BA NHÀ BÁC HỌC SAY MÊ CHUỖI MÂN CÔI

Kẻ Đi Tìm

BA NHÀ BÁC HỌC SAY MÊ CHUỖI MÂN CÔI

  1. Trên tuyến xe lửa đi Paris, có một sinh viên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắmtrong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không thể nào chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:

– Thưa Ông, Ông còn vẫn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à ?”.

Cụ già thản nhiên trả lời:

– Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người thanh niên xấc xược trả lời:

– Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏinhững khám phá mới của khoa học, rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:

– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?

Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời:

– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho Ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.

Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toakhác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi :“Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris”.

(Louis Pasteur, nhà bác học người Pháp sống thế kỷ 19, cha đẻ của lý thuyết lên men, vi khuẩn và vaccin trừ bệnh chó dại. Khi Ông mất, chính phủ Pháp tổ chức quốc tang và trên đường linh cữu ông đi qua, từng đám người quì xuống chan hoà nước mắt. Trong lịch sử, ít có nhà bác học nào mà nhân loại tỏ lòng biết ơn sâu sắc như thế. Vậy mànhà bác học vĩ đại này đã say mê tràng hạt mân côi.)

  1. Người ta kể rằng trên một chuyến tàu lửa từ Paris về Lộ Đức, một sinh viên hỏi cụ già ngồi bên cạnh đang lần hạt rằng:

– Thưa cụ, chắc cụ biết ông Pascal chứ?

– Có, ông này thì tôi biết, biết rõ là đàng khác.

– Đã đến thời duy lý của Pascal rồi mà cụ còn lần hạt nữa sao ?

– Thế cậu đã gặp Pascal lần nào chưa?

– Dạ, thưa cụ chưa ạ.

– Thế thì tôi là Pascal, người đang nói chuyện với cậu đây.

(Blaise Pascal là khoa học gia, đồng thời là triết gia người Pháp thế kỷ 17).

  1. Còn BÁC HỌC ANDRÉ – MARIE AMPÈRE, nhà vật lý người Pháp thế kỷ 18-19, người đã sáng lập ra môn điện từ học, ngồi trong nhà thờ, miệng lâm râm lần hạt trước sự ngỡngàng của bao nhiêu người. Ông là người đã phát minh ra cách tính cường độ của dòng điện gọi là Ampère. Chính nhà văn Ozanam, người đã thấy Ampère lần hạt và ông ngượngnghịu quỳ xuống bắt chước, sau này đã thường nói với mọi người: “Tràng hạt của ông Ampère đã ảnh hưởng mạnh vào đời tôi hơn tất cả những cuốn sách đạo và bài giảng.”

Đã qua rồi cái nhìn về thời thượng cổ, lúc mà sự sợ sệt được coi là nguyên nhân của tôn giáo. Những phương thuật hồi đầu có thể là huyền hoặc mê tín, sau lại dần dần đưa tới thiên vănhọc, hoá học, y học…và biến thành khoa học. Các nhà bác học xưa nhìn thấy vũ trụ đầy những thần linh, để người thời nay nối bước, dõi theo khoa học, đi tới việc thờ phượng một ChúaTể vũ trụ muôn loài. Tôn giáo không phản khoa học, ngược lại còn dẫn đến khoa học. Trong quá khứ dĩ nhiên có những trì trệ, lầm lỗi, nhưng đâu phải chỉ do tôn giáo. Văn minh tuỳ thuộc cuộc sống và con người, ai chẳng có lúc sai lầm, chậm chạp; Cuộc sống nào đâu mãi thuận buồm xuôi gió? Thái độ và niềm tin của những nhà bác học hữu thần chân chính thậtlàm cho chúng ta xúc động, cảm suy.

GỌI TÊN NHỮNG ÂN SỦNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

GỌI TÊN NHỮNG ÂN SỦNG

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Chúa Nhật Tuần XXVIII – Mùa Thường Niên, Năm C

“Còn chín người kia đâu?”.

Một bà mẹ quê ở tuổi 85, rất hiểu biết. Vào một buổi chiều, con trai bà điện thoại thăm bà. Như mọi khi, trước khi gác máy, bà không quên nói, “Cám ơn con!”. Vậy mà, ba tiếng “cám ơn con” chiều ấy cũng là lời cuối bà dành cho đứa con trai yêu. Và cho đến nay, mỗi ngày dâng lễ, đọc đến chỗ cầu cho các linh hồn, con trai bà không bao giờ quên cầu cho ba mẹ mình. Cũng công bằng thôi! Cậu ấy là Linh mục, một người luôn được mẹ dạy ‘gọi tên những ân sủng!’.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Gọi tên những ân sủng!’, đó cũng là những gì Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay thì thầm với chúng ta. Vì nhiều lúc, chúng ta nhìn mọi sự ‘chúng ta có’, những gì ‘chúng ta là’ gần như là đương nhiên. Ấy thế, trong cuộc đời, không có gì là đương nhiên cả; mọi sự là hồng ân!

Một đôi khi, chúng ta có thể chậm chạp để ‘gọi tên những ân sủng’ đến với mình; chúng ta có thể hài lòng nhại lại với những gì mình thiếu hơn là những gì đã nhận được. Người ta thường viết trên cát những ân phúc và những xúi quẩy thì khắc vào cẩm thạch! Thật là xót xa, nhưng đó là một thực tế và cách nào đó, đây cũng là thái độ của chín người phong cùi được lành sạch vốn quá vô tình trong Tin Mừng hôm nay. Trước thái độ của họ, Chúa Giêsu tỏ vẻ ngạc nhiên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”.

Chín người phong cùi được lành không đủ khả năng biểu lộ chí ít một chút biết ơn; có chăng cũng chỉ hời hợt, chiếu lệ và nông cạn không sâu quá làn da của họ. Dường như chỉ những lở loét bên ngoài nơi họ biến mất, còn bên trong, xem ra chẳng có gì thay đổi. Sau kinh nghiệm đắng cay của những năm tháng tật bệnh mà nay được lành, có lẽ họ sẽ quay về nếp cũ, thói cũ và thái độ cũ. Họ không rút ra một bài học nào từ những đớn đau quá khứ, và đây mới là điều tệ hại, nó tệ hơn cả chứng bệnh gớm ghiếc trước đó; tệ hại này có tên là “Vô ơn!”. Như tướng quân Naaman trong bài đọc thứ nhất, người Sam
ari ngoại giáo đã quay lại để cảm ơn và tôn vinh Chúa. Không chỉ lành lặn bên ngoài, anh được hồi phục bên trong; không chỉ thân xác, nhưng cả linh hồn; không chỉ thể lý, nhưng cả lòng tin. Đọc được điều đó nơi anh, Chúa Giêsu nói, “Anh hãy đứng dậy mà về, lòng tin của anh đã cứu chữa anh!”.

Thánh Bênađô nói, “Sự vô ơn là bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và các tạo vật, là đập ngăn chặn suối nguồn với dòng sông”. Và chúng ta biết, “những lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta”; nuôi dưỡng nơi chúng ta lòng biết ơn. Vì thế, càng sống trong tâm tình tạ ơn và ngợi khen, chúng ta càng được Chúa ban ơn. Và vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn!

