CHÚA GIÊSU HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIA

CHÚA GIÊSU HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIA

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,

 Nếu người ta muốn chế ra Sự Phục Sinh, thì tất cả sự nhấn mạnh sẽ phải nhắm vào tính xác thực hoàn toàn của thân xác, vào thực tế là người ta có thể nhận ra Ngài ngay lập tức và, ngoài ra, có lẽ người ta cần phải tưởng tượng ra một quyền năng riêng như một dấu chỉ đặc trưng của Đấng Phục sinh…

Đây là một tin mừng có mùi hương tươi mát của buổi sáng!  Hồ Tiberia rộng lớn, nơi nước hòa vào đường chân trời với bầu trời xanh ngắt, trở thành hình ảnh của tương lai rộng mở của Giáo hội, nơi Trời và Đất gặp nhau.  Đúng vậy, tin mừng tuyệt vời này mang lại cho chúng ta sự can đảm trong những thời điểm khó khăn này: chúng ta có thể mạo hiểm trên biển khơi trong thời gian sắp tới, bởi vì Chúa Giêsu thực sự hiện diện trên bờ biển, và vì lời của Ngài đồng hành với cuộc vượt biển của chúng ta. 

Mở đầu câu chuyện, có một sự tương phản nhất định giữa các môn đệ và Chúa Giêsu: Các môn đệ ở dưới biển, trái lại, Chúa Giêsu ở trên đất liền.  Các môn đệ lao động suốt đêm, thay vào đó Chúa Giêsu hiện ra trong ánh ban mai vui tươi.  Các môn đệ đang đói và không có gì để ăn, trái lại, Chúa Giêsu vốn no lòng lại dọn sẵn một bữa ăn cho họ. 

Điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu không được nhận ra ngay lập tức.  Đây cũng là trường hợp của tất cả các câu chuyện Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra.  Và bây giờ chúng ta có thể tự hỏi mình, tại sao họ không nhận ra Ngài?  Bởi vì việc kinh nghiệm Chúa Giêsu Phục sinh rõ ràng không phải là việc gặp lại một người bạn cũ không ai còn thấy! 

Đức Bênêđíctô đã viết “[có] một phép biện chứng đáng kinh ngạc giữa căn tính và sự khác biệt, giữa tính thực của thân xác và sự tự do không bị ràng buộc bởi thân xác…  Cả hai điều này đều đúng: Ngài vẫn thế – một người bằng xương bằng thịt – và Ngài là cũng là Người Mới, người đã bước vào một dạng tồn tại khác… Nếu người ta muốn chế ra Sự Phục Sinh, thì tất cả sự nhấn mạnh sẽ phải nhắm vào tính xác thực hoàn toàn của thân xác, vào thực tế là có thể nhận ra Ngài ngay lập tức và, ngoài ra, có lẽ người ta cần phải tưởng tượng ra một quyền năng riêng như một dấu chỉ đặc trưng của Đấng Phục Sinh… Nhưng không phải thế, những cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh là một điều gì đó khác với những sự kiện nội tâm hoặc những kinh nghiệm thần bí – chúng là những cuộc gặp gỡ thực sự với Đấng Đang Sống, theo một cách mới mẻ, có một cơ thể và vẫn còn vật chất.” 

Tóm lại, để nhận ra Chúa Giêsu, người ta phải mở ra cho mình một hình thức hiện diện mới, không kém phần hiện thực nhưng thuộc một trật tự khác.  Như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh không kém phần có thực, chỉ kém phần hiện thực bằng mắt thường mà thôi. 

Bạn đã nghe rồi, không phải các môn đệ, đang hoang mang vì mệt mỏi và vì màn đêm, là những người nhìn thấy Chúa Giêsu trên bờ.  Trái lại, sáng kiến đến từ Chúa Giêsu, Ngài gọi họ!  Ngài cho họ thấy!  Ngài tham gia cùng họ sau một đêm tối, trong nỗi vất vả của họ, trong nỗi lo lắng của họ, trong cơn đói của họ.  Tương tự như vậy đối với chúng ta ngày nay, thường là khi chúng ta phải vất vả suốt đêm, chẳng làm được gì, thì Thiên Chúa dễ nhìn thấy, và dễ nghe thấy hơn! 

Chắc chắn Chúa không tự trao ban nhiều hơn cho chúng ta trong cuộc chiến ban đêm.  Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn còn đủ mạnh mẽ để có thể tự mình giải quyết mọi chuyện  thì việc lắng nghe Chúa và nhìn nhận Ngài sẽ khó hơn.

Nghịch lý thay, việc lắng nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu lại dễ dàng hơn khi chúng ta đã tự mình cảm nghiệm sự cằn cỗi của mình!  Đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu Phục sinh trở nên cụ thể hơn khi chúng ta không bắt được gì, khi chúng ta mệt mỏi, khi chúng ta đói.  Nói cách khác, khi bằng chứng về sự yếu đuối của chúng ta được biểu lộ, chúng ta sẽ dễ dàng cảm nghiệm được Đấng Phục Sinh hơn. 

Bây giờ một điều gì đó khác xẩy ra: Khi các môn đệ trở lại với Chúa Giêsu, lưới đầy cá, một điều kỳ lạ xảy ra: Chúa Giêsu không cần cá của họ!  Ngài đã chuẩn bị bữa ăn rồi… và hơn nữa, Ngài đang đợi họ đến ăn cùng. 

Một dấu ngoặc đơn ngắn gọn: Thánh Luca luôn nói đến ba yếu tố đặc trưng cho sự hiện diện của Đấng Phục Sinh giữa các ngài: Ngài hiện ra với họ, nói chuyện với họ và chia sẻ bữa ăn với họ.  Hiện ra – nói – có mặt tại bàn ăn là ba biểu hiện của Đấng Phục sinh, qua đó Ngài tự tỏ mình là Đấng Hằng Sống. 

Hãy nghe xem, điều đó thật đẹp tuyệt vời: Ngài là người thết tiệc… và Ngài cho họ thức ăn.  Kết  quả kỳ diệu của mẻ lưới của họ không phải là bữa tối trong ngày, mà là vì họ!  Chúa Giêsu không cần kết quả kỳ diệu đó.  Nói cách khác: Chúa Giêsu không cần 153 con cá của họ, vì chính Chúa Giêsu là của ăn!  Thứ Ngài muốn cho không phải là cá và bánh mì, thứ mà Ngài muốn là cho đi chính mình! 

Trong đức tin của chúng ta, Ngài là Bánh Sự Sống, Ngài là Đấng ban lương thực, Ngài là hạt lúa mì chết đi để sinh hoa trái dồi dào cho nhiều người. 

Tất cả chúng ta đều đã có kinh nghiệm về điều đó: những gì là vật chất không làm được gì ngoài chuyện suy giảm đi khi nó được chia sẻ.  Ngược lại, tình yêu càng phát triển khi nó càng tự trao ban nhiều hơn.  Tình yêu lớn lên và nhân lên khi nó được cho đi.

Ngoài ra, bữa sáng này do Chúa Giêsu cung cấp, bên lề thời gian và vĩnh cửu, là một ám chỉ đến Bí tích Thánh Thể.

Chúa Giêsu là bánh, nhưng Ngài cũng là cá, một con cá đắm mình trong dòng nước của sự chết, để tìm kiếm chúng ta nơi chúng ta bị lạc… và tìm kiếm chúng ta. 

Tóm lại, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy đến và ăn!”  Vì vậy, Ngài khiến chúng ta vượt qua biên giới của thời gian và cái chết. 

**** 

Cảm tạ Chúa, vì Chúa đến tham gia cùng chúng con vào buổi sáng, khi đêm tối đã hoàn thành công việc của nó, khi chúng con mệt mỏi và nản lòng.

Lạy Chúa, sự hiện diện của Chúa giúp chúng con nhận ra những gì chúng con còn thiếu, những gì chỉ mình Chúa mới có, những gì Chúa muốn trao ban cho mọi người, một cách cá nhân.

Lạy Chúa, không có Chúa thì mọi thứ đều vô sinh, không có Chúa thì con không thể làm gì được, hoặc khi ấy thì con chỉ có thể làm chuyện không đâu.

Lạy Chúa, Chúa không muốn lấy thành quả lao động của con, con cá của con,

Chúa chỉ muốn cho đi chính mình, vì bản chất của tình yêu là cho đi một cách nhưng không, không vì lý do gì khác hơn là cho đi.

Xin Chúa giúp con nhận ra con trên bờ.

Xin Chúa giúp con nhận ra Chúa trong Bí tích Thánh Thể.

Để nếm trải Chúa trong Bánh Sự sống,

nơi Chúa thực sự trao ban chính mình!

Vì vậy, cùng với Phêrô, với tâm hồn tràn đầy niềm vui, con có thể nói trong Thánh lễ: “Đó là Chúa!”  Amen! 

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,

theo LM Jerome Jean, cath.ch/blogsf

Một ngày thật vui trong vòng tay âu yếm của Chúa Chiên Lành và các Hiền Mẫu nhé.

Một ngày thật vui trong vòng tay âu yếm của Chúa Chiên Lành và các Hiền Mẫu nhé.

Chúa chúc lành cho cách riêng cho các vị Hiền Mẫu, các phụ nữ đang mang thai, xin cho họ được thánh thiện, sức khoẻ dồi dào; tràn đầy niềm vui, tình yêu, hạnh phúc, niềm tự hào nơi con cái và được bạn hữu thương mến. Happy Mother’s Day!

Cha Vương

CN: 08/05/2022

TIN MỪNG: Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. (Ga 10:27-28)

SUY NIỆM: Khi nói đến tình yêu không điều kiện thì bạn thường liên tưởng đến người Mẹ. Do đó ca dao mới có những câu sau đây:

Đố ai đếm được lá rừng

Đố ai đếm được mấy tầng trời cao

Đố ai đếm được vì sao

Đố ai đếm được công lao mẹ già.

***

Vì con sống, mẹ suốt đời lam lũ

Vì con vui, mẹ gánh hết đau buồn.

***

Bao năm gian khổ héo hon

Mẹ luôn cam chịu nuôi con nên người.

Tình yêu của người Mẹ được thể hiện trọn vẹn qua hai khía cạnh: cảm giác và hành động, luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho người kia và đặt họ trên hết mọi thứ, bất chấp hậu quả. Tình yêu này cũng được định nghĩa theo khái niệm AGAPE của người Hy Lạp. Đó là tình yêu siêu việt, dạng cao hơn tình yêu bình thường được hiểu là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người và con người dành cho Thiên Chúa. Có những nhà thần học giám mạnh dạn tuyên bố Thiên Chúa như là người Mẹ. “Thiên Chúa đã mang nặng đẻ đau Ngươi quên lãng! (Ðnl 32, 18) Ðọc lại những trang đầu của sách Khởi Nguyên: Và Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng.

(St 1, 10.12.18.21.25.) Tình yêu AGAPE này cũng được tìm thấy nơi Đức Giê-su là Mục Tử Nhân Lành qua bốn điểm sau: (1) biết các con chiên và ân cần hướng dẫn, nuôi dưỡng cùng bảo vệ; (2) yêu thương chiên bằng tình yêu phát xuất từ tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con; (3) hy sinh mạng sống cho đoàn chiên; và, (4) quy tụ chiên tản mác về một ràn duy nhất. Đức Giê-su đã thực thi hoàn hảo bốn điểm này qua cuộc Khổ Nạn, Chết và Phục Sinh vinh hiển của Người. Dù bạn đang ở trên quãng đường nào trong cuộc sống, quanh co gập ghềnh hay trong thung lũng tối tăm, ước gì bạn hãy quay trở về với Chúa là Mục Tử Nhân Lành, là người Mẹ để được chăn dắt đi trên con đường “ngay chính” và Người sẽ không để bạn thiếu thốn gì đâu.

