Tố cáo hành vi đấu tố người tự ứng cử tại khu vực cử tri Lâm Đồng

Tố cáo hành vi đấu tố người tự ứng cử tại khu vực cử tri Lâm Đồng

FB Sương Quỳnh

Bùi Minh Quốc

3-4-2016

Tác giả Bùi Minh Quốc. Nguồn: internet

21 giờ ngày 01/04/2016, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (UBMTTQ) phường 5, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành hội nghị cử tri nhận xét và tín mhiệm các ứng cử viên Quốc hội khoá 14 và HĐND các cấp tại tổ dân phố Yết Kiêu. Số cử tri trong tổ được mời khoảng trên 700. Số người tham dự khoảng trên 100.

Sau phần thủ tục, một thư ký hội nghị lên đọc tiểu sử tóm tắt của tôi, Bùi Minh Quốc, người tự ứng cử vào Quốc hội khoá 14, rồi người chủ trì hội nghị yêu cầu các cử tri có mặt phát biểu ý kiến. Ý kiến đầu tiên của ông Đinh Hoàng Dũng nói: Ông Bùi Minh Quốc đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của đảng CSVN thì không xứng đáng để ứng cử vào Quốc hội.

Các ý kiến tiếp theo (khoảng 7 – 8 người) đều có nội dung tương tự và thêm một số ý khác như: ông Bùi Minh Quốc ít dự họp tổ dân phố, ít quan hệ với bà con. Ông Vũ Xuân Quảng tổ trưởng tổ dân phố Yết Kiêu dự cuộc họp này với tư cách ứng cử viên HĐND phường 5 phê phán: ông Bùi Minh Quốc thiếu đạo đức vì từ chối nhận giấy mời của công an, thiếu tình hàng xóm láng giềng vì đã kiện ông Hồ Phúc ở sát bên ông Quốc khiến UBND phường ra quyết định buộc ông Phúc phải tháo dỡ phần ông Phúc cơi nới trái phép trên đất mà nhà nước qui hoạch làm lối đi chung. Ông Chiến gợi ý: ông Bùi Minh Quốc nên rút quyết định ứng cử cũng chưa muộn…

Sau mỗi ý kiến trên, phần lớn hội trường rầm rộ vỗ tay hưởng ứng. Tiếp đó, đến phần tôi phát biểu. Trước hết, tôi trả lời về việc đòi bỏ điều 4 của Hiến pháp. Nội dung trả lời như sau:

– Tôi đòi bỏ điều 4 của Hiến pháp là thực hiện quyền côngdân có quyền góp ý, sửa đổi Hiến pháp. Tôi đòi bỏ điều 4 của Hiến pháp vì mấy lẽ:

– Suốt bao năm chiến tranh cực kỳ gian khổ ác liệt chưa có điều 4 trong Hiến pháp thì nhân dân rất tin đảng, đa số đảng viên đều gương mẫu. Nhưng từ khi có điều 4 thì đảng ngày càng hư hỏng, ngày càng mất uy tín với nhân dân; điều 4 đã làm hại đảng, làm uổng phí bao xươngmáu của đảng viên và nhân dân đã đưa đảng lên cầm quyền, đó là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi.

– Tôi yêu cầu trong khi chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay Luật về đảng cầm quyền, nếu cầm quyền đưa đất nước phát triển tốt và nhân dân có tự do hạnh phúc thì được ghi công, nếu cầm quyền gây hại cho đất nước và khiến nhân dân không có tự do hạnh phúc thì đảng phải ra toà.

Quan điểm này tôi đã công khai nêu lên từ năm 1993, nay đang rộ lên trên công luận và ngay cả tại Quốc hội.

Tôi phát biểu chưa hết nội dung trên thì chủ toạ ngắt lời với lập luận rằng, ứng cử viên chỉ được nói lời tiếp thu ý kiến của cử tri chứ không được nói khác. Một số cử tri nhao nhao hưởng ứng không cho tôi nói, với lập luận rằng họ đến đây không phải để nghe tôi tuyên truyền chống đảng.

Tôi nói: tôi đã nghiêm túc ngồi lắng nghe ý kiến các quý vị đả kích tôi, nhưng tôi vừa trả lời một ý kiến, đang nói dở dang mà không cho tôi nói nữa thì thật không công bằng, tôi yêu cầu phải để tôi nói hết ý kiến mình. Chủ toạ hỏi cử tri: có đồng ý để ông Bùi Minh Quốc nói tiếp không? Nhiều tiếng nhao nhao: không!

Tôi nói to: Tôi tuyên bố tất cả những gì vừa diễn ra là một cuộc đấu tố, vì thế tôi quyết định rời khỏi nơi này. Nói xong, tôi lập tức ra về. Nếu UBMTTQ tỉnh Lâm Đồng trong hội nghị hiệp thương lần 3 dựa vào ý kiến của trên 100 cử tri trong tổng số trên 5.700 cử tri tổ dân phố Yết Kiêu để loại tôi ra khỏi danh sách ứng cử viên thì chỉ càng chứng tỏ những gì diễn ra như tôi vừa tường thuật là có sự chỉ đạo từ “trên” nhằm thủ tiêu quyền ứng cử của công dân.

Tôi yêu cầu chính quyền Lâm Đồng phải phải đảm bảo thực hiện quyền dân chủ tự ứng cử, không được dùng thủ đoạn và tiểu xảo để loại những người tự ứng cử có tinh thần yêu nước.

Tôi yêu cầu UBMTTQ và chính quyền Lâm Đồng cần lắng nghe ý kiến nhiều đại biểu quốc hội ủng hộ quyền tự ứng cử, tự ứng cử thể hiện dân chủ ở Việt Nam và cho rằng cơ quan chức năng không có quyền xâm phạm đối với những người tự ứng cử; đặc biệt cần biết đến một sự kiện quan trọng sau đây: Đúng vào ngày 15/3 khi xuất hiện tin về “tổ chức phản động đứng phía sau một số người tựứng cử”, một quan chức cao cấp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là ông Vũ Trọng Kim đã trả lời phỏng vấn báo Pháp luật TP.HCM với quan điểm “Tôi hoan nghênh tất cả người tự ứng cử. Nếu những tên tuổi được người dân lựa chọn, bằng lòng dựa vào những công việc cụ thể họ đã làm có hiệu quả cụ thể thì rất tốt…”

Tôi nghĩ, cần phải có số lượng người tự ứng cử nhiều hơn và tỉ lệ người tự ứng cử đi đến “chung cuộc” phải nhiều hơn. Không có rào cản gì đối với những người tự ứng cử. Chỉ có những định kiến hẹp hòi mới ngăn cản người tự ứng cử. Điều này phụ thuộc vào lãnh đạo của từng đơn vị, địa phương nào đó.

Ba Lan dỡ bỏ 500 di tích tượng đài thời Xô viết

Ba Lan dỡ bỏ 500 di tích tượng đài thời Xô viết

Ba Lan do bo 500 di tich tuong dai thoi Xo viet - Anh 1

Dự án dỡ bỏ tượng đài ở Ba Lan thời Xô viết sẽ được chuyển tới các chính quyền địa phương trong vài tuần tới.

Những tượng đài Liên Xô tượng trưng cho “uy quyền của hệ thống cộng sản ở Ba Lan” phải được dỡ bỏ và đưa vào bảo tàng, người đứng đầu Viện Ký ức quốc gia Ba Lan, Lukasz Kaminski tuyên bố.

Theo cổng thông tin Onet.pl., quyết định đề cập tới hơn 500 di tích được dựng ở những địa điểm công cộng “bày tỏ sự biết ơn đối với Liên Xô”.

“Công việc hiện nay là thống kê các vị trí có di tích tượng đài Xô viết. Cho đến tháng 6, chúng tôi sẽ đề xuất một chương trình giúp chính quyền địa phương thực hiện việc dỡ bỏ trước khi pháp luật phù hợp được ban hành,” ông Kaminski nói.

Sau khi dỡ bỏ, các di tích sẽ được đưa tới viện bảo tàng và trở thành “bằng chứng của thời kỳ khó khăn”.

Các di tích tượng đài đặt ở nghĩa trang những người lính Xô viết sẽ được giữ nguyên. Theo Viện Ký ức quốc gia, chính phủ Ba Lan sẽ chăm nom những di tích này.

Trước đó, Bộ Ngoại giao Nga đã kêu gọi Ba Lan “chấm dứt cuộc chiến với các tượng đài”.

Theo Sputnik

Làm gì có… mà đợi với chờ!

Làm gì có… mà đợi với chờ!

Trần Hồng Tâm

Tác giả gửi tới Dân Luận

Khi tôi viết những dòng này thì Đại hội XII đã bắt đầu. Tôi lướt qua những trang báo quốc doanh và cả quốc lậu. Đâu đâu cũng thấy người đang trông đợi một đấng minh quân, một cuộc cải cách.

Tôi thở dài xót thương cho những người nhẹ dạ cả tin. Làm gì có minh quân trong cái Đảng này mà đợi. Làm gì có đổi mới hay cải cách mà chờ. Nhìn vào chiến dịch huy động 5500 quân nhân đặc biệt tinh nhuệ, trang bi hiện đại, tập luyện trong mọi tình huống, để bảo vệ Đại hội XII, bạn có suy nghĩ gì không?

Bao nhiêu người thắc mắc. Có ai phá phách gì đâu mà Đảng phải làm ghê rợn thế. Còn tôi nhìn thấy ở Đảng vẫn giữ nguyên não trạng của một kẻ gian. Bởi vì, mình luôn gian lận, nên cho rằng người khác cũng như mình, phải ra đòn phủ đầu. Một người bạn làm ngành Y bảo: Đảng mang đầy đủ mọi dấu hiệu của chứng tâm thần phân liệt thể hoang tưởng bị hại, luôn luôn cho rằng có người ta đang rình mò phá hoại mình.

Tuần báo Time của Mỹ, phát hành khoảng 3.3 triệu bản mỗi tuần, số ra đầu tuần này nhận định về Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam rằng chính trị của Đảng này là không có đất sống cho những người có cá tính, chớ đừng nói gì đến chuyện đột phá hay cải cách.

Người nước ngoài không hiểu Đảng Cộng sản Việt Nam bằng dân Việt, nhưng nhận xét của họ khá tinh vi. Có hằng hà những bằng chứng để chứng minh, nhưng sợ mất thì giờ của bạn, cho tôi nêu lên chỉ vài thí dụ.

Lê Duẩn chết tháng Bảy năm 1986. Cả nước reo vui. Có người sung sướng phải thốt lên “đất nước này giờ sống được rồi đây”. Cả Hà thành đổ ra đường, không phải vì thương xót anh Ba, mà vừa muốn thấy mặt bà Tư, bà Năm của anh Ba trẻ đẹp cỡ nào, vừa để mừng một con khủng long đã chết, một chướng ngại vật của lịch sử đã được tạo hóa gỡ bỏ.

Công cuộc “Đổi Mới” bắt đầu từ đó. Đại hội VI bầu ra Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Ông Linh ném ra vài khẩu hiệu: “Cởi trói”, “Nói và làm”, “Những việc cần làm ngay”, “Chống im lặng đáng sợ”. Giới trí thức Bắc Hà tung hô ông chẳng tiếc lời, ví ông như Đấng Cứu Thế.

Lê Duẩn phá tan xiềng xích Trung Hoa, chết chửa xong tang. Ông Linh lén lút qua Tầu làm đĩ đực. (Ấy chết, xin bạn đừng bảo tôi là tục tĩu. Cụm từ “những thằng đĩ đực” là của ông Linh gọi Lê Giản và Trần Văn Trà – Đèn Cù, Chương 21). Ông Linh đập đầu khấn vái với Giang Trạch Dân rằng Lê Duẩn chống Trung Quốc là sai. Ông hứa sửa sai. Rồi ông tâm sự: Ngay từ nhỏ ông đã thần tượng và học tập Mao, nay thề trung thành với Mao.

Tàu nắm được huyệt hiểm, mang quân chiếm đảo Gạc Ma vào tháng Ba 1988. Tàu bắn chết 64 lính hải quân Việt Nam trong khi phía Việt Nam không được phép nổ súng. Tàu chiếm không đảo Gạc Ma, không sứt cái móng tay.

Đấy cũng là một dạng của đổi mới. Nhưng đổi mới theo kiểu của ông Linh. Đánh đổi chủ quyền một hòn đảo và 64 nhân mạng để có đồng minh chống lại phe Lê Duẩn – Lê Đức Thọ đang đe dọa đến sự an toàn cho chiếc ghế của ông. Đó là chưa kể tới cuộc mật đàm ở Thành Đồ vào tháng 9/1990.

Ông Linh là Tổng bí thư của đổi mới nhưng tại sao lại loại bỏ tất cả những nhân vật có tư tưởng đổi mới: Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt ra khỏi ban lãnh đạo. Rồi ông chọn Đỗ Mười, một người vừa bảo thủ vừa có tiền sử tâm thần, văn hóa thấp, để làm Thủ tướng và Tổng Bí thư kế nhiệm.

Hôm nay, nhiều người lại đặt hy vọng vào 200 Ủy viên Trung ương, hay 1510 Đại biểu dự Đại hội có thể xoay chuyển được tình hình. Thưa bạn! Đó chỉ là bầy cừu không hơn không kém. Họ gặm cỏ tuyên huấn, uống nước tuyên giáo, và được chăn dắt bởi tuyên truyền, được nhốt trong cái chuồng Mác – Lê – Mao. Cộng thêm là cái ghế quyền lực và xấp đô-la đã làm cho họ hôn mê sâu, không còn tri giác, mất khả năng tư duy.

Xin bạn đừng bảo tôi là ngoa ngôn. Nếu họ biết tư duy sao họ lại bầu ra những nhân vật Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, và Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư trong suốt năm kỳ đại hội, trải dài trong ba thập kỷ. Bạn hãy chỉ ra những con người trên ai là người đổi mới. Hẳn bạn có câu trả lời.

Bữa qua, tờ New York Time có trích đăng ý kiến của Luật sư Nhân quyền nổi tiếng Lê Công Định, đang bị quản thúc tại gia, về Đại hội XII. Anh Định bảo: “hoàn toàn thờ ơ” (totally indifferent) với sự kiện này. Anh coi đó chỉ là trò thay nhau giữ ghế và giữ vững nồi cơm.

Một blogger đưa ra một nhận xét thú vị. Đại hội nào Đảng cũng bảo là một “bước ngoặt quan trọng”, “bước ngoặt lịch sử” … Cứ ngoặt mãi, ngoặt mãi thì Đảng đưa dân tộc đi đâu?

Trần Đĩnh, tác giả của cuốn Đèn Cù viết “Hy vọng không trọng lượng nhưng đã đè sập bao đời người”.

Bạn còn trông mong gì ở cái Đảng này mà đợi mà chờ, mà hy vọng. Hơn năm thế hệ người Việt Nam đã bị Đảng đè sập. Thế hệ của con bạn cũng bị đè sập nốt sao?

Thôi về đi. Không có đổi mới đâu mà đợi. Chẳng có minh chủ nào mà chờ. Đã 72 tuổi, tài năng lơ mơ, ăn nói lờ mờ, muốn ở lại thêm khóa nữa, nhưng miệng lại rao giảng không “tham vọng quyền lực”… Bạn có dám gởi gắm niềm tin vào con người đó không?

January 22, 2016
Trần Hồng Tâm

Đọc chuyện Tàu để hiểu chuyện Việt Nam

Đọc chuyện Tàu để hiểu chuyện Việt Nam

GS Nguyễn Văn Tuấn

Tôi (và chắc nhiều bạn khác) vẫn hay nghĩ rằng chỉ cần tìm hiểu tình hình bên Tàu cộng là chúng ta có thể hiểu và biết tình hình Việt Nam, kể cả những bất cập và sự kiện man rợ xảy ra trong quá khứ. Thật vậy, các bạn hãy đọc bài dịch dưới đây, các bạn sẽ thấy VN đã áp dụng một cách rập khuôn các thủ đoạn dã man của Mao Trạch Đông vào VN như thế nào.

Bài này cho rằng Mao Trạch Đông đã cho triển khai triệt để một số thủ đoạn để triệt tiêu đường sống (hay nôm na là bóp bao tử) của công chúng và buộc công chúng phải phục tùng ông. Có 5 thủ đoạn chính:

• chế độ hộ khẩu;
• chế độ tem phiếu;
• chế độ lí lịch;
• chế độ cải tạo; và
• chế độ cơ quan đơn vị.

Đọc qua 5 thủ đoạn này, có lẽ các bạn thuộc thế hệ của tôi sẽ kêu lên kinh ngạc: sao mà giống VN thế! Thực sự thì cũng không ngạc nhiên, vì VN chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. VN không có cách mạng văn hoá, nhưng cũng có những chiến dịch tương tự ở qui mô nhỏ hơn. VN cũng có chế độ hộ khẩu, và cho đến bây giờ vẫn còn duy trì chế độ này dù không dã man như trước đây. May phước là chế độ tem phiếu đã đi vào dĩ vãng, nhưng cũng đủ để lại những di chứng kinh hoàng. Chế độ cải tạo đã gây biết bao kinh hoàng của người miền Nam sau 1975, và một số người miền Bắc trước đó.

Nhiều người nói rằng VN không còn chế độ lí lịch, nhưng sao khi tiếp xúc với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, tôi thấy chế độ này vẫn còn tồn tại nhưng dưới hình thức khác. Rõ ràng là việc bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng vẫn dựa vào màu đỏ của lí lịch. Người công giáo không được phục vụ trong ngành công an (?) Còn Việt kiều, thì tôi nghe nói (chứ chưa có chứng cứ cụ thể) là Nhà nước phân biệt 2-3 nhóm. Nhóm miền Nam đi vượt biên là xấu nhất; nhóm miền nam đi du học trước 1975 là xấu chút chút; còn nhóm miền Bắc đi du học hay lao động nước ngoài là tốt. Như vậy là vẫn có sự kì thị có hệ thống và có tổ chức, chứ chủ nghĩa lí lịch chưa hết ở VN. VN sẽ chẳng bao giờ khá nổi với chủ nghĩa lí lịch chỉ dành ưu tiên cho đảng viên — tôi có thể tiên lượng khẳng định như thế.

Chế độ quản lí cấp vi mô như cơ quan đơn vị, theo tôi thấy, vẫn còn được duy trì. Chẳng hạn như sinh viên hay nhân viên tham gia biểu tình chống Tàu cộng là bị “hỏi thăm” ngay tại trường đại học hay cơ quan. Trường hợp tiêu biểu là Nguyễn Phương Uyên, em ấy chẳng bị bị đuổi học mà còn bị triệt tiêu đường học. Chưa thấy nước nào đối xử với công dân man rợ như thế. Có khi quan chức cấp trung tham gia kí các thỉnh nguyện thư chống Tàu bị cơ quan cô lập ngay. Do đó, các thủ đoạn mang nặng “Mao tính” này vẫn còn tồn tại ở VN, dù dưới hình thức khác và cường độ dã man có phần giảm chút so với trước đây.

Sự việc xảy ra trong quá khứ thì chúng ta chẳng muốn khơi dậy làm gì, nhưng không được quên (vì đó là một phần lịch sử). Tôi nghĩ những ai đang ra sức lấy điểm bằng cách áp dụng 5 thủ đoạn trên để đàn áp người dân yêu nước, đàn áp sinh viên, đàn áp đồng nghiệp, v.v. nên đọc bài dưới đây, và suy nghĩ lại việc làm của mình. Những ai đã sống đủ thời gian và trải qua những thời gian đau khổ sẽ chứng nghiệm một qui luật rằng: những kẻ làm những việc ác ôn trong quá khứ thì trong tương lai gần họ hoặc gia đình họ sẽ chịu những hình phạt nặng nề như những gì họ gây ra cho người khác, y như câu mà người phương Tây hay nói what goes around comes around (có lẽ dịch là “gieo nhân nào thì gặt quả đó”).

____

Nghiên cứu Lịch sử

06-11-2013

Cách mạng văn hóa là tội của ai?

Hidematsu Hiyoshi [1]

(trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)

Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm của nhân dân Trung Quốc (trong đó có giáo sư Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3] Trong bài có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4] rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở người dân.

Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5] Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có vấn đề về logic rất đáng được trao đổi thêm.

“Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”

Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn Nhà nước thì trở thành người chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937: “Trong những nước mà Nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6] (sách “Đường đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của cái chết phải “từ từ chết đói”.

Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống.
Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay mình.

Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu

Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình.

Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”.

Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế

Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối

Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố.

Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết.Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.

Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch

Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật.

Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận.

Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo

Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị.

Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.

Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị

Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công.

Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng.

Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực.

Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7] (Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước.

Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác.

Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục).

Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông suốt. Ham sống sợ chết là thiên tính của con người.

Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”.

Dám chắc giáo sư Mao Vu Thức cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là do dân chúng bỏ phiếu chọn ra.

Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8]

Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ.

Ngược lại Mao chưahề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9] dũng cảm vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10] Một nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào?

Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc xấu.

Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ dân chủ, nếu G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định – việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.

Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.

Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung
(Nguồn: tạp chí Thế giới mới số 14-2013 (1031) ngày 22-4-2013)
đăng lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
________________________________________
[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).

[2]茅于軾 (Mao Yushi 1929- ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.

[3] 吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 – ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.

[4] 王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai, kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.

[5] Xem Ngô Giá Tường, 《雖億萬人,吾往矣 – 紀念一位聖女》đăng trên《明镜月刊》số tháng 8/2010 (kì 6), tr.78.

[6] Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997, tr.116 (The Road to Serfdom của Friedrich August von Hayek có bản dịch tiếng Việt Đường về nô lệ của Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).

[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc xem 關心 dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HK) Limited xuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao’s Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)

[8] Xem《鄧小平文選》, quyển 2, tr.333

[9] Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).

[10] Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.

[11] Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ (ND).

Truyền thông dưới các chế độ độc tài

Truyền thông dưới các chế độ độc tài

Blog Nguyễn Hưng Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

Có hai mục tiêu chính mà tất cả các chế độ độc tài và độc tài toàn trị nhắm tới là: nhồi sọ và lừa dối. Nguyên tắc ở đây là, nói theo Hitler, cứ nói dối, nói dối đi nói dối lại mãi, một cách thật giản dị, đến lúc nào đó, người ta sẽ tin là thật…

Một trong những khác biệt lớn nhất giữa dân chủ và độc tài là ở phương diện truyền thông. Nói một cách vắn tắt, khác với các chế độ dân chủ, dưới các chế độ độc tài, truyền thông có hai đặc điểm chính: độc quyền và kiểm duyệt. Mức độ độc quyền và kiểm duyệt tuỳ thuộc vào mức độ độc tài. Tất cả các chế độ độc tài đều áp dụng, dưới những hình thức khác nhau, chính sách kiểm duyệt đối với các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng chỉ có các chế độ độc tài toàn trị (totalitarianism) mới áp dụng chính sách độc quyền một cách triệt để.

Việt Nam là một chế độ độc tài toàn trị như thế: Với truyền thông, họ áp dụng cả phương thức độc quyền lẫn phương thức kiểm duyệt.

Ở miền Bắc, trong những năm đầu sau Hiệp định Geneva, ngoài báo chí nhà nước còn có báo chí tư nhân. Nhờ sự tồn tại của báo chí và nhà xuất bản tư nhân ấy, phong trào Nhân Văn Giải Phẩm mới được hình thành. Nhưng khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị đánh, tất cả các tờ báo và nhà xuất bản tư nhân đều bị bóp chết. Từ đó về sau, nhà nước hoàn toàn độc quyền trong lãnh vực truyền thông. Đến giữa thập niên 1980, với phong trào đổi mới, nhà nước cho phép tư nhân hoá kinh tế, nhưng cho đến tận bây giờ, họ vẫn từ khước việc tư nhân hoá báo chí và xuất bản. Tất cả các tờ báo, các đài phát thanh và truyền hình, cũng như tất cả các nhà xuất bản tại Việt Nam hiện nay đều hoàn toàn nằm trong tay nhà nước.

Độc quyền báo chí và xuất bản, giới lãnh đạo vẫn chưa an tâm. Cả báo chí lẫn xuất bản đều bị kiểm duyệt ngặt nghèo. Mọi bài báo cũng như mọi cuốn sách đều được dò xét từng câu từng chữ. Nhưng kiểm duyệt không vẫn chưa đủ. Bên cạnh việc kiểm duyệt chính thức, ở Việt Nam cũng như ở dưới mọi chế độ độc tài khác, đều có hai hình thức kiểm duyệt khác: hậu kiểm duyệt và tự kiểm duyệt. Hậu kiểm duyệt là hình thức kiểm duyệt sau khi tờ báo hay cuốn sách đã được in và được phát hành. Khi phát hiện ra một chi tiết có vấn đề về chính trị, người ta áp dụng biện pháp thu hồi ấn phẩm và trừng phạt tác giả. Ghê sợ trước những biện pháp trừng phạt như thế, hầu hết các tác giả đều tự đặt mình ở thế tự kiểm duyệt, nghĩa là tự mình cắt bỏ những chỗ gai góc, có thể bị xem như có vấn đề trong quá trình sáng tác. Trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” viết năm 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu có nói đến cái thảm cảnh tự kiểm duyệt ấy: lúc nào cũng giấu giếm, cũng rào đón, cũng che chắn, vừa viết một câu trung đã phải vội vã chêm ngay vào một câu nịnh cho… an toàn dù phải trả giá bằng chính tác phẩm của mình, những tác phẩm chỉ có giá trị minh hoạ nhất thời.

Nhưng độc quyền và kiểm duyệt như vậy để làm gì?

Có hai mục tiêu chính mà tất cả các chế độ độc tài và độc tài toàn trị nhắm tới là: nhồi sọ và lừa dối. Nguyên tắc ở đây là, nói theo Hitler, cứ nói dối, nói dối đi nói dối lại mãi, một cách thật giản dị, đến lúc nào đó, người ta sẽ tin là thật. Và khi đã tin rồi thì mọi người dần dần trở thành những con chó của Ivan Pavlov: Cả tư tưởng lẫn cảm xúc, hành vi và mọi phản ứng của họ đều bị điều kiện hoá. Trong bài “Authoritarian regimes retool their media-control strategy”, Robert Orttung và Christopher Walker cho trong cái gọi là “mọi người” ở đây, có bốn đối tượng chính: Một là những thành phần “ưu tú” trong chế độ, tức các đảng viên và cán bộ các cấp trong hệ thống cầm quyền, để họ tiếp tục trung thành với chế độ. Hai là dân chúng nói chung để họ vừa kính trọng lại vừa sợ hãi, không dám chống lại chế độ. Ba là các thành phần đối lập cũng như các tổ chức dân sự: Với cả hai, hệ thống truyền thông độc quyền của nhà nước luôn luôn tìm cách bôi nhọ và cô lập, để dưới mắt dân chúng, họ hiện hình như những thế lực đen tối đe doạ đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Bốn là với những người thường xuyên sử dụng internet, chính quyền sẽ sử dụng nhiều cách khác nhau để hoặc dựng tường lửa và/hoặc kiểm duyệt để không phải ai cũng có thể tiếp cận được với những thông tin bất lợi cho chế độ.

Tuy nhiên, ngoài mục tiêu lừa dối và nhồi sọ, bất cứ hệ thống truyền thông nào của các chế độ độc tài cũng đều nhắm tới một mục tiêu khác nữa: định hướng dư luận. Công việc định hướng này bao gồm hai khía cạnh chính: Một là “giáo hoá” và hai là làm lạc hướng.

Tạo nên những con người sùng bái một cách mê tín đối với giới lãnh đạo cũng như đảng lãnh đạo cũng là một cách “giáo hoá”. Tuy nhiên, đối với dân chúng nói chung, hình thức “giáo hoá” phổ biến nhất, nói theo Robert Orttung và Christopher Walker trong bài dẫn trên, là làm cho mọi người trở thành thụ động và vô cảm, không quan tâm đến chính trị cũng như đến số phận của đất nước nói chung: “Để duy trì quyền lực, các chế độ độc tài đều giữ đại đa số quần chúng ở ngoài chính trị.”

Một khía cạnh khác của truyền thông dưới các chế độ độc tài mà người ta dễ quên lãng là đánh lạc hướng sự quan tâm của quần chúng. Áp dụng cách thức này, khi chính quyền gặp vấn đề rắc rối, người ta bèn tung ra một sự kiện hay một tin đồn vu vơ nào đó nhằm khêu gợi sự tò mò của mọi người khiến mọi người đuổi theo sự kiện hoặc tin đồn ấy mà quên bẵng đi vấn đề chính của chính quyền.

Nhớ, cách đây mấy năm, khi kinh tế gặp khó khăn với hiện tượng nhiều đại công ty nhà nước, nổi bật nhất là tập đoàn doanh nghiệp Vinashin, bị phá sản để lại những món nợ khổng lồ, dẫn đến các cuộc tranh luận gay gắt về vấn đề trách nhiệm không những của cá nhân mà còn của các cơ quan nhà nước. Mấy tháng sau, khi không khí vẫn còn nóng hổi, các cơ quan truyền thông xúm vào loan tải tin tức về bệnh tình của “cụ” rùa ở hồ Hoàn Kiếm. Chính quyền lập “khu điều dưỡng” cho rùa. Các nhà “rùa học” ở Hà Nội liên tục lên ti vi nói chuyện về rùa. Dân chúng rình rập quanh hồ Hoàn Kiếm để cố chụp hình rùa. Mọi người đều quan tâm đến rùa và quên phắt đi chuyện kinh tế của đất nước.

Những chuyện như thế chắc đã, đang và sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần…

Việt Nam thất bại toàn diện trong việc bảo vệ chủ quyền

Việt Nam thất bại toàn diện trong việc bảo vệ chủ quyền

Người Buôn Gió

03-08-2015

Trong suốt khoảng 10 năm trở lại đây, mỗi lần Trung Quốc gia tăng xây dựng trên các quần đảo chiếm được ở Biển Đông. Việt Nam lập đi lập lại một phương thức ứng phó là lên án và đối thoại.

Việc lên án gần như là độc diễn, Việt Nam nói cho người dân Việt Nam nghe.

Trong những hội nghị, hội thảo liên quan đến biển Đông như môi trường, dầu khí, hàng hải mà các quốc gia khác tổ chức. Người Trung Quốc luôn có mặt và đưa bằng mọi cách họ khéo léo lái đến việc khẳng định chủ quyền của họ tại biển Đông, qua những bằng chứng họ đưa. Thậm chí họ dịch công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng thành nhiều thứ tiếng theo quốc gia có hội thảo, hội nghị để phân phát cho khách tham dự.

Ở cấp độ lớn hơn, trong các dịp quan hệ ngoại giao với các nước ở tầm quốc gia, chính khách Trung Quốc luôn thò việc Biển Đông vào bàn nghị sự. Họ luôn trình bày họ đang ở thế bị hại, họ yêu chuộng hoà bình quá đỗi cho nên bị các nước khu vực xung quanh biển Đông lấn chiếm biển đảo của họ. Thâm hiểm hơn, họ cho rằng việc lấn chiếm ấy của các nước , đặc biệt có Việt Nam, là nhằm đánh bắt trộm tài nguyên, hút trộm dầu khí của họ.

Người Trung Quốc đưa ra những hình ảnh, clip, bản nhận tội của dân Việt Nam bị bắt giữ, những biên bản xử lý phạt tiền và những biên lai do ngư dân Việt Nam nộp phạt, những lời thú tội của ngư dân Việt Nam cho các chính khách quốc tế xem.

Vì lý do nào đó, như chủ quan coi thường, hoặc vì quan hệ chính trị trao đổi, nhà nước Việt Nam không để ý đến những việc làm này của Trung Quốc.

Thế nhưng mưa dần thấm lâu, một hình ảnh Việt Nam khuất tất, cơ hội, trộm cắp vặt đã hình thành trong đầu những chính khách quốc tế. Nhất là ở châu Âu. Trong một thống kê của toà án Đức thì có 5000 vụ trộm cắp do người Việt gây ra trong tổng số một trăm nghìn người Việt tại Đức. Chả quốc gia nào ở Châu Âu lạ lẫm với việc người Việt trồng cần sa, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, làm lậu, trộm cắp, thịt chó, thịt mèo, buôn người, làm giấy tờ giả nhận con, kết hôn giả…

Phần đa số người Việt phạm tội này nằm trong nhóm Việt Kiều ra đi từ phía Bắc của vĩ tuyến 17 sau năm 1975.

Với những chứng cứ dàn dựng của Trung Quốc và những lời than thở của họ, thêm những hiện thực về các con số toà án sở tại đưa ra. Việc một chính khách không có nợ nần , tình cảm gì với Việt Nam. Ông ta có nghĩ rằng chuyện Việt Nam đánh cá trộm, hút dầu trộm của Trung Quốc là hoàn toàn có thể. Do đó hành động kêu ca của nhà nước Việt Nam về chủ quyền biển đảo thực ra là nhằm che đậy mục đích trôm cắp mà thôi.

Điều đó dẫn đến khi giàn khoan 981 của Trung Quốc xâm nhập vào lãnh hải Việt Nam. Một số tờ báo Châu Âu gọi đó là cuộc cãi vã do tranh nhau khai thác dầu khí.

Các bạn có tin không, chẳng có quốc gia nào đứng ra nói rằng Trung Quốc xâm lược biển đảo của Việt Nam cả. Các bạn cứ thử tìm xem có phát ngôn chính thức của quốc gia nào khẳng định điều ấy. May lắm là sự lên án Trung Quốc có hành vi gây căng thẳng, xây dựng này nọ trong khu vực tranh chấp, số lên án đó không là bao nhiêu so với hàng trăm quốc gia trên thế giới.

Nhà nước Việt Nam đưa ra giải pháp đối thoại với Trung Quốc để giữ chủ quyền. Lặp đi lặp lại cụm từ ” giải pháp đối thoai ” từ năm này sang năm khác,  trưng ra hình ảnh cuộc gặp gỡ này nọ, hai bên thống nhất giữ tinh thần nọ kia để giải quyết. Thực ra là nhà nước Việt Nam lừa dân Việt Nam. Trung Quốc đã nói rất rõ ràng, họ không bao giờ thoả hiệp với lợi ích cốt lõi.

“Trong một bài viết khác, PLA Daily dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn cho biết quân đội nước này cam kết trở thành một lực lượng vì hòa bình, nhưng không bao giờ thỏa hiệp đối với các nguyên tắc cốt lõi.”

Ai cũng biết cái gọi là ”lợi ích cốt lõi ” mà Trung Quốc gọi ở đây là yêu sách chủ quyền của họ tại Biển Đông. Và họ không nhân nhương nào trong vấn đề này, họ  nói không có mâu thuẫn gì với Việt Nam về chủ quyền ở đây để mà đàm phán chuyện này Chỉ có đàm phán về việc xử lý đánh bắt cá trộm, cứu thương, an ninh biển…những vấn đề nhân đạo, an ninh mà bất cứ nước nào thông thường có biển giáp nhau đều bàn.

Vậy là chẳng có chuyện đối thoại, đàm phán giữ chủ quyền giữa Việt Nam với Trung Quốc cả. Bấy lâu nay Việt Nam vẫn che giấu sự thật này, đem những đàm phán tào lao về tuần tra chung, an ninh, cứu trợ ra để lừa dân là đang có tiến triển tốt trong việc đàm phán với Trung Quốc về chủ quyền.  Đây là lý giải cho những thắc mắc của người dân Việt tại sao lãnh đạo hai nước Việt Trung thống nhất xử lý mâu thuẫn biển Đông, mà Trung Quốc vẫn gia tăng xây dựng căn cứ quân sự, gia tăng bắt bớ ngư dân Việt Nam.

Cái gọi là ” tranh thủ sự ủng hộ quốc tế ” của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam đã thất bại bởi nhiều nguyên nhân. Bởi sự gian manh, vặt vãnh từ người dân Việt Nam khi sinh sống ở nước ngoài, đến sự tráo trở, gian lận của nhà nước Việt Nam trong các cam kết về tôn giáo, nhân quyền, pháp luật. Bạn cứ đặt vj trí mình là một chính khách của Đức, Ba Lan, Tiệp, Anh khi đọc hồ sơ về người Việt tại Châu Âu và những nỗi buồn khi làm việc với nhà nước Việt Nam, bạn sẽ hiểu họ nghĩ gì về con người, chế độ Việt Nam ngày nay. Nếu họ có hoài nghi việc Việt Nam gào hét là bị xâm phạm chủ quyền để che đậy hành vi hút dầu trộm, đánh cá trộm có gì là ngạc nhiên.

Cái gọi là tự cường, phát triển kinh tế để tăng sức mạnh quốc phòng cũng thất bại hoàn toàn. Từ khi có cái ý này đến hôm nay, hàng loạt tập đoàn nhà nước nợ đầm đìa, phá sản, giải thể. Tham nhũng, quan liêu, gây thiệt hại, lãng phí tràn lan. Nợ nần ngày càng chồng chất.

Cái gọi là đoàn kết nội bộ để giữ chủ quyền cũng thất bại nốt. Hãy nhìn những cuộc thanh trừng nội bộ hay những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược của người dân trong nước bị đàn áp, những người lên án Trung Quốc bị bắt tù những năm qua thì thấy rõ sự đoàn kết nội bộ của thể chế này có hay không.

Hãy nhìn lại toàn bộ giải pháp giữ chủ quyền mà nhà nước Việt Nam đưa ra từ trước, đến nay rõ ràng đã thất bại hoàn toàn.

Tị nạn giáo dục hay tị nạn chính trị?

Tị nạn giáo dục hay tị nạn chính trị?

GS Nguyễn Văn Tuấn

Hôm qua đọc được một bài báo mà cái tựa đề [nói theo tiếng Anh là] rất “revealing”: Thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp: Có làm được việc đâu mà kêu ca (1). Bài báo liệt kê vài nhược điểm của tình trạng đào tạo trong các đại học Việt Nam, nhưng chủ yếu vẫn là vấn đề chất lượng. Dĩ nhiên, câu chuyện không mới, nhưng nó một lần nữa nhắc nhở vấn đề chất lượng đào tạo, và dẫn đến vấn nan “tị nạn giáo dục” như hiện nay. Nhưng tôi nghĩ trong thực tế thì đó là một cuộc tị nạn chính trị, chứ không hẳn là tị nạn giáo dục.

Vấn đề này đã được đề cập đến gần 20 năm trước đây. Lúc đó tôi bắt đầu có những tìm hiểu về vấn đề, và đọc được một báo cáo của UNDP (Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc). Trong báo cáo đó, tác giả nhận xét rằng sinh viên ra trường chưa đảm nhận được công việc mà đáng lẽ những người được đào tạo như thế phải làm được: “Hệ thống GD-ĐT [giáo dục và đào tạo] lâu nay của Việt Nam còn bất cập. Tỉ lệ người được đào tạo ra đạt tiêu chuẩn quốc tế là rất ít.” Một nghiên cứu của bà Maureen Chao thuộc Trường Đại học Seattle (Mĩ) vào thập niên 1990s, trong nhiều công ti liên doanh với Việt Nam, như Intel chẳng hạn, hầu hết sinh viên Việt Nam đều phải được đào tạo lại cả về chuyên môn lẫn kĩ năng giao tiếp!

Một trong những vấn đề mà ít ai đề cập đến là sinh viên VN tiêu ra khá nhiều thì giờ học những môn mà [nói theo ông Hồ Ngọc Nhuận] là “thầy không muốn dạy và trò thì không muốn học”. Đó là những môn cách mạng Việt Nam, lịch sử đảng, kinh tế mác lê, v.v. Chưa có một hệ thống giáo dục nào trên thế giới mà có chương trình quái đản như thế! Thật ra, sau này tôi tìm hiểu thi mới biết là bên Tàu họ cũng dạy như thế. Một em nghiên cứu sinh của tôi (nay đã đi Mĩ) kể rằng em ấy phải học mấy môn học vô bổ đó, và nó chiếm 20% chương trình. Một lần nữa, VN lại bắt chước cách tẩy não của Tàu. Một hệ thống giáo dục lẫn lộn giữa tuyên truyền chính trị và giáo dục thì làm sao đào tạo ra con người giỏi được.

Đến nay vấn đề vẫn chưa được giải quyết. Một bài báo trên tạp chí công nghệ thông tin cnet (do Zing dịch) cho biết “Sau khi tốt nghiệp, sinh viên Việt Nam phải được đào tạo thêm để đứng máy ở các dây chuyền sản xuất. Đây là thực tế được hàng chục nhà tuyển dụng xác nhận. Quá trình đào tạo này mất vài tháng, có khi vài năm” (2). Các nhà tuyển dụng còn phê bình hệ thống giáo dục VN không linh động, và không cải tiến nhanh để theo kịp tình hình phát triển kinh tế.

Nhưng các công ti lại thấy đó là cơ hội cho họ, để họ liên kết với đại học nước ngoài đào tạo lại các giảng viên và giáo sư Việt Nam (2). Nói cách khác, họ không tin tưởng vào hệ thống đại học VN, nên họ phải nhờ nước ngoài làm giúp. Đào tạo lại giảng viên, giáo sư Việt Nam? Trong thực tế, theo như bài báo cho biết, công ti Intel liên kết cùng một cơ sở khác “đã đào tạo 291 giảng viên người Việt Nam, trong đó có 71 giảng viên nữ, với các khoá học kéo dài 6 tuần cùng hàng trăm giáo sư khác.”

Có lẽ điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì trước đây một vị trưởng lão trong làng giáo dục đã từng nhận xét rằng hệ thống đào tạo tiến sĩ trong nước còn có nhiều bất cập. Trong một bài viết năm 2007, Gs Hoàng Tuỵ cho rằng “Có những công trình khoa học, những luậnvăn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuậtcó tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế,…,nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn. Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất” (3).

Nhưng GS Tuỵ không phải là người duy nhất nhận định như thế; Gs Trần Văn Thọ cũng từng có nhận xét giống như thế trong ngành kinh tế. Anh Thọ viết: “Cách suy nghĩ về việc chọn đề tài ở VN chỉ làm cho luận án tiến sĩ thiếu tính học thuật và phần lớn thiếu tính độc sáng. Nội dung, trình độ của luận án do đó còn rất xa mới đạt được tiêu chuẩn tối thiểu của thế giới và người được cấp bằng trong trường hợp đó khó có thể thảo luận khoa học với chuyên gia nước ngoài trong cùng ngành” (4).

Đặt những nhận xét đó trong bối cảnh chung thì chúng ta sẽ có một bức tranh logic. Do cách đào tạo người thầy bậc đại học đã có vấn đề, nên từ đó dẫn đến hàng loạt vấn đề về trò. Tôi cũng từng viết trong cuốn sách về giáo dục là chất lượng đào tạo phải bắt đầu từ thầy cô. Chẳng có gì là một sáng kiến mới, mà rất ư hiển nhiên. Thầy cô là “thợ giảng” thì làm sao có thể đào tạo ra trò giỏi được. Nhưng nói như thế có thể không công bằng cho những bạn được đào tạo ở trong nước nhưng được đào tạo đàng hoàng. Nhưng con số “đàng hoàng” đó chẳng bao nhiêu, nên cả hệ thống phải ở trong tình trạng vàng thau lẫn lộn như hiện nay.

Nói một cách nôm na, thầy dỏm “sản xuất” ra một thế hệ dỏm I. Thế hệ dỏm I lại cho ra một thế hệ dỏm II, và cứ thế cả hệ thống theo thời gian là dỏm nhiều thế hệ. Nói như thế để thấy việc gác “đền thiêng” giáo dục rất quan trọng. Nhưng rất tiếc, việc đó đã bị lơ là cả 40 năm nay, nên để lọt và dung túng những kẻ bất tài có mặt trong cái đền thiêng giáo dục. Những kẻ bất tài đó đã làm cho nền giáo dục trở nên tầm thường hoá, có khi dung tục hoá. Và, hệ quả là cả nước phải hứng chịu tình trạng như ngày nay.

Nhớ ngày xưa, những người gác đền thiêng rất nghiêm (như Gs Phạm Biểu Tâm) nên còn giữ được phẩm giá giáo dục một thời. Xin nhắc lại thời đó Gs Tâm từ chối không cho con gái của ông Ngô Đình Nhu theo học y khoa chỉ vì cô ấy thiếu một chút xíu điểm. Dù có áp lực gián tiếp từ hệ thống chính trị (chứ không phải từ ông Nhu) nhưng Gs Tâm nhất định giữ vững quyết định. Còn sau 1975 thì có một thời gian dài người ta nhận sinh viên theo chế độ lí lịch, thì việc gác đền thiêng giáo dục coi như vô hiệu hoá.

Cái khó là có một số người dỏm và “ngồi nhầm chỗ” lại đang cầm trịch hệ thống giáo dục và đào tạo ở khắp nơi. Thành ra, việc cải cách giáo dục có thể xem là gần như vô vọng, không có lối ra. Có lẽ đó là một cái nhìn hơi bi quan, nhưng quả thật đã 20 năm qua từ lúc tôi quan tâm đến vấn đề cho đến nay, tôi vẫn chưa thấy tín hiệu gì tích cực để thay đổi cái nhìn đó.

Vì thế, xin đừng trách tại sao Việt Nam có hiện tượng “tị nạn giáo dục” ở nước ngoài. Người nước khác thì đi tị nạn chính trị, còn Việt Nam thì tị nạn giáo dục. Những người biết rõ nhất sự vô vọng của nền giáo dục chính là các quan chức trong chính quyền, vì con cháu họ thường được gửi đi tị nạn giáo dục. Thật ra, tị nạn giáo dục của Việt Nam cũng là một hình thức tị nạn chính trị, vì các em ấy khi ra nước ngoài là để giải phóng khỏi những môn học vô bổ và sau đó là xin định cư luôn ở nước ngoài. Khi định cư, các em ấy lại bảo lãnh anh em và cha mẹ sang tị nạn tiếp! Tị nạn khỏi nền giáo dục lẫn lộn giữa tuyên truyền chính trị và giáo dục. Do đó, nói là tị nạn giáo dục, nhưng phải hiểu là tị nạn chính trị.

Không quốc giáo, không giáo điều

Không quốc giáo, không  giáo điều

( No State Religion, No State Dogma)

Đoàn Thanh Liêm

Năm 1975, sau khi chiến thắng được miền Nam rồi, thì giới lãnh đạo cộng sản tại Hanoi bèn công khai đổi tên “Đảng Lao Động” thành ra “Đảng Cộng sản”, tờ tạp chí “Học Tập” là cơ quan nghiên cứu và lý luận cuả Đảng Lao Động cũng đổi tên thành tạp chí “Cộng sản” luôn. Và cả đến cái “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” (National Liberation Front NLF) cũng được cho giải tán, dẹp bỏ mất tiêu luôn. Đó là chuyện nội bộ cuả đảng cộng sản, họ có quyền quyết định thay đổi tên tuổi cuả riêng họ, chúng ta không phải là người trong đảng cộng sản, thì cũng chẳng nên thắc mắc  gì về cái chuyện riêng tư đó trong tổ chức cuả riêng họ.

Nhưng mà, vẫn theo chuyện “thưà thắng xông lên”, họ đã cả gan đổi cả cái tên, cái danh xưng cuả quốc gia thành ra nhà nước “Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt nam” (Socialist Republic of Vietnam SRV), thì đó là điều mọi người công dân Việt nam chúng ta đều có quyền bất đồng, có quyền dị nghị. Vì rõ ràng là đảng cộng sản đã quá ư lộng quyền. Họ vẫn xưng mình là “đày tớ cuả nhân dân”, ấy thế mà họ dám ngang nhiên qua mặt “các chủ nhân ông, tức là toàn thể nhân dân”, mà thay đổi cả cái danh xưng cuả đất nước Việt nam thành ra là một quốc gia nằm dưới trướng cuả cái giáo điều “xã hội chủ nghiã”, với nền” độc tài chuyên chính vô sản”, với chủ trương “đấu tranh giai cấp, hận thù giai cấp”, “dân chủ tập trung” v.v…Đó là cái điều mà không bao giờ chúng ta lại có thể chấp nhận được.

Ở bên Pháp vào năm 1981, lần đầu tiên có lãnh tụ Đảng Xã hội là Francois Mitterand được bàu làm Tổng Thống, thì Giáo sư Raymond Aron có viết một bài báo gây chấn động trên báo Figaro, ông vìết thật đanh thép rằng  : “ Nước Pháp là nước Pháp, hay là Cộng Hoà Pháp quốc, chứ không có thêm một tĩnh từ nào khác” (Nguyên văn : La France, c’est la France ou la République Francaise, sans adjectifs! ) Tức là vị giáo sư lừng danh này muốn cảnh cáo cả phe tả phái và đảng Xã hội rằng : “Không được đem bất kỳ cái chủ thuyết nào mà gán vào danh xưng nước Pháp.” Lập trường này cũng có thể đem áp dụng cho nước Việt nam chúng ta, mà cho tới năm 2010 này vẫn còn bị đảng cộng sản gắn cho “cái đuôi con chồn xã hội chủ nghiã”!

Đầu năm 1990, sau khi chế độ cộng sản xụp đổ ở Đông Âu, thì tôi có viết một bản văn nhan đề là : “Năm Điểm Thoả Thuận Căn Bản” được coi như cái “guideline” cho việc soạn thảo bản Hiến pháp sau này. Bản văn được bắt đầu như sau :

Điểm 1 – Quốc gia Việt nam không công nhận một tôn giáo nào làm quốc giáo.

Quốc gia cũng không áp đặt một chủ thuyết nào làm giáo điều chính thức cuả Dân tộc.

Nhằm tôn trọng và bảo vệ Tự do Tín ngưỡng, Nhà nước không can thiệp vào chuyện nội bộ cuả các tổ chức tôn giáo.

(Toàn văn Bản “Năm Điểm” này sẽ được ghi trong Phần Phụ Lục đính kèm bài viết này).

Vì bản văn này, mà tôi bị công an bắt giam giữ vào tháng Tư 1990 và trong phiên xử vào ngày 14 Tháng Năm 1992, Toà án tại Saigon đã xử phạt tôi 12 năm tù giam về tội “Tuyên truyền chống chủ nghiã xã hội”. Và sau đó, họ đưa tôi đi “thi hành án” tại trại giam Z30D ở Rừng Lá thuộc huyện Hàm Tân Phan Thiết.

Năm 1996, nhờ sự vận động can thiệp cuả nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Amnesty International, Human Rights Watch, cũng như cuả nhiều Dân biểu, Nghị sĩ và các nhân vật văn hoá xã hội, và nhất là cuả chánh quyền Mỹ, mà tôi đã được trả tự do bằng cách công an chở tôi từ nhà tù Hàm Tân ra thẳng phi trường Tân Sơn Nhất, để cùng với gia đình qua định cư bên nước Mỹ. Đại khái vắn tắt cuả vụ án cuả tôi là như vậy.

Trong 10 năm nay, tôi để thời giờ nghiên cứu tìm hiểu về sự “Chuyển hoá Dân chủ” (Democratic Transition) tại các nước cựu cộng sản ở Đông Âu và cả ở nước Nga. Và tôi đã tìm ra được nhiều điều lý thú, khả dĩ có thể rút kinh nghiệm cho việc xây dựng tương lai đất nước và dân tộc Việt nam chúng ta. Để cho ngắn gọn, tôi chỉ xin trích dẫn một số điều khoản căn bản trong bản Hiến pháp, mới được ban hành trong thập niên 1990 và sau này, cuả một số nước cựu công sản, mà có liên hệ trực tiếp đến quan điểm cuả tôi như đã ghi nơi điều 1 Bản văn “Năm Điểm” đã trưng dẫn ở trên.

A/ Không có Quốc giáo (No State Church).

1-      Điều 40 khoản 2 Hiến Pháp nước Estonia : “Không có quốc giáo” (There is no State Church).

2-      Điều 14 khoản 1 Hiến Pháp nước Nga : “Không một Tôn giáo nào được thiết lập như một quốc giáo, hay như một tôn giáo bắt buộc (No Religion shall be established as a State or Obligatory One).

B/ Không có Ý thức hệ Nhà nước (No State Ideology)

1-      Điều 13 khoản 2 Hiến Pháp nước Nga : “ Không có một Ý thức hệ nào được thiết lập như là Ý thức hệ Nhà nước, hoặc như môt ý thức hệ bắt buộc (No Ideology may be established as a State or Obligatory One).

2-      Điều 5 khoản 2 Hiến Pháp nước Moldova : “Không có Ý thức hệ nào được công bố là Ý thức hệ chính thức cuả Nhà nước (No Ideology may be pronounced as an official ideology of the State).

3-      Điều 12 khoản b Hiến Pháp nước Uzbekistan : “ Không một Ý thức hệ nào mà được ban cấp quy chế cuả Ý thức hệ Nhà nước” (No Ideology shall be granted the status of State Ideology).

4-       Điều 11 khoản 2 Hiến Pháp nước Bulgaria : “Không có Ý thức hệ nào mà được công bố hay xác nhận là Ý thức hệ của Nhà nước”-  (No Ideology shall be proclaimed or affirmed as an Ideology of the State).

Mấy trích dẫn ghi trên thiết nghĩ cũng đã đủ để đánh giá được sự dứt khoát loại bỏ căn bệnh giáo điều cuả chế độ cộng sản trước đây. Người viết xin để bạn đọc tuỳ nghi phân tích và lượng định về sự thay đổi này trong các quốc gia cựu cộng sản ở Đông Âu và nhất là ở nước Nga. Và rồi đối chiếu với tình trạng ở Việt nam hiện nay./

Baltimore Tháng Năm 2010

Đoàn Thanh Liêm

Phụ   Lục

Năm Điểm Thoả Thuận Căn Bản

Điểm 1 – Quốc gia Việt nam không công nhận một Tôn giáo nào làm Quốc giáo.

Quốc gia cũng không áp đặt một chủ thuyết nào làm giáo điều chính thức cuả dân tộc.

Nhằm tôn trọng và bảo vệ Tự do Tín ngưỡng, Nhà nước không can thiệp vào chuyện nội bộ cuả các tổ chức tôn giáo.

Điểm 2 – Dân tộc Việt nam gồm nhiều sắc tộc có truyền thống văn hoá lịch sử khác nhau. Như vậy nền tảng cuả xã hội Việt nam phải được đặt trên cơ sở đa chủng tộc, đa văn hoá.

Điểm 3 – Phát huy truyền thống nhân bản và nhân ái cuả dân tộc, hệ thống chính trị và luật pháp Việt nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đã được ghi rõ trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Điểm 4 – Về phương diện kinh tế, vai trò cuả nhà nước là làm trọng tài để bảo đảm công bằng xã hội và trật tự xã hội. Như vậy, nhà nước không thể vừa đứng làm trọng tài, mà lại vưà là một bên đương sự trong các hoạt động kinh doanh làm ăn được (vưà thổi còi, lại vưà đá bóng).

Hệ luận cuả nguyên tắc này là : Hệ thống quốc doanh hiện nay sẽ được giảm bớt tới mức tối thiểu.

Điểm 5 – Thể hiện tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc, quốc gia sẽ ban hành lệnh khoan hồng đại xá đối với mọi vi phạm do cá nhân hay do tập thể gây ra.Nghiêm cấm mọi sự tuỳ tiện báo ân, báo oán.

Mọi khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại sẽ được xử lý theo đúng thủ tục luật pháp./

Làm tại Saigon Tháng Hai 1990.

Đoàn Thanh Liêm

Đại Sứ Phạm Duy Khiêm với chuyện Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế

Đại Sứ Phạm Duy Khiêm

với chuyện Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế

Đoàn Thanh Liêm

Tôi chưa bao giờ được gặp nhà giáo nhà văn Phạm Duy Khiêm (1908 – 1974), mà sau này vào năm 1954 – 55 ông đã làm Đại sứ của Việt nam tại Pháp. Từ lâu, tôi được nghe đến danh tiếng ông Khiêm là người Việt nam đầu tiên có văn bằng Thạc sĩ chuyên về bộ môn Văn phạm tiếng Pháp, mà có người gọi là “Trạng Mẹo” ( Mẹo = Văn phạm). Ông nổi tiếng là người có tài viết văn bằng tiếng Pháp rất trôi chảy và ông chỉ cộng tác với học giả Trần Trọng Kim trong việc biên sọan cuốn Văn phạm Việt nam – đó là cuốn sách duy nhất ông viết bằng tiếng Việt.

Hồi còn theo học ở bậc trung học tại Hanoi trước năm 1954, thì tôi có được đọc cuốn “Légendes des Terres Sereines” (Những Truyền thuyết từ Miền Đất Thanh Bình) của ông Khiêm viết từ năm 1941 và mới được tái bản ở Pháp vào năm 1951 – 52. Sách kể lại các chuyện cổ tích như Trầu cau, Thiếu phụ Nam Xương, Trương Chi & Mỵ Nương v.v… bằng một giọng văn mạch lạc, đơn sơ trong sáng – thật dễ hiểu và lôi cuốn cho lớp học sinh chúng tôi thời đó. So sánh với hai tác giả người Việt cũng viết bằng tiếng Pháp hồi trước năm 1945 là quý ông Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Tiến Lãng, thì lối viết của ông Khiêm hấp dẫn đối với chúng tôi hơn nhiều.

Vào cuối năm 1974, tại Saigon chúng tôi được nghe là Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm đã tự sát và từ giã cõi đời ở bên Pháp. Báo chí hồi đó có đưa ra nhiều chi tiết về sự việc xung quanh biến cố này, nhưng lâu ngày rồi tôi cũng không còn nhớ rõ về câu chuyện đó nữa. Vào năm 2004, nhân dịp kỷ niệm năm thứ 30 kể từ ngày ông qua đời, tạp chí Thế kỷ XXI ở California có cho đăng một số bài do nhiều tác giả viết về nhà văn Phạm Duy Khiêm, trong đó có cả bài của nhạc sĩ Phạm Duy là bào đệ của ông. Và qua internet, ta cũng có thể đọc được nhiều bài viết về ông nữa.

Nhưng tôi đặc biệt chú ý đến chứng từ của giáo sư Raymond Aron (1905 – 1983) là một vị đại sư nổi danh ở Pháp viết trong cuốn Hồi ký nguyên tác bằng tiếng Pháp với nhan đề là : “ Mémoires : 50 ans de Réflexion Politique” xuất bản năm 1983  và bản dịch sang Anh ngữ với lời nói đầu của Henry Kissinger được xuất bản năm 1990 tại Mỹ. Hiện trong tay tôi, thì chỉ có bản dịch Anh ngữ này. Vì thế, tôi xin trình ra đây phóng ảnh của trang bìa và của một đọan trong trang 392 của bản tiếng Anh này với nhan đề như sau :

* Raymond Aron : Memoirs – Fifty Years of Political Reflection *

do nhà xuất bản Holmes & Meier ấn hành năm 1990 tại New York & London.

Giáo sư Aron viết trong đọan văn nói trên như sau : “ Thật ra, cuộc tấn công dịp Tết (Mậu Thân) là một sự thất bại về phía Việt cộng. Chẳng có nơi nào mà dân chúng lại hưởng ứng đi theo “ những chiến sĩ tự do”  (Nowhere did the population join the “freedom fighters”). Những người chiến sĩ đó đã phạm vào những hành động không thể tha thứ được. Họ bắt buộc các nạn nhân phải đào những con hố mà họ đảy hàng trăm những viên chức và người có tên tuổi của kinh đô Huế để chôn vùi vào trong đó. Bạn của tôi, Phạm Duy Khiêm vốn là vị Đại sứ của miền Nam tại Paris vào năm 1954, thì có phổ biến thông qua thông tấn AFP vào ngày 13 tháng Tư năm 1968 một bản tường trình đày vẻ phẫn nộ (an indignant report) về cung cách đối xử của Việt cộng trong những vùng mà họ kiểm sóat được trong một số ngày.”Những vị trí thức đó đã không hề ngó ngàng gì đến số phận của những viên chức bình thường, những nhân viên vô tội của chính quyền và gia đình của họ, những quân nhân đang nghỉ phép, những linh mục công giáo người Pháp, những giáo sư người Đức cùng với vợ của họ đều bị chôn sống (vào khỏang 300 người), hay bị giết sau khi bị cắt chân tay và bị tra tấn đủ kiểu ( vào khỏang 700 người), đôi khi còn bị trói chung với nhau bằng giây kẽm gai nữa.” Bản tường trình này đã bị rơi vào sự dửng dưng và quên lãng…”

(Ghi chú : Lúc đó thì tại Stockholm thủ đô của Thụy Điển đang có một thứ Tòa án có tên là Bertrand Russell Tribunal để tố cáo “tội ác của Mỹ trong chiến tranh Việt nam “. Và phong trào phản chiến đang rầm rộ sôi nổi ở Mỹ cũng như ở Tây Âu nữa. Nên Đại sứ Khiêm mới phải đề cập đến  “những nhà trí thức đó” với một sự phẫn nộ.)

Nếu ta để ý đến sự kiện là chỉ vào cuối tháng Hai năm 1968, thì quân đội Việt cộng mới bị đánh bật ra khỏi cố đô Huế và chỉ sau đó ít lâu thì các thông tin về cuộc Thảm sát kinh hòang hồi Tết Mậu thân mới được đưa ra một cách rõ ràng chính xác. Và như giáo sư Aron thuật lại ở trên là vào ngày 13 tháng Tư năm 1968, ông Khiêm lúc đó chỉ là một công dân bình thường –  nhưng vì ý thức được trách nhiệm của một vị thức giả mà ông đã phải công bố ngay tức khắc cho thế giới biết đến vụ tàn sát kinh hòang ở Huế lúc đó.

Sự kiện rõ rệt này tôi chưa thấy có tài liệu nào của người Việt nói đến. Vì thế, tôi xin trích thuật ra đây để trước hết góp phần bổ túc cho “Hồ sơ Thảm sát tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968” có thêm được một chi tiết khả tín nữa. Và sau là để tỏ lòng biết ơn đối với Đại sứ Phạm Duy Khiêm vì sự đóng góp quý giá của ông trong việc lưu ý cho công luận thế giới biết rõ hơn về cái tội ác tầy trời đó của người cộng sản đối với người dân vô tội ở Huế thời đó.

Tôi hy vọng sẽ có nhà nghiên cứu sưu tầm được tòan văn “Bản Tường Trình công bố vào ngày 13 tháng Tư năm 1968 của Đại sứ Khiêm được gửi qua thông tấn AFP của Pháp” như giáo sư Raymond Aron đã trích thuật lại trong cuốn Hồi ký của mình.

Quả thật, trong giới trí thức của chúng ta lúc nào cũng vẫn có những con người có lòng thương cảm và sự ngay thẳng để tố cáo những sự tàn bạo độc ác xảy ra đối với các nạn nhận vô tội là đồng bào ruột thịt của mình – như trường hợp của Đại sứ Phạm Duy Khiêm được ghi lại trong bài này vậy/.

San Clemente California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

Đoàn Thanh Liêm

II Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng(bài 2)

II Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng(bài 2)

Đoàn Thanh Liêm

Trước khi đề cập đến nội dung của chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” của Paulo Freire, người viết xin được kể sơ lược về cái duyên hạnh ngộ với nhà tư tưởng nổi danh này, xuất thân từ xứ Brazil là quốc gia đông dân nhất của Châu Mỹ La Tinh. Đó là vào cuối năm 1970, trong dịp tham dự một hội nghị quốc tế tại Paris, nhằm thành lập Institut Oecuménique au service du Développement des Peuples ( INODEP = Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc), tôi đã được gặp đích thân Paulo Freire là một thuyết trình viên chính của Hội nghị, mà ông cũng còn được bàu là vị chủ tịch của INODEP nữa. Người tầm thước với bộ râu tóc dài đã điểm muối tiêu của người đã bước vào tuổi ngũ tuần, Paulo Freire có lối nói thật say mê sôi nổi, lôi cuốn như là một thi sĩ, mà lại diễn giải quan điểm lý luận của mình với niềm xác tín sâu sắc của một triết gia. Cử tọa gồm nhiều nhân vật đại diện từ khắp năm châu đều chăm chú theo dõi bài nói chuyện quan trọng, mà đày nhiệt tình của ông. Rồi qua năm 1972, lúc tôi đến Geneva để trao đổi gặp gỡ với một số vị tại văn phòng trung ương của Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches), thì tôi cũng gặp lại Paulo Freire đang phụ trách về vấn đề giáo dục của tổ chức này.

Mùa hè năm 1971, vào dịp đến tham dự một cuộc hội thảo khác nữa tại Mindanao Philippines, thì tôi thấy sinh viên ở đây chuyền tay bán cho nhau cuốn sách “The Pedagogy of the Oppressed”, ấn bản địa phương đơn giản, chỉ có ruột sách, chứ không có bìa riêng theo kiểu tự làm lấy, cho nên giá rất rẻ, có 2 US$ một cuốn thôi. Và dĩ nhiên là tôi cũng đã mua vài cuốn để đem về cho các bạn ở Việt nam. Chuyện nhỏ này lại càng khiến tôi chăm chú theo dõi tư tưởng và đường lối giáo dục của Paulo Freire suốt từ hồi năm 1970 cho đến nay.

A – Nét chính yếu của tư tưởng và hành động của Paulo Freire.

Có thể nói Paulo Freire luôn nhất quán về cả phần lý thuyết, cũng như thực hành trong đường lối Giáo dục, nhằm giúp khối quần chúng bị áp bức tìm ra cho mình một phương cách cụ thể, hữu hiệu để tự giải thóat khỏi thân phận của người bị áp bức, bị tha hóa do các điều kiện khách quan của môi trường xã hội, cũng như chủ quan nội tại của bản thân mình. Quan điểm của ông có tính chất triệt để, dứt khóat là : Xã hội đương thời ở châu Mỹ La tinh, cũng như ở nhiều nơi khác đều do bao nhiêu bất công, áp bức bóc lột tạo ra nỗi lầm than cơ cực triền miên cho đa số quần chúng nhân dân. Và không khi nào mà giới thống trị lại chịu tự nguyện đứng ra chủ động việc cải thiện các định chế xã hội vốn bảo vệ các đặc quyền đăc lợi cho riêng họ.

Như vậy, chỉ khi nào chính cái đại khối quần chúng là nạn nhân của sự áp bức thống trị tệ hại đó, mà nhất quyết dấn thân vào công cuộc giải phóng kiên trì để tự cứu thóat lấy mình, thì xã hội mới có cơ may được xây dựng tốt đẹp, và con người mới phục hồi được nhân phẩm cao quý cho từng cá nhân được. Nói khác đi, chỉ khi nào chính quần chúng nhân dân mà được thức tỉnh giác ngộ về vai trò làm chủ nhân đích thực của xã hội, và cùng đồng lòng lăn xả vào cuộc tranh đấu giải phóng đó, thì họ mới có được một tương lai tươi sáng viên mãn, như từng mơ ước từ bao nhiêu thế hệ xưa nay.

Với niềm xác tín như thế, Paulo Freire đã nhập cuộc với xã hội quê hương mình, bằng cách phát triển phương thức giáo dục tráng niên, thúc bách cho các học viên cần phải có sự suy nghĩ với thái độ phê phán (critical thinking = conscientization) về hiện trạng xã hội, mà họ là nạn nhân của bao nhiêu áp bức bất công. Và rồi từ đó, chính họ sẽ ra tay hành động, nhằm biến đổi xã hội hủ lậu đó đi (transformative action). Do lối suy nghĩ và hành động cụ thể, cấp tiến như vây, mà ông đã bị phe quân nhân cầm quyền ở Brazil bắt giữ, rồi trục xuất đi ra khỏi nước vào năm 1964.

Trong thời gian sống lưu vong, ông có dịp đúc kết các suy nghĩ và hoạt động của mình, để rồi trình bày trong 2 cuốn sách xuất bản hồi cuối thập niên 1960, và được nhiều người đánh giá rất cao. Đó là cuốn sách đầu tiên có nhan đề  “ Education, the Practice of Freedom”, và đặc biệt là cuốn “The Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ phân tích chi tiết rành mạch hơn về tác phẩm quan trọng này trong một đoạn sau. Và ông đã kiên trì tiếp tục tìm kiếm trong suốt cuộc đời còn lại, nhất là kể từ ngày được trở về lại quê hương vào năm 1980, để khai triển cho thêm phong phú hơn nữa cái chủ trương giáo dục có tính cách khai phóng và nhân bản cao độ này.

Tác giả Henry A Giroux nhận định về Freire rằng : “ Thực ra, ông là người đã kết hợp được điều mà tôi gọi là cả hai thứ ngôn ngữ phê phán với thứ ngôn ngữ khả thể” (In effect, Freire has combined what I call the language of critique with the language of possibility).

B – Giới thiệu tác phẩm “ Giáo dục của Người bị Áp bức”.

Trong cuốn sách 160 trang ngắn gọn, xúc tích với chỉ có 4 chương này, Paulo đã phân tích khá rành mạch, dứt khoát về chủ trương kiên quyết không thỏa hiệp với nền thống trị đàn áp, vẫn ngự trị lâu đời trong xã hội đương thời, đặc biệt là tại châu Mỹ La tinh là quê hương bản quán của ông. Và sau khi cuốn sách ấn bản tiếng Anh ra đời vào năm 1970, tác giả lại còn có nhiều dịp trao đổi với các thức giả khắp thế giới, và từ đó ông đã hoàn chỉnh hơn quan điểm và lý luận của mình, như được trình bày trong nhiều cuốn sách và bài báo xuất bản vào thập niên 1980-1990 nữa. Ta có thể tóm gọn tư tưởng của ông trong mấy khía cạnh chính yếu sau đây :

1 / Giáo dục đại chúng cốt yếu là một cuộc đối thoại giữa” người dậy” và “người đi học” (a dialogue between the educator and the learner), trong đó phải có sự tương kính lẫn nhau giữa hai phía (mutual respect). Paulo Freire đặc biệt phê phán cái lối dậy học “nhồi nhét”, mà ông gọi là “banking concept”, tức là chỉ có người dậy chủ động chuyển mớ kiến thức vào đầu óc của học viên, y hệt như việc ký gửi các số tiền vào nơi chương mục tại ngân hàng (making deposits). Như vậy, thì người học viên hoàn toàn đóng vai trò “thụ động” của một đối tượng, chứ không hề được khuyến khích để chủ động phát huy óc sáng tạo và sự suy nghĩ có tính cách phê phán (critical thinking), để mà có thể tự mình khám phá ra hoàn cảnh bị áp bức của mình và rồi đưa đến một hành động thích đáng.

Thay vào đó, tác giả đề ra cái khái niệm “Giáo dục đặt vấn đề” (problem-posing concept of Education), trong đó cả hai phía người dậy và người học đều cùng hợp tác với nhau trong một quá trình hỗ tương (a mutual process), nhằm cùng nhau khám phá thế giới, và chung với nhau cố gắng vươn tới một mức độ nhân bản viên mãn hơn (their attempt to be more fully human).

2 / Cuộc đối thoại này không phải chỉ nhằm đào sâu sự hiểu biết, mà còn là một phần làm thay đổi nơi thế giới. Tự bản thân, sự đối thoại là một loại hoạt động có tính hợp tác bao gồm sự tôn kính (a co-operative activity involving respect). Quá trình này quan trọng, vì nó giúp tăng thêm sức mạnh cho cộng đồng và đồng thời lại xây dựng nên nguồn vốn xã hội  (enhancing community and building social capital), mà lại đưa dẫn chúng ta đến hành động cho công lý và phát triển nở rộ về phương diện nhân bản (human flourishing) nữa.

Cơ sở cụ thể cho hệ thống giáo dục căn cứ vào sự đối thoại này chính là nơi các“câu lạc bộ văn hóa” (culture circle), trong đó các học viên và người phối trí hợp cùng nhau bàn thảo về những” chủ đề khởi sinh” (generative themes), mà có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc sống thực tiễn của người học viên. Các chủ đề này liên hệ tới thiên nhiên, văn hóa, công việc làm và các tương quan xã hội, thì đều được khám phá ra qua sự tìm kiếm chung nhau giữa nhà giáo dục với học viên. Rồi các chủ đề đó được sử dụng làm căn bản cho cuộc đối thoại trong phạm vi sinh họat nội bộ của câu lạc bộ. Từ đó, mà dần dần diễn ra quá trình cấu tạo được ý thức phê phán (critical consciousness) nơi các học viên tham gia, với tư cách là chủ thể của xã hội, mà chính họ đang cùng nhau ra sức xây dựng với quyết tâm của cả tập thể của mình.

3 / Tính chất độc đáo trong tư tưởng của Paulo Freire chính là việc ông đã khôn khéo tổng hợp đến độ nhuần nhuyễn được kinh nghiệm của những nhà tư tưởng tiền bối, và đem áp dụng vào đường lối giáo dục của ông. Điển hình là phép biện chứng của triết gia Hegel giữa “ông chủ và đày tớ”, thì đã được Freire áp dụng trong lối “giải thóat khỏi các hình thức độc đóan trong giáo dục”(liberation from authoritarian forms of education). Chủ thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre và của Martin Buber, triết gia Do Thái đã giúp Freire đưa ra khái niệm về “ sự tự biến đổi của người bị áp bức để tiến vào trong lãnh vực của tình trạng liên chủ thể tiến bộ” (the self-transformation of the oppressed into a space of radical intersubjectivity). Kể cả thuyết duy vật lịch sử của Karl Marx cũng ảnh hưởng tới quan niệm của Freire về lịch sử tính của các mối quan hệ xã hội (historicity of social relations).

Và chủ trương “Thần học giải phóng” cũng ảnh hưởng rõ rệt đến quan điểm của Freire, khi ông cho là “Tình yêu thương là điều kiện thiết yếu cho một nền giáo dục đích thực”. Rồi quan điểm cách mạng chống đế quốc của Ernest Che Guevara và Frantz Fanon, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Les Damnés de la Terre”, cũng ảnh hưởng đến sự phân tích của Freire về tình trạng trầm đọng (sedimentation) của tư tưởng của giới áp bức thống trị, mà vẫn còn hằn sâu nơi não trạng của chính bản thân lớp người nạn nhân bị áp bức. Và rồi từ đó, ông đã dấn thân hết mình vào công cuộc tranh đấu chống lại chế độ thực dân đế quốc ở khắp mọi nơi.

C – Ảnh hưởng của tư tưởng Paulo Freire trên thế giới.

Có thể nói Paulo Freire là mẫu “con người tri hành hợp nhất” theo lối nói của Vương Dương Minh là nhà tư tưởng nổi danh của Trung quốc ngày xưa. Ông không chỉ đơn thuần là một lý thuyết gia, mà còn là một con người dấn thân hoạt động hết mình cho lý tưởng giải phóng con người. Chủ trương Giáo dục của ông tuy rất cương quyết dứt khoát, triệt để tiến bộ, nhưng đày tính nhân bản ôn hòa, khác hẳn với khuynh hướng quá khích, bạo hành của lớp người cộng sản Marxist tại châu Mỹ La tinh, cụ thể như Che Guevara, Fidel Castro. Vì thế mà đại bộ phận quần chúng nhân dân tại khu vực quê hương ông, vốn theo Thiên chúa giáo, thì đã tiếp nhận tư tưởng của Freire một cách nồng nhiệt, phấn khởi.

Tại Phi châu cũng vậy, trong nhiều dịp đến làm việc tại châu lục này, nhất là tại mấy nước trước đây cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, như Angola, Mozambique, Guinea Bissau, Paulo Freire đã được đón tiếp một cách rất thân tình trân trọng, bởi lẽ ông cùng chia sẻ cái thân phận của người dân đã từng phải sống dưới sự thống trị hà khắc của các chánh quyền thực dân đế quốc trước kia, cũng như của các chế độ độc tài bản xứ trong giai đoạn độc lập tự chủ hiện nay.

Tại Á châu, ông cũng được đón tiếp tại nhiều nơi như Ấn độ, Papua New Guinea, và có nhiều dịp trao đổi với các giới chức hoạt động trong lãnh vực giáo dục, cũng như hoạt động cộng đồng.

Đã có nhiều quốc gia thiết lập các Viện Nghiên cứu Paulo Freire (Paulo Freire Institute = PFI) nhằm cổ võ và quảng bá tư tưởng của ông về lãnh vực cải cách giáo dục tráng niên, cũng như thúc đảy công cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điển hình như PFI tại Nam Phi, tại Tây Ban Nha, tại Phần Lan, tại đảo quốc Malta, và dĩ nhiên tại Brazil là quê hương của ông.

Riêng tại Mỹ, thì có FPI đặt tại đại học UCLA ở thành phố Los Angeles California. Viện nghiên cứu này được thiết lập năm 2002 và rất hoạt động với việc xây dựng những mạng lưới liên kết giới học giả, nhà giáo,  nhà họat động xã hội, nghệ sĩ và các thành viên của cộng đồng. Thông qua các cuộc gặp gỡ trao đổi thường xuyên, tất cả các thành viên và các thân hữu của Viện FPI đều dồn nỗ lực vào việc xây dựng công bằng xã hội, và sử dụng giáo dục như là một phương tiện để tạo sức mạnh cho khối quần chúng bị áp bức, bị khuất phục tại khắp nơi trên trái đất.

Ngòai ra, cũng còn phải kể đến các Diễn Đàn Paulo Freire (bi-annual PF Forums) được tổ chức mỗi năm 2 lần, nhằm mở rộng và nâng cao sự nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm của những thức giả vốn theo đuổi đường lối giáo dục tiến bộ do Paulo Freire đã dày công khai phá từ trên nửa thế kỷ nay.

D – Thay lời kết luận.

Có thể nói Paulo Freire là một con người tòan diện, vừa có trình độ suy tư lý luận rất thâm hậu, mà cũng vừa là con người dấn thân họat động suốt đời, không bao giờ mệt mỏi. Ông được quần chúng mến phục, không những do các tác phẩm sâu sắc về triết lý giáo dục, về phương pháp vận động khích lệ cho tầng lớp người bị áp bức bóc lột, mà còn vì cái nhân cách sáng ngời, cái tinh thần khiêm cung hòa ái, và nhất là vì tấm lòng tha thiết yêu mến tột cùng đối với nhân quần xã hội nữa.

Quả thật, Paulo Freire là một tiêu biểu rất xứng đáng, là niềm tự hào cho tầng lớp sĩ phu trí thức của xứ Brazil, cũng như của tòan thể châu Mỹ La tinh vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010.

Đoàn Thanh Liêm

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

( Paulo Freire : 1921 – 1997)

Paulo Freire sinh năm 1921 tại Brazil. Ông học Luật và Triết học, nhưng lại dấn thân vào công cuộc giáo dục đặc biệt cho giới tráng niên, nhằm gây ý thức cho đại chúng phải mạnh dạn tự giải thoát  mình ra khỏi tình trạng áp bức nặng nề, tàn bạo của xã hội đương thời. Vì có tư tưởng và hành động cấp tiến như vậy, nên ông bị giới quân nhân cầm quyền bắt buộc phải sống lưu vong ở nước ngoài, từ năm 1964, mãi cho đến năm 1980, ông mới có thể trở về quê hương mình được.

Tại nước Chi lê, ông đã làm việc cho tổ chức văn hóa Unesco của Liên Hiệp Quốc, và Viện Cải cách Ruộng đất của chánh phủ Chi lê. Ông còn được mời tới làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu về Phát triển và Biến đổi xã hôi thuộc đại học Harvard ở Mỹ (Center for Studies in Development and Social Change). Rồi sau này làm giám đốc chương trình giáo dục của Hội đồng Tôn giáo thế giới (World Council of Churches) tại Geneva, Thụy sĩ.

Năm 1970, ấn bản tiếng Anh “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức) của Paulo Freire đã gây một tiếng vang lớn trong giới giáo dục và hoạt động xã hôi khắp thế giới. Sau trên 40 năm, thì đã có hàng triệu cuốn được phổ biến rộng rãi qua nhiều lần tái bản, và hàng mấy chục bản dịch ra các thứ tiếng khác nữa. Ông là người đã cổ võ cho ý niệm “ Conscientizacao’ nguyên văn tiếng Bồ đào nha, mà bây giờ đã trở thành thông dụng khắp thế giới với tiếng Anh là “Conscientisation” (= Consciousness Raising, Critical Conciousness). Ta có thể diễn tả ý niệm này là :  Sự thức tỉnh Ý thức và Suy nghĩ có tính cách phê phán.

Quả thật, chủ trương giáo dục có tính chất cách mạng triệt để của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào giáo dục và xã hội cùng khắp thế giới. Và tư tưởng triết học của ông cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành học thuật như thần học, xã hội học, nhân chủng học, sư phạm, ngữ học thực hành và nghiên cứu văn hóa (applied linguistics & cultural studies).

Có thể nói : Paulo Freire là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất về bộ môn giáo dục vào cuối thế kỷ XX ( the most influential thinker about education).

Bài viết này nhằm giới thiệu tư tưởng độc đáo và dứt khoát của ông. Đồng thời cũng lược qua về ảnh hưởng của tư tưởng này trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại các quốc gia vốn xưa kia là thuộc địa của thực dân Tây phương ở Châu Mỹ La tinh, Châu Phi và Châu Á. Để bạn đọc có thể dễ dàng theo dõi quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Paulo Freire, là một nhân vật tiêu biểu của trào lưu thức tỉnh và vận động xã hội tại Châu Mỹ La tinh là quê hương của ông, người viết xin được dàn trải việc trình bày trong 2 bài như sau :

Bài 1 / – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh vào cuối thế kỷ XX.

Bài 2 / – Cốt lõi chủ trương “Giáo dục giải phóng” & Ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.

I – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh.

Châu Mỹ La tinh (Latin America) là khu vực nằm ở phía nam của nước Mỹ, mà xưa kia hầu hết đều là các lãnh thổ nằm dưới sự cai trị của hai nước Tây ban nha và Bồ đào nha. Hiện nay khu vực này có chừng 30 nước với tổng số dân là trên 560 triệu. Chỉ có Brazil với dân số trên 190 triệu là nói tiếng Bồ đào nha. Còn lại, thì tất cả đều nói tiếng Tây ban nha. Trừ một số rất nhỏ xưa kia là thuộc địa của Pháp, Anh, Hòa lan, thì vẫn còn nói tiếng như tại “mẫu quốc” cũ của họ.

Có tới 70% dân chúng trong khu vực theo đạo Thiên chúa giáo La mã (Roman Catholic). Và chừng 15% theo đạo Tin lành.

A – Tình trạng bất ổn trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

Kể từ thập niên 1960 trở đi, khu vực này đã trải qua nhiều biến động về chính trị kinh tế, cũng như về mặt văn hóa xã hội thật sôi động, nhiều khi đưa đến những tranh chấp tàn bạo đẫm máu, do các chế độ độc tài thiên hữu, quân phiệt hay thiên tả gây ra. Nhiều cuộc đảo chính đã liên tục xảy ra, khiến cho xã hội luôn bất ổn định, và chế độ độc tài quân phiệt dễ có cơ hội được củng cố, và người dân bị dồn vào thế bị động, không thể hợp nhau góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển quốc gia được.

Lại nữa, vào giữa thời chiến tranh lạnh, nên phía Liên Xô đã tìm nhiều cách để gây ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản tại đây; điển hình là tại Cuba từ khi Fidel lên nắm chánh quyền năm 1959 và đã ngả hẳn về phía Liên Xô. Chúng ta hẳn đều còn nhớ việc Liên Xô cho đem thiết trí lọai hỏa tiễn tại Cuba nhằm hướng vào nước Mỹ, khiến xúyt gây nên cảnh chiến tranh giữa hai siêu cường Nga-Mỹ vào năm 1962, trước sự đối đầu nẩy lửa của hai lãnh tụ Kruschev và Kennedy.

Mà phía Mỹ, thì cũng tìm mọi cách can thiệp nhiều khi rất nặng tay tàn bạo, để bảo vệ toàn thể khu vực được gọi là“cái sân sau” (backyard) của riêng nước Mỹ; điển hình như có bàn tay của CIA trong việc lật đổ chế độ thiên tả của Tổng thống Salvador Allende tại Chi lê năm 1973. Rồi sau này vào thập niên 1980, thì phe Sandinista khuynh tả đã lên nắm được chánh quyền ở Nicaragua, với sự trợ giúp đắc lực của Cuba cộng sản cũng như của Liên Xô. Và chánh quyền Mỹ dười thời Tổng thống Reagan đã ra tay can thiệp mạnh bạo, để giúp phe đối lập Contras lập lại thế cờ tại đây. Đại khái đó là vài nét đại cương về ảnh hưởng của chiến tranh lạnh tại khu vực Châu Mỹ La tinh, từ hồi thập niên 1960 cho đến khi khối Liên Xô bị tan rã kể từ 1990.

B –  Sự nhập cuộc của Giáo hội công giáo La mã.

Về phía Thiên chúa giáo, thì do ảnh hưởng của tinh thần đổi mới của Công đồng Vatican 2, trong giới tu sĩ và giáo dân tại khu vực đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ trong sự nhận thức, cũng như trong hành động của Giáo hội công giáo. Điển hình như trường hợp của Tổng giám mục Helder Camara của Brazil; ông là người rát năng động trong việc phục vụ và tranh đấu cho khối đa số nghèo túng, đến nỗi bị chụp mủ là “vị giám mục đỏ” (the red bishop). Ông nói chua chát như sau : “Khi tôi cho người nghèo ăn, thì người ta gọi tôi là một ông thánh. Khi tôi hỏi tại sao người nghèo lại không có thực phẩm, thì người ta gọi tôi là một người cộng sản!” Giám mục Camara và cầu thủ Pele’ là hai người xứ Brazil mà được biết đến nhiều nhất trên thế giới.

Lại có trường hợp vị Giám mục cấp tiến Oscar Romero ở nước El Salvador, ông còn bị chánh quyền cho dùng tay chân ám sát, ngay giữa lúc ông  đang cử hành thánh lễ an táng cho bà mẹ của một người bạn vào năm 1980. Và đã có đến 250,000 người đến tham dự lễ an táng của vị mục tử kiên cường này, mà họ coi như là một vị thánh tử đạo (Martyr).

Cũng tại El Salvador, vào cuối năm 1980 đã xảy ra việc sát hại 4 nữ tu người Mỹ, do bàn tay của nhân viên công lực nhà nước. Sự kiện này đã gây sự phẫn nộ tột cùng của báo chí và công luận nước Mỹ, đến độ tạo thành áp lực buộc chánh phủ Mỹ phải có biện pháp răn đe mạnh mẽ đối với chánh quyền tàn bạo của El Salvador.

Cũng phải kể thêm về trường hợp của vị linh mục Camilo Torres ở nước Colombia, ông là một tu sĩ cấp tiến, được đào tạo tại đại học công giáo nổi tiếng Louvain bên nước Belgium ở Âu châu. Vì áp lực nặng nề từ phía chánh quyền Colombia, ông phải thóat ly theo hẳn phe du kích chống chánh phủ, và đã bị hạ sát vào năm 1966 trong một cuộc đụng độ với quân đội. Tên tuổi của Camilo Torres, cũng như của Che Guerava bị hạ sát năm 1967 tại Bolivia, thì đã trở thành một huyền thoại lôi cuốn giới trẻ trong toàn thể khu vực Châu Mỹ La tinh từ trên 40 năm nay.

Nhân tiện, cũng cần phải ghi lại cái thủ đọan cực kỳ độc ác là “làm mất tích” (disappearance), bằng cách thủ tiêu những người chống đối, mà cơ quan an ninh tại nhiều nước trong khu vực sử dụng, để đàn áp phong trào tranh đấu cho dân chủ tự do tại các nước này. Điển hình là tổ chức Các Bà Mẹ có con bị mất tích ở Argentina, đã liên tục trong nhiều năm tháng đến tụ hợp với nhau tại một quảng trường Plaza de Mayo trong thành phố thủ đô, để đòi hỏi chánh quyền phải cho công bố về các vụ mất tích này. Các tổ chức tranh đấu bảo vệ nhân quyền quốc tế như Hội Ân xá Quốc tế (Amnesty International) cũng đã thâu thập được khá nhiều chứng từ về các trường hợp “ người bị mất tích” (disappeared persons) tại nhiều quốc gia trong vùng, mà có nơi con số này lên tới nhiều ngàn người. Rõ ràng chế độ độc tài nào dù theo phe tả như cộng sản, hay theo phe hữu như chế độ quân phiệt, thì cũng đều tàn bạo độc ác như thế cả.

C – Nền Thần học Giải phóng.

Châu Mỹ La tinh này lại còn là nơi phát sinh một trào lưu tư tưởng đặc biệt sôi nổi sinh động, đó là nền “Thần học giải phóng”          ( Liberation Theology). Đó là cả một phong trào của các giáo sĩ và giáo dân phản ứng không khoan nhượng trước thực trạng xã hội đày rẫy bất công áp bức, bóc lột trong xã hội các quốc gia trong khu vực. Họ lục tìm trong Kinh thánh và trong Giáo huấn chân truyền của Giáo hội công giáo từ xưa nay, để xây dựng được một nhận thức đứng đắn, trung thực về vai trò dấn thân nhập cuộc của Giáo hội trong công trình giải thoát con người và xã hội khỏi các định chế chính trị xã hội hủ lậu, phản động và vô luân trong xã hội đương thời. Trừ một số nhỏ thiên về phía marxit cộng sản quá khích, còn đa số giáo sĩ và giáo dân đều giữ vững lập trường tranh đấu ôn hòa, bất bạo động của tôn giáo. Hệ thống tư tưởng tiến bộ này luôn được sự hưởng ứng của quần chúng giáo dân và giới chức sắc của giáo hội, mà tiêu biểu sáng ngời nhất là “Hội Đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh (CELAM = the Latin American Episcopal Conference). Dưới sự thôi thúc của những vị lãnh đạo năng nổ, nhiệt tình như Helder Camara, Hội Đồng này đã biểu quyết thông qua chủ trương rất tiến bộ là : “ Giáo hội phải dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo” ( Church’s Option for the Poor).

D – Vai trò của giới trí thức và văn nghệ sĩ.

Trong khi đó, thì giới hàn lâm đại học (Academia), cũng như giới văn nghệ sĩ, đều sôi nổi góp phần vào công cuộc dấn thân phục vụ xã hội, mà điển hình là sự đóng góp thật là vĩ đại của Paulo Freire với chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” như đã được trình bày rất khúc chiết trong cuốn “Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ đề cập chi tiết vế tư tưởng này trong một bài sau.

Cũng cần phải ghi thêm về ảnh hưởng của phong trào trí thức tả phái phát xuất từ Âu châu, đặc biệt là từ thập niên 1950, đối với tư tưởng và hành động của học giới và văn nghệ sĩ tại Châu Mỹ La tinh. Khuynh hướng “Bài Mỹ” (Anti-Americanism) từ Âu châu đã làm tăng thêm sự hậm hực, ân óan vốn có sẵn từ lâu đời đối với sự thống trị và khuynh lóat của chánh sách bá quyền (hegemony) của nước Mỹ đối với tòan thể các quốc gia và lãnh thổ yếu thế, mà lại bị chia rẽ, phân tán ở phía Nam bán cầu (hemisphere). Lâu lâu, người ta vẫn nghe thấy dân chúng tại đây hô thật to cái khẩu hiệu “Yankees, Go Home” (Người Mỹ, Hãy Cút Đi!) mỗi khi có phái đòan cao cấp của Mỹ đi qua một số thành phố lớn. Điển hình là vụ phản đối rầm rộ, đến độ xô xát bạo hành đối với Phó Tổng thống Nixon của Mỹ trong chuyến viếng thăm Nam Mỹ vào năm 1958.

Lại nữa, chánh phủ Mỹ vì luôn bênh vực che chở cho giới tài phiệt Mỹ làm ăn buôn bán khai thác tại các nước trong khu vực, nên đã cho thiết lập và ủng hộ các chánh quyền cực hữu, độc tài mà được đặt tên một cách mỉa mai là “Banana Republics”, vì chuyên làm tay sai cho các đại gia chuyên môn khai thác trồng chuối để xuất cảng về Mỹ, hoặc khai thác các nguồn lợi thiên nhiên khác, để thu về được một số lợi nhuận khổng lồ cho các tập đòan kinh tế có độc quyền khai thác, mà điển hình là United Fruit.

Trước tình trạng bất ổn căng thẳng như thế, ta không lạ gì với sự chống đối quyết liệt như của những lãnh tụ mới đây như Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela đối với nước Mỹ. Và qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về phản ứng dứt khóat và triệt để của giới trí thức như Paulo Freire trong bối cảnh chung của khu vực Châu Mỹ La tinh vậy./

( Bài 2 :  Giáo dục Giải phóng : Nội dung và Ảnh hưởng)

Ăn Trộm của huyện còn là chuyện nhỏ

Ăn Trộm của huyện còn là chuyện nhỏ

Nguyệt Quỳnh

19-07-2015

Trịnh Khả là bậc thái tể đứng đầu triều đình nhà Lê. Ông là người thẳng thắn, giữ phép nước rất nghiêm. Một hôm, viên quan giữ chức Chuyển vận Phó sứ của huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ. Việc ấy bị phát giác, ông muốn nghiêm trị nhưng các quan hai bên tả hữu đều một mực xin tha. Trịnh Khả cương quyết nói:

Ăn trộm của một nhà còn không thể nào tha, huống chi là ăn trộm của một huyện.

Nói xong, liền giao xuống cho các quan tra xét. Rốt cuộc, viên quan cấp huyện ấy bị xử tội phải chết. Các quan thời bấy giờ, trên dưới không ai là không sợ.

***

Thời Trịnh Khả không có những loại “bình quý” để chuột ẩn núp. Thời ấy ông bà ta sống đối diện với Trời với Đất, với quỷ thần trên hai vai. Người ta tin rằng có nhân quả, có kiếp trước, kiếp sau. Người ta nhắc nhau làm lành, lánh dữ vì cho rằng ở ác thì sẽ gặp quả báo, gian tham của kẻ khác thì sẽ bị trời phạt. Biết bao đời vua, không thiếu những vị quan làm đến chức tể tướng trong triều mà trong nhà vẫn thanh sạch.

Ngày nay, thể chế độc tài, độc đảng trong cơ chế thị trường định hướng của nước ta đã sản sinh ra nhiều “lợi ích nhóm”. Chuyện ăn cắp của một huyện còn là chuyện nhỏ và là chuyện rất “bình thường” ! Bộ máy nhà nước đang trở thành công cụ cho một nhóm người độc quyền kinh tế và độc quyền chính trị. Đến nỗi chính phủ đã phải huy động toàn xã hội tham gia phòng chống tham nhũng. Chỉ cần lược sơ qua các ban nghành được thành lập đủ thấy mức độ hệ trọng của nó: đứng đầu là Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng Trung ương thuộc Đảng CSVN, bên Chính phủ thì có Thanh tra Chính phủ do Tổng Thanh Tra chính phủ đứng đầu và hầu như tất cả các Bộ ngành, Uỷ Ban Nhân Dân đều có cơ quan phòng chống tham nhũng.

Thế mà theo Trace International, một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ; cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới thì Việt Nam đứng hạng 188 với 82/100 điểm, nằm lọt thỏm trong nhóm mười quốc gia tham nhũng nhất. Đó là chỉ số đo lường của một cơ quan bên ngoài, còn trong nhà thì sao? Về thành quả phòng chống tham nhũng, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nhấn mạnh rằng trên thực tế, trong tổng số bị can bị khởi tố về hành vi tham nhũng, các cán bộ cấp xã, phường chiếm tỷ lệ 30,9% còn cấp Trung ương chỉ chiếm rất ít chỉ có 0,3%.

Liếc sơ qua hai chỉ số trên, người ta biết ngay rằng những ổ chuột lớn đang được bảo vệ. Đại biểu Quốc Hội Lê Như Tiến xác nhận: “Phòng chống tham nhũng chỉ dừng lại ở việc bắt sâu nhỏ lá cành chứ chưa bắt được sâu lớn đục khoét thân cây gốc rễ. Đó mới là nguyên nhân chính làm suy kiệt nhựa sống của cơ thể xã hội”. Dẫu cho các quan chức ở thượng tầng có hô hào với đầy lòng quyết tâm và hàng trăm lời thề độc cũng sẽ chẳng làm được gì. Kế hoạch đã bế tắc ngay từ nguyên thuỷ vì người được giao trách vụ chống tham nhũng cũng chính là người bảo vệ tham nhũng, là người đã từng tham nhũng hoặc cũng đang ở trong các nhóm lợi ích.

Cấp huyện có thể ngang nhiên tham ô nhũng nhiễu được là vì có bao che, ăn chia với cấp tỉnh, cấp thành phố. Cấp tỉnh, cấp thành phố có ung dung được như vậy là do có sự thông đồng của cấp cao hơn nữa, cho đến cấp cao nhất… bởi thượng bất chánh hạ tắc loạn. Cứ xem dinh cơ của quan Trần Văn Truyền, chỉ mới ở cấp trung ương đảng, rồi đến cung điện của ông Nông Đức mạnh, Lê Khả Phiêu… thì biết, lương họ bao nhiêu? bổng ở đâu ra? Các hình ảnh tràn lan trên mạng cho thấy có cả ngà voi, trống đồng – tức là đồ quốc cấm – trong nhà riêng của họ. Đây mới là lý do tại sao cấp tỉnh, cấp huyện ăn cắp mà vẫn nhởn nhơ. Ai cũng bảo rằng những vụ được lôi ra chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Còn hằng hà sa số “các đồng chí chưa bị lộ”.

Tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, các cơ chế chống tham nhũng nhiều đến nỗi tưởng chừng như con ruồi bay qua không lọt, thế nhưng chưa bao giờ các cơ chế ấy phát hiện ra một vụ tham nhũng nào. Tại sao? Nhà báo Kim Quốc Hoa, Tổng biên tập báo Người Cao Tuổi chỉ vì lôi ra nhiều vụ tham nhũng và tha hoá thì bỗng dưng chính ông lại trở thành tội phạm. Bài báo “ Bàn về thị trường Sao Và Vạch” là giọt nước cuối cùng đưa ông vào chốn tù tội!

Sâu xa trong lòng mọi người VN, ai cũng muốn được sống trong một xã hội thượng tôn pháp luật. Không thiếu những cán bộ trong bộ máy công quyền ngày nay đã một thời hy sinh, một thời chấp nhận đổ xương máu để mong đem lại một đất nước tự do no ấm cho đồng bào mình. Tuy nhiên, sự im lặng ích kỷ đang đánh đồng họ với những kẻ cơ hội, gian dối, sách nhiễu và tham nhũng…

Ngày xưa khi đi vào chiến tranh, người ta không màng đến sống chết, không nghĩ đến bom đạn, hiểm nguy. Cái chết của đồng đội hay của chính bản thân được nhìn thấy trước mắt, hàng ngày, nơi cụm vườn, miếng ruộng, rừng cói, lạch nước… nhưng người ta không lùi bước vì người ta biết mình là ai, mình muốn gì, mình phải sống ra sao. Người ta gắn kết chính mình với quê hương và niềm tự hào dân tộc. Người ta gắn kết mật thiết với nhau bởi tình yêu nước, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với tổ quốc.

Ngày nay sự gắn kết đó bị gãy đổ. Lý tưởng, lòng nhiệt thành yêu nước bị đánh bạt trước bạo lực và sợ hãi. Cái xấu lên ngôi, kẻ xấu kéo theo bầy đàn. Người ta không còn dám tin vào điều thiện, không dám đứng lên chống lại cái xấu và cái ác, người ta làm ngơ trước những bất công, ngang trái. Đồng sự, ông A không thể đưa con mình ra bảo vệ biển đảo khi con ông B đang du học yên ấm ở xứ người. Các tướng tá quân đội không thể đẩy con mình ra chiến trường để bảo vệ đất nước, khi con của Thủ Tướng đương nhiệm đang làm chủ cả một khối tài sản khổng lồ ở Hoa Kỳ bao gồm cả một vận động trường trị giá lên đến hàng trăm triệu Mỹ Kim…

Và thế là tham nhũng nối tiếp tham nhũng, cầu sập kéo theo cầu sập. Từ Cầu treo Chùa Bung đến cầu treo Cái Bảng rồi đến Chu Va…người ta đành chấp nhận sống với những tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào do những công trình bị tham nhũng rút ruột. Những tuyến đường sắt chênh vênh mạng người như Cát linh – Hà Đông với chi phí đội vốn lên đến gấp đôi dự tính; thế mà cũng chỉ thấy đây đó phản ứng bằng những cái lắc đầu ngao ngán hoặc một tiếng than não lòng: “sao có thể đem tính mạng, của cải của dân ra đùa giởn?”

Các cán bộ nhà nước, giới trí thức, báo chí còn im lặng, còn cam chịu như thế; hỏi sao dân đen không bị chúng cho lưu manh dùng xe ủi đất cán lên người? Nhưng mối hoạ không chỉ dừng ở đó. Đức thánh cha Phanxicô bảo rằng: “Một xã hội tham nhũng thì như một xác chết đang thối rữa”.

Và sự thối rữa đó lây lan. Nó đang lan sang quân đội, lực lượng được coi là đứng đầu sóng ngọn gió để bảo vệ tổ quốc. Một bản tin gần đây cho hay bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Trị đã kê khai để thanh toán hàng tỷ đồng tiền xăng dầu nhưng chẳng hề đi tuần tra để hỗ trợ ngư dân. Thế là kẻ cướp cứ tha hồ đâm tàu, đuổi đánh, ức hiếp, cướp bóc ngư dân VN vì lực lượng vũ trang biên phòng chỉ đi tuần…trên giấy!

Tham nhũng tàn phá tất cả. Từ văn hoá, xã hội, đến con người và chính nó là nguy cơ dẫn đến mất chủ quyền đất nước. Tham nhũng đã mời Trung Cộng vào độc chiếm Tây Nguyên, cho phép kẻ thù đào đường hầm bí mật ở Hà Tĩnh, tự do làm bất cứ điều gì họ muốn ngay trên mảnh đất của tổ quốc! Nếu ngày xưa trong chiến tranh biên giới, nhân dân VN đã đổ máu để giành giật từng đường hầm, từng điểm cao ở Đồng Đăng, Móng Cái…thì ngày nay ta mở rộng cửa, mời đón họ vào đóng trụ ở những nơi hiểm yếu nhất. Nếu ngày xưa ta quan niệm rằng chính mình có thể bị huỷ diệt, nhưng đất nước này dân tộc này không thể bị huỷ diệt, thì ngày nay chỉ vì đồng tiền ta vất bỏ tất cả.

***

Trong cái tối tăm mịt mờ ấy, kẻ tối dạ nhất trong mỗi người dân chúng ta cũng biết rằng “tham nhũng chỉ chấm dứt khi đất nước có dân chủ”. Có điều vẫn còn rất nhiều người chưa biết là dân chủ sẽ có mặt khi nó đến từ quyết tâm của mỗi chúng ta. Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng hồi ức những ngày máu lửa vẫn còn nguyên đó. Sâu xa trong lòng, tôi vẫn tin đất nước sẽ là điểm nối kết cho người dân VN, bởi nỗi đau trong tim tôi cũng là nỗi đau trong tim anh. Không còn cách nào khác, đất nước chúng ta đã đụng đáy. Sự thay đổi phải đến từ chính mỗi chúng ta. Hãy chặn đứng tham nhũng ngay từ vị trí, chỗ đứng của mình. Khi chúng ta bắt tay hành động, môi trường chung quanh sẽ thay đổi, xã hội sẽ thay đổi và đất nước sẽ hồi sinh.

Đừng trông chờ nơi lãnh đạo CS, vô ích! Để bảo vệ được chế độ, chính họ đang chủ động sử dụng tham nhũng để duy trì sự trung thành của hàng ngũ cán bộ đảng viên. Cao hơn nữa, Trung Cộng đang dùng chính hàng ngũ lãnh đạo tham nhũng này để chiếm đoạt đất nước VN.

Trận chiến này Trung Cộng đang thắng thế. Chúng đã chẳng hề tốn chút xương máu gì; cái giá trả cho cuộc trường chinh của họ quá rẻ so với cuộc chiến tranh biên giới năm nào!