Anh Chị em,

“Còn chín người kia đâu?”. Sao họ không trở lại cám ơn Chúa? Vậy nếu quả hai tiếng cám ơn đã trở thành hiếm hoi trên môi miệng chúng ta, thì đây hẳn là một báo động đáng sợ; nó có thể là dấu hiệu của sự cạn kiệt tình Chúa, khô khốc tình người. Bởi lẽ, khi ơn nghĩa bị chối bỏ, thì sự ràng buộc và tình liên đới cũng trở nên mong manh; tình người bị coi thường, niềm tin tôn giáo chỉ còn là một cái gì bên lề vốn còn thua cả thời trang. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta biết ơn trời, biết ơn người, hãy ‘gọi tên những ân sủng!’. Giữa bao hồng ân, hành động ngợi khen và tạ ơn tuyệt vời nhất đối với chúng ta là Thánh Lễ. Trên hết, trong Thánh Thể, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành và ân sủng Chúa ban; đặc biệt, ân phúc lớn lao từ quà tặng của Con Thiên Chúa và tất cả những gì tuôn chảy từ đó. Việc chúng ta tham gia vào hành động tạ ơn tuyệt vời này, giúp duy trì trong chúng ta khả năng nhìn mọi sự bằng con mắt đức tin với một lòng biết ơn sâu sắc nhất định ngay cả trong những nghịch cảnh.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin đừng để con hối tiếc về những gì người khác có mà con không có; cho con biết ‘gọi tên những ân sủng’, những gì đang dẫy đầy mà Ngài đã ban tặng!”, Amen. 

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Có một bệnh phong cùi đáng sợ hơn đó là tội lỗi- Cha Vương

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để hoán cải và trở về với Chúa và những người thân thương của mình. Một ngày bình yên nhé.

Cha Vương

CN: 09/10/2022

TIN MỪNG: Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (Lc 17:12-15)

SUY NIỆM: Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Ai bị bệnh này họ bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân… Bạn biết không? Trong xã hội ngày nay có một loại phong cùi còn nguy hiểm và đáng sợ hơn nữa. Một khi nó xâm nhập vào con người nó sẽ gây tổn thương và làm tan vỡ hạnh phúc không những cho chính đương sự đó và cho cả gia đình, xã hội và những người xung quanh nữa. Bệnh này có những triệu chứng như sau: Ham thích văn hoá phẩm đồi truỵ —“ông ăn chả bà ăn nem” hoặc có tí máu “dê”— lang chạ trong tình ái, nghiện ngập rượu chè ma tuý, cờ bạc, mê tín dị đoan v.v. Nếu những ai mang chứng bệnh phong cùi của thời đại này, họ không tự chữa mình được bạn ạ.  Họ cần phải cậy nhờ vào sức mạnh và quyền năng chữa lành của Thiên Chúa qua việc ăn năn hoán cải, quyết tâm kiên nhẫn cầu nguyện và siêng năng chạy đến bí tích Giải tội để xin ơn chữa lành của Chúa bằng sự quyết tâm từ bỏ. Vậy mỗi khi bị cám dỗ, như người phong cùi hôm nay, bạn hãy kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Nếu bạn hết lòng thành tâm cầu khẩn xin ơn, Chúa sẽ cứu bạn đó.

LẮNG NGHE: Chúa Giê-su nói: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, có một bệnh phong cùi đáng sợ hơn đó là tội lỗi vì nó làm hoen ố tâm hồn, gia đình, cộng đồng và xã hội, xin cho con biết siêng năng chạy đến bí tích Giải tội để được tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này.

THỰC HÀNH: Tự xét mình và nếu được hãy đi xưng tội.  

From: Đỗ Dzũng

 Giáo Hội Công Giáo kêu gọi các tín hữu lần hạt Mân Côi. Tại sao vậy?- Cha Vương 

 Giáo Hội Công Giáo kêu gọi các tín hữu lần hạt Mân Côi. Tại sao vậy?

Cha Vương 

Bạn thân mến, mỗi năm vào Tháng 10 Giáo Hội Công Giáo kêu gọi các tín hữu lần hạt Mân Côi. Tại sao vậy? Kinh Mân Côi mang lại cho bạn những giá trị gì cho phần hồn? Có người nói rằng: “Kinh Mân Côi làm cho cả ngày của tôi bình an hơn, giống như Đức Maria luôn sẵn sàng trợ giúp tôi khi phải đối diện với những điều tồi tệ. Mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tôi ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa”. Cầu nguyện với kinh Mân Côi không làm đau khổ biến mất, nhưng nó cung cấp cho bạn một vũ khí mạnh mẽ hơn để chiến đấu. Nói tóm lại đọc Kinh Mân Côi làm cho một ngày sống của bạn sẽ bình an hơn đó. Mỗi lần Mẹ hiện ra, Mẹ đều kêu gọi ta khẩn trương ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi. Hãy lần hạt Mân Côi ngay, Mẹ sẽ không làm con cái Mẹ thất vọng.

          Nhiều người vì cái nhìn thiển cận và không hiểu biết nên nghĩ rằng, kinh Mân Côi là kinh của bà già, con nít, của kẻ vô công rỗi nghề, của kẻ mê muội ít học, nhưng họ đã lầm. Chính vì hiểu lầm nên họ rất lười đọc kinh Mân Côi, hoặc đọc cách rất hời hợt hững hờ, thậm chí có người không bao giờ thèm đọc.

          Kinh Mân Côi là bộ kinh nguyện kính Đức Mẹ gồm 200 kinh chia làm từng chục. Mỗi chục gồm một kinh Lậy Cha,10 kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Đồng thời mỗi chục kinh để tưởng nhớ một mầu nhiệm liên hệ đến Chúa Giêsu hay Đức Mẹ Maria. Như vậy kinh Mân Côi là kinh suy niệm 20 Mầu Nhiệm, được chia làm 4 Mầu Nhiệm chính mà đặc ngữ Công Giáo gọi là Mùa như Mầu Nhiệm Mùa Vui, Mầu Nhiệm Mùa Thương, Mầu Nhiệm Mùa Mừng, và Mầu Nhiệm Sự Sáng. MÙA VUI suy tư sự kiện Chúa Giáng Sinh. MÙA THƯƠNG tưởng nhớ đến việc Chúa chịu chết trên Thập Giá. MÙA MỪNG tưởng nhớ đến việc Chúa Phục Sinh. MÙA SÁNG  hay Mầu Nhiệm Sự Sáng mới có từ năm 2002 dưới thời ĐGH Gioan Phaolô II, dành để suy niệm cuộc đời Chúa Giêsu khi ra đi giảng đạo từ lúc chịu phép rửa trên sông Jordan tới khi Chúa lập phép bí tích Thánh Thể. Theo tài liệu thì Kinh Mân Côi do Đức Mẹ truyền dậy cho thánh Đa Minh và Giáo Hội cho chính thức phổ biến từ năm 1214. “Kinh Mân Côi là cuốn Tin Mừng rút gọi!” Lý thú quá phải không bạn? Một khi bạn hiểu được những mầu nhiệm tiềm ẩn trong Kinh Mân Côi thì những lời kinh rất đơn sơ, mộc mạc và thành thực không còn là những lời lảm nhảm mà là một cầu nối qua Mẹ đến thẳng Thiên Chúa. Mời bạn đọc Kinh Mân Côi với hết cả tâm tình của mình hôm nay nhé.