LẮNG NGHE: Bởi vì Chúa nhân hậu, / muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, / qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín. / Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.  (Tv 99:5, 3c) 

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Chiên Lành, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.  Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.  Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời  và tôi được ở đền Người  những ngày tháng, những năm dài triền miên.  Xin biến đổi con thành những mục tử tốt lành trong gia đình và trong môi trường mà con đang sống. 

THỰC HÀNH: Hãy chú tâm vào những điểm tích cực và tốt đẹp của người khác hôm nay thay vì tự khen ngợi chính mình quá quá.

From: Đỗ Dzũng

Chúa Giêsu đến để xét xử chúng ta và xét xử toàn thế giới, nghĩa là thế nào?

Chúa Giêsu đến để xét xử chúng ta và xét xử toàn thế giới, nghĩa là thế nào?

Ước mong bạn cảm nhận được Chúa luôn ở bên cạnh bạn trên mọi nẻo đường hôm nay. Một weekend bình yên vô sự nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 06/05/2022

GIÁO LÝ: Nói rằng Chúa Giêsu đến để xét xử chúng ta và xét xử toàn thế giới, nghĩa là thế nào? Nghĩa là chính Chúa Giêsu không thể giúp cho ai được, nếu chính họ không muốn biết đến bác ái yêu thương. Như thế, họ tự xét xử chính mình. (YouCat, số 112)

SUY NIỆM: Bởi vì Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14,6). Người sẽ mặc khải cho biết đối với Thiên Chúa điều gì là quan trọng, điều gì là không. Sự thật đầy đủ về mỗi người sẽ được Chúa đánh giá tùy theo thước đo những việc làm, những tư tưởng, những biến cố trong cuộc đời riêng tư của họ. (YouCat, số 112 t.t.)

❦ Thiên Chúa không loại bỏ một linh hồn nào, bởi vì chính là linh hồn tự loại bỏ mình: mỗi người là thẩm phán của mình. (Jacob Böhme, 1575–1624, nhà thần bí Đức)

❦ Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con. (Thánh Augustino)

Bạn đã và đang làm gì cho phần rỗi của bạn và tha nhân?

LẮNG NGHE: Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; còn những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. (Rm 2:6-8)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, hằng ngày Chúa ban con vô vàn món quà, từ của ăn tinh thần đến vật chất, Chúa ban cho con nhiều hơn con đáng được, nhưng con đã làm gì với những món quà ấy. Xin cho con biết sống xứng đáng là con của Chúa để rồi những món quà ấy sẽ sinh ích cho phần rỗi đời đời của con và tha nhân.

THỰC HÀNH: Nếu Chúa dùng thước đo từ 1 đến 10: 1 là kém nhất và 10 là tốt nhất, để đo tư tưởng, lời nói, hành động, và lối sống đạo của bạn, liệu bạn có đủ điểm để lãnh bằng khen hôm nay không hả? Hãy cố gắng sống tốt đẹp hơn và lo cho phần rối của chính bản thân bạn và tha nhân nhé.

 Xin Lễ Và Cầu Nguyện Cho Người Mới Qua Đời, Trẻ Mồ Côi Như Thế Nào? – LM Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ & Ấm lên bữa cơm gia đình – Cha Phạm Quang Hồng

httpv://www.youtube.com/watch?v=znhJwvgQLYw

 Xin Lễ Và Cầu Nguyện Cho Người Mới Qua Đời, Trẻ Mồ Côi Như Thế Nào? – LM Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ

httpv://www.youtube.com/watch?v=Vav51QjUUt0

Ấm lên bữa cơm gia đình – Cha Phạm Quang Hồng

TẠI SAO THÁNG NĂM LÀ “THÁNG ĐỨC MẸ”

TẠI SAO THÁNG NĂM LÀ “THÁNG ĐỨC MẸ”

 Đây là lý do tháng Năm được dành riêng kính Đức Trinh Nữ Maria.

Với những người Công Giáo, tháng Năm được biết tới như là “tháng Đức Mẹ,” một tháng đặc biệt trong năm với những thực hành đạo đức đặc biệt được diễn tả trong việc tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.

Tại sao thế?  Tháng Năm được liên kết với Đức Mẹ như thế nào?

Có nhiều yếu tố khác nhau góp phần tạo nên sự liên kết này.  Trước hết, ở Hy lạp và La Mã xưa, tháng Năm được dành để tôn kính các nữ thần ngoại giáo vốn liên hệ tới sự phong nhiêu và thời gian của mùa xuân (đặc biệt là thần Artemis và Flora).  Vốn được kết hợp với những nghi thức khác của người Âu Châu để kỷ niệm mùa xuân mới, ý nghĩa này đã dẫn tới việc nhiều nền văn hóa phương Tây nhìn nhận tháng Năm như là tháng của sự sống và tình mẫu tử.  Quan niệm này có trước đó rất lâu so với sự hình thành “ngày của Mẹ”, dẫu cho dịp lễ hiện đại này liên hệ khá gần gũi tới khát khao sâu xa để vinh danh tình mẫu tử trong suốt những tháng mùa Xuân.

Vào thời Giáo Hội sơ khai, có dấu vết về một dịp lễ lớn kính Đức Trinh Nữ Maria được cử hành vào ngày 15 tháng Năm hàng năm, nhưng mãi cho tới thế kỷ 18, việc tháng Năm có một sự liên kết đặc biệt với Đức Trinh Nữ Maria mới được công nhận rộng rãi.  Theo cuốn Bách khoa Toàn thư Công Giáo, “Sự tôn kính Tháng Năm như hiện tại bắt nguồn từ Rôma, khi ấy vào cuối thế kỷ 18 cha Latomia thuộc Học viện Roma của Dòng Tên đã thực hiện một lời khấn để dâng tháng Năm cho Đức Mẹ để chống lại sự bất tín và thiếu đạo đức giữa những sinh viên.  Từ Rôma, thực hành này lan rộng ra những học viện khác của Dòng Tên và sau đó phổ biến gần như mọi nhà thờ Công Giáo thuộc nghi lễ Latin.”

Tuy nhiên, việc dâng kính trọn một tháng cho Đức Mẹ không phải là một truyền thống mới, vì đã tồn tại một truyền thống trước kia trong việc dành 30 ngày cho Đức Mẹ được gọi là Tricesimum, cũng còn được biết tới như “tháng Đức Bà.”

Những thực hành đạo đức riêng tư khác nhau đối với Mẹ Maria nhanh chóng phổ biến trong suốt tháng Năm, như được ghi lại trong bản Raccolta (bộ sưu tập) – một ấn bản những lời cầu nguyện, được phát hành vào giữa thế kỷ 19.

Tháng Năm này thật là một tháng đặc biệt để dành riêng kính Mẹ Maria rất thánh, tháng đẹp nhất và rực rỡ nhất trong toàn bộ các tháng trong năm.  Lòng sùng kính này đã từng thịnh hành trong toàn các nước Kitô giáo, và giờ đây phổ biến nơi Rôma này, không chỉ trong những gia đình riêng lẻ nữa, nhưng như là một tháng đặc biệt phổ biến trong rất nhiều nhà thờ.  Để khơi dậy nơi mọi người Kitô hữu thực hành lòng sùng kính nhẹ nhàng và thành tâm đối với Đức Nữ Trinh đầy ơn phước, và suy xét vì lợi ích thiêng liêng lớn lao cho họ,  Đức Giáo Hoàng Piô thứ VII đã ban hành một bản Rescript of the Segretaria of the Memorials, vào ngày 21tháng ba năm 1815 đối với mọi tín hữu trong thế giới Công Giáo, những người cách công khai hay riêng tư, nên tôn kính Đức Nữ Trinh Đầy Ơn Phúc với một số lời cầu nguyện sốt mến và tôn kính hay những thực hành nhân đức khác.

Vào năm 1945, ĐTC Piô thứ XII đã khẳng định tháng Năm như tháng Đức Mẹ sau việc thiết lập ngày lễ kính Đức Maria Nữ Vương vào ngày 31 tháng Năm.  Sau Công Đồng Vaticanô II, dịp lễ kính này được dời vào ngày 22 tháng 8, trong khi 31 tháng 5 trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Thăm Viếng.

Tháng Năm có một truyền thống phong phú và là một thời gian thật đẹp trong năm để tôn kính Mẹ Thiên Đàng của chúng ta.

Tác giả:  Philip Kosloski

Chuyển ngữ: Joseph Trần Ngọc Huynh, S.J

Nguồn: https://aleteia.org/2018/05/02/why-is-may-marys-month/

From: Langthangchieutim

Tại sao Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ?

Chúc bạn hôm nay có một giây phút gần gũi với Chúa hơn bao giờ hết. Chúa thương bạn nhiều lắm đó.

Cha Vương

Thư 4: 4/5/2022

GIÁO LÝ: Tại sao Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ? Chúa Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ và Chúa của lịch sử, vì nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Tất cả mọi người được Chúa cứu chuộc, và đều được Người dẫn dắt. (YouCat, số 110)

SUY NIỆM:  “Chúa ở bên trên ta” và Chúa là Đấng duy nhất mà ta quỳ gối thờ lạy; Người ở bên ta, và Chúa là đầu Hội Thánh của Người, trong Hội Thánh đó Nước Thiên Chúa đang bắt đầu ngay từ bây giờ, và Người ở trước mặt ta, làm chủ của lịch sử; làm cho lực lượng của tối tăm cuối cùng chịu thất bại và số phận của thế giới được hoàn thành theo chương trình của Thiên Chúa; Người đến để gặp gỡ ta trong oai nghi, vào ngày mà ta không biết, để đem trái đất vào cuộc đổi mới và tới chỗ hoàn thành. Ta có thể khám phá Chúa gần gũi ta trước hết là trong Lời Chúa, khi lãnh nhận các Bí tích, trong việc chăm sóc người nghèo và trong lúc hai hoặc ba người tập họp với nhau nhân danh Người (Mt 18,20). (YouCat, số 110 t.t.) 

    Nếu Chúa luôn ở bên ta thì tại sao lại có nhiều người lại không nhận ra hoặc biết Ngài? Đây là những lý do điển hình: Tự ti, tự mãi, kiêu ngạo, thờ ơ, chủ nghĩa duy vật— “Bất cứ khi nào sự giàu có tăng lên, bản chất của tôn giáo cũng giảm theo cùng một tỷ lệ.” (John Wesley) 

Có khi nào bạn cảm thấy gần Chúa hơn bao giờ hết chưa?

LẮNG NGHE: Vì trong Người muôn vật được tạo thành trên trời cũng như dưới đất hữu hình và vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới; tất cả đều do Thiên Chúa tạo dụng nhờ Người và cho Người. (Cl 1:16)

 CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, thế gian đưa ra quá nhiều thứ  thường làm con quá bận rộn, xao lãng đến độ kiệt sức, mất đi khả năng để nghe tiếng Chúa đang thầm thì với con, xin cất đi nơi con những gì không thuộc về Chúa để con sống và trở nên một người Ki-tô hữu đích thực.

THỰC HÀNH: Sắp đặt lại bậc thang ưu tiên trong ngày của bạn và tự hỏi Chúa đang ở nấc thang thứ mấy vậy? Hãy đặt Chúa lên hàng đầu nhé.

From: Đỗ Dzũng

Thánh A-tha-na-xi-ô (296? – 373), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh A-tha-na-xi-ô (296? – 373), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh

Sáng Thứ 2 thế nào rồi hả? Đừng có ngáp ngủ nhé. Nếu có ngáp thì hãy thốt lên: “Lạy Chúa xin giúp con…” Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh A-tha-na-xi-ô (296? – 373), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi.

Cha Vương 

Cuộc đời Thánh A-tha-na-xi-ô đầy bôn ba vì tận tụy phục vụ Giáo Hội. Ngài là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian. Sự nhiệt huyết của ngài được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.

    Sinh trong một gia đình Kitô Giáo ở Alexandria khoảng vào năm 295 và được giáo dục kinh điển, A-tha-na-xi-ô gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Ðức Alexander, Giám Mục của Alexandria, và sau đó chính ngài được nâng lên hàng giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài, Ðức Alexander, từng là người lớn tiếng chỉ trích một phong trào mới đang bành trướng ở Ðông Phương thời bấy giờ, đó là lạc thuyết Arian, họ khước từ thiên tính của Ðức Kitô và không coi Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa.

    Khi Ðức A-tha-na-xi-ô đảm nhận vai trò Giám Mục của Alexandria, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian. Lúc đầu, cuộc chiến dường như dễ dàng để chiến thắng và lạc thuyết Arian sẽ bị kết án. Nhưng thực tế thì trái ngược. Công Ðồng Tyre đã được triệu tập và vì một vài lý do không rõ ràng, Hoàng Ðế Constantine đã trục xuất Ðức A-tha-na-xi-ô đến miền bắc nước Gaul. Ðây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.

    Khi Constantine từ trần, người con trai kế vị đã phục hồi quyền giám mục của Ðức A-tha-na-xi-ô. Nhưng chỉ được có một năm, ngài lại bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Ðức A-tha-na-xi-ô đã đệ đơn lên Rôma, và Ðức Giáo Hoàng Julius I đã triệu tập một công đồng để duyệt qua vấn đề và các khó khăn liên hệ.

    Trong bốn mươi sáu năm làm giám mục, ngài đã phải lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Ðức Kitô. Trong một thời gian, ngài được an hưởng 10 năm tương đối bình an để đọc sách, viết lách và cổ võ lý tưởng của đời sống đan viện mà ngài hết lòng tận tụy.

    Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian. Trong các văn bản của ngài về đời sống khổ hạnh, cuốn Ðời Sống Thánh Anthony được nhiều người biết đến và góp phần lớn trong việc thiết lập đời sống đan viện trên khắp thế giới Kitô Giáo Tây Phương.

    Sau một cuộc đời đức hạnh và chịu đau khổ gian nan nhưng vẫn trung kiên với Đức Tin Công giáo. Ngài là một vĩ nhân của thời đại đã an nghĩ đời đời trong Chúa vào ngày 2 tháng 5 năm 373. Thánh tích của ngài hiện còn ở San Croce, Venice, nước Ý.

    Thánh A-tha-na-xi-ô được tuyên dương là Tiến sĩ của Hội Thánh do Đức Giáo Hoàng Pius V năm 1568.

LỜI BÀN: Khi là Giám Mục của Alexandria, Thánh A-tha-na-xi-ô đã phải đau khổ nhiều vì những thử thách. Ngài được Chúa kiên cường để chống lại một điều tưởng như không thể nào vượt qua được vào lúc bấy giờ. Thánh A-tha-na-xi-ô đã sống trọn vẹn trách nhiệm của một vị giám mục. Ngài bảo vệ đức tin chân chính cho đàn chiên, bất kể giá phải trả. Trong thế giới ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi để giữ vững đức tin chân chính với bất cứ giá nào.

 LỜI TRÍCH: Những khó nhọc mà Thánh A-tha-na-xi-ô đã phải đau khổ trong khi lưu đầy – trốn tránh, bỏ chạy từ nơi này sang nơi khác – nhắc nhở chúng ta về những gì mà Thánh Phaolô đã đề cập đến trong cuộc đời ngài: “Trong nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, ở sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; trong vất vả mệt nhọc, qua những đêm không ngủ, qua sự đói khát, thường xuyên phải nhịn ăn uống, qua sự lạnh lẽo và trần truồng. Ngoài những điều này, tôi còn bị ray rứt hằng ngày vì sự ưu tư lo cho tất cả các giáo hội” (2 Corinthians 11:26-28). (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Bạn đã và đang làm gì để giữ vững đức tin? Cái giá bạn phải trả là gì?

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục A-tha-na-xi-ô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Ki-tô, Con Một Chúa. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà ban cho chúng con biết nghe lời người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Chúng con cầu xin… (Lời nguyện trong kinh Thần Vụ)

From Do Dzung

GIA ĐÌNH là “‘trường học đào tạo cho nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn’

GIA ĐÌNH là “‘trường học đào tạo cho nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn’

Ngày Chúa Nhật thật ấm áp và hạnh phúc trong Tình Yêu Thiên Chúa nhé.

CN: 01/05/2022

TIN MỪNG: Người [Chúa Giê-su] hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có thương mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có thương mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. (Ga 21:17)

SUY NIỆM: Trong tông huấn FAMILIARIS CONSORTIO (nhiệm vụ gia đình trong thế giới ngày nay) của Đức Gioan Phaolô II có viết: GIA ĐÌNH là “‘trường học đào tạo cho nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn’: điều đó được thể hiện qua việc chăm sóc và tình yêu dành cho các em nhỏ, những người đau yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của cải, chia sẻ những niềm vui và nổi khổ.”

 Bạn nghĩ gì về gia đình của bạn hôm nay? Dựa trên lời Chúa hỏi ông Phê-rô đến 3 lần “Con có thương mến Thầy Không” rồi Ngài bảo “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” có bao giờ bạn nghĩ chính gia đình của bạn là đàn chiên và mỗi một phần tử trong gia đình là con chiên? Từ muôn thuở Chúa đã mời gọi con người bằng tiếng gọi yêu thương của Chúa. “Từ muôn đời Chúa đã yêu con, và còn yêu con mãi mãi…” Con người đáp lại tiếng gọi yêu thương của Chúa qua chính ơn gọi của của mình. Những ơn gọi đó là:

(1) Làm con Thiên Chúa,

(2) ơn gọi tu trì hoặc ơn gọi hôn nhân,

(3) Ơn gọi dâng hiến cuộc đời mình theo sát Chúa Ki-tô qua bậc sống độc thân với lời khấn Khiết Tịnh cam kết chỉ có Chúa là điều cần thiết duy nhất của đời mình.  Nếu Chúa hỏi bạn 3 lần “con có thương mến Thầy không”? Bạn trả lời thế nào? Hiển nhiên nếu Chúa hỏi thì dễ trả lời rồi.  Tuy vậy nhưng không phải vậy đâu bạn ạ. Điều mà Chúa muốn nghe nơi ông Phê-rô đáp là lời hứa của một tình yêu AGAPE, tình yêu siêu việt, là dạng cao hơn tình yêu bình thường, nó được hiểu là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người và con người dành cho Thiên Chúa, nó luôn được thể hiện bằng hành động, hành động đó được thể hiện rõ ràng nhất trên thập giá. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15:13) Bạn hứa với Chúa điều gì hôm nay? Đừng hứa rồi để thất hứa nhé.

LẮNG NGHE: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. (Ga 14:15)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa một điều hôm nay là xin giúp con hãy yêu anh em con như Chúa yêu con vậy.

THỰC HÀNH: Lập lại lời thề hứa ơn gọi của mình.

From: Đỗ Dzũng

BÌNH AN GIỮA BÃO TỐ

BÌNH AN GIỮA BÃO TỐ

“Thầy đây, đừng sợ!”.

Một cụ già hấp hối thều thào với một người bạn, “Tôi như người đang chới với trong một chung cư yếu ớt, mục nát; gió đang làm nó chao đảo, và bão tố sắp xô nó đổ sập. Và tất cả những gì tôi có thể học được là, Chủ Nhà không có ý định sửa chữa! Thế nhưng, điều tôi cảm nhận là Chủ Nhà, Chúa của tôi, vẫn ở bên tôi, Ngài là ‘bình an giữa bão tố!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Ngài là ‘bình an giữa bão tố!’”. Phút hấp hối của cụ già kia tựa như bối cảnh của Tin Mừng hôm nay. Như cụ già đã trải qua, các môn đệ Chúa Giêsu cũng trải qua những giờ phút hãi hùng trong đêm tối giữa biển khơi đang nổi giận. Thế nhưng, tuyệt vời thay! Thầy của họ, Chúa của họ, vẫn xuất hiện đúng lúc, để kịp trấn an họ dù chỉ vỏn vẹn mấy lời, “Thầy đây, đừng sợ!”.

Lênh đênh giữa biển trong đêm, các môn đệ khác nào những người mù lạc lõng giữa hư không, chẳng có gì bao quanh; họ cảm nhận một sự trơ trọi vô bờ! Giữa những phút bàng hoàng ấy, Chúa Giêsu đã đến gần; Ngài hô to, “Thầy đây!”. Thật an ủi! Trải nghiệm của những ngư phủ này cũng là trải nghiệm của mỗi người chúng ta. Giữa một thế giới quay cuồng, tranh đua và chen chúc; thế nhưng, không ít lần, chúng ta cảm thấy chung quanh mình trống không, lắm lúc mỗi người cảm thấy đơn độc và lạc lõng. Dĩ nhiên, đây không phải là một cảm giác quá sức đối với một số người, nhưng nó thường là một trải nghiệm mà nhiều người đã phải trải qua ở mức độ này hay mức độ khác. Tin Mừng hôm nay tiết lộ, Chúa Giêsu, ‘bình an giữa bão tố’, luôn ở với chúng ta bất kể chúng ta ở đâu, bất kể chúng ta đối mặt với hoàn cảnh nào!

Trải nghiệm trên biển giữa bóng tối có nhiều dạng. Có lẽ cuộc sống của bạn tràn ngập hoạt động, nhưng bạn vẫn cảm thấy đơn độc; hoặc cuộc sống của bạn là nơi mà bạn không có nhiều người chung quanh và luôn cảm thấy cô lập. Hoặc bên ngoài, bạn có vẻ tự tin, có tất cả; nhưng bên trong, bạn đang chiến đấu sâu sắc với một nỗi cô đơn nhất định. Hoặc đôi khi, dòng nước trong tâm hồn bạn bị khuấy động bởi những cảm xúc không kiểm soát, khi niềm kiêu hãnh hoặc những ước mơ phù phiếm hay nhục dục dậy sóng… Những lúc ấy, chúng ta mất phương hướng và dường như chèo chống mấy cũng vô ích! Vậy mà, dù cho hoàn cảnh xảy đến thế nào, Chúa Giêsu vẫn muốn đến với chúng ta như đã đến với các môn đệ, để nói, “Thầy đây, đừng sợ!”.

Không chỉ cho mỗi người, Lời Chúa hôm nay còn đưa ra một hình ảnh tuyệt vời về thực tại của Giáo Hội qua các thời đại. Giáo Hội, con thuyền phải vượt qua những cơn gió trái chiều và bão tố; đôi khi nó có nguy cơ bị lật úp. Điều đã cứu con thuyền không phải là lòng can đảm và phẩm chất của thuỷ thủ đoàn, nhưng là sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, Ngài là ‘bình an giữa bão tố’. Bài đọc Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một bằng chứng. Khi các tín hữu kêu trách lẫn nhau; giữa họ, có sự kỳ thị giữa người Hy Lạp và Do Thái. Nhờ lời cầu nguyện và khôn ngoan Thánh Thần ban cho, các phó tế đầu tiên ra đời; giông bão qua đi. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài!”.

Anh Chị em,

“Thầy đây, đừng sợ!”. Phận người mong manh, bao nhiêu điều khiến chúng ta đối mặt với sợ hãi; chiến tranh, thiên tai, đói khát, thất nghiệp, mất nước, vong thân, tệ nạn, cô đơn, ly dị… và cuối cùng là cái chết. Chúa Phục Sinh, nguồn bình an, nguồn sống và là nguồn hy vọng của nhân loại; nơi Ngài và chỉ trong Ngài, chúng ta tìm được sức mạnh đích thực để đối diện với mọi bất trắc của cuộc đời, kể cả cái chết, mà không sợ hãi. Bởi lẽ, ngay trong chính ‘huyệt mộ’ của cái chết, chúng ta vẫn gặp thấy Chúa của chúng ta ở đó. Nếu chúng ta tin và sống trọn niềm xác tín này, chúng ta là những người đang sống những lời của Chúa Giêsu, “Phúc cho ai không thấy mà tin!”. Ước mong sao, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, Đấng là ‘bình an giữa bão tố’ của cuộc đời mình; để từ đó, niềm vui và bình an của chúng ta không bao giờ mai một; đồng thời, chúng ta cũng sẽ là nguồn bình an cho những ai đang gặp bão tố!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có Chúa, con sẽ an toàn qua ‘bờ bên kia’; có Chúa, bến bờ xa xôi của con, dường như ngắn hơn một chút, vì Chúa là ‘bình an giữa bão tố’ của thuyền đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380).

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380).

Một ngày yêu thương nhiều hơn giận hờn ghen ghét nhé bạn. Hôm nay 29/04 Giáo hội mừng kính thánh Catarina ở Siena, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng.

Cha Vương

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380). Tên thật là Catarina Benincasa sinh ngày 25 tháng 3 năm 1347 tại Siena, Tuscany, Ý Đại Lợi và là người con út trong gia đình 25 người con. Ngài là một nữ tu Dòng Đa Minh, một nhà huyền bí nồng nhiệt, một chiến sĩ bảo vệ sự thánh thiện của Giáo Hội Công giáo. Ngài sinh sống trong thế kỷ thứ XIV, một thời kỳ mà Giáo Hội đang gặp phải những khó khăn chia rẽ dường như khó mà hàn gắn được.

Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Cô sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ tại gia đình ở Siena. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina tập luyện tinh thần qua lối sống khắc khổ. Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm. Dần dà, người ta nhận thấy dường như Thánh Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần – giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuôn đến với ngài để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của ngài, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận. Ngài có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên. Tất cả công việc ngài thi hành đều được thúc đẩy bởi ngọn lửa tình yêu. Cuộc sống của ngài luôn ẩn náu trong những vết thương của Chúa Kitô bị đóng đinh. Ngài cảm nhận trong thâm sâu của con tim và trong đức tin của ngài, những thảm họa của Giáo Hội và của xã hội ngài đang sống, vẫn còn tiếp tục đóng đinh Chúa Kitô. Ngài đã làm trung gian để đem lại hòa bình giữa các đô thị và giữa các phe nhóm thù nghịch.

Một vài tuần trước khi chết, ngài đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, ngài trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của ngài. Con thuyền xô ngài ngã quỵ và người ta phải khiêng ngài về nhà. Ngài hầu như bất toại cho đến khi từ trần ngày 29 tháng 4 năm 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Pius II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào ngày 04 tháng 10 năm 1970, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này. (Tóm lược từ nguồn: Nhóm Tinh Thần)

Sau đây là những câu nói của ngài (Nguồn: hddmvn):

❦ Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ.

❦ Đối với các linh hồn hoàn thiện mọi nơi đều là nguyện đường.

❦ Ta [Thiên Chúa] thương yêu con nhiều hơn con có thể yêu thương bản thân con, và ta ân cần chăm sóc cho con cả ngàn lần hơn con có thể chăm sóc bản thân con.

❦ Con người được tạo dựng nên do tình yêu, để con người sống cho tình yêu.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin thánh Catarina thành Siena cầu bầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì?

Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì?

Xin Chúa ban muôn phúc lành xuống trên bạn và gia đình để bạn luôn ao ước những gì thuộc về Chúa. Đừng quên cầu nguyện cho nhau hả?

Cha Vương

Thứ 3: 26/04/2022

GIÁO LÝ: Khi nói Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì? Nghĩa là Chúa Giêsu, một người trong chúng ta đã về lại nhà với Thiên Chúa Cha và ở lại đó muôn đời. Nhờ Chúa Giêsu mà Thiên Chúa ở gần loài người chúng ta trong cách thức loài người. Và trong Phúc Âm Gioan, Chúa Giêsu đã nói: “Khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12, 32). (YouCat, số 109)

SUY NIỆM: Trong Tân ước, việc Chúa về trời chấm dứt giai đoạn bốn mươi ngày được đánh dấu bằng việc Đấng đã sống lại ở gần gũi với các môn đệ. Cuối giai đoạn này Chúa Giêsu đi vào trong oai nghi của Thiên Chúa với toàn bộ nhân tính của mình. Kinh Thánh thuật lại bằng những hình ảnh tượng trưng có “mây”, có “trời”. Như Đức Bênêđictô XVI nói: “Con người có được chỗ trong Thiên Chúa”. Chúa Giêsu Kitô bây giờ ở với Chúa Cha, từ đó một ngày kia Người đến “phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Chúa Giêsu về trời có nghĩa là Chúa Giêsu không còn là hữu hình ở dưới đất, nhưng lại vẫn luôn có mặt dưới đất. (YouCat, số  109 t.t.)

LẮNG NGHE: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời. (Cv 1,11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa dạy con: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Xin đừng để những bận tâm thế tục làm con xao xuyến và lo âu nhưng giúp con biết can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương và chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con có được chỗ ở trong Thiên Chúa.

THỰC HÀNH: Môi trường gia đình là trường học dạy về đức tin và yêu thương, đó cũng là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu. Hôm nay mời bạn hãy trở thành một chứng tá cho đức tin, cho tình yêu xả kỷ của mình ngay trong gia đình bằng những hy sinh nho nhỏ, rộng lượng chia sẻ, và xây dựng một mái ấm hạnh phúc trong Chúa Ki-tô phục sinh nhé.

From: Đỗ Dzũng

CẢM NHẬN VÀ LÀM CHỨNG CHO LÒNG CHÚA XÓT  THƯƠNG

CẢM NHẬN VÀ LÀM CHỨNG CHO LÒNG CHÚA XÓT  THƯƠNG

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được gọi là Tông đồ của Lòng Chúa thương xót.  Ngài đã cổ võ lòng sùng kính Lòng Chúa thương xót và đã có sáng kiến thiết lập ngày lễ kính Lòng Chúa thương xót vào Chúa nhật II Phục sinh hằng năm.  Trong một bài giảng về Lòng Chúa thương xót, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã tuyên bố như sau: “Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về Tình Yêu của Ngài, Tình Yêu ấy mạnh hơn sự chết và tội lỗi.  Tình Yêu ấy được mạc khải và được thực hành là Lòng Thương Xót, thúc giục mỗi người đáp lại tình yêu với Đấng bị đóng đinh…  Với những tâm tình đó, chúng ta cử hành Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh từ Năm Toàn Xá (năm 2000).  Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót (Divine Mercy Sunday).”

Thực ra, giáo huấn về Lòng Chúa thương xót không phải là một khám phá mới của Thánh Gioan Phaolô II.  Lòng Chúa thương xót được thể hiện trên từng trang của Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước.  Lịch sử Thánh, hay lịch sử Cứu độ ghi lại một chuỗi liên hoàn những phản bội của con người và lòng bao dung của Thiên Chúa.  “Ngài là Đấng chỉ nổi giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời” (Tv 29, 6).  Hôm nay cũng vậy, con người lãng quên Thiên Chúa, thậm chí muốn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài.  Thánh Gioan Phaolô đã có công khơi gợi lại hình ảnh của Lòng Chúa thương xót, dựa vào nền tảng Kinh Thánh và những mạc khải tư Chúa tỏ cho thánh nữ Faustina, người đồng hương với Ngài, và cũng là người tông đồ được Chúa chọn làm sứ giả của Lòng Chúa thương xót.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót của Chúa” (Nhật Ký, 300).  Bối cảnh xã hội hiện tại cho thấy nhiều lo âu: Đại dịch Covid-19 chưa chấm dứt, thì lại nổ ra cuộc chiến tranh tàn khốc tại Ucraina.  Trong thời đại vẫn được mệnh danh là thời hoà bình, mà cuộc chiến sát nhân vẫn xảy ra.  Mặc dù biết bao lời kêu gọi, phê phán và lên án, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, trái lại còn đang nguy cơ leo thang và lan rộng.  Tôn vinh Lòng Chúa thương xót và thiết tha cầu nguyện sẽ giúp cho thế giới tìm lại hoà bình.  Chúa đã hứa với chúng ta như vậy, qua thánh nữ Faustina.

Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Lòng Chúa thương xót là tặng phẩm Phục Sinh.  Trong Mùa Chay và Tuần Thánh, chúng ta đã cử hành và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.  Thập giá diễn tả một cách hoàn hảo Lòng Chúa thương xót.  Hình ảnh người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê được mô tả trong sách Ngôn sứ Isaia đã thực hiện nơi Đức Giêsu: Người không còn hình dạng cho chúng ta nhìn ngắm.  Người mang lấy trên thân mình tất cả tội lỗi nhân gian.  Thiên Chúa đã “đánh phạt” Người (x. Is 52,13-53,12).  Quả vậy, trên cây thập giá, Đức Giêsu như một tội nhân khốn khổ và như một người nghèo khó tới mức tột cùng.  Dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người: “Lạy Thiên Chúa!  Lạy Thiên Chúa!  sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).

Khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót, chúng ta hãy nhận ra Người đang hiện diện giữa chúng ta.  Đức Giêsu Phục sinh không phải một câu chuyện huyền thoại, cũng không phải một câu chuyện của thời xa xưa.  Trái lại, Đấng Phục sinh đang sống và hiện diện giữa chúng ta.  Ngỏ lời với người trẻ trong Tông huấn “Chúa Kitô đang sống,” Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúng ta cần luôn tự nhắc mình là Chúa Kitô đang sống, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm.  Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta.  Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng đang sống.  Người là Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn.  Vì thế Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr 15,17) (số 124).

Tông đồ Tôma đại diện cho trường phái hoài nghi, chỉ tin vào những gì cảm nghiệm bằng giác quan và sẵn sàng thách thức những điều kiện để tin.  Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã cho ông một kinh nghiệm: Không phải chỉ những gì động chạm được bằng chân tay hay nhìn thấy tận mắt, thì mới đáng tin.  Hơn nữa, “phúc cho những ai không thấy mà có lòng tin.”  Cuộc gặp gỡ này giúp ông tin mà không cần “thấy dấu đinh ở tay Người, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người.”  Đứng trước Đấng Phục sinh, những thách thức này trở nên vô nghĩa.

Cùng với Tôma, chúng ta hãy tôn thờ Đấng Phục sinh và tuyên xưng Đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Câu tuyên xưng này cũng đồng nghĩa với lời kinh chúng ta vẫn đọc khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!”  Hãy để Đấng Phục sinh đi vào cuộc đời chúng ta, để Người thay đổi tận căn trái tim và hành động của chúng ta.  Nhờ được thấm nhuần Lòng Chúa thương xót, người Kitô hữu trở nên chứng nhân của Lòng Chúa xót thương.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim