Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

 Tác giả:  Lm Nguyễn Văn Độ

  Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng – C  (Lc 3, 10 – 18)

Lời mời ‘hãy vui lên’ là đặc điểm của Mùa Vọng. Mong đợi Chúa giáng trần, mong đợi mà chúng ta đang sống là niềm vui. Và Chúa nhật thứ III Mùa Vọng, chiều kích của niềm vui này đặc biệt nổi bật trong ca nhập lễ với những lời khích lệ của Thánh Phaolô “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Tại sao chúng ta vui? Câu trả lời là vì Chúa sắp ngự đến rồi (x.Pl 4, 5).

Hôm nay Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng thể hiện rõ nét của niềm vui, vui vì những gì đã đạt được trong chặng đường thứ nhất của Mùa Vọng, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.

Với lời thánh ca du dương phỏng theo lời của thánh Phaolô: Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Vui như Isaia nói:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Nghe những lời loan báo của Xôphônia chúng ta không thể không vui : “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn!” (Xp 3, 14-15). Cũng sứ điệp của niềm vui, Thiên Thần chào Đức Maria: “Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính để thiếu nữ Sion vui là có: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3, 16-18).

Xôphônia muốn chúng ta phải vui mừng, không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho tâm hồn ta hân hoan.

Trong thư gửi tín hữu thành Philiphê, thánh Phaolô mời gọi con cái mình vui lên trong niềm vui của Chúa, và ngài đưa ra lý do tại sao phải vui mừng. Thưa vì “Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5).

Chúa sắp ngự đến rồi, vậy để đón Chúa, chúng ta làm gì đây? Cám ơn những người thu thuế, các quân nhân và những người đã đến hỏi Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến, vì nhờ họ chúng ta mới có câu trả lời, Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

Khi dân chúng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, ông khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3, 11). Thật là phù hợp với tinh thần Đạo Chúa, bởi đức bác ái được đề cao, yêu thương được chú trọng phải thực hành như Thiên Chúa. Bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có của dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai chắp lại thành đôi cánh để con người thăng tiến trong yêu thương. Theo Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđitô XVI thì, “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất, vì luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Trích Deus caritas est, số 28)

Đối với người làm nghề thu thuế, họ thường bị khinh rể bởi lợi dụng địa vị. Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (x. Lc 3,13). Theo Gioan, tiên vàn hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Hãy tuân giữ các giới răn (x. Xh 20,15).

Đến lượt các quân nhân, hạng người dễ bị cám dỗ lạm quyền. Thánh Gioan nói: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3,14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

Israel vui vì có Chúa, để có được niềm vui đích thực, niềm vui trong Chúa và có Chúa ở cùng. Mượn lời các quân nhân, chúng ta hỏi Gioan Tiền Hô: Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì? Chắc ngài sẽ chỉ cho chúng ta những việc phải làm. Chỉ dẫn của Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới đại dịch chúng ta đang sống, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này.

– Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, hãy tha thứ và cho đi, tránh tật nói hành nói xấu, tránh lời nói ghen tương, phân bì, đón nhận điều tốt lành ở nơi mỗi người.

– Cởi mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.

– Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).

Ước chi Lễ Giáng Sinh nay đã gần, thôi thúc chúng ta khắp nơi trên trần thế canh tân niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, đồng thời chuẩn bị một nơi xứng đáng để đón tiếp Chúa Kitô.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn để đón rước Chúa Giêsu. Amen.                    

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HAI VẤN ĐỀ

Hai vấn đề

Tác giả:  Trầm Thiên Thu

 Con Chúa Giáng Trần Nêu Gương Nghèo Khó

Thế Nhân Vươn Dậy Thể Hiện Mến Thương

Tứ thời, bát tiết, bốn mùa luân phiên – Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Đông có hơi lạnh khiến người ta co mình lại thì thời gian một năm cũng đang dần khép lại. Các Mùa Phụng Vụ cũng tương tự. Hết Mùa Thường Niên là kết thúc Năm Phụng Vụ cũ, bắt đầu Năm Mới bằng Mùa Vọng và Giáng Sinh.

Dù là ai – kể cả người vô thần, người ta vẫn luôn cảm thấy kỳ diệu đối với Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, có nhiều vấn đề liên quan, không chỉ chuyện vui mà còn có cả chuyện không vui. Tất nhiên thôi. Đối với tín nhân, Giáng Sinh gợi suy tư, vì Chúa Giêsu hóa thân là một Hài Nhi sinh ra trong cảnh đơn nghèo. Ngài tự hạ mình xuống ở với chúng ta, chấp nhận nghèo khó vì yêu thương chúng ta – những tội nhân xấu xa, bất xứng. Mầu Nhiệm Nhập Thể cao vời khôn ví: Verbum Caro Factum Est – Ngôi Lời hóa thành nhục thể.

Giáng Sinh gợi nhớ Vườn Địa Đàng và Ông Bà Nguyên Tổ. Sự sa ngã của Ađam và Êva được gọi là Felix Culpa, nghĩa là “sự sa ngã may mắn” hoặc “sự rủi ro có phúc.” Kitô giáo gọi đó là Tội Nguyên Tổ, và được coi là Tội Hồng Phúc, vì nhờ vậy mà nhân loại được đón nhận Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu xuống thế làm người để cứu độ và phục hồi cương vị làm con cái đối với những ai thật lòng tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất.

Đại dịch Cúm Tàu là cơ hội để người ta nhìn lại chính mình – đối với Thiên Chúa và tha nhân. Cậu bé Abhigya Anand 14 tuổi, người Ấn Độ, đã tiên báo đúng vài lần liên quan dịch bệnh bùng phát vừa qua, liệu cậu có đúng khi cảnh báo dịch bệnh còn khủng khiếp hơn vào tháng 4-2022 hay không? Có thể, bởi vì người ta có vẻ vẫn chưa thực sự quan ngại. Người ta đã cảnh báo về chủng Nipah virus còn “đáng sợ” hơn Corona virus. Trước đây virus đánh vào buồng phổi, trung tâm điều khiển hơi thở – nơi cho biết có sự sống, và Nipah tiếp tục “đúng quy trình” của ma quỷ là “đánh” vào trung tâm sự sống, nhưng cao cấp hơn – nhắm vào đầu não của sự sống là bộ não. Do đó, nguy cơ tử vong khoảng 40%–70% thì thật đáng sợ!

Tại sao não là bộ chỉ huy? Đó là trung tâm đầu não, bởi vì có thể là người ta bại liệt, thậm chí là “như chết” mà người ta vẫn có thể cảm nhận, bởi vì bộ não còn sống – mặc dù người ngoài không cảm thấy bệnh nhân còn thở. Có thể nói rằng xưa nay chưa từng có đại dịch nào độc ác và nguy hiểm như Cúm Tàu – nói thẳng ra là Tàu Cộng, không liên quan các hiền nhân Trung Hoa tốt lành. Nhân sao, vật vậy. Vật thế nào tố cáo người như thế.

Cuộc sống có nhiều thứ cảnh báo, chắc chắn không như chuyện dự báo thời tiết. Tuy nhiên, cảnh báo là một chuyện, còn người ta có thực sự ý thức hay không lại là chuyện khác. Thiên Chúa đã cảnh báo mạnh mẽ: “Nếu không sửa đổi, Thiên Chúa sẽ phạt GẤP BẢY LẦN.” (Lv 26:18, 21, 24, 28) Có lời cảnh báo tức là đã có nhiều tội lỗi, Thiên Chúa tiếp tục cảnh báo: “Đừng gieo trên những luống bất công, kẻo phải gặt bất công GẤP BẢY LẦN.” (Hc 7:3) từng nói: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mt 23:37; Lc 13:34) Chúa Giêsu cũng cảnh báo quá nhiều, xưa người ta không quan tâm thì nay người ta cũng vẫn bỏ ngoài tai, chỉ nghe để biết hoặc cho vui vậy thôi. Và rồi chuyện gì đến cũng đến…

  1. NHÂN ĐỨC

Chúa Giêsu giáng sinh trong cảnh nghèo khó. Chính Ngài đề cao lối sống nghèo khó và gọi đó là một mối phúc: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3) Như vậy, sự nghèo khó cũng là một nhân đức. Người ta muốn sống ung dung sung sướng, chứ không dễ gì dám sống nghèo khó. Cái nghèo và cái lạnh liên quan lẫn nhau. Người nghèo thiếu quần áo, chăn mền,… thế nên họ phải chịu đựng cái lạnh. Cái lạnh thân xác dẫn tới cái lạnh tâm hồn – vì cô đơn. Nghèo thì Khó, Khó thì Khổ. Việt ngữ thường ghép lại là Nghèo Khó hoặc Nghèo Khổ, thậm chí là Nghèo Hèn.

Luôn có điều kỳ lạ khi Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mọi thứ đề lạ lùng. Lạ từ nội tại tới ngoại tại. Giáng Sinh tại Việt Nam chỉ se lạnh một chút, chẳng thấm gì so với cái lạnh của Hài Nhi Giêsu năm xưa, nhưng cũng là lời nhắc để chúng ta nhớ tới cái lạnh của những phận người cơ nhỡ, cô đơn, nghèo khó, thiếu thốn cả những thứ cơ bản nhất,… Việt ngữ thật chí lý khi nói là giá lạnh hoặc lạnh giá, cái “giá” này mới “đáng giá,” buốt thấu xương, chứ cái “lạnh” chưa thấm thía chi đâu!

Cái lạnh ngoại tại gợi nhớ tới cái lạnh tâm hồn, cái lạnh linh hồn, cái lạnh tâm linh. Cái lạnh này khủng khiếp, cái lạnh giá băng. Đó là điều thực sự đáng quan tâm và quan ngại. Cuộc sống có những cái lạnh khác nhau:

  1. TINH THẦN – Đó là cái lạnh của những người đơn độc, mồ côi, neo đơn, thất vọng, bị xa lánh, bị ghen ghét … Họ không có ai để chia sẻ, mà có chia sẻ cũng chẳng mấy ai quan tâm. Thật khổ tâm với “khoảng lạnh” như vậy!
  2. LINH HỒN – Đó là cái lạnh của những người khô khan, nguội lạnh, tội lỗi, niềm tin lung lay, bước đời chao đảo, mất phương hướng,… Thật đáng thương với “khoảng lạnh” như vậy!
  3. TÂM LINH – Đó là cái lạnh của những người vô cảm trước nỗi khổ của người khác – như ông Simon chê phụ nữ tội lỗi kia xức dầu thơm chân Chúa Giêsu và khóc vì sám hối, (Lc 7:36-50) như Thầy tư tế và Thầy Lêvi không hề chạnh lòng thương xót người lân cận, cam tâm bỏ mặc nạn nhân dở sống dở chết, (Lc 10:30-37) như người Pharisêu kiêu hãnh khi cầu nguyện tại đền thờ, (Lc 18:10-14) người Pharisêu phạm tội ngay trong lúc cầu nguyện, thờ phượng. Thật đáng sợ với “khoảng lạnh” như vậy!

