TIN MỪNG TỪ NGHĨA ĐỊA

Tác giả: J. Braaten, www.sermons.faithlife.com

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

Lễ Phục Sinh chính là thời điểm tốt lành để vỗ tay nồng nhiệt trong nhà thờ. Đó là một ngày để các Kitô hữu vui vẻ ăn mừng chiến thắng của Chúa Kitô trước cái chết. Rõ ràng tâm trạng chủ đạo trong buổi lễ của chúng ta sáng nay là niềm vui. Đó là một ngày để ban nhạc nổ ra, vỗ tay và hát vang lên: “Hallelujah! Hallelujah!”

Nhưng nếu bạn từng đọc các trình thuật Tin Mừng về sự phục sinh, bạn sẽ khám phá ra một điều khác thường; 

Phản ứng đầu tiên của những người đàn ông và phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu không phải là vui mừng – mà là hoang mang và sợ  hãi! Tác động tức thời của sự sống lại đối với những người theo Chúa Giêsu là sự hoang mang và lo sợ. Maria Mađalêna đã bị chấn động và các môn đệ rõ ràng là rất bối rối. Rốt cuộc, họ đã đi ra khỏi ngôi mộ đó và tự nhốt mình trong một căn phòng bí mật.

Trong bất cứ những gì mà những người theo Chúa Giêsu có thể hình dung ra được sau cuộc đóng đinh, và trong bất cứ những gì mà họ có thể mong đợi, họ đều không nghĩ đến sự sống lại. Việc phát hiện ra ngôi mộ trống khiến họ bối rối, do dự và sợ hãi.

Nếu chúng ta muốn hiểu sức mạnh ẩn chứa trong chính tâm điểm của Lễ Phục Sinh, chúng ta cần phải chấp nhận phản ứng lạ lùng của các môn đệ là hoang mang và sợ hãi. Điều đó khó thực hiện vì lễ Phục Sinh không có gì ngạc nhiên đối với chúng ta. Chúng ta đã chờ đợi lễ Phục Sinh suốt cả Mùa Chay. Chúng ta lên kế hoạch cho ngày Lễ. Và bởi vì chúng ta mong đợi ngày đó,  chúng ta có khuynh hướng đánh mất cảm giác sững sờ và ngạc nhiên.

Nhưng các môn đệ lại hoàn toàn ngạc nhiên. Một người đã chết được ba ngày không thể đứng dậy và bắt đầu sống lại; điều đó sẽ vi phạm tất cả các quy luật tự nhiên ai cũng biết.Họ là những người thông minh; họ biết điều đó.

Vì vậy, khi Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, họ đã không nắm tay nhau bước đi trong ánh hừng đông và hân hoan hát vang: “Chúa nay thực đã Phục Sinh. Halleluia! Halleluia!”Trái lại! Họ vô cùng sợ hãi. Và chúng ta sẽ cần phải hiểu tại sao họ lại sợ hãi như vậy nếu chúng ta thăm dò những chiều sâu của sự phục sinh và nắm bắt lại trạng thái ngây ngất trong lễ Phục Sinh.

Những người theo Chúa Giêsu bối rối và chán nản trước cái chết của Ngài. Họ đã khóc ở thập giá. Họ khóc trướcmộ. Nhưng họ đành chấp nhận việc đó. Chúng ta đọc thấy rằng những người phụ nữ đến sớm, trong khi trời vẫn còn tối, có lẽ là để xức dầu thơm cho cơ thể của Chúa Giêsu. Họ đã chấp nhận sự thật rằng Ngài đã chết.Họ cam chịu điều đó; Rốt cuộc, rồi ra tất cả chúng ta đều chết. Họ đã sẵn sàng quay lại cuộc sống bình thường của mình sau những ngày họ đã quên mất cuộc sống đó khi Chúa Giêsu qua đời.

Nhiều người trong số chúng ta ở đây hôm nay đã học cáchchấp nhận đau buồn. Chúng ta cũng đã chấp nhận thực tếnghiệt ngã của cái chết.  Chúng ta học cách tiếp tục sống. Chúng ta phải vậy thôi. Nhưng đối với những người đầu tiên theo Chúa Giêsu, một phần của sự ngạc nhiên lớn lao đó là việc nhận ra rằng Thiên Chúa hành động qua đau khổ và cái chết. Bi kịch khủng khiếp xảy ra trên đồi Sọ đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa! 

Chắc chắn rằng những môn đệ đầu tiên đó tin rằng có một cuộc sống chan chứa ở kiếp sau; Chúa Giêsu đã nói về điều đó nhiều lần rồi. Nhưng họ không nghĩ đến sự việc rằng mục đích cao cả của ân huệ Thiên Chúa sẽ được hoàn thành qua những điều như đau khổ và sự chết. Đương đầu với những thực tế khắc nghiệt như cái chết và sự vỡ mộng, sống với chúng, chấp nhận chúng là một chuyện nhưng đối mặt với thực tế rằng đây là cách Thiên Chúa chọn để hành động trong thế giới này lại là một chuyện hoàn toàn khác. Đây là những phương pháp mà qua đó các mục đích của Thiên Chúa được thực hiện. Bây giờ họ đã biết. Thiên Chúa không cứu chúng ta khỏi đau khổ và sự chết, nhưng Thiên Chúa cứu chúng ta qua đau khổ và sự chết. Thế giới tội lỗi, sa ngã này đã được đưa trở lại vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua những đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa.

Chúng ta tự hỏi, “Điều này có nghĩa là gì?” Sau đó, chúng ta nhớ lại rằng khi chúng ta chịu phép rửa tội, dấu thánh giá được in trên chúng ta như một dấu hiệu cho thấy chúng ta không chỉ chia sẻ quyền năng phục sinh của Chúa Giêsu, mà chúng ta còn biết thông phần với những đau khổ của Ngài. Dân Chúa được mời gọi chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu Kitô.

Ở dạng nhẹ nhàng hơn, điều đó có thể có nghĩa là chúng ta được kêu gọi từ bỏ các biểu tượng địa vị xã hội mà người khác cho là rất quan trọng. Ở mức độ sâu xa hơn, chúng ta có thể được yêu cầu phải có những lập trường không như người khác, dẫn đến việc mất bạn bè hoặc gia đình xa lánh.

Có một khía cạnh khác dẫn đến sự hoang mang và sợ hãi của những người theo Chúa Giêsu mà chúng ta không được bỏ qua. Trước khi những người đàn ông và phụ nữ đầu tiên đó có thể trải nghiệm vinh quang choáng ngợp của Lễ Phục Sinh, họ phải chấp nhận sự thật rằng sự sống lại của Chúa Giêsu kéo theo sự phán xét sắp xảy ra. Khi tin tức về sự phục sinh của Chúa Giêsu được truyền đi từ tín đồ hoài nghi này sang tín đồ khác, nỗi sợ hãi bao trùm lấy họ! Họ sợ vì giờ đây người mà họ tưởng đã chết lại sống lại. Cùng với Ngài tất cả những thứ khác cũng trở lại. Đối với người ta, tất cả các môn đệ đã phản bội và chối bỏ Chúa của họ. Họ phải gặp mặt đối mặt Đấng mà họ đã phản bội, báng bổ và ruồng bỏ. Sẽ không có chuyện quên đi hay thoát khỏi những ký ức về những gì họ đã làm. Thảo nào các môn đệ sợ hãi. Thay vì có thể quên, họ buộc phải sống lại nỗi ô nhục của họ.

Có lẽ đó là lý do tại sao các trình thuật Tin Mừng thường nói từ đầu tiên không phải là “hãy vui lên”. Mà đúng hơn là “Đừng sợ”. Đừng sợ. Vì Đấng làm cho mọi sự sống lại chính là Đấng yêu thương bạn và phó chính mình vì bạn. Ngài không cho phép trốn thoát, không thể lãng quên, ngay cả khi chết, Ngài vẫn nhớ và u bạn. Tất nhiên không ai xứng đáng với tình yêu đó, những người đầu tiên theo Chúa đã không xứng đáng và chúng ta cũng vậy; Đó không phải là vấn đề. Vấn đề là Thiên Chúa yêu bạn và lễ Phục Sinh công bố thông điệp này to tiếng và rõ ràng. Thiên Chúa yêu thương bạn. Tạ ơn Chúa vì không có lối thoát khỏi tình yêu đó. Không có lối thoát, ngay cả trong cái chết!

Đó là kinh nghiệm của Maria Mađalêna. Cuộc gặp gỡ của cô với Chúa Giêsu đã nói rõ điều đó. Khi Chúa Giêsu cất tiếng nói, tình yêu thương và sự chấp nhận tỏa ra từ lời của Ngài làm cho cô ấy vui mừng đến nỗi cô chạy đến bên Ngài để được Ngài ôm lấy. Chúa Giêsu đã tìm kiếm cô trong tình yêu và lòng trắc ẩn;  Ngài đến với các môn đệ cũng như vậy, không phải để phán xét, nhưng với tình yêu … và Ngài vẫn đến với bạn, với bạn và tôi, một cách trìu mến, đầy trắc ẩn.

Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta vì nó có nghĩa là chúng ta không phải chạy trốn khỏi Chúa nữa. Chúng ta không cần phải cố che giấu. Chúng ta không cần phải giả vờ, với Chúa, với người khác, hay với chính mình. Có nghĩa là Chúa Giêsu trở lại, không phải trong sự kết án, không phải trong sự phán xét, nhưng trong ân sủng và bình an. Chúa chúng ta trở lại để phục sinh chúng ta, để chúng ta, là những kẻ đã chết trong những vi phạm và tội lỗi của mình, không còn phải sống trong mặc cảm tội lỗi nữa, chúng ta không phải sợ hãi Thiên Chúa hay sự phán xét. Tất cả sự phán xét của Thiên  Chúa đổ trên Chúa Kitô. Khi viên đá chặn cửa mồ được lăn ra khỏi ngôi mộ của Ngài, trong sự phục sinh của Ngài, chúng ta được công chính hóa, được tuyên bố vô tội trước mặt Cha Trên Trời. 

Lễ Phục Sinh và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, tuyên bố rằng tất cả những cánh cửa đóng chặt chúng ta – sợ hãi, tội lỗi, lo lắng, bất an – tất cả đều đã bị vượt qua và chúng ta thoát khỏi chúng và những cánh cửa giờ đây đã được mở ra. Chúa Kitô mở những cánh cửa đó và ban cho bạn sự tự do. Ngài cũng mở cho chúng ta cánh cửa cuối cùng, cánh cửa của sự chết. Một số người tin rằng khi họ chết họ sẽ chết mãi mãi, nhưng điều đó không đúng. Bạn không xin được sinh ra, nhưng bạn được sinh ra. Bạn không chọn lựa khi nào bạn được sinh ra, nhưng bạn đã được sinh ra. Bạn đã không quyết định thức dậy sáng nay, nhưng bạn đã thức dậy. Vì vậy, bạn sẽ không yêu cầu được trỗi dậy từ cõi chết, nhưng bạn sẽ được trỗi dậy. Vì Chúa Kitô sẽ gọi bạn và bạn sẽ trỗi dậy và Ngài sẽ ban sự sống cho bạn. Những ai tin vào Ngài, vào sự tha thứ mà Ngài ban cho vì cái chết của Ngài, sẽ được sống lại từ cõi chết để bước vào đời sống mới trong Chúa Kitô.

Trong bài Tin Mừng của chúng ta, Thiên thần hỏi: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?” (Lc 24: 5). Chắc chắn thiên thần ngụ ý rằng Chúa Giêsu không còn chết nữa và Ngài đã sống lại. Nhưng, có lẽ chúng ta có thể nhìn câu hỏi đó dưới một ánh sáng khác… dưới ánh sáng của sự phục sinh. Trước khi Chúa phục sinh, nghĩa địa thực sự là nơi chết chóc, vé một chiều. Giờ đây, những ngôi mộ của chúng ta có thể được coi là cánh cửa mà tất cả chúng ta phải bước qua, không phải dẫn đến cái chết, mà là dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Bây giờ, trong hy vọng và đức tin, chúng ta có thể tìm kiếm người sống giữa những người chết.

Thật kỳ lạ làm sao khi sự sống có thể chảy ra từ nấm mồ. Nhưng sau đó, lại giống như Thiên Chúa. Ra khỏi các phiên tòa xét xử chiến tranh ở Nuremberg ở Đức sau Thế chiến thứ hai, có sự chứng kiến của một người đàn ông. Trong cuộc chiến gần Willma, Ba Lan, một nhóm người Do Thái thoát chết trong phòng hơi ngạt đã trú ẩn tại một nghĩa trang. Họ sống ở đó, túm tụm và ẩn mình dưới đáy những ngôi mộ đào sẵn. Một bé trai được sinh ra vào một buổi tối tại một trong những ngôi mộ đó. Người đào mộ, một người Do Thái chính thống, già dặn, nghiêm khắc, mặc đồ tang bằng vải lanh, đỡ đẻ. Khi đứa trẻ sơ sinh cất tiếng khóc đầu tiên, người đào mộ già kêu lên: “Lạy Thiên Chúa vĩ đại, cuối cùng có phải Ngài đã gửi Đấng Cứu Thế đến cho chúng tôi không? Vì ai khác ngoài Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra trong một ngôi mộ?” Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, là người đầu tiên được sinh ra từ kẻ chết: “Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Ngài đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Ngài, cũng như muốn nhờ Ngài mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời. (Col 1:18)

Sinh ra trong một ngôi mộ. Đó là chúng ta. Cuộc sống của chúng ta thực sự bước ra từ một ngôi mộ, ngôi mộ của Chúa Kitô! Làm thế nào giống như Thiên Chúa để làm một điều gì đó như thế. Sinh ra trong một ngôi mộ. Sinh ra để ăn mừng. Sinh ra để nhảy mừng, để sống trong niềm mong đợi vì quyền năng phục sinh của Thiên Chúa đã được trải ra trên thế giới này.

Đó là Tin Mừng từ nghĩa địa: Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết để bạn và tôi có thể sống trong niềm tin chắc rằng cánh cửa sự sống đã mở ra cho chúng ta. Đó là cuộc chinh phục của thập giá, là chiến thắng của Sự Phục Sinh.

Vì vậy, chúng ta được mời gọi mở cánh cửa và bước vào cuộc sống với sứ điệp Phục Sinh kỳ diệu: Chúa Kitô không chỉ sống, mà còn ban sự sống, biến đổi sự sống, phục sinh sự sống.

Sự thật đó thật choáng ngợp, vượt xa khả năng diễn đạt hoặc hiểu biết của chúng ta. Hãy tin và để sự thật đó nắm giữ bạn. Tôi mời bạn ra khỏi nơi này, cầu xin Thiên Chúa cho bạn sống cuộc đời của bạn với niềm vui và sự công chính thảnh thơi, là điều phù hợp với một người đã nhận được rất nhiều ơn phúc nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa Phục Sinh của chúng ta. Xin Chúa chúc lành cho bạn trong lễ Phục Sinh này và trong lễ mừng quyền năng kỳ diệu của Chúa Kitô trong cuộc đời bạn. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

Hẹn gặp lại

CÙNG MẸ, MỘT NGÀY LẶNG YÊN

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ngài không có ở đây!”.

Tại các Giáo Phận, phần lớn giáo dân các họ đạo truyền thống có thói quen ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu vào Mùa Chay. Riêng Tổng Giáo Phận Huế, kinh nguyện quý báu này được ngắm vào Tuần Thánh; đặc biệt, sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy. Nó được gọi là Kinh Lễ Đèn, vì có đến 15 ngọn nến hoặc đèn, được đốt lên trên cùng một giá. Cách thức đọc Kinh Lễ Đèn được hướng dẫn đến từng chi tiết; cách chung, ngắm một chặng, tắt một ngọn nến, đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, ở Lễ Đèn 3, tức sáng thứ Bảy, ngọn nến 15 sẽ không được tắt! Thật thú vị, nó được đem vào phòng thánh một chốc, đang khi cộng đoàn quỳ gối ngắm “Thánh Mẫu Thống Khổ Kinh”. Sau đó, ngọn nến này được đem tr
ở lại, đặt trên bàn thờ; ngọn nến đó tượng trưng cho Chúa Giêsu! Ngài đã chết, nhưng thực ra, cái chết của Ngài chỉ như một sự nghỉ ngơi trong mồ. Vì thế, thứ Bảy Tuần Thánh được coi như ngày mà Kitô hữu ‘cùng Mẹ, một ngày lặng yên’ đợi ngày Con Chúa phục sinh!

Kính thưa Anh Chị em,

Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội không có một nghi lễ nào, mãi cho đến buổi cử hành long trọng Đêm Vọng Phục Sinh. Hôm nay, Giáo Hội trầm tư suy gẫm chậm rãi với Đức Maria, Mẹ mình. Nắm lấy tay Mẹ, mỗi tín hữu tìm đến một ‘nơi vắng vẻ’, chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu; và nhất là, ‘cùng Mẹ, một ngày lặng yên’ để trải nghiệm các mầu nhiệm!

