CHÚA GIÊSU VÀ QUÂN DỮ – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Sau nụ hôn phản bội, Giuđa lẩn vào đám người đến bắt Chúa Giêsu.  Công việc của hắn đã xong.  Việc hắn phải làm lúc này là hồi hộp quan sát với hy vọng rằng những người bắt Chúa Giêsu sẽ thực hiện đúng giao kèo và không để Chúa Giêsu vuột khỏi như bao lần trước trong quá khứ.

Chúa Giêsu không có ý định như vậy, nếu Ngài muốn thì cũng chẳng ai làm gì được Ngài.  Thay vì chờ kẻ thù ra tay, Ngài nói với họ: “Quý vị tìm ai?”  Họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét

.”  Ngài xác nhận: “Chính tôi đây.  Mặc dù đã có dấu chỉ điểm của Giuđa là nụ hôn, họ có vẻ vẫn nghi ngờ.  Ngu dốt hết sức!  Họ nghi người này dám ra mặt như thế thì không thể là người mà họ muốn bắt.

Thánh Gioan cho biết rằng khi Chúa Giêsu nói “Chính tôi đây” thì quân dữ đã “lùi lại và ngã xuống đất.”  Khi giải thích về sự té ngã của họ, chắc chắn rằng Thánh Gioan coi đó là một phép lạ do quyền năng của Chúa.  Có thể không phải cả đám họ đều ngã hết; có thể chỉ những người đứng ngay trước mặt Chúa Giêsu mới ngã, đó chính là những viên chỉ huy đã hỏi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu cho phép điều gì đó thuộc quyền năng của Ngài để chiếu tỏa trong lời Ngài và vẻ uy nghi của Ngài, kẻ thù phải giật lùi và ngã nhào.  Đây không là lần đầu tiên Chúa Giêsu khiến kẻ thù hoảng sợ vì vẻ uy nghi của Ngài (x. Ga 7:44; 10:39).  Ngài sẽ mở đường cho họ bởi vì đó là ý muốn của Chúa Cha, nhưng không phải trước khi cho họ thấy rằng Ngài tự do hành động.  Ngài làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:7).  Ngài làm vậy không phải vì yếu đuối mà vì chọn lựa.

TÌNH HUỐNG và THANH GƯƠM

Kẻ thù của Chúa Giêsu liền tận dụng tình huống này.  Chúa Giêsu trao mình mà không hề chống cự và xin tha cho các đệ tử.  Không có chiến đấu nên không có nguy hiểm, thế nên một số người trong đám lính tỏ ra hăng hái, bước tới và bắt Chúa Giêsu.  Giuđa giữ đủ mức độ yêu thương và lòng kính trọng dành cho Thầy để an thân, hắn để cho người khác hành động.  Các môn đệ ngạc nhiên trước các sự kiện này.  Chưa bao giờ họ thấy Thầy bị đối xử tồi tệ như vậy.  Những lần trước, khi kẻ thù tìm cách bắt Ngài, Ngài chỉ lặng lẽ lánh đi nơi khác, thế mà bây giờ Thầy lại chịu để cho chúng bắt.  Lúc này họ thấy Ngài nắm chặt hai bàn tay.

Ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ xin ý kiến của Thầy Giêsu để có thể chiến đấu bằng gươm, vì hai người trong số họ có gươm, nhưng họ không hiểu ý Thầy mình.  Chiều tối, Ngài nói với họ: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”  Họ đáp: “Thưa không.  Ngài bảo họ: “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua.  Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp.  Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất.  Họ thưa với Thầy Giêsu: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.  Ngài bảo: “Đủ rồi!” (Lc 22:35–38).  Có thể họ nghĩ rằng đây là cách Chúa Giêsu nói tới sự cấp bách.  Sự mạnh dạn của họ lớn hơn sự khôn ngoan.  Có gươm giáo trong tay, một số người trong số họ chờ lệnh của Thầy Giêsu, sẵn sàng xông vào đám lính Rôma.

Lúc đó, hành động nhanh chóng, vì Chúa Giêsu không còn thời gian để trả lời họ.  Phêrô bộc trực khi thấy Thầy bị bắt.  Ông không đợi Thầy trả lời, mà liền vung gươm chém thẳng vào đầu Malchus, một trong những người đang bắt giữ Thầy Giêsu.

Sau khi Phêrô chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, Chúa Giêsu nghiêm giọng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ý nghĩa câu nói không rõ ràng.  Có thể Chúa Giêsu có ý nói rằng “Cứ để như thế, không còn bạo lực nữa,” hoặc là “Cứ để mọi sự diễn biến; cứ để họ bắt Thầy.”  Trong lúc bị thương, hẳn là Malchus buông tay ra, và Chúa Giêsu liền dùng tay để gắn tai cho hắn.  NếuThầy Giêsu không làm phép lạ chữa lành tai cho Malchus, hẳn là Phêrô khó yên thân trong sân dinh thượng tế tối hôm đó.

Chúa Giêsu vẫn chủ động.  Quay sang Phêrô, Ngài nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ngài không tham dự vào việc tự vệ bằng bạo động, Ngài muốn yêu thương.

Bạo lực sinh ra bạo lực, đổ máu dẫn đến đổ máu nhiều hơn.  Dùng gươm phải được phép, nếu không sẽ phạm pháp.  Hơn nữa, Chúa Giêsu không cần họ trợ giúp: “Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao?  Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26:53).  Một đạo quân có 6.000 người.  Thay vì 12 môn đệ yếu đuối bảo vệ Ngài, Ngài có thể xin Chúa Cha ban cho mười hai lần sáu ngàn thiên thần giúp đỡ Ngài – tức là 12 x 6.000 = 72.000 quân.

Sau khi nói với Phêrô, Chúa Giêsu quay sang đám người đến bắt Ngài.  Mặc dù Ngài nói với mọi người, nhưng Ngài nhắm đến những kẻ có chức quyền, những kẻ chịu trách nhiệm về những gì xảy ra – các thượng tế, những người coi Đền Thờ, và các bô lão.  Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến?  Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt.  Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:52–53).

BẮT GIỮ

Chúa Giêsu không phản đối việc bắt Ngài nhưng phản đối cách thức, thời gian và nơi chốn mà họ bắt Ngài.  Họ đối xử với Ngài như thể Ngài là kẻ trộm cướp, trưởng băng đảng có vũ khí, hoặc kẻ phạm pháp.  Nếu có vấn đề sự khác nhau về học thuyết, họ cũng biết rất rõ rằng họ vẫn thấy Ngài giảng dạy ở Đền Thờ.  Họ có thể bắt Ngài giữa thanh thiên bạch nhật và đưa Ngài ra trước hội đường.  Chúa Giêsu biết tại sao họ không làm vậy – và chính họ cũng biết điều đó.  Họ biết họ kết tội Chúa Giêsu về những lời Ngài nói.  Họ sợ dân chúng vì tính thâm độc trong động lực và sự bất công trong cách đối xử của họ dành cho Chúa Giêsu.

Nhưng có ý nghĩa sâu xa về những gì xảy ra.  Họ là những kẻ độc ác.  Do đó hành động của họ hoàn tất lời tiên tri, như Chúa Giêsu đã xác định: “Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (Mc 14:49b).  Những gì họ làm đều được Thiên Chúa sử dụng và ăn khớp với kế hoạch cứu độ.

Lúc đó, quân dữ có vẻ đã thắng thế.  Chúa Giêsu nói: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:53b).  Họ đã nhiều lần muốn bắt Ngài nhưng không thể bởi vì giờ của Ngài chưa đến.  Bây giờ là lúc họ có thể tự do hành động.  Satan là hoàng tử của bóng tối, nó đã nhập vào Giuđa, kẻ thủ mưu thành công.  Giờ hành động của quân dữ cũng là giờ của quyền lực tối tăm, bởi vì họ hành động với tư cách là liên minh và vũ khí của Satan.

CÁC MÔN ĐỆ CHẠY TRỐN

Sau khi nói với đám quân dữ, Chúa Giêsu im lặng.  Các Thánh sử không cho biết có sự thảo luận giữa các môn đệ hay không, về những gì nên làm hoặc nên nói.  Các Phúc Âm chỉ cho biết cách hành động của các môn đệ: “Bấy giờ CÁC MÔN ĐỆ BỎ NGƯỜI MÀ CHẠY TRỐN HẾT” (Mt 26:56b).

Chạy trốn là hèn nhát, đáng xấu hổ.  Họ xa tránh Thầy Giêsu trong lúc nguy hiểm và bỏ mặc Thầy trong tay kẻ thù.  Tuy nhiên, chúng ta không nên coi đó là điều khó làm dịu tính nghiêm khắc về việc kết tội.  Chúa Giêsu đã giải tán họ và nói: “Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8).  Ngài phản đối họ dùng gươm giáo, vả lại Ngài cũng không tỏ dấu hiệu bỏ trốn.  Họ phải mau mắn quyết định điều cần làm, trong khi đó họ vẫn chăm chú theo dõi Chúa Giêsu, và họ quyết định chọn cách an toàn cho bản thân.   Khi họ thấy Chúa Giêsu bị bắt mà không tìm cách thoát thân, họ lẩn vào bóng tối của những tán cây ô-liu. Điều đó ứng nghiệm lời tiên tri về lời nói của Chúa Giêsu: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26:31).  Khi đó, Thánh Gioan thấy Thầy Giêsu đơn độc nên cảm thương: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do Thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại” (Ga 18:12).

Khi Chúa Giêsu đã bị trói chặt và bị quân lính vũ trang vây quanh, đám quân dữ bắt đầu dàn hàng tiến về thành phố.  Thánh Gioan cho biết rằng “họ điệu Chúa Giêsu đến ông Kha-nan, nhạc phụ của ông Cai-pha.  Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó” (Ga 18:13).  Truyền thống đặt dinh của ông Kha-nan– có lẽ cũng như dinh của ông Cai-pha – trên ngọn đồi phía Tây của thành phố, khoảng 60m tính từ căn phòng mà Chúa Giêsu đã ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ vài giờ trước đó.

THANH NIÊN CHẠY TRỐN

Đêm tối, mọi người trong thành phố đã yên giấc.  Chỉ có những lính canh còn thức bên các bức tường. Thánh Máccô cho biết rằng các môn đệ đã bỏ của chạy lấy người.  Trong các Phúc Âm, chỉ có Máccô thú nhận sự thật này: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai.  Họ túm lấy anh.  Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14:51–52).

Thánh Máccô là người theo Chúa Giêsu khi còn khá trẻ – chưa tới 20 tuổi.  Ông không đi theo xa xa, mà đi theo trong đám đông.  Điều này cho thấy rằng ông không đi theo vì tò mò hoặc hiếu kỳ, mà thực sự quan tâm, thế nên ông trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.  Và rồi ông bị quân dữ tóm lấy, nhưng ông bỏ áo để thoát thân, sợ quá nên ông chẳng ngại gì nữa dù lúc đó ông “trần như nhộng.”

Trình thuật Tin Mừng không cho chúng ta biết tình trạng đó của Mác-cô xảy ra trong khi người ta “dẫn độ” Chúa Giêsu từ Vườn Dầu tới dinh Kha-nan.  Có thể chàng trai trẻ Mác-cô là con của chủ nhân căn biệt thự Ghết-si-ma-ni và thức giấc vì tiếng la hét ồn ào của đám quân dữ.  Có một truyền thống cho rằng mẹ của Thánh Mác-cô là chủ căn nhà mà Chúa Giêsu và các môn đệ ăn Bữa Tiệc Ly.  Nếu truyền thống này đúng về vị trí của Phòng Tiệc Ly và dinh Kha-nan, hẳn là đám quân dữ dẫn tù nhân đi ngang qua Phòng Tiệc Ly.  Căn nhà của mẹ Thánh Mác-cô là một trong những nơi hội họp đầu tiên của các Kitô hữu thời sơ khai.  Đó là nơi mà Thánh Phêrô tới sau khi được thiên thần giải thoát khỏi nhà tù (Cv 12:12).

Chứng cớ chưa đủ thuyết phục, nhưng có điều nhỏ cho biết rằng chàng trai trẻ kia chính là Thánh Mác-cô.  Nếu đúng vậy, chúng ta có thể hình dung sự kiện đó vẫn sống động trong trí nhớ.  Nếu Thánh Mátthêu, Thánh Luca và Thánh Gioan biết điều này, hẳn là họ đã bỏ qua vì thấy không quan trọng.  Đối với Thánh Mác-cô, điều đó giống như một dấu ấn mà chính ông đã ghi dấu trong Phúc Âm do ông viết ra, giống như Thánh Gioan đã nói tới chính mình bằng cách nói “người môn đệ Chúa yêu.”

Lm Ralph Gorman –

 Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim

NGUỒN SỐNG ĐÍCH THỰC – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Người Âu châu thường dùng biểu tượng con bướm để nói về sự phục hồi, tái sinh và phát triển.  Thật là thú vị khi được ngắm những cánh bướm muôn màu vui đùa trong ánh nắng vàng mùa xuân, giữa những bồn hoa đang rực rỡ khoe sắc đua hương.  Những cánh bướm tô điểm cho những đóa hoa vốn đã tươi đẹp càng thêm tươi đẹp hơn.

Nhìn cánh bướm lộng lẫy kiêu sa dưới ánh mặt trời, ít ai ngờ rằng tiền kiếp của con bướm là con sâu sù sì xấu xí khiến ai nhìn thấy cũng phải tránh.  Để được hóa kiếp thành chú bướm xinh đẹp, con sâu phải đau đớn thoát ra khỏi xác thân xấu xí ấy.  Khi còn là loài sâu, đối tượng phá hoại của nó cũng là những cây hoa.  Cây hoa nào mà có sâu thì cành lá tan nát, đóa hoa héo tàn.  Phải chăng vì muốn bù lại hành vi phá hoại ấy, mà nay, một khi hóa thân thành bướm, những chú bướm vuốt ve mơn trớn và tô điểm cho hoa thêm đẹp thêm xinh?

Mùa Chay là mùa biến đổi cuộc đời.  Những hy sinh khổ chế của Mùa Chay nhằm tới sự sống mới, như con sâu lột xác thành con bướm.  Lời Chúa hôm nay muốn nhắn gửi chúng ta sứ điệp của sự sống, để hướng chúng ta tới Đức Giê-su là nguồn sống đích thực.

Con người ngày càng cảm nhận sự mong manh của cuộc sống trần gian.  Như đóa hoa nay còn mai mất, con người sống trên đời chẳng lấy gì bảo đảm mình còn sống đến ngày mai.  Đức tin công giáo dạy chúng ta, người tín hữu, trong cuộc sống trần gian, phải lo tìm kiếm sự sống vĩnh cửu.  Bởi lẽ sự sống không dừng lại ở đời này, nhưng còn tiếp tục sau khi chúng ta kết thúc cuộc đời dương thế.  Bên mộ của ông La-da-rô, Chúa Giê-su đã tỏ bày quyền năng thiên linh cao cả của Người.  Người truyền cho người chết ra khỏi mồ trước sự chứng kiến của thân nhân gia đình và những người làng xóm.  Trong khi Mác-ta, chị của người chết, nói về sự sống lại vào lúc tận thế, thì Đức Giê-su muốn nhấn mạnh tới sự sống lại ngay bây giờ.  Sứ mạng của Chúa Giê-su khi đến trần gian là đưa con người đến sự sống mới.  Sự sống mới ấy chúng ta có thể đạt được ngay ngày hôm nay, khi thành tâm đó nhận giáo huấn của Người.  Sự sống trong ân sủng khi còn ở đời này là bảo đảm cho chúng ta được sống đời đời trong Vương quốc của Chúa.

Tội lỗi giam cầm chúng ta trong những huyệt mộ, khép kín mình, ích kỷ trước tha nhân.  Chúa Giê-su đã đến để thực hiện điều ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi…” (Bài đọc I).  Thánh Gio-an diễn tả một Đức Giê-su thực sự là “người.”  Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của bạn hữu và giúp họ từ nấm mồ bước ra.  Hình ảnh Chúa Giê-su được diễn tả không như một nhà phù thủy, nhưng một Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang.

Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, mỗi chúng ta cần phải hy sinh cố gắng, nhiều khi đến mức anh hùng.  Bởi lẽ, thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an.  Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã.

Trên con đường trở về với Chúa, nhiều khi chúng ta ngã lòng trông cậy, vì thấy mình tội lỗi thật nặng nề, vì thấy mình chìm sâu trong vũng lầy của sự yếu đuối.  Bà Mác-ta, chị của La-da-rô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại.  Bà nói với Chúa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày.”  Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày.  Chúa Giê-su đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bị dồn vào ngõ cụt của cuộc đời.  Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh.  Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được tha thứ.

Đức Giê-su là nguồn sống của chúng ta.  Phép lạ làm cho ông La-da-rô sống lại vừa là lời chứng minh quyền năng Thiên Chúa của Người, vừa báo trước cho chúng ta về sự phục sinh của Chúa.  Từ cõi chết, người đã chỗi dậy vinh quang sáng láng, là bảo đảm sự sống lại cho những ai tin vào Người.

Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới.  Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở.  Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối.  Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II).

Mùa Chay đang tiến dần đến chặng cuối.  Tôi có nghe tiếng Chúa gọi để bước ra khỏi nấm mồ u tối không?  Xin Chúa cho tôi sức mạnh, sự can đảm để vươn tới gặp gỡ Ngài là nguồn sống đích thực.  Một khi được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa, tôi sẽ như chú bướm rực rỡ đem vẻ đẹp của mình để tô điểm cho đời, bù lại những tội lỗi của thời đã qua.

“Từ vực thẳm, con kêu lên Chúa…”  Lời ca nói lên thân phận bi thảm của con người.  Lời ca cũng diễn tả niềm hy vọng vào lòng từ bi của Chúa.  Chính Người sẽ giải thoát chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. (1 Cr 15:13-14)

Ngày Chúa Nhật hạnh phúc và thánh thiện bên người thân yêu nhé.

Cha Vương

CN: 26/03/2023

TIN MỪNG: ĐỨC CHÚA là THIÊN CHÚA phán như sau: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. (Ed 37:12)

SUY NIỆM: Có bao giờ bạn nghiêm túc tự vấn rằng: niềm tin của tôi vào việc kẻ chết sống lại xác thực đến mức nào chưa? Thiết tưởng rằng bạn đã có một lần đối diện với cái chết của người thân yêu, bạn cảm thấy đức tin của bạn có mạnh mẽ hơn tí nào không hay là rơi vào vực thẳm khổ đau tuyệt vọng?

Trong hành trình đức tin bạn đã đọc Kinh Tin Kính rất nhiều lần, và tuyên xưng rằng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.” Nhưng có bao giờ bạn dừng lại để tự hỏi mình rằng: Tôi có thực sự tin vào sự sống lại của người chết không? Nói cách khác, niềm tin vào sự sống lại có tác động gì đến cuộc sống của bạn trong lúc này? Bạn theo Chúa để được những gì?

Đối với một người một khi đã có tất cả mọi thứ tiền tài, sắc danh trên đời này rồi thì họ còn ao ước gì nữa hả? Có phải là sự sống mai sau chăng? Vậy bạn đã và đang làm gì để bảo đảm cho mình một sự sống mai sau? Bạn mua bảo hiểm nhưng bạn lại không mạo hiểm để sống trọn với đức tin của mình. Bạn hãy nhìn vào gương anh em nhà Macabe, họ sẵn sàng chịu tra tấn và bị giết chết vì không ăn thịt theo luật cấm của Giavê, “Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi”. Với niềm tin vào sự sống lại, họ mạnh dạn nói với những kẻ tra tấn rằng: “Nhà vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7, 2. 9).

Mạo hiểm quá đi chứ hả! Thà chết hơn là vi phạm giới răn Chúa. Còn bạn thì sao? Cái giá mà bạn phải trả cho đời sống mai sau là gì vậy? Đừng bán rẻ linh hồn mình vì một lợi nhuận nhất thời nay còn mai mất nhé.

LẮNG NGHE: Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. (1 Cr 15:13-14)

CẦU NGUYỆN: Lạy chúa, xin ban cho con đức tin để con hiểu và giúp con hiểu để đức tin con được gia tăng. (Lời cầu nguyện từ đáy lòng của thánh Augustinô, Tự Truyện)

THỰC HÀNH: Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 1 Kinh Kính Mừng, và 1 Kinh Vực Sâu cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời nhé.

From: Đỗ Dzũng

Sự sống thay đổi mà không mất đi 

Tĩnh tâm Mùa Chay 2023 ở Giáo Triều – buổi ba

Thông Tấn Xã Việt Catholic

Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 17 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên của Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài giảng Tĩnh tâm Mùa Chay thứ ba trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.

Tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài là trọng tâm của bài giảng này.

“Để an ủi quý vị và tôi, thưa Đức Thánh Cha, các Cha đáng kính, và anh chị em, buổi suy niệm này sẽ hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa. Diễn ngôn về Thiên Chúa, tức là thần học, không thể xa lạ với thực tại của Thượng Hội đồng, cũng như không thể xa lạ với bất kỳ thời điểm nào khác của đời sống Giáo hội,” Đức Hồng Y Cantalamessa đã bắt đầu như trên.

Vị Hồng Y dòng Phanxicô nhận xét rằng “Nếu không có thần học, đức tin sẽ dễ dàng trở thành sự lặp lại chết chóc và sẽ thiếu công cụ chính của nó để hội nhập văn hóa”.

Sự gần gũi của Thiên Chúa

Tuy nhiên, ngài gợi ý rằng để hoàn thành nhiệm vụ này, chính thần học, “cần một sự đổi mới sâu sắc”.

“Điều mà dân Chúa cần là một nền thần học thấm nhuần cuộc sống, không phải lúc nào cũng nói về Chúa ‘ở ngôi thứ ba’, với những phạm trù thường vay mượn từ hệ thống triết học đương đại, không thể hiểu được bên ngoài một nhóm nhỏ ‘người trong cuộc’.”

Thay vào đó, ngài thúc giục, chúng ta phải nhìn thấy Chúa một cách gần gũi, dễ hiểu.

Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa…Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. Chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. (1Cr 2:10-12).

Nhưng bây giờ chúng ta có thể tìm thấy ở đâu một nền thần học dựa vào Chúa Thánh Thần để biết “những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” hơn là dựa vào các phạm trù khôn ngoan của con người? Đối với điều này, cần phải dùng đến những gì được gọi là các trường phái “tùy chọn”: tức là “Thần học linh đạo,” và “Thần học mục vụ” nếu người ta muốn một nền thần học có khả năng được rao giảng.

Thiên Chúa yêu mến anh chị em

Tin tốt đẹp nhất mà Giáo hội có nhiệm vụ loan báo cho thế giới, tin mà mọi trái tim con người thổn thức mong đợi được nghe, đó là: “Thiên Chúa yêu mến anh chị em!”

Ngài nhấn mạnh, xác tín này phải xóa bỏ và thế chỗ cho niềm tin mà chúng ta luôn mang trong mình: “Thiên Chúa đang phán xét bạn!”

Ngài nhấn mạnh rằng chân lý “Thiên Chúa là tình yêu” phải đi kèm, giống như một nốt trầm, mọi lời loan báo Kitô giáo, ngay cả khi những đòi hỏi thực tế của tình yêu này phải được nhắc lại, như Tin Mừng đã làm.

Sau đó, Đức Hồng Y giải thích thêm về các mầu nhiệm đức tin, chiều sâu và ý nghĩa đằng sau Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể và Thương Khó, và nói rằng chúng ta phải xem chân lý mà chúng ta đã chiêm ngắm trong những mầu nhiệm này dưới ánh sáng của khẳng định “Thiên Chúa là tình yêu” sẽ thay đổi như thế nào trong cuộc sống của chúng ta.

Ngài lập luận rằng sự biến đổi cuộc sống của chúng ta, thông qua các mầu nhiệm, tạo nên “tin mừng” và “không bao giờ thiếu khi chúng ta cố gắng đào sâu kho tàng đức tin Kitô giáo”. Ngài nói thêm rằng “Tin tốt lành là nhờ được tháp nhập vào Chúa Kitô, chúng ta cũng có thể yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu xứng đáng với Ngài!”

Tràn đầy tình yêu thiêng liêng

“Tình yêu đã tuôn đổ vào chúng ta là tình yêu mà Chúa Cha đã luôn yêu mến Chúa Con, không phải là một tình yêu khác! Đó là sự tràn đầy tình yêu thiêng liêng từ Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta.”

Thánh Gioan Thánh Giá viết: Thiên Chúa truyền đạt cho linh hồn, “chính tình yêu mà Ngài truyền đạt cho Chúa Con, ngay cả khi điều này không xảy ra tự nhiên, như trong trường hợp của Chúa Con, nhưng bằng sự kết hiệp.”

Ngài lưu ý rằng hệ quả là chúng ta có thể yêu mến Chúa Cha bằng tình yêu mà Chúa Con yêu mến Ngài, và chúng ta có thể yêu mến Chúa Giêsu bằng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Ngài.

Ngài nói, tất cả những điều này là nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng chính là tình yêu đó.

Đức Hồng Y hỏi “Vậy thì điều gì chúng ta dâng lên Thiên Chúa là của riêng chúng ta khi chúng ta nói với Ngài, ‘Con yêu mến Chúa ‘? Không có gì ngoài tình yêu mà chúng ta nhận được từ Ngài! Như thế, hoàn toàn không có gì về phía chúng ta chăng? Phải chăng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa không gì khác hơn là một sự “bật ngược trở lại” về phía Ngài chính tình yêu của Ngài, phải chăng nó chỉ giống như tiếng vọng đưa âm thanh trở lại nguồn của Ngài? Thưa: Không phải đâu! Tiếng vang trở lại với Thiên Chúa từ thẳm sâu trái tim của chúng ta, nhưng với một điều mới lạ là tất cả dành cho Thiên Chúa: hương thơm của tự do và lòng biết ơn hiếu thảo của chúng ta! Tất cả những điều này được thực hiện một cách mẫu mực trong bí tích Thánh Thể. Trong đó, chúng ta dâng lên Chúa Cha, như “của lễ của chúng ta,” điều mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta trước, đó là Chúa Giêsu Con của Người.

“Chúng ta có thể nói với Chúa Cha trong lời cầu nguyện của mình: “Lạy Cha, con yêu mến Cha bằng tình yêu mà Con Cha là Chúa Giêsu yêu Cha!” Và chúng ta có thể thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa bằng tình yêu mà Cha trên trời yêu mến Chúa!” Và xác tín rằng tất cả những điều này không phải là một ảo ảnh ngoan đạo trong trí tưởng tượng của chúng ta!

____________

Toàn bộ bài giảng thứ ba:

https://www.youtube.com/watch?v=oCJnP1Mg8LQ

Phan Sinh Trần 

Tĩnh tâm Mùa Chay 2023 ở Giáo Triều – buổi hai

Thông tấn xã Việt Catholic

Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 10 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa đã có bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ hai trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.

Dưới đây là những ý chính:

Phớt lờ Chúa

Đức Hồng Y Cantalamessa bắt đầu bằng cách trích dẫn những lời của Thánh Phaolô rằng “họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo”

“Quả thật, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo.

Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ. Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết.” (Rm 1:18-23)

Do đó, ngài khẳng định rằng “tội lỗi tột cùng” là “từ chối tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa.” Điều này có vẻ xa lạ đối với chúng ta, vì “Đối với chúng ta, việc không tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa dường như không phải là một tội chết người và khủng khiếp”.

Ngài giải thích rằng, để hiểu ý của Thánh Phaolô, “chúng ta cần hiểu rõ những gì ẩn giấu trong điều này: đó là sự từ chối nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, không dành cho Người sự quan tâm xứng đáng với Người. Chúng ta có thể nói, nó bao gồm việc ‘phớt lờ’ Thiên Chúa, trong đó phớt lờ không có nghĩa là ‘không biết rằng Ngài tồn tại’ mà là ‘hành động như thể Ngài không tồn tại’.

Một mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu

Nhưng thông điệp này của Thánh Phaolô có liên quan đến chúng ta ngày nay như thế nào?

Khi nhấn mạnh đến “ơn cứu chuộc do Chúa Giêsu Kitô mang đến”, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta không chỉ canh tân luân lý, trở lại với Luật pháp Môise, như các tiên tri trong Cựu Ước thúc giục, nhưng phải quay trở lại mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu.

Đức Hồng Y Cantalamessa nói, đôi khi đây là một khái niệm mà người Công Giáo miễn cưỡng chấp nhận, vì họ thích nói về các mối quan hệ “giáo lý”, “bí tích” hoặc “Giáo Hội” với Chúa Kitô. Ngài lưu ý rằng trong suốt 5 thế kỷ qua, linh đạo Công Giáo và việc chăm sóc mục vụ đã xem bất kỳ cuộc nói chuyện nào về mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa “với sự nghi ngờ”.

Ngài nhấn mạnh, cách tiếp cận này là hoàn toàn sai lầm. Thật vậy, vì không còn có thể coi là điều hiển nhiên, đức tin ngày nay phải được hiểu chủ yếu như một mối quan hệ cá vị, vì “nó không được hấp thụ như những đứa trẻ trong môi trường gia đình hoặc trường học, mà phải là kết quả của quyết định cá nhân..”

Mở đầu Tông Huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm, chúng ta đọc thấy những lời này:

Tôi mời tất cả các Kitô hữu, ở khắp mọi nơi, vào chính thời điểm này, hãy làm mới cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, hoặc ít nhất là mở lòng ra để cho Người gặp gỡ họ; Tôi yêu cầu tất cả anh chị em làm điều này không ngừng nghỉ mỗi ngày. Không ai nên nghĩ rằng lời mời này không dành cho mình (EG,3).

Giáo dân là những người loan báo Tin Mừng

Trong phần cuối cùng của bài giảng, Đức Hồng Y Cantalamessa chuyển sang xem xét câu hỏi làm thế nào để thắp lên “tia sáng tìm kiếm Chúa Giêsu” trong trái tim của những người khác.

Ngài nói rằng: “Trong phần lớn các trường hợp mà tôi đã biết trong đời mình, việc khám phá ra Đấng Kitô làm thay đổi cuộc sống đã xảy ra nhờ gặp gỡ một người đã trải qua ân sủng đó, bằng cách tham gia vào một cuộc (cầu nguyện) tụ họp, bằng cách nghe một lời chứng (về ân sủng Chúa). “

Ngài nói, điều này cho thấy một vai trò đặc biệt quan trọng đối với giáo dân, những người “được hòa nhập nhiều hơn vào kết cấu cuộc sống mà trong đó những hoàn cảnh đó thường xảy ra”.

Đức Hồng Y Cantalamessa kết luận, những giáo dân đã “khám phá ra ý nghĩa của việc biết một Chúa Giêsu hằng sống và mong muốn chia sẻ khám phá của họ với những người khác”, nên trở thành những tác nhân chính trong sứ mệnh truyền bá phúc âm của Giáo Hội.

Tôi kết thúc bằng những lời kết trong cuốn “Hành Trình Tâm Trí Đến Với Chúa” của Thánh Bonaventura vì chúng gợi ý nơi bắt đầu để nhận ra, hoặc làm mới lại, “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô” của chúng ta và trở thành những người loan báo can đảm về cuộc gặp gỡ này:

“Sự khôn ngoan bí nhiệm nhất này không ai biết ngoại trừ người nhận được nó; không ai nhận được nó ngoại trừ những người mong muốn nó; không ai mong muốn điều đó ngoại trừ những người được đốt cháy bên trong bởi Thánh Linh Thiên Chúa được Chúa Kitô gửi đến trái đất.”

Toàn văn bài giảng của đức Hồng Y Cantala Mesa:

https://youtu.be/Kl6fp7GSutI?t=153

Phan Sinh Trần 

Xin Chúa ban cho con sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa để con yêu mến Chúa trên hết mọi sự.

Thứ 6 rồi bạn ơi! Hành trình Mùa Chay của bạn đến đâu rồi? Quay đi quay lại, Mùa Chay lại sắp hết rồi đấy. Một cuối tuần an vui và hạnh phúc trong Chúa và Mẹ nhé. 

Cha Vương

Thứ 6: 24/03/2023

TIN MỪNG: Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: “Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. (Ga 7:28)

SUY NIỆM: Đối với người Do Thái, Chúa Giêsu không phải là Đấng Mêsia vì những việc làm của Ngài không đúng như những gì mà họ mong đợi. Vậy họ mong đợi một Đấng Cứu Thế như thế nào? Họ mong đợi một Đấng Cứu Thế cứu giúp họ về vật chất, cứu họ bằng quyền lực nghĩa là giúp họ phục hồi lại một đế quốc Israel hùng cường. Nếu bạn được hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với bạn, thì câu trả lời của bạn như thế nào nhỉ? Có lẽ Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Nếu đúng như vậy, bạn có đặt Ngài làm tâm điểm trong cuộc đời mình không? Bạn có dành thời giờ để tìm kiếm Chúa và sự khôn ngoan của Ngài không? Bạn đang khao khát những gì vậy? Có những người chối bỏ và rời xa Chúa bởi vì họ muốn đưa Chúa vào đúng cái “khuôn” của họ. Mối quan tương quan với Chúa của họ chỉ dựa trên một sự mong muốn khát khao riêng tư máy móc, xin gì thì được đấy.

Mùa Chay là cơ hội để bạn củng cố và nuôi dưỡng lại mối tương quan của ban với Chúa. Nếu bạn thành tâm sống đúng với tinh thần Mùa Chay, hy sinh ăn chay cầu nguyện hoán cải đời sống, thì cuộc sống của bạn sẽ gặt hái được nhiều hoa trái của ân sủng và bình an.

Bạn có sẵn sàng và ngoan ngoãn để Chúa dạy bảo và hướng dẫn bạn qua những biến cố bất ngờ của cuộc đời không? Đừng quên rằng dù bạn đang sống trong bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa, Chúa vẫn kiên nhẫn đồng hành với bạn đó.

LẮNG NGHE: CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ, / cứu những tâm thần thất vọng ê chề. / Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, / nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi. (Tv 34:19-20)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, trước những yếu đuối và bất toàn của con, xin ban cho con sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa để con yêu mến Chúa trên hết mọi sự.

THỰC HÀNH: Nhận định lại mối tương quan của bạn với Chúa, hãy dành thêm một ít thời gian trong ngày để kết hiệp với Chúa nhé.

From: Đỗ Dzũng

Tâm Tình Con Dâng 2 (Sáng tác: Mai Khanh) – Phi Nguyễn  

CHẾT- Lm Vũ Xuân Hạnh

Lm Vũ Xuân Hạnh

Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu.  Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa.  Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động.  Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: “Ta là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.”

Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt?  Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại.  Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay.  Thử hỏi lời Chúa Giêsu: “Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” có là lời chân thật?  Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại “không chết bao giờ”?

Trong một một bài viết mang tên Cõi đi về, mở đầu cho những lời ngậm ngùi tiếc xót một Chủng sinh đã an giấc, linh mục Giuse Nguyễn Hữu An không giấu nổi niềm đau của mình: “Mọi đám tang đều gieo vào lòng tôi một nỗi buồn tê tái.”  Nhất là nhìn cảnh Thầy – “một thanh niên đang tuổi xuân ra đi mà mẹ già mắt mờ, lưng còng, tóc bạc đưa tiễn,” thì “chỉ có đau thương, chỉ có buồn sầu và tiếng khóc, chỉ có nghẹn ngào và nước mắt” là đúng lắm.  Chết là một mất mát.  Lứa tuổi cao niên, chết vẫn thấy đời người dang dở, lứa tuổi xuân thì còn dang dở biết bao nhiêu!

Cái chết của Lazarô, người bạn của Chúa Giêsu, người được gọi là “người Thầy yêu,” không chỉ làm cho hai chị của mình và những người quen biết khóc thương, mà còn làm cho Chúa Giêsu, dù biết rằng sẽ cho anh sống lại, cũng đã “thổn thức và xúc động.”  Điều đó càng làm nổi bật cái bi, cái khổ của nỗi chết.

Nếu chỉ suy nghĩ như thế thôi, lời của Chúa Giêsu: “Ai tin Ta…”, đúng là không xác đáng.

Nhưng không đúng!  Lời ấy phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN.  Chúa không hề bảo rằng: “Ai suy nghĩ về Ta…”, mà lại nói rằng: “Ai tin Ta…”.  Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm.  Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin.  Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng.  Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống “không chết bao giờ.”

Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết.  Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát.  Vì sao lại bi đát?  Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi.  Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể…, mà là cái chết.  Chấm dứt tất cả.  Giết chết tất cả.  Bị cướp mất tất cả.

Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất.  Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với.  Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn.  Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng.  Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn.  Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì.  Rõ ràng bi đát, rất bi đát…

Nhưng người Kitô hữu có đức tin.  Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ.  Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật.  Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu.  Một sự sống không có sự chết.  Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Martha, cũng là nói với bạn và tôi: “Ta là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”

Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống.  Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa.  Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời.  Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai.  Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu.

Bạn và tôi có quyền hy vọng điều mà Chúa đã hứa: “Ai tin Ta sẽ không chết đời đời!”

Đức tin là chìa khóa mở cửa cho niềm hy vọng của chúng ta.

Lm Vũ Xuân Hạnh

From: Langthangchieutim

Thánh Turibius (St Turibius of Mogrovejo), giám mục. (1538-1606).

 Chúc bạn một ngày thật cương quyết để theo Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 23/03/2023

Hôm nay Giáo hội kính nhớ Thánh Turibius (St Turibius of Mogrovejo), giám mục. (1538-1606).

Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh nổi tiếng đầu tiên của Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.

Sinh năm 1538 tại Mayorga de Campos, Leon ở Tây Ban Nha và theo học về luật, ngài trở thành một học giả sáng giá đến nỗi được làm giáo sư luật cho Ðại Học Salamanca, và sau đó trở thành chánh án Toà Thẩm Tra ở Granada dưới thời Vua Philip II. Ngài rất thành công, nhưng vẫn chưa phải là một luật sư có thể ngăn cản được những biến cố đột ngột xảy ra trong đời.

Khi toà giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức. Sau khi được thụ phong linh mục và tấn phong giám mục, ngài được gửi sang Peru năm 1581, là nơi ngài chứng kiến sự tồi tệ của chủ nghĩa thực dân. Ở đây, người Tây Ban Nha xâm lăng vi phạm đủ mọi loại tội lỗi đối với người địa phương. Các lạm dụng của hàng giáo sĩ cũng thật lộ liễu, và Ðức Turibius đã dồn mọi nỗ lực để cải tổ lãnh vực này trước hết.

Ngài bắt đầu các cuộc thăm viếng lâu dài và gian khổ đến tất cả các giáo xứ trong tổng giáo phận mênh mông. Ngài học tiếng địa phương, và trong các chuyến công tác, có khi phải ở đó đến hai ba ngày mà thường không có thực phẩm cũng như giường chiếu. Mỗi sáng ngài đều xưng tội với cha tuyên uý, và cử hành Thánh Lễ với sự sốt sắng tột độ. Trong những người được Thêm Sức từ tay ngài là Thánh Rosa ở Lima, và có lẽ cả Thánh Martin de Porres nữa.

Ngài giúp thiết lập các trường học, nhà thờ, và mở cửa chủng viện đầu tiên trong Tân Thế Giới. Ðể sinh hoạt mục vụ với những người thổ dân, ngài còn sành sõi một vài tiếng địa phương.

Ngài qua đời ngày 23 tháng 5 năm 1606 tại Santa, Peru. Đức Giáo Hoàng Innocent XI tôn phong Chân Phước ngày 02 tháng 7 năm 1679 và Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong hiển thánh cho ngài năm 1726.

Quả thật Thiên Chúa đã uốn thẳng các đường lối quanh co. Trái với ý định của Turibius, và lại phát xuất từ điểm không ai ngờ là Toà Thẩm Tra, con người này đã trở nên vị chủ chăn giống như Ðức Kitô của các người nghèo và người bị áp bức. Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn biết yêu thương tha nhân như điều họ mong đợi. (Người Tín Hữu online)’

From: Đỗ Dzũng

Yêu Cho Đến Cùng – Thánh Ca Việt Nam | Nguyễn Hồng Ân

THIÊN CHÚA sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3:17)

Ước gì ngày hôm nay bạn trở thành cây sáo được đặt trong tay của Chúa để tấu lên những điều nhạc êm dịu thanh thót.

Cha Vương

Thứ 4: 22/03/2023

TIN MỪNG: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49:15)

SUY NIỆM: Một nhà giáo dục đã phát biểu: “Hãy cho tôi trái tim của các bà mẹ, tôi sẽ biến đổi cả thế giới.” Câu nói này đề cao sức mạnh của thiên chức ơn gọi làm mẹ. Như người mẹ tốt lành, “một lòng một dạ”, liên lỉ phục vụ và hy sinh cho những đứa con của mình thế nào thì Thiên Chúa cũng đối sử với bạn không những như vậy mà còn tốt hơn nữa.

Do đó Ngôn Sứ I-sai-a đã dùng hình ảnh người mẹ này để giúp bạn hiểu được việc làm liên lỉ của Chúa Cha và Chúa Con: đó là việc xót thương, cứu giúp loại người, nhất là những người cùng khổ. Bạn hãy nhìn vào cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu năm xưa, dường như Người cũng là con người của công việc. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”.

Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để bạn được làm con Thiên chúa. Nếu như mọi việc mà Chúa Giêsu đã làm đều nhằm thi hành thánh ý Chúa Cha, còn bạn, là những người được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha, bạn có muốn thi hành thánh ý của Chúa Cha không? Bạn có vui vẻ chu toàn những bổn phận trong ơn gọi của mình không? Mỗi ngày bạn được mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa để biến đổi môi trường sống của bạn trở nên tốt đẹp hơn.

LẮNG NGHE: THIÊN CHÚA sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn bổn phận của con trong niềm vui.

THỰC HÀNH: Tập làm chủ cảm xúc của chính mình! Nếu có tức giận ai thì hãy đọc kinh cho người đó. Đừng giận cá chém thớt nhé.

From: Đỗ Dzũng

Dấu ấn tình yêu – Lệ Hằng 

ĐỪNG CHẠY TRỐN THẬP GIÁ – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

Một trong các diện mạo nổi bật của Cuộc Khổ Nạn là Chúa Giêsu đơn độc dữ dội trong những giờ phút cuối cuộc đời Ngài trên thế gian.  Đa số các môn đệ, những người theo Ngài và là bạn hữu của Ngài, đều trốn Ngài và bỏ rơi Ngài trong lúc cấp bách nhất.  Thánh Phêrô còn cả gan dám chối bỏ Ngài tới ba lần để tránh liên lụy tới Ngài – người mà ông đã mạnh mẽ tuyên xưng là Con Thiên Chúa (Mt 16:16).  Có vài người tận tình theo sát Ngài, đó là Đức Mẹ và Thánh Gioan, những người đứng bên chân Thập Giá và chứng kiến Chúa Giêsu Chúa Giêsu bị đóng đinh, rồi cùng đưa Ngài đi an táng.

Khi đi qua Mùa Chay Thánh này, chúng ta cần suy tư về những lần chúng ta đã chạy trốn thập giá và chạy trốn Chúa Giêsu.  Chúng ta đã từng làm điều đó, bằng cách này hay cách khác.  Đó là những lúc chúng ta trốn tránh đau khổ của chính mình, của người thân, của người lân cận, hoặc của những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống hằng ngày.  Nhưng “chạy trời không khỏi nắng”, bởi vì chúng ta không thể trốn tránh đau khổ về thể lý – như bệnh tật, mất người thân, mất việc làm, bị tổn thương, hoặc các dạng đau khổ khác, kể cả những điều trái ý trong cuộc sống.  Khi đau khổ xảy ra, chúng ta thường tránh né bằng cách xem ti-vi, lướt internet, ăn uống thứ gì đó, uống rượu, sử dụng ma túy, xem phim ảnh đen, v.v…  Rất đa dạng.  Chúng ta tìm cách làm bất cứ thứ gì để tránh đối mặt với thực tế của cuộc sống: thập giá.  Thật vậy, chúng ta luôn tìm cách chạy trốn thập giá!

Chạy Trốn Đau Khổ Của Người Khác

Đây là điều rất thật, đó là khi chúng ta gặp đau khổ của người khác.  Người ta rất ưa chủ nghĩa cá nhân.  Đây là đặc điểm đối lập với cách hiểu của Công giáo về Nhiệm Thể Đức Kitô.  Chúng ta là một cộng đồng.  Chúng ta được liên kết với nhau qua Chúa Thánh Thần ở mức độ sâu xa nhất của chính con người chúng ta.  Chúng ta là các chi thể của Đức Giêsu Kitô trên thế gian này.  Chúa Giêsu là Đầu.  Khi một chi thể của Nhiệm Thể bị đau, tất cả chúng ta cũng bị đau.  Chúng ta không biết thực tế này nên chúng ta có thể làm ngơ, nhưng đó là sự thật minh nhiên.

Khi yêu thương nhau với tư cách là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi đi vào trong nỗi đau khổ của những người lân cận.  Điều này không dễ, nhưng không có gì về Thập Giá cho chúng ta biết đời sống tâm linh và con đường nên thánh sẽ dễ dàng.  Chúa Cứu Thế Giêsu đã chết trên Thập Giá và Ngài cho chúng ta biết rằng chúng ta PHẢI theo Ngài.  Có một Thập Giá cuối cùng dành cho mỗi chúng ta là chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt trước khi chúng ta có thể bước vào đời sống vĩnh hằng: TỬ THẦN ĐANG ĐỢI TẤT CẢ CHÚNG TA.  Thập Giá đến trước khi ngôi mộ trống.  Cuộc sống này là những chuỗi thập giá dẫn chúng ta tới chung một số phận như Đức Chúa của chúng ta.  Dù vậy, chúng ta vẫn hy vọng nhờ những gì xảy ra phía sau Thập Giá.

Khi Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội trên thế gian, Ngài muốn kết hiệp toàn nhân loại qua dấu chỉ hữu hình đối với thế giới thực tế về bản thể học (ontological reality) trong tính liên kết của nhân loại và tặng phẩm Ơn Cứu Độ.  Đức Kitô đã mặc xác phàm, điều này liên kết Ngài với chúng ta trong tình đoàn kết và liên kết chúng ta với nhau.  Đó là nhờ mối liên kết sâu xa mà Ngài truyền lệnh cho chúng ta là phải yêu thương người lân cận.  Yêu thương đòi hỏi lòng ước muốn trong chúng ta về điều tốt lành đối với người lân cận.  Điều đó có nghĩa là chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta có sức chịu đựng, bởi vì tình yêu đòi hỏi sự hy sinh: vác thập giá.  Chúng ta cần can đảm chung phần đau khổ với tha nhân, nhưng tình yêu thương thúc giục chúng ta thể hiện sự công bình.  Chúng ta làm nhẹ gánh nặng của người khác và mở rộng khả năng yêu thương khi chúng ta chấp nhận đồng hành với những người đau khổ ở xung quanh chúng ta.  Đi vào nỗi đau khổ của người khác không chỉ là phong cách của Mẹ Thánh Teresa Calcutta, mà còn phải là của mỗi chúng ta.

Đi Vào Nỗi Đau Khổ Của Người Khác Bằng Cách Nào?

Đa số chúng ta không được mời gọi từ bỏ mọi thứ để sống trong những khu nhà ổ chuột và dành trọn thời gian để phục vụ người nghèo.  Chúng ta có trách nhiệm gia đình, đó là ơn gọi của chúng ta.  Thập giá của người khác có thể ở nhiều dạng, và chúng ta phải tập thói quen nhận ra nhu cầu của những người ở xung quanh chúng ta.  Chúng ta phải mang sức nặng thập giá của chính mình, đồng thời cũng tìm cách làm nhẹ gánh nặng của người khác.  Bắt đầu có thể là thăm viếng bệnh nhân hoặc người già nào đó, an ủi người sầu khổ, nâng đỡ người thất vọng, giúp đỡ người cô thân, chia sẻ lương thực với người nghèo khó, gọi điện thăm hỏi ai đó, chia sẻ với người vô gia cư…  Hãy nhìn họ là hình ảnh của Thiên Chúa.  Cứ thế và cứ thế…  Cái nghèo đáng sợ nhất là cái nghèo về tinh thần: sự cô đơn.  Khi nào chúng ta thôi chạy trốn thập giá?  Đó là lúc chúng ta không ngừng yêu thương người lân cận, bởi vì không có cách nào có thể chấm dứt đau khổ trên thế gian này!

Chúng Ta Có Tiếp Tục Chạy Trốn?

Bạn có chạy trốn thập giá?  Mỗi chúng ta có thể trả lời “có” với câu hỏi này.  Chắc chắn tất cả chúng ta đều đã từng làm ngơ trước nỗi đau khổ của người khác.  Vào một lúc nào đó, tất cả chúng ta đã tránh né thập giá của chính mình bằng cách nào đó.  Chúa Giêsu đã dùng chính các thập giá này để làm tăng khả năng yêu thương ở chúng ta, Ngài muốn làm chúng ta nên thánh.  Thật là không hề dễ chút nào.  Đau khổ rất mạnh mẽ khiến người ta có thể cảm thấy không thể sống sót, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể mở rộng tâm hồn chúng ta qua những nỗi đau khổ đó.  Ngài cũng mở rộng tâm hồn yêu thương của chúng ta qua đau khổ chúng ta chịu hằng ngày.

Chúng Ta Nghĩ Về Thiên Đàng Như Thế Nào?

Thiên Đàng là sự liên kết những con người đã được định hình theo tình yêu của Chúa Ba Ngôi chí thánh.  Đó là mối liên kết được nhận biết trọn vẹn, là SỰ QUÊN MÌNH HOÀN TOÀN, là sự liên tục yêu thương qua hành động – như việc các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.  Đó là sự bước vào thập giá của người khác cho tới tận thế.  Yêu thương đòi hỏi thập giá.  Một trong các cách Thiên Chúa chuẩn bị Nước Trời cho chúng ta là dạy chúng ta đi vào nỗi đau khổ của tha nhân.  Thập giá có tính biến đổi, có thể làm chúng ta nên thánh.  Mùa Chay này, chúng ta hãy cầu xin cho có sức mạnh và biết cách đi vào Cuộc Khổ Nạn cùng với Chúa Giêsu và tha nhân để chúng ta có thể trưởng thành trong tình yêu thương và sự thánh thiện.

Constance T. Hull

 Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim

CUỘC KHỔ NẠN NỘI TÂM CỦA CHÚA GIÊSU – Alexandra Reis – Trầm Thiên Thu 

Alexandra Reis – Trầm Thiên Thu chuyển ngữ

Chúng ta được thánh hóa là nhờ Giá Máu cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.  Nhưng chúng ta thường chỉ “chăm chú” vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa về phương diện thể lý chứ không đi sâu vào ý nghĩ và nỗi đau nội tâm mà Chúa Giêsu phải chịu đựng vì chúng ta. S uy tư của tác giả Alexandra Reis hay quá!  Xin được giới thiệu với quý vị.

CHÚA GIÊSU TẠI VƯỜN DẦU

Một điểm để suy nghĩ khi Chúa Giêsu phát hiện các đệ tử ngủ hết trơn.  Ngài hỏi ông Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” (Mt 26:40).  Trong sự khôn ngoan vô cùng của Ngài, Chúa Giêsu không bao giờ muốn chúng ta nói: “Thầy không cảm thấy thế nào sao?”  Do đó, Ngài vẫn để cho các môn đệ thân tín bỏ rơi Ngài.  Ngài có thể làm cho họ tỉnh thức, nhưng Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng luôn có ai đó tỉnh thức trong đêm tối, người đó chia sẻ những nỗi đau của chúng ta và an ủi chúng ta trong mọi nỗi đau khổ hằng ngày.  Ngài muốn nói rằng trong những lúc đen tối nhất và lầm lẫn nhất, Ngài luôn có ở đó, ngay cả khi cả thế giới đang ngủ yên.

CHÚA GIÊSU BỊ XÉT XỬ

“Sự thật là gì?” (Ga 18:38).  Câu hỏi này được Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu khi xét xử Ngài.  Lúc đó, Chúa Giêsu trả lời mọi câu hỏi dành cho Ngài, nhưng Ngài không trả lời câu hỏi này: “Ông là ai, là vua ư?”  Tại sao?  Vì Ngài là Sự Thật.  Thiên Chúa biết chúng ta thường nghi ngờ chính Ngài và Ý Ngài, nên Ngài muốn cho chúng ta thấy cái gì đó hữu hình: Ngài sai Chúa Con tới thế gian.  Có thể Ngài không trả lời vì biết tầm hiểu của Phi-la-tô có giới hạn.  Cũng như sau khi chữa lành người mù, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39).  Ngài chỉ trao ban Sự Thật cho những ai xin được biết, chứ không ban cho những người cho là mình biết rồi.  Ngài im lặng để những người thấy mà tin.

CHÚA GIÊSU BỊ TRÓI VÀO CỘT ĐÁ VÀ BỊ ĐÁNH ĐÒN

Lúc này, “Vua các vua” bị hành hạ dữ dội khi hai tay bị trói chặt vào cột đá, nhưng Ngài nghĩ gì?  Ngài bị giết chết vì chúng ta, tất nhiên Ngài nghĩ về chúng ta.  Nhưng không chỉ là nhân loại nói chung, mà nghĩ một cách đặc biệt.  Ngài vô thủy vô chung, nên Ngài cũng nghĩ tới riêng từng người sẽ xuất hiện trên thế gian này.  Thánh Tâm Ngài bị đè nặng vì tội lỗi của cả thế giới, với thân thể trần truồng và yếu đuối bị treo trên Thập Giá, Ngài vẫn luôn nghĩ tới chúng ta, hy vọng một ngày ngày nào đó mỗi chúng ta đều trở thành đại thánh nhân.  Với ý nghĩ này, Ngài không nề đổ máu đến giọt cuối cùng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta.  Tại sao chúng ta sợ khi cuộc sống gặp trắc trở?  Ngài vẫn đợi chúng ta ở đó để được nghe chúng ta kêu xin.  Đừng để Ngài phải chờ đợi lâu!  Chúng ta hãy cố gằng đáp lại tình yêu của Ngài luôn dành cho chúng ta!

CHÚA GIÊSU CHỊU ĐỘI VÒNG GAI

Bao đau khổ vẫn chưa đủ với Chúa Giêsu.  Ngài biết chúng ta không đủ can đảm khi bị người ta khinh miệt và vu khống, thế nên Ngài quyết định “bù lỗ” cho chúng ta.  Đức cố Tổng Giám Mục Fulton Sheen nói rằng không chỉ Thánh Thể hóa tiều tụy mà còn chịu tơi tả thảm thương, vòng gai nhọn đặt lên đầu Ngài, những chiếc gai sắc đâm thấu óc đến nỗi có thể chết ngay được.  Không chỉ vậy, Ngài còn bị mỉa mai vì yêu thương chúng ta.  Cứ tưởng tượng cũng thấy nổi gai óc, nổi da gà rồi!  Ngài muốn cảnh báo chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ bị mỉa mai nếu chúng ta bảo vệ Sự Thật và Công Lý, nhưng Ngài ban cho chúng ta niềm hy vọng (đức cậy) và mặc khải rằng thế gian này không phải là nơi ở của chúng ta.

CHÚA GIÊSU VÁC THẬP GIÁ

Sau khi bị lột áo, Ngài còn phải vác Thập Giá.  Thập Giá này không chỉ để đóng đinh Ngài cho tới chết, mà Ngài còn vác thập giá của cả nhân loại, của mỗi chúng ta.  Trên Thập Giá, Ngài hy sinh vì chúng ta, và qua đó, Ngài thánh hóa bổn phận hằng ngày của chúng ta, cho chúng ta biết con đường thập giá gian nan lắm.  Ngài đã phải ngã ba lần, nhưng Ngài vẫn cố đứng dậy để chúng ta biết rằng chúng ta cũng nhiều lần quỵ ngã vì phạm tội, nhưng chúng ta phải đứng dậy ngay.  Sức khỏe Ngài rất yếu khi Ngài vác Thập Giá, ông Simon (người Ky-rê-nê) bị bọn thủ ác “bắt cóc” vác đỡ Thập Giá cho Ngài.  Điều này cho thấy rằng thập giá không bao giờ là quá nhiều để chúng ta không thể vác nổi, chúng ta vẫn luôn được vác đỡ.  Qua đó, Ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải cố gắng sống kiên trì, hy vọng và yêu thương.

CHÚA GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH

Cuối cùng là cao điểm của sự hành hạ.  Bị treo trên Thập Giá rồi mà Ngài vẫn đại lượng:“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34).  Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi điều này.  Tình yêu phải rất lớn thì mới có thể tha thứ kẻ thù.  Nhưng đó cũng là “tiêu chuẩn vào Nước Trời.”  Ngài tha thứ như vậy vì Ngài nghĩ tốt cho những người hành hạ và nguyền rủa Ngài, nghĩ tốt cho chúng ta, rằng họ đang ăn năn và đã lỡ “quá tay.”  Đây là lý do chính mà Chúa Giêsu chịu chết vì chúng ta, Ngài nghĩ về chúng ta, Ngài muốn thể hiện tình yêu trọn vẹn và sự tha thứ trọn vẹn cho những người thành tâm sám hối đền tội mình, Ngài cũng nói như vậy với chúng ta và chúc lành cho những người sám hối.  Ngài bênh vực rằng chúng ta lầm mà thôi.  Lạy Chúa của con!

CHÚA GIÊSU CHỊU CÔ ĐƠN

“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34).  Đó là động thái cuối cùng của Lòng Thương Xót dành cho chúng ta trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài.  Qua đó, Ngài đền bù và sửa chữa mọi trái tim bị bỏ rơi trên thế giới.  Ngài chịu cảm giác đơn độc đến nỗi chúng ta không thể tưởng tượng nổi.  Ngài cô độc và vô vọng để trao niềm hy vọng cho những người bị khinh miệt, không có bạn, bị bỏ rơi, bị mỉa mai, nhưng không ban niềm an ủi cho những người kiêu căng và tự phụ.  Tại sao?  Vì “họ đã được phần thưởng rồi” (Mt 6:2, 5 & 16).  Chúng ta hãy hướng về Chúa trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời và hãy cố gắng sống thánh thiện để đáp lại tình yêu của Ngài.

CHÚA GIÊSU TRÚT HƠI THỞ

Và thế là hoàn tất.  Đỉnh cao của Cuộc Khổ Nạn là lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng.  Sự hy sinh vô hạn được Ngài dành cho chúng ta để cứu độ chúng ta.  Vì thế, chúng ta phải cố gắng hy sinh để ngày mai xứng đáng vào Nước Trời, Vương quốc Vĩnh hằng.  Bạn muốn nên thánh tới mức nào khi suy niệm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu?  Mùa Chay là dịp nhắc nhở chúng ta Về Quê Thật.  Trước tiên, chúng ta phải đi xuyên suốt Hành Trình Khổ Nạn để đạt tới Đích Phục Sinh.  Như vậy, chúng ta hãy cố gắng nên thánh trong Mùa Chay Thánh này.  Hãy trao chính mình cho Thiên Chúa, đừng bắt Ngài chờ đợi trong Vườn Dầu Linh Hồn chúng ta.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta trong Mùa Chay Thánh này để hoàn thiện như Ngài!

Alexandra Reis – 

Trầm Thiên Thu 

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

From: Langthangchieutim