Chúc bạn một ngày tràn đầy ân sủng của Chúa qua Mẹ Maria. 

Cha Vương 

Lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10-Cha Vương

Lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10

Mến Chúc Bạn và gia đình một ngày bình an trong Chúa và Mẹ. Cha Thánh Pio khuyên: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì Kinh Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ của thế giới hôm nay.” Mời bạn hãy cầm lấy vũ khí để chống lại sự dữ của thời đại ngày nay nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 07/10

          Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, và kính trọng thể vào ngày Chúa Nhật đầu tháng 10 dương lịch và dâng cả tháng 10 làm “ tháng Mân Côi” kêu gọi các tín hữu lần hạt Mân Côi. Giáo Hội nhờ kinh Mân Côi đã được nhiều ơn lành đặc biệt. Ngày 7 tháng 10  năm 1571 đạo binh Công Giáo đã chiến thắng quân Hồi, toan xông vào xâm chiếm nước Ý, tại vùng Lepante. Đức Giáo Hoàng Piô thứ V đã từ điện Vatican thị kiến trận chiến này. Để ghi nhớ ơn ấy Ngài đã lập lễ “ Đức Bà Thắng Trận” ( Notre Dame de la victoire), sau đổi thành lễ Đức Bà Rất Thánh Mân Côi, và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Đức bà phù hộ các giáo hữu. Cầu cho chúng con.”

          Hai năm sau , năm 1573, Đức Giêgôriô XIII muốn đặc biệt kính nhớ chiến thắng Lepane, đã truyền mừng lễ Mân Côi trọng thể vào Chúa Nhật đầu tháng 10, tại các nhà thờ có hội Mân Côi và bàn thờ kính dâng Đức Mẹ Mân Côi.

          Năm 1716, Đức Clêmentê XI truyền mừng lễ Đức Bà Mân Côi trọng thể trong khắp Giáo Hội, để kính nhớ ơn chiến thắng tại vịnh Belgrade nhờ việc giáo hữu lần hạt Mân Côi kính xin Đức Mẹ. Năm 1888, Đức Lêô XIII quyết định nâng lễ Mân Côi lên bậc “ kép hạng nhất” ( Dup lex primae classis) mừng ngày 7 tháng 10 và kính trọng thể Chúa Nhật đầu tháng 10.

         Ngày 2-2-1974, Đức Phalô VI trong tông huấn “Tôn Sùng Đức Maria” (Marialis Cultus) vẫn nhìn nhận lễ Mân Côi mừng ngày 7 tháng 10 vì lý do chính lễ này là sự tham dự mật thiết của Đức Maria vào những mầu nhiệm Chúa Kitô, mà kinh Mân Côi là điển hình. (MC 8)

        Đến năm 1913, thì lễ này được đức Pio X định vào ngày 7-10 mỗi năm. Tước hiệu “Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu” được thêm vào trong kinh cầu Đức Bà từ đó. ( Nguồn: mạng—mancoichihoa)

        Tôi tớ Chúa (tu sĩ) Joseph Kentenich nói: “Kinh Mân Côi là phương dược hiệu nghiệm cho thời hiện đại. Kinh Mân Côi sẽ ảnh hưởng lên những biến cố của thế giới hơn bất cứ những cố gắng ngoại giao, và cũng có tác động lên đời sống công cộng hơn tất cả mọi cố gắng của bất cứ tổ chức nào.” Vậy hôm nay mời Bạn cộng tác với mình hãy chạy đến Mẹ Maria qua Kinh Mân Côi nhé để cầu nguyện cho cho nền hòa bình trên trên thế giới.

    Sau đây là 15 điều Đức Mẹ đã hứa, qua thánh Dôminicô, cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi. Mời bạn đọc và coi đây là một lời mời khẩn thiết “hãy chạy đến Mẹ!” trong thời gian sáo trộn này.

1- Những ai đọc kinh Mân Côi sẽ nhận được những ơn cao cả.

2- Mẹ hứa sẽ phù trợ đặc biệt, và ban nhiều đặc ân cho những ai đọc kinh Mân Côi.

3- Kinh Mân Côi sẽ là áo mã giáp chống lại hỏa ngục, phá tan các ngụy thuyết.

4- Kinh Mân Côi là phương tiện thánh hóa các linh hồn.

5- Linh hồn nào đến với Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi, sẽ không bị hư mất.

6- Ai đọc kinh Mân Côi sẽ không bị rủi ro, chết bất đắc kỳ tử.

7- Những ai tôn sùng Kinh Mân Côi sẽ được chịu các phép bí tích trong giờ

chết.

8- Ai mộ mền chuỗi Mân Côi, khi lâm tử sẽ được chia sản nghiệp trên thiên

đàng.

9- Mẹ sẽ cứu khỏi luyện ngục cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi.

10- Con cái trung thành với kinh Mân Côi, sẽ được hưởng vinh quang trên trời.

11- Nhờ lần hạt Mân Côi, Mẹ sẽ ban cho hết những gì mình xin.

12- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được Mẹ giúp đỡ trong những lúc khó khăn.

13- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được cả thiên quốc cầu bầu khi sống và khi chết.

14– Những ai đọc kinh Mân Côi đều là con cái Mẹ và anh em với Chúa Giêsu.

15- Tôn sùng chuỗi Mân Côi là dấu chắc chắn được ơn cứu rỗi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=dqdHMUdCOGU

Ave Maria Trăng Từ Bi

From: Đỗ Dzũng

CHO HIỂN VINH DANH NGÀI-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHO HIỂN VINH DANH NGÀI

Thứ Năm Tuần XXVII – Mùa Thường Niên

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”.

George Mueller nói, “Niềm tin không hoạt động trong ‘lãnh địa khả thi’ của con người, nghĩa là nơi con người làm được mọi sự; ở đó, Thiên Chúa chẳng có chút vinh quang nào! Niềm tin chỉ bắt đầu khi sức mạnh của con người kết thúc, và Thiên Chúa có thể khởi sự! Bởi lẽ, Thiên Chúa là tất cả, và tất cả ‘cho hiển vinh danh Ngài!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay làm sáng tỏ ý tưởng của George Mueller! Chúa Giêsu nói, “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”. Vậy mà, không ít người hiểu sai những lời này! Tại sao? Bởi lẽ, cầu nguyện với Chúa, trước hết và trên hết… tất cả chỉ nhằm một mục đích, ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Một số người có thể nghĩ, chúng ta phải cầu nguyện, và cầu nguyện nhiều hơn; để cuối cùng, Chúa sẽ nhậm lời. Một số khác cho rằng, điều này có nghĩa là Chúa sẽ không nhậm lời nếu chúng ta không cầu nguyện đủ chăm chỉ. Và một số khác nữa có thể nghĩ, bất cứ điều gì chúng ta cầu xin sẽ được ban, nếu chúng ta cứ tiếp tục kiên trì khấn xin. Vậy mà không phải vậy!