Là Vua của các vua và Chúa của các chúa, thế mà Ngài lại sinh nơi hang đá, nơi máng lừa, thực sự vô cùng kỳ lạ, chúng ta không thể hiểu nổi. Thiên Chúa là Đấng tạo tác muôn loài, làm cho mọi sự hiện hữu từ hư vô, vậy mà Ngài lại xuống thế gian ở với loài người, sinh ra nơi hèn hạ và nghèo khó nhất, chứ không uy nghi như người ta tưởng. Con Thiên Chúa giáng sinh là sự kiện độc nhất vô nhị, quá đỗi kỳ diệu, phàm nhân không thể hiểu và không thể lý giải, vì đó là mầu nhiệm – Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Còn kỳ lạ hơn nữa: Chúa Giêsu không chỉ sinh ra ở ngoài đồng, mà Ngài còn sống ở ngoài đường, và rồi chịu chết trên đồi hoang, dẫu chỉ một chỗ tựa đầu cũng không có, (Mt 8:20; Lc 9:58) trong khi con chồn còn có hang, con chim còn có tổ, chính chúng ta là thụ tạo và là tội nhân, vậy cũng có mái nhà – dù nghèo nàn, dù ở thuê, dù ăn nhờ ở đậu. Ôi, mầu nhiệm cao vời, lòng thương xót khôn ví!

Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Tạo Hóa, Chúa Giêsu giàu có và sang trọng bậc nhất, nhưng vì thương xót phàm nhân nghèo hèn, khốn khổ, Ngài chấp nhận hóa thân là một Hài sinh ra trong cảnh thiếu thốn tột cùng tại cánh đồng Belem. Dĩ nhiên Thiên Chúa có nhiều cách để cứu độ chúng ta, thậm chí Ngài chỉ cần phán một lời thì mọi tội lỗi của cả nhân loại này đều được tha bổng, nhưng Ngài đã chọn cách mặc xác phàm để trí óc phàm nhân chúng ta có thể hiểu và phần nào khả dĩ cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Ngài, chứ chúng ta không thể thấu hiểu tình yêu thương cao cả đó.

Chắc chắn không ai muốn nghèo, nhưng nhân đức nghèo khó lại quan trọng và liên quan vận mệnh đời đời của chúng ta. Trong trình thuật Tin Mừng nói về cảnh Phán Xét Chung, Chúa chúc phúc cho những ai biết thương người nghèo khổ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25:34-36) Đó là vấn đề cụ thể về Đức Ái Kitô giáo – thương yêu và thương xót.

Hang đá Belem ngày xưa không hấp dẫn và thu hút người ta như ngày nay. Đó là hang đá xấu xí, tăm tối, hôi tanh, bẩn thỉu,… là nơi dành cho đàn súc vật trú qua đêm. Còn ngày nay, nhìn hang đá mà thấy như “khách sạn” sang trọng chứ chẳng thấy nghèo khó. Quả thật, có gì đó “bất thường” khi nhìn vào hang đá ngày nay. Than ôi!

Không biết vì người ta đua nhau hay khoe mẽ mà càng ngày người ta càng “xây dựng” hang đá đồ sộ, trang trí rườm rà, cầu kỳ, và tất nhiên chi phí tốn kém lắm – có nơi tốn cả trăm triệu đồng Việt Nam. Chúng ta chê người ta xây dựng tượng đài tốn bạc tỷ, tại sao chúng ta cứ xu thời như vậy? Ngay cả tư gia cũng vậy, nhà này đua với nhà kia, giáo xứ này cạnh tranh với giáo xứ nọ, hang đá càng to càng hãnh diện. Chắc chắn Chúa không muốn chúng ta mừng đón Ngài kiểu đó!

Thử nhìn vào hang đá mà suy tư. Chỉ thấy vẻ hào nhoáng cho vui mắt, bởi vì cái chính bị che khuất, còn những cái phụ lại quá nổi bật, thậm chí có nhiều hang đá nhìn mãi mới thấy Hài Nhi Giêsu, Đức Maria và Đức Giuse. Thiên Chúa muốn dạy chúng ta về nhân đức “khó nghèo” mà chúng ta lại theo kiểu “khó mà nghèo.” Con cháu Lạc Hồng chúng ta muốn Việt hóa nên có nơi làm một mái tranh, nhưng cái lều hoặc cái chòi đó lại lấp lánh ánh điện nhiều màu sắc. Phi thực tế. Bởi vì không nhà nghèo nào mà lại sang như vậy!

Thiên Chúa không cấm chúng ta trang trí một chút để kỷ niệm ngày Con Một Ngài giáng trần, nhưng đừng quá đáng, vì xung quanh chúng ta còn biết bao người chịu cảnh khốn cùng, nhất là trong giai đoạn còn dịch bệnh. Nhiều nơi trên thế giới không được tham dự Thánh Lễ cả năm rồi. Đối với cuộc sống, khổ vì khó – khó vì kinh tế bị ảnh hưởng, và mức nghèo gia tăng như một hệ lụy tất yếu. Chúng ta muốn vinh danh Chúa hay vinh danh chính mình mà làm hang đá “vĩ đại” như thế? Cuối cùng, Thiên Chúa vẫn phải tiếp tục chịu đựng loài người.

Chúa Giêsu xác định: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Mt 26:11; Mc 14:7; Ga 12:8) Thật vậy, thế giới còn biết bao người nghèo, xung quanh chúng ta cũng không thiếu người nghèo, làm hang đá giản dị không chỉ gợi lên ý nghĩa của việc Con Chúa giáng sinh, mà còn dành tiền để làm việc khác cần thiết và đẹp lòng Chúa: Bác ái, nhất là vào dịp lễ Giáng Sinh – chia sẻ yêu thương, cụ thể là chút hiện vật. Điều đó càng tốt lành hơn trong cơn dịch bệnh thế này.

  1. TỘI ÁC

Kinh Thánh nói: “Nháy mắt mím môi, nghĩ ra điều dối trá là làm sự ác rồi.” (Cn 16:30) Vì thế, không ai dám nói mình giữ lòng thanh khiết và sạch tội. (Cn 20:9) Thánh Phaolô cảnh báo: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7) Thời nào cũng thấy đúng với nhận xét đó.

Giáo hội kính nhớ các Thánh Anh Hài ngay sau lễ Giáng Sinh. Đó là các “thánh nhi tử đạo” vì Chúa Hài Đồng, nguyên nhân là sự hèn hạ của ác vương Hêrôđê. Lễ này gợi suy tư về hai thái cực đối nghịch nhau: Sự trong trắng – vô tội, và sự độc ác – tà tâm.

Tin Mừng cho biết: Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8) Nói năng ra vẻ tốt bụng lắm, nhưng đó chỉ là mưu ma chước quỷ thâm độc của kẻ ác, nguy hiểm hơn nữa là kẻ này có quyền hành.

Các nhà chiêm tinh an tâm ra đi khi nghe nhà vua nói thế. Họ là những người tốt nên không hề nghi ngờ Hêrôđê. Từ lúc đó, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại tiếp tục dẫn đường cho họ. Vừa trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Và họ được ngôi sao dẫn đến tận nơi có Hài Nhi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Bà Maria, và họ sấp mình thờ lạy Ngài. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Hài Nhi.

Tuy nhiên, sau đó họ được báo mộng rằng đừng trở lại gặp vua Hêrôđê, và đi lối khác mà trở về. (Mt 2:12) Có lẽ lúc này các nhà chiêm tinh mới thấy rõ chân tướng độc ác của Hêrôđê, thế nên họ đã không dám quay lại triều đình. Phàm phu tục tử không thể “qua mặt” được Thiên Chúa! Và cũng là để điều này ứng nghiệm lời ngôn xứ từ ngàn xưa: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập.” (Mt 2:15)

Không thấy các nhà chiêm tinh trở lại, vua Hêrôđê biết mình bị hố, thế nên ông ta cảm thấy bị lừa nên nổi giận. Ông ta sai thuộc hạ đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. Rõ ràng là quá hèn hạ mà không biết nhục. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2:18) Không ai sống mãi ở đời này, dù là hiền nhân hoặc ác nhân, ngay cả những người trường thọ nhất. Tất nhiên ác vương Hêrôđê cũng phải chết. Chết thật chứ không chết giả. Thế nhưng “dòng dõi” của ông ta còn nhiều, hiện diện ngay trong xã hội ngày nay.

Chẳng có đâu xa, ngay tại Việt Nam cũng có rất nhiều Hêrôđê vẫn hằng ngày rảo bước khắp các hang cùng ngõ hẻm… Nơi nào cũng có, chỗ nào cũng thấy – dù phố hay quê. Đó là các “bản sao” của ác vương Hêrôđê. Họ là ai mà cứ “lộng hành” như vậy?

Khắp nơi vẫn xuất hiện những kẻ mang “máu lạnh” của ác vương Hêrôđê. Ngày nay thông tin cập nhật nhanh nhờ internet, có nhiều tin về những vụ bạo hành trẻ em. Có những người là bảo mẫu mà lại nhẫn tâm đạp chết trẻ thơ vô tội; có những ác phụ mang danh cô giáo nhà trẻ dùng phương pháp “sư phạm” ác độc là hành hạ các trẻ thơ đủ kiểu như bóp mũi, bóp cổ, gí đầu xuống đất, dốc đầu ngược vào lu nước, tát thẳng tay, đánh đập không chút thương hại; có những người rình rập để bắt cóc trẻ thơ đem bán; có những người mẹ cam tâm giết con bằng cách phá thai hoặc vứt bỏ núm ruột của mình ở nơi nào đó; có những y bác sĩ sẵn sàng “giúp” người ta phá thai; và còn nhiều hành động tinh vi dã man mà người ta nhẫn tâm đối xử với trẻ em vô tội.

Tại Việt Nam, có lần người ta đã từng phát hiện nhiều trẻ em bị chôn vùi trong đống rác tại Đá Mài – Thái Nguyên, có em được sinh ra khỏe mạnh và lành lặn nhưng bị người ta đâm vài nhát dao cho chết. Chỉ trong hai tuần lễ, có nơi người ta phát hiện tới 600 thai nhi bị sát hại. Thật tàn nhẫn và kinh khủng quá! Thai nhi là sinh linh, là thụ tạo của Thiên Chúa, nhưng chúng lại bị tước mất quyền sống, không được sinh ra để làm người. Làm hại thai nhi và trẻ em, hoặc bất cứ người nào, là tội phạm thượng vì dám xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – United States Declaration of Independence, ngài Thomas Jefferson (1743-1826, tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1801-1809) đã đề cập BA QUYỀN CƠ BẢN KHÔNG THỂ BỊ TƯỚC ĐOẠT của con người: Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Sở Hữu. Luật đời mà như thế thì tại sao chúng ta dám khinh suất Thánh Luật của Thiên Chúa?

Ngày xưa, ác vương Hêrôđê chỉ giết các trẻ em trong vùng Bêlem và lân cận từ hai tuổi trở xuống. Nhưng ngày nay, các ác nhân giết bất kỳ ai và ở bất kỳ lứa tuổi nào, thậm chí giết cả cha mẹ và thân nhân của họ. “Dòng dõi” Hêrôđê ngày nay thâm độc hơn, tinh vi hơn, và khó nhận ra hơn. Nếu có bị phát hiện thì họ viện nhiều lý do để biện hộ cho hành vi ác độc của mình. Ác nhân luôn lắm chiêu trò lươn lẹo, lọc lừa, xảo trá. Đó là một loại đại dịch cũng nguy hiểm không khác gì Cúm Tàu Cộng.

Tiền nhân nói chí lý: “Được vạ thì má đã sưng.” Nếu pháp luật có xét xử và kết án đúng mức thì trẻ em cũng đã chết rồi. Chỉ tội nghiệp các trẻ em vô tội mà bị sát hại một cách oan uổng! Những kẻ làm cớ vấp phạm mà còn đáng bị buộc cối đá lớn vào cổ rồi bị ném xuống biển (Mc 9:42) thì những kẻ phạm tội sát nhân vì tham lam và ích kỷ đáng bị trừng phạt thế nào? Chắc hẳn không thoát khỏi “nơi chỉ có khóc lóc và nghiến răng” mãi mãi – nếu không thành tâm ăn năn sám hối!

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho chúng con vui sống trong Thánh Luật của Ngài và được hưởng bình an đích thực của Ngài. Xin cứu thế giới khỏi mọi sự dữ, xin tác động mọi người ý thức bảo vệ sự sống và thể hiện văn minh yêu thương. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Emmanuel và Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Kính Mừng Chúa Giáng Sinh – 2021

 Nói về thuyết tiến hoá

 Nói về thuyết tiến hoá

Chúc bạn ngày Thứ 5 khoẻ như con voi, khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu vậy nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 09/12/2021

GIÁO LÝ: Có thể vừa chấp nhận thuyết tiến hóa, vừa tin vào Đấng Tạo thành không? Được. Dù nó khác nhau trong nhận thức. Đức tin mở rộng cho khoa học đưa ra những tìm kiếm và những giả thuyết. (YouCat, số 42)

SUY NIỆM: Thần học không có thẩm quyền về khoa học, cũng như khoa học không có thẩm quyền về thần học. Khoa học không thể dứt khoát từ chối về chủ đích có trong quá trình tiến hóa của vạn vật. Ngược lại, đức tin không thể xác định về phương pháp mà quá trình tiến hóa của thiên nhiên được thực hiện cụ thể. Một Kitô hữu có thể tán thành lý thuyết khoa học về tiến hóa xét như là lý thuyết giải nghĩa hữu ích, nhưng trong giới hạn lý thuyết đó không rơi vào sai lầm của chủ nghĩa tiến hóa cho rằng con người là sản phẩm ngẫu nhiên do quá trình sinh học tạo ra. Lý thuyết tiến hóa chỉ đưa ra trước “một cái gì đó” đang tiến hóa, nhưng không nói chút nào về cái gì đó “do đâu mà có”. Không thể dùng cách khéo léo của khoa học để trả lời những vấn đề liên quan đến ý nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ, của con người. Cũng như người theo thuyết “duy tiến hóa lý tưởng”, người theo lý thuyết duy sáng tạo cũng vượt ra khỏi giới hạn có thể được chấp nhận. Người theo thuyết duy sáng tạo hiểu các con số và các niên hiệu mà Kinh thánh nói đến theo nghĩa đen một cách ngây ngô (chẳng hạn tuổi của trái đất hoặc việc sáng tạo trong sáu ngày).

**Thuyết duy sáng tạo: Thuyết này cho rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào một lúc rõ rệt để sáng tạo thế giới một cách trực tiếp và chỉ cần một lần, theo nghĩa đen của bài tường thuật về sáng tạo của sách Sáng thế.

** Tiến hóa là sự tăng trưởng của các cơ nâng tiến đến hình thức nhất định của chúng trong thời gian hàng triệu năm. Theo quan điểm của Kitô giáo, ta có thể coi tiến hóa như sự sáng tạo liên tục của Thiên Chúa có mặt trong tiến trình của thiên nhiên.

**   Không nhà bác học nào có được dù chỉ là một lý lẽ để có thể phản biện lại các quan niệm về một Đấng sáng tạo như thế. (Hoimar von Ditfurth, 1921-1989, chuyên viên Đức về khoa học). (YouCat, số 42 t.t)

LẮNG NGHE: Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử. (Gv 3:11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Đấng tạo dựng trời và đất, con chúc tụng và ngợi khen Chúa vì đã ban cho con người trí thông minh hiểu biết để giúp nhân loại thăng tiến đời sống theo đúng kế hoạch quan phòng của Chúa. Xin tăng thêm niềm tin cho con để con nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi lúc mọi nơi và mọi hoàn cảnh.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Tin-Cậy-Mến

TÂM TÌNH MÙA VỌNG

TÂM TÌNH MÙA VỌNG

Mỗi khi Mùa Vọng về, hình ảnh Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ông cũng là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành. Gioan khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể. Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể. Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người. Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường.

Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải kiên trung và can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa.

Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.

Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường. Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em.

Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.

Bài chia sẻ LM Vũ Yên

From: Hưng-Lan

THÁNH NICÔLA – GIÁM MỤC (Thế kỷ IV)

THÁNH NICÔLA – GIÁM MỤC(Thế kỷ IV)

Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết.  Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ.  Sau đó dường như các nhà chép sử lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra.  Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.

Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện.  Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ.  Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là “sự chiến thắng của dân.”  Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.

Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là “Mặt trời soi chiếu thế gian.”  Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời.  Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay.  Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.

Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu.  Cha mẹ mất sớm.  Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù.  Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay.  Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương.  Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi.  Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô.  Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình.  Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.

Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa.  Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion.  Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình.  Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển.  Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi…

Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này.  Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: “Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng.”

Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.

Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập.  Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập.  Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.

Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới.  Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới nhà thờ trước hết.  Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục.  Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại.  Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.

Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn.  Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều.  Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.

Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập.  Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do.  Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng.  Ngài làm nhiều phép lạ như mưa.  Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.

Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa.  Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ.  Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức.  Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ.  Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.

Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời.  Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea.  Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời.  Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.

Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples.  Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng.  Mỗi miền nói theo cách của mình.  Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời.  Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái.  Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu “bia.”

Các vua nước Pháp sùng kính Ngài.  Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla.  Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được?  Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay.

Nguồn: https://tgpsaigon.net

From: Langthangchieutim

NHỚ LẠI VÀ LẮNG NGHE

NHỚ LẠI VÀ LẮNG NGHE

 ĐGM. Bùi Tuần

Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ.  Có nhiều cách mừng.  Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.  Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi.  Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.

Nhớ lại.

Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.  Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm.  Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.  Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:

Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.  Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25).

Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá.  Ít là phần nào.  Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8).

Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng.  Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình.  Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.  Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.

Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ.  Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị.  Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.  Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều.  Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.

Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.  Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ.  Đó là thánh Phaolô.  Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi.  Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..

Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.  Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa.  Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí.  Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn!  Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?  Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).

Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go.  Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói.  Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại.  Vì thế mà tôi sám hối.  Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm.  Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.

Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác.  Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.  Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng.  Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).

Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27).  Mẹ đã không cứu được con mình.  Nhưng Chúa lại muốn như vậy.  Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.

Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người.  Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình.  Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa.  Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.

Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần.  Tôi muốn giúp.  Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi.  Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên.  Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.

Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.

Lắng nghe.

 Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại.  Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm.  Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.

Ô nhiễm khắp nơi.  Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm.  Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này: Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.

Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức.  Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.  Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ.  Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.  Giới phái là nam, là nữ.  Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.

Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại.  Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó.  Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv….  Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.

Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện.  Kẻo sẽ quá muộn.

Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa.  Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.

Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng.  Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.

Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).  Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm.  Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.

Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.

Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm.  Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện.  Không bị nhiễm là nhờ thánh giá.  Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.

Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm.  Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta.  Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người.  Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối.  Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.

ĐGM. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

“HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA”

“HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Mỗi năm khi Mùa Vọng về, hình ảnh ông Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ.  Ông là con của Bà Elisabét, đã nhảy mừng khi còn là hài nhi trong lòng mẹ, khi Đức Trinh nữ Maria viếng thăm.  Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế.  Gioan là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành.  Ông nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.  So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể.  Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể.  Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người.  Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan Tẩy giả vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường.  Ông kêu gọi “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng.”  Mọi người nghe Gioan Tẩy giả đều hiểu nội dung của lời kêu gọi này, đó là sửa sọan tâm hồn và ăn năn sám hối để đón chào Đấng Thiên Sai.  Kết quả là từng đoàn người đông đảo khiêm tốn đến với ông và chịu dìm mình trong dòng nước sông Giođan để được ơn tha tội.

Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa.  Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại.  Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải can đảm vượt qua những chướng ngại đó.  Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa.  Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc.  Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng.  Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.

Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.  Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát.  Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường.  Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi, hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em.  Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài.  Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.

Lễ Giáng Sinh là ngày lễ của niềm vui, bởi có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng được Thiên Chúa hiện diện.  Ngôn sứ Barúc đã khẳng định điều đó (Bài đọc I).  Ông kêu gọi mọi người hãy thay áo tang chế khổ nhục bằng áo choàng công chính.  Vị Ngôn sứ được chiêm ngưỡng một khung cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem trong tương lai.  Muôn dân nước cũng tuôn đổ về thành phố có tên gọi “hòa bình” này để tôn thờ và ca tụng Chúa.  “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Người.”  Đó là thời Chúa tỏ mình ra.  Khi đó, vũ trụ này sẽ không còn đau khổ, nhưng sự bình an và hạnh phúc sẽ như đại dương bao trùm tất cả.  Cùng chung một ý tưởng với Gioan Tẩy giả sau này, Ngôn sứ Barúc cũng kêu gọi mọi người hãy lấp đầy thung lũng, hạ thấp núi cao để có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện.  Lời của vị ngôn sứ đã mang đến cho Israen niềm hy vọng tràn trề, để rồi giữa trăm bề đau khổ, Dân Chúa vẫn vững tin rằng, Đấng Thiên Sai sẽ đến.

Như thánh Gioan Tẩy giả, mỗi người tín hữu cũng được mời gọi trở nên những sứ giả của niềm vui, giữa cuộc đời còn phủ đầy bóng tối và tràn lan bạo lực.  Bí tích Thanh tẩy trao cho chúng ta ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế.  Nhờ ba chức năng này, người tín hữu trở nên những “tiền hô” loan báo và chứng minh cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống, dù bất cứ hoàn cảnh nào.

Trong niềm hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta đang cử hành Thượng Hội đồng Giám mục thế giới ở cấp giáo phận.  Đức Thánh Cha muốn lắng nghe những ý kiến của Dân Chúa từ khắp các châu lục, để đưa ra những định hướng mục vụ phù hợp với bối cảnh thế giới hôm nay.  Là phần tử của Giáo Hội, chúng ta hãy cảm thức với Giáo Hội, chia sẻ niềm vui và những ưu tư trăn trở của Giáo Hội, với ước vọng làm cho Đức Giêsu được nhận biết và tôn vinh.  Chúa Giêsu vẫn đang đến với chúng ta.

Người kiên nhẫn gõ cửa tâm hồn chúng ta.  Có những người nhiệt thành đón tiếp Chúa với con tim nồng ấm, có những người lại từ chối Người với tâm hồn giá băng.  Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh: những ai thành tâm đón Chúa sẽ tìm thấy tâm hồn bình an và sẽ trở nên hoàn thiện.  Đức Thán Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” như sau: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày.  Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì “không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến.”  Chúa không làm thất vọng những ai chấp nhận sự liều lĩnh này; mỗi khi chúng ta bước một bước đến gần Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ra rằng Người đã đang ở đó, đang mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta” (số 3).  Đức Giêsu đã đến trần gian, và giáo huấn của Người làm thay đổi cuộc sống của những ai chân thành đón tiếp Người.  Nơi khác, vị Giáo Hoàng người Achentina cũng khẳng định: “Chúa Giêsu chính là Chân Lý: Chân Lý “đã trở thành nhục thể,” đã đến giữa chúng ta để chúng ta biết Chân Lý ấy.  Không thể nắm bắt Chân Lý như nắm bắt một sự vật.  Chân Lý phải được gặp gỡ.  Đó không phải là một vật sở hữu, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Ngôi Vị.”

Kính thưa Quý vị và Anh Chị Em

Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm.  Tuy vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm.  Trong mối tương quan hằng ngày, người ta vẫn tiếp tục xây những bức tường chia rẽ, vẫn đào những thung lũng hận thù và xây những núi đồi của kiêu ngạo.  Lời Chúa khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ Đấng Tối cao.  Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ nơi hang đá khó nghèo.  Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta được vinh quang.  Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm, nhờ đó chúng ta mang lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính,” như thánh Phaolô nhắn nhủ giáo dân Philiphê (Bài đọc II).

Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã viết: “Thiên Chúa không ở đâu xa cả.  Ngài không phải là một đấng nào đó không thể mường tượng được, nhưng Ngài ở bên ta.  Ngài đã trở nên một với ta, đụng vào ta, đón nhận ta, cũng như ta đụng chạm được Ngài và có thể đón nhận Ngài” (Thiên Chúa và Trần thế, Tr 227).  Vâng, Đấng Emanuel, Thiên Chúa ở với ta, đó chính là nét mới mẻ của Kitô giáo.  Đó cũng là thông điệp của Mùa Giáng Sinh đang đến gần.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

CẦU NGUYỆN ĐI TÌM MỘT CHIỀU SÂU

CẦU NGUYỆN ĐI TÌM MỘT CHIỀU SÂU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Bài thứ nhất trong loạt bốn bài mùa Vọng về cầu nguyện

Trong những phút giây chiêm nghiệm sâu đậm, chúng ta cảm nhận tầm quan trọng của cầu nguyện; thế nhưng chúng ta lại gắng gỗ chật vật để cầu nguyện.  Cầu nguyện sâu đậm, bền bỉ chẳng dễ dàng đến với chúng ta.  Tại sao vậy?

Trước hết, chúng ta gắng gỗ chật vật để sắp xếp thì giờ cầu nguyện.  Buổi cầu nguyện chẳng tựu thành được điều gì thực tế cho chúng ta, đó là phí phạm thì giờ xét về mặt phải xoay xở giữa những áp lực và nhiệm vụ của đời sống hàng ngày, và vì thế chúng ta ngại đi tới đó.  Thêm vào đó, chúng ta thấy khó mà tin tưởng được buổi cầu kinh thật sự có tác dụng và đưa lại điều gì đó thực tế trong đời sống chúng ta.  Ngoài chuyện đó ra, chúng ta chật vật để tập trung cho được khi cố gắng cầu nguyện.  Một khi thu xếp ngồi xuống cầu nguyện, thì chẳng mấy chốc chúng ta thấy mình tràn ngập trong những mơ mộng hão huyền, những cuộc chuyện trò lỡ dở, những giai điệu nhớ nhớ quên quên, những vụ đau tim, lịch trình công việc, và những nhiệm vụ đang treo lơ lửng sẽ ùa đến ngay khi chúng ta đứng dậy khỏi nơi cầu nguyện.  Cuối cùng, chúng ta chật vật cầu nguyện bởi vì thật sự không biết nên cầu nguyện như thế nào.  Có thể chúng ta quen thuộc với nhiều hình thức cầu nguyện khác nhau, từ những buổi cầu kinh sùng đạo cho đến những kiểu thiền định khác nhau, nhưng thông thường chúng ta thiếu tự tin nên không nghĩ rằng cái cách cầu nguyện cụ thể của chính mình, với tất cả những điều làm phân tâm, sao nhãng và sơ suất trong đó, chính là kiểu cầu nguyện một cách sâu đậm.

Một trong những nơi chúng ta có thể nhờ cậy là Phúc âm thánh Luca.  Hơn bất cứ Phúc âm nào, Phúc âm thánh Luca là Phúc âm về cầu nguyện.  Trong Phúc âm này có nhiều nơi mô tả Chúa Giêsu cầu nguyện nhiều hơn ở tất cả các sách Phúc âm khác cộng lại.  Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện trong gần như tất cả trạng huống: Người cầu nguyện khi tràn đầy niềm vui, Người cầu nguyện khi đang trong cơn thống khổ; Người cầu nguyện với những người ở bên cạnh, và Người cầu nguyện khi một mình giữa đêm vắng, xa khỏi mọi mối liên hệ với con người.  Người cầu nguyện trên núi, ở nơi thiêng liêng, ở bình địa, nơi cuộc sống bình thường diễn ra.  Trong Phúc âm của thánh Luca, Chúa Giêsu cầu nguyện rất nhiều.  Và các môn đồ của người hiểu rõ bài học này.  Họ cảm nhận rằng chiều sâu và sức mạnh thật sự của Chúa Giêsu được khởi từ cầu nguyện của Người.  Họ biết rằng điều khiến Người đặc biệt như vậy, hết sức khác những nhân vật tôn giáo khác như vậy, là vì Người được kết nối ở một nơi sâu sắc nào đó với một quyền năng nằm ngoài thế giới này.  Và họ cũng muốn họ được như vậy.  Đó là lý do tại sao họ đến gặp Chúa Giêsu và xin: “Xin Chúa dạy cho chúng con cầu nguyện!”

Nhưng chúng ta cần cẩn thận để không bị hiểu sai điều gì đã thu hút họ như vậy, và họ mong mỏi gì khi xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện.  Họ cảm nhận cái mà Chúa Giêsu lấy được từ chiều sâu cầu nguyện của mình trước hết không phải là quyền năng để làm phép lạ hay để làm câm bặt các kẻ thù của mình bằng một kiểu trí thông minh siêu việt nào đó.  Điều khiến họ cảm động và điều họ cũng muốn cho cuộc sống của chính mình là chiều sâu và lòng khoan dung độ lượng của tâm hồn Người.

Sức mạnh mà họ khâm phục và mong muốn là sức mạnh của chúa Chúa Giêsu trong yêu thương và tha thứ kẻ thù thay vì làm bẽ mặt và chà đạp họ.  Điều họ mong muốn là sức mạnh của Chúa Giêsu để chuyển hóa một không gian, không phải bằng một hành động phép lạ nào đó, mà bằng sự trong trắng và tính chất dễ bị tổn thương như thể khiến mọi người đều hạ vũ khí, cũng như sự có mặt của một đứa bé khiến cho mọi người quan tâm để ý đến cách cư xử và lời nói của mình.  Điều họ muốn là sức mạnh từ bỏ cuộc đời trong sự tự hy sinh, kể cả khi có được khả năng đáng ghen tị là tận hưởng những niềm vui thú của cuộc đời mà không bị tội lỗi.  Điều họ muốn là sức mạnh tấm lòng quảng đại của Chúa Giêsu, để thương yêu vượt ra bên ngoài dòng tộc mình, và thương yêu người giàu lẫn người nghèo, thương yêu từ trong lòng nhân từ, vui vẻ, bình an, kiên nhẫn, tốt lành, chịu đựng, trung tín, nhẹ nhàng, và trinh bạch, bất chấp mọi thứ trong đời ngăn cản những đức hạnh này.  Điều họ mong muốn là từ chiều sâu và lòng bao dung độ lượng trong tâm hồn Chúa Giêsu.

Và họ nhận ra rằng cái sức mạnh này không phải đến từ bên trong Người, mà từ một nguồn cội bên ngoài Người.  Họ thấy Người kết nối với một nguồn cội sâu xa thông qua cầu nguyện, thông qua việc liên tục nâng cao lên đến với Chúa vốn ở trong tâm trí Người.  Họ thấy điều đó và họ cũng muốn mối-liên-hệ-chiều-sâu đó cho chính mình.  Vì vậy họ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện.

Rốt cùng, chúng ta cũng muốn có được chiều sâu và lòng khoan dung độ lượng của Chúa Giêsu trong đời sống của chính mình.  Giống như các môn đồ của Chúa Giêsu, chúng ta cũng biết rằng chúng ta chỉ có thể đạt được điều này thông qua cầu nguyện, thông qua tiếp cận một sức mạnh nằm ở bên trong chiều sâu sâu thẳm nhất của tâm hồn mình và vượt ra khỏi tâm hồn mình.  Chúng ta cũng biết rằng con đường dẫn đến chiều sâu đó nằm ở cuộc hành trình vào nội tâm, trong im lặng, thông qua cả nỗi đau đớn lẫn thầm lặng, hỗn loạn và bình an, con đường sẽ hiện ra với chúng ta khi ta lắng mình để cầu nguyện.

Trong những giây phút chiêm nghiệm sâu xa, và những phút giây tuyệt vọng, chúng ta đều cảm thấy cần phải cầu nguyện và cố gắng đi đến chỗ sâu xa đó.  Nhưng, vì chúng ta thiếu lòng tin tưởng và thiếu thực hành, nên chúng ta gắng gỗ chật vật để tới đó.  Chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào hay làm sao để duy trì việc cầu nguyện bền bỉ.

Nhưng như vậy chúng ta đang song hành với các môn đồ của Chúa Giêsu.  Và thế là, một khởi đầu tốt sẽ là nhận ra chúng ta cần cái gì và tìm ra nó ở đâu.  Chúng ta cần bắt đầu với một lời nài xin khẩn thiết: Xin Chúa dạy cho chúng con cầu nguyện!

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim