Anh em hãy tận dụng thời gian hiện tại. (Ep 5:16)-Cha Vương

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới. Mình xin bạn một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho Linh Hồn Gioan Baotixita-Phaolô và những người đang hấp hối nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 16/02/2023

GIÁO LÝ: Phụng vụ tác động đến thời gian như thế nào? Trong phụng vụ, thời gian trở thành thời giờ dâng cho Chúa. (YouCat, số 184)

SUY NIỆM: Có lúc ta coi thường thời gian, chỉ kiếm thời giờ để tiêu khiển. Còn trong phụng vụ, thời gian có một giá trị thực sự vì mỗi giây đều tràn đầy ý nghĩa. Khi cử hành phụng vụ giờ kinh, ta thấy Chúa thánh hóa thời gian và làm cho mỗi giây trở thành một cầu nhỏ dẫn ta vào cõi vĩnh hằng.

❦  Sự vĩnh hằng của Thiên Chúa không phải chỉ là vắng mặt thời gian hay không có thời gian, nhưng là sức mạnh làm cho thời gian phát triển thành hiện-hữu-với-thời-gian và hiện-hữu-trong-thời-gian. (Đức Hồng Y Ratzinger, Tinh thần phụng vụ) (YouCat, số 184 t.t.)

LẮNG NGHE: Anh em hãy tận dụng thời gian hiện tại. (Ep 5:16)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, thời giờ là của Chúa, đã rất nhiều lần con đã lãng phí thời giờ vào những công việc nhảm nhí không lành mạnh. Xin cho con biết trân quý món quà thời gian và sử dụng những phút giây của từng ngày một cách khôn ngoan để làm lợi cho chính mình về sức khỏe và phục vụ anh em, và để ca tụng và tôn vinh Chúa suốt đời.

THỰC HÀNH: Một ngày Chúa ban cho bạn 24 giờ, 1440 phút và 86400 giây. Bạn dự tính làm gì cho Chúa và cho anh em hôm nay? Đánh giá trị lại cách sử dụng thời giời của bạn nhé.

From: Đỗ Dzũng

CON TIN CHÚA ƠI

NÊN THÁNH BẰNG YÊU THƯƠNG – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đã được gọi là “các thánh.”  Chính Thánh Phaolô đã dùng danh xưng này để chỉ những người đã gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tẩy.  Khi gọi họ là “các thánh,” chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn nhấn mạnh tới lý tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới.

Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có Chúa hiện diện ở đó.

Như vậy, nên thánh không phải chỉ là tình trạng thiên đàng sau khi chúng ta đã chết, mà là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến.  Nên thánh cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời, như để quên đi những đau khổ hiện tại.

Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng.  Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay.  Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa.  Cuộc sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù.  Con người không lý tưởng sẽ giống như ngõ cụt.  Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì.

Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng của Ngài.  Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rõ: “Hãy nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I).  Lý do của ơn gọi nên thánh là: vì Chúa là Đấng Thánh.  Ai muốn thuộc về Chúa thì phải nên giống như Ngài.  Thánh thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đã tỏa sáng trong cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của mình đối với đồng loại.  Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh chị em, đừng quở trách họ.  Không được trả thù, không được oán hận.  Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân mình.

“Thương người như thể thương thân.”  Đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam.  Nét đẹp này đã gặp gỡ lời dạy “Yêu đồng loại như chính mình” của Cựu Ước và còn hơn thế nữa, là lời dạy “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” của Tân Ước.  Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt lên chính mình, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị phi.  Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là tình yêu thương ở mức tuyệt hảo.  Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, đó là bằng chứng của lòng bao dung và tha thứ trọn vẹn.

Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lý thuyết, nhưng phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống.  Nên thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân thành.  Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân.  Một cách rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời khuyên để đem luật đó vào cuộc sống.

Đức yêu thương Chúa Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước.  Vì vậy, Chúa nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng….  Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.  Qua những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng kiện toàn lề luật.  Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước, đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo hơn.  Tình yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt.

Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán, nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân.  Chính điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những thực hành của những người thu thuế và người biệt phái.  Đối với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, vì hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng một Cha trên trời.  Mức độ thánh thiện của một người được lượng giá qua tình bác ái mà họ thực hiện đối với người xung quanh.  Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, không thể nên thánh.

Thánh thiện còn là nhận ra phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này.  Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II).

Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau.  Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân.  Tác giả thư gửi giáo dân Côrinhtô cũng chỉ rõ đâu là điều quan trọng đích thực mà chúng ta tìm kiếm: đó là Đức Kitô.  Người là lý tưởng và mẫu mực cho chúng ta trong hành trình nên thánh.  Một khi quy hướng về Đức Kitô, sẽ không còn chia rẽ và ganh tỵ bè phái như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là người thì cho mình thuộc về Phaolô, người thì thuộc Apôlô, người thì thuộc Kêpha.

Nên thánh bằng yêu thương.  Đó là thông điệp mà Lời Chúa muốn thông truyền cho chúng ta.  Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn.  Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, chúng ta có ý thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực thi đức yêu thương không?

“Ai không có sức mạnh để tha thứ, cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin Luther King Jr.).

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

ÍT NHẤT, MỘT BƯỚC NHỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Tư, Tuần VI Thường Niên, Năm Lẻ

Trích sách Sáng Thế. St 8, 6-13. 20-22

Sau bốn mươi ngày, Noe mở cửa sổ tàu mà thả một con quạ. Nó bay đi bay về cho đến khi nước trên mặt đất khô cạn thì mới không bay về nữa. Sau con quạ, ông cũng thả một con chim bồ câu, để thử coi nước trên mặt đất đã cạn chưa. Nhưng nó không tìm được chỗ đậu, nên trở về với ông trong tàu, vì nước còn đầy khắp mặt đất. Ông giơ tay bắt nó đem vào tàu. Chờ bảy ngày nữa, ông lại thả chim bồ câu ra khỏi tàu. Đến chiều, nó bay trở về, mỏ ngậm một cành ô liu xanh tươi. Vậy ông Noe hiểu rằng nước trên mặt đất đã khô cạn. Nhưng ông còn đợi thêm bảy ngày nữa, ông thả chim bồ câu ra, và nó không trở về.

Ngày thứ nhất tháng thứ nhất, năm ông Noe được sáu trăm lẻ một tuổi, thì nước trên mặt đất đã rút đi. Noe dỡ mui tàu và nhìn thấy mặt đất đã khô ráo. Noe dựng một bàn thờ tế lễ Chúa; ông bắt các gia súc và chim chóc thanh sạch mà dâng làm của lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Thiên Chúa hưởng mùi thơm tho và nói: “Từ nay trở đi, chẳng bao giờ vì cớ nhân loại mà Ta chúc dữ trái đất nữa, vì tâm tình và tư tưởng lòng con người đã nghiêng chiều về đàng trái từ niên thiếu. Vậy Ta sẽ không còn tiêu diệt mọi sinh vật như Ta đã làm. Từ đây, bao lâu còn vũ trụ, thì mùa gieo mùa gặt, giá rét nắng nôi, mùa hạ mùa đông, đêm và ngày vẫn còn tiếp diễn”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:
LẠY CHÚA, CON SẼ HIẾN DÂNG CHÚA LỜI CA NGỢI LÀM SINH LỄ

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Mc 8, 22-26

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: “Ngươi có thấy gì không?” Anh nhìn lên và trả lời: “Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi”. Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: “Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai”. Đó là lời Chúa.

ÍT NHẤT, MỘT BƯỚC NHỎ

“Ngài lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn”.

Patrick Henry nói, “Tôi đã định đoạt toàn bộ tài sản mình cho gia đình. Một điều nữa mà tôi ước có thể cho họ, đó là niềm tin vào Chúa Kitô. Nếu họ có Ngài và dẫu tôi không đưa cho họ một đồng nào, họ cũng đã giàu có! Nhưng nếu không có Ngài, và tôi trao cho họ cả thế giới, họ vẫn thực sự nghèo! Vì thế, bạn hãy không ngừng đến gần Ngài! Mỗi ngày, ‘ít nhất, một bước nhỏ!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy không ngừng đến gần Ngài! Mỗi ngày, ‘ít nhất, một bước nhỏ!”. Lời khuyên của Henry được gặp lại trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù trong Tin Mừng hôm nay! Thật thú vị, lần đầu tiên, Ngài chỉ thành công một nửa! Vì sau lần đầu Ngài đặt tay, anh chỉ thấy “người ta như những cây cối đi lại”. Ngài lại phải đặt tay một lần nữa, và anh thấy hoàn toàn. Như anh mù, trong đời sống thiêng liêng, bạn và tôi cũng phải lớn lên, ‘ít nhất, một bước nhỏ!’.

Một cách nhất quán, trong các Phúc Âm, khi Chúa Giêsu chữa lành ai đó, phép lạ được thực hiện do đức tin người ấy có hoặc thể hiện. Điều đó không có nghĩa là Chúa Giêsu không thể chữa lành cho người không có đức tin; đúng hơn, đức tin là điều khiến Ngài chọn lựa chữa lành. Vì thế, chúng ta có thể nói, phép lạ Chúa Giêsu làm, phụ thuộc hoàn toàn vào niềm tin.

Trong câu chuyện này, dường như anh mù chỉ có một chút đức tin, không nhiều. Kết quả là, Chúa Giêsu chỉ cho phép anh được chữa lành một phần để minh hoạ cho sự thiếu đức tin của anh. Nhưng Ngài cũng tiết lộ cho chúng ta rằng, một ít đức tin có thể dẫn đến nhiều đức tin hơn. Khi anh có thể nhìn thấy một chút; rõ ràng, dù là ‘ít nhất, một bước nhỏ’, anh bắt đầu tin hơn. Và khi đức tin của anh lớn hơn, Chúa Giêsu lại đặt tay để hoàn tất việc chữa lành.

Đây là một minh hoạ tuyệt vời cho chúng ta! Một số người có thể hoàn toàn tin tưởng vào Chúa trong mọi sự; nếu đó là bạn, thì bạn quả thực sự may mắn! Nhưng trình thuật hôm
nay đặc biệt dành cho những người có đức tin, nhưng vẫn còn đấu tranh. Đối với những ai rơi vào trường hợp này, Chúa Giêsu mang đến nhiều hy vọng. Hành động chữa lành hai lần liên tiếp cho thấy, Thiên Chúa kiên nhẫn và đầy lòng xót thương, sẽ lấy những gì chúng ta có, dù nhỏ nhoi; những gì chúng ta dâng hiến, dù hạn hẹp, để sử dụng nó một cách tốt nhất mà Ngài có thể. Ngài chờ đợi chúng ta tiến lên, ‘ít nhất, một bước nhỏ’; và Ngài sẽ hành động để biến đổi đức tin nhỏ bé của chúng ta, để sau đó mỗi người có thể tiến thêm một bước lớn đến gần Ngài!

Điều tương tự cũng có thể áp dụng đối với tội lỗi. Đôi khi chúng ta buồn phiền vì tội lỗi một cách không trọn vẹn; và đôi khi chúng ta phạm tội nhưng không buồn phiền vì nó, mặc dù biết điều đó là sai trái. Nếu đó là bạn, thì hãy cố gắng tiến lên, ‘ít nhất, một bước nhỏ’ hướng tới sự chữa lành của ơn tha thứ. Ít nhất, hãy cố gắng cầu xin rằng, bạn sẽ lớn lên trong ước muốn được hối lỗi. Đó có thể là mức tối thiểu, nhưng Chúa Giêsu sẽ làm việc với nó.

Anh Chị em,

“Ngài lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn”. Hôm nay, hãy suy gẫm về anh mù! Hãy suy gẫm về sự chữa lành gấp đôi cũng là sự ‘hoán cải gấp đôi’ mà anh mù này đã trải qua! Anh mù chính là hình ảnh của bạn và tôi; và rằng, Chúa Giêsu muốn đưa bạn và tôi tiến thêm một bước trong đức tin và cả trong sự ăn năn tội lỗi của mình đến gần Ngài. Hãy tiến lên! ‘Ít nhất một bước nhỏ!’, phần còn lại, chính Ngài sẽ tự lo.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin tận dụng chút đức tin nhỏ nhoi của con; chút đau buồn ít ỏi của con vì tội lỗi mình, hầu lôi kéo con đến gần Chúa hơn!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

Tại sao trong phụng vụ còn có âm nhạc?-Cha Vương

Hôm qua ăn kẹo Chocola nhiều quá đi… Một ngày zui zẻ, bình an và  yêu thương trong công việc hàng ngày nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 15/02/2023

GIÁO LÝ: Tại sao trong phụng vụ còn có âm nhạc. Loại nhạc nào thích hợp với phụng vụ? Khi lời không đủ ca ngợi Thiên Chúa, cần âm nhạc trợ giúp chúng ta. (YouCat, số 183)

SUY NIỆM: Khi ta hướng về Thiên Chúa, ta thường không biết nói gì, hoặc không biết diễn tả làm sao. Lúc đó âm nhạc có thể giúp ta. Trong khi vui sướng hớn hở, lời nói thường biến thành ca hát – do đó mà có ca hát của các thiên thần. Trong cử hành đạo đức, âm nhạc phải làm cho lời cầu nguyện tốt đẹp hơn, đi vào chiều sâu hơn, đánh động trái tim người tham dự, hướng họ lên tới Chúa, và sửa soạn một lễ nhạc cho Chúa.

❦  Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. (Ep 5:19)

❦  Ca hát là cầu nguyện hai lần. (Thánh Augustinô) (YouCat, số 183 t.t.)

LẮNG NGHE: Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA, sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi. (Tv 104:33)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Thiên Chúa của con. Thật là chính đáng phải đạo khi con hát vang, ca tụng và tôn vinh Chúa bằng tất cả tâm trí, khả năng và con người con. Xin cho con không ngừng tham dự tích cực vào việc tung hô, đối đáp, luân phiên đọc và ca tụng vinh danh Chúa.

THỰC HÀNH: Bài thánh ca yêu thích nhất của bạn là gì? Nghe đi nghe lại bài đó hôm nay và xin ơn Chúa biết đổi mình một tí để trở nên thánh thiện dễ thương hơn hôm qua nhé.

From: Đỗ Dzũng

CHÚA LUÔN CÒN MÃI. Sáng Tác Phanxicô – Ca Sỹ: Diệu Hiền

 Lịch sử Ngày Tình Nhân (Valentine’s Day)…- Cha Vương

Happy Valentine Bạn nhé! Ước mong Bạn yêu thật nhiều, nhiều đến nỗi quên đi cái đáng ghét của nhau hôm nay nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 14/02/2023

Lịch sử Ngày Tình Nhân (Valentine’s Day) vẫn còn là điều bí ẩn. Nhưng nhìn vào vết tích của truyền thống Kitô giáo và truyền thống La Mã, bạn thấy việc chọn thánh Valentine là thánh quan thầy của Lễ hội này cũng là điều hợp lý.

Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine (c. 269) đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ dưới thời  hoàng đế Claude II gốc Gothique. Người bị bắt và bi cầm tù mà người quản lao là một sĩ quan có một người con gái bị mù. Thánh nhân đã chữa cho cô con gái khỏi mù làm cho vị sĩ quan và gia đình trở lại đạo. Khi hay tin ấy, nhà vua ra lệnh chém đầu. Vì không chịu từ bỏ đức tin, ngài được tử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno. Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu.

Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi chọn chim mái.” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Để mừng kính thánh Valentine mời bạn tìm cách để hàn gắn lại những tổn thương và bất đồng trong mối quan hệ với người khác vì yêu không đúng cách nhé.

From: Đỗ Dzũng

Yêu Cho Đến Cùng- Mai Thiên Vân

CẬY TRỜI MÀ KHÔNG CẬY MÌNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Ba, Tuần VI Thường Niên, Năm Lẻ

Trích sách Sáng Thế. St 6, 5-8; 7, 1-5.10

Thiên Chúa thấy tội ác loài người lan tràn trên mặt đất, mọi tư tưởng trong lòng đều luôn luôn hướng về đàng xấu, nên Chúa lấy làm tiếc vì đã tạo dựng loài người trên mặt đất, Người đau lòng mà nói: “Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất loài người mà Ta đã dựng nên, từ loài người đến loài vật, từ rắn rết đến chim trời, vì Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nên chúng”. Nhưng ông Noe được ơn nghĩa trước mặt Chúa.

Chúa phán cùng Noe rằng: “Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào trong tàu, vì trong thế hệ này, Ta chỉ thấy có ngươi là công chính trước mặt Ta. Trong các súc vật thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con đực bảy con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ hai con đực hai con cái. Nhưng các chim trời, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con trống bảy con mái, để bảo tồn nòi giống các loài ấy trên mặt đất, vì còn bảy ngày nữa, Ta sẽ cho mưa trên mặt đất suốt bốn mươi đêm ngày, và Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất tất cả các loài Ta đã dựng nên”. Vậy Noe thi hành mọi điều Chúa đã truyền dạy. Và sau bảy ngày, nước lụt đã xảy đến trên đất. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 28,
CHÚA SẼ CHÚC PHÚC CHO DÂN NGƯỜI TRONG CẢNH THÁI BÌNH (c. 11b).

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Mc 8, 14-21

Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: “Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê”. Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: “Tại mình không có bánh”. Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: “Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?” Các ông thưa: “Mười hai thúng”. – “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được
bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?” Họ thưa: “Bảy thúng”. Bấy giờ Người bảo các ông: “Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?” Đó là lời Chúa.

CẬY TRỜI MÀ KHÔNG CẬY MÌNH

“Ông Noe được nghĩa trước mặt Chúa”.

Ngày kia, có một bánh xe gỗ, nó rơi mất một mảnh. Khập khà khập khiễng, nó vụng về lăn qua các nẻo đường để tìm lại mảnh vỡ đã mất. Ngạc nhiên thay! Nhờ khiếm khuyết này, nó trở nên thân thiện với hoa lá và bạn bè hai bên đường. Cho đến một ngày, bánh xe tìm được mảnh vỡ, nó vui mừng và cố sức ráp lại; nó thấy mình tròn trịa duyên dáng. Nhưng cũng từ đó, nó cảm thấy xa lạ và không còn thân thiện như trước. Nó xé gió, lao đi vun vút; cỏ cây, chim chóc hai bên đường khiếp sợ. Rồi một chiều, nó cảm thấy cô đơn. Và rồi, nó dừng lại, quyết định tháo mảnh vỡ và ném nó thật xa. Bánh xe trở nên chính mình trong dáng vẻ trước đó; lần thần, khiêm hạ. Nhưng lạ thay, nó bình an; chim chóc, ong bướm, cỏ cây và mọi cảnh vật đang đón chờ nó.

Kính thưa Anh Chị em,

Trải nghiệm của bánh xe gỗ kia cũng có thể là trải nghiệm của mỗi người chúng ta; trải nghiệm về sự kiêu ngạo, trải nghiệm về sự khiêm nhường! Sách Sáng Thế và Tin Mừng hôm nay nói đến một điều mà Thiên Chúa gớm ghiếc, đó là kiêu ngạo; loài người kiêu ngạo, các môn đệ kiêu ngạo; đó là những con người ‘cậy mình mà quên cậy Trời’. Đang khi Thiên Chúa ưa thích những con người khiêm nhượng, những con người ‘cậy Trời mà không cậy mình!’.

Bài đọc Sáng Thế nói, “Thiên Chúa thấy tội ác loài người lan tràn trên mặt đất, tư tưởng lòng người luôn hướng về đàng xấu; Ngài đau lòng mà nói, ‘Ta sẽ huỷ diệt khỏi mặt đất loài người Ta đã dựng nên… Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nó’”. Giữa loài người kiêu căng, ai ai cũng ‘cậy mình mà quên cậy Trời’. May thay, Thiên Chúa tìm thấy Noe, một người ‘cậy Trời mà không cậy mình’; ông cậy trông Thiên Chúa, tuyệt đối khiêm nhường và Ngài đã cứu cả gia đình ông.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ bài học khiêm nhường nhân việc họ quên mang bánh. Phải chăng Ngài đã đọc được sự tự phụ nơi các học trò khi họ đổ lỗi cho nhau, “Tự mình không mang bánh”; hay phải chăng họ tự phụ ỷ lại việc đã có Thầy, một người đã từng nuôi đến mấy ngàn người với chỉ năm chiếc bánh và hai con cá; hay phải chăng lòng họ đã quá kiêu ngạo đến nỗi vô lo? Vì thế, Ngài bảo, “Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái”. Họ là những người coi mình tài giỏi, đạo đức; cho mình là may mắn hơn người bởi họ cầu nguyện nhiều, ăn chay nhiều và nhiệm nhặt giữ luật. Đó là lý do để họ kênh kiệu, tự coi là công chính, và khinh dể kẻ khác; thậm chí, coi khinh cả thầy trò Chúa Giêsu.

Anh Chị em,

“Ông Noe được nghĩa trước mặt Chúa”. Chớ gì, bạn và tôi là những người được nghĩa trước mặt Chúa. Để được vậy, điều quan trọng là chúng ta phải suy gẫm thường xuyên cùng với lòng biết ơn, “Bạn có gì mà đã không nhận được?”. Hãy nhớ rằng, ngay cả việc nên thánh của mỗi người chúng ta cũng khởi sự từ Thiên Chúa. Và nếu Ngài đã đưa chúng ta tiến xa đến mức này chỉ với ‘một lượng hợp tác’ khiêm tốn từ phía mỗi người, thì chúng ta có thể tiến xa hơn biết bao nếu cống hiến hết mình cho Ngài? Bao điều tốt đẹp sẽ nảy nở trong cuộc sống! Bao vấn đề sẽ được bàn tay Ngài định hình vì lợi ích của linh hồn mỗi người! Đừng quên, Thiên Chúa yêu thích những con người khiêm hạ, họ là những con người ‘cậy Trời mà không cậy mình!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con hợm hĩnh ‘cậy mình mà quên cậy Trời’; cho con xác tín rằng, trong mọi việc, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa, kể cả việc con nên thánh!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: Kim Bang Nguyen 

DẤU XÓT THƯƠNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Hai, Tuần VI Thường Niên, Năm Lẻ

Trích sách Sáng Thế. St 4, 1-15. 25

Ađam ăn ở với vợ là Evà; bà mang thai, sinh ra Cain, và nói rằng: “Nhờ ơn Chúa, tôi sinh được người con”. Bà sinh ra Abel là em. Abel thì chăn chiên, còn Cain thì làm ruộng. Sau một thời gian, Cain lấy hoa trái đồng ruộng dâng lên cho Chúa. Abel cũng bắt các con vật đầu đàn và lấy mỡ mà dâng lên cho Chúa. Chúa đoái nhìn đến Abel và của lễ ông dâng. Còn Cain và của lễ của ông, thì Chúa không nhìn đến, nên Cain quá căm tức và sụ mặt xuống. Chúa nói với Cain: “Tại sao ngươi căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế? Nếu ngươi làm lành, sao ngươi không ngẩng mặt lên; còn nếu ngươi làm dữ, thì tội đã kề ở cửa ngươi. Lòng ganh tị thúc đẩy ngươi, ngươi phải chế ngự nó”.

Cain nói cùng em là Abel rằng: “Chúng ta hãy ra ngoài”. Và khi hai anh em đã ra tới đồng, thì Cain xông vào giết Abel em mình. Chúa phán cùng Cain rằng: “Abel, em ngươi đâu?” Cain thưa: “Tôi đâu có biết! Tôi có phải là người giữ em tôi đâu?” Chúa phán: “Ngươi đã làm gì? Tiếng máu em ngươi từ đất kêu thấu đến Ta. Bây giờ, ngươi bị chúc dữ trên phần đất đã mở miệng hút máu em ngươi do tay ngươi làm đổ ra. Khi ngươi trồng tỉa, đất sẽ không sinh hoa trái cho ngươi. Ngươi sẽ đi lang thang khắp mặt đất”. Cain thưa cùng Chúa rằng: “Tội ác tôi quá nặng nề, đâu tôi còn đáng tha thứ. Hôm nay Chúa đuổi tôi ra khỏi mặt đất, tôi sẽ ẩn trốn khỏi mặt Chúa và tôi sẽ đi lang thang trên mặt đất, nhưng ai gặp tôi, sẽ giết tôi”. Chúa bảo: “Không có vậy đâu, hễ ai giết Cain, thì sẽ bị phạt gấp bảy lần”. Rồi Chúa ghi trên Cain một dấu, để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn.

Ađam còn ăn ở với vợ, bà sinh một con trai đặt tên là Seth, bà nói: “Thiên Chúa đã ban cho tôi một đứa con trai khác thế cho Abel mà Cain đã giết”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:

HÃY HIẾN DÂNG THIÊN CHÚA LỜI KHEN

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Mc 8, 11-13

Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm
lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào”. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia. Đó là lời Chúa.

DẤU XÓT THƯƠNG

“Họ xin Ngài một dấu lạ từ trời”.

Thomas Hooker hấp hối, một người bạn nói, “Thầy ơi, thầy sẽ nhận phần thưởng do công sức của mình!”. Hooker khiêm tốn trả lời, “Tôi sẽ nhận được lòng thương xót của Chúa; với tôi, được từ bỏ thế gian để về với Ngài là ‘dấu xót thương’ Ngài dành cho tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không chỉ sự ra đi của Hooker là ‘dấu xót thương’ của Thiên Chúa, nhưng ‘dấu trên trán’ của Cain trong bài đọc Sáng Thế và ‘dấu trên trời’ mà các biệt phái đòi Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đều là những ‘dấu xót thương’ của Ngài.

Bài đọc Cựu Ước kể chuyện Thiên Chúa đoái nhận lễ dâng tốt lành của Abel và không ưng nhận của lễ, có lẽ ít tốt lành, của Cain; vì thế, Cain sa sầm nét mặt. Thấy trước điều đó, Thiên Chúa thương tình cảnh báo, “Lòng ganh tị thúc đẩy ngươi, phải chế ngự nó!”. Cain bỏ ngoài tai, dẫn em ra đồng và giết em. Chúa nguyền rủa, đuổi Cain ra khỏi địa đàng. Cain thưa, “Ai gặp tôi, sẽ giết tôi”; Chúa bảo, “Không đâu!”, và “Chúa ghi trên trán Cain một dấu, để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn”. Phải chăng, đó là ‘dấu xót thương?’.

Với bài Tin Mừng, Marcô cho thấy một chi tiết khá lạ thường nơi Chúa Giêsu. Trước sự cứng lòng của các biệt phái khi họ đòi một dấu lạ từ trời, Ngài ‘thở dài não nuột!’. ‘Thở dài não nuột’ là một ngôn ngữ yêu thương, một ‘dấu xót thương’. Chi tiết này cho thấy nỗi đau sâu sắc nơi Ngài, một nỗi đau tinh thần, khi bị người khác từ chối tình yêu. Chúa Giêsu nhận ra rằng, họ đang từ chối ân sủng Ngài mang đến; và đây là điều làm Ngài tổn thương nhất. Không phải vì Ngài nhạy cảm; đúng hơn, vì Ngài thương xót vô bờ. Hiếm khi chúng ta nghĩ đến tình yêu Chúa Giêsu dành cho các biệt phái ngoài việc gay gắt lên án họ; thế nhưng hôm nay, Ngài ‘thở dài não nuột’, một ‘dấu xót thương’ thực sự là nỗ lực để lôi kéo họ, nhắc họ đừng thờ ơ và đừng khước từ Ngài.

Cuối cùng, để cứu bằng được những con người biệt phái cứng lòng và cả nhân loại cứng cỏi đáng thương, Chúa Giêsu không chỉ thở dài; nhưng còn phải nằm dài trên thập giá, chịu đóng đinh và chịu treo trên nó. Thập giá là dấu lạ vĩ đại nhất trong các dấu lạ; một dấu lạ từ đất thấp vói tới trời cao; trên đó, Con Thiên Chúa treo lơ lửng giữa trời và đất, đó cũng là ‘dấu xót thương’ lớn lao nhất; bởi lẽ, nó chứa đựng chính ‘tác giả của dấu lạ’. Dấu lạ này muôn đời tồn tại! Ở đâu có Kitô hữu, ở đó có hình bóng thập giá và thánh giá thật trong đời. Dấu này chỉ có thể đọc được nhờ đức tin; vì chỉ đức tin mới mở ra được mầu nhiệm của nó. Chúa Giêsu hôm nay đang tự hạ để ở lại với chúng ta bằng mọi giá; Ngài tự hạ dưới dấu lạ của bánh và rượu, các Bí Tích, và cả dưới hình dạng của những con người khốn khổ và thánh giá của họ.

Anh Chị em,

“Họ xin Ngài một dấu lạ từ trời”. Thập giá là dấu lạ từ trời! Thập giá là ‘dấu xót thương’ vĩ đại nhất Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa đã biến sự chết cũng như thập giá, một dụng cụ tàn độc nhất thành dụng cụ diễn tả tình yêu bao dung, tha thứ nhất; một dụng cụ giết người thành dụng cụ giải thoát con người khỏi phải án chết đời đời; một dụng cụ chế nhạo của con người thành dụng cụ diễn tả chiến thắng vinh quang của Con Thiên Chúa và vinh quang của những ai theo Ngài.

Đó là cách thức Thiên Chúa cứu độ con người. Qua bao thế hệ, tội lỗi của con người cứ tiếp diễn, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy tràn lan trên thế gian này; và thập giá Đức Kitô không ngừng dang tay đợi chờ để ôm lấy tất cả những ai biết chạy đến với Ngài. Vậy bạn và tôi đâu còn phải chờ đợi một dấu nào khác!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dẫu con yếu hèn bất xứng, Chúa vẫn ban cho con biết bao ‘dấu xót thương’. Cho con cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, hầu con ao ước nên thánh hơn mỗi ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

Tại sao các dấu hiệu thánh của phụng vụ cũng cần có những lời nói nữa?-Cha Vương

Chúc bạn một tuần mới thật nhiệt huyết sau trận đấu Super Bowl 2023 hôm qua (giải vô địch bóng bầu dục Mỹ). Ai thắng độ hãy chia sẻ cho kẻ nghèo đói nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/02/2023

GIÁO LÝ: Tại sao các dấu hiệu thánh của phụng vụ cũng cần có những lời nói nữa? Cử hành phụng vụ có nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa, để cho Người hành động, để nghe Người nói và đáp lời Người. Giống như các cuộc đối thoại luôn cần diễn tả bằng lời nói và cử chỉ. (YouCat, 182 số)

SUY NIỆM: Chúa Giêsu đã nói với loài người bằng các dấu hiệu và lời nói. Hội thánh cũng làm như thế khi linh mục dâng lễ vật và nói: “Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy”. Lời này của Chúa Giêsu làm cho các dấu hiệu trở thành bí tích: dấu hiệu thực hiện cái mà nó có ý chỉ.

Các thiên thần cùng nhau ca lên: “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa” (Is 6,3) (YouCat, số 182 t.t.)

❦ [Khi giảng dậy, Đức Giêsu thường dùng những dấu hiệu trong thiên nhiên để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (x. Lc 8,10). Ngài thực hiện việc chữa lành và củng cố Lời Ngài giảng bằng những dấu hiệu hữu hình hay hành động biểu trưng (x. Ga 9,6 ; Mc 7,33-35 ; 8,22-25).

Ngài đem lại ý nghĩa mới cho những biến cố và dấu hiệu của Cựu ước, nhất là biến cố Xuất hành và Vượt qua (x. Lc 9,31 ; 22,7-20), vì chính Ngài là ý nghĩa của mọi biểu trưng này GL 1151.

❦ Trong các cử hành Phụng vụ và Bí tích, một mặt Giáo Hội sử dụng những dấu hiệu và biểu tượng Tân ước hoàn tất các biểu trưng Cựu ước, mặt khác, thanh luyện và tiếp nhận tất cả sự phong phú của những dấu hiệu và biểu tượng trong thiên nhiên và trong đời sống xã hội của nhân loại.] (Nguồn: Phụng Vụ Cử Hành Như Thế Nào?, Lm. Ant Nguyễn Đức Khiết)

LẮNG NGHE: Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (Ga 9:6-7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, khi tạo dựng con người, Chúa ban cho con có hồn và xác— giác quan và linh thiêng. Và còn phú cho con có khả năng diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu hiệu và biểu tượng vật chất. Xin giúp con biết sử dụng những món quà này cho đúng để cảm nghiệm được Chúa đang hiện diện trong việc cử hành phụng vụ và bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể.

THỰC HÀNH: Tích cực tham dự Thánh Lễ – chú tâm vào lời kinh tiếng hát để hết lòng ca tụng, kết hiệp và tôn vinh Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Kẻ kính sợ ĐỨC CHÚA sẽ thi hành, và người tuân giữ Lề Luật sẽ đạt được khôn ngoan. (Hc 15:1)-Cha Vương

Một ngày Chúa Nhật hạnh phúc hoà quyện với sự bao dung nhé.

Cha Vương

CN: 12/2/2023

TIN MỪNG: Kẻ kính sợ ĐỨC CHÚA sẽ thi hành, và người tuân giữ Lề Luật sẽ đạt được khôn ngoan. (Hc 15:1)

SUY NIỆM:Khi đối mặt với một vấn đề hoặc khó khăn lớn trong cuộc sống bạn có khuynh hướng đi tìm kiếm sự trợ giúp của người có chuyên môn trong lĩnh vực đó. Ví dụ, một người đang đối mặt với các vấn đề tài chính có thể tìm đến một cố vấn tài chính để được giúp đỡ trong việc phát triển một kế hoạch khả thi nhằm giải quyết các vấn đề của họ. Người tìm kiếm sự giúp đỡ khi gặp tình huống khó khăn thể hiện cả sự khôn ngoan và lòng khiêm tốn, vì không ai tự cho mình là có tất cả các câu trả lời cho cuộc sống.

Tin Mừng trong sách Huấn Ca mời gọi bạn hãy thi hành và tuân giữ lề luật của Chúa để đạt được sự khôn ngoan. Khôn ngoan của Chúa, qua sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, sẽ giúp bạn đi đúng con đường của sự sáng, sự thật và sự sống. Giới Luật của Chúa được ví như sợi dây an toàn trong xe ô tô. Dây an toàn là bộ phận tuy nhỏ nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn và nó có thể cứu được mạng sống của người ngồi trên xe.

Mình để ý trong chuyến đi thăm gia đình ở Việt Nam vừa qua có việc xử dụng chốt cài dây an toàn giả, hoặc cài dây an toàn ở sau lưng. Khi mình hỏi thì bác tài nói việc làm này khá phổ biến hiện nay của nhiều người lái xe nhằm đối phó với tiếng “bíp” liên tục phát ra từ trên xe nhắc cài dây an toàn. Nguy hiểm quá đi hả! Trong đời sống tâm linh cũng thế, nếu bạn cứ bác bỏ hoặc lờ đi tiếng “bíp” của lương tâm, của sự khôn ngoan hay một khía cạnh nhỏ của giới răn Chúa, thì bạn thật liều lĩnh và tự đưa mình vào một cõi bất hạnh và nguy hại đó.

Vậy hôm nay bạn hãy tự xét lại thái độ sống đạo của mình nhé. Bạn tuân giữ giới răn của một cách nghiêm túc hay hời hợt? Bạn có dùng “chốt cài dây an toàn giả” để lờ đi tiếng “bíp” của lương tâm không? Khẩu hiệu: “Thắt dây an toàn cứu mạng người” có hiệu nghiệm như thế nào thì việc tuân giữ các giới răn của Chúa cũng sẽ cứu sống linh hồn của bạn như vậy.  Nhớ thắt dây an toàn nhé!

LẮNG NGHE: Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI. (Tv 119:1)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con biết noi gương Me Ma-ri-a: Luôn lắng nghe lời Chúa và mau mắn thưa “xin vâng”. Và xin cho con luôn nghĩ đến những người bệnh tật, nghèo khổ và bất hạnh, để chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa vậy.

THỰC HÀNH: Trong 10 điều răn Đức Chúa Trời bạn vi phạm giới răn nào nhiều nhất? Tự xét mình rồi chạy đến toà cáo giải để xin ơn tha thứ. Đừng quên cài dây an toàn nhé.

From: Đỗ Dzũng

Xin Lỗi Chúa – Phương Anh & Phương Ý

ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC VÀ THÁNH NỮ BERNADETTE

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lộ Đức là trung tâm hành hương quốc tế.  Cách đây mấy năm, tôi có đi hành hương Đức Mẹ Lộ Đức.  Từ Rôma qua hướng Tây Ban Nha, vượt đỉnh Pyrênê đến miền Nam nước Pháp.  Lộ Đức nằm ở một vị trí khá hẻo lánh, thuộc một tỉnh nhỏ.  Nơi đây, từng giờ từng phút, khách thập phương tấp nập đổ về để dâng lễ, cầu nguyện và xin ơn với Đức Mẹ.

Khi bước vào Vương Cung Thánh Đường Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi thấy bên phải, có phiến đá cẩm thạch ghi lời tuyên bố long trọng của Đức Giám Mục Laurence về những lần hiện ra của Đức Mẹ: “Chúng tôi tuyên bố rằng Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous, ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần, trong hang động Massabielle, gần thành Lộ Đức; rằng sự hiện ra này mang tất cả những tính cách của sự thật, và các giáo hữu đều đã tin là chắc chắn.  Chúng tôi xin dâng cách khiêm nhường sự phán đoán của chúng tôi cho Sự Phán Đoán của Đức Giáo Hoàng, Vị được giao trọng trách guồng lái Giáo Hội hoàn vũ.”

Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.

Ngày 28 tháng 07 năm 1858, Đức Giám Mục địa phận Lộ Đức đã thiết lập Ủy Ban Điều Tra về những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại hang đá Massabielle.  Công việc điều tra kéo dài trong 4 năm.

Trang web: lourdes-france.com, cho biết công việc nghiên cứu điều tra tỉ mỉ và sự phân định sáng suốt, trong lời kinh nguyện.  Sau 4 năm, ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Giám Mục, nhân danh Giáo Hội, nhìn nhận những lần hiện ra là đích thực.  Giáo Hội nhìn nhận chính thức những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, dựa trên chứng từ xác quyết của cô Bernadette Soubirous.

Đức Thánh Cha Lêô XIII chấp thuận mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Thánh Cha Piô X cho phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này vào ngày 11.2 hàng năm.

Chúng tôi dâng lễ tại Hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra.  Cạnh bàn thờ dâng lễ là mạch nước chảy không ngừng từ trong Hang Đá.  Ngày nay, mạch suối này được dẫn xuôi theo Nhà thờ tới chân tháp để khách hành hương tới lấy nước và uống nước suối này.  Tôi uống liền mấy ly và đem về 5 lít nước để tặng cho bà con giáo dân.

Hành hương về Lộ Đức, tôi được hiểu biết thêm nhiều về lịch sử và sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi qua thánh nữ Bernadette.

Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức.  Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam.  Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân.  Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ.

Theo lời kể của Bernadette. Hôm đó là ngày thứ năm, 11.02.1858, được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi.  Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô.  Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu.  Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle.  Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle.  Theo lời mô tả của cô, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi.  Bernadette tưởng mình như đang mơ.  Cô bước thêm bước nữa.  Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười.  Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng.  Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn.  Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.

Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô.  Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa.  Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.

Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.

Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không?  Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”

Trong 15 ngày tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều.  Cô kể:“Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải.  Trong vòng 15 ngày ấy, Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai.  Tôi vẫn trung thành giữ kín.  Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà 3 lần liên tiếp: Bà là ai?  Nhưng Bà chỉ mỉm cười.  Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư.  Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU.’”  Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng pháp là: ‘Je suis l’Immaculée Conception’, và dịch sang tiếng Việt Nam là: ‘Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.’

Các bậc khôn ngoan chống đối, dân chúng xúc động, cảnh sát thẩm vấn Bernadette nhiều lần.  Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa.  May mắn là cô không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn.  Các nữ tu dạy học cũng tỏ ra bất bình, còn Bernadette vẫn luôn giữ được thái độ khiêm tốn lịch sự.

Ngày 25/02/1858, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quì xuống.  Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô cúi xuống lấy tay cào đất.  Một dòng nước vọt lên.  Dòng nước đó đến nay cứ chảy mãi, cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.

Ông biện lý cho gọi Bernadette tới.  Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa.  Cuối cùng ông kết luận:

  • Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?

Nhưng Bernadette bình tĩnh trả lời cách rõ ràng.

  • Thưa ông, cháu không hứa như vậy.

Cha sở tỏ ra nghi ngại, ngài cấm các linh mục không được tới hang.  Khi Bernadette tới gặp ngài và thuật lại ““người thiếu nữ diễm lệ” nói: “Ta muốn mọi người tổ chức rước kiệu tại đây.”  Cha sở liền quở trách và gằn từng tiếng:

  • Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ Đức, phải nói cho rõ rệt.  Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à?  Trước hết Bà phải cho biết Bà tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.
  •  Dòng nước vẫn chảy thành suối.  Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước.

Đã có những phép lạ nhãn tiền:

  • Một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng.
  • Một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục.
  • Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ.   Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: – Nó chết rồi.  Người mẹ chỗi dậy.  Không nói một lời nào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh.  Dân chúng cho rằng bà khổ quá hóa điên.  Sau khi tắm cho bé khoảng 15 phút, bà ẵm con về nhà.  Sáng hôm sau, bé hết bệnh.  Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.

Báo chí công kích dữ dội và cho rằng đó chỉ là ảo tưởng.  Bernadette vẫn giản dị vui tươi tự nhiên.  Hàng ngày cô trở lại hang đá.

Ngày 25/03, cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng trở nên rạng rỡ.  Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt:

  • Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội.

Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ được truyền từ miệng người này sang người khác.  Đám đông cất cao lời cầu khẩn:

  • Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.

Ngày 8.12.1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus.  Hơn ba năm sau, trong lần hiện ra ngày 25.3. 1858, Đức Mẹ tự xưng là: “Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers.  Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại.  Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị.  Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15.4.1879, khi mới 35 tuổi.  Sơ Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1933.  Lễ kính thánh nữ vào ngày 16/04 hàng năm.

Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhất là đức tin.  Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên.  Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.

Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân.  Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức.  Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim “Song of Bernadette:” “Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích.  Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ.

Sứ điệp Đức Mẹ trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi sau đây:

  1. Mời gọi cầu nguyện: Khi hiện ra lần thứ nhất, Mẹ đã dạy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng.  Mỗi lần hiện ra Mẹ đều làm như vậy.  Mẹ còn dạy riêng cho Bernadette một kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.
  2. Mời gọi sám hối: Đức Trinh Nữ lập lại với Bernadette ba lần: ‘Hãy sám hối, sám hối, sám hối.’  Ngày 25-2-1858, Mẹ nói với Bernadette: ‘Con hãy đến uống và rửa ở suối này.’  Mẹ chỉ cho cô tìm ra một dòng suối.  Suối nước này ban đầu rất đục, sau đó bùn lắng xuống rồi trở thành suối nước trong lành.   Đó là dấu hiệu cho sự sám hối. Nó tượng trưng cho sự lắng đọng trong tâm hồn tất cả những gì là vẩn đục hầu nên thanh sạch hơn.
  1. Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện: “Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu.”  Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích Thánh Thể.  Để đáp lại nguyện vọng của Đức Maria mà ba đại giáo đường và 2 Nhà thờ khá lớn lần lượt được xây dựng ở đây. “Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn,” cha sở Lộ Đức Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình bày về lời yêu cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.  Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu.  Chính tại nơi đây, Thánh lễ cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng.  Lộ Đức xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tích Thánh Thể.”

Hai buổi chiều, tôi dành thời giờ ngồi bên dòng sông Pau, đối diện với Hang Đá, ngắm nhìn Vương Cung Thánh Đường uy nghi xây vách đá, nơi Đức Mẹ hiện ra, nhìn dòng người không ngớt cầu nguyện dưới chân Mẹ.  Tôi hiểu tại sao Giáo hội, trong dọc dài thời gian hơn hai ngàn năm qua vẫn luôn vững bền và phát triển cho dù trải biết bao thăng trầm dâu bể của lịch sử nhân loại.  Nhờ Mẹ Maria luôn chở che Giáo hội như Mẹ đã bao bọc nâng đỡ các Tông Đồ sau Lễ Ngũ Tuần.  Mẹ là dòng sông tưới mát cho nhân loại đang trên hành trình tìm về nguồn hạnh phúc bên Chúa.

Lộ Đức là địa chỉ của tình thương, là điểm hẹn của bình an nội tâm.  Tạ ơn Đức Mẹ và xin Mẹ thương ban ơn cho các bệnh nhân.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

MỞ RA KHÔNG GIAN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Bảy, Tuần V Thường Niên, Năm Lẻ

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Mc 8, 1-10

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến”. Các môn đệ thưa: “Giữa nơi hang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no!” Và Người hỏi các ông: “Các con có bao nhiêu bánh?” Các ông thưa: “Có bảy chiếc”. Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát. Các ông chia cho dân chúng. Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ. Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát. Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng. Số người ăn độ chừng bốn ngàn. Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền mà đến miền Đalmanutha. Đó là lời Chúa

💜MỞ RA KHÔNG GIAN

“Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn?”; “Các con có bao nhiêu bánh?”.

Bettrand Russell từng là Kitô hữu; nhưng về sau, ông đã công khai trở thành một nhà vô thần. Con gái ông, Katharine Tait nói, “Đã một thời, tận trong đáy sâu thẳm tâm hồn của cha tôi, có một khoảng trống từng được Chúa lấp đầy; ông đã từng ‘mở ra không gian’ cho Ngài. Nhưng, một khi đã tống Ngài ra, ông không bao giờ tìm được bất cứ một thứ gì khác để đặt vào đó!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Russell từng có một khoảng không gian cho Chúa. Thật thú vị, Tin Mừng hôm nay cũng đề cập khoảng không gian đó qua hai câu hỏi thú vị; một của các môn đệ, một của Chúa Giêsu. Câu hỏi thứ nhất, một câu hỏi khép kín không gian, “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn?”; câu hỏi thứ hai, một câu hỏi ‘mở ra không gian’, “Các con có bao nhiêu bánh?”.

Mặc dù câu hỏi thứ nhất rất nhân bản; nhưng xét cho cùng, nó tiết lộ một sự nghèo nàn thiêng liêng vì các môn đệ xem ra không đặt niềm tin vào Thầy. Đó là một câu hỏi bi quan, hơi hướng mùi tuyệt vọng. Với loại câu hỏi này, một nếp nghĩ, một tầm nhìn thiển cận sẽ hình thành khi chúng ta tự co rút để cam chịu một hoàn cảnh, một số phận; cách đặt vấn đề khá ủ dột này sản sinh một loạt câu hỏi, biện minh cho sự bất khả trước bao vấn đề. Nhiệm vụ là bất khả thi, tại sao tôi cố gắng? Lực bất tòng tâm, tại sao tôi mất thời giờ? Lối nghĩ này ngăn cản chúng ta mạo hiểm làm những điều tuyệt vời cho Chúa; và ngược lại, khiến chúng ta không mong đợi điều tuyệt vời đến từ Ngài! Không ‘mở ra không gian’ cho Chúa, chúng ta ‘vui hưởng’ thú đau thương trước những tình huống dường như vô vọng; như thể, Thiên Chúa không toàn năng!

“Các con có bao nhiêu bánh?”; ngược lại, là một câu hỏi hoàn toàn khác. Đây là loại câu hỏi tích cực, tiềm tàng một niềm hy vọng và lạc quan; vì lẽ, nó luôn ‘mở ra không gian’ cho Thiên Chúa. Qua đó, Chúa Cha có thể thực hiện một phép lạ để chứng thực quyền năng của Ngài. Chỉ cần một chút những gì sẵn có, cả khi chúng dường như ‘không đủ đến vô vọng’, “bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ” trao cho Chúa Giêsu; với cái ít ỏi đó, Ngài sẽ nhân lên để nuôi sống cả ngàn người.

Phaolô từng nói, “Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài để làm nhiều điều lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới”; dĩ nhiên, với điều kiện, mỗi người biết hào phóng cho đi những gì mình có, dù chúng có vẻ nhỏ nhoi.

Thật thú vị, bài đọc Sáng Thế hôm nay tiết lộ, Thiên Chúa cũng ‘mở ra không gian’ cho Ngài; đúng hơn, Ngài mở ra sự xót thương ngay trong cơn giận khi đuổi nguyên tổ khỏi địa đàng, “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó”; đó là “tiền Tin Mừng!”. Rồi đây, con cháu nguyên tổ sẽ nhận ra điều này, “Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia” như tâm tình Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ.

Anh Chị em,

“Các con có bao nhiêu bánh?”, Chúa Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như thế! Mỗi ngày, đến với Thánh Thể, chúng ta ‘mở ra không gian’ linh hồn cho Ngài ngự vào, một không gian chật hẹp, và đôi khi, rất tăm tối; thế nhưng, Ngài vẫn đoái thương hạ cố. Cũng ở đó, cùng một câu hỏi, Ngài tiếp tục hỏi và chờ đợi phần ‘bánh và cá’ còm cõi của bạn và tôi; để từ đó, Ngài có thể tiếp tục nhân lên, nhân lên… hầu nuôi sống bao nhiêu anh chị em khác.

Ước mong sao, đền thờ tâm hồn chúng ta ngày càng sạch trong, xứng đáng cho Chúa Giêsu chiếm ngự; và ước mong sao, chúng ta biết dâng phần ít ỏi của mình vào tay Ngài, để Ngài có thể mở ra những không gian mới cho Vương Quốc của Cha qua chính chúng ta, những nhà tạm di động của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con đoạn tuyệt với những ràng buộc rối loạn với các tạo vật, để bám rễ vững chắc vào Đấng Tạo Thành! Nhờ đó, con tiếp tục ‘mở ra không gian’ cho Chúa!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

SỐNG THEO SỰ THẬT – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế.  Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.

Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình.  Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa.  Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”  Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại.  Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa.  Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản.  Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân.  Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.

Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa.  Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp.  Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật.  Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực.  Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt.  Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ.  Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình.  Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra.  Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá.  Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.

Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình.  Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh.  Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…  Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I).  Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy.  Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ.  Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên.  Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.

Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha.  Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta.  Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.  Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa.  Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian.  Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian.  Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.

Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.  Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim