của con người đã bị sự chết chi phối.
 
Như vậy ta đã rõ, bản án chỉ dành cho tội nhân.  Tất cả chúng ta đều sinh ra trong môi trường tội lỗi và chủ động phạm tội chẳng lẽ không lãnh bản án sao?  Sự chết là một thực tại minh chứng cho điều này.
 
Trong đời sống con người, sự chết bao hàm một bí ẩn rất lớn về mỗi cá nhân, về cõi vô hình, về tình thương xót của Thiên Chúa.  Điều mà đôi khi người ta quên lãng trong thực tế thì cần phải có một biến cố nào đó nhắc nhở cho.  Biến cố ấy phải có một sức mạnh lớn nhất, ghê sợ nhất và người ta vô phương chống chọi.  Đấy là một bản án kết tội phải chết.  Bản án chọc thẳng vào sự nghiệp và những sự đầu tư tốn kém nhất của con người.  Thật là tiếc xót và đau buốt lắm chứ.  Những vụ tịch thu tài sản vì tham nhũng, hối lộ, buôn lậu và kết án tử hình giống như thế đó.  Thường thì những vụ án này người ta đưa ra xét xử công khai để tội phạm lãnh một bản án cụ thể.
 
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của Kitô giáo, chúng ta không hoàn toàn bi quan trước bản án của sự chết do Thiên Chúa muốn.  Vì “Thiên Chúa đánh phạt rồi lại xót thương, Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống.”  Dù bản án sự chết thuộc về kẻ bất lương nhất, tội lỗi nhất thì chúng ta cũng không được phép đứng về phía quan tòa xét xử, vì Thiên Chúa không đặt chúng ta làm quan án xét đoán anh em, mà phải luôn mặc lấy tâm tình của Thánh Phaolô trong “bài ca đức mến”:
 
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
Không nóng giận, không nuôi hận thù,
Không mừng khi thấy sự gian ác,
Nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
Hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.
Đức mến không bao giờ mất được
” (1 Cr 13,4-8).

 
Bình thường đấy không phải là tâm tình tự nhiên của tất cả mọi người.  Bản chất con người đã mang theo sự chết nên cũng thích hùa theo, thích nuôi dưỡng trong mình những sự chết chóc đủ loại.  Một thực tại đau lòng Thiên Chúa ngay cả khi chưa có bản án sự chết của Ngài.  Thực tế này lại được tái diễn nhiều lần trong lịch sử nhân loại và đỉnh cao là cái chết của Đức Giêsu mà bản án do con người chúng ta ký cho Ngài!      
       
Vậy dưới cái nhìn của người Do thái, Đức Giê-su phải lãnh bản án sự chết một cách công khai là hợp lý, vì tội Ngài chồng chất (Mc 14,53–15,1-20).  Thánh sử Máccô ghi rõ: “Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do thái” (Mc 15,26).  Họ hoàn toàn hãnh diện và thỏa mãn về việc mình kết tội cho Đức Giêsu phải chết.  Xem ra bản án của họ đã được vua quan cho đến các vị tôn giáo ký thì ngay cả Thiên Chúa cũng thua!  Ông tổng trấn Philatô đã không hề thay đổi ý định của mình: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19,22).
 
Xem ra những quan niện và lý luận của người Do Thái về tội lỗi theo mạc khải Kinh Thánh đúng lắm.  Nên không lạ gì Đức Giêsu bị kết án.  Có tội thì phải chết, nhất là tội xúc phạm đến Thiên Chúa thì không thể tha được.  Đức Giêsu là một điển hình.  Một nhân vật có tiền án tiền sự trong dân và được ghi vào sổ bìa đen trong hàng ngũ tôn giáo, chính trị!
 
Nếu có cùng quan niện và suy nghĩ như người Do Thái về tội lỗi thì thật là dễ hiểu về bản án sự chết.  Kẻ dữ phải chết là đúng.  Nhưng còn kẻ công chính thì sao?  Kẻ vô tội thì sao?
 
Danh mục người công chính thì đông lắm.  Kẻ vô tội thì kể được một vài thôi.  Nhưng tất cả vẫn chịu chung một bản án.  Thật là khó hiểu.  Thật là mầu nhiệm lạ lùng.  Không thể chấp nhận được.
 
Trong chương trình của Thiên Chúa thì cái chết của Đức Giêsu cũng là một bản án công khai, nhưng không phải là bản án kết tội Ngài, vì ngài là Đấng vô tội, mà là một bản án công khai kết tội con người chúng ta.  Vì thế mà Ngài đã bị liệt vào hàng tội nhân (x. Is 53,12).  Không những thế mà tất cả mọi sự xấu xa và tội lỗi của nhân loại trút lên con người Ngài, nên Ngài là: “Con chiên gánh tội thiên hạ.”  Thiên Chúa đánh phạt Đức Giêsu: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32).  Chén đắng, thập tự của Ngài do Thiên Chúa trao như một bản án kết tội từ từ mà Ngài không được xin tha, không được từ chối: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,2).  “Thánh giá Đức Giêsu vừa là sự mạc khải về sự rộng lớn bao la và tính nặng nề của tội lỗi của toàn thể nhân loại, vừa tỏ bày sự bao la của tình yêu Thiên Chúa” (Nol Quesson).

Cái chết của Đức Giêsu là một lời giải thích về tội lỗi, về cái chết của những người công chính, người vô tội. “Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (Lc 23,31).  Cái chết của Đức Giêsu vừa tố cáo vừa dung tha cho những sai lầm của con người: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); vừa thông cảm với nỗi oan nghiệt, nỗi bất công bao người đang gánh chịu hôm nay.
 
Người Kitô hữu đón nhận cái chết trong chương trình của Thiên Chúa để mở rộng tầm nhìn và tăng thêm niềm xác tín vào ơn cứu độ của Đức Giêsu, đồng thời nhìn cái chết của tha nhân (trong đó có cả kẻ ác, kẻ thù của mình) cũng có một giá trị nào đó với mình theo tương quan của ơn cứu rỗi.  Đó là chiều kích cộng đồng cơ bản trong nhân loại, nơi ấy có hình ảnh của Giáo Hội khải hoàn, Giáo Hội lữ hành và Giáo Hội đang thanh luyện.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

HÃY CÓ TÂM TÌNH TẠ ƠN

HÃY CÓ TÂM TÌNH TẠ ƠN

Huệ Minh

Văn hóa biết ơn của Việt nam rất hay.  Từ thuở bé, tôi vẫn thường nghe dạy: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.”  “Uống nước nhớ nguồn.” “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại.”

Thật vậy, lời “cám ơn” rất đơn sơ bé nhỏ, nhưng đem lại cho người làm ơn một sự vui thỏa, ấm áp.  Đó là phép lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều.  Việt Nam cũng có những câu nói diễn tả người vô ơn: “Ăn cháo đá bát.” “Vắt chanh bỏ vỏ.” “Có trăng phụ đèn.”  “Ăn mật trả gừng, ăn sung trả ngải.”  Kẻ muốn được ơn thì nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít.  Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có tỷ số là một phần mười mà thôi.

Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận.  Cám ơn là đi vào mối tương giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài.  Người vô ơn là người chặn đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương giao đang có.  Công trình cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở lại với Người.

“Cám ơn” là tỏ lòng biết ơn với người đã làm điều tốt cho mình.  Mỗi khi ta nhận được một ơn huệ gì, thì ta phải biết tạ ơn Chúa và cám ơn những người làm ơn cho ta.  “Cám ơn” ấy là hai từ mà ta vẫn nói hàng ngày.  “Cám ơn,” lời nói cửa miệng tưởng như có thể nói với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, nhưng nhiều khi ta không biết nói lời cám ơn.

Trang Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca nhắc cho ta nhớ lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi, tất cả đều được khỏi bệnh.  Nhưng chỉ có một người đến tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa.  Chúa Giêsu không khỏi buồn lòng trước sự vô ơn của con người, nên Ngài đã thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao?  Thế thì chín người kia đâu?  Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18).

Bi đát thay trong mười người hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người ngoại đạo.  Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.  Sở dĩ Ngài xem trọng lòng biết ơn cũng vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi.  Người Samari trở lại tạ ơn Chúa vì đã nhận ơn phần xác, thì Ngài lại ban thêm cho ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh.  Ngài nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”  Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Ta thấy Chúa Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha.  Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người.  Chúa muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.

Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi người (Ga 6, 11).  Vào bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19).  Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ.  Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha.  Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.

Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm.  Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.

Trong các thư của Thánh Phaolô, thánh nhân cũng nhấn mạnh đến lời tạ ơn.  Hơn nữa, ngài luôn sống trong tâm tình tạ ơn.  Ngài nói: “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa” (Plm 1, 4).  Ngài còn nhắc nhở mọi người “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.  Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn” (1 Tx 5, 18).

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Ngài đã ban cho anh em nơi Đức Kitô.”  Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài chấp nhận.”  Như vậy, câu ngạn ngữ của người Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay.”

Nhìn vào xã hội ngày nay, con số những người biết ơn Chúa, tôn thờ Chúa, vẫn còn là một con số rất khiêm tốn.  Còn những kẻ vô ơn thì nhiều vô kể.  Chúa luôn ban ơn cho người lành cũng như kẻ dữ, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương.  Thế mà con người ngày càng kiêu ngạo, vô ơn đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Hỏi rằng trong chúng ta có mấy người biết cảm tạ Chúa và cám ơn anh em?  Biết bao nhiêu lần chúng ta than vãn, kêu la, trách móc hết việc này đến việc khác, hết người này đến người kia, Hơn thế nữa, nhiều người còn oán trách cả Thiên Chúa.  Vậy, Lời Chúa hôm nay dạy mỗi người chúng ta hãy biết nói lời cám ơn từ những chuyện nhỏ nhất, bởi vì chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu hồng ân Chúa ban cho ta qua vũ trụ vạn vật, qua mọi người trên trái đất này và nhất là qua những người thân cận, những người xung quanh ta.

Lòng biết ơn biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự.  Biết ơn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người đối với Đấng Tạo Hoá.  Vì Ngài đã ban muôn vàn phúc lộc cho chúng ta: từ không khí để ta hít thở, mặt trời để soi sáng ta, cho nước để ta uống, cho muôn loài muôn vật để ta sử dụng và làm thức ăn.  Ngài luôn quan phòng, giữ gìn ta trong mọi nơi, mọi lúc… Thiên Chúa còn ban cho ta biết bao điều cao cả qua cha mẹ, qua anh chị, qua thầy cô, qua bạn hữu, qua tất cả những người đã giúp đỡ và làm ơn cho ta…  Thể hiện lòng biết ơn là một nghĩa vụ hàng đầu trong cuộc sống con người.

Xin Chúa cho ta luôn biết sống có tình có nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quý trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì anh chị em đã làm cho ta.  Xin Chúa cho ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa.”  Đồng thời, ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với ta, đều là những ân nhân của ta.

 Huệ Minh

From: Langthangchieutim

SỰ CHẾT – MỘT BẢN ÁN CÔNG KHAI

SỰ CHẾT – MỘT BẢN ÁN CÔNG KHAI

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Người ta vui mừng khi được thoát chết.  Có khi ăn mừng liên hoan nữa.  “Sắp chết thì lo âu, nhưng được lành bệnh thì vui mừng” là tâm tình chung của con người mà ngôn sứ Isaia đã nói trong chương 38.
 
Phải chết là một nỗi đau khổ của con người vì là án phạt công khai nặng nề của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ sa ngã phạm tội (St 3).  Con người phải cúi mặt đau khổ và chấp nhận thân phận của mình từ nay về sau.  Sẽ mãi vẫn là thân phận thụ tạo thôi dù họ có địa vị cao sang hay tri thức cao vời đến mấy đi nữa.  Không có hình ảnh nào diễn tả đúng nghĩa nhất thân phận nào cho bằng hình ảnh bụi đất.”  Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19b).  Bụi đất của hôm nay và bụi đất của ngày mai chính là sự mỏng giòn và giới hạn rõ rệt của con người đã bị sự chết chi phối.
 
Như vậy ta đã rõ, bản án chỉ dành cho tội nhân.  Tất cả chúng ta đều sinh ra trong môi trường tội lỗi và chủ động phạm tội chẳng lẽ không lãnh bản án sao?  Sự chết là một thực tại minh chứng cho điều này.
 
Trong đời sống con người, sự chết bao hàm một bí ẩn rất lớn về mỗi cá nhân, về cõi vô hình, về tình thương xót của Thiên Chúa.  Điều mà đôi khi người ta quên lãng trong thực tế thì cần phải có một biến cố nào đó nhắc nhở cho.  Biến cố ấy phải có một sức mạnh lớn nhất, ghê sợ nhất và người ta vô phương chống chọi.  Đấy là một bản án kết tội phải chết.  Bản án chọc thẳng vào sự nghiệp và những sự đầu tư tốn kém nhất của con người.  Thật là tiếc xót và đau buốt lắm chứ.  Những vụ tịch thu tài sản vì tham nhũng, hối lộ, buôn lậu và kết án tử hình giống như thế đó.  Thường thì những vụ án này người ta đưa ra xét xử công khai để tội phạm lãnh một bản án cụ thể.
 
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của Kitô giáo, chúng ta không hoàn toàn bi quan trước bản án của sự chết do Thiên Chúa muốn.  Vì “Thiên Chúa đánh phạt rồi lại xót thương, Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống.”  Dù bản án sự chết thuộc về kẻ bất lương nhất, tội lỗi nhất thì chúng ta cũng không được phép đứng về phía quan tòa xét xử, vì Thiên Chúa không đặt chúng ta làm quan án xét đoán anh em, mà phải luôn mặc lấy tâm tình của Thánh Phaolô trong “bài ca đức mến”:
 
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
Không nóng giận, không nuôi hận thù,
Không mừng khi thấy sự gian ác,
Nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
Hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.
Đức mến không bao giờ mất được
” (1 Cr 13,4-8).

 
Bình thường đấy không phải là tâm tình tự nhiên của tất cả mọi người.  Bản chất con người đã mang theo sự chết nên cũng thích hùa theo, thích nuôi dưỡng trong mình những sự chết chóc đủ loại.  Một thực tại đau lòng Thiên Chúa ngay cả khi chưa có bản án sự chết của Ngài.  Thực tế này lại được tái diễn nhiều lần trong lịch sử nhân loại và đỉnh cao là cái chết của Đức Giêsu mà bản án do con người chúng ta ký cho Ngài!      
       
Vậy dưới cái nhìn của người Do thái, Đức Giê-su phải lãnh bản án sự chết một cách công khai là hợp lý, vì tội Ngài chồng chất (Mc 14,53–15,1-20).  Thánh sử Máccô ghi rõ: “Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do thái” (Mc 15,26).  Họ hoàn toàn hãnh diện và thỏa mãn về việc mình kết tội cho Đức Giêsu phải chết.  Xem ra bản án của họ đã được vua quan cho đến các vị tôn giáo ký thì ngay cả Thiên Chúa cũng thua!  Ông tổng trấn Philatô đã không hề thay đổi ý định của mình: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19,22).
 
Xem ra những quan niện và lý luận của người Do Thái về tội lỗi theo mạc khải Kinh Thánh đúng lắm.  Nên không lạ gì Đức Giêsu bị kết án.  Có tội thì phải chết, nhất là tội xúc phạm đến Thiên Chúa thì không thể tha được.  Đức Giêsu là một điển hình.  Một nhân vật có tiền án tiền sự trong dân và được ghi vào sổ bìa đen trong hàng ngũ tôn giáo, chính trị!
 
Nếu có cùng quan niện và suy nghĩ như người Do Thái về tội lỗi thì thật là dễ hiểu về bản án sự chết.  Kẻ dữ phải chết là đúng.  Nhưng còn kẻ công chính thì sao?  Kẻ vô tội thì sao?
 
Danh mục người công chính thì đông lắm.  Kẻ vô tội thì kể được một vài thôi.  Nhưng tất cả vẫn chịu chung một bản án.  Thật là khó hiểu.  Thật là mầu nhiệm lạ lùng.  Không thể chấp nhận được.
 
Trong chương trình của Thiên Chúa thì cái chết của Đức Giêsu cũng là một bản án công khai, nhưng không phải là bản án kết tội Ngài, vì ngài là Đấng vô tội, mà là một bản án công khai kết tội con người chúng ta.  Vì thế mà Ngài đã bị liệt vào hàng tội nhân (x. Is 53,12).  Không những thế mà tất cả mọi sự xấu xa và tội lỗi của nhân loại trút lên con người Ngài, nên Ngài là: “Con chiên gánh tội thiên hạ.”  Thiên Chúa đánh phạt Đức Giêsu: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32).  Chén đắng, thập tự của Ngài do Thiên Chúa trao như một bản án kết tội từ từ mà Ngài không được xin tha, không được từ chối: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2,2).  “Thánh giá Đức Giêsu vừa là sự mạc khải về sự rộng lớn bao la và tính nặng nề của tội lỗi của toàn thể nhân loại, vừa tỏ bày sự bao la của tình yêu Thiên Chúa” (Nol Quesson).

Cái chết của Đức Giêsu là một lời giải thích về tội lỗi, về cái chết của những người công chính, người vô tội. “Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (Lc 23,31).  Cái chết của Đức Giêsu vừa tố cáo vừa dung tha cho những sai lầm của con người: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); vừa thông cảm với nỗi oan nghiệt, nỗi bất công bao người đang gánh chịu hôm nay.
 
Người Kitô hữu đón nhận cái chết trong chương trình của Thiên Chúa để mở rộng tầm nhìn và tăng thêm niềm xác tín vào ơn cứu độ của Đức Giêsu, đồng thời nhìn cái chết của tha nhân (trong đó có cả kẻ ác, kẻ thù của mình) cũng có một giá trị nào đó với mình theo tương quan của ơn cứu rỗi.  Đó là chiều kích cộng đồng cơ bản trong nhân loại, nơi ấy có hình ảnh của Giáo Hội khải hoàn, Giáo Hội lữ hành và Giáo Hội đang thanh luyện.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

From: Langthangchieutim

ÔNG CÓ PHẢI LÀ VUA KHÔNG?

ÔNG CÓ PHẢI LÀ VUA KHÔNG?

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Ông có phải là vua không?  Đó là câu hỏi Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu trong một phiên toà xét xử.  Ông là Tổng Trấn đại diện cho chính quyền Rôma.  Trong vụ việc này, ông là Thẩm phán và Chúa Giêsu là “bị can.”  Câu trả lời không dễ.  Nếu Đức Giêsu không phải là vua, thì Người cũng chỉ như mọi vĩ nhân đã từng hiện hữu trong lịch sử và đã qua đi.  Nếu còn lại thì chỉ là những giáo huấn như di sản cho hậu thế.  Nhưng, nếu Người là Vua thì sao?  Chấp nhận Người là Vua sẽ làm đảo lộn cả thế giới.  Tuyên xưng Người là Vua sẽ làm cho lòng người day dứt khôn nguôi.  Bởi lẽ vị Vua ấy sẽ xét xử mỗi người chúng ta, không chỉ vào lúc tận cùng của thời gian, nhưng mỗi giây mỗi phút của cuộc đời.

Để trả lời câu hỏi này của Philatô, Chúa lại đặt một câu hỏi khác: Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?  Trong các Tin Mừng, ta thấy có những lần Chúa áp dụng hình thức này.  Người không khẳng định mà cũng không phủ nhận nội dung câu hỏi được nêu ra, nhưng Người đáp lại bằng một câu hỏi khác.  Khi một chàng thanh niên hỏi Chúa: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được cuộc sống đời đời làm gia nghiệp, Chúa hỏi lại: Sao anh gọi tôi là nhân lành.  Khi Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”  Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? (Lc 12, 41- 42).  Phải chăng Chúa thấy rõ Philatô không thể hiểu đúng chức vị vua của Người, nên Người chỉ tỏ cho ông ta thấy sứ mạng của Người hơn là danh tính hay chức vị.  Chúa đã giải thích: Người đến từ thế giới trên cao.  Người không làm vua theo nghĩa trần tục, nhưng Người là Vua Chân lý.  Điều này, Philatô không thể hiểu.  Ông đặt một câu hỏi khác có vẻ không đúng lúc: Chân lý là gì?  Vì vậy mà Chúa im lặng không trả lời.  Chân lý không thể tóm gọn trong một câu định nghĩa.  Chân lý chỉ được đón nhận với một con tim rộng mở và với một tấm lòng hướng thiện chân thành, để rồi, mọi ngôn hành của con người đều nhằm sống theo Chân lý mà mình khám phá và tôn nhận.  Sống theo Chân lý tức là nỗ lực cố gắng suốt cả cuộc đời.

Ngày lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, người tín hữu cùng với Giáo hội tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Cứu thế, Đấng Giải phóng và là Vua.  Chúa là Vua không theo cách hiểu của người đời.  Vương quốc của Người là vương quốc vĩnh cửu.  Vương quốc ấy không giới hạn bằng ranh giới biên cương, nhưng tất cả những ai sống theo Sự thật thì là công dân của vương quốc này.  Luật của vương quốc này chỉ vỏn vẹn hai chữ: Yêu Thương, vì khi yêu thương thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,10).

Khi nhắc lại câu hỏi của Philatô: Ông có phải là vua không?  Người tín hữu khẳng định niềm xác tín của mình và tuyên xưng Người là Vua vũ trụ.  Một khi tôn vinh Người là Vua, thì Bí tích Thanh tẩy đã làm cho người tín hữu trở thành công dân của vương quốc có Chúa Giêsu cai trị.  Người công dân có bổn phận phải lắng nghe và tuân giữ những chỉ thị của vua mình, hầu kiến tạo sự hoà bình và làm cho vương quốc ấy thăng tiến.

Chúa Giêsu đến trần gian để loan báo Nước Trời: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến.  Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).  Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện cho “Nước Cha trị đến.”  Vương quốc của Đức Giêsu đã được khai mở ở trần gian này rồi, nhưng vẫn chưa được thành toàn.  Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).  Tác giả sách Khải Huyền (Bài đọc II) nhắc chúng ta: chính Chúa Giêsu, vị Chứng Nhân trung thành, sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế để xét xử con người.  Như thế, hình ảnh “Con Người” mà ngôn sứ Đanien đã được chiêm ngưỡng, đã được các Kitô hữu từ thuở ban đầu áp dụng cho Chúa Giêsu.  Người là Vua vũ trụ và là Đấng thống trị lòng người bằng tình yêu.

“Ông có phải là Vua không?”  Nhân loại hôm nay đang đặt ra câu hỏi ấy.  Là Kitô hữu, chúng ta hãy trả lời và khẳng định: Phải, Chúa là Vua.  Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được Chúa Cha ban cho Người.  Người vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để yêu thương và dẫn dắt chúng ta trên mỗi bước đường của cuộc sống, nhờ đó mà chúng ta vững một niềm tin, sẽ đạt tới bến bờ của hạnh phúc.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Thưa Thầy, Thầy đi đâu

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Thưa Thầy, Thầy đi đâu

Cách đây chừng 20 năm, người ta đã dựa vào cốt truyện trong tác phẩm “Quo vadis?” (Thầy đi đâu?) của văn hào Công giáo Ba Lan Sienkiewez (1846-1916), giải Nobel 1905 để đóng một cuốn phim nổi tiếng khắp thế giới cũng mang tựa đề ấy.

Từ đâu có cốt truyện ấy ? Ai đã nói tiếng Thầy đi đâu ?

Theo truyền khẩu giáo dân thời Hội Thánh sơ khai người ta biết được rằng, vào các thế kỷ I-IV, các hoàng đế Roma đã ra công bách hại đạo Chúa hết sức hung hãn: nào là đâm chém, nào là đóng đinh thập tự, nào là cho thú dữ ăn thịt ở nơi hí trường Colisê để nhân dân thỏa thích thưởng ngoạn, nào là buộc vào cột trụ, tẩm dầu rồi đến đêm châm lửa đốt cháy vùn vụt như bó đuốc. Thật muôn phần khủng khiếp !

Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh, lúc ấy cũng bị truy nã gắt gao theo lệnh của hoàng đế Nêron. Vì thế người có ý định tạm lẩn trốn ra khỏi thành Roma một thời gian, cho qua cơn sóng dữ. Một đêm nọ, người ta trông thấy một bóng dáng đàn ông đang hồi hộp lần bước trên con đường Appia. Lúc gần đến cửa Capena, bỗng nhiên ông ta đứng khựng lại ! Từ xa một người đang tiến thẳng về phía ông. Ông dụi mắt rồi quá đỗi vui mừng, Phêrô ôm chầm lấy người ấy và hỏi:

– “Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?

Thì ra người ấy là Chúa Giêsu, tội nhân bị xử mấy mươi năm về trước. Đáp lại câu hỏi của Phêrô, Người ôn tồn nói:

– Phêrô vì con sợ gian khổ, con định đào tẩu, nên Thầy phải vào thành Roma để chết thay cho con”.

Nói xong Chúa Giêsu biến mất… Phêrô hiểu ý Thầy bèn quay gót trở lại thành Roma, chấp nhận mọi gian khổ, củng cố đức tin của anh em giáo hữu, xông pha giữa muôn nghìn nguy hiểm cho đến năm 67 thì bị bắt và bị tống giam ở nhà ngục Tullianum. Theo lưu truyền, Phêrô đã cảm hoá được hai người lính canh ngục tên là Processô và Martinian, cả hai đều được rửa tội và được tử vì đạo. Rồi sau đó, thánh nhân cũng được diễm phúc đi lại con đường thập giá của Thầy, không phải đường lên Núi Sọ ở Giêrusalem mà là đường đến hí trường Caligula, trên đồi Vatican. Nhưng khi đến nơi, vì cảm thấy mình không xứng đáng được chết như Thầy, nên ngài xin phép cho được đóng đinh ngược, đầu chúi xuống đất.

Để kỷ niệm nơi Chúa hiện ra cho Phêrô, giáo hữu đã xây cất ngay tại chỗ đó một nhà thờ mang tên: “Quo vadis, Domine?”

May be a meme of 2 people and text that says 'Thưa thầy, Thầy đi đâu? ałamy zlamy alamy'