ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG VÀ MÀU THỜI GIAN – Rev. Ron Rolheiser, OMI 

 Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Thời trẻ, Nikos Kazantzakis, nhà văn nổi tiếng người Hy Lạp, từng nghiền ngẫm để trở thành tu sĩ, và từng để cả một mùa hè đi thăm các tu viện.  Nhiều năm sau, khi viết về trải nghiệm này, ông kể lại tỉ mỉ một cuộc chuyện trò tuyệt diệu với một tu sĩ già, cha Makarios.

 Một dịp, anh hỏi vị tu sĩ già: “Thưa cha Makarios, cha còn vật lộn với quỷ dữ không?”  Vị mục sư già thở dài trả lời: “Hết rồi, con ạ.  Giờ cha đã già rồi, và quỷ dữ cũng già theo cha.  Nó không còn sức lực… Giờ cha vật lộn với Chúa.” “Với Chúa!” Kazantzakis kinh ngạc kêu lên.  “Cha hy vọng sẽ thắng chứ?”  “Cha hy vọng sẽ thua, con ạ,” ông trả lời, “Xương cốt của ta vẫn còn đây, chúng vẫn tiếp tục cự lại ý muốn của ta.”

 Ngoài những ý nghĩa khác, câu chuyện này nêu bật thực tế rằng những đấu tranh tinh thần của chúng ta thay đổi khi chúng ta thêm tuổi tác và trải nghiệm cuộc đời.  Những đấu tranh thời trẻ không nhất thiết là những đấu tranh tuổi trung niên và tuổi già.  Sự chín chắn luôn luôn tiến triển. Mỗi chặng đời lại đòi hỏi chúng ta những điều khác nhau.  Nó cũng đúng đối với đời sống thiêng liêng và sứ vụ tông đồ.

 Đời sống tinh thần của chúng ta thay đổi ra sao và khi chúng ta ngày một lớn lên, nó đòi hỏi những điều gì mới?

 Dựa trên những nhận thức sâu sắc của thánh Gio-an Thánh giá, tôi xin nói rằng có ba giai đoạn nền tảng trong cuộc sống tinh thần của chúng ta, ba cấp độ của sứ vụ tông đồ:

 Cấp độ đầu tiên, mà thánh Gio-an Thánh giá gọi là đêm tối của cảm quan, cũng có thể gọi là “Sứ vụ tông đồ cốt yếu.”  Về cốt yếu, đây là cuộc đấu tranh để định hình cuộc sống của chúng ta.

 Cuộc đấu tranh này thật sự bắt đầu ngay khi chúng ta sinh ra, nhưng chỉ trở thành cuộc đấu tranh mang tính chất cá nhân của riêng mình khi đến tuổi dậy thì và bắt đầu chịu sự thúc đẩy của những lực mạnh mẽ bên trong khiến chúng ta tách khỏi gia đình để tạo lập cuộc sống và mái ấm cho riêng mình.  Trong thời gian này, chúng ta gắng gỗ gian nan để tìm được chính bản thân, để định hình cuộc đời, để tạo một mái ấm mới cho chính mình.  Thời gian này có thể kéo dài nhiều năm trời và có thể không bao giờ thành tựu.  Sự thật là, đối với hầu hết mọi người, một số khía cạnh của cuộc đấu tranh này vẫn tiếp tục trong suốt cuộc đời.

 Nhưng, với hầu hết mọi người, sẽ tới một lúc điều căn bản này đạt được, khi có cảm giác thoải mái như về lại mái nhà xưa, khi những câu hỏi chính của cuộc đời không còn là: Tôi là ai?  Tôi sẽ làm gì với đời mình?  Ai thương yêu tôi?  Ai sẽ kết hôn với tôi?  Tôi nên sống ở đâu?  Tôi nên làm gì?  Đến một lúc, hầu hết chúng ta đều tìm thấy được một chỗ vượt lên trên những câu hỏi đó: Chúng ta có một mái ấm, một sự nghiệp, một người phối ngẫu hay sự bình yên nhất định với một người phối ngẫu, một ơn gọi, một ý nghĩa, một lý do tốt lành để thức dậy mỗi sớm mai, và một nơi để trở về mỗi tối.  Chúng ta đã tìm được đường về lại mái nhà xưa.

 Rồi chúng ta bước vào cấp độ thứ hai của sứ vụ tông đồ mà thánh Gio-an Thánh giá gọi là Thuần thục và chúng ta có thể gọi là Sứ vụ tông đồ Sinh sôi.  Cốt yếu, đây là cuộc đấu tranh để cho đi cuộc sống của chúng ta.  Bấy giờ mối quan tâm chính không phải là chúng ta làm gì với đời mình nữa, mà là cho đi cuộc sống của mình như thế nào để biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn.  Đây là những năm tháng sinh sôi và chúng kéo dài từ khi chúng ta cập bến vào một ơn gọi, một sự nghiệp, một mái ấm, cho tới lúc về hưu.  Và những câu hỏi chính trong suốt những năm này phải là những câu hỏi vì người khác: Làm thế nào để tôi cho đi bản thân mình một cách hào phóng và thanh khiết hơn?  Làm thế nào để tôi giữ lòng trung tín?  Làm thế nào để tôi trụ vững với những cam kết của mình?  Làm thế nào để tôi cho đi cuộc sống của mình?

 Nhưng đó vẫn chưa phải là những câu hỏi tối hậu: đến một lúc nào đó, nếu chúng ta may mắn có sức khỏe và vẫn còn sống sau khi về hưu, một câu hỏi còn sâu sắc hơn bắt đầu trỗi lên trong ta, một câu hỏi mời chúng ta đến giai đoạn thứ ba của sứ vụ tông đồ.  Như Henri Nouwen đã nói: Đến một thời điểm trong cuộc sống chúng ta, câu hỏi không còn là: “Tôi còn có thể làm gì nữa để sống cống hiến?” mà là “Bây giờ tôi có thể sống như thế nào để đến khi chết, cái chết của tôi sẽ là phúc lành tốt đẹp nhất đối với gia đình tôi, đối với giáo hội, và với thế giới này?

 Thánh Gio-an Thánh giá gọi giai đoạn này là đêm tối của linh hồn.  Chúng ta có thể gọi là Sứ vụ tông đồ Tận căn bởi vì ở giai đoạn này, chúng ta không còn đấu tranh nhiều nữa với việc làm sao để cho đi cuộc sống của chúng ta, mà là làm sao để cho đi cái chết của mình.  Lúc bấy giờ vấn đề của chúng ta là: Tôi sống những năm cuối đời mình như thế nào để khi chết đi, cái chết của tôi sẽ gieo phúc lành cho những người thân yêu, giống như cuộc sống của tôi đã làm?  Tôi sống những năm còn lại của đời mình như thế nào để khi tôi chết, “máu và nước” – nói như dụ ngôn – sẽ tuôn chảy từ thi thể tôi như từng tuôn chảy từ thi thể của Chúa Giê-su?

