Lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10-Cha Vương

Lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10

Mến Chúc Bạn và gia đình một ngày bình an trong Chúa và Mẹ. Cha Thánh Pio khuyên: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì Kinh Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ của thế giới hôm nay.” Mời bạn hãy cầm lấy vũ khí để chống lại sự dữ của thời đại ngày nay nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 07/10

          Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, và kính trọng thể vào ngày Chúa Nhật đầu tháng 10 dương lịch và dâng cả tháng 10 làm “ tháng Mân Côi” kêu gọi các tín hữu lần hạt Mân Côi. Giáo Hội nhờ kinh Mân Côi đã được nhiều ơn lành đặc biệt. Ngày 7 tháng 10  năm 1571 đạo binh Công Giáo đã chiến thắng quân Hồi, toan xông vào xâm chiếm nước Ý, tại vùng Lepante. Đức Giáo Hoàng Piô thứ V đã từ điện Vatican thị kiến trận chiến này. Để ghi nhớ ơn ấy Ngài đã lập lễ “ Đức Bà Thắng Trận” ( Notre Dame de la victoire), sau đổi thành lễ Đức Bà Rất Thánh Mân Côi, và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Đức bà phù hộ các giáo hữu. Cầu cho chúng con.”

          Hai năm sau , năm 1573, Đức Giêgôriô XIII muốn đặc biệt kính nhớ chiến thắng Lepane, đã truyền mừng lễ Mân Côi trọng thể vào Chúa Nhật đầu tháng 10, tại các nhà thờ có hội Mân Côi và bàn thờ kính dâng Đức Mẹ Mân Côi.

          Năm 1716, Đức Clêmentê XI truyền mừng lễ Đức Bà Mân Côi trọng thể trong khắp Giáo Hội, để kính nhớ ơn chiến thắng tại vịnh Belgrade nhờ việc giáo hữu lần hạt Mân Côi kính xin Đức Mẹ. Năm 1888, Đức Lêô XIII quyết định nâng lễ Mân Côi lên bậc “ kép hạng nhất” ( Dup lex primae classis) mừng ngày 7 tháng 10 và kính trọng thể Chúa Nhật đầu tháng 10.

         Ngày 2-2-1974, Đức Phalô VI trong tông huấn “Tôn Sùng Đức Maria” (Marialis Cultus) vẫn nhìn nhận lễ Mân Côi mừng ngày 7 tháng 10 vì lý do chính lễ này là sự tham dự mật thiết của Đức Maria vào những mầu nhiệm Chúa Kitô, mà kinh Mân Côi là điển hình. (MC 8)

        Đến năm 1913, thì lễ này được đức Pio X định vào ngày 7-10 mỗi năm. Tước hiệu “Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu” được thêm vào trong kinh cầu Đức Bà từ đó. ( Nguồn: mạng—mancoichihoa)

        Tôi tớ Chúa (tu sĩ) Joseph Kentenich nói: “Kinh Mân Côi là phương dược hiệu nghiệm cho thời hiện đại. Kinh Mân Côi sẽ ảnh hưởng lên những biến cố của thế giới hơn bất cứ những cố gắng ngoại giao, và cũng có tác động lên đời sống công cộng hơn tất cả mọi cố gắng của bất cứ tổ chức nào.” Vậy hôm nay mời Bạn cộng tác với mình hãy chạy đến Mẹ Maria qua Kinh Mân Côi nhé để cầu nguyện cho cho nền hòa bình trên trên thế giới.

    Sau đây là 15 điều Đức Mẹ đã hứa, qua thánh Dôminicô, cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi. Mời bạn đọc và coi đây là một lời mời khẩn thiết “hãy chạy đến Mẹ!” trong thời gian sáo trộn này.

1- Những ai đọc kinh Mân Côi sẽ nhận được những ơn cao cả.

2- Mẹ hứa sẽ phù trợ đặc biệt, và ban nhiều đặc ân cho những ai đọc kinh Mân Côi.

3- Kinh Mân Côi sẽ là áo mã giáp chống lại hỏa ngục, phá tan các ngụy thuyết.

4- Kinh Mân Côi là phương tiện thánh hóa các linh hồn.

5- Linh hồn nào đến với Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi, sẽ không bị hư mất.

6- Ai đọc kinh Mân Côi sẽ không bị rủi ro, chết bất đắc kỳ tử.

7- Những ai tôn sùng Kinh Mân Côi sẽ được chịu các phép bí tích trong giờ

chết.

8- Ai mộ mền chuỗi Mân Côi, khi lâm tử sẽ được chia sản nghiệp trên thiên

đàng.

9- Mẹ sẽ cứu khỏi luyện ngục cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi.

10- Con cái trung thành với kinh Mân Côi, sẽ được hưởng vinh quang trên trời.

11- Nhờ lần hạt Mân Côi, Mẹ sẽ ban cho hết những gì mình xin.

12- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được Mẹ giúp đỡ trong những lúc khó khăn.

13- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được cả thiên quốc cầu bầu khi sống và khi chết.

14– Những ai đọc kinh Mân Côi đều là con cái Mẹ và anh em với Chúa Giêsu.

15- Tôn sùng chuỗi Mân Côi là dấu chắc chắn được ơn cứu rỗi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=dqdHMUdCOGU

Ave Maria Trăng Từ Bi

From: Đỗ Dzũng

CHO HIỂN VINH DANH NGÀI-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHO HIỂN VINH DANH NGÀI

Thứ Năm Tuần XXVII – Mùa Thường Niên

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”.

George Mueller nói, “Niềm tin không hoạt động trong ‘lãnh địa khả thi’ của con người, nghĩa là nơi con người làm được mọi sự; ở đó, Thiên Chúa chẳng có chút vinh quang nào! Niềm tin chỉ bắt đầu khi sức mạnh của con người kết thúc, và Thiên Chúa có thể khởi sự! Bởi lẽ, Thiên Chúa là tất cả, và tất cả ‘cho hiển vinh danh Ngài!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay làm sáng tỏ ý tưởng của George Mueller! Chúa Giêsu nói, “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”. Vậy mà, không ít người hiểu sai những lời này! Tại sao? Bởi lẽ, cầu nguyện với Chúa, trước hết và trên hết… tất cả chỉ nhằm một mục đích, ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Một số người có thể nghĩ, chúng ta phải cầu nguyện, và cầu nguyện nhiều hơn; để cuối cùng, Chúa sẽ nhậm lời. Một số khác cho rằng, điều này có nghĩa là Chúa sẽ không nhậm lời nếu chúng ta không cầu nguyện đủ chăm chỉ. Và một số khác nữa có thể nghĩ, bất cứ điều gì chúng ta cầu xin sẽ được ban, nếu chúng ta cứ tiếp tục kiên trì khấn xin. Vậy mà không phải vậy!

Chắc chắn, chúng ta nên cầu nguyện chăm chỉ và thường xuyên! Nhưng một câu hỏi quan trọng đặt ra, “Tôi nên cầu nguyện điều gì?”, và đây là chìa khoá! Bởi lẽ, Chúa sẽ không ban những gì chúng ta cầu, bất kể chúng ta cầu bao lâu và chăm chỉ đến đâu, nếu điều đó không nằm trong ý muốn của thánh thiện hoàn hảo của Ngài! Ví dụ, một ai đó bệnh, sắp về với Chúa, và việc cho phép người ấy lìa thế là một phần trong ý muốn của Ngài, thì tất cả những lời cầu nguyện trên thế gian cộng lại vẫn không thay đổi được mọi thứ. Thay vào đó, trong trường hợp này, chúng ta nên cầu nguyện để mời Chúa vào cuộc, vào hoàn cảnh khó khăn này để biến nó thành cuộc ‘tạm biệt’ đẹp đẽ và thánh thiện. Vì vậy, vấn đề không phải là cầu xin cho đến khi thuyết phục được Chúa sẽ làm những gì chúng ta muốn, như một đứa trẻ có thể mè nheo với cha mẹ; đúng hơn, chúng
ta phải cầu nguyện cho một điều và duy nhất một điều, là ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Như vậy, lời cầu nguyện dâng lên không nhằm thay đổi ý định của Thiên Chúa, mà nhằm biến đổi chúng ta, củng cố chúng ta, hầu cho phép chúng ta chấp nhận tất cả những gì Ngài mời gọi chúng ta làm. Đây chính là công việc của Chúa Thánh Thần! Chính Chúa Giêsu bất ngờ xác nhận điều đó ở câu cuối cùng của trình thuật Tin Mừng hôm nay, “Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài”. Thánh Thần cũng là Đấng mà thánh Phaolô trong thư Galata hôm nay nhắc đến, “Đấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em”; cũng là Đấng mà Thánh Vịnh đáp ca bóng bẩy gọi là “Đấng đã viếng thăm dân Ngài!”.

Anh Chị em,

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho!”. Lời cầu, tiếng gõ khẩn thiết của chúng ta như tiếng gõ vào chính trái tim Thiên Chúa; Ngài không ban điều chúng ta xin, nhưng ban cho chúng ta điều chúng ta cần! Ngài ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng mở ra mọi sự, biến đổi mọi sự! Thánh Thần là quà tặng vượt quá sự hiểu biết của con người; để qua Ngài, chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Thiên Chúa là Cha toàn năng yêu thương, Ngài biết điều cần nhất đối với chúng ta. Và điều cần nhất trên trần gian này là cần chính Ngài, Thiên Chúa; và với Thánh Thần của Ngài, bạn và tôi chu toàn mục đích có mặt của mình trong thế giới này; đó là làm mọi sự ‘cho hiển vinh danh Ngài!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến đổi mọi sự trong ngoài của con, kể cả việc cầu nguyện. Đừng để con làm mọi sự cho hiển vinh con, nhưng con sẽ làm tất cả ‘cho hiển vinh danh Ngài!’”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 From: KimBang Nguyen

LÒNG BIẾT ƠN – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

LÒNG BIẾT ƠN

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Có một thời, người ta có khuynh hướng bỏ hẳn lời cám ơn trong mối tương quan hằng ngày.  Trong thời bao cấp, những nghi thức giao tế bị coi là những hủ tục và tàn dư của thời phong kiến.  Người ta chủ trương cuộc sống sòng phẳng, không ai mắc nợ ai, cho nên không ai phải cám ơn ai.  Hậu quả là những gương mặt khô như ngói ở những văn phòng hành chính, những cái nhìn lạnh nhạt ở nơi công cộng, và những lời nói trống không trong giao tiếp với những người lớn tuổi hơn mình.  Cuộc sống thiếu lời cám ơn sẽ trở nên khô khan, đơn điệu, giống như vườn thiếu cây xanh.  Lược bỏ phép lịch sự sẽ biến cuộc sống này thành sa mạc hoang dã.  Có lẽ vì đã nhận ra hậu quả đáng tiếc của quan niệm này nên gần đây, một số cơ quan mở những lớp dạy cười, dạy nói lời cám ơn, và chào hỏi cho nhân viên của mình.

Biết nói lời cám ơn nhau, con người cũng cần thể hiện lòng biết ơn đối với Thượng Đế.  Đó là một trong những mục đích quan trọng của các tôn giáo.  Đó cũng là nội dung của lời cầu nguyện Kitô giáo.  Thông thường, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn.  Ít khi chúng ta bày tỏ lòng khâm phục, tri ân và mến mộ đối với Chúa và các thánh.  Chúa Giêsu hôm nay khiển trách những người cùi đã được ơn mà không biết cảm tạ Thiên Chúa.  Trong mười người cùi được ơn chữa lành, duy nhất có một người quay lại tạ ơn Chúa Giêsu mà người đó lại là người ngoại.  Khi ghi lại lời phàn nàn của Chúa, chắc hẳn Thánh Luca cũng nhằm phê phán những người Do Thái luôn cậy mình là dân riêng của Chúa nhưng lại không sống đúng với danh dự cao quý đó.  Không những thế, họ lại coi thường những người ngoại.  Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, một người ngoại lại mang một tâm hồn đạo đức và biết tạ ơn Chúa.  Và như thế, người ấy không còn phải là “người ngoại” nữa, vì đã biết dâng lời tạ ơn Chúa và nhận ra quyền năng của Ngài.  Ý tưởng này, chúng ta cũng thấy trong sách Các Vua quyển thứ hai, với trường hợp ông Naaman, một vị tướng của Syria.  Sau khi được chữa khỏi, dù là người ngoại, ông đã trở thành một “tín hữu” vì ông tuyên xưng Thiên Chúa của người Israel là Thiên Chúa thật: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”  Việc xin một khối lượng đất đủ hai con la chở được để đem về quê hương đã chứng minh niềm tin chân thành ấy.

Nhờ biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, chúng ta luôn nhận ra Ngài hiện diện trong cuộc đời.  Việc tạ ơn Chúa cũng giúp chúng ta nhìn cuộc sống lạc quan hơn, bởi vì vũ trụ và cuộc sống này là do Chúa tạo dựng.  Ngài kêu gọi chúng ta bằng khả năng của mình, cộng tác với Ngài để tô điểm cho trần gian thêm tươi đẹp.  Nếu cuộc sống trần gian còn nhiều khiếm khuyết là do con người chưa thiện chí cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài.  Thậm chí có người còn đi ngược với chương trình sáng tạo của Chúa, phá vỡ sự hài hòa của môi trường cuộc sống và gây tai họa cho đồng loại cũng như cho thiên nhiên.  Một khi sống tâm tình tạ ơn và tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban những ơn cần thiết phần hồn phần xác.  Thiên Chúa như người cha yêu thương con cái.  Ngài biết chúng ta cần thiết những gì.  Ngài cũng biết rõ những gì đem lại ích lợi đích thực và lâu dài cho chúng ta.  Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn lành, theo ý của Ngài và nhằm đến những điều tốt đẹp cho mỗi chúng ta.  Cách đây vài ngày (ngày 4-10), chúng ta vừa mừng kính thánh Phanxicô thành Assisi, cũng gọi là thánh Phanxicô khó khăn.  Thánh nhân là người yêu thiên nhiên vũ trụ, vì qua thiên nhiên, ngài khám phá ra sự hiện diện quyền năng của Chúa.  Nếu những loài cỏ cây, những bông hoa vô danh nhỏ bé mà còn được Chúa trang điểm yêu thương săn sóc như thế, huống chi con người chẳng lẽ Chúa không thương.  Dưới cái nhìn của vị thánh nghèo, mọi vật mọi loài đều luôn cất tiếng ca tụng Chúa, làm thành một bản giao hưởng bất tận tuyệt vời.

Lòng biết ơn đối với Chúa không chỉ dừng lại ở ngôn từ nơi môi miệng, nhưng phải thể hiện qua việc tuân giữ giáo huấn của Người.  Cũng như trong mối tương quan trong gia đình, con cái không thể chỉ biết ơn cha mẹ bằng những lời khuôn sáo, mà lòng biết ơn và yêu mến cha mẹ cần phải được chứng tỏ bằng những việc làm đích thực.  Tuân giữ Lời Chúa là cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất.  Một khi chú tâm tuân giữ Lời Chúa, chúng ta mới có khả năng thông truyền Lời Chúa cho anh chị em mình.

Tin vào lòng thương của Chúa giúp chúng ta kiên vững trong gian nan đau khổ.  Thánh Phaolô, một tù nhân vì Chúa Giêsu, đã khích lệ con thiêng liêng của mình là Timôthê.  Ngài khẳng định: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa luôn trung thành.

“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”  Lời cầu xin thống thiết kèm theo sự xác tín của những người cùi đã được Chúa nhận lời.  Họ đã được lành bệnh sau khi đi trình diện với các tư tế theo Luật ông Môisen đã quy định.  Người tín hữu khi đến với các linh mục là những tư tế của Tân Ước để thú nhận mọi tội lỗi nơi tòa giải tội cũng được Chúa tha thứ và chữa lành.  Qua hành động trung gian của các linh mục, chính Chúa Giêsu chúc lành và nâng đỡ chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể trở lại hòa nhập với đời sống cộng đoàn, nhất là chúng ta được nối kết trong mối tình thân thiêng liêng với Chúa, nhờ lòng yêu mến thiết tha mà chúng ta bày tỏ với Người.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU

Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Với một con người trước đây là một đảng viên cấp cao, đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế vốn nhiều bóng tối. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời… để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội”, mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.

Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây hoàn toàn là những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị Yến đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur…”. Giờ đây, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.

  1. CON NGƯỜI.

Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngọai thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyên xưa, Chị Yến cười nói : “Em nói …nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: “Em ủng hộ anh nhé !”. Nói sao đây, thôi đành kệ anh !”.

Tháng 2 năm 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và… mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày… để biền biệt đi mãi… – chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông Cha vợ một phen “sốc” lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở Khu điều trị phong Qùynh Lập. Chị Yến tâm sự : “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh…. Đến giờ Soeur biết không… gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng !… ” (bây giờ bệnh hoạn, chị Yến một tay nuôi chồng…).

Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Có dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ rạng rỡ vui mừng khoe một trong những “thắng lợi”của chuyến đi nầy: “Một Bác Sĩ Mỹ tặng tòan bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo : về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ !…”. Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội …chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại nầy. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn nầy, Bác Sĩ cho biết:” Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn nầy …và Nhạc Sư của tôi là Thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ người phong Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần lẫn vật chất để đến với người phong.

CON NGƯỜI Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu : Người Bác Sĩ “điên khùng” và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với…hủi. Một người khùng đáng yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người “xúc cảm với bệnh nhân phong”. Người ta chỉ “xúc cảm” với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp !… Một Nhà Khoa Học với tâm lòng nhân hậu… Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trong trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố ; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể : “Một lần mình được Bộ Trưởng Y tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp Ông ta, ông liền nói : “Ah! Anh Ngoạn ơi ! Người ta thường khi gặp ông lớn thì ngưới ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh.” Bác Sĩ trả lời : “Lương đối với tôi tương đối đủ sống !… Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân …”. Và Bác Sĩ đã không xin gì cả.

Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hịêp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc tế Gandhi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thơ đề ngày 9 tháng 10 năm1995: “…Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản …”. Sau đó qua các cơ quan Y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn : “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của Anh Ngoạn. Đề nghị Anh Ngoạn làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, của ngành và cá nhân. Sau nầy Anh Ngoạn dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư nầy, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết :” Quỳnh Giao có biết Bộ trưởng nói gì với tôi không ?Anh nhận đi, 1 phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ (giải thưởng là 30.000 USD)”. Tôi buộc phải trả lời : “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lòi : “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu nầy mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng, vì họ quan niệm chấp nhận sự ca tụng cũng có nghĩa là chấp nhận một tội ác”. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản : “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của dòng tu nầy đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về một bà sơ Charles Antoine, nguyên là Giám Đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống.”

  1. SỰ NGHIỆP…. :

1/ Quỳnh Lập :

Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc. Khoảng 2600 bệnh nhân đã sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ : “Có lẽ khởi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa… đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều. ”

Bác Sĩ tiếp : “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị hủi là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục : thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu : “đã hấp chín”; có nơi ngưòi bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc -Quỳnh Lập- nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số !. Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm Giám Đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi, làm nhân viên”.

Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc –lần nầy không còn có thể trốn vợ như truớc bởi đã 40 tuổi và là cha của ba người con – hai trai một gái. Sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ còn một đống tan hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong những túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.

Qua tiếp xúc với họ Bác Sĩ Ngoạn hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.

2/Quy Hòa :

Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Qui Hòa–Qui Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, được thành lập từ năm 1929, Qui Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện phim với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng.

Chấp nhận làm Giám Đốc bệnh viện mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hằng ngàn cây số ! Bác Sĩ Ngoạn không có “mộng ước làm quan”, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện dịch tể Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.

Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiềt để có khả năng phát hiện bệnh sớm.

Nhân làm Giám Đốc Qui Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều nầy sẽ giúp quan niệm của ông là xoá bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Qui Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình. 12% của con đường trị giá vài tỉ là món tiền không nhỏ. Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo vịêc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu ! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… Và một ngày kia … cũng chẵn 10 năm làm Giám Đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc vì “không đủ khả năng làm quản lý” …và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm…tạp vụ.

Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một thể chế bất công, dành giựt quyền hành mà không sợ chà đạp trên danh tánh và lương tri của một con người. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do! Giữa hai làn bom đạn, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai, và vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.

3/ Biến cố 23 tháng 10.1984 tại Phú Khánh :

Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự. Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin. Ông bèn nói : “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không ?” – “Đuợc vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”. Cuộc thí nghiệm đựơc bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều Bác Sĩ chuyên khoa của Bệnh Viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường : nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khuỷu tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn nầy dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ.

Với biến cố nầy Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân phong.

4/Vụ Điều Trị của Bộ :

Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.

III….. VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM :

1/ Một lòng yêu thương người phong hủi :

Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI nầy. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những người Kitô hữu và Tu sĩ, không biết chúng ta đã làm được chưa ?

Trong cuộc đời bình thường, BS là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói : “Không hiểu sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Quỳnh Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình”…!”. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong… để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài !… Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ để cống hiến cho tha nhân. Bác Sĩ sẵn sàng đến với thế giới phong hủi để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng…

2/Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý :

Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các Nữ Tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc…Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau …” Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo! …

Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, nghành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp… thì tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, của Chân lý, là chính Thiên Chúa.

3/ Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ :

Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển sách : “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.

Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa nầy. Lúc nầy nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội ! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên !” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998 : “…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung… đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng… là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập…”. Suốt một cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.

“Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn nầy cũng sống rất khắc khổ và ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói : “ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua. Ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời : “Không, không sắm gì, chỉ xin đươc một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit !… Bác Sĩ nói : “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”.

Không hút thuốc, không rượu chè café. Bia chỉ uống một lon khi cần. Do nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ như tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà sơ “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”.

Đó là tác phong và y đức của một người thầy thuốc, quả là hiếm có trong thời buổi nầy.

  1. CHẶNG DỪNG CHÂN :

Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.

Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phuc vụ tại Qui Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai con dâu cũng Bác Sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình…

Nhờ có dịp ra công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm viếng Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò, là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn nói lên lời ưng thuận “Theo Chúa”, rõ ràng, dứt khoát. Truớc đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp biếu tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn… Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rât thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh nầy, chị Quỳnh Giao có biết không? Các anh cán bộ vào nhà cứ hỏi hình nầy là ai ?… Sao không treo hình Bác Hồ nơi chính của căn nhà ?..

Một tháng trước khi đi Anh, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “công giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ uớc thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô.

Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thỏang hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm… Lần nầy, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói truớc, ông làm một mạch không ngừng –người vốn ít nói- : “Tôi muốn được nhận lãnh bí tích thanh tẩy. Một ngày lễ của Đức Mẹ… Sớm nhất…v. v…”. Tôi hỏi : “Vậy Chị có đồng ý không ?” –“Không chịu tôi cũng làm ! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc nầy. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm nghi thức tại Qui Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh nầy… và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình truớc các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được biết tin, đề nghị để Ngài chủ sự trao ban bí tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến viếng thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel và Phục Sinh, rồi còn chụp hình với Bác Sĩ, điều này làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi người.

Biến cố vĩ đại nầy mà tôi đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi uớc mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao nầy mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao ? Ngài mời gọi ai đây phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thóang, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội….

Một ngày nọ, chị Madeleine Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “Vì chỉ có em mới ngăn đươc Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó !…”. Thì ra có biến cố đã xảy ra vì “ước muốn nầy”.

Không hiểu làm sao “người khác” lại biết rõ chuyện nầy, để khi người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở đi làm lại, thì Bác Sĩ Giám Đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài…”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta đươc hỏi “Có phải bố sắp theo đạo phải không ?”. Người con cả là Bác Sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần nầy được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng : “Gia đình cháu có Bác Sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước. Cháu nên vào Đảng để có cơ hội đóng góp nhiều hơn”… và nhiều chuyện khác nữa…

Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, các Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị ảnh hưởng gì. ĐTGM/Hà Nội cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất… Tôi chỉ được thêm thôi !…”. Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, – dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói : “Soeur đề nghị làm tại CĐ của Soeur tại Nam Định …. như thế có vẻ lén lút. Mà đây không có gì phải lén lút cả !”. Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi : “Một đời em đã làm theo ý anh. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh… Mai nầy êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hòan toàn toại nguyện”… Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.

Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn đã nhận lãnh bí tích thanh tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao và được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội Ngài. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm, thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm nầy được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện nầy đáng ra phải được công khai và công nhận…

Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó …làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó”  phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện ?

Khi còn trò chuyện đuợc, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Hà Nội sẽ nói điều gì ? Bác Sĩ trả lời : “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh. ”

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

7 ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT VỀ THÁNH FAUSTINA VÀ THỊ KIẾN CỦA THÁNH NỮ VỀ HOẢ NGỤC

7 ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT VỀ THÁNH FAUSTINA VÀ THỊ KIẾN CỦA THÁNH NỮ VỀ HOẢ NGỤC

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

Trong khi người Công giáo trên khắp thế giới đã quen thuộc với Thánh Faustina Kowalska và mối liên hệ của thánh nữ với Lòng Chúa Thương Xót, thì có thể nhiều người lại không biết về cách mà Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ về ơn gọi, hoả ngục và sứ mệnh của ngài trong việc rao truyền lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dưới đây là bảy sự kiện quan trọng cần biết về vị thánh nổi tiếng này:

  1. Tênthánh của thánh nữlà Helena.  Thánh Maria Faustina Kowalska Thánh Thể sinh ra tại Ba Lan với tên gọi Helena Kowalska vào ngày 25 tháng 8 năm 1905.  Thánh nữ qua đời vào ngày 05 tháng 10 năm 1938, sau khi được Chúa Giêsu và Mẹ Maria chọn để trở thành tông đồ đầy bất ngờ về Lòng Chúa Thương Xót.  Thánh nữ đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.  Ngày lễ của thánh nữ là ngày 05 tháng 10.
  1. Thánh nữ vốnkhông định trở thành một nữ tu.  Cô gái trẻ Helena không có ý định bước vào đời sống tu trì, nhưng ở tuổi 19, trong khi tham dự một buổi khiêu vũ với chị gái Natalia ở Lodz, thánh nữ đã có được một thị kiến về Chúa Giêsu đau khổ, Người đã hỏi thánh nữ: “Ta sẽ chịu đựng con trong bao lâu nữa và con sẽ lảng tránh Ta trong bao lâu nữa đây?”  Sau khi cầu nguyện tại Nhà thờ Chánh toà, thánh nữ đã khởi hành đi Warsaw, nơi thánh nữ gia nhập Dòng các Nữ tu của Đức Mẹ Từ Bi (Congregation of the Sisters of Our Lady of Mercy).  Vào ngày 30 tháng 4 năm 1926, ở tuổi 20, thánh nữ được nhận tu phục và tên dòng của mình.
  1. Chúa Giêsu đã mô tả cho thánh nữ bức hìnhLòng Chúa Thương Xót của Người

Thánh Faustina đã viết rằng vào đêm Chúa Nhật, ngày 22 tháng 2 năm 1931, khi đang ở trong phòng riêng của mình ở Plock, Ba Lan, sau khi chưa hoàn toàn bình phục từ căn bệnh lao phổi, Chúa Giêsu đã hiện ra trong một trang phục màu trắng với những tia sáng đỏ và xanh nhạt phát ra từ trái tim của Người.  Theo nhật ký của thánh nữ, Chúa Giêsu bảo thánh nữ “Hãy vẽ một bức hình theo mẫu mà con nhìn thấy, với hàng chữ: ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa’ [bằng tiếng Ba Lan: ‘Jezu, ufam Tobie.’]  Ta ước mong hình ảnh này được tôn kính, trước tiên là trong nhà nguyện của các con, và sau đó là trên toàn thế giới.  Ta hứa rằng linh hồn nào tôn kính bức hình này sẽ không bị hư mất.”

  1. Thánh nữđã nhìn thấy một thị kiến về hoả ngục.  Vào tháng 10 năm 1936, trong một cuộc tĩnh tâm kéo dài 8 ngày, thánh nữ đã được một thiên thần dẫn đến nơi mà ngài gọi là “những vực sâu hoả ngục”, nơi mà thánh nữ đã mô tả trong nhật ký của mình rằng đó là một nơi của những “hình khổ cùng cực” và “lửa sẽ xuyên qua linh hồn mà không hủy diệt nó – một sự đau khổ khủng khiếp.”  Hoả ngục này vốn tràn ngập bóng tối, và mặc cho bóng tối đó, “ma quỷ và các linh hồn bị đày đọa đều nhìn thấy nhau và nhìn thấy tất cả những điều tội lỗi, cả của người khác và của chính họ.”
  1. Thánh nữđã được cho thấy những mức độ khác nhau của hoả ngục.  Theo Paul Kengor, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Grove City và là một cộng tác viên của hãng tin National Catholic Register, thánh Faustina “đã quan sát thấy những tầng địa ngục giống như của Dante vốn dành riêng cho những đau đớn cụ thể đáng phải gánh chịu từ cái thế giới sa đọa này.”  Thánh Faustina cũng đã ghi lại trong nhật ký của mình rằng: “Có những hang hốc và hố sâu cực hình, ở đó hình thức đau khổ này khác với hình thức đau khổ kia.”  “Còn có những hình khổ đặc biệt dành riêng cho từng linh hồn.  Đây là những hình khổ về giác quan.  Từng linh hồn phải chịu những hình khổ kinh khủng không sao tả được, liên quan đến cách mà họ đã phạm tội.”
  1. Hầu hết những linh hồn trong hoả ngục vốn đãkhông tin vào hoả ngục.  Thánh Faustina đã nói rằng những gì mìnhđang chia sẻ chỉ là “một cái bóng mờ nhạt so với những gì tôi đã nhìn thấy.  Nhưng tôi xin lưu ý một điều: hầu hết các linh hồn trong hỏa ngục là những linh hồn đã không tin có hỏa ngục.”  Thánh nữ đã chứng thực trong nhật ký của mình rằng: “Tôi, nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã xuống những vực thẳm hỏa ngục để có thể nói cho các linh hồn biết về hỏa ngục và chứng minh sự hiện hữu của nó.”
  1. Thị kiến của thánh nữlà nhằm để cứu vớt các linh hồn.  Kengor nói rằng, “Những thị kiến đáng sợ này cũng vang vọng một tính cấp bách rõ ràng đối với lòng thương xót.  Thông qua những thị kiến này cùng với các sứ giả của chúng, Thiên Chúa đang cho chúng ta thêm một cơ hội nữa.  Chúng ta đang được cảnh báo rằng phải chỉnh đốn bản thân, phải ngừng việc phạm tội và phải cố gắng ăn năn đền tội, trước khi quá muộn.”

Alejandro Bermudez – Nguồn: Catholic News Agency (05/10/2021)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên      

From: Langthangchieutim

THƯƠNG XÓT CÒN CÓ TÊN LÀ “CÙNG ĐAU ĐỚN”-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THƯƠNG XÓT CÒN CÓ TÊN LÀ “CÙNG ĐAU ĐỚN”

Thứ Hai Tuần XXVII – Mùa Thường Niên

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” – “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy!”.

Ngày kia, một tín hữu trí thức nói với một mục sư vốn thường giảng rất dài, “Bài giảng của ngài nhắc nhở tôi về lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi nghĩ, ‘nó’ sẽ tồn tại mãi mãi; bởi lẽ, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’. Câu nói sâu sắc pha chút mỉa mai của người tín hữu kia được gặp lại trong phần kết của Tin Mừng hôm nay; câu hỏi của Chúa Giêsu và câu trả lời của người thông luật, “Ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”; ông không trả lời, “Người Samaritanô!”, thay vào đó là, “Kẻ đã tỏ lòng thương xót!”. Thương xót mới là trọng tâm, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.  

Thật dễ dàng để phán xét và khắc nghiệt với người khác. Đọc báo, nghe tin tức… chúng ta bội thực bởi những lời phán xét và lên án liên tục. Về mặt này, bản chất con người sa ngã dường như phát triển một cách ‘xuất sắc’; vì ai cũng có thể chỉ trích người khác một cách dễ dàng. Hoặc khá hơn, khi không chì chiết, phê phán, chúng ta lại rơi vào cám dỗ để hành động như thầy Lêvi và vị tư tế; chúng ta làm ngơ trước những người cần cứu giúp. Vậy điều quan trọng là phải luôn thể hiện lòng thương xót và thể hiện nó một cách siêu việt, anh hùng; nói cách khác, thương xót là phải chịu thiệt, chịu mất thời giờ, vì ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’.    

Ơn gọi của mỗi người chúng ta là trở nên khí cụ của lòng thương xót Chúa. Giữa biển khơi của một thế giới tục luỵ ích kỷ, các Kitô hữu phải là những quần đảo xót thương! Và để lòng thương xót đó có thể trở nên chính hiệu, nó phải đau đớn, phải “tổn thương” thực sự theo nghĩa đòi hỏi bạn phải buông bỏ lòng kiêu hãnh, ích kỷ và giận dữ. Thay vào đó, bạn chọn cách thể hiện yêu thương đến mức nó khiến bạn đau đớn. Tuyệt vời thay! Chính sự tổn thương đó lại là nguồn chữa lành hiệu nghiệm; qua đó, nó giúp bạn tẩy sạch tội lỗi mình. Mẹ Têrêxa nói, “Tôi đã tìm thấy một nghịch lý! Rằng, nếu bạn yêu cho đến khi đau đớn, thì không thể có thêm tổn thương nào nữa; lúc ấy, bạn chỉ có thể yêu và yêu nhiều hơn!”. “Chỉ có thể yêu và yêu nhiều hơn” là loại tình yêu thoạt đầu có thể tổn thương, nhưng cuối cùng, nó chỉ để lại tình yêu và tình yêu!

“Yêu cho đến khi đau đớn, để không thể có thêm tổn thương nào nữa” chính là hoạt động của ân sủng vốn phát xuất từ Đấng đã từng “yêu cho đến cùng”. Trên thập giá, Đức Kitô không thể có thêm tổn thương nào nữa! Chính xác hơn, với Đức Kitô Phục Sinh, nói như thánh Phaolô, “Tội lỗi và sự chết không còn làm chi được Ngài!”.

Anh Chị em,

“Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Người Samaritanô, “kẻ đã tỏ lòng thương xót”, chính là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Xót Thương; và nạn nhân chính là hình ảnh của cả nhân loại đáng thương; và dĩ nhiên, đó còn là phiên bản của chính bạn và tôi! Khi chúng ta không thể tự cứu mình, khi bạn và tôi bị Thiên Chúa ghẻ lạnh vì tội lỗi chúng ta gây ra, thì chính Chúa Kitô trong tình yêu của Thiên Chúa đã dừng lại để cứu lấy chúng ta. Với Chúa Giêsu, thương xót không chỉ là xúc động hay những tiếc xót đầu môi, nhưng còn chịu đau khổ cùng, liên lụy cùng; nơi Ngài, hình ảnh đó thật đẹp và rõ nét! Ngài đã mang thay những vết thương, để chúng ta được chữa lành; chịu sửa phạt thay, để chúng ta được bình an. Trên thập giá, Ngài đã thể hiện tất cả; ở đó, Ngài định hình và đặt tên cho thương xót, ‘thương xót còn có tên là “cùng đau đớn!”’. “Hãy đi và làm như vậy!”, Ngài đang nói với bạn và tôi hôm nay!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến những khoảnh khắc đau đớn của con thành những khoảnh khắc tuyệt vời của ân sủng; hầu con có thể chỗi dậy, trở nên quà tặng tình yêu Chúa cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

From: KimBang Nguyen

  Khi ta chết, xảy ra điều gì?-Cha Vương

Khi ta chết, xảy ra điều gì?

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để sống thánh thiện hơn. Xin bạn hãy tiếp tục cầu nguyện cho nạn nhân chiến tranh và bão lụt nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 03/10/2022

GIÁO LÝ:  Khi ta chết, xảy ra điều gì? Khi ta chết, hồn lìa xác, xác thối rữa, hồn đến gặp Thiên Chúa, và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận thế.  (YouCat, số 154)

***[Chú giải: Sau khi chết, mỗi người tức khắc sẽ chịu cuộc xét xử. Cuộc xét xử này được gọi là cuộc xét xử riêng. Còn đến ngày sau hết, sẽ xảy ra một cuộc xét xử được gọi là cuộc xét xử chung, khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang của Người.

(1) Phán xét riêng: Ngay sau khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị luận phạt đời đời, tùy theo đời sống của mình trong tương quan đối với Đức kitô. Linh hồn hoặc thân xác phải trải qua cuộc thanh luyện hoặc được hưởng hạnh phúc trên trời hoặc sa địa ngục vĩnh viễn (GLCG 1022).

(2) Phán xét chung: Phán xét chung sẽ được diễn ra ngay sau khi mọi người đã chết được sống lại, người công chính cũng như người có tội.]

SUY NIỆM: Xác ta sẽ sống lại thế nào, đó là một mầu nhiệm. Một hình ảnh có thể giúp ta hiểu: khi ta xem thấy củ của cây hoa tulip, ta không biết nó sẽ phát triển thành hoa rực rỡ thế nào trong đất. Đối với ta cũng thế, ta cũng không biết gì về vẻ bề ngoài tương lai của thân xác mới của ta. Thánh Phaolô quả quyết chắc chắn rằng: người ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang (1 Cr 15,43a). Nhưng có người sẽ nói, kẻ chết chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết rồi mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý ngài muốn: giống nào hình thể ấy. (1 Cr 15,35) (YouCat, số 154 t.t.)

❦ Ngay thân xác cũng có một chỗ nơi Thiên Chúa. (Đức Bênêđictô XVI, 15-8-2005)

❦ Tôi muốn thấy Thiên Chúa và để thấy Thiên Chúa, tôi phải chết. (Thánh Têrêsa Avila)

LẮNG NGHE: Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Ga 14:6)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin tăng thêm lòng tin tưởng và cậy trông vào quyền năng của Chúa để mỗi chọn lựa của con hôm nay đều quy hướng về Chúa và cuộc sống mai sau để khỏi bị án phạt đời đời.

THỰC HÀNH: Khi đã chết rồi bạn không còn làm gì cho mình được nữa, mời bạn hãy chuẩn bị cho cái chết của mình ngay lúc mình còn đang sống qua những việc lành phúc đức và xa lánh dịp tội nhé.

From: Đỗ Dzũng

 Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

 Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

Chúc bình an! Mừng Lễ Thiên Thần Bản Mệnh nhé. 

Cha Vương

CN: 02/10/2022

Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. (Xuất Hành 23:20)

           Giáo Hội Công Giáo dành ngày 02/10 hằng năm để mừng kính các Thiên thần Bản mệnh. Vào năm 1670, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đã thiết lập lễ này cho toàn thể Giáo Hội để tôn kính các đấng vô hình luôn ngày ngày bảo vệ chúng ta. Trong khi đa số chúng ta chỉ chú ý đến các Thiên thần Bản mệnh cá nhân, truyền thống Giáo Hội (được các nhà thần học như Thánh Tôma Aquinô giảng dạy) cho biết rằng các quốc gia, các thành phố, các giáo phận, các giáo xứ đều có Thiên thần Bản mệnh riêng, có những người, những nơi còn có nhiều vị Bản mệnh. Các ngài là những thụ tạo đẹp đẽ của Thiên Chúa, được ẩn giấu trong một mầu nhiệm kỳ vĩ. Báo chí nhiều khi tường thuật chuyện có một người huyền bí xuất hiện để giúp đỡ trong các vụ tai nạn rồi sau đó không bao giờ xuất hiện lại nữa. Chúng ta mắc nợ Thiên thần Bản mệnh của chúng ta rất nhiều, người hằng bảo vệ, chỉ dẫn chúng ta mà chúng ta không biết. Các ngài can thiệp vào đời sống chúng ta cách âm thầm, hoàn thành tác vụ của mình cách khiêm tốn nhất có thể. [Sau đây là] 5 sự thật về Thiên thần Bản mệnh:

  1. Mỗi một người trên thế giới đều có một Thiên thần Bản mệnh (dù là Kitô hữu hay không)
  2. Thiên thần Bản mệnh được ban ngay từ đầu đời
  3. Thiên thần Bản mệnh có tên, và chỉ mình Thiên Chúa biết tên của các vị
  4. Chúng ta sẽ không trở thành Thiên thần sau khi chết
  5. Thiên thần Bản mệnh luôn ở đây để giúp đỡ chúng ta

          Mike Aquilina, một nhà giáo sử nổi tiếng, viết về những kinh nghiệm của bạn ông liên quan đến thiên thần giúp đỡ như sau: “Một người bạn của tôi, một nhà triết học nổi tiếng từng học ở Harvard, là người vô thần từ trẻ. Một hôm, khi anh ta đang bơi ngoài biển thì bị sóng cuốn ra khơi. Anh ta biết mình đang chìm xuống, không hy vọng được ai cứu nữa. Đột nhiên, một cánh tay mạnh mẽ nắm lấy anh và kéo vào bờ. Người nắm lấy anh là một chàng trai vạm vỡ. Anh bạn vừa chết hụt định cám ơn người thanh niên kia thì anh thanh niên cười và biến mất. Từ lúc đó, anh bạn của tôi bắt đầu con đường quay trở về đức tin.” 

        Giáo lý gọi các Thiên thần Hộ thủ là các mục tử luôn muốn bảo vệ và dẫn dắt con người vào sự sống đời đời. Công tác duy nhất của các vị là giúp chúng ta vào Thiên đàng, nên chúng ta hãy cầu nguyện cùng các vị mỗi ngày, xin các vị giúp đỡ chúng ta trong mọi vấn đề của cuộc sống. (Nguồn: Công Giáo Infor-Gioakim Nguyễn dịch)

         Mời Bạn đọc Kinh Thiên thần Bản Mệnh mỗi ngày với hết lòng tin tưởng để xin Thiên thần Bản Mệnh luôn luôn gìn giữ Bạn: “Lạy Thiên thần Chúa là Thiên thần Bản mệnh yêu dấu của con. Nơi ngài Chúa ban tình yêu của Người cho con. Mỗi ngày, xin ngài hãy ở cạnh bên con để soi sáng và canh giữ, để điều khiển và hướng dẫn con. Amen.”

Dành thời gian để trò chuyện với Thiên Thần Bản Mệnh của bạn hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

MỘT NHẠC CỤ ĐÍCH THỰC-(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

MỘT NHẠC CỤ ĐÍCH THỰC

Thứ Sáu Tuần XXVI – Mùa Thường Niên

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai nghe các con là nghe Thầy; ai khước từ các con là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.

J. B. Phillips nói, “Thiên Chúa không được khám phá hay chứng minh bằng các phương tiện khoa học thuần tuý; thật không may cho những người có đầu óc khoa học! Bởi lẽ, nó thực sự không chứng minh được gì. Đơn giản chúng chỉ là những ‘khí cụ tồi’ may mắn được sử dụng cho bản hợp xướng vĩ đại của Ngài. Vấn đề của bạn là, hãy trở nên ‘một nhạc cụ đích thực’ trong bản hợp xướng vĩ đại mang tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với thế giới!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi ý tưởng của J. B. Phillips được gặp lại qua Tin Mừng hôm nay! Chúa Giêsu tiết lộ cho chúng ta một mối liên hệ ‘gấp ba!’. Ngài liên kết bạn với Ngài; và Ngài với Chúa Cha. Vì thế, khi bạn hành động như ‘một nhạc cụ đích thực’ của Chúa trong buổi trình tấu của Ngài, người khác lắng nghe hoặc từ chối những gì bạn cống hiến cho họ, thì họ đang lắng nghe hoặc từ chối không chỉ bạn, mà còn cả chính Chúa Giêsu và Cha Trên Trời.

Điều này cho thấy trách nhiệm cao cả của bạn và tôi khi phải mang tình yêu và lòng thương xót Chúa đến với những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày. Liệu chúng ta sẽ trở thành ‘một nhạc cụ đích thực’ của Chúa hay một khí cụ ‘hữu danh vô thực’, một ‘khí cụ tồi?’. Điều này tuỳ thuộc bạn và tôi! Khi tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa chúng ta – với chính Ngài và Chúa Cha – Chúa Giêsu nâng cao phẩm giá mỗi người chúng ta lên một tầm mức đáng kinh ngạc!

Tin Mừng hôm nay còn tiết lộ một sự thật khác, Thiên Chúa cũng có thể dùng ai đó như ‘một nhạc cụ đích thực’ dành cho mỗi người chúng ta. Điều này thật quan trọng! Nếu có ai đó đến, hành động nhân danh Chúa Kitô, mà chúng ta từ chối, chúng ta thực sự đang từ chối chính Cha Trên Trời. Điều này buộc chúng ta dừng lại và xét xem cách thức chúng ta đối xử với những người khác. Cần ý thức rằng, những người khác luôn có một tiềm năng to
lớn để trở thành ‘một nhạc cụ đích thực’ trong bản giao hưởng dành cho chúng ta. Chúa nói với chúng ta qua họ!

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khiển trách dân thành Corozain và Bethsaiđa; bởi lẽ, họ không nhận Ngài như ‘một nhạc cụ đích thực’ trong bản hợp xướng Chúa Cha tặng ban, “Khốn cho ngươi, hỡi Corozain; khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa!”. Chúa thấu suốt lòng dạ con người, Thánh Vịnh đáp ca hôm nay viết, “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi”. Vì thế, như trong bài đọc thứ nhất, ý thức giới hạn của mình, Gióp chỉ thưa với Chúa, “Con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài!”. Thái độ đúng đắn của chúng ta là một chỉ cậy trông vào Ngài, “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời”.

Anh Chị em,

“Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”. Hôm nay, bạn và tôi hãy suy gẫm về những tiết lộ này, suy gẫm về những món quà tuyệt vời Chúa ban cho chúng ta. Mỗi người phải hoạt động như ‘một nhạc cụ đích thực’ trong dàn giao hưởng yêu thương của Chúa; đây là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là một đặc ân sâu sắc mà chúng ta không được xem nhẹ. Đồng thời, hãy đón nhận tha nhân như ‘một nhạc cụ đích thực’ Thiên Chúa gửi đến để cống hiến cho chúng ta buổi trình tấu miễn phí vĩ đại. Hãy biết, Cha Trên Trời đang nói với bạn và tôi qua những con người đôi khi ‘rất đỗi ít ỏi’ này. Hãy dành cho Ngài sự quan tâm, kính trọng với lòng biết ơn sâu sắc những con người được sai đến.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong mọi đấng bậc, ơn gọi của con là trở nên ‘một nhạc cụ đích thực’ phục vụ cho bản hợp xướng mang tên “Sự Thánh Thiện và Lòng Thương Xót” Chúa. Xin đừng để con trở nên ‘một khí cụ tồi!’”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420)-Cha Vương

Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420).

 Chúc bình an nhé! Hôm nay Ngày 30/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 30/09/2022

Thánh Giêronimô sinh quãng năm 340 tại Xơ-tri-đôn, Đan-ma-xi-a. Người đến Rô-ma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rô-ma, người làm thư ký cho đức giáo hoàng Đa-ma-xô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La-tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bê-lem, gần cái hang nơi Đức Giê-su ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Thánh Jerome qua đời tại Bethlehem ngày 30 tháng 9 năm 420. Xác thánh nhân được chôn cất kế bên hai người con thiêng liêng (Thánh Paola và Eustochium) dưới hầm mộ của thánh đường Giáng Sinh. Nhưng sau đó thánh tích của thánh Jerome được chuyển về La Mã. Thi hài của ngài hiện được chôn cất trong Ðền Ðức Bà Cả ở Rôma.

Đức Giáo Hoàng Boniface XIII đã tuyên xưng Thánh Jerome và Thánh Augustine là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 20 tháng 9 năm 1295

Thánh Giêrôme là một người thẳng tính, cương quyết. Ngài có nhân đức cũng như các tính xấu của một người ưa chỉ trích tất cả những vấn đề luân lý thường tình của con người. Như có người nhận xét, ngài là người không chấp nhận thái độ lưng chừng trong phẩm hạnh cũng như trong việc chống đối sự xấu xa. Ngài mau nóng, nhưng cũng mau hối hận, và rất nghiêm khắc với những khuyết điểm của chính mình. Người ta kể, khi nhìn thấy bức tranh vẽ Thánh Giêrôme đang cầm hòn đá đánh vào ngực, một giáo hoàng nói, “Ngài cầm hòn đá đó là phải, vì nếu không, Giáo Hội không bao giờ phong thánh cho ngài” (Ðời Sống Thánh Nhân của Butler)

Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, bạn hãy bỏ ra mấy phút đọc và suy niệm coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì để đến gần với Chúa hơn mỗi ngày qua việc đọc và suy niệm Lời Chúa.

(1) Tốt, tốt hơn, tốt nhất. Đừng bao giờ ngưng nghỉ cho tới khi cái tốt của bạn trở nên tốt hơn và cái tốt hơn trở nên tốt nhất. 

(2) Người phạm tội thì trong lòng không có Thiên Chúa, những việc họ yêu thích đều trở thành chúa của họ… 

(3) Vừa khi bị nhục dục tấn công, chúng ta hãy than thở: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con, xin đừng để con xúc phạm đến Chúa.” 

(4) Phần chúng ta là hiến dâng những gì chúng ta có thể, phần của Chúa là chu cấp những gì chúng ta không thể.

(5) Có bao nhiêu thương tích đau thương trên thân xác Chúa Giêsu, thì cũng có bấy nhiêu vết thương xé nát Trái Tim Mẹ. 

(6) Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. (Thánh Giêronimô)

Câu nào đánh động bạn nhất. Đối với mình thì câu 1.

Thánh Giêronimô, cầu cho chúng con.

Các vị tổng lãnh thiên thần—Mi-ca-en, Gáp-ri-en, và Ra-pha-en-Cha Vương 

Các vị tổng lãnh thiên thần—Mi-ca-en, Gáp-ri-en, và Ra-pha-en

Chúc bạn và gia đình một ngày bình an nhé! Xin một lời cầu nguyện cho dân cư ở tiểu bang Florida và những tiểu bang lân cận đang phải đương đầu với bão Ian.

Cha Vương 

Thứ 5: 29/09/2022

Hôm nay ngày 29/9, Giáo Hội mừng kính các vị tổng lãnh thiên thần—Mi-ca-en, Gáp-ri-en, và Ra-pha-en, nhưng đồng thời cũng mừng tất cả các thiên sứ được nhắc tới từ sách Sáng thế cho tới sách Khải huyền. Các vị hiện diện cách vô hình để hướng dẫn dòng lịch sử cứu độ. Tuy các vị là những sứ giả của Chúa, nhưng chỉ có các thiên thần Mi-ca-en, Gáp-ri-en, và Ra-pha-en là có tên. Các vị có nhiệm vụ bộc lộ cho con người biết các kế hoạch của Chúa và mang tới lệnh Người truyền, nhưng trước hết các vị là cộng đoàn đông đảo những vị thờ lạy Thiên Chúa hằng sống. Có rất nhiều loại Thiên Thần khác nhau được đề cập đến trong Thánh Kinh theo từng cấp bậc, đó là: angels (Thiên Thần), archangels (các Tổng Lãnh Thiên Thần), cherubim (Tiểu Thiên Sứ), seraphim (Thiên Thần Tối Cao), thrones (các Thần Cung), choirs (các tập hợp Thiên Thần), dominions (các Quyền Chi Phối), principalities (các Chức Vương, Công Quốc), và powers (Các Quyền Bính).

THÁNH MI-CA-EN—danh từ Hebrew có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa được nói đến trong sách Daniel (10, 13-21) thánh Mi-ca-en xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Daniel như “hoàng tử vĩ đại” bảo vệ Israel chống lại quân thù và trong sách Khải Huyền của thánh Gioan (12-7) ngài dẫn đầu đạo binh Thiên Chúa chiến đấu với ma quỷ trong trận chiến vẻ vang sau cùng để bênh vực quyền tối cao của Thiên Chúa. Giáo Hội tôn kính người như Đấng Bảo Trợ và tin rằng Người vẫn dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên ngài tòa Chúa. Thánh Mi-ca-en là quan thầy của những người phải dùng đến lò nung như làm bánh. Thánh Mi-ca-en cũng là quan thầy đoàn lính dù. Nhiều thành phố mang tên Người. Thánh Mi-ca-en cũng được cầu khi giúp bệnh nhân sắp qua đời.

THÁNH GÁP-RI-EN—theo danh xưng Hebrew có nghĩa là “Uy lực của Thiên Chúa” cũng còn gọi là “Sứ Thần Truyền Tin”. Ngài luôn can thiệp vào những sứ mạng liên quan đến việc cứu rỗi loài người. Chính Ngài đã báo cho tiên tri Daniel (Dn 8, 16; 9, 21-27) thời đại xuất hiện của Đấng Cứu Thế với ông Zachariah.  Sự xuất hiện của Thánh Gáp-ri-en mà nhiều người biết đến là sứ giả được phái đến cùng trinh nữ Maria (Lc 1, 11-38; 8, 16-27; 9, 21-27) để loan báo ý định của Thiên Chúa, và cũng chính là người đã nhiều lần hiện ra với thánh Giuse. Năm 1951 Đức Giáo Hoàng Pius XII đặt Ngài làm quan thầy các chuyên viên truyền thông, truyền thanh và điện thoại.

THÁNH RA-PHA-EN—theo tiếng Hebrew có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành”. Chúng ta biết danh hiệu của vị Tổng Lãnh Thiên Thần này qua những trang sách Tobit thời Cựu Ước. Chính Ngài đã được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông trong cơn hoạn nạn. Trong chuyện này ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tobit là Tobia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tobia kết hôn với Sarah, ông Tobit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục. Ngài cho hai cha con ông biết: “Ta là Ra-pha-en là một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa, hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện”. Mục đích của câu chuyện này là để minh chứng sự Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời sống con người và hằng nghe lời cầu xin. Tổng lãnh Thiên Thần Raphael được cầu xin cho thể xác an khang và linh hồn khỏe mạnh. Ngài là quan thầy của người đi đường. (Tóm lược từ Nhóm Tinh Thần)

Lạy Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho thiên thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ, xin cho các thiên thần đang phục vụ Chúa trên trời cũng luôn luôn phù hộ chúng con ở dưới đất. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Ki-tô Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện đầu Lễ kính)

From: Đỗ Dzũng