Chắc chắn, chúng ta nên cầu nguyện chăm chỉ và thường xuyên! Nhưng một câu hỏi quan trọng đặt ra, “Tôi nên cầu nguyện điều gì?”, và đây là chìa khoá! Bởi lẽ, Chúa sẽ không ban những gì chúng ta cầu, bất kể chúng ta cầu bao lâu và chăm chỉ đến đâu, nếu điều đó không nằm trong ý muốn của thánh thiện hoàn hảo của Ngài! Ví dụ, một ai đó bệnh, sắp về với Chúa, và việc cho phép người ấy lìa thế là một phần trong ý muốn của Ngài, thì tất cả những lời cầu nguyện trên thế gian cộng lại vẫn không thay đổi được mọi thứ. Thay vào đó, trong trường hợp này, chúng ta nên cầu nguyện để mời Chúa vào cuộc, vào hoàn cảnh khó khăn này để biến nó thành cuộc ‘tạm biệt’ đẹp đẽ và thánh thiện. Vì vậy, vấn đề không phải là cầu xin cho đến khi thuyết phục được Chúa sẽ làm những gì chúng ta muốn, như một đứa trẻ có thể mè nheo với cha mẹ; đúng hơn, chúng
ta phải cầu nguyện cho một điều và duy nhất một điều, là ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Như vậy, lời cầu nguyện dâng lên không nhằm thay đổi ý định của Thiên Chúa, mà nhằm biến đổi chúng ta, củng cố chúng ta, hầu cho phép chúng ta chấp nhận tất cả những gì Ngài mời gọi chúng ta làm. Đây chính là công việc của Chúa Thánh Thần! Chính Chúa Giêsu bất ngờ xác nhận điều đó ở câu cuối cùng của trình thuật Tin Mừng hôm nay, “Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài”. Thánh Thần cũng là Đấng mà thánh Phaolô trong thư Galata hôm nay nhắc đến, “Đấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em”; cũng là Đấng mà Thánh Vịnh đáp ca bóng bẩy gọi là “Đấng đã viếng thăm dân Ngài!”.

Anh Chị em,

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”. Lời cầu, tiếng gõ khẩn thiết của chúng ta như tiếng gõ vào chính trái tim Thiên Chúa; Ngài không ban điều chúng ta xin, nhưng ban cho chúng ta điều chúng ta cần! Ngài ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng mở ra mọi sự, biến đổi mọi sự! Thánh Thần là quà tặng vượt quá sự hiểu biết của con người; để qua Ngài, chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Thiên Chúa là Cha toàn năng yêu thương, Ngài biết điều cần nhất đối với chúng ta. Và điều cần nhất trên trần gian này là cần chính Ngài, Thiên Chúa; và với Thánh Thần của Ngài, bạn và tôi chu toàn mục đích có mặt của mình trong thế giới này; đó là làm mọi sự ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến đổi mọi sự trong ngoài của con, kể cả việc cầu nguyện. Đừng để con làm mọi sự cho hiển vinh con, nhưng con sẽ làm tất cả ‘cho hiển vinh danh Ngài!’”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 From: KimBang Nguyen

LÒNG BIẾT ƠN – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

LÒNG BIẾT ƠN

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Có một thời, người ta có khuynh hướng bỏ hẳn lời cám ơn trong mối tương quan hằng ngày.  Trong thời bao cấp, những nghi thức giao tế bị coi là những hủ tục và tàn dư của thời phong kiến.  Người ta chủ trương cuộc sống sòng phẳng, không ai mắc nợ ai, cho nên không ai phải cám ơn ai.  Hậu quả là những gương mặt khô như ngói ở những văn phòng hành chính, những cái nhìn lạnh nhạt ở nơi công cộng, và những lời nói trống không trong giao tiếp với những người lớn tuổi hơn mình.  Cuộc sống thiếu lời cám ơn sẽ trở nên khô khan, đơn điệu, giống như vườn thiếu cây xanh.  Lược bỏ phép lịch sự sẽ biến cuộc sống này thành sa mạc hoang dã.  Có lẽ vì đã nhận ra hậu quả đáng tiếc của quan niệm này nên gần đây, một số cơ quan mở những lớp dạy cười, dạy nói lời cám ơn, và chào hỏi cho nhân viên của mình.

Biết nói lời cám ơn nhau, con người cũng cần thể hiện lòng biết ơn đối với Thượng Đế.  Đó là một trong những mục đích quan trọng của các tôn giáo.  Đó cũng là nội dung của lời cầu nguyện Kitô giáo.  Thông thường, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn.  Ít khi chúng ta bày tỏ lòng khâm phục, tri ân và mến mộ đối với Chúa và các thánh.  Chúa Giêsu hôm nay khiển trách những người cùi đã được ơn mà không biết cảm tạ Thiên Chúa.  Trong mười người cùi được ơn chữa lành, duy nhất có một người quay lại tạ ơn Chúa Giêsu mà người đó lại là người ngoại.  Khi ghi lại lời phàn nàn của Chúa, chắc hẳn Thánh Luca cũng nhằm phê phán những người Do Thái luôn cậy mình là dân riêng của Chúa nhưng lại không sống đúng với danh dự cao quý đó.  Không những thế, họ lại coi thường những người ngoại.  Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, một người ngoại lại mang một tâm hồn đạo đức và biết tạ ơn Chúa.  Và như thế, người ấy không còn phải là “người ngoại” nữa, vì đã biết dâng lời tạ ơn Chúa và nhận ra quyền năng của Ngài.  Ý tưởng này, chúng ta cũng thấy trong sách Các Vua quyển thứ hai, với trường hợp ông Naaman, một vị tướng của Syria.  Sau khi được chữa khỏi, dù là người ngoại, ông đã trở thành một “tín hữu” vì ông tuyên xưng Thiên Chúa của người Israel là Thiên Chúa thật: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”  Việc xin một khối lượng đất đủ hai con la chở được để đem về quê hương đã chứng minh niềm tin chân thành ấy.

Nhờ biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, chúng ta luôn nhận ra Ngài hiện diện trong cuộc đời.  Việc tạ ơn Chúa cũng giúp chúng ta nhìn cuộc sống lạc quan hơn, bởi vì vũ trụ và cuộc sống này là do Chúa tạo dựng.  Ngài kêu gọi chúng ta bằng khả năng của mình, cộng tác với Ngài để tô điểm cho trần gian thêm tươi đẹp.  Nếu cuộc sống trần gian còn nhiều khiếm khuyết là do con người chưa thiện chí cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài.  Thậm chí có người còn đi ngược với chương trình sáng tạo của Chúa, phá vỡ sự hài hòa của môi trường cuộc sống và gây tai họa cho đồng loại cũng như cho thiên nhiên.  Một khi sống tâm tình tạ ơn và tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban những ơn cần thiết phần hồn phần xác.  Thiên Chúa như người cha yêu thương con cái.  Ngài biết chúng ta cần thiết những gì.  Ngài cũng biết rõ những gì đem lại ích lợi đích thực và lâu dài cho chúng ta.  Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn lành, theo ý của Ngài và nhằm đến những điều tốt đẹp cho mỗi chúng ta.  Cách đây vài ngày (ngày 4-10), chúng ta vừa mừng kính thánh Phanxicô thành Assisi, cũng gọi là thánh Phanxicô khó khăn.  Thánh nhân là người yêu thiên nhiên vũ trụ, vì qua thiên nhiên, ngài khám phá ra sự hiện diện quyền năng của Chúa.  Nếu những loài cỏ cây, những bông hoa vô danh nhỏ bé mà còn được Chúa trang điểm yêu thương săn sóc như thế, huống chi con người chẳng lẽ Chúa không thương.  Dưới cái nhìn của vị thánh nghèo, mọi vật mọi loài đều luôn cất tiếng ca tụng Chúa, làm thành một bản giao hưởng bất tận tuyệt vời.

Lòng biết ơn đối với Chúa không chỉ dừng lại ở ngôn từ nơi môi miệng, nhưng phải thể hiện qua việc tuân giữ giáo huấn của Người.  Cũng như trong mối tương quan trong gia đình, con cái không thể chỉ biết ơn cha mẹ bằng những lời khuôn sáo, mà lòng biết ơn và yêu mến cha mẹ cần phải được chứng tỏ bằng những việc làm đích thực.  Tuân giữ Lời Chúa là cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất.  Một khi chú tâm tuân giữ Lời Chúa, chúng ta mới có khả năng thông truyền Lời Chúa cho anh chị em mình.

Tin vào lòng thương của Chúa giúp chúng ta kiên vững trong gian nan đau khổ.  Thánh Phaolô, một tù nhân vì Chúa Giêsu, đã khích lệ con thiêng liêng của mình là Timôthê.  Ngài khẳng định: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa luôn trung thành.

“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”  Lời cầu xin thống thiết kèm theo sự xác tín của những người cùi đã được Chúa nhận lời.  Họ đã được lành bệnh sau khi đi trình diện với các tư tế theo Luật ông Môisen đã quy định.  Người tín hữu khi đến với các linh mục là những tư tế của Tân Ước để thú nhận mọi tội lỗi nơi tòa giải tội cũng được Chúa tha thứ và chữa lành.  Qua hành động trung gian của các linh mục, chính Chúa Giêsu chúc lành và nâng đỡ chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể trở lại hòa nhập với đời sống cộng đoàn, nhất là chúng ta được nối kết trong mối tình thân thiêng liêng với Chúa, nhờ lòng yêu mến thiết tha mà chúng ta bày tỏ với Người.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU

Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Với một con người trước đây là một đảng viên cấp cao, đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế vốn nhiều bóng tối. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời… để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội”, mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.

Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây hoàn toàn là những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị Yến đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur…”. Giờ đây, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.

  1. CON NGƯỜI.

Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngọai thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyên xưa, Chị Yến cười nói : “Em nói …nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: “Em ủng hộ anh nhé !”. Nói sao đây, thôi đành kệ anh !”.

Tháng 2 năm 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và… mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày… để biền biệt đi mãi… – chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông Cha vợ một phen “sốc” lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở Khu điều trị phong Qùynh Lập. Chị Yến tâm sự : “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh…. Đến giờ Soeur biết không… gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng !… ” (bây giờ bệnh hoạn, chị Yến một tay nuôi chồng…).

Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Có dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ rạng rỡ vui mừng khoe một trong những “thắng lợi”của chuyến đi nầy: “Một Bác Sĩ Mỹ tặng tòan bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo : về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ !…”. Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội …chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại nầy. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn nầy, Bác Sĩ cho biết:” Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn nầy …và Nhạc Sư của tôi là Thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ người phong Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần lẫn vật chất để đến với người phong.

CON NGƯỜI Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu : Người Bác Sĩ “điên khùng” và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với…hủi. Một người khùng đáng yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người “xúc cảm với bệnh nhân phong”. Người ta chỉ “xúc cảm” với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp !… Một Nhà Khoa Học với tâm lòng nhân hậu… Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trong trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố ; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể : “Một lần mình được Bộ Trưởng Y tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp Ông ta, ông liền nói : “Ah! Anh Ngoạn ơi ! Người ta thường khi gặp ông lớn thì ngưới ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh.” Bác Sĩ trả lời : “Lương đối với tôi tương đối đủ sống !… Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân …”. Và Bác Sĩ đã không xin gì cả.

Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hịêp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc tế Gandhi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thơ đề ngày 9 tháng 10 năm1995: “…Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản …”. Sau đó qua các cơ quan Y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn : “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của Anh Ngoạn. Đề nghị Anh Ngoạn làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, của ngành và cá nhân. Sau nầy Anh Ngoạn dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư nầy, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết :” Quỳnh Giao có biết Bộ trưởng nói gì với tôi không ?Anh nhận đi, 1 phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ (giải thưởng là 30.000 USD)”. Tôi buộc phải trả lời : “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lòi : “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu nầy mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng, vì họ quan niệm chấp nhận sự ca tụng cũng có nghĩa là chấp nhận một tội ác”. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản : “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của dòng tu nầy đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về một bà sơ Charles Antoine, nguyên là Giám Đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống.”

  1. SỰ NGHIỆP…. :

1/ Quỳnh Lập :

Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc. Khoảng 2600 bệnh nhân đã sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ : “Có lẽ khởi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa… đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều. ”

Bác Sĩ tiếp : “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị hủi là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục : thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu : “đã hấp chín”; có nơi ngưòi bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc -Quỳnh Lập- nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số !. Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm Giám Đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi, làm nhân viên”.

Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc –lần nầy không còn có thể trốn vợ như truớc bởi đã 40 tuổi và là cha của ba người con – hai trai một gái. Sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ còn một đống tan hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong những túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.

Qua tiếp xúc với họ Bác Sĩ Ngoạn hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.

2/Quy Hòa :

Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Qui Hòa–Qui Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, được thành lập từ năm 1929, Qui Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện phim với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng.

Chấp nhận làm Giám Đốc bệnh viện mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hằng ngàn cây số ! Bác Sĩ Ngoạn không có “mộng ước làm quan”, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện dịch tể Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.

Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiềt để có khả năng phát hiện bệnh sớm.

Nhân làm Giám Đốc Qui Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều nầy sẽ giúp quan niệm của ông là xoá bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Qui Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình. 12% của con đường trị giá vài tỉ là món tiền không nhỏ. Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo vịêc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu ! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… Và một ngày kia … cũng chẵn 10 năm làm Giám Đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc vì “không đủ khả năng làm quản lý” …và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm…tạp vụ.

Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một thể chế bất công, dành giựt quyền hành mà không sợ chà đạp trên danh tánh và lương tri của một con người. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do! Giữa hai làn bom đạn, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai, và vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.

3/ Biến cố 23 tháng 10.1984 tại Phú Khánh :

Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự. Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin. Ông bèn nói : “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không ?” – “Đuợc vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”. Cuộc thí nghiệm đựơc bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều Bác Sĩ chuyên khoa của Bệnh Viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường : nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khuỷu tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn nầy dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ.

Với biến cố nầy Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân phong.

4/Vụ Điều Trị của Bộ :

Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.

III….. VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM :

1/ Một lòng yêu thương người phong hủi :

Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI nầy. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những người Kitô hữu và Tu sĩ, không biết chúng ta đã làm được chưa ?

Trong cuộc đời bình thường, BS là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói : “Không hiểu sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Quỳnh Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình”…!”. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong… để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài !… Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ để cống hiến cho tha nhân. Bác Sĩ sẵn sàng đến với thế giới phong hủi để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng…

2/Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý :

Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các Nữ Tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc…Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau …” Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo! …

Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, nghành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp… thì tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, của Chân lý, là chính Thiên Chúa.

3/ Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ :

Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển sách : “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.

Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa nầy. Lúc nầy nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội ! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên !” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998 : “…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung… đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng… là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập…”. Suốt một cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.

“Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn nầy cũng sống rất khắc khổ và ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói : “ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua. Ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời : “Không, không sắm gì, chỉ xin đươc một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit !… Bác Sĩ nói : “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”.

Không hút thuốc, không rượu chè café. Bia chỉ uống một lon khi cần. Do nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ như tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà sơ “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”.

Đó là tác phong và y đức của một người thầy thuốc, quả là hiếm có trong thời buổi nầy.

  1. CHẶNG DỪNG CHÂN :

Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.

Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phuc vụ tại Qui Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai con dâu cũng Bác Sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình…

Nhờ có dịp ra công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm viếng Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò, là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn nói lên lời ưng thuận “Theo Chúa”, rõ ràng, dứt khoát. Truớc đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp biếu tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn… Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rât thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh nầy, chị Quỳnh Giao có biết không? Các anh cán bộ vào nhà cứ hỏi hình nầy là ai ?… Sao không treo hình Bác Hồ nơi chính của căn nhà ?..

Một tháng trước khi đi Anh, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “công giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ uớc thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô.

Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thỏang hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm… Lần nầy, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói truớc, ông làm một mạch không ngừng –người vốn ít nói- : “Tôi muốn được nhận lãnh bí tích thanh tẩy. Một ngày lễ của Đức Mẹ… Sớm nhất…v. v…”. Tôi hỏi : “Vậy Chị có đồng ý không ?” –“Không chịu tôi cũng làm ! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc nầy. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm nghi thức tại Qui Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh nầy… và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình truớc các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được biết tin, đề nghị để Ngài chủ sự trao ban bí tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến viếng thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel và Phục Sinh, rồi còn chụp hình với Bác Sĩ, điều này làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi người.

Biến cố vĩ đại nầy mà tôi đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi uớc mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao nầy mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao ? Ngài mời gọi ai đây phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thóang, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội….

Một ngày nọ, chị Madeleine Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “Vì chỉ có em mới ngăn đươc Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó !…”. Thì ra có biến cố đã xảy ra vì “ước muốn nầy”.

Không hiểu làm sao “người khác” lại biết rõ chuyện nầy, để khi người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở đi làm lại, thì Bác Sĩ Giám Đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài…”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta đươc hỏi “Có phải bố sắp theo đạo phải không ?”. Người con cả là Bác Sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần nầy được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng : “Gia đình cháu có Bác Sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước. Cháu nên vào Đảng để có cơ hội đóng góp nhiều hơn”… và nhiều chuyện khác nữa…

Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, các Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị ảnh hưởng gì. ĐTGM/Hà Nội cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất… Tôi chỉ được thêm thôi !…”. Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, – dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói : “Soeur đề nghị làm tại CĐ của Soeur tại Nam Định …. như thế có vẻ lén lút. Mà đây không có gì phải lén lút cả !”. Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi : “Một đời em đã làm theo ý anh. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh… Mai nầy êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hòan toàn toại nguyện”… Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.

Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn đã nhận lãnh bí tích thanh tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao và được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội Ngài. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm, thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm nầy được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện nầy đáng ra phải được công khai và công nhận…

Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó …làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó”  phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện ?

Khi còn trò chuyện đuợc, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Hà Nội sẽ nói điều gì ? Bác Sĩ trả lời : “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh. ”

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

7 ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT VỀ THÁNH FAUSTINA VÀ THỊ KIẾN CỦA THÁNH NỮ VỀ HOẢ NGỤC

7 ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT VỀ THÁNH FAUSTINA VÀ THỊ KIẾN CỦA THÁNH NỮ VỀ HOẢ NGỤC

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

Trong khi người Công giáo trên khắp thế giới đã quen thuộc với Thánh Faustina Kowalska và mối liên hệ của thánh nữ với Lòng Chúa Thương Xót, thì có thể nhiều người lại không biết về cách mà Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ về ơn gọi, hoả ngục và sứ mệnh của ngài trong việc rao truyền lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dưới đây là bảy sự kiện quan trọng cần biết về vị thánh nổi tiếng này:

  1. Tênthánh của thánh nữlà Helena.  Thánh Maria Faustina Kowalska Thánh Thể sinh ra tại Ba Lan với tên gọi Helena Kowalska vào ngày 25 tháng 8 năm 1905.  Thánh nữ qua đời vào ngày 05 tháng 10 năm 1938, sau khi được Chúa Giêsu và Mẹ Maria chọn để trở thành tông đồ đầy bất ngờ về Lòng Chúa Thương Xót.  Thánh nữ đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.  Ngày lễ của thánh nữ là ngày 05 tháng 10.
  1. Thánh nữ vốnkhông định trở thành một nữ tu.  Cô gái trẻ Helena không có ý định bước vào đời sống tu trì, nhưng ở tuổi 19, trong khi tham dự một buổi khiêu vũ với chị gái Natalia ở Lodz, thánh nữ đã có được một thị kiến về Chúa Giêsu đau khổ, Người đã hỏi thánh nữ: “Ta sẽ chịu đựng con trong bao lâu nữa và con sẽ lảng tránh Ta trong bao lâu nữa đây?”  Sau khi cầu nguyện tại Nhà thờ Chánh toà, thánh nữ đã khởi hành đi Warsaw, nơi thánh nữ gia nhập Dòng các Nữ tu của Đức Mẹ Từ Bi (Congregation of the Sisters of Our Lady of Mercy).  Vào ngày 30 tháng 4 năm 1926, ở tuổi 20, thánh nữ được nhận tu phục và tên dòng của mình.
  1. Chúa Giêsu đã mô tả cho thánh nữ bức hìnhLòng Chúa Thương Xót của Người

Thánh Faustina đã viết rằng vào đêm Chúa Nhật, ngày 22 tháng 2 năm 1931, khi đang ở trong phòng riêng của mình ở Plock, Ba Lan, sau khi chưa hoàn toàn bình phục từ căn bệnh lao phổi, Chúa Giêsu đã hiện ra trong một trang phục màu trắng với những tia sáng đỏ và xanh nhạt phát ra từ trái tim của Người.  Theo nhật ký của thánh nữ, Chúa Giêsu bảo thánh nữ “Hãy vẽ một bức hình theo mẫu mà con nhìn thấy, với hàng chữ: ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa’ [bằng tiếng Ba Lan: ‘Jezu, ufam Tobie.’]  Ta ước mong hình ảnh này được tôn kính, trước tiên là trong nhà nguyện của các con, và sau đó là trên toàn thế giới.  Ta hứa rằng linh hồn nào tôn kính bức hình này sẽ không bị hư mất.”

  1. Thánh nữđã nhìn thấy một thị kiến về hoả ngục.  Vào tháng 10 năm 1936, trong một cuộc tĩnh tâm kéo dài 8 ngày, thánh nữ đã được một thiên thần dẫn đến nơi mà ngài gọi là “những vực sâu hoả ngục”, nơi mà thánh nữ đã mô tả trong nhật ký của mình rằng đó là một nơi của những “hình khổ cùng cực” và “lửa sẽ xuyên qua linh hồn mà không hủy diệt nó – một sự đau khổ khủng khiếp.”  Hoả ngục này vốn tràn ngập bóng tối, và mặc cho bóng tối đó, “ma quỷ và các linh hồn bị đày đọa đều nhìn thấy nhau và nhìn thấy tất cả những điều tội lỗi, cả của người khác và của chính họ.”
  1. Thánh nữđã được cho thấy những mức độ khác nhau của hoả ngục.  Theo Paul Kengor, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Grove City và là một cộng tác viên của hãng tin National Catholic Register, thánh Faustina “đã quan sát thấy những tầng địa ngục giống như của Dante vốn dành riêng cho những đau đớn cụ thể đáng phải gánh chịu từ cái thế giới sa đọa này.”  Thánh Faustina cũng đã ghi lại trong nhật ký của mình rằng: “Có những hang hốc và hố sâu cực hình, ở đó hình thức đau khổ này khác với hình thức đau khổ kia.”  “Còn có những hình khổ đặc biệt dành riêng cho từng linh hồn.  Đây là những hình khổ về giác quan.  Từng linh hồn phải chịu những hình khổ kinh khủng không sao tả được, liên quan đến cách mà họ đã phạm tội.”
  1. Hầu hết những linh hồn trong hoả ngục vốn đãkhông tin vào hoả ngục.  Thánh Faustina đã nói rằng những gì mìnhđang chia sẻ chỉ là “một cái bóng mờ nhạt so với những gì tôi đã nhìn thấy.  Nhưng tôi xin lưu ý một điều: hầu hết các linh hồn trong hỏa ngục là những linh hồn đã không tin có hỏa ngục.”  Thánh nữ đã chứng thực trong nhật ký của mình rằng: “Tôi, nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã xuống những vực thẳm hỏa ngục để có thể nói cho các linh hồn biết về hỏa ngục và chứng minh sự hiện hữu của nó.”
  1. Thị kiến của thánh nữlà nhằm để cứu vớt các linh hồn.  Kengor nói rằng, “Những thị kiến đáng sợ này cũng vang vọng một tính cấp bách rõ ràng đối với lòng thương xót.  Thông qua những thị kiến này cùng với các sứ giả của chúng, Thiên Chúa đang cho chúng ta thêm một cơ hội nữa.  Chúng ta đang được cảnh báo rằng phải chỉnh đốn bản thân, phải ngừng việc phạm tội và phải cố gắng ăn năn đền tội, trước khi quá muộn.”

Alejandro Bermudez – Nguồn: Catholic News Agency (05/10/2021)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên      

From: Langthangchieutim

THƯƠNG XÓT CÒN CÓ TÊN LÀ “CÙNG ĐAU ĐỚN”-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THƯƠNG XÓT CÒN CÓ TÊN LÀ “CÙNG ĐAU ĐỚN”

Thứ Hai Tuần XXVII – Mùa Thường Niên

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” – “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy!”.

Ngày kia, một tín hữu trí thức nói với một mục sư vốn thường giảng rất dài, “Bài giảng của ngài nhắc nhở tôi về lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi nghĩ, ‘nó’ sẽ tồn tại mãi mãi; bởi lẽ, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’. Câu nói sâu sắc pha chút mỉa mai của người tín hữu kia được gặp lại trong phần kết của Tin Mừng hôm nay; câu hỏi của Chúa Giêsu và câu trả lời của người thông luật, “Ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”; ông không trả lời, “Người Samaritanô!”, thay vào đó là, “Kẻ đã tỏ lòng thương xót!”. Thương xót mới là trọng tâm, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.  

Thật dễ dàng để phán xét và khắc nghiệt với người khác. Đọc báo, nghe tin tức… chúng ta bội thực bởi những lời phán xét và lên án liên tục. Về mặt này, bản chất con người sa ngã dường như phát triển một cách ‘xuất sắc’; vì ai cũng có thể chỉ trích người khác một cách dễ dàng. Hoặc khá hơn, khi không chì chiết, phê phán, chúng ta lại rơi vào cám dỗ để hành động như thầy Lêvi và vị tư tế; chúng ta làm ngơ trước những người cần cứu giúp. Vậy điều quan trọng là phải luôn thể hiện lòng thương xót và thể hiện nó một cách siêu việt, anh hùng; nói cách khác, thương xót là phải chịu thiệt, chịu mất thời giờ, vì ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.    

Ơn gọi của mỗi người chúng ta là trở nên khí cụ của lòng thương xót Chúa. Giữa biển khơi của một thế giới tục luỵ ích kỷ, các Kitô hữu phải là những quần đảo xót thương! Và để lòng thương xót đó có thể trở nên chính hiệu, nó phải đau đớn, phải “tổn thương” thực sự theo nghĩa đòi hỏi bạn phải buông bỏ lòng kiêu hãnh, ích kỷ và giận dữ. Thay vào đó, bạn chọn cách thể hiện yêu thương đến mức nó khiến bạn đau đớn. Tuyệt vời thay! Chính sự tổn thương đó lại là nguồn chữa lành hiệu nghiệm; qua đó, nó giúp bạn tẩy sạch tội lỗi mình. Mẹ Têrêxa nói, “Tôi đã tìm thấy một nghịch lý! Rằng, nếu bạn yêu cho đến khi đau đớn, thì không thể có thêm tổn thương nào nữa; lúc ấy, bạn chỉ có thể yêu và yêu nhiều hơn!”. “Chỉ có thể yêu và yêu nhiều hơn” là loại tình yêu thoạt đầu có thể tổn thương, nhưng cuối cùng, nó chỉ để lại tình yêu và tình yêu!

“Yêu cho đến khi đau đớn, để không thể có thêm tổn thương nào nữa” chính là hoạt động của ân sủng vốn phát xuất từ Đấng đã từng “yêu cho đến cùng”. Trên thập giá, Đức Kitô không thể có thêm tổn thương nào nữa! Chính xác hơn, với Đức Kitô Phục Sinh, nói như thánh Phaolô, “Tội lỗi và sự chết không còn làm chi được Ngài!”.

Anh Chị em,

“Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Người Samaritanô, “kẻ đã tỏ lòng thương xót”, chính là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Xót Thương; và nạn nhân chính là hình ảnh của cả nhân loại đáng thương; và dĩ nhiên, đó còn là phiên bản của chính bạn và tôi! Khi chúng ta không thể tự cứu mình, khi bạn và tôi bị Thiên Chúa ghẻ lạnh vì tội lỗi chúng ta gây ra, thì chính Chúa Kitô trong tình yêu của Thiên Chúa đã dừng lại để cứu lấy chúng ta. Với Chúa Giêsu, thương xót không chỉ là xúc động hay những tiếc xót đầu môi, nhưng còn chịu đau khổ cùng, liên lụy cùng; nơi Ngài, hình ảnh đó thật đẹp và rõ nét! Ngài đã mang thay những vết thương, để chúng ta được chữa lành; chịu sửa phạt thay, để chúng ta được bình an. Trên thập giá, Ngài đã thể hiện tất cả; ở đó, Ngài định hình và đặt tên cho thương xót, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’. “Hãy đi và làm như vậy!”, Ngài đang nói với bạn và tôi hôm nay!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến những khoảnh khắc đau đớn của con thành những khoảnh khắc tuyệt vời của ân sủng; hầu con có thể chỗi dậy, trở nên quà tặng tình yêu Chúa cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

From: KimBang Nguyen

  Khi ta chết, xảy ra điều gì?-Cha Vương

Khi ta chết, xảy ra điều gì?

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để sống thánh thiện hơn. Xin bạn hãy tiếp tục cầu nguyện cho nạn nhân chiến tranh và bão lụt nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 03/10/2022

GIÁO LÝ:  Khi ta chết, xảy ra điều gì? Khi ta chết, hồn lìa xác, xác thối rữa, hồn đến gặp Thiên Chúa, và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận thế.  (YouCat, số 154)

***[Chú giải: Sau khi chết, mỗi người tức khắc sẽ chịu cuộc xét xử. Cuộc xét xử này được gọi là cuộc xét xử riêng. Còn đến ngày sau hết, sẽ xảy ra một cuộc xét xử được gọi là cuộc xét xử chung, khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang của Người.

(1) Phán xét riêng: Ngay sau khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị luận phạt đời đời, tùy theo đời sống của mình trong tương quan đối với Đức kitô. Linh hồn hoặc thân xác phải trải qua cuộc thanh luyện hoặc được hưởng hạnh phúc trên trời hoặc sa địa ngục vĩnh viễn (GLCG 1022).

(2) Phán xét chung: Phán xét chung sẽ được diễn ra ngay sau khi mọi người đã chết được sống lại, người công chính cũng như người có tội.]

SUY NIỆM: Xác ta sẽ sống lại thế nào, đó là một mầu nhiệm. Một hình ảnh có thể giúp ta hiểu: khi ta xem thấy củ của cây hoa tulip, ta không biết nó sẽ phát triển thành hoa rực rỡ thế nào trong đất. Đối với ta cũng thế, ta cũng không biết gì về vẻ bề ngoài tương lai của thân xác mới của ta. Thánh Phaolô quả quyết chắc chắn rằng: người ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang (1 Cr 15,43a). Nhưng có người sẽ nói, kẻ chết chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết rồi mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý ngài muốn: giống nào hình thể ấy. (1 Cr 15,35) (YouCat, số 154 t.t.)

❦ Ngay thân xác cũng có một chỗ nơi Thiên Chúa. (Đức Bênêđictô XVI, 15-8-2005)

❦ Tôi muốn thấy Thiên Chúa và để thấy Thiên Chúa, tôi phải chết. (Thánh Têrêsa Avila)

LẮNG NGHE: Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Ga 14:6)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin tăng thêm lòng tin tưởng và cậy trông vào quyền năng của Chúa để mỗi chọn lựa của con hôm nay đều quy hướng về Chúa và cuộc sống mai sau để khỏi bị án phạt đời đời.

THỰC HÀNH: Khi đã chết rồi bạn không còn làm gì cho mình được nữa, mời bạn hãy chuẩn bị cho cái chết của mình ngay lúc mình còn đang sống qua những việc lành phúc đức và xa lánh dịp tội nhé.

From: Đỗ Dzũng

 Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

 Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

Chúc bình an! Mừng Lễ Thiên Thần Bản Mệnh nhé. 

Cha Vương

CN: 02/10/2022

Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. (Xuất Hành 23:20)

           Giáo Hội Công Giáo dành ngày 02/10 hằng năm để mừng kính các Thiên thần Bản mệnh. Vào năm 1670, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đã thiết lập lễ này cho toàn thể Giáo Hội để tôn kính các đấng vô hình luôn ngày ngày bảo vệ chúng ta. Trong khi đa số chúng ta chỉ chú ý đến các Thiên thần Bản mệnh cá nhân, truyền thống Giáo Hội (được các nhà thần học như Thánh Tôma Aquinô giảng dạy) cho biết rằng các quốc gia, các thành phố, các giáo phận, các giáo xứ đều có Thiên thần Bản mệnh riêng, có những người, những nơi còn có nhiều vị Bản mệnh. Các ngài là những thụ tạo đẹp đẽ của Thiên Chúa, được ẩn giấu trong một mầu nhiệm kỳ vĩ. Báo chí nhiều khi tường thuật chuyện có một người huyền bí xuất hiện để giúp đỡ trong các vụ tai nạn rồi sau đó không bao giờ xuất hiện lại nữa. Chúng ta mắc nợ Thiên thần Bản mệnh của chúng ta rất nhiều, người hằng bảo vệ, chỉ dẫn chúng ta mà chúng ta không biết. Các ngài can thiệp vào đời sống chúng ta cách âm thầm, hoàn thành tác vụ của mình cách khiêm tốn nhất có thể. [Sau đây là] 5 sự thật về Thiên thần Bản mệnh:

  1. Mỗi một người trên thế giới đều có một Thiên thần Bản mệnh (dù là Kitô hữu hay không)
  2. Thiên thần Bản mệnh được ban ngay từ đầu đời
  3. Thiên thần Bản mệnh có tên, và chỉ mình Thiên Chúa biết tên của các vị
  4. Chúng ta sẽ không trở thành Thiên thần sau khi chết
  5. Thiên thần Bản mệnh luôn ở đây để giúp đỡ chúng ta

          Mike Aquilina, một nhà giáo sử nổi tiếng, viết về những kinh nghiệm của bạn ông liên quan đến thiên thần giúp đỡ như sau: “Một người bạn của tôi, một nhà triết học nổi tiếng từng học ở Harvard, là người vô thần từ trẻ. Một hôm, khi anh ta đang bơi ngoài biển thì bị sóng cuốn ra khơi. Anh ta biết mình đang chìm xuống, không hy vọng được ai cứu nữa. Đột nhiên, một cánh tay mạnh mẽ nắm lấy anh và kéo vào bờ. Người nắm lấy anh là một chàng trai vạm vỡ. Anh bạn vừa chết hụt định cám ơn người thanh niên kia thì anh thanh niên cười và biến mất. Từ lúc đó, anh bạn của tôi bắt đầu con đường quay trở về đức tin.” 

        Giáo lý gọi các Thiên thần Hộ thủ là các mục tử luôn muốn bảo vệ và dẫn dắt con người vào sự sống đời đời. Công tác duy nhất của các vị là giúp chúng ta vào Thiên đàng, nên chúng ta hãy cầu nguyện cùng các vị mỗi ngày, xin các vị giúp đỡ chúng ta trong mọi vấn đề của cuộc sống. (Nguồn: Công Giáo Infor-Gioakim Nguyễn dịch)

         Mời Bạn đọc Kinh Thiên thần Bản Mệnh mỗi ngày với hết lòng tin tưởng để xin Thiên thần Bản Mệnh luôn luôn gìn giữ Bạn: “Lạy Thiên thần Chúa là Thiên thần Bản mệnh yêu dấu của con. Nơi ngài Chúa ban tình yêu của Người cho con. Mỗi ngày, xin ngài hãy ở cạnh bên con để soi sáng và canh giữ, để điều khiển và hướng dẫn con. Amen.”

Dành thời gian để trò chuyện với Thiên Thần Bản Mệnh của bạn hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng