Tùy bút: Ơn Cho Người Ngoại Đạo

Tùy bút: Ơn Cho Người Ngoại Đạo

Trần Du Sinh

Trở về Châu Âu sau mười một năm kể từ ngày tốt nghiệp. Kỷ niệm một thời của du học sinh đến từ xứ xã hội chủ nghĩa với biết bao bỡ ngỡ khi tiếp xúc với văn minh và tự do Tây Bắc Âu vẫn còn nguyên.

ON NGOAI DAO

Lâu nay đi làm ở Hoa Kỳ nên thời gian đôi khi lại quý hơn cả tiền bạc, nên tôi “tranh thủ” về thăm lại cái nơi đã dạy tôi về sự tự do và trung lập trong tư tưởng, tránh văn hóa bầy đàn và tẩy đi nhiều tỳ vết trong não do bị nhồi từ khi vào lớp một ở Việt Nam.

Chuyến bay về lại Mỹ chỉ còn trống sáng mồng hai Tết, vì tôi mua vé vào giờ cuối nên không có nhiều chọn lựa. Tối mồng một Tết, tôi quyết định tới sân bay Munich ngủ lại qua đêm vì sợ nhỡ chuyến bay sớm về lại Mỹ. Cơ hội có một ghế ngồi trong vài chuyến kế tiếp sau khi dân tình ăn Tết xong là xa vời nên dù không được thoải mái nhưng tôi quyết định chợp mắt trong sân bay, vì không muốn bị nhỡ chuyến bay.

Tới phi trường khá trễ, mọi quán ăn trong khu nhà chờ đều đóng cửa. Thấy hơi khát nước nên tôi kéo lê vali tìm máy bán thức uống tự động. Đi lang thang trong sân bay vắng lặng ngay lúc giữa đêm, tôi bắt gặp ánh mắt của một bà cụ đang nhìn tôi chằm chằm nơi góc ghế ngồi chờ. Bà ngoắc tay ra dấu muốn nói chuyện với tôi.

Khi đang tiến gần tới tôi thấy một bà cụ nhìn rất giống Nữ Hoàng Anh nhưng ăn mặc cũ kỹ kiểu người ăn mày ngoài phố, chỉ khác là quần áo tuy cũ nhưng sạch sẽ. Bà lên tiếng muốn giúp đỡ, có lẽ nhìn tôi giống như đang đi lạc vì mắt dáo dác nhìn xung quanh. Tôi nói là mình khát nước và đang tìm cái gì để uống. Bà thò tay vào túi xách lấy ra một chai nước còn nguyên nắp rồi đưa cho tôi. Tôi ngỏ ý muốn mua lại nó nếu bà vẫn còn nước cho mình. Bà giơ chai nước khác còn khá đầy nên tôi yên tâm cầm lấy chai nước mới kia. Đồng thời tôi chìa bàn tay còn lại đưa ra một nhúm tiền lẻ Euro. Bà vui vẻ nhận lấy hai Euro. Rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

Tôi rất đỗi ngạc nhiên về kiến thức của bà. Bà nói về thảm hoạ Sóng Thần ở Nhật Bản và lũ lụt ở Châu Âu. Bà nói đó là sự giận dữ của Chúa. Có thể ai đó cho rằng bà bị tâm thần nhưng cách bà nói không phải như vậy. Bà ăn nói rất sắc sảo và thông điệp rõ ràng trong từng lời nói.

Tôi bắt đầu nghiêm túc lắng nghe hơn. Bà hỏi tôi từ đâu đến, tôi trả lời mình là người Việt sống ở Mỹ. Rồi bà nói về chủ nghĩa cộng sản và sự sụp đổ của bức tường Bá Linh. Và hậu quả của nó là bọn trộm cắp móc túi đến từ Đông Âu như Bungari hay Rumani len lỏi khắp Tây Âu. Và bọn giang hồ mafia, đĩ điếm đến từ Nga làm xấu đi hình ảnh các thành phố lớn và đạo đức ở các xã hội Tây Âu cũng suy đồi theo. Tôi không thể không đồng ý với bà sự sự tàn phá giá trị đạo đức Ki-tô giáo bởi chủ nghĩa cộng sản, và hậu quả là thế giới văn minh phải gánh chịu. Bà cụ còn nói thêm là “Chúa rất buồn lòng về chuyện này”.

Để tránh đi sâu vào vấn đề tôn giáo, tôi nói với bà là tôi không phải người có đạo Ki-tô giáo nhưng vẫn tin vào Chúa Trời. Tôi cũng giải thích là mình không có quyền lựa chọn nơi mình sanh ra và tôn giáo mình được nuôi dưỡng từ nhỏ.

Bà hỏi tôi ở Mỹ lâu chưa. Tôi trả lời là 11 năm. Bà tiếp lời nói: “Nước Mỹ từng là đất được ơn Chúa. Nhưng các chính trị gia đương thời đang đánh mất phước lành của Chúa.”

Đã đến giờ check-in. Tôi giã biệt bà để tới quầy gởi hành lý. Khi chuẩn bị bước qua cổng an ninh thì tôi mới nhớ là chai nước vẫn còn đầy, mà quy định sân bay lại không cho đem qua cổng an ninh. Tôi đứng tại chỗ ráng uống cho hết chai nước, rồi quyết định trở lại nói vài lời chia tay với bà mà không hiểu tại sao mình muốn làm vậy.

Tôi thấy bà đang nằm ngủ yên bình trên băng ghế chờ. Tôi tới gần ngỏ ý giúp bà một ít tiền. Bà ngồi dậy, mỉm cười nói: “Bình thường thì tôi không nhận bố thí. Tôi làm việc cho Chúa. Nhưng tôi sẽ nhận ơn phước của anh. Tôi sẽ cầu nguyện cho anh.”

Tôi tặng bà 20 Euro và nói lời giã biệt một lần nữa. Trước khi tôi rời bước, bà nói: “Một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp lại. Anh sẽ biết tôi ở đâu. Anh sẽ tìm tới tôi và cho tôi biết điều mới mẻ. Anh sẽ rất sáng suốt.”

Bước đi với một chút hoang mang, tôi tự hỏi mình, “Làm sao mà tôi có thể gặp lại bà lão nhìn trên 70 tuổi này ở Mỹ? Bà có thể đi xa được bao nhiêu, và sống bao lâu nữa?”

Đi xa được một chút, tôi lại băn khoăn tự hỏi mọi chuyện sao lại xảy ra trong ngày đầu tiên của năm mới, phải chăng đó là ơn cho người ngoại đạo như tôi?

Trần Du Sinh

Chuyến taxi cuối cùng của đời người

Chuyến taxi cuối cùng của đời người

Hai mươi năm trước đây, tôi lái xe tắc xi để kiếm sống.

Một đêm có người gọi xe ở khu chung cư vào lúc 2 giờ 30 sáng.

Tôi đến nơi, các dẫy nhà đều chìm lẫn trong bóng đêm ngoại trừ ánh sáng mù mờ từ khung của sổ kéo màn kín.

Trong trường hợp này, các người lái xe thường nhấn còi một hay hai lần và chờ khoảng một phút, nếu không thấy động tĩnh gì là họ lái xe đi….
Nhưng tôi cũng biết rất nhiều người nghèo không có xe cộ gì cả và tắc xi là phương tiện di chuyển duy nhất mà họ trông cậy trong những hoàn cảnh đặc biệt hay trong những giờ giấc bất thường…. Trừ khi linh cảm có gì nguy hiểm ngăn cản, tôi thường ra khỏi xe và đi đến tận cửa, tự nhủ biết đâu có người đang cần tôi giúp…
Nghĩ như thế tôi bước tới gõ cửa.
“Xin chờ một chút “ giọng nói rõ ràng là của một người già nhưng vẫn có phần trong trẻo và tôi có thể nghe tiếng của các vật dụng dường như đang bị kéo đi trên sàn nhà… Vài phút sau, cửa mở, một bà cụ khoảng 80 tuổi đứng ngay trước mặt tôi. Cụ mặc chiếc áo đầm dài in hoa, đội cái mũ trắng xinh xắn với giải lụa gài chung quanh, trông giống y như một người nào đó từ cuốn phim của những năm 1940 chợt bước ra, với chiếc va ly vải bên cạnh. Sau lưng cụ, căn phòng chung cư trống trải như quanh năm không có ai cư ngụ, tất cả bàn ghế đều được phủ kín bằng những tấm trải giường. Liếc nhìn qua vai cụ, không có bất kỳ vật dụng nào trên quầy trong bếp hay trên tường cả và sát chân tường trong góc phòng tôi có thể thấy mấy cái thùng giấy đầy những ly tách và khung ảnh sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp.
– Phiền ông mang giúp tôi cái va ly này ra xe..
Tôi đem chiếc va ly cất ở thùng xe phía sau và quay trở lại giúp bà cụ. Cụ nắm cánh tay tôi và từng bước một, tôi dìu cụ xuống đường hướng về chiếc xe… Cụ luôn miệng nói cám ơn…. “Không có chi, thưa cụ“ tôi nói, “cháu coi những người lớn tuổi như là mẹ của cháu vậy… ” Cụ trả lời: “Ông tử tế lắm…. ”
Sau khi giúp cụ yên ấm trên băng ghế sau, tội ngồi vào ghế lái và nổ máy xe. Cụ đưa cho tôi tờ giấy ghi địa chỉ nơi cụ muốn đến và hỏi tôi, rất nhỏ nhẹ:
– Ông có thể chạy ngang qua dưới phố cho tôi một chút không…
Liếc mắt vào tờ giấy ghì địa chỉ, tôi buột miệng:
– Nếu lái xuống phố thì đường xa hơn và lâu hơn nhiều….
– Cứ thong thả, ông à, không có gì vội vã cả, Tôi trên đường tới hospice (nhà dành cho những người sắp từ giã cuôc sống) thôi…
Tôi ngước mắt nhìn, qua tấm gương chiếu hậu, đôi mắt cụ long lanh trong bóng tối.
– Tôi không còn ai thân thích trên cõi đời này, và bác sĩ đã nói tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, hai hay ba tuần là nhiều….
Với tay tắt cái máy ghi khoảng cách và tính tiền, tôi hỏi một cách lặng lẽ:
– Thưa cụ muốn đi qua đường nào trước……
Trong hơn hai giờ kế tiếp, chúng tôi hầu như đi lanh quanh qua từng con đường trong các khu phố. Cụ chỉ cho tôi toà nhà nhiều tầng mà một thời cụ đã làm người điều khiển thang máy. Tôi lái xe qua một khu phố với những căn nhà nhỏ đã cũ nhưng xinh xắn, cụ nói với tôi ngày trước khi mới lập gia đình cụ đã ở trong khu này, và chỉ cho tôi căn nhà loang loáng dưới ánh đèn đêm…. Nhìn ánh mắt lưu luyến của cụ, tôi như thấy một trời quá khứ thương yêu đằm thắm của đôi vợ chồng trẻ.
Cụ ra hiệu cho tôi ngừng xe trước nhà kho của cửa tiệm bán giường tủ, bàn ghế, nhẹ nhàng bảo tôi trước đây chỗ này là một vũ trường sang trọng và nổi tiếng, cụ đã từng hãnh diện đến đây khiêu vũ lần đầu khi là một thiếu nữ mười sáu tuổi… Trong giọng nói cụ tôi thấy thấp thoáng hình ảnh một thiếu nữ trẻ trung sáng ngời với bộ dạ phục xinh đẹp và nụ cười tươi tắn hân hoan….. Đôi khi, cụ bảo tôi đậu xe trước một toà nhà nào đó hay ở một góc phố khuất nẻo không tên…. và cụ im lặng thẫn thờ trong bóng tối như đắm chìm với cả một dĩ vãng xa xăm bao la và sâu thẳm….
Khi trời chập choạng trong ánh sáng đầu tiên của ban ngày, cụ nói với tôi khẽ khàng như một hơi thở nhẹ: – Thôi, mình đi…
Tôi lái xe trong im lặng đến khu nhà hospice. Đó là một dẫy nhà thấp, kín đáo, ngăn nắp và gọn gàng. Tôi vừa ngừng xe là đã có hai người xuất hiện với chiếc xe lăn như là họ đã chờ đợi từ lâu rồi. Tôi bước xuống mở thùng xe phía sau để lấy chiếc va ly nhỏ của cụ mang tới để ngay cửa chính, xong quay trở ra đã thấy cụ đã được đỡ ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn.
– Bao nhiêu tiền vậy cháu?
Cụ vừa hỏi vừa mở cái bóp nhỏ… “Cháu không lấy tiền bác đâu.. ” tôi trả lời.
– Nhưng cháu phải kiếm sống chứ…
– Đã có những khách hàng khác, thưa bác…
Gần như không tính toán so đo, tôi cúi xuống ôm lấy bờ vai cụ. Đáp lại, cụ ôm tôi thật chặt:
– Cám ơn cháu đã cho cụ già này khoảng thời gian thật quý giá và đầy ý nghĩa.
Tôi xiết chặt tay cụ và quay bước đi trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày mới đến. Sau lưng tôi có tiếng cửa đóng. Tôi cảm thấy như cả một cuộc đời vừa được khép lại phiá sau.
Tôi không có thêm người khách nào khác trong buổi sáng đó. Tôi chạy xe lanh quanh không có mục đích và dường như tôi cũng chẳng biết mình đi đâu nữa… Suốt cả ngày hầu như tôi không thể nói được với ai lời nào cả…. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu cụ già gặp phải một người tài xế đang ở cuối buổi làm, nóng nẩy chỉ muốn chóng xong việc để còn về nhà… Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu tôi từ chối không nhận đón người khách là cụ hay tôi không bước xuống gõ cửa mà chỉ ngồi trên xe nhận kèn một lần rồi lái xe đi….
Tự nhiên nghiệm trong quãng đời trẻ trung ngắn ngủi của mình, dường như là tôi chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa hơn là chuyện tôi đã làm trong buổi sáng hôm ấy.
Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng cuộc đời sẽ có những khúc quanh quan trọng, đánh dấu bằng những sự việc to lớn, dễ dàng ghi nhớ… Nhưng thật ra, đẹp nhất vẫn là những phút giây nhỏ bé bất ngờ nhưng có xúc cảm mãnh liệt khiến ta phải bàng hoàng đến tê dại cả tâm hồn…

Xin chia xẻ câu chuyện nhỏ này với các bạn, hy vọng vì thế cuộc đời chung quanh chúng ta sẽ ấm cúng và có ý nghĩa hơn.
Vô Danh

Vết thương không bao giờ lành!

Vết thương không bao giờ lành!

NGUYỄN DUY-AN

Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.

Bài viết của ông mang theo một thông tin đặc biệt: Truyền hình National Geographic chiếu phim ‘Inside the Vietnam War’ nhân kỷ niệm 40 năm trận chiến Mậu Thân.
image

Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
– Duy à… Có chuyện rồi! Đại uý Morrow cần gặp riêng Duy. Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và buớc nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay đại uý Morrow vừa hỏi:
– Mời đại uý ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
– Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 nguời ‘homeless’ cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng duợc. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những người này có vẻ không đàng hoàng… nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.
– Ồ… Đó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West dó mà. Anh ta đàng hoàng lắm. Không sao đâu. Để tôi xuống gặp họ.

image

– Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ ‘ngầu’ lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và ‘càm ràm’ với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt  Nam mắc bệnh tâm thần… Anh tính sao?
– Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào ‘cafeteria’ uống ly nước, chắc không sao chứ?
– Cũng được, nhung cẩn thận vẫn hơn. Để tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở ‘cafeteria’. Anh không ngại chứ?
– Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với đại uý Morrow xuống nhà gặp ‘khách’, tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.
Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường sá ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn nên thường đi làm bằng xe ‘Metro’. Một buổi sáng Thứ Sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con truớc ngày tựu truờng. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang ‘rên rỉ’ bài Hạ Trắng:

image

Gọi nắng… trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say
Lối em đi về… trời không có mây
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy…

Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ ‘homeless’ đang ‘ngất ngưởng’ thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh… Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt  Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
– Mày Việt  Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?
– Đương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
– Đại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhưng khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt  Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.
– Ông…
– Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao?

– Tôi không quen gọi nguời lạ như thế. Hay gọi nhau là ‘anh tôi’ được không?
– Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?
Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.

– Tôi sẽ trở lại truớc 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.

-Mày không sợ hả?
-Sợ gì?
-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.

– Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
– Đi đi. Hẹn gặp lại.

image

Tôi đã trở lại gặp  Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành ‘bạn’ từ dạo dó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay  Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.
Tôi chỉ sợ  Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở ‘hạch hỏi’. Đã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial).

image

Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt  Nam của chúng ta.
Vừa gặp mặt,  Norman siết chặt tay tôi cuời lớn, rồi lên giọng:
– Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám ‘cớm dổm’ ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
– Đây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là người Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân ‘homeless’ của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
– Mời các bạn xuống ‘cafeteria’ uống nuớc và nói chuyện.
– Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
– Không sao đâu. Tuy nhiên,  Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cuời ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
– Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Đúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt ‘một ông già Bắc kỳ’ thứ thiệt.

image

Chúng tôi vui vẻ buớc vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng truớc bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những nguời đang có mặt trong ‘cafeteria’ sáng hôm dó. Vừa ngồi xuống bàn,  Norman vội vàng lên tiếng:
– Để khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có ‘preview’ cuộn phim ‘Inside the Vietnam War’ truớc khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Đúng không?
-Đúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
– Đài của tụi mày chỉ có trên ‘Cable’ và ‘Direct-TV’. Dân ‘homeless’ tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé ‘preview’ mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Được không?
– Chắc được. Mấy lần truớc tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
– Lần này khác… vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.

image

Để giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người ‘bạn’ cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang ‘Explorer Hall’ cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội truờng chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé ‘preview’, tôi đã liên lạc nhờ mấy người trong nhóm ‘Audio & Video’ của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội truờng, tránh xa những vị ‘tai to mặt lớn’ trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.
Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng siết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi người.

Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội truờng. Ba người bạn của tôi vẫn ‘án binh bất động’ dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc… trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị ‘dân Mỹ’ và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài người chung quanh cùng khóc theo!

image

Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Đèn hội truờng bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những nguời chung quanh rồi vội vàng ‘kéo’ ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót ‘khật khưỡng’ bước theo tôi như ba cái xác không hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu ‘Inside the VietNam War’ nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh ‘homeless’ đã cùng tôi đi xem ‘preview’ hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.
Có lẽ đã tới lúc người Mỹ nhận thức được ‘món nợ phải trả’ cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt  Nam.

image

Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt  Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?

image

NGUYỄN DUY-AN

Vẫn Chỉ Là Một Lời Hứa Suông

Vẫn Chỉ Là Một Lời Hứa Suông

Phan Hạnh

Mỗi năm cứ vào dịp cận Tết ta, tôi hay vương vấn một nỗi buồn thầm kín khi một số người thân quen quanh tôi chộn rộn sửa soạn lên đường về quê nhà Việt Nam để đón chào năm mới và vui xuân với họ hàng thân thuộc. Và như thông lệ, tôi nhờ họ mang về cho thân nhân chúng tôi một món tiền lì xì nho nhỏ. Kèm những lời cám ơn của thân nhân sau đó là thắc mắc bao giờ tôi về thăm. Và đã bốn mươi năm qua, câu trả lời của tôi vẫn chỉ là một lời hứa suông. Tâm hồn tôi vương vấn mãi một nỗi buồn là vì lẽ đó.

Năm 1991, đầu niên học mới vào Tháng Chín, tôi bỏ tiền túi ghi danh theo học hai khóa Anh ngữ Dự Bị Ðại Học và viết văn sáng tác (Creative Writing) tại Trường Cao Ðẳng Centennial College, trụ sở Warden Woods (Warden Woods campus). Tôi học part-time lớp đêm mỗi tuần hai buổi tối Thứ Ba và Thứ Năm từ 7 giờ đến 10 giờ vì ban ngày còn phải đi cày kiếm cơm.

Năm ấy tôi đã trên 47 tuổi, đầu óc nhụt cùn với lo toan bận bịu, không còn bén nhạy như thời còn trai trẻ, vậy mà tôi cũng liều cắp sách đến trường. Hơn nữa, công việc làm kiếm cơm của tôi, một người thợ trưởng cho một nhà in, không đòi hỏi khả năng viết lách chi nhiều ngoài những báo cáo công tác và báo cáo bảo trì định kỳ. Như vậy, tôi học những khóa học này để làm gì? Lý do sâu xa là tôi muốn chuộc lại lỗi lầm của tuổi thơ ham chơi và lười học. Tôi muốn tự bắt mình phải đi học lại như là để trả một món nợ tôi còn thiếu chính mình.

Bài tập giáo sư đưa ra cho sinh viên thường là những đề tài chỉ định sẵn sau khi đã học qua trong lớp một truyện ngắn hoặc một tùy bút của một tác giả Anh Mỹ nào đó. Sinh viên phải viết phần giải thích, phân tích, nhận định và phê bình tác phẩm vừa học. Dĩ nhiên tôi rất sợ những bài tập kiểu nầy. Nhiều khi tôi chỉ bình loạn vì không nắm vững đề tài.

Nhưng cũng có những bài tập với đề tài do thí sinh tự chọn. Và đối với tôi, không gì thoải mái bằng viết những gì mình biết, nhất là điều mình viết ra chính là những kinh nghiệm của bản thân. Tôi viết và nạp bài đúng hạn. Thuở ấy, giá tiền một máy điện toán còn đắt lắm. Tôi mua một cái máy Apple MacIntosh II với bộ nhớ chỉ có 8 megabites đã dùng rồi mà cũng mất toi ba ngàn đồng.

Các bài tập với đề tài tự chọn của tôi đều được điểm cao và được giáo sư phụ trách đích thân khen ngợi, không phải vì văn của tôi viết hay, nếu không muốn nói là còn dở lắm, nhưng vì những câu chuyện tôi kể đó rất xa lạ và thương tâm, dĩ nhiên chỉ đối với vị giáo sư người Canada chưa hề sống ở Việt Nam bao giờ đó. Bà ngỏ ý đề nghị hãy cho đăng một số bài viết của tôi lên hai tờ báo nội san của trường là tờ “The Oracle” và tờ “The Siren”. Tôi sợ quá, lắc đầu. Hai hôm sau, một cô chủ bút đến lớp xin gặp tôi. Chẳng biết nghe cô nói êm tai thế nào mà tôi ưng thuận đưa các bài viết cho cô.

Tôi xin dịch lại một bài có tựa đề “One Day I Shall Return: My Naked Lie” đăng trên báo “The Siren” ngày Thứ Ba 12 Tháng Mười Một, 1991 như sau:

LOI HUA SUONG

Một Ngày Kia Con Sẽ Về”, Lời Nói Dối Trân Tráo Của Tôi…”

Khi tôi rời quê mẹ ra đi mười sáu năm trước đây, tôi không nghĩ là sẽ gặp lại cha tôi bao giờ nữa. Cách nửa vòng trái đất, tại một trong những nước nghèo nhất thế giới, cha tôi đang hấp hối vì một chứng bệnh ngặt nghèo với một nỗi muộn phiền day dứt và ông đang thầm thì trăn trối lời nguyện ước cuối cùng được nhìn tận mặt lại đứa con trai đầu lòng trước khi từ giã kiếp sống khốn cùng hiện tại.

Còn tôi ở Canada, lòng hối hận đau xé vì đã hứa với cha một lời mà tôi biết tôi không bao giờ có thể thực hiện. “Một ngày kia con sẽ về”, tôi lập đi lập lại trong những bức thư tôi viết cho cha tôi. Nhưng làm sao tôi có thể trở về Việt Nam khi mà chính quyền Cộng sản ở đấy vẫn còn áp bức người dân bằng sự cai trị khắc nghiệt của họ.

Hiện giờ cha tôi có thể đang chờ chết, nhưng một nửa hồn tôi đã chết kể từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, ngày mà quân đội Cộng sản từ phương Bắc rầm rộ bước vào Saigon, thủ đô của một quốc gia độc lập ở miền Nam với tên gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Sự kiện này đã kết thúc cuộc chiến được tranh cãi gay gắt nhất, cay đắng nhất đã kéo dài hơn hai mươi năm và giết đi hàng nhiều triệu người từ cả hai bên chiến tuyến.

Tôi còn sống sau chiến tranh. Tôi thoát khỏi hỏa ngục đỏ của “Ngày Tận Thế”, cách gọi của tôi ngày định mệnh đó theo tựa đề một cuốn phim nói về khía cạnh tàn nhẫn và xấu xa của cuộc chiến Việt Nam.

Phải, tôi là một trong những kẻ may mắn trong khi cha mẹ tôi, những thân nhân trong gia đình tôi và bạn bè đồng đội tôi không được may mắn như thế. Họ đã trở thành nạn nhân của một chế độ bất nhân man rợ và một chủ thuyết cuồng tín điên rồ.

Tôi đã từng nghe kể nhiều mẫu chuyện quặn lòng về những người tôi thương mến. Có người tự kết liễu đời mình. Họ cảm thấy thà chết còn hơn là sống chung với Cộng sản. Có người cố tìm cách trốn đi bằng những con thuyền mong manh. Có người trong số họ đến được bến bờ tự do. Có người bỏ thây nơi biển cả. Hành trình di cư của những người tìm tự do chưa hề dứt trong mười sáu năm qua. Bức màn sắt không giam hãm được ý chí của con người.

Tôi là một người di tản được Canada chấp nhận cho tị nạn chính trị. Tôi không muốn phản bội lý tưởng chính đáng của những người tị nạn khác bằng hành động về thăm Việt Nam Cộng sản, một chế độ mà tôi e ngại có thể sẽ hành hạ ngược đãi tôi như là một kẻ cựu thù.

Ngày kỷ niệm Tháng Tư Ðen năm nay rơi vào ngày Thứ Ba, một ngày mà tôi phải làm việc. Ðối với phần lớn người dân Canada, ngày đó cũng như bất cứ ngày nào khác. Ngày hôm đó tôi đi làm với một huy hiệu gắn trên ngực áo nơi tim. Biểu tượng đó rất đơn giản là ba sọc đỏ trên nền vàng. Ðó là màu quốc kỳ của quê hương đánh mất của chúng tôi; và chúng tôi sẽ không bao giờ quên màu cờ đó. Cũng giống như hoa poppy người Canada mang trong ngày tưởng niệm Chiến Sĩ Trận Vong, nó nhắc nhở cho tôi tưởng niệm những anh hùng gục ngã đã chết cho quê hương tôi.

Khi nghĩ đến những gì đã xảy ra cho Việt Nam, tôi cảm thấy như có một vết thương cắt sâu trong tim tôi không bao giờ lành. Tôi luôn để tang trong ngày tưởng niệm ấy với những ý nghĩ thương tiếc và buồn đau chờn vờn trong tâm trí. Năm nay tôi nằm thức trong đêm đen tĩnh lặng như một sự kinh cầu cho cố quốc.

Năm nay nỗi đau buồn của tôi dường như có phần quặn thắt hơn vì một bức thư đặc biệt. Trở về nhà hôm đó sau một ngày làm việc và nhận được một bức thư dài của em gái tôi tiết lộ cho tôi biết lý do tại sao cha tôi không viết thư cho tôi trong thời gian gần đây. Cô ấy nói mắt của cha tôi đã mờ, bệnh viêm khớp của ông tệ hại hơn và ông rất xuống tinh thần vì làm gánh nặng của thân nhân.

Tôi có thể nhớ nét chữ viết của cha tôi rất uốn nắn đẹp đẽ; điều đó chứng tỏ ông rất cẩn trọng với những gì ông viết cho tôi, gián tiếp cho thấy ông quan tâm đến tôi biết chừng nào. Ông đối xử với tôi như một người ngang hàng, một người bạn trao đổi thư tín với nhau. Ông kèm theo thư các bài thơ của ông sáng tác, và ít khi ông đòi hỏi ở tôi một điều ân huệ gì. Ông cũng chẳng bao giờ nói trắng ra là ông thương tôi.

Phần nhiều những bức thư của ông chuyên chở thông điệp của những giá trị luân lý, đức hạnh đáng quí trọng, những bài học của trí khôn ngoan, lòng từ bi và bác ái. Tôi để ý càng về già ông càng thuận theo giáo lý của nhà Phật. Ông đơn giản hóa nhu cầu vật chất, đồng thời trau giồi các hoạt động tâm linh. Tôi biết đó là dấu hiệu của sự chuẩn bị sẵn sàng để từ giã cõi thế gian này.

Em gái tôi giải thích thêm là cha tôi đã phản ứng như thế nào về cuốn băng thu hình mà tôi đã gởi về tháng trước đó. Tôi và con trai tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để làm ra một cuốn video nói về gia đình tôi ở Toronto. Em gái tôi nói cha tôi khóc nức nở khi ông nghe giọng nói của tôi. Cô ấy viết, “Trông thấy hình ảnh anh di động trên màn ảnh và tiếng nói của anh là một trải nghiệm khốn khổ cho một người già yếu như Ba. Và ngay sau đó thì mọi người khóc theo…”. Bức thư kết thúc bằng giòng chữ là, “Ba sợ là sẽ không bao giờ thấy lại anh bằng xương bằng thịt nữa trước khi Ba nhắm mắt; và điều đó thật quá đau lòng cho Ba lắm đó anh….”

Ðối với tôi thì nào có khác gì. Lời hứa thối thác của tôi là sẽ về cứ lập đi lập lại mãi nên nó đã trở thành đồng nghĩa với một lời nói dối trắng trợn làm tan nát lòng tôi.

Tôi hy vọng có một ngày tôi trở về quê nhà dù chỉ để chết giống như loài cá hồi lội ngược suối nguồn để về nơi sinh ra trong ngày cuối Tháng Tư. Trong khi chờ đến ngày ấy, trả lời thư em gái, tôi viết,”Một ngày kia anh sễ về”, mặc dù tôi biết đó vẫn chỉ là một lời hứa suông thôi.”

Bài báo chấm dứt ở đấy. Ðáng lẽ tôi cũng có thể chấm dứt câu chuyện ở đây vì thật tình ngồi gõ lại những dòng chữ này, tôi không khỏi cảm thấy rung động trong lòng. Nhưng tôi lại muốn viết thêm về vài biến cố quan trọng xảy ra từ năm ấy cho đến nay. Thêm ba mươi năm nữa đã trôi qua rồi còn gì. Khoảng thời gian dài đó mang theo biết bao thăng trầm đổi thay với một lần đổi việc làm, hai lần dọn nhà và ba lần mua máy điện toán khác.

Cha tôi kéo dài thêm cuộc sống trong đau bệnh được hơn một năm mới vĩnh viễn ra đi. Mấy năm sau nữa, em gái tôi được gia đình bên chồng bảo lãnh sang Mỹ. Những tưởng đâu cô ấy được ấm êm với cuộc đời mới nơi xứ người, nào ngờ lễ tuyên thệ vào công dân phải được đặc biệt tổ chức trang nghiêm trong phòng bệnh của em tôi trong bệnh viện. Tôi không bao giờ có thể quên hình ảnh em tôi với cái đầu cạo trọc vẫn ngồi trên giường bệnh gắng gượng đưa cánh tay mặt lên tuyên thệ trung thành với đất nước mới đã cưu mang em. Chỉ vài ngày sau, em tôi đầu hàng định mệnh và ra đi vì chứng bệnh ung thư quái ác.

Có lẽ nỗi khổ đau đớn nhất của tôi là phải giấu tin em mất với mẹ tôi trong mấy năm liền. Mỗi lần phải gọi điện thoại về Saigon thăm mẹ, tôi chỉ nói qua loa vắn tắt được mấy câu rồi chuyền máy cho vợ tôi. Tôi sợ rằng tôi không thể nói dối được nữa. Mẹ tôi hỏi sau lâu quá mà không thấy em tôi gọi về. Mọi người giấu quanh, cố tìm đủ mọi lý do để dối gạt mẹ tôi vì sức khoẻ của bà cũng đã suy yếu vì tuổi già lại thêm bệnh tật. Vợ tôi và em rể tôi đều là những người bình tĩnh hơn tôi nên đã giữ được bí mật khá lâu.

Thế rồi một lần tôi gọi về, mẹ tôi hỏi, “Em con nó chết lâu rồi phải hôn?”. Chúng tôi ngẩn ngơ. Bà tiếp lời, “Bấy lâu nay Má cứ nằm chiêm bao thấy nó hoài…”

Cha tôi mất, em gái tôi mất, rồi Má tôi cũng đã từ giã cuộc đời. Về gặp lại cha mẹ và quê cũ mãi mãi vẫn chỉ là một lời hứa suông cho đến ngày tôi nhắm mắt. Và ngày ấy chắc cũng không xa…

Phan Hạnh.

CHÍNH LÚC CHO ĐI LÀ LÚC ĐƯỢC NHẬN LÃNH

CHÍNH LÚC CHO ĐI LÀ LÚC ĐƯỢC NHẬN LÃNH

CHO DIMột cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng: “Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác?”

Người chủ cửa hàng trả lời: “Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!”

Cậu bé rụt rè nói: “Cháu có thể xem chúng được không ạ?”

Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp, hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi: “Con chó này bị sao vậy bác?”

Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời. Nghe thế, cậu bé tỏ ra xúc động: “Đó chính là con chó cháu muốn mua”.

CON CHO 1

Chủ cửa hàng nói: “Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết cháu sẽ không muốn mua nó đâu”.

Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói: “Cháu không muốn bác tặng nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả bác 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả dần 50 xu được không ạ?”

“Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó”, người chủ cửa hàng khuyên. “Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa như những con chó khác được đâu.”

Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái tật nguyền, cong vẹo được đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và khẽ bảo: “Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà, và chú chó con này sẽ cần một ai đó hiểu và chơi với nó.”

Dan Clark

Chuyện tiếp theo…
                    Cậu bé và con chó nhỏ

Cậu bé, với chiếc chân trái phải mang khung thép trong suốt bốn tháng qua, về đến nhà, trên tay ôm một chú cún con. Chú cún này bị tật ở xương hông, nên chỉ có thể đi được những bước khập khiễng.

Việc cậu bé chọn mua một chú cún bị tật khiến bố mẹ cậu vừa ngạc nhiên, vừa xót xa vì thương cảm. Nhưng điều khiến họ ngạc nhiên hơn nữa, đó là từ ngày có người bạn mới, cậu bé như trở thành một con người khác, lúc nào cũng tươi vui, tràn đầy hy vọng.

Ngay từ ngày đầu tiên đón chú cún về nhà, cậu bé đã cùng mẹ đến gặp bác sĩ thú y để tìm ra cách chữa trị tốt nhất cho cún con. Bác sĩ khuyên rằng, nếu cậu bé chịu khó xoa bóp, kéo căng chân cún đều đặn mỗi sáng và dắt chú đi dạo ít nhất một dặm mỗi ngày thì các cơ xung quanh chiếc hông bị vẹo của cún con sẽ dần trở nên mạnh khỏe. Cơ may trở lại bình thường của cún con là hoàn toàn có thể và tùy thuộc rất nhiều ở cậu bé.

Mặc dù chú cún cứ rên rỉ khó chịu mỗi lần cậu bé xoa bóp chân cho chú, và dù cậu luôn cảm thấy chân trái đau nhức mỗi khi dẫn cún đi dạo, nhưng trong suốt hai tháng trời, cả hai đã nghiêm túc tập luyện theo chế độ phục hồi dành riêng cho họ. Vào tháng thứ ba, cả hai đã có thể đi được ba dặm mỗi sáng trước khi cậu bé đến trường mà không hề cảm thấy đau chân tí nào.

Vào một sáng thứ bảy, khi cả hai đang trên đường trở về sau buổi tập như thường lệ, thì bất thình lình, một chú mèo nhảy ra khỏi bụi cây bên đường khiến cún con hết sức hoảng hốt. Chú nhảy chồm lên, giật tung dây xích ra khỏi cổ rồi phóng như tên bắn ra giữa dòng xe cộ. Cún con va phải một chiếc ô tô, bị hất tung lên vệ đường. May mắn thay, chú chó vẫn còn thoi thóp thở. Ghì chặt người bạn nhỏ yêu thương vào lòng, cậu bé đi nhanh về nhà, không để ý thấy khung thép bên chân trái của mình đã boong ra tự lúc nào.

Mẹ cậu tất tả đưa chú chó đến viện thú y. Trong khi cậu bé đang lo lắng chờ đợi bên ngoài, mẹ cậu ôm cậu vào lòng, nghẹn ngào nói trong nước mắt:

– Con không để ý thấy điều gì ư? Con đã có thể đi lại bình thường được rồi đấy!

– Sao lại như vậy được hả mẹ? – Cậu bé ngạc nhiên.

– Con trai của mẹ, con bị viêm tủy xương – Người mẹ giải thích. – Căn bệnh này khiến chân con ngày càng yếu, nhưng nó không thực sự là một căn bệnh nan y nếu con quyết tâm vượt qua nỗi đau đớn và tích cực tập luyện hàng ngày. Con biết điều ấy, nhưng con lại không tin vào chính mình. Con luôn chống cự không để bố mẹ giúp con điều trị, cả bố và mẹ cũng thực sự không biết mình nên làm gì nữa. Nhưng chú cún con đã làm thay đổi mọi thứ. Kỳ diệu thay, khi con giúp chú chó, con cũng đang tự giúp chính mình để trở nên mạnh mẽ và trưởng thành hơn.

Ngay lúc đó, cánh cửa phòng mổ hé mở. Bác sĩ thú y bước ra tươi cười thông báo:

– Cháu có thể yên tâm, chú chó của cháu sẽ sớm khỏe lại thôi!

Chuyện xảy ra ngày hôm đó đã để lại trong cậu bé một bài học sâu sắc, đó là khi cho đi cũng chính là lúc chúng ta nhận được; lúc quên mình là lúc chúng ta tạo nên những điều kỳ diệu của cuộc sống.

Anh chị Thụ Mai & gởi

TIẾNG SÁO

 TIẾNG SÁO 

Phạm Tín An Ninh

Riêng tặng Hồ Ngọc…

(Lời thưa của tác giả:  Tác giả thành thật xin tạ lỗi, nếu bài viết đã chạm đến vết thương của một số người, mà thời gian hơn 35 năm chưa hẳn đã lành được. Viết truyện này, tác giả chỉ muốn nói lên một góc khuất trong giai đoạn lịch sử bi thương nhất của dân tộc, với lòng thương cảm và tội nghiệp cho những người đàn bà sau cuộc đổi đời nghiệt ngã, và trân trọng ngợi ca lòng vị tha, bao dung của những người chồng bất hạnh, mà Hồ Ngọc, nhân vật trong truyện, là một điễn hình.)
Tôi đến thăm Cali vào những ngày mưa, mưa tầm tã. Đài phát thanh Little Saigon, trong chương trình dự báo thời tiết, cho biết cả tiểu bang Cali đang bị ảnh hưởng một cơn bão nhiệt đới. Nằm nhà người bạn cùng đơn vị xưa ở thành phố Garden Grove, trong khu Little Saigon, cả ngày hai thằng thi nhau kể chuyện chiến trường, chuyện bạn bè, tù tội, làm cho những cơn mưa như càng dài ra thêm.

Anh bạn rủ tôi ra Hội Trường Nhật Báo Viễn Đông tham dự buổi ra mắt sách của một nhà văn nữ. Anh tỏ ra am tường về mọi thứ chuyện, bảo ở hải ngoại thời buổi này văn chương chữ nghĩa rẻ như bèo, mà nhà văn nhà thơ thì cứ mọc lên như nấm. Đúng là người Việt nam nào cũng có đầy thơ văn trong bụng. Nhưng nhà văn hôm nay là người quen, một cô bạn học cũ, sau này anh bất ngờ gặp lại khi cô đang làm phóng viên chiến trường, nên tới để cho cô ấy vui.

Chúng tôi đến trễ, may mà còn mấy chiếc ghế trống phía sau để không phải đứng. Trên sân khấu, một diễn giả, dường như cũng là một nhà văn lão thành có tiếng tăm, đang giới thiệu tác giả và tác phẩm.

Lại thêm một tác phẩm nữa về chiến tranh! Cuộc chiến chấm dứt đã hơn 30 năm, nhưng bao nhiêu nỗi oan khiên dường như vẫn còn nguyên trong lòng người tha phương, như những vết thương không bao giờ lành được.

Người MC rất khéo léo, khi muốn tạo một không khí gây nhiều cảm xúc trước khi nhân vật chính, nhà văn nữ, lên trình diện và tâm tình vài lời cùng cử tọa, nên chương trình được nối tiếp bằng tiết mục ngâm thơ. Bài thơ Ta Về của nhà thơ Tô Thùy Yên được diễn ngâm bằng giọng rất truyền cảm của nữ sĩ Bích Loan. Cá nhân tôi cũng rất thích bài thơ Ta Về này. Bài thơ hay mà tác giả lại là người bạn cùng tù mà tôi rất quý, nên lắng tai chú ý nghe.

Cả hội trường im lặng khi tiếng sáo cất lên cao vút. Anh MC vừa giới thiệu đó là tiếng sáo của Hồ Ngọc, tiếng sáo điêu luyện, nổi tiếng của miền Nam Cali. Lời giới thiệu này quả không cường điệu chút nào. Tiếng sáo trầm bổng, réo rắt, thiết tha, như vừa du hồn tôi vào một cõi hư vô nào đó. Rõ ràng tiếng sáo đã làm cho bài thơ gây cảm xúc tột cùng trong lòng người nghe, mà hầu hết đều từng mang tâm trạng của những kẻ “ta về”.

Tôi đứng lên, nhìn về hướng sân khấu. Hồ Ngọc, người cao lớn, đầu cúi xuống, các ngón tay như đang múa trên cây sáo nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy mái tóc hoa râm bồng bềnh. Tôi thích thổi sáo từ nhỏ, khi mê tiếng sáo Nguyễn Đình Nghĩa trong chương trình Tao Đàn của Tô Kiều Ngân trên đài phát thanh Sài gòn, vào những đêm khuya thuở trước. Sau tháng 4/75, qua bao nhiêu vật đổi sao dời, dường như đây là lần đầu tiên tôi được nghe lại một tiếng sáo hay và buồn như thế. Tiết mục ngâm thơ chấm dứt, tiếng vỗ tay như muốn vỡ cả hội trường.

Tôi cúi mình đi vòng về phía sau sân khấu, tò mò nôn nóng muốn biết Hồ Ngọc và cũng muốn được bắt tay ca ngợi anh một tiếng. Vừa đúng lúc Hồ Ngọc đang cầm chai nước lọc đưa lên miệng, thì cả hai chúng tôi đều nhận ra nhau. Anh chưa kịp uống một hớp nước, kêu tên tôi và ôm chầm lấy tôi.

Hồ Ngọc, là nghệ danh của Hồ Ngọc Phú Hội, người bạn thân của tôi từ thời thơ ấu. Hai thằng ở cùng làng. Nhà ông bà nội tôi cách nhà Hội chỉ một vạc ruộng, con mương và đặc biệt là những hàng tre cao, mà buổi tối những đàn có trắng thường kéo nhau về ngủ ở đây, gây chút rộn rã cho một vùng không gian tĩnh mịch và tạo những nét chấm phá trên nền xám đen của khung trời sắp tối như một bức tranh thủy mặc.

Vào mùa đông, những buổi chiều gió mưa tầm tã, tôi thường đứng bên cửa sổ nhà ông bà nội, nhìn ra hàng tre với những cái đọt cao vút theo gió chao qua đảo lại mà thấy tội nghiệp và lo lắng cho những chú cò trên ấy.

Cha tôi và cha của Hội là hai người bạn cùng trường thời Pháp thuộc. Sau này cả hai ông đều làm thầy giáo. Cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra Liên Khu 5. Hai năm sau ông được thả về với cơn bệnh sốt sét, đành phải nghỉ dạy, nên gởi tôi theo học với cha của Hội, mà trong làng và cả bọn học trò chúng tôi thường gọi ông là thầy giáo Tám. Ông là một vị thầy nổi tiếng dạy giỏi, nhưng rất nghiêm khắc.

Đám học trò nhỏ của Thầy sau này vào đại học khá nhiều, và một số rất thành công trong nhiều sự nghiệp. Trong lớp hình như đứa nào cũng từng bị đánh đòn hoặc bị phạt ở lại quét sân trường, trồng cây vào những ngày thứ bảy chủ nhật, ngoại trừ tôi.

Có lần làm sai mấy bài toán tôi suýt bị tát tai, nhưng rồi Thầy kịp dừng tay lại. Có lẽ Thầy ngại làm buồn lòng cha tôi, hơn nữa lúc ấy tôi mồ côi mẹ, nên Tiếng sáo ông cũng động lòng thương. Đứa học trò bị đòn nhiều nhất lại chính là Hội, đứa con trai lớn của Thầy.

Mặc dù Hội học khá giỏi, nhất là môn toán. Thầy đánh con mình để làm gương. Lúc ấy, tôi nghĩ thầm như thế và thấy rất thương Hội và tội nghiệp cho Hội. Ngược lại với Thầy, mẹ của Hội lại là một người đàn bà phúc hậu, hiền lành và rất cưng chiều con. Những ngày nghỉ, tôi thường đến nhà Hội chơi, nhưng không dám bước vào ngôi nhà trên vì sợ gặpThầy. Bọn tôi thường chơi phía sau vườn, mẹ Hội làm vài thứ bánh mang ra cho hai đứa chúng tôi ăn.
Có lần hai thằng rủ nhau đi tìm những tổ sáo, mang về nuôi hai con sáo con, giấu nó phía sau hè. Mẹ Hội giúp tìm thức ăn và chăm sóc hai chú sáo. Hội tập cho những con sáo con biết bay và biết nói. Khi hai con sáo lớn lên, nó bay theo chúng tôi, đậu trên vai, theo bọn tôi tới trường, hót líu lo, và bập bẹ vài tiếng: chào anh! chào chị! Cả đám học trò bu quanh, thèm thuồng. Có thằng còn theo năn nỉ, cho quà chúng tôi chỉ để được sờ hay ôm con sáo. Hội còn dạy cho tôi làm bẫy phía sau bờ mương, bên hàng tre, để bắt được mấy con cuốc khi tìm theo tiếng “gọi hè” của nó.

Một lần, mang con cuốc về nhà nội, bất ngờ gặp cha tôi. Ông bảo con cuốc còn được gọi là Đỗ Quyên hay Từ Quy, theo tích xưa là hóa thân của Vua Thục Đế bên Tàu, mất nước nên đã khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành con cuốc kêu lên những tiếng khắc khoải não nùng. Nghe cha tôi kể lại chuyện xưa, Hội cảm động quá, bảo tôi đem con cuốc thả lại chỗ cũ, và từ đó không bao giờ chúng tôi bẫy những con cuốc nữa. Từ nhỏ, tôi đã phục Hội có tính nhân từ và nhiều tài, dạy cho tôi nhiều chuyện hay, mặc dù Hội nhỏ hơn tôi đến hai tuổi. Khi hết bậc tiểu học, tôi phải rời quê vào Nha Trang, vì ở đây mới có trường trung học. Nhưng chỉ vài năm sau, chúng tôi lại gặp nhau ở thành phố này. Hội ở trọ nhà một người quen trên đường Âu Cơ, khu Xóm Mới. Thỉnh thoảng vào những ngày cuối tuần, tôi đạp xe đến thăm. Có khi hai thằng rủ nhau đi “cọp” xe lửa về thăm quê và lũ bạn nhỏ ngày xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Hội ở nhà trọ, đúng vào lúc anh ta đang tập thổi sáo. Hội mang ra khoe tôi cây sáo trúc rất đẹp, được giữ cẩn thận trong một cái hộp bao bằng vải nhung đen, Cây sáo được ông thầy người Huế tặng cho Hội, “một cậu học trò có năng khiếu, sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”. Ông Thầy bảo như như thế. Mặc dù lúc ấy, tiếng sáo của Hội chưa có gì đặc sắc. Sau khi xong trung học, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học thêm một vài năm, rồi xếp bút nghiên vào lính.

Ra trường, được bổ sung về một đơn vị tác chiến lưu động ở Cao Nguyên. Năm tháng sống chết với đồng đội, núi rừng, nên chúng tôi không có dịp gặp nhau. Sau này, trong một lần bị thương, xuất viện được vài ngày phép trước khi ra đơn vị, tôi về thăm quê nội và ghé lại thăm cha mẹ Hội. Lúc này thầy Tám không còn dạy học nữa, mà ở nhà làm chủ, cho thuê các loại nông cơ: máy cày, máy gặt. Thầy đón tiếp niềm nở, tôi không còn thấy sợ như ngày xưa. Thầy cho biết là Hội cũng đã vào lính và đang phục vụ tận dưới Vùng IV đồng bằng sông nước.

Cả năm cũng chỉ về phép một đôi lần ngắn ngủi. Thấy mẹ Hội bồng một đứa bé gái chừng một, hai tuổi, tôi lấy làm lạ, hỏi bà, và được biết đó là đứa con đầu lòng của Hội. Khuôn mặt đứa bé trông giống ông nội như đúc. Không hiểu tại sao lúc ấy tôi không hỏi gì về vợ của Hội, và tại sao bà nội lại phải nuôi đứa cháu sơ sinh.

Rồi từ đó cho đến ngày 30/4/75, tôi cũng không gặp lại Hội. Cho mãi hơn tám năm sau, khi tôi trở về từ những trại tù, và chính quyền CS không cho tạm cư cùng với vợ con ở thị trấn Ninh Hòa (quê vợ), bắt buộc phải về “quản chế” nơi sinh quán, tôi mới gặp lại Hội. Hội bị tù ở trại A 30 trong Nam, và được thả về trước tôi một năm.

Anh ở một mình trong căn nhà tranh nhỏ, vốn là cái kho chứa vật dụng nông nghiệp hư hỏng lâu năm của cha anh, nằm ngay trên vùng đất của ngôi trường mà ngày xưa thầy Tám dạy học. Hội kiếm sống qua ngày bằng việc làm vườn trồng rau và sửa chữa xe đạp cho khách qua đường. Chúng tôi lại trở thành đôi bạn như ngày xưa. Có điều bây giờ gần như cả hai thằng phải sống bên lề xã hội. Cứ vài ngày phải đi làm thủy lợi, sửa chữa các con đường trong xã. Tối đến phải ra trình diện công an trước khi đi ngủ.

Lúc này, cha tôi đã chết trong một trại tù khác trong Nam, còn thầy Tám, cha của Hội, bị kết tội “phá hoại công cụ sản xuất” khi ông không chịu giao nạp cho chính quyền những chiếc máy nông cơ của ông, và phá tháo ra từng mảnh nhỏ, chôn giấu rải rác khắp trong vườn, nên bị cưỡng bách làm việc đo đạc cho một hợp tác xã nông nghiệp, mà tên chủ nhiệm lại chính là một thằng hoc trò rất dốt của ông ngày xưa, học đâu chỉ tới lớp nhì rồi nghỉ. Trước 75, hắn ta là lính hải thuyền đào ngũ, do tội ăn cắp chất nổ, không dám trở về đơn vị, trốn ngoài một hòn đảo nhỏ, sống bằng nghề làm rẫy và đánh cá, rồi bị móc nối theo giặc. Sau tháng 4/75, nhờ tài nịnh hót, chỉ điểm mà từ một tên du kích, hắn ta trở thành chủ nhiệm HTX có tiếng hống hách và tàn ác nhất huyện. ( Sau này lên đến chức trưởng ban thương nghiệp huyện, bị tù vì tham nhũng và đã chết sau vài năm được thả ra).

Một hôm, vợ chồng tôi đến thăm, bất ngờ gặp vợ và hai đứa con trai rất dễ thương của Hội. Hội cho biêt là vợ con sống ở Nha Trang, chỉ lâu lâu ra thăm một lần. Vợ Hội là một người đàn bà đẹp, có nét đài các, dù trải qua cảnh đời cơ cực, nhưng nhan sắc không mấy tàn phai. Thấy vợ chồng con cái đoàn tụ, hạnh phúc, tôi mừng cho Hội. Chúng tôi cùng làm thịt con gà do vợ Hội mang về, hái rau thơm trồng sẵn sau vườn, ăn một bữa cơm chung “thịnh soạn”. Chỉ hai hôm sau, vợ con Hội lại trở về thành phố. Sau khi đưa vợ con lên xe đò, Hội theo chúng tôi về nhà ông bà nội tôi, nơi tôi đang “tạm trú”.

Thấy anh không vào nhà ngay, mà đứng nhìn trời buồn bã, vợ tôi đùa: – Mới đưa người đẹp đi mà lại nhớ rồi hay sao đây? Hội cười, nhưng nét buồn vẫn còn nguyên trên mặt. Buổi trưa hôm ấy, ba chúng tôi ngồi uống trà tâm tình dưới gốc cây xoài già, nơi ngày xưa tôi và cô Út thường ngồi đọc truyện cho bà nội tôi nghe. Khi vợ tôi hỏi vì sao mà vợ Hội không ở lại với anh nhiều hơn, Hội buồn bã trả lời: – Bà phải về trông con, vì bà còn một đứa con gái nhỏ ở nhà. Nhưng nó không phải là con của tôi.

Bất ngờ nghe qua điều này, vợ chồng tôi biết đây là một câu chuyện buồn. Thấy chúng tôi trầm ngâm im lặng, Hội kể cho chúng tôi nghe về cuộc tình đẹp, nhưng trắc trở trong hôn nhân và những biến cố đau buồn của vợ chồng anh. Trước khi vào lính, nhờ trình độ Anh văn khá và lý lịch tốt, Hội được nhận vào làm thông dịch viên cho Cơ quan Mỹ phụ trách Chiến Dịch Phượng Hoàng tại một tỉnh Cao Nguyên. Với công việc này, anh có nhiều dịp gặp gỡ ông Phó ty Cảnh sát, và được ông nhờ anh, cứ ba buổi tối trong tuần, đến nhà dạy kèm cho cô con gái môn Anh văn và toán. Cô bé đang học lớp đệ ngũ. Hội cao lớn, đẹp trai, lại đàn hát hay, nhưng không phải vì thế mà chỉ mới hai tuần cô học trò nhỏ đã “ái mộ” ông thầy.

Sau này cô bé cho biết cô mê ông thầy chính vì tiếng sáo, “tiếng sáo ru hồn người ta”- lời cô bé nói. Cô bé rất xinh, có cái tên hơi kiếm hiệp “Hà Thị Triệu Minh”. Có thể ngày xưa phụ thân cô thích đọc chuyện chưởng và ái mộ nhân vật Triệu Minh? Dường như khi biết yêu thì các cô con gái “trổ mã”, lớn nhanh hơn và đẹp ra nhiều hơn.

Chỉ một năm sau, khi lên lớp đệ tứ, Triệu Minh là hoa khôi trong đám nữ sinh trong tỉnh. Những ngày nghỉ học, cô học trò Triệu Minh nói dối mẹ, đi học nhóm, làm báo tường, tập hát với các bạn cùng lớp, nhưng thực ra là hẹn hò và dung dăng dung dẻ với ông gia sư trẻ. Trong thành phố này, góc núi, bờ sông, khu vườn, khe đá nào thơ mộng đều có in dấu chân, nghe lời tình tự, chứng kiến lời thề non hẹn biển của hai người.

Và tất nhiên ở những nơi ấy cũng còn cả dư âm “tiếng sáo ru hồn người ta” nữa. Khi cuộc tình của hai người đến thời kỳ say đắm nhất, cũng là lúc ông Phó Ty được các thám tử báo cáo tình hình. Có đứa con gái cưng xinh nhất tỉnh, không thể nào ông chịu để làm người tình với một chàng lãng tử, mà lương thông dịch chỉ ba cọc ba đồng. Ông bèn nhốt cô con gái trong nhà, mỗi lần đi học đều có người hộ tống.

Ông xách súng đi tìm Hội, và bắn tiếng là sẽ không để yên, nếu Hội không chấm dứt với Triệu Minh và rời khỏi Cao Nguyên. Triệu Minh biết rõ tính khí của cha mình, nên nhờ một cô bạn thân tìm Hội, trao cho anh mảnh giấy, bảo Hội phải ra đi ngay và hẹn thề sẽ tìm gặp lại ở một nơi nào đó sau này, không ai biết.

Mọi liên lạc đều qua trung gian của cô bạn học chí thân này. Nghe lời Triệu Minh, Hội xin chấm dứt ngay hợp đồng làm việc, theo máy bay Mỹ rời khỏi Cao Nguyên và sau đó xin vào trường Thủ Đức, mà trước đây Hội tạm thời được hoãn động viên nhờ Cơ quan DAO can thiệp. Ra trường, Hội xin về phục vụ tại Tiểu Khu An Xuyên, tỉnh cực nam của đất nước và xa cách muôn trùng với Cao Nguyên. Trong suốt thời gian này, hai người vẫn liên lạc nhau, qua cô bạn trung gian.

Mỗi tuần Hội đều nhận được một lá thư ướt đẫm nước mắt của Triệu Minh. Cuối cùng, Triệu Minh giữ lời thệ ước, sau khi thi đỗ tú tài, vờ vào Sài gòn xin vào đại học, rồi trốn cha mẹ, xuống Cà Mau sống với Hội. Sau khi sinh đứa con gái đầu lòng, Triệu Minh viết thư thú tội với cha mẹ, bảo là mình đã chọn đúng người chồng xứng đáng để yêu thương và sẽ cùng nhau tự lực xây dựng hạnh phúc gia đình, không hề xin mẹ cha bất cứ điều gì, ngoài sự cảm thông và bao dung tha thứ.

Triệu Minh nghĩ là dù sao ván cũng đã đóng thuyền, hơn nữa mình cũng đã sinh cho cha mẹ một đứa cháu ngoại, chắc chắn ông bà sẽ động lòng thương và chấp nhận cuộc hôn nhân. Nhưng cô đã lầm. Ông bà xuống tận nơi, xỉ vả Hội và Triệu Minh một trận, bắt phải tìm người cho đứa bé sơ sinh và Triệu Minh theo ông bà trở lại Cao Nguyên. Triệu Minh nhanh trí, cầu cứu cô bạn thân đến nhận trách nhiệm bồng đứa con cho bà cô ruột hiếm muộn ở Sài gòn, nhưng kỳ thực là giao cho mẹ của Hội, từ quê vào đóng vai cô của người bạn quý này.
Đó là lý do vì sao cô con gái đầu lòng của Hội sống ở nhà ông bà nội từ lúc sơ sinh, cho mãi đến sau này. Con bé không muốn về với cha mẹ nữa. Cuộc tình lại một lần nữa chia ly. Triệu Minh bị bắt buộc lên xe về Cao Nguyên cùng cha mẹ. Một thời gian sau, có lẽ vì đau buồn quá, Triệu Minh trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Gia đình phải đưa vào Sài gòn điều trị, nhưng bệnh tình ngày thêm trầm trọng, Triệu Minh ngày một tàn tạ hơn. Cô đòi được gặp Hội một lần. Lời thỉnh cầu được ba cô chấp nhận, như là ân huệ cuối cùng cho một tử tội.

Không ngờ sau khi gặp lại Hội, Triệu Minh bỗng khỏe lại. Chẳng hiểu vì động lòng trước mãnh lực của tình yêu hay là lo lắng sự sống còn của cô con gái, ông Phó Ty hứa sẽ cho làm đám cưới sau khi Triệu Minh bình phục. “Câu chuyện thật của tôi mà nghe sao giống như những chuyện tình buồn trong tiểu thuyết!”- lời Hội nói. Lần này, ông bà giữ lời hứa. Nhưng người từ chối lại là ông thầy Tám, cha của Hội. Ông vừa tự ái, vừa phẫn nộ cung cách hành xử của cha mẹ Triệu Minh. Cuối cùng, vì thương con trai mình, và lòng thủy chung của Triệu Minh, ông chấp nhận cuộc hôn nhân, nhưng cả hai ông bà đều không có mặt trong ngày đám cưới. Đại diện họ nhà trai hôm ấy lại chính là cha mẹ của cô bạn quý của Triệu Minh.

Sau đám cưới, cha của Triệu Minh dự định nhờ vào sự quen biết, xin kéo Hội về ngành Cảnh Sát và làm việc với ông. Lúc này ông không còn làm Phó ty mà đã nhận một nhiệm vụ khác và chuyển xuống làm việc ở thành phố Nha Trang. Nhưng Hội nhất quyết khước từ. Hơn nữa, nhờ có trình độ Anh văn và một số kinh nghiệm trong thời gian làm việc trong Chiến Dịch Phượng Hoàng, Hội vừa được chọn theo học một khóa tình báo ở Cây Mai. Sau khi mãn khóa được điều về một cơ quan tình báo ở Quân Đoàn IV, làm việc tại tỉnh lỵ Cần Thơ. Trong một căn nhà nhỏ thuê bên bờ sông thơ mộng, vợ chồng Hội thực sự sống những ngày hạnh phúc.

Hai đứa con trai khôi ngô lần lượt ra đời ở đó. Cuối năm 74, cha của Triệu Minh lại được chuyển ra Vùng I nhận một chức vụ mới. Ông đi trước một mình, để gia đình vẫn ở lại Nha Trang, ông sẽ thu xếp đi sau. Nhưng chỉ hơn ba tháng sau, ngày 10 tháng 3/75, Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, các tỉnh Kontum, Pleiku, có lệnh di tản, tái phối trí chiến thuật. Rồi tướng Ngô Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ cả Vùng 1 trong tức tưởi. Cha của Triệu Minh liên lạc vợ con cho biết ông đang tìm phương tiện di tản, bảo cả nhà chờ ông. Nhưng rồi họ không bao giờ còn gặp lại ông nữa. Ông được ghi nhận đã mất tích. Sau ngày mất nước, Hội đưa vợ và hai con từ Cần Thơ về Nha Trang, tạm sống chung với gia đình vợ. Hội vào tù khi cả nhà được tin cha Triệu Minh đã chết ở bờ biển Thuận An, do mấy anh cảnh sát cộng sự với ông cho biết, nhưng không ai biết xác thân ông bị vùi lấp ở đâu cùng với mấy ngàn người bất hạnh khác.

Khi tổ chức vươt biển cùng mấy người bạn tù, tôi có báo cho Hội biết, và vì chiếc ghe quá nhỏ, nên Hội chỉ có thể đi một mình, hay nhiều lắm là với một đứa con. Sau nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng Hội đã từ chối. Anh bảo là dù sao, anh cũng không thể bỏ vợ con ở lại được.

Sau gần một năm ở các trại tị nạn Singapore rồi Bataan/Phi Luật Tân, gia đình tôi được sang định cư ở Na-Uy. Khoảng hai năm sau, tôi bất ngờ nhận lá thư từ đảo Palawan, phía sau trên bì thư, ghi tên người gởi là Hà Thị Triêu Minh. Cái tên dễ nhớ. Nội dung chỉ báo là mẹ con đã vượt biển và đến được Palawan, đang chờ thanh lọc, cần sự giúp đỡ của chúng tôi trong thời gian mẹ con phải sống ở đảo.

Biết chính xác đây là vợ con Hội, tôi băn khoăn không biết vì sao Hội lại không viết thư cho tôi mà lại là vợ. Hay là vì một bất hạnh nào đó mà Hội không đến được đất liền. Trong thư không hề nghe nói tới Hội. Tôi liền ra ngân hàng gởi 300 đô la và viết lá thư ngắn, mừng mẹ con Triệu Minh đến đảo và hỏi có Hội cùng đi không, tại sao không thấy nhắc đến trong thư?

Hơn một tháng sau tôi nhận thư hồi âm. Trong gần hai trang giấy, Triệu Minh kể không biết bao nhiêu tội của Hội. Nào là ngoại tình với vợ của người ta, trở lại với cô bồ cũ, lấy tiền bạc từ mồ hôi nước mắt của vợ con để bài bạc, nhậu nhẹt say sưa cả ngày, không hề có trách nhiệm gì với mấy đứa con, nên ở lại không chịu cùng đi! Tôi khá ngạc nhiên, vì biết tính nết Hội từ thời ấu thơ cho đến hết trung học, và gần gũi Hội cả một năm sau khi hai đứa ở tù về. Cho dù nếu có buồn phiền, hay bất mãn cuộc đời đến đâu, Hội sẽ không làm như thế. Từ nhỏ, Hội là một người được sự giáo dục của cha, một vị thầy giáo nghiêm khắc. Sau này, dù trong hoàn cảnh nào, Hội vẫn luôn trọng danh dự và giữ tư cách của mình.

Tôi liên lạc với đám bạn thân còn ở Việt Nam. Tất cả đều nói về Hội với những điều ngược lại. Họ còn bảo “nếu có một người không bao giờ đi tu mà thành Phật, thì đó chính là thằng Hội”. Tôi gởi thêm cho Triệu Minh một số tiền nữa, vì nghĩ tới hai đứa con của Hội, nhưng không nhận được hồi âm. Sau này tôi được tin Hội đã sang Mỹ theo diện HO-10, nhưng không ai biết Hội ở đâu.

Mấy năm sau, vào một mùa hè, vợ chồng tôi sang Florida dự đám cưới con trai của anh bạn chí thân, cùng đơn vị lúc xưa và sau tháng 4/75 lại là bạn cùng tù. Chị vợ của anh là một trong hai cô con gái của ông bà chủ nhà ở một quận lỵ, mà trước kia, lúc còn là hai thằng lính trẻ, chúng tôi đã đóng quân trong vườn nhà. Chúng tôi thân thiết và thương mến nhau còn hơn cả anh em, nên khi được anh chị báo tin làm đám cưới cho con, nhân cơ hội này, muốn họp mặt bạn bè của hai người sau bao nhiêu năm lưu lạc, vợ chồng tôi bay sang Florida ngay. Đích thân anh chị đón chúng tôi ở phi trường.

Anh em bao nhiêu năm gặp lại nhau, chúng tôi ôm lấy nhau mà nước mắt trào ra lúc nào không biết. Về nhà, khách khứa đã khá đông. Bên phía đàn ông, hầu hết những người bạn cùng đơn vị cũ, còn cánh đàn bà, đa số là bạn học của chị vợ.

Đang giới thiệu, bắt tay hỏi chào vui vẻ, tôi nghe chị vợ nói với mấy cô bạn:

– Bây giờ, bọn mày ở nhà chơi, tao ra phi trường đón con nhỏ Triệu Minh.

Nghe hai tiếng Triệu Minh, tôi và bà xã giật mình nhìn nhau. Cái tên vừa hiếm hoi dễ nhớ, vừa còn lại trong ký ức chúng tôi, với đôi điều khó hiểu. Cả vợ chồng tôi tò mò, nôn nao chờ đợi trong hơn 30 phút. Quả nhiên, người khách đàn bà vừa bước vô nhà chính là Hà Thị Triệu Minh. Tuy bây giờ ốm hơn và nhan sắc có tàn phai. Để chắc chắn, tôi hỏi nhỏ chị bạn:

– Có phải Triệu Minh này trước có ông già làm lớn bên Cảnh sát?

– Đúng rồi, dường như nó có chồng ở Nha Trang với ông đó, nhưng thằng chồng nó bồ bịch lôi thôi quá nên nó bỏ lâu rồi!

Nghe chị nói, tôi có chút bực mình, nhưng chỉ cau mày, không nói. Chị dắt Triệu Minh đến. Cô không nhận ra chúng tôi. Sau khi được chúng tôi giới thiệu về mình, Triệu Minh nắm tay mừng rỡ, nhưng trong đôi mắt vẫn u buồn và có điều gì đó không mấy tự nhiên. Triệu Minh cám ơn chúng tôi đã gởi biếu tiền cho mẹ con cô khi còn ở đảo Palawan. Cô cho biết mẹ con đang định cư ở thành phố Salt Lake City, thuộc tiểu bang Utah, đứa con đầu vừa mới vào đại học. Chúng tôi chúc mừng cô và hỏi tin tức về Hội, Cô khựng lại giây lát rồi cúi xuống, trả lời:

– Nghĩ tình cha của mấy đứa nhỏ, em bảo lãnh anh ấy về ở với mẹ con em, nhưng cũng với cái tánh trai gái rượu chè, chẳng lo lắng gì cho con, nên em tống ra khỏi nhà. Nghe nói bây giờ đang ở đâu đó dưới Cali!

Tôi ngỏ ý xin địa chỉ hay là số điện thoại của Hội, nhưng cô ta bảo đã không còn liên lạc từ lâu lắm. Và đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp Triêu Minh.

Hôm nay, gần hai mươi năm sau, tôi bất ngờ gặp lại Hội. Không ngờ bây giờ tiếng sáo của Hội hay đến mê hồn người như vậy. Buổi ra mắt sách chưa chấm dứt, Hội bảo tôi ra xe để Hội đưa về nhà. Anh em xa cách bao nhiêu năm, giờ gặp lại sẽ có biết bao nhiêu điều để nói. Tôi dắt tay Hội đến giới thiệu với người bạn, và bảo Hội cho anh ta địa chỉ để nhờ anh đến đón tôi trước tám giờ tối, vì Hội cho biết phải đi làm ca đêm. Hội ở trong một garage thuê của một người quen ở thành phố Anaheim.

Cái garage được sửa sang lại, đủ để một cái giường nhỏ và một cái bàn. Tất cả phần còn lại, là một phòng thu âm nhỏ, với một số máy móc. Hội bảo đây là nơi thu âm tiếng sáo của Hội đệm cho những giọng ngâm, giọng ca của bạn bè văn nghệ. Đặc biệt có nhiều ca sĩ nổi danh từng ra vô cái garage chật hẹp, nghèo hèn này. Thấy trên tường có tấm ảnh của một cô gái phóng lớn. Trông đẹp và quí phái. Mới nhìn, tôi tưởng một cô ca sĩ nào đó, nên hỏi Hội. Anh cười không trả lời mà hỏi lại tôi:

– Bạn không còn nhớ là ai đó hay sao?

Thấy tôi chau mày suy nghĩ, Hội bảo:

– Là Triệu Minh đó, lúc còn con gái, trước khi tụi này làm đám cưới!

Tôi à lên một tiếng rồi cười trêu Hội:

– Coi bộ vẫn còn yêu nàng hay sao mà treo ảnh nàng trang trọng thế?

Hỏi câu ấy, tôi không ngờ vô tình chạm tới vết thương trong lòng Hội. Anh tắt mất nụ cười, buồn bã:

– Sau khi mình vào tù hơn một năm, thì Triệu Minh có con với tên thiếu tá công an VC ở Nha Trang. Cha mẹ mình biết rõ điều này. Mặc dù Minh cho biết là trong một chuyến đi buôn cà phê, cô ta bị bắt và cả một bọn công an gài bẫy để phải uống thuốc mê cho gã thiếu tá trưởng đồn cưỡng hiếp, vì hắn ta quá mê mệt trước nhan sắc của nàng. Trước hoàn cảnh này, ba mẹ mình dù rất đau lòng nhưng cũng đành phải im lặng, khóc thầm. Những tưởng đến đó cũng đủ làm cho mọi người thấm thía tận cùng đau đớn, nhưng rồi tên thiếu tá công an không từ bỏ dục vọng. Hắn ta càng mê Triệu Minh hơn. Quyết định ly hôn với bà vợ quê mùa còn ngoài Hà Nội, và chiếm đoạt Minh vĩnh viễn cho mình. Hắn ta bỏ một số tiền lớn cho Triệu Minh mở sạp buôn khá lớn ở chợ Đầm. Vừa dùng quyền lực gian manh, vùa tung tiền tham nhũng được, sau một thời gian quỳ mọp dưới chân nàng, hắn ta gần đạt được mục đích. Ba mẹ mình biết được điều này.

Mẹ mình thì hiền lành chỉ khóc, nhưng Ba mình thì đến thẳng nhà đòi bắt hai thằng cháu nội và dứt khoát từ Minh, không chấp nhận nàng là con dâu nữa. Riêng đứa con gái lớn được cha mẹ mình nuôi từ lúc mới sinh, từ chối về với mẹ mà xin được ở luôn với ông bà nội nó.

Đúng thời điểm bi đát ấy, thì mình được ra tù. Khi được ba mình kể lại mọi điều, lòng mình đau đớn lắm, nhưng dù sao cũng còn mấy đứa con chung, và nhất là trong lòng mình vẫn còn in đậm hình ảnh của Triệu Minh trong những ngày nàng sống chết để được làm vợ mình. Mình xin cha mẹ mình tha thứ cho nàng, nếu từ nay nàng dứt khoát rời bỏ tên công an vô lại.

Tranh luận thật nhiều, cuối cùng vì hai đứa cháu nội, ông đồng ý cho mình gặp lại Triệu Minh, nhưng nàng không được phép đến nhà ông. Chính vì vậy mà ông cho mình ra ở căn nhà kho, mà ngày xưa vợ chồng bạn có đến thăm.

Tôi nôn nao, ngắt lời Hội:

– Rồi sau đó Minh có dứt khoát với hắn ta không?

Hội buồn bã trả lời:

– Minh nói là không hề yêu hắn ta, ban đầu còn thù ghét hắn, nhưng dần dà từ tội nghiệp rồi đến thương hại khi thấy hắn ta quá si mê mình. Hắn bảo sẵn sàng bỏ đảng, bỏ ngành, bỏ mọi chức tước để chỉ được nàng. Hơn nữa dù sao hắn ta với nàng cũng đã có một đứa con gái. Minh thường bảo cái trợt chân ấy đã đưa cuộc đời nàng đi đến một ngã rẽ quá xa, khó mà đứng lên lại được. Hắn còn đòi được gặp mình để xin mình ký giấy ly dị, giao Minh cho hắn. Hắn bảo đảm sẽ lo cho Minh và cả mấy đứa con của mình được sung sướng.

– Rồi bạn có gặp hắn ta?

– Không! Dù cái tì vết quá lớn, nhưng mình không thể để mất Minh. Mình sẵn sàng bỏ qua hết mọi chuyện, làm khai sinh cho đứa con gái riêng của Minh là con ruột của mình, khuyên Minh nên trả tiền bạc tài sản lại cho hắn ta, và trả hắn ta về cho vợ con của hắn, đang khốn khổ ở Hà Nội. Nhưng khi Minh đến gặp hắn để nói lại điều này, hắn trở giọng hăm dọa, bảo là sẽ cho đàn em bắt mình vào tù trở lại, hay sẽ tìm cách thủ tiêu mình, làm Minh càng thêm lo sợ tai ương sẽ ụp xuống trên đầu mình.

Sau đó lòng mình luôn bất an, không tin là trong hoàn cảnh khó khăn, Triệu Minh có thể dễ dàng trút bỏ mọi sợ hãi và cám dỗ tiền bạc để về sống với mình, bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, nên mình đi chạy vạy vay mượn bà con bè bạn ít tiền, hùn hạp làm đìa nuôi tôm để vợ chồng cùng làm ăn, sinh sống. Nhưng đúng vào lúc đó, thì Minh và gia đình nàng xảy ra tai họa. Bà vợ Bắc kỳ của tên thiếu tá công an từ ngoài Hà Nội vào, dẫn theo một đám xã hội đen, chuyên đâm thuê chém mướn, đến tận sạp buôn của Minh đập phá, đánh đập Minh tàn nhẫn, lột cả áo quần và cắt hết tóc. Đã vậy còn lôi về nhà mẹ Minh hành hung, và bắt buộc trong vòng một tuần, tất cả mọi người phải biến khỏi thành phố này, đi đến một nơi nào đó thật xa, không ai được biết, nếu không sẽ lãnh tai họa. Triêu Minh bán gấp nhà cửa và tất cả đồ đạc, cùng cả nhà chạy vào nhà bà dì ở Rạch Giá và tìm mối vượt biển sau đó. Hơn một tuần sau, mình dắt đứa con gái lớn vào thăm, ngôi nhà đã đổi chủ, và chẳng biết mẹ con Minh và gia đình nàng đã đi đâu.

– Như vậy tại sao sau này Triêu Minh lại đối xử tàn tệ và đi nói xấu về bạn? Tôi thắc mắc.

– Ban đầu chính mình cũng không hiểu. Dần dà mình nghĩ là Triệu Minh tìm mọi cách để làm mình phải xa lánh mẹ con Minh. Có thể từ mặc cảm tội lỗi, nhưng muốn giữ thể diện với bạn bè, và nhất là với các đứa con ngày càng khôn lớn, nên nàng đã đổ hết bao nhiêu tội lỗi lên đầu mình. Khi nàng và gia đình vượt biển đến được đảo Palawan, đúng vào thời kỳ Cao Ủy Tị Nạn LHQ đóng cửa các trại, tất cả đều phải qua thanh lọc. Mẹ con Minh và cả gia đình đều bị từ chối vì chẳng có giấy tờ gì chứng minh là vợ con của sĩ quan VNCH, lúc ấy Minh mới viết lá thư gởi về cầu cứu mình, Cha mẹ mình và tất cả bạn bè ai cũng can ngăn, nhưng mình đã âm thầm làm bản sao Giấy Ra Trại và gởi gấp cho nàng. Nhờ có tấm giấy này của mình mà cả nhà mới được đến Mỹ.

– Vậy tại sao khi bạn đi HO đến Mỹ, lại không ở với mẹ con nàng. Chính cô ta bảo là đã tống bạn ra khỏi nhà?

Hội cười hiền lành, như chẳng có điều gì phiền muộn:

– Thực ra cô ấy không hề xô đuổi mình. Lo lắng và chăm sóc mình, nhưng luôn tìm cách lẫn tránh mình. Xa lạ đến lạnh lùng. Nhiều lần mình nghe tiếng nàng khóc. Và không biết ba đứa con, hai đứa của mình và một đứa con riêng của cô ta, bị ảnh hưởng thế nào, nhìn mình như một người xa lạ. Trong nhà không bao giờ nghe được tiếng cười. Mình có cảm giác như địa ngục. Hơn ba tháng, dù với tất cả nhẫn nhịn, chiều chuộng, cuối cùng mình đành phải bất lực ra đi, với hy vọng trả lại niềm vui và không khí gia đình cho mấy mẹ con nàng. Trong ba tháng ấy, chỉ có cậu em của cô ta thường gần gũi tâm sự với mình.

Chính cậu ta đã kể lại tất cả những gì đã xảy ra. Hôm tiễn mình lên xe về đất Cali này, cậu đã trao lại cho mình một số tiền và lá thư của Triệu Minh nhờ chuyển cho mình. Lá thư chỉ là tấm giấy nhỏ, ghi vỏn vẹn một dòng: “Xin hãy tha thứ cho em, và xem như Triệu Minh đã chết từ lâu rồi, không còn trên trần gian này nữa”. Và đến nay cậu ấy là người duy nhất giữ liên lạc với mình, luôn tỏ ra kính mến mình.

– Sau này, Hội có dịp nào gặp lại Triêu Minh hay hai đứa con trai của Hội?

– Có một lần, khi thằng con trai lớn làm đám cưới, mình có nhận được thiệp báo tin và thiệp mời. Mình cũng vui mừng lắm, dù đọc trong thiệp báo tin, không thấy có tên mình, mà chỉ có tên mẹ nó. Mình vội vàng đi mua một bộ đồ veston mới, mượn trước một số lư- ơng, để bay lên mừng con, và cũng có dịp gặp lại Triệu Minh. Nhưng buổi tối trước ngày đi, thằng con lại gọi phôn (ông cậu cho nó số phôn), bảo là mình không nên lên, vì cái thư mời là do cậu nó bảo nó gởi, chứ không có ý kiến của mẹ. Nếu mình muốn đi, thì phải gọi xin phép mẹ nó. Nhưng rồi nó lại hạ giọng: “Con không có chút hy vọng gì là má sẽ OK!”. Cuối cùng đành phải bỏ chiếc vé máy bay. Mình buồn, nhưng không trách Triệu Minh. Rồi mới đây, bất ngờ lại gặp thằng em của nó. Nghe nói cũng tốt nghiệp kỹ sư hàng không và đang làm cho hãng Continental. Nó sắp cưới vợ, nên rủ con vợ tương lai đi chơi một vòng ở Las Vegas, rồi sau đó ghé lại Little Saigon mua một ít nữ trang và vật dụng dành cho ngày cưới. Nó gọi phôn hẹn gặp mình phía trước Phước Lộc Thọ. Mình mừng lắm, quên hết mọi chuyện, chỉ mong gặp lại thằng con ruột thịt, để xem bây giờ mặt mũi nó ra sao.

Tôi lái xe đến gặp nó và vị hôn thê. Cô dâu chào bắt tay tôi vui vẻ, nhưng thằng con thì nhìn tôi dửng dưng xa lạ. Tôi thoáng buồn nhưng kịp trấn tĩnh, vì nghĩ là từ lúc mới sinh ra cho đến bây giờ, nó có sống với tôi bao lâu đâu. Mời hai đứa đi ăn, nó từ chối, bảo chỉ cần uống nước. Chúng tôi ngồi tạm trong cái quán nhỏ bên trong Phước Lộc Thọ. Nó bảo là tụi nó sẽ làm đám cưới vào hai tuần tới tại Maryland. Trước khi đi cậu nó cho số phôn của tôi và dặn nó nhờ tìm gặp tôi khi ghé lại Little Saigon. Uống nước xong, nó đứng dậy móc bóp cho tôi tờ giấy 100 đô la. Con bồ của nó nói một tràng tiếng Mỹ, tôi hiểu là “tại sao lâu ngày mày gặp lại daddy của mày mà mày chỉ cho có 100!”. Nó móc bóp lấy thêm tờ 50 đưa cho tôi. Tôi ngượng ngùng, định từ chối, nhưng rồi sợ nó buồn, hơn nữa nghĩ tới đứa con gái lớn, là chị ruột của nó, đang sống thiếu thốn ở nhà ông bà nội bên Việt Nam, tôi nhét vào túi áo, nói cám ơn hai đứa. Sau đó tôi bảo nó chờ vài phút, rồi chạy đến tiệm hoa gần đó mua một bó huệ trắng. Quay lại, tôi xúc động nói với hai đứa: “nhà ba ở rất gần đây, chạy xe chỉ chừng bảy, tám phút. Ông nội con vừa mất, hôm nay là 49 ngày. Lúc con còn nhỏ, ông nội rất thương con. Bây giờ hai đứa con có mặt ở đây lại sắp làm đám cưới, ba muốn hai con ghé lại thắp cho ông nội cây nhang. Ở nơi chín suối, chắc ông vui lắm”. Con bồ nhìn nó gật đầu, nhưng tôi rất bất ngờ và hụt hẫng khi nghe nó nói: “Để lần khác, hôm nay con không có nhiểu thì giờ!”

Kể xong câu chuyện khá dài, Hội vẫn dửng dưng nhìn lên trần nhà như đang tìm kiếm một vật gì, trong lúc lòng tôi đau như dao cắt.

Để cho Hội trầm ngâm một lúc, tôi lên tiếng:

– Tôi tội nghiệp bạn, nhưng không hiểu được bạn. Tại sao trước một nỗi đau như thế mà nhìn bạn vẫn thấy bạn thản nhiên, có khi còn cười nữa, cứ như không?

Hội nắm tay tôi, xuống giọng:

– Mình đã quen rồi. Hơn nữa cả dân tộc đều tan tác bi thương qua cuộc thăng trầm quá lớn ấy, nỗi đau của mỗi một chúng ta đâu còn có nghĩa gì. Tất cả chỉ đáng thương hơn là đáng trách!

Tôi nhìn Hội, lắc đầu:

– Nhưng ít nhất, bạn cũng phải giải thích, nói lên sự thực, để mấy đứa con của bạn nó hiểu chứ. Chẳng lẽ cứ để các cháu cứ nghĩ xấu về bạn, thờ ơ, đối xử tệ bạc với cha của nó mãi như vậy hay sao?

Im lặng một lúc, Hội lên tiếng:

– Thôi, chuyện đã như vậy rồi. Vả lại dù sao mẹ chúng nó cũng đã chịu đựng bao nhiêu khổ cực đắng cay để nuôi nấng bọn nó từ thuở còn tấm bé, đến bây giờ đã thành đạt, nên người. Đó chẳng phải là điều mà những người cha bất hạnh như bọn mình mong ước hay sao? Tốt nhất là hãy để chúng nó luôn nghĩ tốt và hết lòng kính trọng, yêu thương mẹ nó!

Nhớ tới lời mấy thằng bạn còn ở quê nhà, tôi buột miệng:

– Hèn gì đám bạn bè bảo là bạn không hề đi tu mà đã đắc đạo rồi.

Hội nở một nụ cười, nhưng không trọn, rồi như mới nhớ ra điều gì, anh kể tiếp:

– Cách nay vài tháng, Triệu Minh có dắt đứa con gái riêng về Việt Nam để gặp cha ruột của nó. Nghe nói hắn ta cũng đã tìm cách móc nối tổ chức vượt biển sau ngày Minh đến đảo Palawan, nhưng bị bắt vào tù, mất hết đảng tịch và bị sa thải khỏi ngành công an. Sau đó làm nhân viên bảo vệ cho một khách sạn nào đó ngoài Hội An, Đà Nẵng, nhưng đang bị bệnh rất nặng. Ung thư phổi thời kỳ cuối.

– Như vậy Triệu Minh vẫn còn nghĩ đến hắn ta?

Trầm ngâm một lúc, Hội lên tiếng:

– Cô ta làm thế cũng phải. Dù gì cũng là tình phụ tử mà. Hơn nữa cũng vì nàng mà hắn ta mới ra nông nỗi. Sau đó cô ta có về quê mình thăm đứa con gái đầu lòng. Từ lúc mới sinh cho đến bây giờ nó vẫn ở nhà ông bà nội. Nối nghiệp ông nội: dạy học, và đã có chồng con. Nó là đứa con duy nhất hiểu rõ chuyện của mình với mẹ nó, nên thường viết thư, gọi điện thoại hỏi han an ủi mình. Mấy lần nó phản đối mẹ nó và có ý định nói hết sự thực cho hai đứa em nó biết, nhưng mẹ nó năn nỉ và chính mình cũng can ngăn. Tôi bảo nó nên hiểu và thương mẹ nó. “Vì một mình phải nuôi dạy các con lớn lên ở quê người, mẹ cần sự kính trọng và vâng lời của các em con, mà đành phải đổ hết tội lên đầu ba. Ba nghĩ làm như vậy, chắc mẹ con cũng đau lòng ghê lắm. Người cần yêu thương và an ủi, chính là mẹ của con, chứ không phải là ba”.

– Vậy mẹ nó có tâm sự gì với nó về bạn hay không? Tôi tò mò hỏi.

– Cháu có bảo là mẹ nó cũng ân hận lắm. Bà cũng nhớ tôi và mặc cảm tội lỗi quá lớn, khi ít nhiều gì cũng đã phản bội tôi mà còn phải nói với mọi người và nhất là với các con những điều xấu xa không đúng về tôi. Bà thường nhờ con gái chở bà ra nghĩa trang thắp hương trước mộ cha mẹ tôi và ngồi khóc sụt sùi. Nhiều lần bà có ý định đi tìm tôi, xin tha lỗi và trở lại với nhau, nhất là sau khi các con đã lớn và ra sống riêng, bà cô đơn một mình. Nhưng rồi bà không đủ can đảm, khi nghĩ là tất cả mọi thứ đều đã vượt quá xa giới hạn của nó rồi. Bà bảo; “Chiếc bình cổ đã vỡ tan tành, không thể nào có thể hàn gắn từ những mảnh vụn, mà một số cũng đã mất mát rơi rớt theo thời gian”. Bà có ý định về lại Viêt Nam, sau khi cô con gái út lấy chồng. Sẽ quy y, tu ở một ngôi chùa trên Cao Nguyên. Nơi mà ngày xưa, lúc gặp phong ba trắc trở trong tình yêu với mình, bà đã đến đó để cầu xin và thệ ước.

Tôi hơi bất ngờ và thoáng một chút ngậm ngùi:

– Dù sao cũng tội nghiệp! Tất cả cũng chỉ là hệ lụy từ một cuộc chiến phi lý mà đám người thắng trận lại là một lũ bất lương. Tôi nghĩ bạn nên tìm gặp nàng, nói một câu thứ tha cho nhẹ lòng. Không phải nhẹ lòng cho riêng nàng mà cho chính cả bạn nữa. Và nếu được, thì sống lại với nhau, coi như đôi bạn trong tuổi già.

Hội cúi xuống, đôi mắt dường như nhắm lại. Suy nghĩ một lúc rồi hạ giọng:

– Mình đã nhờ đứa con gái nói với nàng điều ấy. Nhưng nàng chưa muốn gặp mình, chỉ xin cám ơn và khuyên mình hãy cố quên đi tất cả. Nàng bảo: ”Đời là bể khổ. Giờ đã cuối đời thì vướng bận thêm nữa mà làm gì”. Cả đứa con gái của mình cũng đồng tình. Cháu bảo “con thấy như thế vẫn hay hơn, chứ mỗi ngày ba má nhìn thấy nhau, dễ nhớ lại chuyện xưa rồi cũng chỉ buồn khổ hơn thôi!”

Nghe Hội nhắc tới cô con gái còn ở quê nhà, tôi hỏi:

– Sao bạn không bảo lãnh gia đình cháu gái lớn sang Mỹ sống với bạn cho vui?

Hội lắc đầu:

– Vợ chồng nó không muốn. Dường như nó ngại phải chọn ở với cha hay với mẹ. Vậy cũng hay. Chứ sang đây nó thấy mình cơ cực lại buồn thêm. Còn mình, khi nào rảnh rỗi, chạy đến viện dưỡng lão săn sóc, giúp đỡ cho mấy ông bà cụ đã quá già mà chẳng có con cái chăm nom, mình cũng thấy vui.

Tôi định nói một câu để khen và an ủi, thì Hội vội xem qua đồng hồ rồi kéo tôi đứng dậy. Đúng lúc cả hai thằng đang đối diện với bức ảnh lớn của Triệu Minh treo trên vách.

Tôi hỏi lại Hội một câu đã hỏi lúc mới vào nhà:

– Nghĩa là bạn vẫn còn yêu Triệu Minh?

– Đúng, mình vẫn thiết tha yêu Triệu Minh, nhưng mà Triệu Minh ngày xưa, cái thời nàng và mình mới yêu nhau, và nhất là vì yêu mình mà dám bỏ tất cả. Cuộc tình đó đẹp quá đi chứ, phải không? Đến bây giờ, nhiều đêm mình vẫn nằm mơ thấy nàng. Chỉ những giấc mơ ấy thôi cũng đủ cho mình thấy hạnh phúc và quên hết mọi biến cố sau này.

– Bây giờ bạn đã có cô bạn gái nào, và có tính kiếm một cô vợ khác để có nhau trong tuổi già?

– Có chứ, mình đang có cô bạn, Bích Loan vừa ngâm thơ với mình chiều nay đó. Giọng ngâm của cô hay lắm. Trước kia là cô giáo ở Pleiku. Nhưng tụi mình chỉ xem như là bạn cho vui, chứ trong lòng mình không còn có tình yêu, trái tim của mình không còn biết rung động kể từ sau cuộc tình với Triệu Minh.

Bỗng nhớ tới một điều, tôi hỏi Hội:

– Và dường như nhờ tình yêu ấy mà tiếng sáo của bạn mới tuyệt vời?

Hội cười, đưa tay lên vách lựa lấy một cây sao trúc Ñaëc San Phoá Nuùi 2011 Trang 188 đưa lên miệng thổi một đoạn trong bài Love Story. Khi chấm dứt, Hội hỏi tôi:

– Bạn có còn nhớ ra cây sáo trúc này không? Tôi lắc đầu. Hội chìa cây sáo ra trước mặt tôi:

– Chính là cây sáo cũ, mà ngày mình còn đi học ở Nha Trang, ông thầy ngưởi Huế đã tặng mình, khi bảo mình là “đứa học trò có năng khiếu sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”.

Tôi gật đầu đắc ý, định khen Hội một lời, nhưng dường như Hội đã đọc được ý nghĩ đó, anh xua tay:

– Không, ông Thầy nói không đúng hẳn. Có thể là mình có chút năng khiếu, nhưng năng khiếu không thể tạo được linh hồn.

Thấy tôi ngớ ra chưa kịp hiểu, Hội tiếp lời:

– Chính hình ảnh của Triệu Minh, cùng với tất cả những hạnh phúc, đắng cay ấy đã làm nên linh hồn cho cây sáo!

Tôi cầm săm soi cây sáo đã khá cũ, đưa lại cho Hội rồi buột miệng:

– Không ngờ qua biết bao thăng trầm, bạn vẫn còn giữ được cây sáo…mà lại không giữ được Triệu Minh.

Vừa nói xong, biết mình lỡ lời, định nói một câu xin lỗi thì điện thoại reo. Người bạn báo đã đến chờ phía trước. Tôi đứng lên nắm tay Hội, nhắc lại một kỷ niệm xưa, lúc hai thằng còn nhỏ. Chuyện Hội đã bảo tôi đem thả con cuốc chúng tôi vừa vui mừng bẫy được, sau khi nghe cha tôi bảo con cuốc ấy là hóa thân của Vua Thục Đế, vì mất nước mà khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành chim, cất lên những tiếng kêu khắc khoải, não nùng.

Hội ôm chặt vai tôi:

– Không ngờ bây giờ bọn mình cũng là hai con quốc quốc.

Chia tay Hội, mở cửa bước ra ngoài. Đang giữa mùa hè mà sao những ngọn gió làm tôi buốt lạnh. Và dường như trời cũng vừa mới đổ thêm xuống một cơn mưa.

Phạm Tín An Ninh

Cám ơn Thiệu Vạn An đã gởi

CHUYẾN XE ĐỊNH MỆNH

Những người thờ ơ, vô cảm cũng cùng chung số phận với kẻ ác và rất đau buồn, thương tiếc cho nạn nhân phải hy sinh.

Có liên tưởng gì đến xã hội Việt Nam hôm nay ? Tình trạng chung, đang phổ biến là MACKENO.

CHUYẾN XE ĐỊNH MỆNH

Một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.

Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường…
“Này ông kia, ông xuống xe đi!” cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
“Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?”
“Ông đã cứu tôi?”
Cô vặn lại, và vài hành khách bình thản cười.
Người đàn ông thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông không nên bị đối xử như thế chứ.

Ông từ chối xuống xe, và nói: “Tôi đã trả tiền đi xe nên tôi có quyền ở lại xe”.
Cô gái nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy”.
Điều bất ngờ là hành khách, vốn tảng lờ hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe, họ nói:
“Ông ra khỏi xe đi, chúng tôi có nhiều công chuyện đang chờ và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!”
Một vài hành khách khỏe hơn tìm cách lôi người đàn ông xuống xe.
Ba tên du côn mỉm cười với nhau một cách ranh mãnh và bình luận: “Chắc tụi mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ!”
Sau nhiều lời qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và ông bị đẩy ra khỏi xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.

Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
“Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?”
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.

Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”. Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!

Lời của một người chuyển tiếp:
Một câu chuyện thật xót xa … Cô gái lái xe đã hành động đúng: Trả cho mọi người trong xe cái mà họ đáng được hưởng, đó là: Đến chỗ…không có loài người, nơi chỉ tồn tại những linh hồn “không có trái tim” !!

Theo Đại Kỷ Nguyên

“Đại gia” cũng khóc

“Đại gia” cũng khóc

Đoàn Dự ghi chép

Bước sang năm mới 2016, đại gia Lê Ân cũng vừa tròn 78 cái xuân xanh. Thế nhưng không ai nghĩ ông là một cụ già, bởi lẽ ông vẫn còn khẩu khí ngút trời và luôn có những hành động khó đoán. Sau một thời gian dài theo đuổi vụ kiện về căn nhà với người con trai cả cùng máu mủ, đại gia Lê Ân đã giành phần thắng trong phiên tòa ngày 23-12-2015. Tuy nhiên, kết quả ấy đồng nghĩa với nụ cười hay nước mắt? Bởi vì ông cực kỳ giàu có, sở hữu các tài sản hàng ngàn tỷ đồng, chỉ riêng chiếc xe Rolls Royce rước dâu ông “mua chơi” khi làm đám cưới với cô vợ thứ 5 mới 20 tuổi đã là 26 tỷ đồng, tức cỡ 1,5 triệu đo-la lúc ấy (2011), vậy thì căn nhà đối với ông đâu có nhằm nhò gì. Dù khỏe ông cũng không thể sống tới vài trăm tuổi được. Các tài sản lớn như núi ông sẽ để lại cho ai ngoài cô vợ trẻ? Cha con lôi nhau ra tòa, nếu suy nghĩ kỹ “đại gia” sẽ thấy ngậm ngùi và cái đó người ta kêu là… đại gia cũng khóc!

Trong số những đại gia vẫn hãnh diện khoe số tài sản hơn một ngàn tỷ của mình tại Việt Nam hiện nay, Lê Ân là trường hợp không dễ hiểu chút nào. Cuộc đời ông nhiều thăng trầm, nhiều ngang trái mà cũng nhiều… ngông nghênh. Vì vậy chuyện ông kiện tụng người con cả ruột thịt không hẳn bởi một căn nhà, mà chủ yếu là để chứng minh công lý phải thuộc về phía ông.

Người con trai tranh chấp tài sản với đại gia Lê Ân có cái tên khá đặc biệt do chính ông đặt: Lê Đa Ni En. Đó là con trai lớn nhất ông có với bà vợ đầu tiên tên Lê Thị Ngọc Lan, đã gắn bó với ông từ thuở hàn vi. Để hiểu rõ vụ kiện một cách đơn giản, chúng ta có thể tóm tắt như sau:

Căn nhà số 408 ngoài mặt đường Cách Mạng Tháng 8 được vợ chồng ông Lê Ân mua và sinh sống từ năm 1970, diện tích 76m2. Năm 1984, Lê Ân ly dị bà Ngọc Lan, để lại căn nhà này cho vợ cùng 5 người con ở và buôn bán.
Ông “làm lại cuộc đời” với người vợ thứ hai lai Mỹ, cô này có một đứa con, bỏ lại cho ông nuôi rồi đi mất. Ông hàn gắn với người thứ ba tên Kim Thu, đồng thời năm 1970, để gần gũi với máu mủ ruột rà, ông mua căn nhà ở ngay phía sau sát sau sát với căn nhà 408 Cách Mạng Tháng 8, có diện tích 149,7m2.

Từ năm 1990, Lê Ân chuyển ra Vũng Tàu, mua nhà ở Vũng Tàu, căn nhà 149,7m2 (tức căn phía trong) khóa cửa bỏ không.

Bẵng đi một dạo, Lê Ân phát hiện ra Lê Đa Ni En đứng tên chủ quyền căn nhà 408 Cách Mạng Tháng 8 với diện tích lên đến 225,7m2, tức bao gồm luôn cả căn bỏ không phía trong, điều đó có nghĩa Đa Ni En đã gộp hai căn làm một và điều lạ lùng là cơ quan hành chánh quận Tân Bình Sài Gòn vẫn làm giấy tờ cho Đa Ni En làm chủ trong khi cả hai căn đều đứng tên Lê Ân. Ông Lê Ân điên tiết, bèn khởi kiện con trai ra tòa để đòi lại tài sản của mình.
Sau 25 năm kiện tụng, ngày 23-12-2015 đại gia Lê Ân đã thắng con trai mình về mặt pháp lý. Còn về mặt đạo đức thì thật ê chề khi hai cha con coi nhau như thù địch. Thậm chí trước tòa họ không xưng hô với nhau có chút tình nghĩa, mà ông Lê Ân gọi con trai mình là “ông Đa Ni En”, còn Đa Ni En gọi ông là “đại gia Lê Ân”. Ông Lê Ân biện giải với tòa rằng ông muốn lấy lại căn nhà để sẽ bán đi, chia đều cho các con.

Tuy nhiên, mọi thứ dường như đã bị đẩy đi quá xa khi, cũng trước tòa, ông nói về con trai: “Con cả của tôi không có cái tâm. Tôi nhìn mặt nó không phải mặt người mà là mặt quỷ. Mấy chục năm qua nó định đánh tôi nhưng tôi đều chạy. Chả lẽ tôi đánh lại nó thì bằng với nó hay sao? Là một người cha mà có đứa con ngỗ nghịch như vậy thì tôi đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Cay đắng lắm nhưng tôi không biết làm thế nào”. Ối trời cao đất dầy, cha con mà cạn tàu tráo máng như thế thì đúng là cay đắng thật!

Dai gia cung khoc - H.2
Thẳng thắn mà nói, ông Lê Ân là một người rất sòng phẳng. Ông luôn quyết liệt kiểu ăn miếng trả miếng, ơn thì đền, oán thì trả. Trước khi cưới cô Mai Thị Mai (báo chí thường gọi là cô Mai Mai) nhỏ hơn ông 55 tuổi làm vợ thứ 5, đại gia rất hận ba người vợ trước đó, nhân lúc mình nguy khốn đã phụ bạc mình. Để thỏa cơn uất hận, ông cho tạc ba bức tượng của ba bà vợ cũ và trưng bày ngay trước khuôn viên Khu du lịch Chí Linh của ông ở Vũng Tàu. Đến nay ông vẫn bộc bạch với báo chí hầu như chưa nguôi cơn giận: “Tui cho tạc tượng mấy bả để khắc cốt ghi tâm những gì mấy bả đã đối xử với tui. Mỗi lần nhìn tượng mấy bả, tui càng có thêm nghị lực để vươn lên, nhắc nhở mình rằng không nên sa lầy vào những cuộc hôn nhân không tốt đẹp như vậy nữa!”

Dĩ nhiên yếu tố để được gọi là đại gia là tiền bạc chứ không ai đòi hỏi đại gia phải có phẩm chất của bậc đại trượng phu, bao dung, độ lượng!

Tuổi thơ nghèo khó
Ông Lê Ân sinh năm 1938 (Mậu Dần) trong một gia đình đông anh em ở Quảng Nam. Ông là người con thứ 5.
Lê Ân có tuổi thơ nghèo khó, túng thiếu. Biến cố đầu tiên của cuộc đời ông chỉ xuất hiện khi, năm 1958, 20 tuổi, ông trốn quân dịch, vào thị xã An Lộc, tỉnh Bình Long (nay là tỉnh Bình Phước) dưới chế độ TT Ngô Đình Diệm.
Vào An Lộc, Lê Ân mưu sinh bằng cách thuê một chiếc máy may hiệu Singer đã cũ – loại máy sử dụng bàn đạp bằng chân – rồi đặt trước doanh trại quân đội An Lộc, phía trên vỉa hè để sửa thuê quần áo lính. Ông sửa rẻ, lại đẹp nên lính đem ra sửa rất đông, nhiều khi làm không hở tay.

Hơn năm sau, Lê Ân đã có đủ tiền mua lại cái máy may đã thuê đồng thời mua thêm 2 cái máy may khác để mướn thợ làm phụ với mình.

Một lần, Lê Ân có một vị khách lạ. Ông cụ này từ Bắc vào Nam từ năm 1948. Khách bảo “Thấy cậu khéo tay, lại cần mẫn làm ăn. Nếu muốn học may áo vest thì tôi truyền cho”. Như hạn hán gặp cơn mưa, Lê Ân nhận lời ngay lập tức và trở thành đệ tử của vị khách.

Sau khi đã học hết nghề, với một tấm giấy hoãn dịch giả mua được của một sĩ quan ở An Lộc, Lê Ân gom hết vốn liếng, về Sài Gòn thuê một căn nhà trên đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần, quận 3) rồi mở một tiệm chuyên may đồ vest với tên gọi Chiến’s Tailor.

Chỉ một thời gian ngắn, Chiến’s Tailor trở thành một trong những tiệm may đồ vest hàng đầu của Sài Gòn với cách thức do ông đặt ra: vải tốt, may đẹp, giá hạ và đúng hẹn. Tiền vào như nước nên chẳng bao lâu sau Chiến’s Tailor trở thành một trung tâm Âu phục danh tiếng. Ông nói: “Để quảng cáo cho mình, cứ hễ bước ra đường là tôi mặc đồ vest và là đồ do chính tôi may”. Cái thói quen ấy Lê Ân vẫn còn giữ mãi tới ngày nay, áo vest ông mặc phải nói là rất đẹp.

Có tiền, Lê Ân bắt đầu mở rộng thêm các ngành nghề kinh doanh khác, như thành lập xưởng sản xuất giày dép da hiệu Italy; kinh doanh xe lam, xe buýt chạy đường Sài Gòn – Bảy Hiền – Bà Chiểu; thành lập công ty kinh doanh địa ốc; mua trái phiếu người cày có ruộng của nhà nước và công khố phiếu quốc gia..vv.

Tiếp theo đó, Lê Ân dồn toàn bộ vốn liếng thành lập một ngân hàng tư nhân của riêng mình. Tuy nhiên, ngân hàng này chưa kịp kinh doanh có lời thì Sài Gòn “giải phóng”. Toàn bộ trái phiếu, công khố phiếu quốc gia và các chứng từ có giá trị lớn của ông dưới chế độ cũ đều biến thành… giấy lộn!

Cái đáng quý nhất còn sót lại của Lê Ân sau khi ngân hàng của ông bị “đứt bóng” là uy tín. Chính vì có uy tín nên mặc dầu trắng tay nhưng ông vẫn có những người bạn cho mượn vốn. Ông kể: “Tôi bắt đầu lại bằng cách xin đấu thầu thu gom sắt thép phế liệu thời hậu chiến. Thời đó, đây chính là một nguồn lợi khổng lồ”.

Ngoài việc kinh doanh phế liệu, Lê Ân còn lao vào một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với ông. Thời điểm này, người Việt ở các nước ngoài đã bắt đầu gửi quà về cho gia đình, mà quà đa số là những thùng thuốc tây. Hợp tác với một dược sĩ tên Gia, ông lập một hệ thống tư nhân thu mua thuốc tây – trong đó đặc biệt là các loại thuốc “ngậm” – tức những thứ thuốc đặc trị các bệnh ít gặp. Ông nói: “Chính vì là thuốc “ngậm” rất ít người mua nên khi thu vào giá rất rẻ, nhưng nếu có ai cần đến thì lại bán được với giá rất cao. Mới nghe qua người ta thấy phi đạo đức, nhưng cứ thử nghĩ, tôi bỏ ra một cây vàng chẳng hạn để mua một thùng thuốc “ngậm”, rồi một năm sau, không bán được cho ai, thuốc hết “đát” phải vứt bỏ là tôi mất luôn cả một cây vàng”.

Với việc dám mua bán các loại thuốc đặc trị, Lê Ân thu được những khoản lời khổng lồ. Đặc biệt nhất là sau 2 năm kinh doanh thuốc tây, hầu như ông thuộc lòng các mặt hàng thuốc, từ tên gọi cho tới công dụng, liều dùng, giá cả v.v…

Từ những khoản lợi nhuận này, ông tiếp tục đầu tư làm xưởng sản xuất xe đạp và nhà máy chế biến xà bông, đồng thời thành lập tiệm vàng Chiến Thành với giấy phép kinh doanh là gia công vàng bạc nữ trang. Tuy nhiên, mỗi đêm Lê Ân lại âm thầm phân kim hàng chục lượng vàng đã mua được từ nhiều nguồn khác nhau, thêm bạc vào đó (gọi là vàng “xanh”, kém chất lượng) để bán lại cho những người muốn đi vượt biên. Chính vì hành vi này mà Lê Ân bị bắt và bị đi cải tạo một thời gian khá dài về tội giúp đỡ phương tiện cho người vượt biên.

Bị đi kinh tế mới 
Sau khi ra tù, Lê Ân bị cú sốc thứ hai khi nhà nước CSVN thực hiện chủ trương đánh tư sản mại bản, gia đình ông thuộc thành phần bị đuổi đi kinh tế mới.

Một người như Lê Ân đâu có chịu ở nơi rừng rú, khỉ ho cò gáy, thiếu thốn đủ mọi thứ. Từ kinh tế mới, ông đem gia đình trốn về Nha Trang để không ai biết gốc tích của mình, rồi mua nhà, lập cửa hàng bán đồ phụ tùng xe đạp, sản xuất khung xe đạp và mua bán vải tại Chợ Đầm Nha Trang.

Tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của ông là giao toàn bộ tài sản, tiền bạc, vàng và kim cương hột xoàn cho người vợ đầu gối tay ấp đã có với mình 5 mặt con, tức bà Lê Thị Ngọc Lan. Năm 1984, bà này làm đơn ra tòa xin ly dị với lý do là ông luôn luôn mèo chuột, có nhân tình nhân ngãi hà rầm bà không chịu nổi. Ông không có giấy tờ gì chứng minh mình là chủ các tài sản đã giao cho vợ nên lại một lần nữa trắng tay.

Quá thất vọng, Lê Ân bỏ Nha Trang trở về Sài Gòn. Ông “làm lại cuộc đời” bằng cách mở một shop nhỏ buôn bán quần áo thời trang tại quận 3 Sài Gòn. Bàn tay Lê Ân dường như có ma thuật, shop tuy nhỏ nhưng buôn bán hết sức thành công. Sau đó ông mở thêm một chuỗi các cửa hàng tại nhiều quận khác tại Sài Gòn. Có tiền, ông lập thêm các tiệm thuốc tây tại các quận 1, 3 và quận 10.

Khi có nhiều tiền, ông thành lập Qũy tín dụng Hòa Hưng (đây là tên do ông đặt ra với ý nghĩa vừa an hòa vừa hưng thịnh chứ không phải Hòa Hưng ở khu Ngã ba Ông Tạ). Ông mua đồng rúp và lập thêm nhiều chi nhánh kinh doanh vàng bạc. Ngoài ra ông còn có cổ phần lớn tại nhiều trung tâm tín dụng khác.

Đối diện với án tử hình 
Như một quy luật phát triển, Quỹ tín dụng Hòa Hưng được chấp thuận cho phép nâng cấp thành Ngân hàng cổ phần Đại Nam. Tuy nhiên, lúc có giấy phép thì tên của ông không có trong hội đồng quản trị.

Sau khi bị loại khỏi cuộc chơi này, Lê Ân trở thành thành viên của các tổ chức tín dụng nằm trong một khối liên kết mà trước đó ông được bầu làm chủ tịch.

Ông đề xuất sáp nhập Qũy tín dụng Phú Đông với Quỹ tín dụng Thống Nhất vì hai quỹ này đang làm ăn lỗ lã, rồi ông bỏ vốn ra cứu nó sống lại và được các thành viên bầu làm chủ tịch. Ông cũng “cứu sống” Quỹ tín dụng Phụ nữ Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo và nâng cấp nó thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Vũng Tàu (VCSB). Ngân hàng này chính thức được khai trương tại Vũng Tàu ngày 9/10/1991 do Lê Ân đứng đầu Hội đồng quản trị.

Tiếp đến, Lê Ân thành lập Công ty Lê Hoàng để lập Khu du lịch Chí Linh. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không cho phép VCSB lập khu du lịch bởi vì ngân hàng không có chức năng làm du lịch. VCSB chuyển toàn bộ dự án kinh doanh khu du lịch Chí Linh cho Công ty Lê Hoàng. Chính vì vậy có dư luận cho rằng Lê Ân lạm quyền, chi 82 tỉ đồng lấy từ VCSB cho Công ty Lê Hoàng nơi Lê Ân làm chủ tịch Hội đồng quản trị..

Thanh tra Ngân hàng Nhà nước khởi tố vụ án. Ngày 11/2/2000, Lê Ân cùng 6 thành viên trong Ban lãnh đạo VCSB bị bắt, và ngày 28/5/2001, ông bị tuyên án tử hình về tội lừa đảo, chiếm dụng vốn liếng của VCSB, còn 6 thành viên kia thì bị các mức án tù khác nhau.

Lê Ân làm đơn kháng cáo và giao nộp toàn bộ các chứng từ của VCSB cho cơ quan điều tra để chứng minh mình vô tội. Toàn là tiền vốn do ông đã bỏ ra cho VCSB hoạt động mà thôi, nếu ông chuyển một số vốn “của mình” sang Công ty Lê Hoàng thì đâu có gì là trái? Ông đã thành công và được giảm án từ tử hình xuống 12 năm tù.
Trong thời gian thụ án, do cải tạo tốt nên Lê Ân được cho ra ở nhà phía ngoài, không bị nhốt chung với các tội nhân khác. Và ngày 31/8/2005, Lê Ân được thả sau hơn 5,5 năm bị giam giữ (tính cả 1 năm bị bắt giữ và ra tòa trước khi tuyên án).

Ông ra tù thì tài sản phải trả lại cho ông. Bởi vậy hiện nay Lê Ân rất giàu, ngoài Trung tâm Du lịch Chí Linh ông còn làm chủ một bãi tắm tại Vũng Tàu thuê của nhà nước, có bán vé để chuyên đón tiếp khách du lịch nước ngoài, và nhiều cơ sở kinh doanh lớn khác.

Các bà vợ của Lê Ân
Người vợ đầu tiên của đại gia Lê Ân là bà Lê Thị Ngọc Lan (năm nay 72 tuổi tức kém ông 6 tuổi). Hai người đã có với nhau 5 mặt con. Tuy nhiên, trong thời gian ông ở tù, bà này làm đơn xin ly dị, đem vào trong tù cho ông ký và chiếm hết tài sản của ông. (Tượng phía bên trái, hình người đàn bà mặc áo dài miền Trung, bưng bình nước đổ đi coi như đã dứt hết tình nghĩa).

Dai gia cung khoc - H.3
Người vợ thứ hai là một phụ nữ Việt lai Mỹ, ở với ông được một năm thì bỏ đi làm ăn xa và mất tích, để lại cho ông một con trai. (Người này không bị “lên tượng” vì ông không căm hờn).

Người vợ thứ ba tên Nguyễn Kim Thu (khi cưới mới 20 tuổi), là một cô gái xinh đẹp, có học thức, người gốc Bắc. Đám cưới của hai người diễn ra hoành tráng nổi tiếng ở Sài Gòn lúc đó. Tuy nhiên, chỉ được mấy tháng, cô này đã bộc lộ nhiều thủ đoạn, trong đó có cả việc uống thuốc ngừa thai để không có con với ông. Cưới nhau chưa đầy 6 tháng, cô ôm toàn bộ tiền và vàng của ông bỏ trốn. (Tượng thứ ba phía bên phải, mặc áo tứ thân miền Bắc, tay cầm nón quai thao cho biết gốc Bắc chứ cô không liên quan gì tới nghệ sĩ Quan Họ Bắc Ninh).
Người vợ thứ 4, tên Khanh, gốc Phan Thiết. Rất tin vợ, ông đặt cô vào vị trí Phó chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Lê Hoàng. Khi Ngân hàng VCSB “đứt bóng” và ông lâm cảnh tù tội, việc điều hành công ty được ông giao lại cho cô này. Tuy nhiên, trong thời gian ông ở tù, cô âm thầm chuyển giao toàn bộ tài sản lẫn quyền lực của ông cho “người tình” là một trưởng phòng trong công ty của ông. Kết cục của cuộc hôn nhân thứ 4 này cũng là một cuộc ly dị trước tòa. (Tượng giữa).

Người vợ thứ 5 hiện nay, tên Mai Thị Mai. Cô là một cô gái khá đẹp, kém đại gia Lê Ân 55 tuổi. Ông làm đám cưới cực kỳ hoành tráng với cô cách đây 3 năm, khi ông 75 tuổi còn cô 20 tuổi.
Mai Mai thuộc một gia đình “thường thường bậc trung” ở huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, sau khi tốt nghiệp trung học đã xin được vào làm thư ký trong Khu du lịch Chí Linh của đại gia Lê Ân năm cô 19 tuổi. Không để ý tới khoảng cách tuổi tác, đại gia yêu cô, cầu hôn với cô và dùng siêu xe Rolls Royce Phantom trị giá hơn 1 triệu đô để … rước nàng về dinh, mời tất cả mọi người ở Bà Rịa ai đi đám cưới thì có xe đưa rước và ăn uống hoàn toàn miễn phí theo kiểu buffet trong 3 ngày tại Khu Du lịch Chí Linh.

Dai gia cung khoc - H.4

Muốn bày tỏ sự cưng chiều cô vợ trẻ, ông còn mua cho cô một chiếc xe hơn 500 ngàn đô la và bỏ ra 6 tỷ đồng đặt mua chiếc giường đẳng cấp Hoàng gia Anh để mỹ nhân 20 tuổi ngả lưng khi mỏi mệt. Ông lớn hơn bố mẹ vợ hơn chục tuổi nên gọi bố mẹ vợ là “cậu, mợ”, xưng “tôi”, còn bố mẹ vợ gọi ông bằng “anh”, xưng “cậu, mợ”.

Mai Mai là người như thế nào? Vị đại gia nay 78 tuổi này cho biết: “Cuộc sống hiện tại của tôi rất hạnh phúc. Mai Mai có cái tâm tu, tâm tiên chứ không phải tâm con người. Tâm của con người thì đâu có được như thế. Cô ấy chăm sóc tôi rất chu đáo. Mặc dầu đã hơn 3 năm rồi mà chúng tôi không có con nhưng cô ấy vẫn làm tròn trách nhiệm của một người vợ, không hề có điều tiếng gì. Sáng nào chúng tôi cũng cùng nhau dậy sớm, tập thể dục xong tôi đưa vợ đi ăn sáng rồi mới về làm việc. Ngày nào ăn thức ăn còn dư cô ấy cũng không để tôi ăn lại vào ngày hôm sau vì sợ tôi tuổi cao, sức đề kháng cơ thể không tốt, nên chính cô ấy ăn thức ăn cũ còn tôi ăn thức ăn mới. Khi nào mua đồ ăn lạ về, người giúp việc làm xong, cô ấy đều ăn thử trước xem thế nào rồi mới đưa tôi ăn. Thật sự nhiều khi tôi rớt nước vì có được người vợ như vậy”.

Ông Ân kể tiếp: “Tiền bạc của cải tôi làm ra nhiều nhưng kiếm được một người vợ như vợ tôi không phải chuyện dễ. Quê vợ tôi ở cách chỗ chúng tôi chỉ khoảng 30 phút lái xe thôi, nhưng cả tháng hay 3 – 4 tháng cô ấy mới về một lần, còn thì chỉ quanh quẩn ở nhà giúp tôi làm việc và chăm sóc tôi. Ban đêm tôi làm hồ sơ, vợ tôi nhập máy vi tính. Thử hỏi người đàn ông nào nếu có người vợ như vậy thì họ có cảm thấy mãn nguyện không?”. (Không, tui không mãn nguyện bởi vì ban đêm ngồi viết bài, tui mần thẳng trên máy vi tính, nếu có người ngồi bên cạnh thì tui chịu không nổi dù đó là “người yêu quý gần 40 năm trước” của tui!- ĐD).

Nói thêm về đức độ của người vợ trẻ, đại gia Lê Ân cho biết: “Hiện tại, vợ tôi đang muốn tôi làm một quán cơm từ thiện nhưng tôi chưa có thời gian. Người ta làm quán cơm từ thiện 1.000$, 2.000$/bữa, 3 món canh, xào, mặn; còn cô ấy muốn quán cơm của chúng tôi phải hoàn toàn miễn phí. Một ngày gần đây tôi sẽ thu xếp thời gian để làm một quán cơm như vậy cho cô ấy vừa lòng. Tiền bạc đối với tôi không thiếu nhưng tôi chỉ thiếu thời gian mà thôi”.

“Đại gia” và con trai tại tòa 
Nói tóm lại, tổng cộng ông Lê Ân có 5 người vợ và 6 người con (kể cả 1 người là con của bà thứ 2 Việt lai Mỹ). Tuy nhiên, trở lại quá khứ, thậm chí cả trong hiện tại, ông có mối quan hệ không lấy gì làm tốt đẹp nếu không muốn nói là hết sức tồi tệ với bà vợ đầu tiên đã ly dị Lê Thị Ngọc Lan và người con cả Lê Đa Ni En.
Đa Ni En là con trai lớn của ông Lê Ân với bà Ngọc Lan. Sau khi ly dị với bà Lan, ông Ân đã nhiều lần kiện tụng, đòi mẹ con bà phải trả lại ngôi nhà 3 tầng ở số 408 đường CMT8, quận Tân Bình, Sài Gòn. Cũng chính vì căn nhà này mà mối quan hệ cha con của ông hết sức căng thẳng.

Ông Lê Ân cho biết: “Thằng trưởng nam (trong Nam kêu là “anh Hai”) của tôi đối xử với tôi không ra gì. Tôi nói thiệt, nói ra thấy quá phũ phàng chứ sự thiệt tôi không dám về căn nhà số 408 Cách Mạng Tháng 8 vì sợ bị cậu “quý tử” này đánh. Nó khăng khăng là căn nhà đó của má nó, nó dùng võ lực cấm tôi bước chân vô. Khi tôi kiện má nó để đòi lại căn nhà này, nó lên báo chửi tôi rất nhiều. Mọi người nói với tôi: “Anh đã mất một đứa con rồi…”. Tôi nói: “Tôi biết là đã mất nó lâu rồi”. Trong di chúc tôi viết rất rõ: “Tôi dứt khoát khai trừ đứa con này. Tôi còn sống cũng như tôi chết, nó không phải là máu mủ, ruột rà với tui…”.

Mới đây, ông Lê Ân lại tiếp tục đưa đơn kiện đòi bà Lê Ngọc Lan và anh Lê Đa Ni En để đỏi lại nhà. Báo Một thế giới thông tin: “Tại Tòa án Nhân dân quận Tân Bình Sài Gòn vào chiều 23.12.2015, hai người đàn ông có mối quan hệ ruột thịt đã xem nhau như người xa lạ. Trước hội đồng xét xử, ông Lê Ân gọi anh Đa Ni En là “ông Lê Đa Ni En”. Ngược lại, anh Đa Ni En gọi ông Lê Ân là “đại gia Lê Ân”. Và trong suốt phiên tòa, hai người đàn ông gần như không một lần nhìn mặt nhau”.

Phiên tòa kết thúc, phần thắng thuộc về ông Lê Ân và hội đồng xét xử bác đơn kiện của anh Lê Đa Ni En.
Sau khi rời tòa, ông Lê Ân và anh Lê Đa Ni-En bước nhanh ra khỏi TAND Q.Tân Bình, tránh nhìn mặt nhau. Chỉ khi đi chung chiếc cầu thang, lối đi duy nhất để ra xe, có cơ hội nhìn nhau nhưng anh Đa Ni En dấn bước đi rất nhanh, còn ông Lê Ân lặng lẽ đi phía sau, cố tình làm bộ chăm chú vào các bậc thang, coi như không thấy đứa con đang tranh giành tài sản với mình.

Ông Lê Ân nói: “Khi đối diện với chính con đẻ của mình trước tòa, trông thấy mặt nó tôi không thể nào bình tĩnh nữa. Tôi đã đeo đuổi vụ kiện vợ phản chồng, con phản cha trong hơn 25 năm nay, quyết tâm đòi lại căn nhà cho bằng được”.

Thế đấy, “đại gia cũng khóc” là ở chỗ đó.

Đoàn Dự

Đói Cơm

tôi Cao Khả Cường, ở Đức, thành phố Kaarst xin gởi chuyện ngắn có thật, trước đây hơn 50 năm.

 Đói Cơm

Chiều sụp tối mau … Chợ Điền Lộc vắng, im, vài cánh cửa hở, đèn hắt ánh vàng vành.

Không lâu, sau chén trà nấu vội, uống vội, ánh vàng cuối cùng tắt. Chợ Điền Lộc, chiều … Tối Đen Như Mực …

Ngày mai, sương mới, chợ đông. Chợ ngủ – Mực Đêm che mắt, giấc sớm, về …

Canh chó (khoảng 7 đến 9 giờ tối) bổng có bước chân, nhiều bước chân vòng chợ, quanh nhà , đi …

Cổng chợ, bà Chanh hoảng hồn, hỏi :

Ai rứa !“

Thưa Mạ, con đây !“ – Một thanh niên gỏ cửa, trả lời, bước …

Cầm cái đùi, ông Ớt ở cạnh nhà mụ Chanh, lớn giọng:

Ai đó !“

Thưa Ôn, cháu đây“ – „Mời cả nhà ra hết! Hôm ni họp đầu đình !“ – Một thiếu nữ đập cửa, trả lời, chạy …

Hắn cầm cây đuốt, lửa đỏ rực, rảo theo đồng đội, vừa đi vừa nói lớn :

Giải phóng mời tất cả dân làng ra chợ họp! “ – „ Giải phóng mời tất cả dân làng ra chợ họp! “

Tay phải lại rờ bảng súng AK47, ngón trỏ vòng vòng, vân vê cò súng. Hắn, thằng Điên, ở chợ từ thủa mồ côi, mà mồ côi từ lúc nào, hắn không hay biết, cả làng Kế Môn không ai biết, ăn-ngủ nhờ chợ, người mua, người bán kêu hắn : Thằng Điên.

Trước đây tám tháng, con Đĩ, đứa con gái, không biết con cái nhà ai, chia ăn, chia ngủ cùng hắn hơn năm trời, đùng một cái, chết trôi trên sông Ô Lâu. Buồn, hắn bỏ chợ, qua cầu Đại Lộc, lên độn … Bây giờ từ độn xuống chợ, hắn hiên ngang khẩu súng AK47 mang lưng, mà cái quần vẫn quần lính cũ, vẫn cồm cộm cái vá múc cơm bằng nhôm he hé túi quần.

Cách mạng mời tất cả dân làng ra chợ họp! “ – „Cách mạng mời tất cả dân làng ra chợ họp!“ …

Chợ đất, giữa đêm – Chợ đầy người. Đuốt lửa cột cổ cột đình – Chợ sáng.

Có em ngơ ngác ngồi ngái ngủ, có chị túm áo vẫn hở hang và những cái mặt thất thần đứng chung – Chợ sợ.

Nhiều bàn tay cầm súng rải quanh đám người – Chợ súng.

Kẻ trước kẻ sau từng tiếng gọi, ông trước lùi khóc, bà sau bất tỉnh .

Chợ đấu tố – Chợ đấu tố …

Mụ Chanh, bước ra đây !“ – Một thanh niên hất giọng.

Bà Chanh len ra trước đám người, hớt hải, run, mặt tái: „Dạ“

Thằng Lý phản động mô rồi ?“ – Gả thanh niên giọng dữ.

Chồng c..o..n đi Huế chưa về, thưa ô…n …“ Bà Chanh trả lời.

Gả thanh niên đưa tay cầm súng, nhìn bà Chanh, nhìn đám người, sang sẳng nói:

Mặt trận giải phóng phải xử tử mụ Chanh vì tội phản động của thằng Hoàng Trung Lý, ngay bây giờ, mọi người nghe rỏ chưa.“

Im lặng – Chợ im – Chợ im …

Hai thanh niên và một thiếu nử, kéo lết bà Chanh tới cây Phượng Vĩ lớn, giữa chợ, cột bà đứng thẳng. Không đứng, bà treo xiêu vẹo – Chợ xìu.

Bốn tiếng nổ từ hai gả đàn ông, hai bà đàn bà, nhắm bà Chanh, bắn tới – Chợ bắn.

Bà vẫn treo xiêu vẹo, không giọt máu đào, bà chết, đã chết trước lằng đạn – Chợ chết.

Có hai đứa trẻ thơ, cầm chén, đội đầu, chạy tới bà Chanh, khóc :

Mạ ơi ! Con đói …“

Mạ ơi ! Đói cơm …“

Hắn bước đến bà Chanh, định bụng dẫn hai em bé về. Nhìn bà Chanh, hắn chợt thấy tay bà cầm chặt cái vá múc cơm giống hắn – Chợ Đói Cơm.

Khả Quỳnh

07-01-2016:16:30 Meerbusch

MỐI TÌNH NGANG TRÁI CỦA NGƯỜI CHA VÀ CỦA NGƯỜI CON

MỐI TÌNH NGANG TRÁI CỦA NGƯỜI CHA VÀ CỦA NGƯỜI CON    

PT. Nguyễn Mạnh San

Cách đây  khoảng 10 năm, tôi có viết một câu chuyện, kể lại về một ông Việt kiều tên Robert Quách, góa vợ sống trong cảnh gà trống nuôi con, cho đến khi đứa con ông tới tuổi trưởng thành. Mặc dầu hiện tại ông đang trong tình trạng mỏi gối chùn chân, đi đứng chậm chạp, không vững nhưng chưa đến nỗi phải chống gậy, có lẽ ông nhờ uống thuốc dược thảo tam tinh bổ thận hoàn, được bào chế tận bên Tây Tạng, nên tâm hồn ông lúc nào cũng cảm thấy trẻ trung, yêu đời như ngày nào ông mới 20 tuổi.

Sau đây tôi xin được lược thuật lại những tình tiết gây cấn về mối tình ngang trái của ông Robert Quách và mối tình ngang trái của cậu con trai ông là Tommy, để quý đọc giả nào chưa đọc hai câu chuyện này trước kia, thì nay quý vị có dịp đọc hai câu chuyện này.

Câu chuyện thứ nhất, ông Robert Quách về Việt Nam thăm thắng cảnh quê hương yêu dấu lần đầu tiên và cũng theo chân một số anh em bạn bè đồng tuổi với ông ở Hoa Kỳ trở về thăm Sàigòn, với mục đích trước tiên là được nhìn lại những cảnh đẹp thiên nhiên ở quê nhà, sau nữa là để có dịp được thưởng thức một vài món ăn đặc sản nặng tình quê hương, mà trong đó có món độc đáo uống bia nằm, tức là cảnh đi mây về gió, của hai tâm hồn quấn quít bên nhau, qua những giây phút tình yêu lên ngôi, chẳng khác nào như những thanh niên thiếu nữ trong tuổi dậy thì, mới biết nếm mùi yêu đương lần đầu tiên trên đời. Một số bạn bè kể chuyện lại cho ông nghe là có những du khách Việt kiều về Việt Nam, từ trung tuổi tới cao niên, đều ưa thích món bia nằm nội hóa này, vì nó được xếp vào hàng thứ nhì sau món cầy tơ bẩy món, mà hai món đặc thù này ông cũng ao ước muốn nếm thử xem sao, nhất là cả hai món loại này thuộc loại quốc cấm tại Hoa Kỳ, ngoại trừ loại uống bia nằm được chính quyền tiểu bang Nevada cho phép tiêu thụ, nhưng chỉ được phép tiêu thụ tại một nơi riêng biệt, do chính quyền chỉ định và dưới sự kiểm soát y tế chặt chẽ của chính quyền địa phương, thuộc vùng ngoại ô, cách xa thành phố Las Vegas của tiểu bang Nevada. Vậy, nếu ai bất chấp pháp luật mà dám vi phạm 2 loại quốc cấm này tại Hoa Kỳ, nếu bị bắt quả tang đang tiêu thụ loại này, thì tùy theo luật pháp của mỗi tiểu bang quy định, kẻ tiêu thụ cũng như người cung cấp, cả hai không những phải đóng tiền phạt vạ mà còn có thể bi lãnh án ở tù nặng hay nhẹ, để được chính quyền mời đi nghỉ mát một thời gian, trong cac trại giam có máy điều hòa không khí, nhưng hoàn toàn vắng bóng đàn bà.

Trở lại câu chuyện của ông Robert Quách vừa kể trên, hai tuần lễ đầu ở Việt Nam, cứ cách mỗi tối, bạn bè của ông lại rủ ông đến quán nhậu bia ôm, mặc dầu cô nàng mà ông ôm trong đôi cánh tay từ ái của ông, vừa trẻ đẹp lại vừa ăn nói có duyên, quả đúng với cái tên thơ mộng của nàng là Thu Hương, nhưng ông vẫn chưa cảm thấy hài lòng, hình như vẫn thiếu một cái gì đó trong lòng ông, khó thốt ra thành lời. Có lẽ Thu Hương hiểu được tâm trạng khao khát cái gì đó mà ông Quách đang thèm muốn trong lòng, nên vào một buổi tối, trước giờ quán bia ôm đóng cửa, cô đề nghị ông thuê một phòng ngủ ở khách sạn vào đêm nay, để hai chúng mình cùng nhau đồng ca một liên khúc tình yêu lên ngôi, rồi liên khúc này được đôi song ca tài tử, một già một trẻ, một tình yêu duy nhất, liên tục trình diễn cho nhau nghe mỗi đêm, kéo dài cho tới ngày ông hết phép nghỉ thường niên 3 tuần lễ, vì ông phải lên đường trở về Hoa Kỳ làm việc. Tuy nhiên trước khi chia tay với người yêu, nàng dẫn ông đến văn phòng chính quyền địa phương tại Sàigòn, để ký giấy giá thú với nàng và ông hứa với nàng là ngay sau khi về tới Hoa Kỳ, ông sẽ xúc tiến ngay giấy tờ bảo trợ cho nàng sang Hoa Kỳ theo diện vợ chồng (Category of Marriage). Chỉ cách 2 tháng sau khi ông trở về Hoa Kỳ, nàng liền điện thoại báo tin mừng cho ông biết, là nàng sắp sửa có tí nhau với ông, rồi tiếp theo 1 tháng sau, nàng lại báo tin mừng cho ông biết, là Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ chấp thuận cho phép nàng sang Hoa Kỳ, theo đơn xin đoàn tụ vợ chồng, mà ông đã đệ nạp với Sở Di Trú Hoa Kỳ và ông liền mua vé máy bay quay trở lại Việt Nam để đón nàng cùng sang Hoa Kỳ với ông, đồng thời cũng là dịp đầu tiên, để nàng đưa ông về giới thiệu với Mẹ, đây là người chồng yêu dấu của nàng, mà Mẹ nàng chưa từng thấy mặt đứa con rể của bà bao giờ, cũng như ông chưa từng thấy mặt Mẹ vợ bao giờ và hiện nay bà đang sống ở một vùng thôn quê, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Khi Thu Hương dẫn ông về trình diện Mẹ nàng, chưa kịp mở miệng giới thiệu với Mẹ câu nào, thì bà vừa nhìn thấy mặt ông, bà té xuống đất ngất xỉu, vì bà nhận ra ông chính là Bố ruột của con gái bà và bà cũng chính là người tình năm xưa trước năm 1975 của ông, lúc đó ông là một Sĩ Quan QLVNCH trẻ tuổi, hào hoa phong nhã, đóng quân ở nơi gần tỉnh quê quán của bà, rồi sau tháng 4 năm 1975, ông bị kẹt lại Việt Nam và bà cố gắng giúp cho ông khỏi bị cộng sản bắt đi tù cải tạo, bà đã phải bán đi 2 lượng vàng là gia tài duy nhất của bà, để giúp ông có phương tiện vượt biên sang Hoa Kỳ, tính tới ngày tiễn ông lên đường vượt biên, thì bà đã có thai với ông được 6 tháng, mà sau này bà sanh con gái đặt tên là Thu Hương. Sau khi bà sanh Thu Hương, vì kế sinh nhai khó khăn tại quê quán, bà phải thường xuyên rời đi nơi này tới nơi khác, không có địa chỉ nơi cư trú nhất định, nên bà bị mất liên lạc với ông cả mấy chục năm qua, mà bà cứ tưởng rằng người yêu của bà đã chết trên biển cả, như nhiều người vượt biên đi tìm tự do, đã bị bão tố hay bị những tên hải tặc hãm hiếp giết chết trên biển cả. Trong mấy năm đầu đến Hoa Kỳ, ông Quách cũng cố gắng hết sức tìm kiếm tin tức về người tình năm xưa là Mẹ của Thu Hương, nhưng vẫn biệt tăm tích, nên sau vài năm, ông cảm thấy đàn ông ở một mình không tốt, ông đã lập gia đình và vợ ông đã sanh cho ông một bé trai kháu khỉnh, dễ thương, đặt tên là Tommy Quách, nhưng chỉ độ hơn 5 năm sau, ông lại bị lâm vào tình trạng đau lòng, tương tự như hoàn cảnh đau buồn của người tình năm xưa của ông vừa kể trên, là Mẹ Thu Hương vì bà đã phải vất vả ngược xuôi, đi buôn bán hàng rong, mới kiếm đủ tiền nuôi Thu Hương cho đến khi nàng khôn lớn. Trong khi đó, con trai của ông mới được 5 tuổi, thì vợ ông qua đời vì bệnh ung thư, ông ở vậy trong cảnh gà trống nuôi con cho tới ngày nay con trai ông đã 25 tuổi. Giờ đây, tình trạng của ông thật quá trớ trêu, ông vừa là chồng của nàng, lại vừa là Bố ruột của nàng và cũng sẽ là Bố ruột của đứa bé mà nàng sẽ sanh nó ra. Vậy để giải quyết tình trạng nan giải này, trước ngày ông quay trở về lại Hoa Kỳ cùng với vợ là Thu Hương, ông gọi điện thoại nhờ tôi tư vấn cho ông về vấn đề này. Tôi khuyên ông vì tương lai của đứa bé sắp ra đời, là con ruột của ông và Thu Hương vừa là vợ ông, lại vừa là con ruột của ông nữa, nên ông đừng ngần ngại, cứ đưa Thu Hương qua Hoa Kỳ và nếu có ai tò mò hỏi ông, cô này là ai vậy? Ông hãy mạnh dạn trả lời họ, cô ta là con gái của ông mà ông mới bảo trợ cô ta từ Việt Nam qua. Khi thời gian thường trú của Thu Hương ở Hoa Kỳ đủ 2 năm, ông làm giấy ly dị cô ta, để cô ta không bị trục xuất trả về Việt Nam và cô ta sẽ có nhiều cơ hội làm lại cuộc đời với người nào thương yêu hai mẹ con cô ta thật tình.Vì câu chuyện tình ngang trái của ông, ngoài Thu Hương, bà Mẹ của Thu Hương và ông ra, không một ai biết rõ sụ thật của câu chuyện này, đồng thời ông cũng cần giải thích cho đứa con trai ông là Tommy biết, ông sẽ bảo trợ chị Thu Hương hơn Tommy 2 tuổi, là con gái ngoại hôn của ông khi xưa ông còn độc thân ở Việt Nam và nhờ chuyến đi du lịch về Việt Nam vừa qua của ông, tình cờ ông gặp lại hai mẹ con chị Thu Hương, nên ông quyết định bảo trợ cho chị Thu Hương sang đây trước, còn Mẹ của chị Thu Hương chưa muốn sang ngay bây giờ, nhưng cũng sẽ sang sau. Thế là ông Quách làm theo đúng như những lời tư vấn trên đây của tôi. Sang tới Hoa Kỳ, 2 năm sau ông làm giấy ly dị Thu Hương, 4 năm sau, Thu Hương lấy chồng là một luật sư Mỹ rất giàu có, thương yêu hai mẹ con cô hết lòng, trợ giúp cô bảo lãnh cho Mẹ cô qua Hoa Kỳ, để cho Bố cô từng là chồng của cô và Mẹ cô từng là người tình năm xưa của Bố cô được đoàn tụ với nhau, trong những ngày còn lại cuối đời của hai ông bà già gần đất xa trời này. Nhưng tiếp theo câu chuyện này , thì phải kể đến câu chuyện tình yêu của cậu em trai cô, là Tommy sanh đẻ ở Hoa Kỳ, cùng Cha khác Mẹ với cô, có thể được coi là mối tình ngang trái di truyền, từ người bố là ông Quách, sang người con là Tommy như sau:

Chắc quý vị đọc giả vẫn còn nhớ, sau khi ông Quách không tìm kiếm được người tình năm xưa ở Việt Nam, là Mẹ của Thu Hương, ông đành lập gia đình với một thiếu nữ, cư ngụ cùng một tiểu bang với ông và hai người có một cậu con trai đầu lòng, kém cô Thu Hương 2 tuổi là Tommy, như đã được đề cập trên đây. Ngay sau khi ông bố Tommy đưa cô Thu Hương sang Hoa Kỳ, thì cũng là lúc Tommy ra trường 4 năm đại học ngành kỹ sư điện toán và anh đi về Việt Nam chơi cùng với một bạn học người Việt Nam, học cùng lớp với anh. Trong thời gian hơn 1 tháng anh ở Việt Nam, anh phải lòng với một cô gái 19 tuổi, sinh đẹp, tên là Quỳnh Hoa, cố này nói được những câu tiếng Mỹ thông thường, mỗi khi anh không hiểu tiếng Việt thì cô lại nói tiếng Mỹ cho anh hiểu. Hai người yêu nhau thắm thiết, Quỳnh Hoa làm thợ hớt tóc ôm, tuần nào anh cũng đến tiệm hớt tóc ôm ít nhất 2 lần, để cho Quỳnh Hoa hớt tóc ôm cho anh. Rồi trước ngày anh phải quay trở về Hoa Kỳ, để khởi sự nhận việc làm cho một hãng tư, mà hãng này có giao kèo với chính phủ liên bang, Quỳnh Hoa dẫn anh đi ký giấy hôn thú với nàng, tại một văn phòng chính quyền địa phương và anh hứa ngay sau khi anh về tới Hoa Kỳ, anh sẽ nạp đơn bảo trợ cho Quỳnh Hoa sang Hoa Kỳ đoàn tụ với anh và chỉ 8 tháng sau, qua cuộc phỏng vấn của Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sàigòn, Quỳnh Hoa được phép sang Hoa Kỳ đoàn tụ với chồng và một năm sau Quỳnh Hoa sanh cho anh một bé gái đầu lòng xinh xắn dễ thương. Nhân dịp đầy tháng con đầu lòng, vợ chồng Tommy tổ chức bữa tiệc gia đình, mừng thôi nôi cho con tại nhà và mời Bố, tức là Ông Nội của cháu bé và mời Mẹ của chị Thu Hương, là người tình năm xưa của Bố, hai người đang sống chung với nhau, đến nhà vợ chồng Tommy dự tiệc. Trong lúc ông ngồi ở phòng khách, chờ đợi hai vợ chồng Tommy dọn các thức ăn lên bàn tiệc ở phòng ăn, thì bất chợt ông Quách nhìn lên tấm hình chụp Bố Mẹ của con dâu ông treo trên tường, làm cho ông hết sức ngạc nhiên lẫn xúc động, vì Bố của Quỳnh Hoa trong tấm hình này, chính là người em trai ruột của ông, là một sĩ quan tình báo trong QLVNCH trước năm 1975, kể từ ngày ông vượt biên sang Hoa Kỳ và cho đến ngày ông về Việt Nam lần đầu tiên, gặp được mẹ con Thu Hương, ông vẫn chưa nhận được tin tức gì về người em trai này của ông, nên ông kín đáo không cho con trai ông biết về tấm hình này, ông âm thầm hỏi chuyện riêng con dâu, ông cũng giữ kín, không cho cô con dâu biết Bố của cô là em ruột của ông và cô kể lại sự việc xẩy ra cho Bố chồng nghe như sau:

Cô được Bà Ngoại của cô kể lại rằng, sau khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam 1975, Bố cô bị đi tù cải tạo vì là cựu sĩ quan QLVNCH và bị giam trong một trại tù cải tạo ở miền Bắc, lúc đó cô mới 5 tuổi, ít lâu sau, Mẹ cô gửi cô cho Bà Ngoại nuôi, để Mẹ cô đi ra miền Bắc buôn bán, để dễ dàng đi thăm nuôi chồng mỗi khi chính quyền cho phép. Rồi một hôm Mẹ cô nhận được hung tin là Bố cô cùng 2 sĩ quan tù nhân khác, 3 người đang đi chốn trên đường vượt ngục, thì bị 2 tên cán bộ trại tù phát giác, bắn chết cả 3 người tại chỗ. Sau khi nghe được tin này, Mẹ cô đau buồn lâm bệnh nặng và vì không còn tiền để tiếp tục chữa bệnh nên 6 tháng sau Mẹ cô qua đời. Đọc xong 2 câu chuyện này, chúng ta nhận thấy câu chuyện thứ nhất, ông Quách về Việt Nam đã vô tình lập gia đình với cô con gái ruột của mình làm vợ. Câu chuyện thứ hai, Tommy con trai ông cũng về Việt Nam cưới vợ, nhưng người vợ của anh lại là cô em gái họ của anh, con Chú con Bác ruột với anh. Éo leo hơn nữa, nếu không phát giác kịp thời, thì Tommy con trai ông Quách phải gọi chị Thu Hương, người chị cùng Cha khác Mẹ với anh, là Dì ghẻ của anh và đứa con của chị Thu Hương cũng là con của Bố anh, trên thực tế phũ phàng này, nó cũng chính là em ruột của anh cùng Cha khác Mẹ với anh, thật là tình trạng éo le treo cẳng ngỗng này, không một ai có thể tưởng tượng nổi, làm sao lại có 2 câu chuyện thật và kỳ lạ như thế, có liên hệ mật thiết với nhau, sao lại có thể xẩy ra trên thết gian này? Hay đó chỉ là 2 câu chuyện xã hội giả tưởng mà thôi. Trên phương diện tình cảm, 2 câu chuyện tình yêu ngang trái trên đây không còn gì để kể thêm nữa và nếu nói theo ngành y học, có thể được coi như là một hiện tượng di truyền, từ người bố sang người con của hai mối tình ngang trái vừa kể trên đây, nhưng căn cứ trên phương diện pháp luật Hoa Kỳ, câu chuyện thứ nhất về ông Quách, nếu sở Di Trú Hoa Kỳ phát giác ra rằng ông Quách không sống chung với người vợ là cô Thu Hương, vì ngay từ ngày đầu cô đặt chân đến Hoa Kỳ, ông thuê một chung cư cho cô ở riêng với đứa bé con cô, căn cứ theo Pháp Luật Hoa Kỳ, coi đó là một cuộc hôn nhân gian dối, giả vờ lấy nhau trên giấy tờ (Fraud Marriage), cho dù cô có con với ông Quách đi chăng nữa, cô vẫn bị trục xuất trả về nguyên quán, trong trường hợp nếu cô không muốn mang đứa con đi theo cô về nguyên quán của cô, thì cô có thể để lại đứa con cho chính phủ Hoa Kỳ nuôi dưỡng, mặc dầu chồng cô không bị trục xuất nếu là công dân Hoa Kỳ (US Citizent), nhưng vẫn bị truy tố ra Tòa về tội lời khai man trá trước pháp luật và có thể lãnh án tù ở, nhưng nếu chồng cô chỉ là thường trú nhân (Permanent Resident), thì có thể bị trục xuất trả về nguyên quán cùng một lúc với cô. Trong trường hợp cô đem theo con về nguyên quán cùng với cô, thì đứa con cô sau này nó đủ18 tuổi, nó có thể xin giấy visa chiếu khán trở về Hoa Kỳ, nếu Cha của nó là công dân Hoa Kỳ hoặc trước kia nó được sanh ra tại Hoa Kỳ.

Nói tóm lại, sau tháng Tư đen 1975, biết bao nhiêu cảnh tang tóc, đau thương xẩy ra cho người Việt quốc gia dưới thời VNCH, nào là hàng triệu người phải lìa bỏ nước ra đi, để đi tìm tự do tại các quốc gia tự do trên khắp Năm Châu Bốn Bể, nào là hàng trăm ngàn người già, trẻ, lớn bé, trẻ thơ vô tội bị chết oan trên biển cả, nào là mấy trăm ngàn quân nhân, công cán chính của thời Quốc Gia VNCH, có người bị giam trong các trại tù cải tạo trên 2 thập niên, có nhiều người đã phải bỏ thân xác trong các chốn lao tù cải tạo cộng sản vì đói khổ, bệnh tật, không có thuốc men chữa trị, nào là những người vợ của các tù nhân cải tạo, phải vất vả ngược xuôi, lao đầu vào làm đủ mọi nghề lao động, kể cả nghề làm vợ bé cho các cán bộ cộng sản răng hô mã tấu mua vui, để kiếm tiền nuôi con cái còn thơ dại v.v. Kể sao cho hết những nỗi đau thương này, làm cho biết bao nhiêu người dân vô tội, phải bị chết đau đớn vì chính sách tàn bạo vô thần của công sản đỏ và biết bao nhiêu nước mắt đau khổ của những người dân vô tội, cũng như nước mắt và tiếng than khóc của những người vợ tù nhân cải tạo, của các góa phụ tù nhân cải tạo, trở thành những nước sông chảy dài tới tận biển đông.

Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa

 Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa

Mời quí anh chị đọc cho vui một bài viết về một cô bé ở 1 làng quê nghèo bên bờ sông Hồng tỉnhThái Bình. Em đã dũng cảm chống lại định mệnh khắc nghiệt gây ra bởi bệnh Muscle Diseases (Muscular Dystrophy) đau đớn làm liệt 2 chân ở tuổi 13 và không có thuốc chữa. Nhà nghèo không sắm nổi xe lăn; hàng ngày khi bố mẹ đi làm, em chỉ biết ngồi giam mình trong phòng và nhìn đời qua khung cửa sổ trước mặt mà buồn cho thân phận. Rồi trong đớn đau tuyệt vọng, em tìm đọc sách và tự học English, mở lớp dậy anh văn miễn phí trước sân nhà cho trẻ em làng xóm, tự học sử dụng computer, internet, rồi bắt đầu dịch thuật những tác phẩm của các văn hào nổi tiếng trên thế giới cho các nhà xuất bản ở Hànội.  Em cũng làm thơ, viết văn và cho xuất bản mấy cuốn sách thuộc loại best seller cho lớp trẻ VN hiện nay. Em cũng đoạt nhiều giải thưởng văn học, và được nhiều người mến mộ.

Cách nay hơn 10 năm tôi tình cờ quen biết em khi ủy ban xây dựng thánh đường quê tôi đã tới nhà em gần đó, nhờ em làm trung gian gởi các tin tức tiến triển về công trình xây dựng thánh đường qua emails cho tôi để tôi quyên góp trợ giúp tài chánh. Và vì thế tôi được biết hoàn cảnh bệnh tật ngặt nghèo của em.  Bẵng đi 1 thời gian không liên lạc nhau vì gia đình em dọn lên Hànội để tiện việc chữa bệnh và em làm việc với các xuất bản sách.  Mới đây tôi tình cờ vào Facebook và liên lạc lại được với em. Dưới đây là tin nhắn của em gởi cho tôi, kèm theo 1 bài báo viết về em.  Mời quí anh chị đọc cho vui.

Thân mến,

tn- B

Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa

TP – Gần đây, khi đến thăm bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, tôi thấy một nhóm người nước ngoài đang trầm trồ trước khu trưng bày vinh danh tám người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Họ dừng lại rất lâu trước những bức ảnh của một cô gái gầy gò – người trẻ nhất trong số tám nhân vật được tôn vinh.

Rồi họ  lặng đi trước câu chuyện về tài năng và tấm gương nghị lực của cô gái ấy. Đứng cạnh họ, lòng tôi trào dâng niềm tự hào. Niềm tự hào ấy khởi nguồn từ bốn năm về trước, vào ngày 23/1/2011, khi tôi quan sát chính cô gái gầy gò ấy lên sân khấu nhận giải thưởng dịch thuật từ Hội Nhà văn Việt Nam: Giải thưởng Văn học năm 2010 cho bản dịch tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột. Dù được em trai dìu đi, từng bước chân của cô gái – dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan – khó nhọc và chậm rãi. Cô nở nụ cười trấn an những người đang lo lắng. Hình dáng nhỏ bé của cô dường như lọt thỏm giữa sân khấu lớn, nhưng ánh mắt của cô bừng lên ánh sáng ấm áp của niềm tin và nghị lực.

Tranh NGUYEN X HOANGTranh: Nguyễn Xuân Hoàng.

Khi đôi chân không thuộc về mình

Những ai biết Bích Lan nhiều năm về trước chắc hẳn khó tưởng tượng rằng một ngày cô gái có bề ngoài dễ vỡ ấy có thể chinh phục được số phận, vượt qua bệnh tật và sự rình rập của cái chết để đứng trong hàng ngũ những nhà văn, dịch giả có đóng góp đáng trân trọng cho sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

Sinh năm 1976 tại một làng quê nhỏ ở Thái Bình, Bích Lan chưa kịp đi qua tuổi học trò ngây thơ thì thế giới đổ sụp xuống cô. Một ngày mùa đông, ở tuổi mười ba đầy trong trẻo, Bích Lan đang hăm hở đạp xe lướt đi trên con đường nhỏ xuyên qua những cánh đồng lúa xanh rì rào để đến trường thì đôi chân của cô bất ngờ mất khả năng cử động. Sự hoảng sợ thít chặt lấy cô, và cô ngã nhào từ xe xuống chiếc mương lõng bõng bùn nước. Càng vùng vẫy, Bích Lan càng tuyệt vọng. Đôi chân dường như không thuộc về cô nữa. Cô không thể nào đứng dậy được. Cô chỉ có thể thoát ra khỏi cái mương sâu hoắm ấy, khỏi sự giá lạnh và sợ hãi khi một người bạn cùng lớp ào xuống, kéo cô lên. Nhưng cũng từ đó, sự đau đớn dai dẳng đeo bám cô và triền miên hành hạ cô. Từ nhiều tháng trước đó, Bích Lan đã bị sụt cân, và giờ đây cô phải nằm bẹp trên giường, bất lực nhìn cuộc sống chầm chậm trôi qua. Cô ngơ ngác không hiểu điều gì đang xảy ra với mình.

Gia đình cô đã đưa cô đi chạy chữa khắp nơi. Rồi khi thầy thuốc tìm ra căn bệnh của cô, mọi hy vọng trong cô dường như bị dập tắt: bệnh của cô là một loại bệnh hiếm gặp và hiện chưa có thuốc chữa – bệnh loạn dưỡng cơ. Các bác sĩ cảnh báo căn bệnh này sẽ khiến cho cơ thể của cô ngày càng suy yếu, khiến cô dần mất khả năng di chuyển. Thậm chí nhiều bác sĩ tin rằng Bích Lan sẽ chỉ sống được một thời gian ngắn, vì căn bệnh sẽ khiến cô suy nhược trầm trọng.

 Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa - ảnh 2

Nguyễn Bích Lan.

Học để được sống

Những ngày ấy, sự đớn đau thể xác, bóng tối dày đặc của tương lai, và sự kiệt quệ về tài chính rất dễ khiến một người bình thường buông xuôi tất cả. Và sẽ thật dễ dàng khi Bích Lan để sự chán nản và tự ti chiếm lĩnh lấy cô. Nhưng thật kỳ diệu, chính trong những giây phút tăm tối nhất, Bích Lan khao khát được sống. Không chỉ sống, mà sống có ý nghĩa. Như cô đã viết trong truyện ngắn Những ngọn lửa: “Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.

“Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.

Nguyễn Bích Lan

Bích Lan ước mơ chinh phục số phận của mình. Và trong căn phòng nhỏ bé nơi cô đã phải giam mình trong thời gian dài, cô gái bé nhỏ 14 tuổi ấy bắt đầu hành trình tiếp thu tri thức của thế giới. Vượt qua tất cả mọi đau đớn thể xác, cô lao vào đọc sách. Cô đọc và đọc tất cả những quyển sách mà cô mượn được, về tất cả các lĩnh vực. Không có được diễm phúc đến trường, cô tự học một cách mê say. Học để quên đi đau đớn. Học để được sống. Học để một ngày có cơ hội báo hiếu với mẹ.

Một hôm, nhìn em trai học tiếng Anh, Bích Lan quyết định tiếp cận với môn ngoại ngữ ấy- môn học còn rất xa lạ với rất nhiều học sinh thời đó – bằng những quyển sách mà cô mượn được, bằng băng cassette và bằng trí thông minh và tinh thần kiên định. Rồi cô chập chững bước những bước đầu tiên vào biển tri thức vốn đã tồn tại hàng nghìn năm nay ở thứ ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới – tiếng Anh. Càng đọc, càng học, cô càng đứng vững trên đôi chân của trí tuệ. Rồi cô bước đi, cô chạy, cô tung tăng vùng vẫy trong biển tri thức. Ở đó, Bích Lan tìm thấy chiếc chìa khoá để tự cứu mình và sống có ý nghĩa: cô bắt đầu dịch các tác phẩm văn học mà cô yêu thích.

Những ngón tay nhỏ bé và gầy guộc của Bích Lan, yếu đến nỗi không thể cầm vững chiếc bút, nay được tiếp thêm sức mạnh khi chúng giúp cô chuyển tải vẻ đẹp của văn học thế giới sang ngôn ngữ Việt. Thật kỳ diệu khi trong vòng 13 năm qua, giữa những cơn đau thể xác vẫn dai dẳng khôn nguôi, Bích Lan miệt mài làm việc, cho ra đời 30 quyển sách dịch, tất cả đều là những tác phẩm văn học kinh điển hoặc những quyển sách đầy ắp tính nhân văn. Hàng triệu người Việt đã được truyền thêm nghị lực sống từ “người không tay không chân” Nick Vujicic, qua bốn quyển sách của anh mà cô là dịch giả. Cũng qua Bích Lan, bạn đọc Việt Nam được đắm mình trong vẻ đẹp huyền ảo và trí tuệ sâu sắc trong các tác phẩm của những nhà văn lừng danh thế giới như William Faulkner, Rabindranath Tagore, JP. Donleavy, Vikas Swarup, Julia Otsuka…

Nguyễn Bích Lan - Người thắp lửa - ảnh 3

Những ngọn lửa

Nhưng dịch thuật chưa đủ, Bích Lan gửi trọn tâm huyết và khát khao sống mãnh liệt của mình qua từng trang viết. Cô sáng tạo miệt mài, cẩn trọng, đầy trách nhiệm và say mê như thể mỗi phút giây của cuộc đời này là giây phút cuối. Cô đều đặn có những tác phẩm thơ, văn xuôi, và báo chí nóng hổi tính thời đại in đều đặn trên các tờ báo uy tín. Đến giờ, Nguyễn Bích Lan đã là tác giả của những quyển sách như Không gục ngã (Tự truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2010), Sống trong chờ đợi (Thơ và truyện ngắn, NXB Trẻ, 2012).

Là người dõi theo các sáng tác của Bích Lan, tôi hồi hộp mở tập truyện ngắn mới nhất của cô – Những ngọn lửa (NXB Phụ nữ, 2015). Và như tôi đã mong đợi, Bích Lan không làm tôi thất vọng. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này kéo tuột tôi vào từng ngóc ngách sâu thẳm của một xã hội Việt Nam thời hiện đại. Ở nơi ấy, áp lực kinh tế đang khiến con người sống vô cảm, tàn nhẫn với nhau. Con vô cảm với mẹ ruột, mẹ ruột vô cảm với con, thầy vô cảm với trò… Bằng giọng văn sắc sảo, lúc thì đầy ắp chất thơ, lúc thì dịu dàng, nóng bỏng, lúc thì chua chát, ngoa ngoắt, Bích Lan phác thảo rõ nét những sắc thái của cuộc sống thời hiện đại, để những câu chuyện của cô cứa vào chúng ta sắc lẹm như những lưỡi dao. Bóng tối của lòng tham, của sự ích kỷ đang phủ trùm lên chúng ta. Cô thắp lên những ngọn lửa – những ngọn lửa của hy vọng, của lòng nhân ái, vị tha, của tình yêu giữa con người với con người vẫn tồn tại đâu đó trên cõi đời này.

Đọc quyển sách, ta không khỏi khát khao thay đổi bản thân mình, nhắc nhở mình phải sống tốt hơn, nhân ái hơn với những người xung quanh.

Vài năm trước, khi đại diện của quỹ văn học Akademie Solitude (Đức) nhờ tôi giới thiệu một nhà văn Việt Nam để họ trao học bổng sáng tác, tôi không ngần ngại đề cử Nguyễn Bích Lan. Tôi rất vui khi quỹ Akademie Solitude trao học bổng cho Bích Lan năm ấy sau khi đánh giá tầm ảnh hưởng của những tác phẩm văn học của cô.

Hiện nay, Bích Lan vẫn chỉ nặng 28kg. Cô miệt mài làm việc 9 tiếng một ngày, tuân thủ những nguyên tắc khắt khe nhất của một người sống bằng nghề viết. Từ thứ Hai đến thứ Sáu, cô dịch sách. Vào thứ Bảy và Chủ nhật, cô viết hoặc dịch bài cho báo. Xen kẽ vào những công việc ấy, cô viết truyện ngắn hoặc thơ.

Độc giả Diệu Trâm từ Hội An, sau khi đọc các tác phẩm của Bích Lan, chia sẻ: Đôi khi gục lên ngã xuống nhiều lần để rồi nhận ra chuyến hành trình của mình không là gì cả so với những gì tôi biết được biết về chị Bích Lan, về những gì mà chị đã từng đối mặt và vẫn đang vượt qua… Tôi muốn gửi đến chị lời cảm ơn vì đã nhóm lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng trong cuộc sống vốn dĩ rất ngắn ngủi này.

Không phàn nàn về số phận

Bích Lan cho biết, cô không có gì phải phàn nàn về hoàn cảnh của mình hiện tại. Cô cảm thấy ổn cho dù vẫn đau yếu bởi cô đã tìm ra cách sống chung với bệnh tật để ngày nào của mình cũng là một ngày hữu ích. Trong năm nay, ngoài tập thơ Ru và tập truyện ngắn Những ngọn lửa, Bích Lan sẽ hoàn thành bản dịch truyện cổ Andersen, và cuốn Màu của nước – tiểu thuyết nổi tiếng về phân biệt chủng tộc của nhà văn Mỹ James McBride.

Xin khép lại bài viết này với lời chia sẻ của bà Tống Thị Ninh, mẹ của Bích Lan: Bích Lan tuy không được trời cho một sức khỏe tốt, nhưng lại có được tinh thần mạnh mẽ. Những cuốn sách mà Lan đã dịch và viết mang đến cho bản thân cháu và gia đình rất nhiều người bạn đáng quý ở trong và ngoài nước. Tôi thật vui vì cháu dám sống một cuộc đời hữu ích.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Mười chuyện tiếu lâm hay nhất thời Liên Xô do báo The Times (Anh) bình chọn

Mười chuyện tiếu lâm hay nhất thời Liên Xô do báo The Times (Anh) bình chọn

Phạm Nguyên Trường dịch

Giải nhất: Ba công nhân vừa bước vào nhà tù, hỏi nhau vì sao bị tù. Người thứ nhất: “Ngày nào tôi cũng đi muộn 10 phút, họ bảo tôi phạm tội phá hoại”. Người thứ hai: “Ngày nào tôi cũng tới sớm 10 phút, họ bảo tôi là gián điệp”. Người thứ ba: “Ngày nào tôi cũng đến đúng giờ, họ bảo tôi có đồng hồ ngoại”.

Nhà tù ở Liên Xô

Sau đây là 9 giải còn lại:

2) Trong một túp lều ở thảo nguyên có một ông lão đang hấp hối.

Có tiếng gõ cửa dồn dập

– Ai đấy? – ông lão hỏi.

– Thần chết, – có tiếng đáp.

– Lậy chúa tôi! – ông già nói – Cứ tưởng là KGB

3) Báo Sự Thật nói rằng tất cả thư từ gửi tới tòa soạn đều được tiếp nhận một cách trọng thị. Người gửi cần ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình và của những người thân nhất trong gia đình.

4) Tại sao bao giờ KGB cũng đi thành nhóm 3 người? Trả lời: một người biết đọc, một người biết viết, người thứ ba có nhiệm vụ theo dõi hai tay có học đó.

5) Leonid Brejnev thăm chính thức Pháp. Người ta đưa ông thăm quan Paris. Ông được đưa đến Điện Élysée, nhưng cũng như mọi khi, mặt ông vẫn lạnh như tiền. Rồi người ta đưa ông đến viện bảo tàng Louvre, nhưng vẫn không ai thấy phản ứng gì. Rồi người ta đưa ông tới Khải hoàn môn, nhưng vẫn không thấy một tí biểu hiện nào trên nét mặt hết. Cuối cùng, đoàn xe đến tháp Eiffel. Brejnev vô cùng kinh ngạc. Ông ta quay sang những người dẫn đường Pháp và hỏi: “Này, ở Paris có đến 9 triệu người… Các vị chỉ cần một tháp canh thôi ư?”

6) Stalin quyết định vi hành quanh thành phố xem công nhân sống như thế nào, một lần ông ta bí mật ra khỏi Điện Cẩm Linh. Sau đó ông rẽ vào rạp chiếu bóng. Phim vừa hết thì quốc ca vang lên và trên màn ảnh xuất hiện hình Stalin. Tất cả đều đứng dậy và hát quốc ca, riêng Stalin vẫn tiếp tục ngồi, tỏ vẻ rất hài lòng. Rồi ông ta thấy một người ngồi phía sau ghé vào tai thì thầm: “Này đồng chí, tất cả chúng tôi đều cảm thấy như thế, nhưng hãy tin tôi đi, đứng dậy sẽ an toàn hơn rất nhiều”.

7) Một công dân Liên Xô tiết kiệm đủ tiền mua ô tô. Sau khi trả tiền, người ta nói với anh là ba năm nữa sẽ được nhận xe.

– Ba năm nữa lận! – Anh ta nói – Tháng mấy?

– Tháng tám.

– Tháng tám à? Ngày mấy?

– Ngày 2 tháng tám.

– Buổi sáng hay buổi chiều?

– Buổi chiều. Mà chuyện gì vậy?

– Buổi sáng sẽ có một thợ sửa ống nước đến nhà tôi.

8) Tại sao các cựu sĩ quan Stasi lại là những người lái taxi thông thạo nhất ở Berlin? Vì anh chỉ cần nói tên là họ đã biết anh sống ở đâu rồi.

9) Moskva những năm 1970. Mùa đông giá rét. Có tin đồn là ngày hôm sau cửa hàng bán thịt số 1 sẽ có thịt.

Ngay hôm đó trước cửa hàng đã có hàng chục ngàn người với áo khoác ấm, giày cao cổ, rượu và bàn cờ đứng thành hành dài.

Lúc 3 giờ chiều một người bán thịt đi ra và nói: “Thưa các đồng chí, Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng không đủ thịt bán cho tất cả mọi người vì vậy mà dân Do Thái nên về nhà”.

Dân Do Thái nhẫn nhục bước ra khỏi hàng. Những người khác tiếp tục đợi.

Lúc 7 giờ tối người bán thịt lại bước ra và nói: “Thưa các đồng chí, Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng hóa ra là không có thịt vì vậy mọi người nên về nhà”.

Đám đông tản ra, vừa đi họ vừa lầm bầm: “Bọn Do Thái khốn nạn lúc nào cũng gặp may!”.

10) Sĩ quan KGB vào công viên và trông thấy một ông già đang cầm cuốn sách. Người sĩ quan hỏi: “Ông già đang đọc gì đấy”. Ông già đáp: “Tôi đang tự học tiếng Ivrit”. “Ông học tiếng Ivrit làm gì? Thị thực đi Israel phải chờ mấy năm lận. Ông sẽ chết trước khi làm xong giấy tờ”. “Tôi học tiếng Ivrit để khi lên Thiên đàng tôi có thể nói chuyện với Abraham và Moïse. Trên Thiên đàng chỉ nói bằng tiếng Ivrit thôi”. “Thế nếu ông xuống địa ngục thì sao?” – Người sĩ quan hỏi. “Tiếng Nga thì tôi biết rồi” – ông già trả lời.

Nguồn: Top Ten Communist Jokes