Phụng vụ của những ngày qua đầy cảm xúc với nhiều nghi lễ; thế nhưng, thứ Bảy Tuần Thánh lại trôi qua một cách lặng lẽ, thanh thản. Đó là một ngày để tận hưởng tất cả những tình cảm đan xen giữa trầm buồn lẫn hy vọng! Đừng để thứ Bảy Tuần Thánh trôi qua như bao ngày khác, hay chỉ là một ngày giữa thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Đó là một ngày mà tất cả chúng ta cùng Mẹ Maria và Mẹ Hội Thánh nữa, tĩnh lặng, chiêm ngắm và tôn thờ.

Chỉ trong sự suy gẫm thầm lặng này, các tông đồ, và cả chúng ta mới có thể nhìn thấy mọi sự đã xảy ra phù hợp và trùng khít với nhau thế nào. Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ những gì sẽ xảy ra với Ngài, kể cả sự phục sinh; Ngài đã nói với họ, nhưng tâm trí họ chưa chuẩn bị đủ để hiểu. Chỉ trong sự im ắng của ngày thứ Bảy, và nhờ có một ngày lặng yên với Mẹ Chúa Giêsu, họ mới có thể hiểu được những gì Thầy đã nói. Cũng thế, với chúng ta; cùng Mẹ Maria, chúng ta ghi nhớ những lời của Chúa Giêsu. Nhiều lần, chúng ta nghĩ, chúng ta biết Ngài là ai, dạy chúng ta điều gì, nhưng thực ra, những điều đó chưa đi vào trái tim chúng ta; bằng chứng là cuộc sống của bạn và tôi chưa biến đổi! Phải lắng nghe, cẩn thận suy gẫm những gì Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng, chúng ta mới hiểu được sâu sắc để áp dụng vào cuộc sống mình!

Anh Chị em,

“Ngài không có ở đây!”. Sự im lặng của ngày hôm nay không phải là một sự i
m lặng của thoái chí và tuyệt vọng, nhưng là ‘im lặng thánh’, một sự im lặng của niềm mong đợi lớn lao sẵn sàng bùng lên trong niềm vui ngập tràn của Đêm Vọng Phục Sinh. Chúng ta sẽ ‘đến mộ’ Chúa cùng với các thánh nữ, không phải để xức dầu cho một xác chết, nhưng để vui mừng với các thiên thần khi nghe họ tuyên bố, “Ngài không có ở đây. Ngài đã sống lại!”; “Tại sao các bà lại tìm người sống nơi những kẻ chết?”. Và như thế, nhờ có một ngày lặng yên với Mẹ, chúng ta mới có thể vui mừng nói cùng Mẹ, “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hãy vui mừng, Halleluia!”, và với Mẹ, chúng ta hát khúc khải hoàn ca, “Chúa Đã Sống Lại, Halleluia!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, xin dạy con biết chờ đợi Chúa như Mẹ. Không chỉ hôm nay, nhưng mỗi ngày, từng ngày, và ‘một đời với Mẹ’, con chờ đợi Chúa!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

RẤT ĐỖI VUI MỪNG

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Vào thời Đức Giêsu, phụ nữ không được coi trọng.  Với truyền thống văn hóa của người Do-thái thời đó, Đức Giêsu không thể gọi một nhóm phụ nữ đi theo mình khắp nơi để làm môn đệ.  Tuy nhiên, vẫn có một nhóm phụ nữ vùng Galilê mộ mến và chịu ơn Thầy Giêsu, nên đã đi theo Thầy.

Họ đã có mặt bên Thầy trong những ngày cuối.  Họ đã theo Thầy trên suốt chặng Đàng Thánh Giá, trong khi các môn đệ nam bỏ trốn vì sợ liên lụy, các bà đã đứng xa nhìn Thầy chịu đóng đinh.  Họ đã chăm chú xem ông Giô-xếp tẩn liệm Thầy trong ngôi mộ mới, đục sâu vào núi đá, và họ đã ngồi ngắm nhìn ngôi mộ (Mt 27,55-61).

Biến cố Thầy chịu đóng đinh là một biến cố kinh hoàng, vượt sức chịu đựng của các phụ nữ.  Họ đã trải qua một đêm thứ sáu và thứ bảy thật dài, mong ngóng mau hết ngày sa-bát để ra thăm mộ.  Ngôi mộ là nơi tập trung tất cả tình thương của họ.  Người ta đã giết Thầy rồi, xác Thầy là điều duy nhất họ còn giữ được.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, hai bà Maria là những phụ nữ đầu tiên ra viếng mộ.  Đơn giản họ muốn được gần xác Thầy, để khóc than, để nhớ thương, tiếc nuối…  Họ vẫn chưa hết bàng hoàng về chuyện đã xảy ra.  Cái chết của Thầy làm đức tin họ bị xao động.

Tại sao Thiên Chúa lại để cho xảy ra chuyện đó?  Khi đến mộ, các bà chẳng ngờ những gì sẽ xảy ra ở đây.  Đây không còn là ngôi mộ, với phiến đá to chắn ở cửa, vì bỗng nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội, và phiến đá bị một vị thiên sứ lăn qua một bên.  Cửa mộ mở tung, cho thấy rõ những gì trong mộ.

Vị thiên sứ mang dáng vẻ của người thuộc thiên giới.  Cả khuôn mặt lẫn y phục đều bừng sáng trắng tinh.  Vị này khuyên các bà đừng sợ.  Thiên sứ tỏ ra hiểu biết lý do khiến các bà đến mộ: “Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh.”  Thiên sứ giải thích tại sao ngôi mộ lại không còn xác Thầy: “Người không có ở đây, vì Người đã được phục sinh.”  Thiên sứ còn mời các bà lại gần chỗ đã đặt xác: “Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm.”  Nhưng quan trọng nhất là câu nói sau của vị thiên sứ: “Rồi các bà hãy đi cho nhanh, và nói với các môn đệ: Người đã được phục sinh từ cõi chết.”

Đây là Tin Mừng cho các bà còn đứng đó phân vân.  Thầy Giêsu đã sống lại thật rồi, đã ra khỏi mộ rồi.  Các bà có bổn phận báo cho các môn đệ biết tin đó.  Họ trở thành những sứ giả đầu tiên đi loan báo Tin Mừng.  Họ cũng phải nhắc lại cái hẹn của Thầy Giêsu với môn đệ: “Người đến Galilê trước các ông, ở đó các ông sẽ gặp Người.”

Các phụ nữ thành cầu nối để Thầy phục sinh gặp lại trò cũ.  Vừa sợ, vừa vui, nhưng vui thì lớn hơn sợ nhiều lần, các bà nhanh chóng rời khỏi ngôi mộ mà họ quyến luyến.  Họ có một sứ mạng lớn lao và khẩn trương, khiến họ phải chạy nhanh cho kịp.  Chẳng ai ngờ trên đường đến với các môn đệ thì họ lại gặp chính Thầy Giêsu phục sinh, hay đúng hơn, chính Thầy đón gặp họ trên đường.

Thầy là người mở lời chào: “Chị em hãy vui lên!”  Có vẻ các bà nhận ra Thầy ngay, vị Thầy mà họ thấy chết trên thập giá đã ba ngày rồi, đã được chôn, và họ đã không thấy xác nằm ở mộ nữa.  Bây giờ vị Thầy ấy đang đứng trước mặt họ.  Lòng họ đầy nỗi sợ hãi cùng với niềm vui khôn tả.  Nhưng họ không thể cưỡng được chuyện lại gần Thầy, bái lạy Thầy và ôm lấy chân.

Thầy đã phục sinh thật rồi, đúng như lời thiên sứ nói.  Đây không phải là một thị kiến, hay một giấc mơ.  Thầy không phải là một bóng ma hay ảo ảnh.  Chẳng những họ được thấy mà còn được chạm vào Thầy.  Thầy lại nhắc họ đi báo Tin Mừng Thầy được phục sinh cho các môn đệ, mà Ngài gọi là “anh em của Thầy.”

Đức Giêsu không nhắc đến những vấp ngã của các ông.  Ngài muốn làm hòa với họ và nối lại mối dây thân thiết.  Bài Tin Mừng trong lễ Vọng Phục sinh thật là vui.  Hai phụ nữ đã trải qua bao kinh nghiệm thiêng liêng, bao cung bậc của tình cảm, từ sợ hãi đến vui mừng, và cuối cùng là niềm hạnh phúc ngây ngất vì gặp Chúa.

Họ đi tìm xác Thầy, nhưng lại gặp Thầy đang sống.  Nước mắt đớn đau từ hai ngày qua được Thầy lau khô.  Hôm nay, Chúa phục sinh cũng đón chúng ta trên đường, khi chúng ta đang tìm kiếm, khổ đau, mất mát, thất vọng.  Chỉ cần nghe tiếng chào của Ngài là con tim sẽ vui trở lại.  Chỉ cần lại gần Ngài, chúng ta sẽ nói được: Ha-lê-lui-ya.

******

Lạy Chúa Giêsu phục sinhChúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con.  Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.  Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.  Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.  Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.  Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.  Vượt qua những thành kiến con có về người khác…  Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.  Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.  Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Năm 2023

ĐÓNG ĐINH MỘT VỊ THẦN-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Sáu Tuần Thánh, TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chính Tôi đây!”.

Heywood Broun nói, “Không ai luôn nói về Chúa cho bằng những người cho rằng, ‘Không có Ngài!’”. Một nhà tu đức khác thì nói, “Không ai biết Đức Giêsu là Chúa mà lại đóng đinh Ngài! Nhưng, với ai tin Giêsu, mỗi lần phạm tội trọng, là họ đóng đinh Ngài; ‘đóng đinh một vị Thần!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Ghi lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chỉ một mình Gioan có được lời khẳng định tuyệt vời của Ngài, “Chính Tôi đây!”. Khẳng định này đưa chúng ta về với một sự thật vô cùng quan trọng. Rằng, Ngài là Thiên Chúa! Vì thế, đóng đinh Giêsu, nhân loại ‘đóng đinh một vị Thần!’.

“Chính Tôi đây!”, “Chính là Ta!”, “Tôi Là!”, hay “Tôi Hằng Hữu!” là những ‘danh xưng’ chỉ dành cho Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sử dụng danh hiệu này để mặc khải chính Ngài cho Môisen trên núi Sinai. Kitô giáo sử dụng nó để nói về Đấng tạo dựng muôn loài, nghĩa là tất cả mọi vật hiện hữu. Tuyệt vời thay, “Chính Tôi đây!” cũng là lời mà Chúa Giêsu công khai tuyên bố trước quân dữ. Như vậy, chẳng vô tình chút nào, Ngài muốn công khai thần tính của Ngài! Vì lý do đó, Gioan viết, “Nghe thế, họ giật lùi lại và ngã xuống đất!”. Suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, chúng ta đừng bao giờ quên thần tính của Ngài; Ngài là một Thiên Chúa bị đóng đinh, cũng là Đấng Cứu Độ Thế Giới, một thế giới trong đó con người ‘đóng đinh một vị Thần!’.

Thú vị thay! Cũng trong bối cảnh này, Phêrô tuyên bố một lời ngược lại hoàn toàn, một lời ‘không thể phàm nhân hơn’: “Không phải tôi!”. Đó là lời nói dối của ông trước một cô gái. Mỉa mai thay, không phải trước một bà hoàng, nhưng trước một đầy tớ! “Không phải tôi” là ‘nội hàm’ cho tất cả yếu đuối và mỏng giòn nhất của con người; Phêrô là đại diện cho mỗi người chúng ta. Khi làm vậy, Phêrô xác nhận sự yếu hèn của bản thân cũng như nhu cầu của mình đối với ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Về điểm này, bạn và tôi nên đồng ý với Phêrô!

Bối cảnh thương khó của Chúa Giêsu đặt liền kề việc chối Thầy của Phêrô và bản án thập giá của Ngài. Mặc dù cái chết của Chúa Giêsu vẫn sẽ xảy ra nếu không có sự chối Thầy của Phêrô; nhưng ảnh hưởng của nó vẫn tác động đến ông. Ngài đã chết thay cho Phêrô và tất cả mọi người; qua đó, Ngài cứu cả nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Sự thiếu đức tin và tình yêu  Phêrô không thay đổi được điều đó; nhưng một khi Phêrô quay trở lại và tin, ông nhận ra rằng, Chúa Giêsu đã làm tất cả cho ông. Từ đó, Phêrô loan báo chân lý này thật xa và thật rộng! Rằng, “Anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ mà đóng đinh Ngài vào thập giá” khác nào ‘đóng đinh một vị Thần’. Nhưng “Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại; đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô!”. Tác phẩm “Thập Giá Chiến Thắng” của Janice Alexander đã vẽ Ngài vui mừng, như một vị Vua đang dang tay ôm lấy cả nhân loại.

Anh Chị em,

“Chính Tôi đây!”. Khẳng định của Chúa Giêsu nói lên tất cả! Ngài là Thiên Chúa, Ngôi Lời làm người, sống dưới chế độ lề luật của con người, và chết bởi lề luật của nó. Ngài chấp nhận bản án, chấp nhận cho nó ‘đóng đinh một vị Thần’. Thế nhưng, chính nhờ sự chết và những đau khổ Ngài chịu, nhân loại nhận được công chính hoá. Đó là đường lối khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ngài là vị Thiên Sai mà Chúa Cha đã phán, “Tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy mọi tội ác của họ” như Isaia tiên báo qua bài đọc hôm nay; cũng là Đấng mà tác giả thư Do Thái hôm nay tuyên xưng, “Con Thiên Chúa trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài”; hoặc đó còn là Đấng gọi Thiên Chúa là Cha như Thánh Vịnh đáp ca diễn tả, “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi lần phạm tội, con đóng đinh Chúa, ‘đóng đinh một vị Thần!’. Như Phêrô, xin giúp con kiên trì xây dựng lại bản chất thứ hai; đó là khả năng thống hối và quay trở lại!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Suy niệm thứ sáu tuần thánh-Cha Vương

Nguyện chúc bạn ngày thứ 6 Tuần Thánh thật sốt sắng và tốt lành. Đừng quên ăn chay kiêng thịt hôm nay và nhớ cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người đau khổ về phần hồn lẫn phần xác nhé.

Cha Vương

Thứ 6 Tuần Thánh: 07/04/2023

TIN MỪNG: Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. (Is 53:4-6)

SUY NIỆM: Nếu bạn cảm thấy lương tâm bạn bị dằn vặt vì mặc cảm tội lỗi khi nghe bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô hay nhìn lên thập giá, điều đó là tốt. Nó có nghĩa là lương tâm của bạn chưa bị chết hay bị bóp nghẹt. Bạn đang sống trong bối cảnh thế giới tục hóa, con người không chỉ hăng say đi tìm của cải vật chất, hư danh trần thế mà còn tôn thờ chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa tiền bạc, chủ nghĩa khoái lạc và coi nhẹ những đòi hỏi của lương tâm, như: trung thực, công bằng, bác ái… Từ đó, nó gây ra rất nhiều tội lỗi cho bản thân, gia đình và xã hội. Đặc biệt, đối với giới trẻ ngày nay, lương tâm là điều gì rất xa lạ. Lạ hơn nữa, dường như họ không muốn nghe tiếng nói của lương tâm chân chính, họ quả quyết điều họ làm là đúng tuy rằng nó rất là sai với giới răn của Chúa. Ước mong sự chay tịnh của ngày thứ 6 Tuần Thánh hôm nay hướng bạn về Thánh Giá, biểu tượng của đau khổ và của sự chết. Nó nhắc nhở bạn hãy thực sự xem xét lại cuộc sống và chú tâm lắng nghe tiếng gọi lương tâm của mình mà ăn năn hoán cải để cảm nghiệm được tình yêu vô biên của con Thiên Chúa dành cho bạn và cho toàn nhân loại.

LẮNG NGHE: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. (Lc 23:46)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin lấy lòng từ bi nhìn đến đại gia đình nhân loại. Chính vì gia đình này mà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con, không ngần ngại phó mình trong tay kẻ dữ và cam chịu khổ hình thập giá. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. (Kinh Sáng, Thứ 6 Tuần Thánh)

THỰC HÀNH: Dành ít thời gian hôm nay để cầu nguyện và suy niệm trước tượng Chúa Chịu Nạn. Chúa đang nói với bạn điều gì vậy?

Con Đường Chúa Đã Đi Qua – Lệ Hằng

From: Đỗ Dzũng

TRẦM TƯ DƯỚI CHÂN THÁNH GIÁ

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Cứu Thế, con quỳ trước Thánh giá hồng phúc của Chúa đây.  Xin cho trí lòng con chăm chú nghĩ tới cuộc Khổ nạn.  Xin Thánh giá Chúa dựng thẳng trước tâm hồn nghèo nàn của con, để giúp con hiểu hơn và ghi nhớ Chúa đã hoàn tất những gì, gánh chịu những gì và gánh chịu vì ai.

Xin ơn Chúa đến giúp con, xin cho lòng con bớt dửng dưng và đần độn; xin cho con quên đi, dù chỉ trong nửa giờ, sự tầm thường của những ngày sống, để đặt bên Chúa mối chân tình, lòng thống hối, niềm cảm tạ của con . Ôi Vua của mọi tâm hồn, xin ôm lấy quả tim yếu đuối, nghèo nàn, sầu khổ và nhọc mệt của con trong tình yêu bị đóng đinh của Chúa.  Xin làm cho nó cảm thấy hướng về Chúa tự bên trong.  Xin khơi dậy trong con những gì còn thiếu là lòng trung tín và niềm thương cảm, để suy ngắm cuộc Khổ nạn và cái Chết đáng tôn thờ của Chúa.

Con sẽ suy ngắm bảy lời của Chúa trên Thánh giá, bảy lời sau hết Chúa đã thốt lên trước khi cái chết bắt buộc Chúa –Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha – phải im lặng mãi mãi trên chốn dương gian này.  Chúa đã thốt lên những lời phát xuất tự đáy con tim đó trong lúc tâm hồn lai láng đau khổ và đôi môi khát nước cằn khô.  Chúa nói với hết mọi người, nói cho chính con nữa.  Xin cho quả tim con đi sâu, đi thật sâu vào đó, để con thấu hiểu trọn vẹn . Đừng để những lời ấy xóa mờ trong quên lãng, nhưng sống mãi và hữu hiệu trong tâm hồn không sinh khí của con.  Chúa hãy đích thân thốt lên những lời ấy cho con đi, để con nghe được âm thanh của Chúa.

Một ngày kia, vào lúc con chết và sau lúc con chết, Chúa lại sẽ nói với con, và những lời ấy sẽ là tiếng đầu mở màn hạnh phúc vĩnh cửu hay tiếng cuối khởi sự nỗi khổ không cùng.  Lạy Chúa, ước mong giờ con chết, con được nghe miệng Chúa thốt ra những lời nhân thứ yêu thương; đừng để con lỡ dịp.  Vậy giờ đây, xin cho lòng con ngoan ngoãn đón nghe những lời sau hết của Chúa trên Thánh giá.

LỜI THỨ NHẤT: “CHA ƠI, XIN THA CHO HỌ, VÌ HỌ KHÔNG BIẾT VIỆC HỌ LÀM” (LC 23,34).

Chúa bị treo trên Thánh giá, nơi họ đã đóng đinh Chúa vào; Chúa chẳng còn cách nào thoát khỏi trụ đài dựng đứng giữa trời và đất như thế nữa.  Vết thương thiêu đốt toàn thân, mão gai xâu xé da đầu, đôi mắt đầm đìa máu thắm, tay và chân bị xuyên thâu như bởi một thanh sắt nung đỏ, tâm hồn Chúa là cả một đại dương sầu khổ và thất vọng.

Những kẻ trách nhiệm còn đó, dưới chân Thánh giá; họ chưa chịu đi khuất để ít nhất bỏ Chúa chết một mình.  Không, họ cứ đứng đó, cười đùa, tin chắc mình có lẽ phải.  Cảnh tượng trước mắt không là một bằng chứng sờ sờ đó sao, không chứng minh rằng thái độ của họ đối với Chúa hoàn toàn phù hợp với công lý, khiến họ có quyền hãnh diện như là đã tôn vinh Thiên Chúa đó sao?  Họ cười nói, đùa giỡn, xúc phạm; và ác tâm đó gây cho Chúa một nỗi thất vọng còn ghê gớm hơn mọi đau đớn trong thân mình.  Làm sao có người lại đê tiện đến thế?  Giữa Chúa và họ còn một chút liên hệ nào nữa không?  Có ai lại đi làm khổ một người cho đến chết như vậy không?  Làm khổ cho đến chết bằng sự dối trá, giả hình, điêu ngoa, bội phản, đê tiện, rồi còn mặc lấy cái vẻ của lẽ phải, tạo ra cái dáng của ngây thơ, khoác lên bộ diện của ông quan tòa liêm chính!  Thiên Chúa lại để cho xảy ra cái đó trong vũ trụ của Người được sao?  Tràng cười khinh mạn của các kẻ thù lại có thể vang lên cách mồn một và đắc thắng trong thế giới tạo vật của Thiên Chúa được sao?  A! Lạy Chúa, nếu là chúng con thì sẽ giận dữ thất vọng đến mức nào!  Nếu là chúng con thì sẽ nguyền rủa kẻ thù, nguyền rủa cả Thiên Chúa.  Nếu là chúng con thì sẽ hét to lên, sẽ phát điên lên mà bứt tung bàn tay khỏi đinh thập giá để tống cho một quả vào mặt!

Thế nhưng Chúa lại nói: “Cha ơi, xin tha cho họ, họ không biết mà!”  Thực hết hiểu nổi Chúa!  Trong tâm hồn xâu xé, đớn đau tột độ của Chúa, còn có chỗ cho một lời như vậy ư?  Thực hết hiểu nổi Chúa! Chúa yêu mến kẻ thù Chúa, gởi gắm họ cho Chúa Cha, cầu xin cho họ.  A!  Lạy Chúa, con xin lỗi nói phạm đến Chúa: Chúa còn bày đặt cho họ một lời chữa tội vô lý nhất, khó tin nhất: họ không biết việc họ làm!  Họ biết hết đó chứ!  Họ chỉ giả vờ không biết thôi; mà giả vờ không biết tức là càng biết rõ.  Đây là uẩn khúc sâu kín nhất của tâm hồn!  Nhưng người ta ghét uẩn khúc đó, chẳng muốn cho nó ra ngoài ánh sáng ý thức.  Thế mà Chúa lại bảo họ không biết việc họ làm!  Họ chỉ không biết một điều thôi, đó là tình yêu của Chúa đối với họ, một tình yêu chẳng ai có thể biết nếu không đích thân yêu mến Chúa, vì chỉ tình yêu mới giúp hiểu Ân huệ Tình yêu.

Chớ gì tình yêu không hiểu nổi của Chúa cũng thốt ra trên tội con lời tha thứ đó.  Xin Chúa hãy nói với Chúa Cha cho con nữa: “Cha ơi, xin tha cho nó, nó không biết việc nó làm!”  Ồ, con biết chứ, con biết hết, con chỉ không biết tình yêu của Chúa thôi!

Xin cho con nhớ lại lời thứ nhất này của Chúa trên Thánh giá mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, con nói cách máy móc thuộc lòng lời thứ tha cho những ai xúc phạm.  Ôi lạy Chúa, không biết đã có lần nào con thực sự bị xúc phạm mà có thể tha thứ từ trên thập giá của tình yêu hay không?  Nhưng dù sao, con cần sức mạnh của Chúa để tha thứ, tha thứ tận đáy lòng, cho những ai mà tính kiêu căng và ích kỷ của con coi như những thù địch.

LỜI THỨ HAI: “TÔI BẢO THẬT ANH, HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TÔI TRÊN THIÊN ĐÀNG” (LC 23,43).

Chúa đang hấp hối, thế mà trong tâm hồn lai láng đau khổ của Chúa vẫn còn có chỗ cho nỗi khổ của tha nhân.  Chúa sắp chết, thế mà Chúa vẫn băn khoăn về một tên tử tội vừa xưng thú là cuộc đời khốn nạn của hắn chỉ xứng với khổ hình ghê rợn hắn đang phải lãnh.  Chúa trông thấy Mẹ yêu dấu, thế mà Chúa lại ngỏ lời trước với đứa con hư hỏng.  Sự câm nín như bỏ rơi của Thiên Chúa làm ngẹn họng, thế mà Chúa lại nói đến Thiên đàng.  Bóng tử thần lởn vởn trước mắt, thế mà Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng vĩnh cửu.  Khi hấp hối, chẳng phải con người chỉ còn biết nghĩ đến mình cô đơn và bị ruồng bỏ đó sao?  Thế mà Chúa lại quan tâm đến những linh hồn sắp cùng Chúa bước qua ngưỡng cửa Vương quốc.  Ôi tấm lòng từ ái!  Ôi tấm lòng hào hiệp quảng đại!  Một tên tử tội khốn khiếp tìm cách ép Chúa một tí mà Chúa lại hứa cho hắn trọn cả Thiên đàng.  Phải chăng mọi sự đều đổi mới nhờ cái chết của Chúa?  Phải chăng một đời bê tha tội lỗi được biến đổi ngay khi Chúa đến kề bên?  Chúa thốt ra trên một đời người những lời khuynh đảo, và đó là lời tha lỗi, tha cả cuộc sống xấu xa đê tiện.  Trước một biến đổi như thế, chả còn gì ngăn cản nó đi vào chốn thánh của Cha.

Tuy nhiên, Chúa nghĩ xem, cùng lắm là ta sẽ lưu tâm đến dấu thiện chí của tên vô lại ấy để giúp hắn tí cơ may thoát hiểm.  Nhưng còn những thói hư, tật xấu, hung ác, dơ bẩn, đê tiện… chẳng lẽ chỉ cần một xúc cảm tốt và một tia sáng hối hận lờ mờ trên thập giá là đủ hủy diệt hết ư?  Chẳng lẽ hạng người như thế lại được nước Thiên đàng mau lẹ như những tâm hồn sám hối, lâu năm thanh tẩy, như những thánh nhân dành cả cuộc đời thánh hóa xác hồn để xứng đáng với Thiên Chúa ba lần thánh ư?  Thật không thể chấp nhận nổi ! Thế nhưng Chúa, Chúa lại đưa ra phán quyết vô điều kiện, và hồng ân ấy đi sâu vào tâm can tên trộm, biến ngọn lửa hỏa ngục của cơn hấp hối thành ngọn lửa ngời sáng tình yêu thiên linh.  Tất cả những gì là công trình của Chúa Cha còn sót lại nơi hắn thì tình yêu ấy đã rọi sáng tức khắc; tất cả những gì xấu xa ghê tởm, chống lại Thiên Chúa trong cuộc đời hắn thì tình yêu ấy đã mau chóng tiêu diệt; và tên trộm cùng Chúa tay trong tay bước vào nhà Cha.

Xin Chúa cũng ban cho con ơn không bao giờ ngã lòng, nhưng dám chờ đợi tất cả, và nói mạnh hơn, dám đòi hỏi tất cả nơi lòng tốt của Chúa.  Ơn được can đảm thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi Chúa vào trong Nước của Ngài,” dầu con là đứa tội lỗi tệ mạt.

Ôi lạy Chúa, chớ gì Thánh giá của Chúa cũng dựng thẳng bên chân giường chết của con.  Chớ gì miệng Chúa cũng hứa với con: “Quả thật, Ta bảo con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Thiên đàng!”  Chớ gì lời ấy khiến con nên xứng đáng đi với Chúa và trong Chúa vào Nước của Cha, với xác hồn hoàn toàn được cái chết của Chúa thánh hóa và xá giải.

LỜI THỨ BA: “THƯA BÀ, ĐÂY LÀ CON BÀ – HỠI CON, NÀY LÀ MẸ CON” (GA 19,26).

Nay đã đến giờ Mẹ Chúa lại phải đứng kề bên Chúa lần nữa… để chứng kiến Chúa hấp hối.  Người mà Chúa đã phán với tại Ca-na: “Thưa bà, giữa tôi với bà nào có việc gì.  Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4), người ấy nay không còn nài xin phép lạ nữa, nhưng vẫn phải có mặt.  Đây là giờ liên kết Con với Mẹ nhưng cũng là giờ chia ly, giờ của cái chết, giờ rứt khỏi tay từ mẫu, khỏi tay sương phụ đứa con trai độc nhất của mình.

Chúa đăm đăm nhìn Mẹ lần cuối.  Chúa đã không trừ cho bà mẹ đó một điều gì cả.  Chúa đã chẳng muốn là nguồn vui cho cuộc sống Người, trái lại chỉ là cớ đắng cay và sầu khổ.  Tuy nhiên, đấy bao giờ cũng là ân sủng, vì đấy bao giờ cũng là tình yêu của Chúa.  Và sở dĩ Chúa yêu Mẹ, ấy là bởi Mẹ đã nâng đỡ, phục vụ Chúa trong nỗi vui mừng cũng như trong sự đắng cay; vì chính như thế mà Người đã trở nên Mẹ Chúa trọn vẹn.  Ai là mẹ, là anh em, là chị em của Chúa, nếu chẳng phải là kẻ thực hiện thánh ý Cha trên trời?  Mặc dù đớn đau như cắt, tình yêu của Chúa cũng rung lên nét âu yếm mà trên thế gian này, vẫn thường nối kết đứa con với bà mẹ.  Cái chết của Chúa còn thánh hiến, thánh hóa những giá trị cao quý và dịu dàng đó nữa, những giá trị khiến rung cảm tâm hồn và làm đẹp trần gian.  Không, cái đó không thể chết trong con tim Chúa, dù con tim ấy bị tử thần nghiến nát ra trăm mảnh; Chúa muốn cứu nó để đưa lên trời.  Và bởi lúc ấy Chúa cũng đã yêu mến trái đất, nên rồi đây sẽ có một đất trời mới; vì khi chết để ban cho chúng con ơn rỗi vĩnh cửu, Chúa đã cảm xúc trước những giọt nước mắt của một bà mẹ, đã băn khoăn về phận số của một sương phụ còn ở lại dương gian, đến nỗi đã ban cho bà mẹ ấy một đứa con và ban cho đứa con ấy một bà mẹ.

Nhưng dưới chân Thánh giá, Mẹ không chỉ cảm thấy nỗi đớn đau của một bà mẹ có con bị người ta làm khổ.  Mẹ đứng đó nhân danh chúng con, như bà mẹ của mọi kẻ sống, hiến tế Quý Tử cho chúng con.  Nhân danh chúng con, Mẹ đã thốt lên lời xin vâng trước cái chết của Chúa.  Dưới chân Thánh giá, Mẹ là Giáo hội, là dòng dõi E-va, đang tham gia vào trận chiến bao la giữa con rắn và Con của người nữ.  Nên khi ban bà mẹ ấy cho môn đệ dấu yêu, là Chúa ban Mẹ Chúa cho chúng con tất cả.  Vì Chúa cũng muốn nói với con: “Con ơi, đây là Mẹ của con!”

Ôi lời đem lại cho chúng con một ân huệ vĩnh cửu!  Lạy Chúa Giê-su, dưới chân Thánh giá, kẻ xứng danh môn đệ dấu yêu của Chúa là kẻ từ lúc ấy đem Mẹ Chúa về nhà mình, người mẹ mà đôi tay trinh trong hiền mẫu từ nay sẽ phát ban mọi ân huệ do cái chết của Chúa trào tuôn.  Xin cho con ơn biết yêu mến và kính tôn Mẹ Chúa.  Xin cũng nhìn con hèn yếu mà nói với Mẹ: “Mẹ ơi, con của Mẹ đây này!”

Vì một tấm lòng trung trinh và thanh khiết như Mẹ Chúa hẳn sẽ nhân danh vũ trụ mà chấp thuận đám cưới giữa Chiên Con với Hiền thê Hội thánh, với nhân loại đã được máu Chúa cứu chuộc và thanh tẩy.  Sở dĩ con nghe Chúa phó mình cho trái tim từ mẫu của Mẹ, là vì Chúa đã không chết vô ích cho con; con sẽ có mặt vào lúc mở đầu tiệc cưới vĩnh cửu của Chúa, khi toàn thể nhân loại được biến đổi mãi mãi và kết hiệp với Chúa không cùng.

LỜI THỨ TƯ: “LẠY THIÊN CHÚA CON, LẠY THIÊN CHÚA CON, NHÂN SAO NGÀI BỎ CON?” (MT 27,46).

Cái chết đang lại gần, không phải là cái chết thể lý vốn đem đến giải thoát và bình an, nhưng là cái chết tượng trưng vực thẳm, tận diệt, tuyệt vọng.  Cái chết đang lại gần, cái chết nói lên sự bất lực khủng khiếp, cô đơn nặng nề, tước bỏ trọn vẹn, lúc mà tất cả sụp đổ, chạy trốn, chỉ còn sót lại một  sự ruồng bỏ chua xót, đau thương.  Và trong đêm tối của tinh thần, của giác quan ấy, trong sự trống rỗng con tim ấy, linh hồn Chúa vẫn kiên trì cầu nguyện; nỗi cô độc gớm ghê của con tim ngập tràn đau khổ ấy đã trở nên nơi Chúa một tiếng kêu van lạ lùng.  Ôi lời cầu nguyện của đau khổ, lời cầu nguyện của cảnh bị bỏ rơi, lời cầu nguyện của bất lực vô bờ bến, ngươi quả đáng ca tụng.  Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa đã biết cầu xin trong một nỗi khốn cùng như vậy, thì còn hoàn cảnh bi đát nào mà con người không thể kêu lên với Chúa Cha?  Còn nỗi thất vọng nào mà không thể trở nên lời cầu nguyện khi tìm đến ẩn thân trong cảnh bị bỏ rơi của Chúa?  Còn sự câm nín lớn lao nào mà lại quyết tâm không muốn biết rằng một tiếng kêu im lặng như thế vẫn có thể đạt được niềm vui thiên quốc?

Để nói lên nỗi khốn cùng của Chúa, để biến cảnh cô đơn hoàn toàn của Chúa nên một lời kinh, Chúa đã xướng lên câu đầu tiên của một Thánh vịnh (Tv 22).  Quả vậy, những lời Chúa nói: “Lạy Thiên Chúa con, lạy Thiên Chúa con, nhân sao Ngài bỏ con?” là câu đầu tiên của khúc ai ca cổ xưa ấy, khúc ai ca mà chính Thánh Thần Chúa đã đặt trên môi, trên lòng vị hiền nhân Cựu Ước, như một tiếng kêu cứu tuyệt vọng.  Thành ra ngay cả Chúa, con dám nói thế, trên đỉnh cao sầu khổ, đã không muốn một lời cầu nguyện nào khác ngoài lời cầu nguyện muôn người trước Chúa đã thốt trên môi; và có thể nói là khi cử hành cuộc hy tế trang nghiêm mà mình là hy lễ, Chúa đã dùng những công thức sẵn mang tính cách phụng vụ, để qua đó nói lên trọn vẹn nỗi lòng.

Xin cho con biết cầu nguyện với lời của Giáo hội Chúa, để những lời đó trở nên cách diễn tả của lòng con.

LỜI THỨ NĂM: “TÔI KHÁT” (GA 19,28).

Về lời ấy, Gioan thánh sử chú thích như sau: “Bấy giờ Đức Giê-su biết mọi sự đã hoàn tất, thì Người kêu to: “Tôi khát” để Thánh kinh nên trọn.”

Chúa lại xác minh một lời Thánh kinh nữa, một lời Thánh vịnh được Thánh Thần linh ứng từ lâu trước cuộc Khổ nạn Chúa.  Quả thế, trong Tv 22 câu 16, đã có nói đến Chúa thế này: “Cổ họng con khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau.”  Và trong Tv 69 câu 22: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng.  Con khát nước, lại cho uống dấm chua.”

Ôi người nô lệ của Chúa Cha, đã vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá đau khổ.  Bên kia những gì xảy ra cho Chúa, Chúa thấy cái mình phải tìm cách đạt được; bên kia những hành vi của Chúa, Chúa thấy cái mình phải hoàn thành; bên kia những chướng ngại tràn lan, Chúa thấy rõ ràng bổn phận.  Ngay trong cơn hấp hối, giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Chúa vẫn lo sao để mọi chi tiết đời mình đều phù hợp với hình ảnh vĩnh cửu mà tâm trí Cha đã cưu mang.

Nên thực chẳng phải vì nghĩ đến cơn khát không tên đang dày vò tấm thân đẫm máu của Chúa, tấm thân phủ đầy vết thương và trần phơi dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời chính ngọ, nhưng vì vâng phục đến cùng thánh ý Cha mà Chúa như muốn nói với một sự khiêm tốn thẳm sâu lạ lùng: “Vâng, điều thánh ý Cha đã tiên báo về tôi qua miệng các ngôn sứ, chính điều đó đang thực hiện.  Vâng, tôi khát!”  Ôi tâm hồn cao quý, vương giả, coi việc chịu khổ hình ghê gớm nơi thân xác chỉ là vấn đề tuân phục lệnh trên!  Mà Chúa đã hiểu tất cả sự ghê tởm của cuộc Khổ nạn như thế: như một sứ mạng phải chu toàn chứ không là một đòn mù quáng của định mệnh, như thánh ý Chúa Cha chứ không phải tâm can độc dữ của con người, như tình yêu cứu chuộc chứ không là âm mưu của kẻ tội lỗi.  Chúa đã gục xuống để chúng con được cứu thoát, Chúa đã chết để chúng con được sống, Chúa đã khát để chúng con được uống nơi nguồn nước mà Chúa mới mạc khải hôm nào đây, trong lễ Lều Trại: “Ai khát hãy đến với Ta, và hãy uống kẻ tin vào Ta; vì như lời Thánh kinh, tự lòng Người có những sông nước sống tuôn chảy” (Ga 7,37-38).

Chúa đã khát vì con, Chúa đã khát tình con, ơn cứu rỗi con; nên như nai khát nước nguồn, Chúa ơi, hồn con cũng khát Chúa!

LỜI THỨ SÁU: “MỌI SỰ ĐÃ HOÀN TẤT” (GA 19,30)

Thực ra, Chúa đã nói: “Chấm dứt rồi!”  Vâng, lạy Chúa, giây phút chấm dứt của Chúa đã đến rồi: chấm dứt cuộc đời, chấm dứt danh dự, chấm dứt hy vọng nhân loại, chấm dứt chiến đấu và những công trình đã thực hiện lâu nay.  Tất cả thực đã chấm dứt; tất cả đều trống rỗng và cuộc sống Chúa sắp tan biến.  Bất lực! Tuyệt vọng!…  Nhưng chính sự chấm dứt này lại hoàn thành đời Chúa, vì chấm dứt trong tình yêu và trung tín là một kết thúc rực rỡ.  Thất bại của Chúa là một chiến thắng oai hùng.

Ôi lạy Chúa, chừng nào con mới hiểu được quy luật này của đời Chúa, mà cũng là quy luật của đời con: chết là sống, từ bỏ là chiếm lại, khó nghèo là sung túc, khổ đau là ân sủng?  Khi nào con mới hiểu: chấm dứt có nghĩa là được hoàn thành?

Vâng, Chúa đã hoàn thành: hoàn thành sứ mạng Cha trao, nốc cạn một hơi chén đắng, gánh trọn cái chết kinh khủng, xong xuôi việc cứu rỗi đời.  Chúa đã chiến thắng tử thần, đập tan tội lỗi, chinh phục ma vương, mở cửa sự sống, cho con cái Thiên Chúa được hoàn lại tự do!  Cơn lốc Thánh Thần từ nay có thể mạnh thổi.  Và thế giới âm u dần cháy lên với ngọn lửa tình yêu Chúa, vũ trụ sầu khổ phực thiêu trong hỏa lò thần tính Chúa, địa cầu chìm trong biển lửa hạnh phúc của sự sống Chúa!  Mọi sự đã hoàn tất!

Chúa là Đấng hoàn thành vũ trụ, xin cho con nên hoàn thiện trong tinh thần của Chúa, lạy Ngôi Lời của Cha, Đấng đã hoàn tất hết thảy trong thể xác và trong cái chết đớn đau của mình.

Ước gì một ngày kia, lúc hoàng hôn cuộc sống, con cũng có thể nói: “Mọi sự đã hoàn tất.  Con đã chu toàn sứ mạng Chúa giao cho con.”  Ước gì con cũng có thể lặp lại theo Chúa lời kinh tế hiến, khi tử thần lảng vảng quanh con: “Cha ơi, giờ đã đến…  Con đã tôn vinh Cha trên trần gian, khi hoàn tất công việc Cha giao con thực hiện.  Thì giờ đây, xin hãy tôn vinh con bên Cha” (Ga 17,1-5).

Ôi Giê-su, dù sứ mạng Chúa Cha trao cho con là lớn hay nhỏ, quan trọng hay tầm thường, êm ái hay cay đắng, thì xin vẫn ban cho con ơn hoàn thành theo gương Chúa, Đấng đã hoàn thành hết thảy, ngay cả cuộc đời con, để con sống đời con cho tốt đẹp.

LỜI THỨ BẢY: “CHA ƠI, CON TRAO LẠI HỒN CON TRONG TAY CHA” (LC 23,46)

Ôi Giê-su, kẻ bị bỏ rơi nhất trong loài người, ôi trái tim tan nát vì đau đớn, Chúa đã kiệt lực.  Đây là lúc cùng tận, lúc mà hết thảy đều bị tước bỏ, ngay cả linh hồn, ngay cả tự do chọn lựa giữa ưng thuận hay từ chối, lúc mà ta không còn thuộc về ta.  Bóng thần chết đã lấp ló đứng chờ.  Nhưng ai tước bỏ như thế?  Cái gì tước bỏ như thế?  Hư vô ư?  Định mệnh mù quáng ư?  Thiên nhiên tàn nhẫn ư?  Không!

Chính là Cha, chính là vị Thiên Chúa khôn ngoan và lân mẫn.  Do đó Chúa đã phó mình.  Hoàn toàn tin tưởng, Chúa trao mình lại trong đôi tay vô hình hiền dịu của Cha, đôi tay mà chúng con, vì không tin, vì quá bám víu lấy mình, tưởng là thòng lọng gớm ghê của định mệnh mù quáng và của thần chết.  Chúa biết đấy là tay Cha, và đôi mắt Chúa, tối mờ vì thần chết, vẫn còn nhận ra Cha, vẫn còn đặt trong ánh mắt an bình đầy tình hiền phụ của Cha, và miệng Chúa thốt lên lời cuối cùng đời Chúa: “Cha ơi, con trao lại hồn con trong tay Cha.”

Chúa trao tất cả vào tay Đấng đã ban cho mình tất cả.  Chúa đặt hết vào tay Cha, không đòi bảo chứng, không chút giới hạn.  A!  Nhiều lắm, nhưng cũng nặng trĩu và cay đắng biết bao!  Cái làm nên gánh nặng đời Chúa: loài người, thô bạo, sứ mạng, thập giá, thất bại, cái chết, Chúa đã phải gánh lấy một mình.  Nhưng bây giờ, chẳng còn gì phải gánh nữa, và Chúa có thể trao lại tất cả và chính mình trong tay Cha.  Tất cả!  Tay Cha mang rất tốt, rất dịu dàng.  Đôi tay của người mẹ!  Đôi tay đó úp lên hồn Chúa, như người ta ấp ủ một cánh chim non trong lòng bàn tay với cả ý tứ mến thương.  Bây giờ chẳng còn gì nặng nữa.  Tất cả đều nhẹ, đều là ánh sáng, ân sủng, an toàn dưới bóng con tim Cha.  Nơi đây người ta có thể khóc hết nước mắt và được Cha lau khô bằng cái hôn hiền phụ.

Ôi Giê-su, một ngày kia Chúa cũng trao linh hồn hèn hạ và thân xác khốn khổ của con vào trong tay Cha chứ?  Lúc ấy, xin Chúa hãy đặt khối nặng đời con, khối nặng tội lỗi con đừng trên đĩa cân công lý nhưng trong tay Cha.  Chạy trốn đâu, ẩn khuất đâu ngoài bên Chúa, người anh em đã cay đắng chịu mọi khổ hình vì tội con.  Hôm nay, con đến với Chúa, quỳ trước Thánh giá Chúa, hôn đôi chân đã chảy máu vì im lặng bước theo con trên quãng đường quanh quéo của đời con.  Con ôm lấy Thánh giá Chúa, ôi Bạn Tình vĩnh cửu, Lòng của muôn lòng, Trái Tim bị đâm thủng, trái tim hết sức kiên nhẫn, trái tim vô cùng quảng đại.  Xin thương xót con.  Xin đem con vào tình yêu Chúa.  Và khi cuộc đời lữ thứ của con sắp chấm dứt, khi ngày đã gần tàn, khi bóng tử thần vây bọc lấy con, thì xin Chúa cũng thốt lên lời sau hết của Chúa: “Cha ơi, con trao lại hồn con trong tay Cha”, ôi Giê-su từ ái!  A-men.

Karl Rahner S.J.

Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi

 trích dịch từ Spiritualité pascale, phần Documents et Prières. Paris, DDB, 1957. Trang 275-278. 

“Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” (Ga 13:8b

Chúc bạn và gia đình ngày Thứ 5 Tuần Thánh tràn đầy ân sủng và bình an của Chúa nhé.

Cha Vương

 Thứ 5 Tuần Thánh: 06/04/2023

TIN MỪNG: Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” (Ga 13:8b)

SUY NIỆM: Đối với những người trong nghề nails, việc làm chân tay nước cũng không còn gì xa lạ gì nữa. Đây là nghề phục vụ, đòi hỏi sự tận tuỵ ở một mức độ cao. Hôm nay Thứ 5 Tuần Thánh Giáo Hội tưởng niệm Bữa Tiệc Ly, trong đó Chúa Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ và thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Hai cử chỉ này là bài học cụ thể về sự khiêm nhường và hy sinh phục vụ. Bạn thử hình dung ra hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo lau chân Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Cử chỉ này cũng thấy gần gũi với người thợ làm chân tay nước đó hả? Đức Giê-su đã hạ giáng, đã bước xuống chỗ thấp nhất, Đấng là “Chúa và Thầy” mà ăn mặc như một nô lệ để phục vụ dưới chân các môn đệ! Ngài lấy việc làm này để lập ra một quy luật cho các môn đệ, cho bạn và mình: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để theo như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13:15). Thiên Chúa đã hạ mình đến mức đó. Vậy hôm nay bạn hãy tự hạ mình, vì yêu thương nhau hãy đưa cái bản ngã của mình xuống chỗ thấp nhất để phục vụ những người chung quanh của mình nhé.

LẮNG NGHE: CHÚA nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, thất bại lớn nhất của đời người là tự cao tự đại, xin giúp con hiểu được bài học khiêm nhường mà Chúa dạy: “Các con cũng phải rửa chân cho nhau” để sống tinh thần hiệp nhất với anh em chung quanh con hôm nay.

THỰC HÀNH: Hôm nay bạn thử tập rửa chân cho những thành viên trong gia đình rồi chia sẻ với nhau cảm nghiệm của bạn.

From: Đỗ Dzũng

ĐÂU CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG – HOÀNG OANH

Trăn Trối & Gởi Trao của Chúa Giê Su từ trên Thánh Giá – Suy niệm Thứ Sáu Tuần Thánh – Dòng Tên SJ

Lm. GB Nguyễn ngọc Thế SJ

Mời Bạn suy niệm dưới chân thập giá trong ngày thứ sáu Tuần Thánh với bài “Di ngôn thứ ba của Chúa trên Thánh Giá”

Thưa Bà, này là con Bà.

Này là Mẹ của anh.

(Ga 19,26-27)

  • Bài Tin Mừng.
  • Bối cảnh của di ngôn thứ ba.
  • Các phụ nữ trung thành đứng dưới chân Thánh Giá.
  • Sự hiện diện của Mẹ bên Thánh Giá, cùng niềm hy vọng và lời xin vâng.
  • Cana và Thánh Giá – Tiệc cưới giữa Thiên với Trần.
  • Thưa Bà, đó là con Bà.
  • Này là Mẹ của con.
  • Mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ.
  • Đón nhận tình yêu để biết sống yêu thương.
  • Đứng bên cây Thánh Giá.
  • Bài tập sống di ngôn thứ ba của Chúa Giê-su trên Thánh Giá.

*******

  • Bài Tin Mừng.

23 Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới.24 Vậy họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.

25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

  • Bối cảnh của di ngôn thứ ba.  

Di ngôn thứ ba của Chúa Giê-su nói từ trên Thánh Giá, theo nhiều nhà chú giải Thánh Kinh, có ý nghĩa biểu tượng… Sau khi Chúa Giê-su đã bị đóng đinh trên Thánh Giá (Ga 19,23), thì quân lính chia nhau những tấm áo của Ngài, để “ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm” (Ga 19,24).

Trong bối cảnh đó, Gio-an kể lại rằng, một số phụ nữ có mặt ở gần bên Thánh Giá, đặc biệt có Mẹ Maria hiện diện. Gioan còn kể ra danh tánh của các phụ nữ: “thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la” (Ga 19,25).

Ngoài các phụ nữ này ra, có một nam nhi duy nhất là Gio-an Tông Đồ, môn đệ yêu dấu của Chúa, và cũng là tác giả của Phúc Âm thứ IV. Khi Mẹ Maria, các phụ nữ và Gio-an hiện diện dưới chân Thánh Giá, Chúa Giê-su đã nhìn xuống thân mẫu của Ngài cùng người môn đệ yêu dấu, và Ngài đã nói lời thứ ba này.

 Các phụ nữ trung thành đứng dưới chân Thánh Giá.

Ở Mác-cô chúng ta đọc thấy rằng: “Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó” (Mc 15,40-41)…

Các bà thật can đảm, còn các môn đệ thì khiếp sợ và trốn mất. Như thế, những người yếu đuối đã tỏ ra là người mạnh mẽ. Từ biến cố này, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi”…

Như thế có tất cả 04 phụ nữ: (1) thân mẫu Người, (2) chị của thân mẫu, (3) bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, (4) bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Theo Đức BenedictoXVI[3], ngay khi các thánh sử không kể lại gì cách trực tiếp về tâm trạng của các phụ nữ đang hiện diện dưới chân Thánh Giá, nhưng người ta có thể nhận ra được sự buồn rầu và đau đớn của họ về những việc đang xảy ra đối với Chúa Giê-su.

Hơn nữa, thánh sử Gio-an đã trích dẫn lời của tiên tri Gia-ca-ri-a ở phần cuối bài thương khó: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37). Cũng chính thánh Gio-an, ở trong sách Khải Huyền, đã nhắc lại cảnh Chúa Giê-su bị đâm thâu trên Thánh Giá, nhưng ở trong viễn cảnh Chúa Giê-su đến trong ngày quang lâm: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người” (Kh 1,7).

Những người đâm thâu Chúa, và cả những phụ nữ theo Chúa từ bấy lâu nay, cũng đều nhìn lên Đấng bị đâm thâu. Nhưng mỗi nhóm người có cái nhìn khác nhau. Cái nhìn của khinh khi và ác nhân của những người kết án và hành hạ Chúa, cái nhìn cảm thông và đau xót của các phụ nữ trung thành theo chân Chúa.

Sertillanges diễn tả về các phụ nữ đứng dưới chân Thánh Giá Chúa, Các người đàn bà đạo đức này ngay từ đầu đã tận tụy với Đức Giêsu và kiên trì cho đến giây phút cuối cùng. Họ sẽ xức dầu thơm cho mộ Ngài, sẽ làm nhân chứng cho việc Ngài sống lại, sẽ có vai trò trong ngày Thánh Thần hiện xuống. Họ dâng hiến cuộc đời cho công việc cứu rỗi nhân loại, sau khi đã thờ lạy và làm vui lòng Ngôi vị Ngài. Trên ngọn đồi Calvario họ nhận lãnh chức vụ mà sau này sẽ truyền lại cho nữ giới suốt lịch sử Kitô giáo. Họ đang hiện diện dưới chân Thánh Giá. Như vậy họ đứng làm hình ảnh chính thức cho nửa phần nhân loại được thánh hiến…

Những trái tim dịu dàng này (chúng ta khoan nói đến Đức Maria) thấu hiểu tốt hơn đàn ông về tính dịu ngọt thần linh và sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu, Đấng Thiên sai và tử đạo. Sự vĩ đại của Ngài đã chiến thắng họ. Lòng thương xót và nhân lành của Ngài lôi kéo họ đến bên cạnh Chúa. Nó làm cho họ ngất ngây.

Về căn bản phụ nữ là người thích an ủi vỗ về. Quan điểm của họ về sự sống khiến họ dễ trở nên người trợ giúp. Bởi vì là người ban sự sống, cho nên phụ nữ ý thức rõ hơn đàn ông về tính mỏng dòn và yếu đuối của loài người… các bà mẹ hiền dịu dưới chân khổ giá, khóc cay đắng cho số phận của Thầy mình. Họ nhìn lên Thầy với chút an ủi và khích lệ. Họ mời mọc Thầy chia sẻ với họ sự yếu đuối của thân phận làm người. Quỳ lạy tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ mình, kêu cầu Ngài ban ơn xuống cho mình và con cháu.

Phần thưởng của họ là được ủy thác chôn cất xác Chúa. Nhưng chính giờ này xác Thầy đã là của họ. Một chị em đã xức thuốc thơm cho thân xác Thầy trước rồi và ít lâu nữa họ sẽ vội vã đi mua dầu thơm trước khi bình minh thứ bảy ló rạng (thứ 7 cấm đi xa), để có thể ướp xác bằng hương liệu ngọt ngào và đặt Chúa vào chiếc giường đá lạnh lẽo”.[4]

… Ở đây, chúng ta có thể đọc lại lời của tiên tri Da-ca-ria: “Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng” (Dcr 12,10). Trong bầu khí của bạo tàn, của sỉ nhục và ác nhân, vẫn có sự trung thành của tình yêu, sự xót thương của các phụ nữ dành cho Đấng Cứu Độ.

Trong tâm tình này, chúng ta có thể thấy được điều mà tiên tri Da-ca-ria nói: “Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” (Dcr 13,1). Tâm tình hướng nhìn lên Đấng bị thâu – Đấng Cứu Độ, lòng thương cảm và tâm tình hiệp thông chia sẻ với Ngài sẽ đưa lại một dòng suối thanh tẩy tội lỗi. Sức mạnh biến đổi của cuộc thương khó đã bắt đầu.

Như đã nói ở trên, thánh Gio-an không chỉ kể lại sự hiện diện của các phụ nữ, mà còn nhắc đến sự có mặt của môn đệ mà Chúa Giêsu thương yêu, và đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiện diện của thân mẫu Chúa Giêsu, Mẹ Maria – người Mẹ cao quý.

  • Sự hiện diện của Mẹ bên Thánh Giá, cùng niềm hy vọng và lời xin vâng.

Nếu chúng ta chiêm ngắm Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giê-su, người phụ nữ đang nhìn người con duy nhất của mình, bị những người ác nhân kết án tử và đóng đinh trên Thánh Giá, chúng ta sẽ cảm nhận được tâm trạng của Mẹ: run rẩy, đau xót về những gì Mẹ đã chứng kiến trên con đường khổ nạn của con.

Truyền thống Kitô giáo, qua việc chiêm ngắm Mẹ trong khung cảnh đó, đã nhận thấy kinh nghiệm đau khổ tột cùng của Mẹ. Nhưng Mẹ hiện diện dưới Thánh Giá không rũ rượi, khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng mẹ “đứng”, trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa – Mẹ sầu bi đứng dưới chân Thánh Giá! Đó là bài thơ bằng tiếng La-tinh, được viết trong thời Trung Cổ. Dưới đây là một phỏng dịch từ tiếng La-tinh:

Mẹ đứng dưới chân thánh giá con yêu,

Tâm can nát tan Mẹ chết trăm chiều,

Gần bên Chúa trong giờ tử nạn.

Mẹ diễm phúc của Con một Cha,

Đấng tạo dựng đất trời,

Buồn thương và thảm thiết biết bao!

Đức Kitô chịu hành hạ trên cao,

Bên dưới Mẹ đứng nhìn xót xa,

Thấy Con chết anh hùng, tử đạo.

Hỡi những kẻ đi đường lơ đễnh,

Hãy trông xem Hiền Mẫu chúng ta

Đau xót nào sánh bằng của Mẹ?

Trái tim ai chịu nổi được không?

Mà chẳng hề chia sớt với Mẹ

Nỗi đau tày biển rộng trời cao?

Hội Thánh áp dụng lời này cho Mẹ Sầu Bi, như khi nói về Đức Giêsu, Hội Thánh áp dụng thân phận cô gái héo hắt Si-on: ‘Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ Đức Chúa giáng trên tôi?’ (Ac 1,12)”.[5]

Giáo hội hô lớn với ngôn sứ Giê-rê-mia, tổ phụ của mình rằng: ‘Tai họa ngươi mắc phải lớn quá rồi, lớn tựa trùng dương ai chứa nổi?’ (Ac 2,13).

…Cuộc đời của Mẹ Maria luôn kết hợp với những nỗi khổ đau của Chúa Giê-su, con Mẹ. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính Đức Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập tự giá Đức Chúa Giêsu” (Ga 19,25) trên đồi Canvê. Không ai hiểu con cho bằng người mẹ, và cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của con mình.

Cũng nên nhắc đến bài thánh ca của linh mục Kim Long Mẹ đứng đó, “Mẹ đứng đó khi hoàng hôn tím mầu. Nhạc thương trầm buông hắt hiu. Đồi cao u hoài loang máu đào. Con Chúa đau thương treo trên Thánh Giá. Hiến thân vì nhân loại tội tình. Mẹ đứng đó tâm hồn tê tái sầu. Đồng công cùng con dấu yêu. Vì thương nhân loại bao khốn cùng. Xin dẫn đưa bao tâm hồn lạc hướng về bên Mẹ, Mẹ ơi!”

Sandro Vitalini suy niệm như sau: “Tư thế của Mẹ khi đứng cạnh Thánh Giá phải diễn tả một tâm hồn đặc biệt là ngần nào. Mẹ ý thức rằng thời điểm để hạ sinh một tân nhân loại đã điểm, và từ lòng Mẹ một niềm vui đã tuôn trào từ trái tim tan nát, đau đớn của Mẹ. Mẹ biết rằng qua cái chết rùng rợn của đầy tớ thống khổ của Gia-vê mà nhiều người được công chính hoá (x.Is 53,11), và cái chết nhân loại đã bị cái chết của Đức Giê-su tiêu huỷ đi cách vĩnh viễn (x.1Cr 15,53)”.[6]

Hồng Y Cantalamessa diễn tả thật tuyệt vời về sự đau khổ của Mẹ trên đường thương khó và ở dưới Thánh Giá: “Ðức Maria cũng đã uống cạn chén khổ nạn. Có thể nói về Người như đã nói về Nữ Tử Sion, Người “đã uống chén lôi đình từ tay Giavê, Người đã uống, đã nốc cạn ly (x.Is 51,17). Nếu bên khổ giá Ðức Giêsu, trên Núi Sọ, có Maria Mẹ Ngài, thì điều đó có nghĩa là trong những ngày đó Người có mặt tại Giê-ru-sa-lem, đã chứng kiến tất cả, đã tham dự vào tất cả cuộc khổ nạn. Người đã nghe thấy tiếng la hét: ‘Không phải hắn mà là Baraba!’; Người đã thấy Ecce homo; Người đã nhìn thấy thịt bởi thịt mình bị đòn roi, đẫm máu, bị đội vòng gai, nửa thân trần trụi trước đám đông dân chúng, Người đã chứng kiến tấm hình hài đó run rẩy, co giật bởi những cơn rùng mình của cái chết. Người đã nghe tiếng búa nện và những lời lăng nhục: ‘Nếu mày là Con Thiên Chúa’. Người đã nhìn thấy những tên lính chia nhau áo xống của Ngài, cả tấm áo trong mà chính tay Người đã dệt. Tâm tình đạo đức Kitô giáo quả đã không lầm khi áp dụng cho Ðức Maria những lời mà Nữ Tử Si-on thốt lên trong nỗi buồn sầu đau đớn: ‘Hỡi những khách qua đường, hãy trông xem: có đớn đau nào như nỗi đớn đau hành hạ thân tôi’ (Ac 1,12). Nếu Thánh Phaolô đã có thể nói: ‘Tôi mang nơi thân mình tôi những vết hằn của Ðức Giêsu’ (Ga 6, 17), thì Ðức Maria có thể nói đến thế nào nữa? Ðức Maria là người đầu tiên trong Kitô giáo được in thương tích vô hình, hằn sâu trong trái tim, như sau này sẽ xảy ra nơi các thánh nam nữ”.[7]

Tuy nhiên, thật là thiếu sót, nếu chỉ dừng lại ở sự khổ đau của Mẹ tại Thánh Giá, bởi vì từ Thánh Giá Chúa, từ chính trong khổ đau và cái chết của Chúa luôn có tia sáng hy vọng đang âm ỉ cháy. Thật vậy, ba lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó Ngài phải chịu, thì trong cả ba lần sứ điệp Phục Sinh luôn được Ngài nhắc tới. Cantalamessa nhắc nhớ: “Hình ảnh về Ðức Maria dưới chân Thập Giá, như hình ảnh gợi hứng từ bài Stabat Mater (Mẹ đứng đó), trong đó Ðức Maria chỉ có ‘buồn và sầu khổ’ mà thôi, chỉ còn là Người Mẹ sầu khổ (Mère des douleurs), hình ảnh đó sẽ rất thiếu sót, không đầy đủ vì như thế là không lý gì đến sự kiện chính Gioan trình bày hình ảnh đó, và theo Gioan, Thánh Giá còn hàm chứa giá trị vinh quang và của chiến thắng. Trên Núi Sọ, Ðức Maria không chỉ là ‘Mẹ sầu bi’ mà còn là Người Mẹ cậy trôngMater spei, như một thánh thi của Giáo Hội đã cầu khẩn Người…

Thánh Phaolô khẳng định về Abraham trong thử thách: đó là ‘tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông, ông đã tin’ (Rm 4,18). Lời tuyên bố này áp dụng cho Ðức Maria dưới chân Thánh Giá lại càng đúng hơn: tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông, Mẹ đã tin. Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông là gì nếu không phải là ‘chẳng còn là lý do gì để hy vọng, ở trong một tình cảnh hoàn toàn bị tước hết mọi hy vọng, xét trên bình diện nhân loại, và hoàn toàn đối nghịch với lời hứa, nhưng không vì thế mà vơi niềm cậy trông, chỉ duy còn dựa vào lời hy vọng mà Thiên Chúa đã phán vào thời của Người… Một lần nữa, chúng ta hãy nhìn về Người đã biết đứng bên Thánh Giá, tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông, hãy biết năng kêu cầu Người dưới danh hiệu ‘Mẹ cậy trông’, và nếu lúc này ta đang gặp thử thách, muốn thất vọng buông xuôi, thì hãy lấy lại bình tĩnh bằng cách lập lại cho chính mình những lời này: Quả ơn nghĩa Giavê không hết, lòng thương xót của Người không cạn, nên tôi trông cậy vào Người”.[8]

Sự hiện diện và đau khổ tột cùng của Mẹ, và niềm hy vọng vững vàng của Mẹ tại Thánh Giá, một cách nào đó diễn tả sống động quyết tâm sống lời xin vâng của Mẹ. Khi Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, thì Mẹ đã sẵn sàng đi vào con đường mà Thiên Chúa chuẩn bị cho Mẹ. Con đường hẹp của người phụ nữ mang thai không được ngôi nhà nào đón tiếp, để có thể sinh con trong mái ấm của cuộc đời, mà cuối cùng phải sinh con trong hang bò lừa hôi hám và lạnh lẽo. Con đường của người Mẹ cùng với chồng là thánh Giuse phải đưa con mình là hài nhi Giêsu chạy trốn qua Ai-cập, thoát khỏi sự lùng sục bắt bớ với âm mưu triệt hạ hài nhi của vị vua trần thế. Con đường xin vâng của Mẹ là con đường tuân theo thánh ý Chúa, con đường hẹp nhiều chông gai. Con đường đó kéo dài cho đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

Ở đoạn cuối này, lời xin vâng của Mẹ ngày xưa vẫn không thay đổi, hay có thể nói mạnh mẽ hơn nữa. Mỗi bước chân Con của Mẹ lê bước vác Thánh Giá, đều có bước chân của Mẹ dõi theo, đồng hành và sẻ chia. Ở tại cây Thánh Giá, nơi con Mẹ đang bị treo đau đớn, lời xin vâng của Mẹ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thật vậy, sự hiện diện của Mẹ bên Thánh Giá cho thấy, Mẹ quyết tâm chia sẻ trọn vẹn sứ mạng và hy lễ cứu độ của Con Mẹ là Chúa Giê-su. Mẹ muốn tham dự vào tận đáy sâu thẳm những thống khổ mà Chúa Giêsu chịu. Mẹ không khước từ lưỡi gươm cụ già Si-mê-on ngày xưa tiên báo cho Mẹ: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35b). Mẹ luôn nói lời xin vâng với Thiên Chúa, cụ thể trong chương trình huyền nhiệm của Chúa Cha dành cho Chúa Kitô. Cantalamessa đã cảm được tâm tình xin vâng của Mẹ Maria, cụ thể qua sự thinh lặng của Mẹ dưới chân Thánh Giá: “Ngôn ngữ của Thánh Giá là thinh lặng. Thinh lặng giữ hương thơm của hy tế cho riêng Thiên Chúa mà thôi. Nó giữ cho đau khổ không bị tiêu tán, không tìm kiếm và tìm thấy phần thưởng đền bù nơi trần thế này.

Nếu Ðức Maria có chịu cám dỗ như Ðức Giêsu đã từng chịu trong sa mạc, thì phải là và nhất là dưới chân Thánh Giá: một cơn cám dỗ vào loại thâm hiểm nhất mà cũng là đau đớn nhất, bởi lẽ chính Ðức Giêsu lại là căn cớ. Người đã tin vào các lời hứa, Người tin rằng nếu Ðức Giêsu cầu xin thì hẳn Chúa Cha sẽ gởi đến cho Ngài ‘hơn mười hai cơ binh thiên thần’ (x.Mt 26,53). Thế mà Ðức Giêsu đã không làm gì cả. Nếu Ngài tự cứu mình khỏi Thánh Giá thì cũng là cứu Người khỏi nỗi đau đớn khủng khiếp. Thế nhưng Ðức Maria đã không kêu: ‘Hãy xuống khỏi Thánh Giá đi, Con hãy tự cứu mình mà cũng là cứu cả Mẹ nữa !’. Người cũng không nói: ‘Con cứu bao nhiêu người khác, thế sao bây giờ không thể tự cứu mình nữa, hở Con?’. Dù rằng một ý nghĩ, một niềm ao ước như thế tự nhiên phải nẩy lên trong tâm hồn người mẹ, đó là điều dễ hiểu, thế nhưng Người thậm chí cũng không hỏi Ðức Giêsu: ‘Này Con, tại sao Con làm thế với cha mẹ?’, như khi xưa, lúc Người tìm được Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (x.Lc 2,48). Maria lặng thinh dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một Người Mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra, lời của Công Ðồng Vatican II. Người đã cùng với Ðức Giêsu cử hành lễ Vượt Qua của Ngài”.[9]

Ðức Maria hiệp nhất với hy tế của Con mình, cách nhìn đó đã được diễn tả cách đúng mức, giản dị và trang trọng trong một bản văn Công Ðồng Vatican II: “Như thế, Ðức Trinh Nữ cũng tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Người đã đứng ở đó. Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra” (Lumengentium 58). Thật vậy, lời xin vâng của Mẹ đã gặp lời xin vâng của Chúa Giêsu trong hành trình sứ vụ của Ngài, ngay trong biến cố Chúa làm phép lạ đầu tiên ở Cana, và kết thúc với con đường Thánh Giá.

  • Cana và Thánh Giá – Tiệc cưới giữa Thiên với Trần.

…Trước hết, khi chiêm ngắm lại biến cố Ca-na, chúng ta có thể nhận ra Mẹ Maria là Mẹ của sự biến đổi. Thật vậy, qua Mẹ mà Chúa Giê-su con Mẹ đã biến những lu nước thành rượu ngon, cứu vãn đôi tân lang và tân nương thoát khỏi một hoàn cảnh tế nhị của việc hết rượu trong buổi tiệc cưới.

Một ý nghĩa sâu xa hơn ở tại Ca-na, là Thiên Chúa qua việc nhập thể của Chúa Giêsu đang cùng nhân loại chúng ta mừng tiệc cưới, Thiên Chúa muốn nối kết với nhân loại chúng ta, Ngài muốn ban cho chúng ta một hương vị mới, hương vị của rượu ngon, hương vị của tình yêu. Trong sách Khải Huyền có viết:

Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ

dâng Chúa lời tôn vinh,

vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,

và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,

nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (19,7-8) 

Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (21,2).

Trong ý nghĩa này, chúng ta cảm nhận được rằng, với câu chuyện ở Cana, Chúa Giê-su đến dự tiệc cưới để chúc mừng đôi tân hôn, để chia sẻ và nâng đỡ đôi tân hôn. Nhưng không chỉ như vậy, Chúa Giê-su tham dự một hôn lễ, mà mục đích của toàn bộ công trình của Chúa là gì, nếu không phải là chuẩn bị một hôn lễ khác – hôn lễ kết hợp Thiên Chúa với nhân loại? Hơn nữa, khi dự hôn lễ ở Cana, Chúa Giêsu đã làm một phép lạ thật “tràn đầy” và phong phú với vị ngon hảo hạng của rượu từ trong chum nước. Đó là dấu lạ tuyệt vời của lòng thương xót. Lòng thương xót đã biến những giọt nước thành rượu ngon hảo hạng. Thật phong phú và dồi dào biết bao nhiêu ân sủng của Thiên Chúa.

…Tình yêu của Chúa dành cho nhân loại ở tiệc cưới Ca-na, đã tìm được sự dồi dào phong phú và hoàn tất nơi Thánh Giá của Chúa Giêsu. Như thế, cái chết của Chúa trên Thánh Giá là sự hoàn tất của tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân trần.[11]

Hơn nữa, tại Thánh Giá, sự vinh hiển của Thiên Chúa tỏ hiện ở tại Ca-na đã tìm được sự hoàn tất của nó. Và tại Thánh Giá của Chúa, mọi sự, ngay cả sự chết, ngay cả tội lỗi của chúng ta cũng được đón nhận vào trong tình yêu của Thiên Chúa. Vâng, không có gì nơi nhân loại có thể vượt ra khỏi sự đụng chạm của tình yêu Thiên Chúa nơi Thánh Giá Đức Kitô. Cũng thế, tất cả mọi sự tương phản của thế giới này tìm thấy được sự hiệp nhất tại Thánh Giá của Ngài. Ở Ca-na, Mẹ Maria là cánh cửa, Chúa Giê-su qua cánh cửa đó để bước vào thế giới. Dưới Thánh Giá, Mẹ cũng là cánh cửa, qua đó Chúa Giêsu đi vào trong vinh quang của Cha mình.[12]

Hơn nữa, dưới Thánh Giá, người phụ nữ thành Na-gia-rét, cũng trở thành người Mẹ của những người tin, qua tâm tình nhắn gởi của Chúa Giê-su, Con Mẹ.

  • Thưa Bà, đó là con Bà.

Trở về lại với biến cố truyền tin, chúng ta lắng nghe sứ thần Gáp-ri-en chào Mẹ tại Na-gia-rét: “Kính chào Bà đầy ân phúc” (Lc 1,28). Lời chào này một cách nào đó cũng soi sáng cho khung cảnh của Chúa chịu đóng đinh trên đồi Sọ. Biến cố Truyền tin báo hiệu một khởi đầu, Thánh Giá diễn tả một kết thúc. Trong cảnh Truyền tin, Mẹ Maria trao ban bản tính loài người cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ; dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ qua lời trao gởi của Chúa Giêsu: Thưa Bà, đó là con bà. Chúa Giê-su muốn Mẹ đón nhận thánh Gio-an là người môn đệ Chúa yêu thương, trở thành đứa con của Mẹ. Chúa muốn đem lại cho Gio-an một mái ấm mới, một quê hương mới với người Mẹ luôn yêu thương chăm sóc con mình.[13] Nói cách khác, vào lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, thiếu nữ thành Na-gia-rét đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu – Con Mẹ, Mẹ trở thành Mẹ của những người tin, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của nhân loại.

…Về điều này, Giáo Lý Hội Thánh viết rằng, Ðức Ma-ri-a kết hợp với Chúa Kitô, đó là nền tảng vai trò của Mẹ đối với Hội Thánh. Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Ðức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết, cho đến lúc Chúa Kitô chết; đặc biệt trong cuộc khổ nạn (x.GLHTCG số 964).[14]

Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (LG – Lumen Gentium) của Công Đồng Vaticannô II, cũng nói rằng: “Ðức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thánh Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó (x.Ga 19,25). Ðức Ma-ri-a chịu đau khổ kinh khủng với người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thánh Giá, Chúa Giê-su Ki-tô đã trối Mẹ làm Mẹ của môn đệ: Thưa Bà, này là con Bà (Ga 19,26-27)” (số 58).[15]

Còn đối với Cantalamessa thì: “Như thế, dưới chân Thánh Giá, Ðức Maria xuất hiện như là Nữ Tử Si-on, sau khi chịu tang các con mình, đã được Thiên Chúa ban cho một dòng dõi mới, không theo xác thịt nhưng theo Thần Khí, một dòng dõi đông hơn dòng dõi ban đầu. Ðây là điều mà một thánh vịnh được phụng vụ áp dụng cho Ðức Maria nói lên: ‘Kìa xứ Philitinh, thành Tyr cùng miền Ethiopi, tại đó kẻ này người nọ đã sinh ra’. Nhưng về Si-on, người ta có thể nói: ‘Người người sinh tại đó’. Chúa ghi vào sổ bộ các dân: ‘Kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó’ (Tv 87,2tt). Ðúng vậy: tất cả chúng ta đều sinh ra tại đó, mọi người đã sinh ra. Cả tôi, cả bạn”.[17]

Theo Cantalamessa, “ở đây chúng ta khám phá thấy một khía cạnh quan trọng trong hành trình thiêng liêng của Mẹ Thiên Chúa. Một lần nữa, ta thấy Người như khách kiều cư lữ thứ trong thế giới này, không mái ấm, không nơi ở thực sự là của mình trên trần gian. Người để cho Thiên Chúa ‘đặt định’ thời gian sinh Con, khi Lời Chúa đặt Người vào trong hoàn cảnh hoàn toàn cô đơn trước mọi người, Thiên Chúa yêu cầu Giuse đón nhận Ðức Maria: ‘Giuse, con của Ðavít, ngươi chớ sợ cưới Maria vợ ngươi về nhà’ (Mt 1,20). Tỉnh giấc, Giuse đã đem Người về nhà mình. Giờ đây, lúc Con chết, một lần nữa Người lại đơn độc trong cuộc đời. Thiên Chúa yêu cầu Gioan đem Người về nhà mình và ‘Gioan từ giờ ấy đã lãnh lấy Bà về nhà mình’. Maria quả là người phụ nữ lênh đênh, không bám vào đâu cả, từ đầu đến cuối, Người để cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời mình. Ðối với chúng ta, Người như hiện thân của nghèo khó, Ðức Bà Nghèo Khó”.[19] Đức Bà nghèo khó là Mẹ của Chúa Giê-su và của chúng ta. Thật đẹp biết bao mẫu gương của người Mẹ có tâm hồn nghèo khó đứng dưới chân Thánh Giá.

Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài người.

Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.

…Như thế, qua hành động của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã khám phá đôi chút về mầu nhiệm đời sống Kitô hữu. Người tín hữu là thành viên của một gia đình thiêng liêng. Cũng như một đứa trẻ cần có cha có mẹ để phát triển bình thường, thì người tín hữu cũng cần có Đức Maria và Cha trên trời.[20]

Ngoài ra, Cantalamessa cũng giúp suy niệm thêm về sự hiệp thông giữa Mẹ Maria và Chúa Giê-su qua lời Chúa nói với Mẹ: “Hỡi Bà, này là con Bà!, chắc chắn Ðức Giêsu đã quay về nhìn Mẹ, đến nỗi không cần phải gọi tên của Người. Ai có thể thấu được ánh mắt đó giữa Mẹ và Con, trong giây phút như vậy. Mọi nỗi đau khổ của con người đều hàm chứa một chiều kích ‘riêng tư’ thân thiết, và người ta chia sẻ đau khổ theo ‘gia đình’, giữa những người gắn bó với nhau bằng mối dây máu mủ ruột thịt. Niềm đau khổ của Ðức Kitô và của Ðức Maria cũng đã được chia sẻ như thế! Một niềm vui trong đau đớn tột cùng chuyển thông giữa hai người như nước trong hai bình thông nhau. Niềm vui đến từ việc, từ đây, các Ngài chẳng những không còn chống chọi lại nỗi đau đớn, mà ngay cả để cho nỗi đau đó tự do xâm nhập vào tận những gì thâm sâu nhất. Sau cuộc chiến đấu là niềm bình an. Các Ngài nên một với đau khổ và tội lỗi của toàn nhân thế. Ðức Giêsu nên một cách trực tiếp trong tư cách là ‘hy lễ đền tạ tội lỗi của thế gian’ (x.1Ga 2,2). Còn Ðức Maria thì một cách gián tiếp, qua sự kết hiệp với Con bằng cả thân xác và tâm hồn”.[21]

  • Này là Mẹ của con.

Đó là lời Chúa nhắn nhủ với Gio-an, môn đệ Chúa yêu thương. Khi đọc lời trên, chúng ta thấy rằng, trong cái nhìn đầu tiên mang tính con người, Chúa Giêsu đã diễn tả tình yêu của mình dành cho Mẹ Maria. Chúa là người con duy nhất của Mẹ, và sau khi Chúa chết, Mẹ sẽ sống lẻ loi một mình trên thế giới này. Có lẽ vì lo cho người Mẹ đang chịu nhiều đau khổ và mất mát, Chúa đã trao gởi Mẹ cho người môn đệ mà Chúa tin tưởng và thương yêu. Gio-an, tên người môn đệ đó, giờ đây trở nên người con trai của Mẹ, và Gio-an cần phải có trách nhiệm với Mẹ Maria.[22]

Chrysostom nói rằng: “Quân lính làm những điều đó với Chúa Giê-su, nhưng trong khi bị treo trên Thánh Giá, Chúa đã giao phó Mẹ của Ngài cho người môn đệ. Điều đó dạy dỗ chúng ta cũng cần chú ý chăm sóc cha mẹ của chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng…Ở đây, Chúa đã diễn tả Chúa thương yêu Mẹ của Ngài hết mực và trao phó Mẹ cho người môn đệ mà Chúa yêu mến”.[23]

Điều Chúa Giê-su làm thật là một cử chỉ cao quý. Có lẽ thánh Giuse đã qua đời trước đó, nên Chúa không muốn Mẹ mình phải sống trong cảnh goá phụ bị lệ thuộc và cô đơn, cũng như bị người đời nguyền rủa, bởi vì trong xã hội Do-thái thời đó người phụ nữ đơn chiếc là coi như bị nguyền rủa.

Chúa không muốn người phụ nữ quá đau đớn vì mất con, và đã phải trải qua biết bao thống khổ khi đồng hành với con trên đường Thánh Giá, lại phải một mình chìm trong nỗi đau khổ tột cùng, trong những tháng ngày còn lại của bà. Cũng thật cao quý biết bao, khi Chúa Giê-su trong hoàn cảnh đau khổ của mình trên Thánh Giá, Ngài đã không nghĩ làm sao để Ngài có thể đỡ đau đớn, mà Ngài lại quên mình đi, và nghĩ tới Mẹ mình, nghĩ tới người khác đang đứng kia với một tâm hồn sầu não thảm thê. Đó là tình yêu của Chúa dành cho Mẹ. Một tình yêu không chỉ mang sắc thái của tình cảm con người, mà còn mang tinh thần quên mình đi, và luôn chú ý và chăm sóc người khác, người gần nhất cũng như người xa nhất.

Karl Rahner đã suy niệm như sau: “Đôi mắt của Chúa nhìn Mẹ lần nữa. Chúa ơi, Chúa đã không hờ hững với Mẹ. Chúa không chỉ là niềm vui của cuộc sống của Mẹ. Chúa cũng là sự đắng cay và đau khổ của cuộc sống của Mẹ. Nhưng cả hai điều này đều là hồng phúc, vì cả hai đều là tình yêu. Và vì Mẹ đều ở bên Chúa và Mẹ phục vụ Chúa trong niềm vui và trong khổ đau, nên Chúa đã yêu thương Mẹ. Trong tinh thần đó, Mẹ thật là Mẹ của Chúa…Trong sự thống khổ quằn quại, tình yêu của Chúa một lần nữa lại tỉnh táo cho sự trìu mến đang được trao gởi trong tình Mẹ Con. Vì trong chính sự chết của Chúa, những điều âu yếm trìu mến và cao quý trên trái đất này vẫn được thánh hiến. Những sự trìu mến và cao quý đó làm cho mọi trái tim mềm đi và đẹp hơn”.[24]

Dừng bước ở nơi đây, chúng ta cũng nên hỏi xem: khi chúng ta suy tư lời Chúa Giê-su nói Này là Mẹ của con, và hướng về tương quan giữa Mẹ Maria và chúng ta, thì chúng ta phải hiểu thế nào là làm con cái của Mẹ Maria? Chắc chắn chúng ta không phải là con cái Mẹ theo “chiếc cầu sinh vật học”, mà chúng ta có một “tình mẫu tử thiêng liêng” với Mẹ. Đối với Vitalini tình mẫu tử cao quý này được hiểu trong nhãn quan của Thánh Thần: “Từ ngữ ‘mẫu tử thiêng liêng’ phải được hiểu trong một ý nghĩa sâu xa hơn. Chúng ta là con cái của Mẹ, vì chúng ta là em của Đức Giê-su, được thông hiệp với Ngài do mối tình huynh đệ mạnh mẽ hơn là cái gì thuộc về xác thịt và máu huyết, vì nó tuôn trào từ Chúa Thánh Linh Đấng ban phát sự thật (Ga 3,5-8). Dĩ nhiên là chúng ta không được Đức Mẹ sinh ra bằng xác thịt, nhưng chúng ta được hưởng sự thông hiệp của Mẹ trong một cuộc sinh khác đến từ Chúa Thánh Linh”.[25]

Được là con của Mẹ Maria, thật là cao quý biết bao. Và cao quý hơn nữa, khi chúng ta được mời gọi sống ơn gọi của mình cách xứng hợp. Vitalini chia sẻ tiếp: “Tình mẫu tử của Mẹ Maria rất sâu xa và phổ quát cũng biểu lộ sự cao trọng của chúng ta: Chính trong ơn gọi của Mẹ mà người ta khám phá ra ơn gọi của con cái của người. Mối dây liên đới tận tuỵ mà chúng ta có với Mẹ chính là mối dây theo gót chân Mẹ vào lúc mà Thánh Linh được ban cho chúng ta (Ep 5,1; 1Tx 2,14; 2Tx 3,7). Các cử chỉ bên ngoài của sự tận tụy chỉ có ý nghĩa khi nó đâm rễ sâu trong một thái độ yêu mến giúp chúng ta bước theo mẫu gương đã được ban cho chúng ta. Một người mẹ được con cái ca tụng nếu con cái là một món quà, nhưng điều này chỉ trở nên mật thiết nếu món quà ấy diễn tả sự chú tâm bên trong của người con đối với ý muốn của người mẹ, khi bà muốn giáo dục con cái mình bằng lối tiệm tiến để con cái mỗi ngày nên tốt hơn. Một người mẹ được coi là hạnh phúc, nếu bà thấy con cái của mình không những giúp đỡ về phần xác, nhưng nhất là phần thiêng liêng, vì chính trong tác động ấy mà con cái kín múc được những phần tốt nhất nơi bà”.[26]

Vì thế, nếu chúng ta muốn làm con cái đích thực của Mẹ Maria, nếu chúng ta muốn làm cho Mẹ vui mừng và hài lòng, chúng ta cần cố gắng để trở nên giống Mẹ trong đời sống Đức Tin, đặc biệt với đời sống luôn “xin vâng” theo thánh ý Chúa, đời sống luôn âm thầm hướng theo Chúa Giê-su, Con của Mẹ.

Tóm lại, “hình ảnh của Đức Mẹ phải trở nên cho chúng ta một lời nhắc nhở hằng ngày để thực hiện ơn gọi của mình, đó là trở nên người con của Mẹ… Một trong những điều đầu tiên để chúng ta trở nên con cái của Mẹ, là chúng ta mở rộng cánh cửa để đón mời Mẹ.

  • Mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ.

Khi Chúa Giêsu trao phó cho Gioan Mẹ của Người, Gioan đã phản ứng như thế nào? Đọc phần kế tiếp, ngay sau lời Chúa nói với Gioan, chúng ta thấy rằng: “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27b). Trong bản văn của tiếng Hy-lạp là eis ta idia. Theo cha A. Gruen, thì có nghĩa là vào trong nội tâm của anh, vào trong trái tim của anh.[29] Còn theo Đức BenedictoXVI, thì có nghĩa theo mạch chữ là anh ta đón nhận Mẹ vào trong nơi sâu kín của anh, vào cuộc sống nội tâm của anh.[30] Theo nhà Thánh Kinh học Schnackenburg cũng vậy. Từ ngữ eis ta idia diễn tả không gian của tâm hồn.[31]

Còn Cantalamessa thì giải thích rằng: “Câu ‘và môn đồ đã lĩnh lấy Bà về nhà mình’ (els tu ídin) trong nguyên bản có thể có hai nghĩa, và tất nhiên phải bảo tồn cả hai nghĩa đó. Môn đồ đã lĩnh lấy Bà về nhà mình và môn đồ đã nhận Bà vào số những gì mình quý giá nhất. Người ta rất ít nghĩ đến tất cả sự phong phú của câu văn thật ngắn ngủi đó. Nó chứa đựng bên trong một tin có tầm quan trọng lớn lao và được bảo đảm về mặt lịch sử, bởi nó được chính người có liên quan viết ra. Ðức Maria đã sống những năm cuối đời với Gioan. Những điều chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng thứ Tư, về Ðức Maria ở Cana xứ Ga-li-lê và dưới chân Thánh Giá, thì đã được người sống dưới cùng một mái nhà với Ðức Maria viết ra.”.[32] Gio-an đã mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ Maria vào. Cánh cửa đó không chỉ là cánh cửa nhà của ông, mà là cánh cửa tâm hồn sâu kín của ông. Như thế, Gioan đã sống đúng điều mà Chúa Giêsu nhắn nhủ ông.

Hơn nữa, khi Chúa nói “Đây là Mẹ của con”, Chúa cũng muốn Gio-an hãy yêu thương Mẹ như Chúa đã yêu thương Mẹ. Qua di ngôn này Chúa Giê-su cũng đã đặt nền tảng cho việc yêu mến Mẹ Maria trong lòng Giáo Hội, trong lòng mỗi tín hữu.

…Công Đồng đã dạy rằng: “Phần các tín hữu hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).[33]

Một trong những nhân đức cao quý của Mẹ là luôn thờ lạy Thiên Chúa và luôn xin vâng theo thánh ý của Ngài.  Vì thế, đi đôi với sự tôn sùng Mẹ Maria, người tín hữu luôn ý thức thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự, và thờ lạy Ngài là Thiên Chúa Duy Nhất. Đó chính là nét đặc trưng của người Công Giáo: biết đón nhận Mẹ Maria, nhưng không vì thế mà lãng quên Thiên Chúa của mình.

Khi đón nhận Mẹ Maria, người tín hữu ý thức đó là món quà vô giá mà chính Chúa Giêsu ban tặng. Thật tuyệt vời, khi người tín hữu nhận ra rằng: Vì yêu thương nhân loại quá đỗi, nên Cha trên trời đã tặng ban Người Con Duy Nhất của Ngài cho nhân loại. Giờ đây, Người Con Duy Nhất yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh chính bản thân mình cho nhân loại, và ban tặng thêm một món quà cao quý là chính Mẹ của Ngài.

Cantalamessa cũng chia sẻ: “Chúng ta đặt thêm câu hỏi: việc lãnh lấy Ðức Maria về nhà mình có ý nghĩa đối với chúng ta cụ thể như thế nào? Tôi thiết tưởng đây là lúc để nói về cốt lõi lành mạnh, giản dị của linh đạo Monfort về niềm tín thác vào Ðức Maria: ‘Thực hiện mọi hành động nhờ Ðức Maria, với Ðức Maria, trong Ðức Maria, ngõ hầu thực hiện chúng cách hoàn hảo hơn nhờ Ðức Giêsu, với Ðức Giêsu, trong Ðức Giêsu và vì Ðức Giêsu’. ‘Cần phải phó thác theo tinh thần của Ðức Maria để được thúc đẩy và dẫn dắt theo cách thức Người muốn. Phải tự đặt mình trong đôi tay trinh khiết của Người, như một dụng cụ trong tay người thợ, như chiếc đàn luýt (luth) trong tay người nhạc công tài tình. Phải buông mình phó thác cho Người như viên đá ném vào biển cả: điều này thực hiện cách đơn giản, trong một khoảnh khắc bằng chỉ một liếc mắt của tâm trí, một chuyển động nhỏ của ý chí hay bằng môi miệng’…

Ðức Maria là một trong những phương thế ưu việt mà Chúa Thánh Thần dùng để dẫn dắt các tâm hồn và dẫn đưa họ đến chỗ nên giống Ðức Kitô, bởi lẽ Ðức Maria là thành phần của Lời Chúa, chính bản thân Người là một lời bằng hành động (parole en action) của Thiên Chúa. Câu“ad Jesum per Mariam”, nhờ Ðức Maria tới Ðức Giêsu, phải được hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần dùng Ðức Maria để dẫn đưa chúng ta tới Ðức Giêsu thì mới có thể chấp nhận được. Trung gian thụ tạo (médiation crée) của Ðức Maria, giữa Ðức Giêsu và chúng ta, sẽ tìm lại được tất cả hiệu lực của nó nếu được hiểu như là phương tiện của trung gian bất thụ tạo (médiation incrée) là Chúa Thánh Thần”.[34]

Chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết luôn mở rộng cánh cửa nhà mình, cánh cửa tâm hồn mình ra, để như Gio-an đón Mẹ Maria vào, dọn cho Mẹ một chỗ xứng hợp. Có Chúa có Mẹ, thì đời sống người tín hữu sẽ không bao giờ lẻ loi. Có Chúa, có Mẹ người tín hữu sẽ tìm thấy được an bình và hạnh phúc đích thật. Có Chúa có Mẹ ở bên, tất cả mọi khổ đau của cuộc đời này sẽ không thể làm cho người tín hữu đánh mất chính bản thân. …

  • Đón nhận tình yêu để biết sống yêu thương.

Thánh Tê-rê-sa thành A-vi-la trong tác phẩm Đường hoàn thiện đã suy niệm: “Xin Chúa uy linh ban cho chúng ta tình yêu Chúa trước khi gọi chúng ta ra khỏi đời này! Thật là một ân huệ cao cả, khi giờ chết đến chúng ta được phán xét bởi chính Đấng mà chúng ta đã yêu mến trên hết mọi sự. Chắc chắn nợ chúng ta sẽ được trả sòng phẳng; chúng ta không đi vào miền nước xa lạ, nhưng về quê hương của chúng ta, chúng ta đi về xứ sở của Đấng mà chúng ta yêu mến dường ấy và được Ngài yêu mến”.[35]

Thật vậy, tình yêu Thiên Chúa là món quà cao quý nhất của cuộc sống làm người. Mong sao mỗi người chúng ta đón nhận được tình yêu đó, trước khi chúng được Chúa gọi về. Đi vào di ngôn, chúng ta cha A. Gruen giải thích[36], khi Chúa Giê-su trao phó Mẹ Maria cho Gio-an, người môn đệ yêu dấu của Ngài, thì Chúa muốn ban tặng tình yêu của Chúa trong Mẹ Maria cho mọi người. Người môn đệ yêu dấu của Chúa là hình ảnh biểu trưng cho mọi người. Như thế, trách nhiệm của chúng ta là đón nhận tình yêu Chúa vào trong nhà của chúng ta, vào trong tâm hồn chúng ta, vào trong nơi sâu kín nhất của cuộc đời chúng ta. Khi có tình yêu trong chúng ta, chúng ta sẽ trở thành những người có khả năng yêu thương. Chúng ta không còn phải sợ hãi nữa. Có tình yêu, có Chúa và có Mẹ trong căn nhà cuộc đời và trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta, thì nguồn sống và nguồn tình yêu đang ở trong chúng ta. Không có gì có thể lấy mất kho tàng vô giá đó. Qua việc suy niệm di ngôn Chúa nói với Mẹ và môn đệ yêu dấu của Ngài, chúng ta đụng tới nguồn của tình yêu đang ở trong chiều sâu tâm hồn chúng ta.

Chúng ta cũng ý thức rằng, nguồn tình yêu đó luôn bị đe dọa và nhấn chìm bởi những thế lực đến từ sự dữ, bởi những lo âu và đau khổ hằng ngày, cũng như bởi những áp lực của cuộc sống. Khi suy niệm di ngôn này, chúng ta để cho nguồn tình yêu trong sâu thẳm tâm hồn của chúng ta nổi lên, lộ rõ lên và sống động lên. Nhờ đó, chính nguồn tình yêu này bước vào trong sự ý thức của chúng ta, chảy sâu vào trong suy nghĩ của chúng ta, và hướng dẫn lời nói cùng hành động của chúng ta. Hơn nữa, nếu nguồn tình yêu này thấm nhuần những cảm giác của chúng ta, thì nó sẽ giúp chúng ta tìm được những tương quan tốt đẹp với người khác, với bạn bè, với người than, đặc biệt giúp chúng ta đi vào được tương quan với Chúa Giêsu, cụ thể giúp chúng ta ý thức luôn đứng bên Thánh Giá, như ngày xưa môn đệ yêu dấu của Chúa đã làm.

  • Đứng bên cây Thánh Giá.

… Ðứng bên khổ giá của Ðức Giêsu. Những từ đó nói cho chúng ta biết điều phải làm trước tiên và cũng là điều quan trọng nhất, không phải là đứng bên khổ giá theo nghĩa chung chung, mà là đứng bên khổ giá của Ðức Giêsu. Không phải chỉ cần đứng bên khổ giá, chịu đau khổ là đủ, ngay cả chịu đựng trong câm lặng đi nữa. Không! Nếu chỉ có như thế thì có vẻ anh hùng đấy nhưng đó chưa phải là điều quan trọng nhất, thậm chí có khi chẳng là gì cả. Ðứng bên khổ giá của Ðức Giêsu, đó mới là điều quyết định. Ðiều quan trọng không phải là thập giá của chúng ta mà là Thánh Giá của Ðức Kitô. Không phải sự kiện chịu đau khổ nhưng là lòng tin, và qua đó nhận đau khổ của Ðức Kitô làm của mình. Ðức tin mới là điều quan trọng hàng đầu. Ðiều cao cả nhất của Ðức Maria dưới chân Thánh Giá là lòng tin hơn là nỗi đau khổ của Người. Thánh Phaolô nói: lời của Thánh Giá ‘là quyền năng của Thiên Chúa và là khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những ai được kêu gọi’. (x.1Cr 1,18.24). Ngài còn nói Tin Mừng là quyền năng của Thiên Chúa ‘đối với mọi kẻ tin’ (x.Rm 1,16).

 Ðứng bên khổ giá… Dấu hiệu và bằng chứng, là vác lấy Thánh Giá của mình và theo Ðức Giêsu (x.Mc 8,34). Dấu hiệu là thông phần vào các thống khổ của Ngài (x.Ph 3,10; Rm 8,17) là cùng chịu đóng đinh với Ngài (Ga 2,20), là lấy chính những đau khổ của mình, bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Ðức Kitô phải chịu (Cl 1,24). Ðời sống người Kitô hữu phải trở nên một hy tế sống động như hy tế của Ðức Kitô (x.Rm 12,1). Nhưng vấn đề không phải chỉ là nỗi đau khổ mình phải chấp nhận, phải chịu đựng, mà còn là đau khổ chủ động, tự ý tìm kiếm: “Tôi đối xử khắc nghiệt với thân xác tôi và bắt nó quỵ lụy phục tùng” (1Cr 9, 17).

Ðứng trước Thánh Giá và cuộc Khổ Nạn của Ðức Kitô, quả thật chúng ta thấy có hai thái độ khác biệt trong Giáo Hội: một thái độ đặc trưng của thần học Tin Lành, đặt nền trên đức tin và đón nhận đức tin trong tâm hồn, thái độ này dựa vào Thánh Giá Ðức Kitô và không muốn biết thứ vinh quang nào khác ngoài Thánh Giá Ðức Kitô. Thái độ thứ hai đặc biệt được khai triển, ít là trong quá khứ, trong thần học Công Giáo. Thái độ này nhấn mạnh đến việc cùng chịu đau khổ với Ðức Kitô, thông phần cuộc khổ nạn của Ngài và, như trường hợp một số vị thánh, sống lại cuộc khổ nạn của Ðức Kitô nơi bản thân mình.

Lời Chúa gợi cho thấy điều quan trọng không phải là lựa chọn giữa thái độ này hay thái độ kia, nhưng là giữ cho hai thái độ đó kết hợp với nhau và phát triển cả hai thái độ đó: thái độ tin và thái độ noi theo. Hiển nhiên vấn đề không phải là đặt công trình của Ðức Kitô và việc làm của chúng ta lên cùng một bình diện, nhưng là đón nhận lời Kinh Thánh, vì lời Kinh Thánh dạy rằng đức tin và việc làm gắn liền với nhau, nếu không thì dù là đức tin, dù là việc làm cũng ra vô ích (x.Gcb 2,14tt).

Có thể nói, vấn đề rõ ràng liên hệ đến đức tin. Niềm tin vào Thánh Giá Ðức Kitô phải trải qua đau khổ để trở thành đức tin chính thực. Thư thứ nhất Phêrô nhắc lại rằng đau khổ là ‘lò luyện’ đức tin, và đức tin cần đến đau khổ để được tinh luyện, như vàng trong lửa (x.1P 1,6-7). Nói cách khác, thập giá của chúng ta tự nó không phải là ơn cứu độ, không phải là quyền năng cũng chẳng phải là khôn ngoan, tự nó, thập giá chỉ thuần túy là việc làm của con người ngay cả là sự trừng phạt. Thập giá trở nên quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa trong mức độ nó kết hợp chúng ta lại với Thánh Giá của Ðức Kitô, và điều này phải là do quyết ý của Thiên Chúa và gắn liền với đức tin.  

Trong bài thánh thi về Thánh Giá vũ trụ chúng ta đọc thấy: ‘Ðối với tôi, cây gỗ này là ơn cứu độ muôn đời. Tôi được dưỡng nuôi, được no thỏa bằng cây đó. Bởi rễ của nó mà tôi đâm rễ sâu, bởi cành của nó mà tôi vươn rộng; sương của nó làm tôi ngất say, và bởi Thần Khí của nó như làn gió tuyệt vời mà tôi thành phong nhiêu. Dưới bóng của nó tôi dựng lều và tìm được nơi ẩn náu khỏi nóng bức mùa hè. Nhờ hoa của nó mà tôi nở hoa, nhờ trái của nó mà tôi thỏa thuê vui sướng, tôi mặc sức hái ăn, bởi đó là trái dành cho tôi ngay từ thuở ban đầu. Cây gỗ đó là thức ăn cho cơn đói, nguồn suối cho cơn khát và là trang phục cho sự trần trụi của tôi. Cây gỗ đó bảo vệ tôi khi tôi e sợ Thiên Chúa, là chỗ dựa khi tôi lao đao, là phần thưởng khi tôi chiến đấu, là chiến lợi phẩm khi tôi chiến thắng khải hoàn. Với tôi, cây gỗ đó là lối nhỏ, là con đường hẹp, là chiếc thang Giacóp, là đường đi của thiên thần, trên đỉnh của nó Chúa thực sự đã tựa vào”.[38] …

  • Là một gia đình quây quần bên Thánh Giá.

Elizabeth Johnson, một nữ thần học gia Hoa Kỳ chia sẻ trong tập sách Truly our sister: A theology of Mary in the communion of saints: “Đứng dưới chân Thánh Giá, qua lời của Chúa Giêsu họ đã quay qua nhau và đã cho nhau sự chú ý và chăm nom…Cách nói ‘nhận đây’ hay “nhìn đây” diễn tả rằng, một điều chuẩn bị được tỏ bày, như Gioan Tẩy Giả đã kêu lên ‘Đây là chiên Thiên Chúa’ (Ga 1,36) và như Phi-la-tô lên tiếng ‘đây là vua các ngươi’ (Ga 19,14). Đón nhận lấy nhau trong một tương quan mới – Mẹ của Chúa Giê-su và người môn đệ được Chúa yêu mến, đã đánh dấu một ‘cuộc sinh ra’ của một gia đình mới của niềm tin, gia đình được hình thành trên hành trình theo Chúa Giê-su và Thiên Chúa giàu lòng thương xót…

Thật vậy, trong cuộc sống hôm nay, tất cả những người tin hiệp nhất với nhau làm thành một gia đình trong Thần Khí. Họ là cha mẹ, là con cái và là anh chị em của nhau. Ở dưới chân Thánh Giá, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ của gia đình chúng ta, khi chúng ta thực sự đón nhận lời của Chúa Giêsu cách vô điều kiện. Lời nối kết với một trách nhiệm không nhỏ.

Ngoài ra, Radcliffe cũng đã nhìn thấy ý nghĩa thiêng liêng về gia đình trong bối cảnh ở dưới chân Thánh Giá. Radcliffe chia sẻ: “Chúa không gọi Maria là ‘Mẹ’, mà là ‘Bà’, vì bà chính là E-và mới. E-và cũ là Mẹ của mọi sinh linh. Ở đây chúng ta nhìn thấy E-và mới của tất cả những ai sống từ nguồn mạch của niềm tin.

… Chúa Giê-su là chính đá tảng góc tưởng, đã bị người thợ xây loại bỏ (x.Tv 118). Như James Alison viết: ‘Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta như người cùng khổ bị xã hội loại bỏ’. Người cùng khổ này đang ở giữa để chúng ta thờ lạy….Chúng ta, những Kitô hữu, cần phải nhận ra rằng, gia đình của chúng ta được sinh ra ở dưới chân Thánh Giá và không có ai bị loại bỏ cả.

Nếu chúng ta gọi người khác là anh chị em, thì chúng ta đang xây dựng một tương quan chắc chắn và chúng ta đang sẵn sàng hoà giải với nhau…

Hôm nay, khi chiêm ngắm và suy niệm về tâm tình này, chúng ta càng nhận ra được hình ảnh của gia đình chúng ta cách sâu sắc hơn. Một gia đình có Mẹ Maria và người anh là Chúa Giêsu, nguồn mạch của lòng thương xót. Khi Ngài sinh ra ở hang lừa Bêlem, Ngài sinh ra cho mọi người. Cũng thế, khi Ngài vì tình yêu chịu chết trên Thánh Giá Ngài chịu chết cho mọi người. Không ai bị loại ra khỏi tình yêu của Chúa Giêsu. Bạn nghèo ư? Chúa sinh ra và chết cho bạn. Bạn giàu sao? Chúa cũng sinh ra và chết cho bạn. Khi bạn có công ăn việc làm tốt và cả lúc bạn rơi vào tình trạng thất nghiệp, Chúa Giêsu sinh ra và chết cho bạn. Lúc bạn sống trong một gia đình hạnh phúc bên vợ và con ngoan, hay nếu trớ trêu thay bạn đứng trước bờ vực đổ vỡ của gia đình bạn, Chúa Giêsu sinh ra và chết cho bạn. Bạn vui mừng và sống bình an trong tinh thần đạo đức giữ luật Chúa và Giáo Hội, hay khi bạn vì cám dỗ rơi vào trong hố sâu của sự dữ với biết bao lầm lỡ và tội lỗi, Chúa Giêsu sinh ra và chết cho bạn. Ngài sinh ra và chết cho bạn, cho tôi và cho mỗi người chúng ta, dù chúng ta là ai, dù chúng ta thế nào. Đơn giản bởi vì Ngài yêu thương chúng ta, bởi vì Ngài là Emmanuen – luôn ở bên chúng ta, bởi vì Ngài là Giêsu – ban ơn cứu độ cho chúng ta, và bởi vì Ngài cho phép chúng ta được là anh chị em với Ngài, để rồi chúng ta có một Cha trên trời mà mỗi ngày chúng ta có thể kêu cầu ‘Lạy Cha chúng con’, và Ngài còn ban tặng cho chúng ta một người Mẹ yêu dấu là chính Mẹ của Ngài.

…Đức tổng Giám Mục Hélder Câmara của Recife ở bên Brasil đã có một cảm nhận rất sống động: những người nghèo nhất là anh chị em của Ngài. Một lần nọ đức tổng nghe có một người bị cảnh sát bắt, ngài đã gọi cho cảnh sát và nói: Tôi vừa nghe các anh đã bắt người anh em của tôi”. Cảnh sát liền xin lỗi đức tổng và nói: “Kính thưa đức tổng, chúng con xin lỗi, chúng con không biết đó là anh em của đức tổng. Xin Ngài hãy đến và nhận người đó về”. Khi đức tổng đến trạm cảnh sát để đón người kia về, thì một anh cảnh sát đã lên tiếng: “Kính thưa đức tổng, anh này không có cùng tên họ với đức tổng”. Đức tổng Câmara đã trả lời rằng, mỗi người nghèo khổ đều là anh em và là chị em của tôi.[41]

Bài tập sống di ngôn thứ ba của Chúa Giê-su trên Thánh Giá.

  • Đứng dưới cây Thánh Giá, trong thầm lặng xin Chúa củng cố lòng tin của chúng ta vào Chúa, và với niềm tin xin Chúa giúp chúng ta đón nhận đau khổ của Ðức Kitô làm của mình.
  • Đứng dưới cây Thánh Giá như Thánh Gioan, chúng ta nhớ đến những đau khổ trong cuộc đời của chúng ta, xin Chúa cho chúng ta biết ý thức tích cực đón nhận các khổ đau đó như là thập giá cuộc đời chúng ta. Chúng ta đón nhận sự khổ đau này trong tinh thần hiệp thông với Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết trên Thánh Giá.
  • Đứng dưới cây Thánh Giá và kế bên Đức Mẹ, chúng ta lắng nghe lại lời Chúa nói với thánh Gioan: “Này là Mẹ con”. Chúng ta nhẩm đi nhắc lời này trong lòng. Thật nhẹ nhàng và trong sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta mở vòng tay để đón nhận Mẹ là Mẹ chúng ta, và ý thức dọn một chỗ thật đẹp cho Mẹ trong căn nhà cuộc sống của chúng ta. Và khi có Mẹ là Mẹ, chúng ta cầu xin Mẹ cho chúng ta mỗi ngày sống giống như Mẹ, là người luôn xin vâng với thánh ý Chúa, là người luôn hướng về Chúa Giê-su, Đấng là trung tâm điểm của cuộc sống.
  • Ở dưới Thánh Giá, qua lời Chúa Giêsu, một gia đình của những người tin được hình thành. Mỗi người chúng ta tự hỏi mình xem, là người tín hữu tôi có muốn ở trong gia đình này. Một gia đình có Mẹ Maria Mẹ, và mọi người là anh chị em của nhau, không loại trừ ai cả. Chúng ta mường tượng mình đang sống ở trong gia đình đó. Mỗi người chúng ta nên sống thế nào để xây dựng mái nhà gia đình này tràn ngập tinh thần của Tin Mừng, tinh thần của Đấng chịu đóng đinh và sống lại để cứu độ muôn người?

Phan Sinh Trần sưu tầm

PHÊ-RÔ TRẢI NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

Những giọt nước mắt hổ thẹn và hối hận lăn dài trên khuôn mặt của Phê-rô, khi ông vội vã thoát khỏi sân dinh vị thượng tế, là nơi Chúa Giê-su đang bị giam giữ.  Một tiếng nói bên trong nội tâm tra khảo ông: “Làm sao ông lại chối bỏ thầy Giê-su cách công khai như vậy?”  Cách đây ít lâu, ông không bao giờ có thể tưởng tượng là mình có thể quay lưng với Chúa Giê-su một cách nhẫn tâm như vậy.  Những lời khẳng định đầy hiên ngang mà ông vừa nói với Chúa Giê-su, nay lại quay về ám ảnh ông: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22,33).  Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi Chúa Giê-su tiên báo, thì đêm hôm ấy, ông đã chối Chúa đến ba lần.  Phê-rô thầm nghĩ, mọi sự xảy ra quá nhanh.  Trước hết, ông cẩn thận tìm mọi cách để đi theo Chúa vào trong sân.  Rồi khi ông thấy mình đã bị nhận diện là môn đệ của Chúa Giê-su, ông chợt nhận ra là mình đang gặp nguy hiểm.  Đó là khi người ta bắt đầu lớn tiếng cáo buộc ông: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì?” (Mc 14,67).  Ông cảm thấy hồi hộp.  Người ta càng thúc ép ông trả lời cho câu hỏi đó, thì ông càng cương quyết phủ nhận.  Trong chốc lát, thái độ nhún vai phủ nhận đã biến thành một lời thề công khai, khi ông bắt đầu thốt lên những lời độc địa mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26,74).

Ngay khi ông nhớ lại một chuỗi những sự kiện xảy ra quá nhanh, thì lòng ông quặn đau như thắt vì thất bại và ông cảm thấy hết sức chán nản.  Sau này, Phê-rô nhận thức rằng khi Chúa Giê-su quay lại nhìn ông, thì chính cái nhìn ấy – một cái nhìn đầy lòng thương xót – đã lay động tâm hồn ông, để ông nhận ra điều khủng khiếp mình vừa làm, đồng thời ông cũng nhận biết là Chúa đã thông cảm và tha thứ cho ông.

Khi ông nhận ra điều đó, ông đã khóc lóc thảm thiết.  Sertillanges đã chia sẻ như sau: “Đức Giê-su hướng về Phê-rô, mặc dầu ông ở rất xa, nhưng vẫn cảm được cái nhìn của Thầy, cái nhìn làm tan biến sự yếu đuối của trái tim con người, thâm nhập sâu vào tình yêu của nó và ban sức mạnh cho sự yếu đuối ấy.  Tảng đá đã chao đảo.  Nhưng chính trên tảng đá này mà nền móng của công trình đời đời được thiết lập.  Nơi đâu mà xác thịt loài người tỏ ra yếu đuối, nơi đó quyền năng của Thượng Đế được biểu lộ rõ ràng.  Phê-rô vấp ngã, nhưng ông là người thứ nhất tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, rằng Ngài là Đấng Thiên Sai Thượng Đế hứa”.[1]

Câu chuyện Phê-rô chối Thầy được trình thuật cả trong bốn Tin Mừng, chỉ cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã công bố khuyết điểm của vị thủ lãnh đầu tiên của mình, chứ không che đậy.  Dù vậy, họ được thêm vững mạnh, chứ không bị vấp phạm.  Kinh nghiệm của thánh Phê-rô xác nhận với họ rằng, thất bại là điều có thể chấp nhận được, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ.

Rất có thể là chính thánh Phê-rô đã phổ biến câu chuyện thất bại của mình, khi người không ngừng cố gắng khích lệ anh chị em mình phấn đấu – như Chúa Giê-su đã yêu cầu Phê-rô: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.  Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).

Như Giáo Hội tiên khởi đã xem sự sa ngã của Adam là một “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà xuất hiện Đấng Cứu Thế, Giáo Hội cũng xem sự trượt ngã của Phê-rô là “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà Giáo Hội có được một vị thủ lãnh vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ.  Phê-rô bị bó buộc phải đối diện với bóng tối của mình, và điều đó đã làm cho ông trở nên con người khiêm nhường đầy lòng thương xót.[2]

Qua hình ảnh của thánh Phê-rô, Giáo Hội được mời gọi luôn là Giáo Hội của lòng thương xót, và cần phải là Giáo Hội của lòng thương xót hơn bao giờ hết, vì Giáo Hội chính là thân thể mầu nhiệm và sống động của chính Chúa Giê-su, Đấng là mục tử nhân lành, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót.  Chính Ngài luôn yêu thương con cái của Ngài, và mời gọi tất cả những ai sống trong khổ đau và bất hạnh hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).  Không chỉ dừng ở nơi đó, mà trong chiều sâu của tình yêu thương, Chúa Giê-su còn trao mọi người con của Chúa cho Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

******

Lạy Chúa, Đấng đầy lòng thương xót.
Xin thương đoái nhìn đến những góc khuất tăm tối, những yếu đuối mỏng dòn, và những xáo động ồn ào trong con,
Xin thương đoái nhìn đến những phút giây bội thề, những yếu hèn nhát đảm, cùng những lơ đễnh thoái thác trong con.
Con không đòi Chúa ban cho con bất cứ điều gì, ngoại trừ lòng thương xót của Người.
Trong cuộc sống thế trần, mọi sự chỉ như hoa cỏ sớm nở tối tàn.
Những gì con cho là cao quý cũng chỉ là phù vân hư ảo và những gì con bận tâm lo lắng rốt cuộc cũng chẳng ý nghĩa đáng giá gì. 
Lạy Chúa, xin thương xót và dắt dìu con,
Xin biến đổi con một lần nữa để con lại khao khát sống cuộc đời thánh thiện, và trở nên người của Chúa cho dẫu trong con còn nhiều hoang mang cùng bối rối.
Con không cầu xin để biết rõ ràng và chắc chắn phải làm gì,
ngoại trừ mong mỏi một điều là được Ngài dẫn dắt theo nẻo đường tình yêu của Ngài, để có thể dõi bước và tín thác vào lòng thương xót của Ngài.
Vì được như thế, con mới tìm thấy điều con hằng khắc khoải chờ mong.

Nguyễn Thế Anh, SJ, chuyển ý

Nguồn: Thomas Merton, A Year with Thomas Merton: Daily Meditations from His Journals, (Selected and edited by Jonathan Montaldo), (New York: HarperCollins e-books, 2007), 247.

“Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” (Ga 13:21)

Nguyện xin phép lành và ân sủng của Chúa ở lại trong tâm hồn bạn và gia quyến hôm nay và mãi mãi nhé.

Cha Vương

Thứ 3 Tuần Thánh: 04/04/2023

TIN MỪNG: Khi ấy, đang dùng bữa với các môn đệ, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” (Ga 13:21)

SUY NIỆM: Nhìn vào thân phận của ông Giu-đa, không phải Chúa muốn ông phạm tội, cũng không phải Chúa thờ ơ bỏ mặc hắn chìm sâu trong tội. Ngài đã nhiều lần nhiều cách đánh thức lương tâm hắn. Ngài chỉ làm được đến thế thôi vì Ngài phải tôn trọng tự do của hắn. Cách Chúa đối xử với bạn cũng thế, Ngài tôn trọng tự do của bạn đó. Bạn có sử dụng món quà tự do để đến gần với Chúa không? Bạn đang chọn Chúa hay thế gian vậy? Đừng nhìn vào tội lỗi của người khác mà kết án nhưng hãy coi đó là một tiếng còi đánh thức lương tâm của bạn: “Hãy tránh xa dịp tội và đừng phạm tội nữa!”

LẮNG NGHE: THIÊN CHÚA chẳng tha chính Con Một của Người, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. (Rm 8:32)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con. Con xin phó thác hồn xác yếu hèn của con trong tay Chúa.

THỰC HÀNH: Đọc qua 12 hoa trái của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết”, mời bạn chọn một hoa và cố gắng nảy sinh ra trái tốt nhé.

From: Đỗ Dzũng

Đừng Bỏ Con Chúa Ơi – Sáng tác: Lm Nguyễn Văn Tuyên -Trình bày: Linh Nhí