 Các tài liệu linh hướng của chúng ta hầu như không có cái gì thách thức chúng ta xem xét giai đoạn cuối này của cuộc đời: Làm thế nào để chúng ta chết vì người khác?  Tuy nhiên, như Goethe nói về điều này trong bài thơ Nỗi Khao khát Thiêng liêng (The Holy Longing), chính cuộc sống cuối cùng sẽ buộc chúng ta phải nghiền ngẫm việc liệu chúng ta có muốn trở thành “điên cuồng tìm ánh sáng” hay không.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

Hai phép lạ giúp thiếu niên Italy đủ điều kiện được phong thánh

Vatican công nhận việc một cậu bé khỏi bệnh bẩm sinh và một cô gái hồi phục kỳ diệu sau tai nạn là “phép lạ” của Acutis, giúp thiếu niên này đủ điều kiện được phong thánh.

Giáo hoàng Francis ngày 23/5 ra sắc lệnh công nhận phép lạ thứ hai của Carlo Acutis sau khi qua đời, giúp thần đồng máy tính gốc Italy sinh năm 1991 này đủ điều kiện để trở thành “vị thánh mặc quần jean đầu tiên” trong lịch sử giáo hội Công giáo.

Vatican tiến hành phong thánh cho tín đồ theo quá trình nghiêm ngặt, trong đó ứng viên phải được công nhận phép lạ thứ nhất trước khi được tuyên phong chân phước. Ứng viên sẽ đủ điều kiện được phong thánh khi được chứng nhận phép lạ thứ hai sau lễ tuyên phong chân phước.

“Phép lạ” phổ biến nhất là việc giúp những người bị bệnh bình phục hoặc khỏi hoàn toàn nhờ những lời cầu nguyện, điều nằm ngoài khả năng giải thích của khoa học. Các cố vấn thần học thuộc Bộ Phong thánh của Vatican sẽ điều tra, phỏng vấn các nhân chứng, tín đồ về những trường hợp cụ thể để lập hồ sơ, được gọi là “án phong”.

Họ cũng có thể tham vấn các cố vấn lịch sử và chuyên gia y tế về “phép lạ chữa lành bệnh”. Sau khi hoàn tất quá trình điều tra, Giáo hoàng là người đưa ra quyết định cuối cùng về việc công nhận phép lạ.

Lễ phong chân phước cho Acutis năm 2020 ở thị trấn Assisi, Italy. Ảnh: Hill

Án phong với Acutis, người qua đời năm 2006 ở tuổi 15, được bắt đầu vào năm 2013, sau khi cậu bé được cho là đã “can thiệp từ thiên đường để cứu mạng một bé trai Brazil mắc bệnh hiếm”.

Cậu bé tên Mattheus, sinh năm 2009, bị chứng dị tật bẩm sinh tuyến tụy hình vòng (annular pancreas) hiếm gặp, khiến cơ thể không thể chứa thức ăn, nôn mửa liên tục. Cậu bé chỉ nặng 9 kg khi lên 4 tuổi, sống nhờ vitamin và bột protein. Các bác sĩ không tin rằng Mattheus có thể sống lâu.

Luciana Vianna, mẹ Mattheus, đã dành nhiều năm cầu nguyện cho con trai khỏi bệnh. Linh mục Fr. Marcelo Tenorio, một người bạn của gia đình, đọc được thông tin về Acutis và bắt đầu gửi lời cầu nguyện đến cậu.

Năm 2013, linh mục Tenorio mời các tín đồ dự thánh lễ, khuyến khích họ gửi lời cầu nguyện đến Acutis để thỉnh cầu Chúa về phép lạ chữa lành. Bà Vianna đã đưa Mattheus và các thành viên trong gia đình đến giáo xứ dự lễ cầu nguyện ngày 12/10/2013.

Sau thánh lễ, trên đường về nhà, Mattheus nói với mẹ rằng cậu đã khỏi bệnh. Khi về nhà, cậu xin mẹ làm khoai tây chiên, cơm, đậu, bít tết và ăn sạch mọi thứ trên đĩa mà không nôn. Cậu cũng ăn uống bình thường những ngày sau đó. Các bác sĩ rất bối rối khi chứng kiến Mattheus khỏi bệnh mà không giải thích được.

Sau khi nghiên cứu trường hợp này, Bộ Phong thánh Vatican đã công nhận sự bình phục của Mattheus là phép lạ thứ nhất của Acutis và phong chân phước cho cậu vào năm 2020.

 Trong phép lạ thứ hai, Bộ Phong thánh của Vatican tiến hành điều tra và xác nhận Acutis đã “can thiệp từ trên thiên đường” để giúp Valeria Valverde, phụ nữ gặp tai nạn giao thông ở Italy năm 2022, hồi phục một cách kỳ diệu.

Ngày 2/7/2022, Valverde bị ngã xe đạp ở Florence, nơi cô đang theo học đại học. Cô gái khi đó 21 tuổi phải phẫu thuật cắt xương chẩm để giảm áp lực não, nhưng các bác sĩ cho hay tiên lượng sống của cô rất thấp.

6 ngày sau, bà Liliana, mẹ Valverde, đã đến lăng mộ của Acutis ở Assisi, thị trấn miền trung Italy, nguyện cầu Acutis gửi lời thỉnh nguyện tới Chúa để con gái bà qua cơn nguy kịch. Bà cũng để lại một bức thư tay ở lăng mộ.

Cùng ngày, bệnh viện thông báo Valverde bất ngờ hồi phục, không cần máy thở. Ngày hôm sau, cô bắt đầu cử động và khôi phục một phần khả năng nói.

10 ngày sau, Valverde rời phòng chăm sóc đặc biệt, được chuyển về khu phục hồi chức năng. Kết quả scan cho thấy khối máu đông trên não của cô đã biến mất.

Hai tháng sau tai nạn, Valverde hoàn toàn bình phục. Hai mẹ con cô đã tới Assisi để cảm tạ sự chuyển cầu của Acutis.

Mộ Carlo Acutis ở thị trấn Assisi, miền trung Italy. Ảnh: Camino Catolico

Carlo Acutis, sinh năm 1991, từ nhỏ đã xin bố mẹ thăm các nhà thờ ở Milan, quyên góp tiền tiêu vặt cho người nghèo trong thành phố. Khi đi học, Acutis cũng giúp đỡ các bạn học khuyết tật, bị bắt nạt hay có cha mẹ sắp ly hôn, đồng thời bắt đầu các hoạt động từ thiện.

Acutis được xem là thiên tài máy tính, nhưng không dùng máy tính để giải trí. Cậu từng cảnh báo bạn bè cùng trang lứa rằng Internet vừa là phước lành vừa là tai ương. Giáo hoàng Francis đã nhắc đến Acutis hồi năm 2019 khi cảnh báo giới trẻ rằng mạng xã hội có thể kích động thù hằn.

Với năng khiếu tin học của mình, Acutis tự học viết code từ thời tiểu học, tạo ra các website cho các tổ chức Công giáo và một trang ghi lại những phép lạ trên thế giới.

Acutis qua đời năm 2006 vì bệnh bạch cầu. “Khi cậu bé qua đời, tang lễ tại nhà thờ toàn người nghèo, là những người được Acutis âm thầm giúp đỡ”, Nicola Gori, người đại diện cho trường hợp phong chân phước năm 2020 của Acutis, cho biết.

Thi hài Acutis hiện được bọc trong lớp sáp giống tạo hình khi còn sống của cậu trong quan tài kính ở thánh địa Spoliation, thị trấn Assisi. Thi hài mặc quần jean, giày, áo khoác thể thao. Giới chức thường xuyên lên lịch mở cửa mộ cho công chúng, tín đồ đến viếng, cầu nguyện.

Tim của Acutis, được coi là một thánh tích, được trưng bày ở vương cung thánh đường Thánh Francis ở Assisi. Gia đình cho biết Acutis từng muốn hiến tạng sau khi mất, nhưng tâm nguyện không thành bởi bệnh bạch cầu. Lễ phong thánh cho Acutis nhiều khả năng sẽ diễn ra trong năm 2025. 

Đức Trung (Theo Catholic News Agency, Vatican News)

https://vnexpress.net/hai-phep-la-giup-thieu-nien-italy-du-dieu-kien-duoc-phong-thanh-4750415.html


 

HÃY ĐỂ CHO ĐỜI SỐNG ANH HÙNG CỦA ĐỨC HỒNG Y VIỆT NAM TRUYỀN CẢM HỨNG CHO BẠN

Truyền Thông Thái Hà

 Nhân ngày lễ giỗ của Đấng Đáng Kính – ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận (16/09/2002-16/09/2025), xin gửi đến bạn đọc một bài viết để tưởng nhớ vị chứng nhân của Hy vọng. Xin ngài cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam và mỗi người chúng ta.

HÃY ĐỂ CHO ĐỜI SỐNG ANH HÙNG CỦA ĐỨC HỒNG Y VIỆT NAM TRUYỀN CẢM HỨNG CHO BẠN

Tác giả: Philip Kosloski

Hồng y đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là ngọn hải đăng hy vọng trong suốt 13 năm tù ngục.

Ngày 4/5/2017, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành sắc lệnh tuyên bố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là “Đấng đáng kính” (Venerable), một bước quan trọng trên hành trình tiến tới phong thánh. Ngày 16/9 đánh dấu ngày giỗ của ngài. Hiện nay, phần mộ của ngài được đặt tại nhà thờ Santa Maria della Scala, Rôma, Ý.

________________________________________

Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là ai?

Ngài sinh ngày 17/4/1928 tại Huế, Việt Nam, sớm theo đuổi ơn gọi linh mục và được thụ phong linh mục năm 1953 khi mới 25 tuổi. Trong nhiều năm, ngài là giảng viên và giám đốc Đại chủng viện Nha Trang trước khi được bổ nhiệm làm Giám mục Nha Trang năm 1967.

Một biến cố định mệnh xảy đến vào ngày 24/4/1975, khi ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục phó Sài Gòn. Chỉ sáu ngày sau, Việt Nam rơi vào tay cộng sản, và Đức cha Thuận bị bắt với tội danh “kẻ thù của nhà nước.” Ngài bị đưa vào trại giam biệt lập suốt 13 năm, trong đó 9 năm bị giam cầm hoàn toàn đơn độc.

________________________________________

Đức tin sáng ngời trong ngục tối

Chính trong thời gian tù đày, đức tin mạnh mẽ của ngài đã tỏa sáng. Ngài bí mật gửi ra ngoài những mẩu giấy viết tay nhắn nhủ giáo dân; sau này, các suy niệm thiêng liêng ấy được tập hợp thành cuốn “Đường Hy Vọng.”

Đài Vatican kể lại:

“Đức cha đã làm ra một cuốn Kinh Thánh tí hon từ những mảnh giấy vụn. Các cai ngục cảm thông đã lén đưa cho ngài một mảnh gỗ và sợi dây điện bằng kim loại, từ đó ngài chế tác thành một thánh giá giám mục và dây đeo, mà ngài giữ đến tận cuối đời.”

Trong tù, ngài thường xin bạn bè gửi cho mình cái mà ngài gọi là “thuốc chữa bệnh.” Ai nấy đều hiểu, và họ gửi cho ngài những chai thuốc ho nhỏ đựng rượu lễ, cùng những mẩu bánh thánh. Với mảnh gỗ được lén chuyển vào, ngài làm một cây thánh giá nhỏ để dâng Thánh lễ.

Ngài giữ tất cả trong một chiếc hộp giấy bìa cứng. Chính chiếc hộp ấy trở thành bàn thờ riêng của ngài. Mỗi ngày, vào 3 giờ chiều – giờ Chúa chịu chết – ngài cử hành Thánh lễ bằng cách nhỏ vài giọt rượu lễ hòa với nước trong lòng bàn tay.

________________________________________

Sau khi được trả tự do

Đức cha Thuận được trả tự do vào 21/11/1988, và khi được phép sang Rôma, ngài bị cấm vĩnh viễn không được trở về Việt Nam. Vì thế, ngài sống phần đời còn lại tại Rôma, và qua đời ngày 16/9/2002.

Án phong thánh cho ngài được mở ngày 22/10/2010, và tiếp tục tiến triển với việc Tòa Thánh tuyên bố các nhân đức anh hùng của ngài.

________________________________________

Lời Đức Giáo hoàng Phanxicô về Đức hồng y Thuận

Trong sắc lệnh, Đức Thánh Cha Phanxicô viết:

“Chứng tá đức tin, đức cậy và đức mến của Tôi tớ Chúa, được trao ban cách quảng đại từng ngày với lòng khiêm nhường và kín đáo, là một lời mời gọi liên lỉ hướng tới sự thánh thiện tập thể. Chứng tá ấy đạt tới đỉnh cao nơi lòng trung tín với Thiên Chúa và trong sự nâng đỡ lẫn nhau để bước đi trên con đường thánh thiện.”

3 bài học thiêng liêng từ đời sống Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

________________________________________

  1. Đức tin vững vàng giữa bóng tối

Trong 13 năm tù, 9 năm bị biệt giam, ngài không đánh mất niềm tin mà còn biến hoàn cảnh thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Chiếc hộp giấy trở thành bàn thờ, vài giọt rượu và mẩu bánh nhỏ cử hành hy tế Thánh lễ.

Bài học: Trong thử thách, chúng ta cũng có thể tìm thấy Thiên Chúa nếu biết giữ niềm tin và cậy dựa vào Người.

“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11,1)

________________________________________

  1. Hy vọng rực sáng trong ngục tù

Ngài viết “Đường Hy Vọng” ngay trong ngục tù, để gieo vào lòng tín hữu ánh sáng hy vọng giữa đêm tối. Thay vì than trách, ngài gieo lời khích lệ.

Bài học: Hy vọng Kitô giáo không dựa vào hoàn cảnh, nhưng đặt nền tảng nơi Đức Kitô Phục Sinh.

“Chúng ta được cứu độ nhờ niềm hy vọng.” (Rm 8,24)

________________________________________

  1. Tình yêu biến đau khổ thành hy lễ

Ngài đã làm tất cả với tình yêu: chế tác thánh giá từ dây điện và mẫu gỗ vụn, dâng lễ bằng vài giọt rượu trong lòng bàn tay… Ngài dạy rằng: “Chỉ có tình yêu mới tồn tại mãi.”

Bài học: Khi tình yêu hiện diện, không hoàn cảnh nào có thể cướp mất sự tự do và niềm vui nội tâm.

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… Đức mến không bao giờ mất đi.” (1 Cr 13,4.

________________________________________

Tóm lại, Đức Hồng y Thuận để lại cho chúng ta con đường đức tin vững chắc, hy vọng bền bỉ và tình yêu quảng đại – ba nhân đức nền tảng mà mỗi Kitô hữu đều được mời gọi thực hành.

(Lm. Jos. Lương Tùng, CSsR. chuyển dịch và tổng hợp, từ trang Aleteia.org)


 

NGÃ RẼ- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi phải ví người thế hệ này với ai?”.

“Hoang dã là một phần của khung cảnh đức tin, ở đó, mọi thứ đều thiết yếu! Trên đỉnh núi, tôi choáng ngợp trước sự hiện diện của Thiên Chúa; trong sa mạc, tôi choáng ngợp vì sự vắng mặt của Ngài. Cả hai nơi buộc tôi phải quỳ gối, tôn thờ, cảm tạ và hoán cải. Nơi này, tôi kinh ngạc tột cùng; nơi kia, tôi tuỳ thuộc hoàn toàn!” – Dave Dravecky.

Kính thưa Anh Chị em,

Trước Thiên Chúa, thái độ đúng đắn của con người là “quỳ gối, tôn thờ, cảm tạ và hoán cải!”. Hôm nay, Chúa Giêsu vạch ra sự kiêu hãnh của những người đương thời; cùng lúc, mở cho họ một ‘ngã rẽ’ phải chọn lựa: hoặc tiếp tục an thân hoặc khiêm tốn trước ơn cứu độ.

Chính sự kiêu hãnh ẩn tàng sau những suy nghĩ của họ về Gioan – “quỷ ám”; và về Chúa Giêsu – “ăn nhậu” khiến họ tuỳ tiện tạo ra một Chúa riêng vốn không lay chuyển họ khỏi những đặc lợi, đặc ân và đặc quyền. Có lẽ chúng ta cũng đang mắc phải rủi ro này. Bao lần chúng ta chỉ trích điều này điều kia, dù Giáo Hội nói như vậy hay đã nói như vậy, hoặc cả khi Giáo Hội nói ngược lại. Chúng ta lục lọi mọi kẽ hở và sai lỗi khi đề cập đến Giáo Hội và những chủ chăn của Giáo Hội. Tuy nhiên, trên thực tế, một cách vô thức, chúng ta chỉ biện minh cho sự lười biếng và thiếu ‘tham vọng hoán cải’ của mình – một ‘tham vọng’ đáng ao ước. “Khi chỉ trích Giáo Hội để né tránh việc đổi thay, chúng ta đang tôn thờ chính hình bóng của mình!” – Henri Nouwen.

Lời Chúa chạm thấu tâm hồn có khả năng hoán cải và biến đổi; nhưng trước tiên, chúng ta phải khiêm nhượng. Bởi lẽ, ân sủng chỉ có thể đọng lại ở những ‘vùng trũng khiêm hạ’. Vì thế, hãy xin Chúa đến gần bạn như đã đến với “những người thu thuế” và “các tội nhân!”. Khốn cho ai nghĩ rằng, tôi không cần thầy thuốc! Điều tồi tệ nhất đối với bất kỳ bệnh nhân nào là tin rằng mình khoẻ; bệnh sẽ nghiêm trọng hơn và không bao giờ có thể phục hồi. Bạn và tôi đều bị bệnh đến chết, chỉ Chúa Kitô mới có thể cứu, dù bạn nhận ra điều đó hay không. Đó chính là ‘ngã rẽ’ của đời sống thiêng liêng: khiêm nhường đón nhận hay kiêu hãnh khước từ. “Hãy quỳ gối tôn thờ, cảm tạ và hoán cải” trước Đấng Cứu Độ; hãy chào đón Ngài như vậy! “Ân sủng chỉ đọng lại trong những trái tim đủ thấp để cưu mang nó!” – Richard Rohr.

Anh Chị em,

Ở mỗi khoảnh khắc của đời sống, Chúa vẫn nhẹ nhàng đặt chúng ta trước một ‘ngã rẽ’: bước theo Ngài hay quay lưng lại. Không ồn ào, không ép buộc, chỉ một tiếng gọi âm thầm chờ đợi. Chọn lựa ấy diễn ra ngay trong những điều nhỏ nhặt bình thường nhất – một lời xin lỗi, một hành động sẻ chia, một phút quỳ gối cầu nguyện. Hãy để ân sủng chảy vào vùng trũng khiêm hạ của tâm hồn, và chúng ta sẽ nhận ra rằng, đường của Chúa luôn rộng mở cho ai dám bước xuống để được nâng lên. “Khiêm nhường là can đảm đi con đường thấp để trời cao nâng bạn lên cao hơn!” – Brennan Manning.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hoá mọi chần chừ của con thành tiếng ‘xin vâng’, để mỗi ‘ngã rẽ’ đời con trở nên điểm hẹn của tình yêu bất tận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*****************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Chúng tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; chúng tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 7,31-35

31 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Tôi phải ví người thế hệ này với ai ? Họ giống ai ? 32 Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói :

‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không khóc than.’

33 “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ 35 Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”


 

Hoa quả của Chúa Thánh Thần là gì? – Cha Vương

Ngày Thứ 3 tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé. 

Cha Vương

Thứ 3: 16/9/2025.  t2-24

GIÁO LÝ: Hoa quả của Chúa Thánh Thần là gì? 12 Hoa quả của Chúa Thánh Thần là bác ái, vui vẻ, bình an, nhẫn nhục, tử tế, tốt lành, quảng đại, nhã nhặn, trung tín, tiết độ, tự chế, thanh sạch (Gl 5,22-23). (YouCat, số 311)

SUY NIỆM: Việc liệt kê các hoa quả của Chúa Thánh Thần chứng tỏ rằng những ai để cho Chúa bắt lấy, dẫn đi, huấn luyện thì sẽ đi tới đâu. Các hoa quả của Chúa Thánh Thần chứng minh rằng Thiên Chúa có vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu.

❦  Hãy rút ra sức mạnh từ niềm vui được ở với Chúa Giêsu. Hãy vui sướng và bình an. Hãy đón nhận bất cứ cái gì Chúa ban, và cho đi bất cứ cái gì Chúa lấy, với một nụ cười lớn.—Mẹ Têrêsa Calcutta (YouCat, số  311 t.t.)

LẮNG NGHE: Vì vậy, thưa anh em, anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao giờ vấp ngã, và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta. (2 Pr 1:10-11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin đong đầy tim con các hoa quả của Chúa Thánh Thần để con  vững bước trên đường nhân đức.

THỰC HÀNH: Dựa trên 12 Hoa quả của Chúa Thánh Thần được nêu ra ở trên, bạn đang cần Hoa quả nào nhất? Hãy cố gắng hết mình rèn luyện để trở nên tốt lành hơn nhé.

From: Do Dzung

************************

Thánh Thần tình yêu – tinmung.net

Lịch Sử và Mục Đích Của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình

Lịch Sử và Mục Đích 

Lịch sử

A- Lịch sử gia đình là lịch sử tình thương, Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người. Khi tạo dựng con người, Chúa đã thành lập gia đình đầu tiên là sự kết hợp giữa ông Adong và bà Eva.

B- Chúa Kitô xuống thế làm người để cứu chuộc nhân lọai. Ngài đã chấp nhận được sinh ra trong một gia đình như bước khởi đầu của công cuộc cứu thế

C- Tiếp nối tình thương của Thiên Chúa với các gia đình, các Đức Giáo Hòang luôn lưu tâm tới đạo đức gia đình như Đức Gioan Phaolo II đã nói tại Ba Tây ngày 17 tháng 10 năm 1991 như sau: ”Gia đình là yếu tố nền tảng cho mọi họat động mục vụ của Giáo Hội.”

D- Cha Phêrô Chu Quang Minh cùng với Giáo Hội, thao thức trước thềm nguy cơ đổ vỡ của các gia đình trong trào lưu mới của xã hội, trong đó nền tảng của gia đình bị lung lay. Con người đã đánh mất cái giá trị cao qúy mà Thiên Chúa đã cho là hạnh phúc gia đình. Vì thế, xây dựng lại nền tảng gia đình là một nhu cầu cấp yếu của thời đại.

Năm 1986, tháng 9, Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình đã được Cha Phêro Chu Quang Minh, Sáng Lập bằng cách áp dụng phương pháp cảm nghiệm vào lãnh vực tâm lý đạo đức gia đình tại Wichita, tiểu bang Kansas.

Năm 1987, cùng với văn phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ, khóa thứ I được mở tại Orange County, kết qủa tốt đẹp và cha Giám Đốc Đỗ Thanh Hà đã công nhận là một sinh họat chính thức của Cộng Đồng.

Năm 1991, vào tháng 12, khóa 15 là khóa đầu tiên của Bắc California.

Năm 1994, ngày 28 tháng 10 Đức Thánh Cha Giaon Phaolo II đã ban phép lành và ký vào huy hiệu của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình.

Mục đích

01- Tăng thêm đạo đức bản thân: cũng gọi là tăng thêm liên hệ giữa mình với Chúa, tức là cảm nghiệm, rung động thâm sâu sự hiện hữu của Chúa như Vua, như Cha, và như Bạn trong đời sống.

02- Tăng thêm thông cảm vợ chồng: ai cũng biết thông cảm là cần thiết, nhưng khó khăn là làm thế nào, thực hành điều gì để vợ chồng dễ thông cảm. Nhờ thông cảm mà vợ chồng thương yêu gần gũi nhau nhiều hơn.

03- Tăng thêm phương pháp giáo dục con cái: cũng gọi là tăng thêm liên hệ giữa cha mẹ và con cái. Nhờ cha mẹ thay đổi, với trái tim mới, tạo nên bầu khí mới, con cái được gần gũi, cảm thông trong tình yêu thương. Gia đình tăng thêm hạnh phúc.

04- Tăng thêm hồn tông đồ song đôi: cũng gọi là liên hệ với tha nhân, vợ chồng mang cùng một tấm lòng:“thương yêu gần gũi bằng việc làm”để phục vụ bất cứ ai mình gặp trên đường đời.


 

THÁNH GIÁ – (Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Huong Duongthanh

 NHÂN NGÀY LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ, MỜI MỌI NGƯỜI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY

THÁNH GIÁ

(Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Tôi nhìn thấy thánh giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh giá rất thường: Thánh giá trên tháp chuông. Thánh giá trên bàn thờ. Thánh giá bán trong tiệm.Thánh giá ngoài nghĩa trang. Thánh giá trên tường đá. Thánh giá trong nghệ thuật. Thánh giá trong thi ca. Thánh giá ở khắp nơi. Nhưng thánh giá là gì? Để tìm câu trả lời không phải là vấn đề đơn giản. Có nhiều ý nghĩa khác nhau về thánh giá.Tùy theo mỗi người mà thánh giá có giá trị khác biệt .

*

Thánh giá bằng vàng thì có giá trị hơn bằng gỗ. Thánh giá vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ hơn. Người mua có thể trả giá để được bớt. Người bán thì lại mong bán giá cao. Người có tiền thì mua thánh giá bằng vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng dở. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải thánh giá vàng giả. Nhiều người muốn có .Thánh giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh giá lúc ấy xác định sự giầu có.

*

Thánh giá cũng dùng để trang điểm. Họ đeo từng chùm thánh giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo thánh giá bị cười chê. Có người thích trang điểm bằng thánh giá trên giây chuyền vàng. Họ đeo thánh giá ở dạ hội , ở tiệc cưới , ở các buổi tiếp tân. Lúc đó ý nghĩa của thánh giá là muốn làm cho mình đẹp, kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những thánh giá trên vùng ngực hở hang.Lúc ấy thánh giá nằm trong duyên cớ của những rung động cám dỗ. Người có thánh giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh giá lúc này là xúi đẩy của lòng tham.

*

Thánh giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh giá bị mưa lạnh, bị nắng gắt.Thánh giá vàng được săn sóc giữ gìn cẩn thận. Thánh giá ở ngoài nghĩa trang có thể gãy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên thánh giá đó thì được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Cũng có thể là sương rơi, là gió bão nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những thánh giá vàng trên cổ trên ngực của con người. Thánh giá ngoài nghĩa trang có thể không được chăm sóc, nhưng Chúa có tự do để nhìn Hoa nở, nhìn trăng lên. Thánh giá trên giây chuyền vàng thì Chúa bị người ta nhìn nhiều khi bằng những ánh mắt tham lam, thiếu trong sạch.

*

Cũng có nơi thánh giá được dùng để xuống đường. Họ vác thánh giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đóng đinh kẻ khác.Thánh giá với khẩu hiệu. Thánh giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh giá để đánh nhau. Thánh giá bấy giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên thánh giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời Ngài chỉ dậy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dậy cách chiến đấu.

Các nhà lãnh tụ thì dậy kẻ theo họ chiến thuật tranh dành ảnh hưởng.Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ học cách tiêu diệt đối phương. Thày Yêsu chỉ dạy môn sinh của mình phải chuẩn bị chết. Vì thế khi thánh giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì?!

*

Có Thánh giá trên lầu chuông gỗ, có thánh giá trong Bảo tàng viện. Thánh giá trên lầu chuông thì có khi phủ bụi mờ , mạng nhện che kín. Thánh giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc. Sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa bụi phủ nhưng có đàn bồ câu bay về,đậu xuống chuyện trò. Thánh giá trong Bảo tàng viện là Thánh giá quý. Họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận thì Chúa trên thánh giá đó có nhiều lo âu. Người ta rình mò ăn cắp: Thánh giá bị đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì giam hãm. Ngày ngày , hàng ngàn con mắt qua lại dòm ngó. Nếu Chúa ở đó chắc Chúa bối rối lắm. Chúa trên Thánh giá gỗ xấu xí thì lại được tự do. Chúa trên Thánh giá mà được loài người gìn giữ quý hóa lại là một cõi tù đầy.

Người Ki tô hữu nhận thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác . Giữa những người Ki tô hữu , Tu sĩ lại đeo thánh giá để phân biệt họ không là giáo dân. Giữa Tu sĩ , thánh giá cũng được để phân biệt trên Nhẫn Bạc , trên Gậy cầm để nói ai là thầy Thượng phẩm chức vị , ai là Tu sĩ thường. Như vậy, thánh giá cũng được dùng như dấu hiệu phân biệt: Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng , dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người. “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các con là môn đệ ta: ấy là các con có lòng thương mến lẫn nhau” (Yoan 13:35).

Tình yêu vô hình, không nhìn thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dấu hiệu cho ngưới ta nhìn. Còn thánh giá hữu hình Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu.

Trên dường từ Jerusalem lên núi Sọ có rất nhiều người nhìn Chúa vác thánh giá. Có nhiều kẻ đã được thừa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn nhưng họ không vác thánh giá đỡ Ngài. Không một Môn đệ nào ghé vai gánh vác cho Thày mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần quỵ ngã vì yếu sức. Kẻ vác thánh giá đỡ Ngài là Simon, người xứ Kyrene. Phúc âm không hề nói là ông Simon đã được hưởng đặc ân gì của Chúa trước đó cả. Và có thể ông là người ngoại giáo.

Đời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác Thánh giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa, nhưng nhờ họ mà Chúa đỡ khổ.

THÁNH GIÁ LÀ GÌ?

Khi có quá nhiều loại thánh giá

. Thánh giá dùng như đồ trang sức.

. Thánh giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc.

. Thánh giá là phương tiện tranh đấu

. Thánh giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam.

. Thánh giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng.

. Thánh giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ kính có khóa.

. Thánh giá để phân biệt chức vị trong xã hội.

Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng thì câu trả lời thường là sai. Vì câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất cũng như chẳng thể bao giờ có hai điều đúng nhất.

Người ta không thể tranh luận về Thánh giá. K3 dùng Thánh giá làm phương tiện tranh đấu thì không thể chấp nhận Thánh giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn dùng Thánh giá để làm dáng thì đối với họ Thánh giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang điểm. Ai chọn Thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác thì Thánh giá mang màu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn Thánh giá một cách khác nhau. Giá trị của Thánh giá tùy thuộc cái nhìn của họ.

*

Đức Ki tô nói về Thánh giá như sau: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thánh giá của mình mỗi ngày mà theo ta.”

Vác Thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh giá là gì rồi.” về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta”( Gal. 6:14)

Tôi nói với người ta về Thánh giá. Tôi cũng nghe người ta nói với tôi về Thánh giá. Nhìn Thánh giá mỗi ngày mà tôi đau thấy vinh quang. Cuộc sống vẫn dầy rẫy trầm luân của nó. Như vậy Thánh giá nào mới cho tôi hy vọng?

Giữa bao nhiêu loại thập giá, thánh Phaolo chọn có một. Đó là thập giá của Chúa chúng ta.

Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Điều ấy cũng hàm ý là có nhiều Thánh giá giả. Nếu phân biệt được Thánh giá thật giữa Thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây.

Vấn đề là người ta phàn nàn về thánh giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Đời tôi khổ quá! Chúa gởi Thánh giá cho tôi!

Phúc âm kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị phỉ nhổ làm nhục, bị chế nhạo chê cười… Người ta làm thập giá, bắt Ngài vác đi rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó (Mc 15:16…Yn. 19:13).

Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa: Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa , chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?

(Trích trong NƯỚC MẮT & HẠNH PHÚC)


 

XÓT THƯƠNG RÒNG-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy trỗi dậy!”.

“Lạy Chúa, sau bao trận chiến, con không tìm thấy gì ngoài sự phù phiếm và hư đốn. Con bối rối, đau đớn chống lại ước muốn nên thánh của con. Nó khóc nức nở vì sự hư hỏng của con và nó sẽ chỉ tựa nương vào lòng xót thương ròng của Chúa, điều mà Ngài đã hứa với mọi tội nhân ăn năn mà con là một trong số đó!” – Nhật ký một tu sĩ.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chỉ tựa nương vào lòng ‘xót thương ròng’ của Chúa”, đó cũng là những gì Tin Mừng hôm nay ghi lại. Trước cửa thành Nain, một nhóm người đi ra – biểu tượng sự chết – theo sau là một bà mẹ; một nhóm người đi vào – biểu tượng sự sống – đi trước là Chúa Giêsu.

Họ gặp nhau, Chúa Giêsu nói với bà mẹ, “Đừng khóc nữa!”; và sờ vào quan tài, Ngài bảo, “Hãy trỗi dậy!”. Người chết ngồi lên, Ngài trao anh cho người mẹ. Trình thuật không nói gì đến đức tin của ai; không ai cầu xin, chẳng ai van nài! Chúa Giêsu chỉ thấy một goá phụ đi bên đứa con duy nhất đã chết của cô khi anh được mang đi chôn, và Ngài xót thương. Thế thôi! Như người Samaritanô xót thương nạn nhân sóng soài bên đường; như người cha xót thương đứa con hư hỏng trở về – không cần làm bất cứ điều gì, không cần nói bất cứ điều chi – Ngài hành động chỉ vì ‘thương xót ròng’, trao anh cho goá phụ để cô không lẻ loi. “Lòng trắc ẩn là ngôn ngữ mà người điếc cũng nghe được và người mù cũng thấy được!” – Mark Twain.

Tin Mừng muốn nói, sáng kiến xót thương của Thiên Chúa đối với con người không phụ thuộc vào mức độ đức tin nhất định của ai. Nó đến với chúng ta như chúng ta là, như chúng ta có; và nhu cầu của chúng ta càng lớn thì việc đến của Ngài càng cấp thiết. Chúa ban ân sủng bằng sự hiện diện của Ngài. “Ân sủng là gương mặt của tình yêu khi gặp gỡ sự bất xứng của chúng ta!” – Paul Zahl. Hưởng nhận ân sủng một cách bất ngờ và bất xứng, chúng ta không thể không ngạc nhiên và đáp lại nó theo cách đám đông đã làm – ca ngợi về món quà cứu sống của Thiên Chúa; Luca ghi nhận, “Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận!”. “Ngợi khen là ngôn ngữ của thiên đàng; nó mời gọi quyền năng Thiên Chúa hành động trên đất!” – Jack Hayford.

Anh Chị em,

“Hãy trỗi dậy!”. Ân sủng của Thiên Chúa luôn đi bước trước, nâng kẻ gục ngã như đã nâng chàng trai thành Nain. Ân sủng đó cũng mời gọi mỗi chúng ta trỗi dậy khỏi những vùng chết của tội lỗi, sợ hãi và thất vọng. “Con sẽ sống theo lòng thuần khiết” – Thánh Vịnh đáp ca; sẽ là “người không ai chê trách được” khi “bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch” – bài đọc một – phải là một cam kết trước ân sủng ‘xót thương ròng’ của Thiên Chúa. Ước gì chúng ta biết đáp lại ân huệ nhưng không của Ngài bằng một đời sống tinh tuyền, để mỗi ngày trở nên một chứng nhân tình yêu quyền năng của Đấng vẫn không ngừng gọi tên từng người và nói, “Hãy trỗi dậy!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để ước muốn nên thánh của con nức nở vì con hư hỏng. Xin đặt tay trên ‘quan tài’ linh hồn con, cho mọi vùng chết hồi sinh trong ánh sáng ân sủng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 7,11-17    

11 Khi ấy, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Đức Giê-su đến gần cửa thành, đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : “Bà đừng khóc nữa !” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.


 

Hãy suy ngẫm về những thập giá của chính bạn

Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu bạn đón nhận thập giá đó trong đức tin và hy vọng, để Chúa chúng ta có thể kết hợp nó với thập giá của Ngài và để thập giá của bạn cũng có thể chia sẻ sự tôn vinh Thập giá của Chúa Kitô. Mặc dù đây là một mầu nhiệm đức tin vô cùng sâu sắc, nhưng nó cũng là một chân lý sâu sắc trong đức tin của chúng ta.

 Hôm nay, hãy suy ngẫm về những thập giá của chính bạn. Khi làm vậy, hãy cố gắng đừng xem thập giá là gánh nặng. Thay vào đó, hãy nhận ra tiềm năng bên trong những thập giá đó. Hãy cầu nguyện, nhìn những thập giá của bạn như những lời mời gọi chia sẻ Thập giá của Chúa Kitô. Hãy nói “Xin Vâng” với những thập giá của bạn. Hãy tự do lựa chọn chúng. Hãy kết hợp chúng với Thập giá của Chúa Kitô. Khi làm vậy, hãy hy vọng rằng vinh quang của Chúa sẽ tỏa sáng trong cuộc đời bạn và trên thế giới qua việc bạn tự do đón nhận chúng. 

Hãy biết rằng những “gánh nặng” này sẽ được biến đổi và trở thành nguồn nâng đỡ cho cuộc đời bạn bởi quyền năng biến đổi của Chúa.

Thay Bach goi

THẤU TÂM HỒN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”.

Có một câu nói rất nổi tiếng: “Một người mẹ chỉ có thể hạnh phúc bằng đứa con kém hạnh phúc nhất của mình!”. Câu nói này hé lộ một sự thật: hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con cái. Con vui, mẹ vui; con buồn, mẹ buồn; con đau khổ, mẹ tan nát.

Kính thưa Anh Chị em,

Kính nhớ Đức Mẹ Sầu Bi, chúng ta nhận ra nơi Mẹ Maria, sự gắn kết ‘mẹ – con’ đạt đến mức trọn vẹn. Hạnh phúc của Mẹ hoàn toàn gắn liền với Chúa Giêsu. Giêsu hạnh phúc, Mẹ hạnh phúc; Giêsu khổ đau, Mẹ tan nát đến mức lưỡi gươm đâm ‘thấu tâm hồn’.

Mọi sự sống đều có một đồi Canvê của nó! Mỗi tâm hồn đều mang một nỗi đau kín của nó! Giêsu, Đấng ‘rất Chúa và rất người’ cũng có nỗi đau riêng của Ngài. Và bởi ‘rất Chúa’, nên đau khổ của Ngài rất sâu thẳm, không ai thấu nổi. Chỉ một ai đó ‘hoàn hảo tương xứng’ mới có thể đi vào. Và ai đó chỉ có thể là Maria! Sự thấu cảm của Mẹ đã dẫn Mẹ đến nỗi ‘sầu chung’ với Con – một nỗi sầu được loan báo hơn ba mươi năm trước, “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”. “Chỉ một con tim đã được tinh luyện bởi tình yêu mới thật sự bước vào nỗi sầu khổ của người khác!” – Anselm Grün. Đó chính là ý nghĩa của lễ Đức Mẹ Sầu Bi.

Những hình ảnh đạo đức cho thấy trái tim Maria bị xuyên thâu bởi bảy lưỡi gươm. Đó là biểu tượng của “Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ” vốn được nhiều giáo xứ duy trì qua việc “Làm Việc Đức Mẹ” với tràng chuỗi “Bảy Sự”. Maria hoàn hảo, nhưng xem ra ‘đời Mẹ’ chẳng hoàn hảo! Từ buổi đầu, Mẹ đã nghe xóm giềng xì xào; phút cuối, những xì xào ấy vẫn văng vẳng dưới chân thập giá. Cả cuộc đời Mẹ là một đời thực với những bi kịch thật của một phận người thật’; và bi kịch xé lòng nhất chính là khi Mẹ ôm vào lòng xác Con rách bươm. Đó chính là “kiếp phàm nhân” mà Mẹ đã cùng Con trải nghiệm như bài đọc một nhắc đến. “Những nỗi đau sâu thẳm nhất của một người mẹ trở thành khung cửa trong suốt nhất của tình yêu bà!” – Catherine Doherty.

Anh Chị em,

“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”. Lưỡi gươm ấy vẫn đang tiếp tục đâm ‘thấu tâm hồn’ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, và cũng đâm ‘thấu tâm hồn’ từng người chúng ta. Mẹ bị vắt kiệt bởi những nỗi đau chung đang vắt kiệt phận người: chiến tranh, thiên tai, chia ly, nguội lạnh, thiếu thốn trăm bề… Nhưng chúng ta tin rằng, tình yêu sâu đậm Mẹ dành cho Chúa Giêsu cũng đang dành cho mỗi người chúng ta. Vậy đừng nghi ngờ! Trái tim Mẹ đang bùng cháy lòng trắc ẩn khi nhìn chúng ta khổ đau, cả khi khổ đau bởi một tội lỗi. Hãy để tình yêu, sự quan tâm và thủy chung của Mẹ chảy qua tim mình. Hãy đón nhận nó; và sau đó, cho phép nó chảy ra! “Lòng trắc ẩn không phải là mối tương quan giữa người chữa lành và kẻ bị thương, nhưng là một sự liên đới trong đó cả hai đều bị thương và cả hai đều được chữa lành!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Sầu Bi, mỗi tâm hồn có ‘nỗi đau kín’ của nó. Xin tình yêu của Mẹ chảy qua con, để từ con, chảy ra như dòng nước chữa lành những ai đang nát cả tâm hồn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************************

Lời Chúa lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Thứ Hai Tuần XXIV Thường Niên

Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 19,25-27 

25 Khi ấy, đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.


 

Lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu- Cha Vương

Xin Chúa gìn giữ bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi nhé. Bảo trọng!

Cha Vương

CN : 14/09/2025.   t7. -24

Ngày hôm nay 14 tháng 9 hàng năm, chúng ta nói lên sự biết ơn và lòng yêu mến Ðức Giêsu qua sự tôn trọng thập giá. Trước đây, thập giá từng là biểu hiệu của sự tủi hổ. Các tử tội được chết chém đó là một ân huệ, vì được miễn cho sự nhục nhã khi bị treo trên thập giá. Ðức Giêsu đã thi hành mọi sự để đem lại sự cứu độ cho chúng ta. Ngài đã chấp nhận sự đau khổ thập giá. Ðau khổ dẫn đến tủi nhục.

   Thập giá trở nên dấu hiệu thiêng liêng của Kitô Giáo. Khi thập giá có mang tượng Ðức Giêsu, thập giá đó trở thành thánh giá. Chúng ta treo thánh giá trong nhà hay đeo trên người để nhắc nhở rằng, vì chúng ta mà Ðức Giêsu đã phải hy sinh.

   Trong nhiều thế kỷ, di tích của cây thập giá đích thực được Kitô Hữu quý trọng. Người ta tin rằng vào năm 629, dưới thời Hoàng đế Herachius I, những người Ba Tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của Thánh Giá thật mà thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại thánh giá này. Ngài cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của vua đã được Chúa chấp nhận. Ngài đã đánh bại được quân Ba Tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành olive, những ngọn đuốc cháy sáng, thánh giá thật của Chúa đã được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề vui sướng muốn trở về Giêrusalem với thánh giá này sau 14 năm lưu lạc. Nhà vua long trọng tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zachachie hô lớn: “Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng đáng với cảnh nghèo nàn và khiêm nhượng của Chúa Giêsu khi vác thánh giá”. Hérachius vội cởi bỏ mọi phẩm phục sang trọng và thay vào bằng bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng… và để tỏ ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.

   Từ đó, lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhớ cho các thế hệ kỷ niệm này. Nhưng trước cả thời gian đó, Kitô Hữu đã tôn kính và quý trọng thập giá và lễ Suy Tôn Thánh Giá được các Kitô Hữu tại Rome cử hành từ cuối thế kỷ thứ 7.

   Chữ “thập giá” cũng có nghĩa những đau khổ trên đường đời. Khi chúng ta kiên nhẫn và vui lòng chấp nhận đau khổ như Ðức Giêsu đã chấp nhận thập giá của Ngài, chúng ta sẽ trở nên “người vác thập giá” như Ðức Giêsu Kitô. 

(Nguồn: Người Tín Hữu online)

   Hôm nay mời bạn bỏ ra mấy phút suy niệm trước Thánh Giá là nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, bạn hãy đặt tất cả những gánh nặng cuộc đời vào lòng xót thương và sự quan phòng của Chúa. 

From: Do Dzung

*********************

Thánh Giá Đức Kitô (Sáng tác: Sr. M. Tigon) – Ca đoàn Thông Vi Vu

THƯƠNG XÓT VÀ NIỀM VUI – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Đề tài lòng thương xót của Thiên Chúa rất phong phú, dễ đánh động con tim và tâm tình đạo đức của người tín hữu.  Vì thế mà từ khi Thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và cổ võ hình thức cầu nguyện kính Lòng Chúa thương xót, trong Giáo Hội đã có biết bao người tham gia cầu nguyện và thực tế họ đã nhận được rất nhiều ơn lành.

 Tuy vậy, trong quan niệm của nhiều người, cầu nguyện tôn vinh lòng lòng thương xót Chúa đi liền với xin ơn chữa lành, cho nên người ta đến cầu nguyện chỉ với mục đích được chữa khỏi bệnh tật, nhất là những bệnh nan y.  Có người đã mất đức tin và bỏ cầu nguyện vì họ xin ơn chữa lành mà không được nhận lời.  Thực ra, việc tôn kính lòng thương xót của Thiên Chúa không dùng lại ở những lời kinh, mà phải giúp cho con người thương xót tha nhân, tức là thực thi lòng thương xót trong cuộc sống hằng ngày.  Nhận ra lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta cũng phải có trái tim nhân hậu đối với đồng loại, để lòng thương xót như một dòng chảy yêu thương, đem an vui cho mọi người.

 Thánh Luca đã tổng hợp ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa ở chương 15.  Mỗi dụ ngôn mang một sắc thái khác nhau, nhưng cả ba đều mang nội dung nói về tình thương bao la của Chúa.  Trong ba dụ ngôn này, dưới ngòi bút của tác giả, Thiên Chúa rộng rãi bao dung đến mức “phung phí” lòng thương xót.  Quả vậy, một con chiên lạc so với 99 con còn lại, một đồng bạc bị mất so với 9 đồng bạc vẫn còn thật chẳng đáng là bao, nhưng Chúa vẫn để ý tới và tìm cho bằng được.  Khác với lối suy nghĩ của chúng ta.  Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ đi những điều nhỏ mọn, nhưng Chúa lại quan tâm đến từng chi tiết.

 Việc tìm thấy một con chiên hoặc một đồng bạc, xem ra đơn giản, mà lại là niềm vui lớn lao của người sở hữu chúng.  Đó không chỉ là niềm vui của cá nhân, nhưng là niềm vui của cả một tập thể.  Đó không chỉ là niềm vui dưới đất, nhưng là niềm vui trên trời.  Chúa Giêsu đã nói rõ, một người trở về không chỉ là niềm vui của con người, nhưng là niềm vui của Thiên Chúa và triều thần thánh trên trời.  Niềm vui ấy thật lớn lao, làm cho người mục tử quên hết mọi mệt nhọc trong việc tìm kiếm.  Cả ba trường hợp, người mục tử, người phụ nữ và người cha, đều mời hàng xóm láng giềng đến để chia vui.  Người cha trong dụ ngôn còn thết đãi cả làng với thịt con bê mà ông đã chăm sóc vỗ béo.  Ông tin chắc có ngày cậu con trai hoang đàng sẽ trở về.  Vì vậy, ông chuẩn bị sẵn nhẫn, giày, quần áo và những gì cần thiết cho một bữa tiệc.  Những đồ trang sức này thường được dùng cho một tiệc cưới.  Ngày cậu con trai trở về, cũng là một tiệc cưới, là niềm vui không chỉ cho người cha mà cho cả xóm làng.  Niềm vui được nhân lên khi được chia sẻ với người khác.

 Tuy vậy, niềm vui ấy xem ra không được trọn vẹn, vì theo thói đời, vẫn luôn có những ghen tỵ thù ghét.  Đó là tâm trạng của người anh cả.  Anh nổi giận vì sự trở về của người em.  Có thể anh sợ người em sẽ chiếm gia tài.  Lòng thù hận và tư lợi ngăn cản không cho người khác phục thiện.  Con đường trở về, vừa phải gạt bỏ những mặc cảm thành kiến, vừa phải đối diện với những thù hận của chính những người thân.  Lộ trình phục thiện xem ra đơn giản mà cũng lắm gian truân.  Có những người vì lỡ lầm mà sa vào cảnh tù tội, sau khi mãn hạn tù, trở về quê hương muốn sống như một người bình thường cũng không được yên, vì con mắt dò xét và thành kiến của những người xung quanh.  Những ngôn từ của người anh cả trong Tin Mừng cho thấy anh đã nung nấu mối hận thù.  Anh không còn coi em mình là huyết nhục, mà như người dưng, thậm chí như kẻ thù.  Vì thế, việc người em trở về làm cho anh thấy khó chịu.

 Thiên Chúa là Cha của người tốt cũng như của người xấu.  Ngài xót thương và không giáng phạt dân Do Thái phản nghịch (Bài đọc I).  Vòng tay của Ngài vừa giang rộng đón người con thứ, vừa choàng lên vai của người con cả để anh cảm nhận được lòng xót thương.  Ngài không muốn loại trừ ai, bất kể người đó như thế nào.  Nước mắt của người cha nhỏ xuống khi người con thứ ra đi.  Dòng lệ ấy cũng tuôn chảy khi người con cả bất bao dung với em mình.  Trước khi trở lại, Phaolô là người hăng say tìm giết các Kitô hữu.  Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trên đường đi Damas đã biến đổi cuộc đời của ông Phaolô là chứng nhân của lòng Chúa thương xót (Bài đọc II).  Ước chi mỗi chúng ta cũng hãy trở nên chứng nhân của lòng Chúa thương xót, để rồi, “nơi đâu có cộng đoàn tín hữu, là ở nơi đó có thành trì của lòng xót thương” (Đức Thánh Cha Phanxicô).

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim