BÀ CỐ

BÀ CỐ

Ở cái chợ cá này ai mà chẳng biết bà có thằng con trai đi tu. Mà hình như nó làm thầy rồi. Bữa trước thấy bà mặc áo dài thật đẹp đi lễ khấn nó thì phải? Ai mà chẳng gọi bà bằng giọng điệu kính nể: “Bà Cố!”. Lúc đầu bà cũng ngài ngại. “Cố gì, cứ gọi bà Hai được rồi. Bà Hai bán cá!” Lâu dần bà cũng quen. Gọi: “Bà Cố” nghe cũng hay hay.

***

Kể từ sau ngày đi lễ khấn con về, bà vui hẳn. Bà hãnh diện nơi chốn đông người. Ngẩng cao đầu trong mỗi Thánh lễ. “Dù gì con ta cũng là tu sĩ tu sọt chứ bộ” – Bà nghĩ thầm vậy. Nhưng dù cho có một chút hãnh diện về thằng con trai, bà vẫn cứ lo sợ. 

Người đời nói đi tu khó lắm chứ đâu phải dễ. Làm bà cố lại càng khó. Bà sợ lòng người nham hiểm. Bữa trước kìa, mới đây thôi, nhà ông Năm xóm trên chứ đâu xa. Chỉ vì cái hàng rào nhà bên xây lấn qua sân, ông qua phân bua phải trái với họ. Chưa nói được câu nào đã bị chửi sang sảng vào mặt: “Tưởng làm ông cố mà tui nể hả. Ông thuộc về cái dạng quá cố thì có. Mang tiếng có con làm cha mà sống không biết điều.” Nghe đến đó, ông Năm lầm lũi về nhà, mặt buồn rười rượi. Người nhà nói ông bệnh liệt giường cả tuần.

***

Hằng ngày bà vẫn phải dậy từ hai ba giờ sáng đi lấy cá ở chợ đầu mối về bán. Công việc cũng mấy chục năm rồi. Từ cái hồi bà còn con gái. Lấy chồng, chồng chết, để lại cho bà hai đứa con, một trai, một gái. Đứa con gái lầm lỡ chửa hoang, trốn biệt tăm mấy năm rồi cũng về lại ở chung với bà, đem về thêm một thằng nhóc. Bà nói: “Kệ, người ta nói gì cũng được, về đây má nuôi hai mẹ con.”  Mọi sự bà trông mong vào cậu con trai. Hi vọng nó sẽ làm chỗ dựa cho bà khi tuổi già xế bóng.

Bà kể hồi đó có mấy cha về làm Tuần Đại Phúc ở nhà thờ, ghé thăm vì nhà bà thuộc những hộ nghèo. Không biết các cha nói gì mà thằng nhỏ bỏ bà cái rụp. 

– Má, con đi tu nha! Con đi tu, mai mốt má được làm bà cố. Bà cố bán cá!

Bà gật đầu. Hai mẹ con cùng cười. Có cái gì đó vui lắm trong lòng bà không tả được.

 ***

Bẵng đi mấy năm, cậu con trai về. 

– Má, tuần sau con khấn rồi, má với chị hai đi lễ của con. 

Ngoài chợ biết chuyện, nhiều người đến chia vui, nói đùa: “Con chào Bà Cố ạ!” Bà đỏ mặt, không giấu được niềm hạnh phúc dâng tràn qua ánh mắt.

Từ sau ngày khấn của con bà thay đổi hẳn. Bà siêng đi lễ hơn. Vì sợ miệng đời nói bà cố gì mà chẳng đạo đức tí nào. Bà bán cá không dám lời nhiều. Vì sợ miệng đời nói bà cố gì mà bán cắt cổ. Bà không dám to tiếng với ai. Vì sợ miệng đời nói bà cố phải nhỏ nhẹ chứ… “Bà Cố” nghe thấy cũng thích nhưng mang được nó sao nặng nề quá. Cũng vì con, bà chấp nhận tất cả. Đứa con gái thấy mẹ mệt mỏi, bực mình nói: “Thằng út đi tu chứ má có đi tu đâu mà chịu khổ dữ vậy!” Bà nghĩ, con đi tu thì mình cũng tu theo con chứ còn gì. Đời bà giờ chỉ trông mong vào thằng con. Bà không cầu xin Chúa điều gì ngoài cầu xin cho con bà có ơn bền đỗ trong ơn gọi

***

Đang bán hàng, bà nghe tiếng đứa con gái oang oang: “Thằng út nó về thăm má ở nhà kìa, má về đi. Để đó con bán cho.” Bà chạy về thật nhanh như vớ được phải vàng. Mà cũng lâu lắm nó mới về thăm bà chứ có phải thường xuyên đâu.

Bước vào nhà, bỏ cái nón lá xuống đất, vừa nhìn thấy con trai, linh tính của một người mẹ nhắc bảo có chuyện chẳng lành. 

– Nhà Dòng cho con về rồi má – cậu con trai lên tiếng.

Chẳng kịp để bà phản ứng, cậu nói tiếp: “Má có tin con không?”

Bà gật đầu. Má tin.

***

Rồi cậu lại đi.

– Con đi đâu?

– Con đi để không phụ lòng tin của má.

***

Ở cái chợ này là thế. Việc tốt chẳng thấy nói tới nhưng hễ nhà nào có chuyện chẳng lành là lan còn nhanh hơn cả in-tơ-nét. Mà cái chuyện của nhà bà, chuyện thằng con trai của bà có phải chuyện nhỏ nhoi gì đâu. “Đi tu mà còn mê gái! Phải chi nó mê con nhỏ nào đẹp đẹp. Bữa tao thấy rồi, con nhỏ đó xấu quắc hà! Nghe đâu ổng làm cho con nhỏ có bầu. Giờ nhà Dòng đuổi rồi. Thiệt nhục hết sức.”

Bà chẳng còn vui vẻ bán cá như thường lệ kể từ ngày ấy. Bà cũng không thể yên tĩnh được giây phút nào khi ở nhà. Đâu đâu người ta cũng bàn ra bàn vào, nói tới nói lui, nói bóng nói gió. Mà cũng có khi nói thẳng vào mặt: “Bà Hai, thằng con bà tu được tui cắm đầu xuống đất!”

Mới ngày nào người ta còn gọi bà bằng cái danh hiệu rất cao cả “Bà Cố!” Ấy vậy mà mọi việc đến quá nhanh. Bà dường như không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho thằng con của bà và cho cả bà. 

Lầm lũi. Ít nói. Hiếm lắm người ta mới thấy bà cười với thằng cháu ngoại.

***

Mười lăm năm kể từ ngày đứa con trai về thăm bà, cũng là mười lăm năm bà chờ đợi. Mười lăm năm chưa phải là quá dài nhưng cũng đủ khiến cho tóc bà bạc trắng, lưng còng, mắt mờ và nhất là bà không thể đi bởi căn bệnh thấp khớp hành hạ. Mười lăm năm người ta vẫn nói tới nói lui như chuyện vừa hôm qua: “Thằng đó còn mặt mũi nào nữa mà về đây. Hại con người ta có bầu giờ phải chịu trách nhiệm chứ sao.”

Đứa con gái thay bà bán cá ngoài chợ. Bà ở nhà, ngồi xe lăn. Khi nào thằng cháu ngoại rảnh rang việc học thì đẩy bà đi vài vòng cho đổi không khí. Còn không thì suốt ngày bà chỉ quanh quẩn trong căn phòng kín như bưng, hôi hám. Lâu rồi người ta không gọi bà là “Bà Cố” nữa, mà gọi “Bà Hai Xe Lăn”. Mà hình như bà cũng quên cái danh hiệu đó rồi thì phải.

***

Rồi cậu con trai cũng về.

Nhìn thấy mẹ, cậu tựa đầu vào ngực mẹ mà khóc: “Má giận con lắm hả?” Bà cũng khóc theo con. 

– Tháng sau con được làm linh mục rồi.

Cậu nhìn thẳng vào mắt mẹ mà nói. Bà ôm đầu con. Hai mắt ráo hoảnh.

 ***

Rồi cái ngày con bà bước lên Bàn Thánh cũng đến. Người ta đẩy bà trên xe lăn lên gian cung thánh để trao áo lễ cho Tân Linh Mục. Đâu đó ở phía sau thì thầm: “Nhìn bà cố tội quá!”

Mọi người quy tụ quanh bà, quanh Tân Linh Mục reo hò, chúc mừng. Mấy bà bán cá trong chợ cũng bao quanh: “Chúc mừng bà cố!”

Bà trả lời nhỏ nhẹ như khẽ, như gió thoảng: “Không dám, tôi chỉ là bà Hai bán cá, hoặc gọi tôi Bà Hai Xe Lăn cũng được, tôi quen rồi!”

Lm. Mar – Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS

 From: luong bui & Kim Bang Nguyen

THẰNG KHÙNG 

Dũng Mai is with Dũng Mai and 2 others.

THẰNG KHÙNG 

Tác giả: Phùng Quán 

Thằng Khùng trong truyện ngắn này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

Ảnh Nhà thờ Lớn Hà nội sáng nay 22/7

Image may contain: one or more people, tree, plant and outdoor

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh

Nam Phương 

(Ảnh minh họa)

Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông. Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm. Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường. Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh. Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống, gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm. Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô. Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống. Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ. Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy. Mẹ của Siada nói: “Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”. 

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ. Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi. Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó. Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi. Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh. Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú. Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng. Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều là tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người. Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất. Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối nhau, đấu đá tranh giành nhau. Hai mẹ con họ đã khiến tôi ngộ ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người. Có cô ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm. Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế. Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”. 

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kĩ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản. Anh ta viết: “Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi. Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết: “Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Nam Phương
Theo Vision Times

From: thanhlamle.le & NguyenNThu

CÂU CHUYỆN LY HÔN THẬT CẢM ĐỘNG

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Image may contain: one or more people

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

CÂU CHUYỆN LY HÔN THẬT CẢM ĐỘNG

Người ta nói: “Tu 100 năm được ngồi chung thuyền, tu 1000 năm mới cùng chăn gối.” Vậy nên, hãy biết trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi và bình thường bên cạnh bạn.

Một căp vợ chồng đã lấy nhau được 20 năm thì quyết định li hôn. Nguyên nhân là từ khi kết hôn hai người luôn cãi vã, bất đồng ý kiến, tính cách không hợp. Nếu không phải lo cho con thì hai người đã đường ai nấy đi rồi. Dường như chỉ cần đợi con trưởng thành, không để cha mẹ phải lo lắng thì 2 người sẽ sống cuộc sống tự do của mình, không cần phải nhẫn nhịn những cuộc cãi vã vô nghĩa nữa.

Họ quyết định li hôn.

Sau khi kí đơn li hôn, 2 người đi ra từ văn phòng luật sư, người chồng đề nghị: “Ăn cơm cùng nhau một bữa nữa nhé!” Người vợ nghĩ rằng, tuy đã li hôn rồi, nhưng hai người cũng không phải là kẻ thù, ăn bữa cơm cũng chẳng có gì không được cả. Vào nhà hàng ăn, người phục vụ mang lên một đĩa cá chua ngọt, người chồng liền gắp một miếng cá cho người vợ và nói: “Em ăn đi! Đây là món ăn em thích nhất mà.”

Người vợ lúc ấy đỏ hoe 2 mắt, nói: Em thất vọng quá, tại sao anh cứ luôn khăng khăng làm theo ý mình, cái gì cũng tự mình đưa ra rồi quyết định, không quan tâm đến cảm nhận của em vậy. Kết hôn lâu như vậy rồi, lẽ nào anh không biết cả đời này món em ghét nhất chính là cá sao?”. Lúc này người chồng cũng nghẹn ngào nói: “Em luôn không hiểu tình cảm của anh dành cho em, lúc nào anh cũng nghĩ phải khiến em vui thế nào, luôn dành cho em những gì tốt nhất. Em biết không, cả đời này món mà anh thích nhất chính là cá chua ngọt.”

Hai người yêu thương nhau như thế, lại vì những vấn đề không hợp nhau mà chia cách. Đây là vấn đề tình yêu, hay là vấn đề về hôn nhân? Sau bữa ăn ấy mỗi người một ngả, anh đi đằng đông thì cô đi đằng tây, 2 người đều sợ mình sẽ hối hận, nên giao ước là trong 1 tháng sẽ không gọi điện cho nhau.

Người chồng đi được 2 bước thì có điện thoại gọi đến, là điện thoại của người vợ. Anh do sự rất lâu, cuối cùng cũng không nghe. Anh trở về nhà, cả đêm cứ trằn trọc không ngủ được, trong lòng nóng như lửa đốt, dằn vặt vô cùng. Anh suy nghĩ rất lâu, cuối cùng đã gọi điện cho vợ thể hiện sự hối hận của mình. Lại không có ai bắt máy cả. Sau khi gọi rất nhiều lần rồi, cuối cùng có người nhận, lại là giọng của 1 người đàn ông lạ: “Alo, xin chào!” Trong lòng người chồng như có dao cắt, không cách nào giải thích được.

Đang lúc giận dỗi toan cúp máy thì đầu dây bên kia lại nói: “Cho hỏi anh là ai vậy? Trong điện thoại rõ ràng hiện lên 2 chữ: “ông xã.” “Alo, tôi là chồng cô ấy, anh là ai?” Trong câu nói biểu lộ rõ ý thách thức. “À, tôi là bác sĩ, mời anh nhanh chóng đến bện viện XXX ngay, vợ của anh bị tai nạn, hiện đang cấp cứu!” Lời bác sĩ như sấm đánh ngang tai anh, anh lao nhanh đến bệnh viện. Hóa ra sau khi 2 người chia tay ngày hôm đó, tinh thần cô ấy không ổn, lúc qua đường bị xe ô tô đâm vào. Người vợ trước khi bất tỉnh đã gọi điện cho chồng, nhưng anh lại không bắt máy.

“Bác sĩ, vợ tôi thế nào rồi, ông nhất định phải cứu cô ấy! Tôi năn nỉ ông!” Nói rồi, anh quỳ gối trước bác sĩ. Bác sĩ liền đỡ anh ta đứng lên, “ Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức cứu cô ấy, bây giờ đang phẫu thuật, đầu cô ấy bị va đập nghiêm trọng, cho dù có tỉnh lại cũng trở thành người thực vật. Anh phải chuẩn bị tinh thần!” Người chồng hoảng hốt, bất an, anh cứ đi đi lại lại ở hành lang, “Nếu như cô ấy chết đi, tôi phải làm sao đây? Tôi làm thế nào mới đối diện được với chính mình?”

Đèn phòng cấp cứu đã tắt. Các bác sĩ đẩy cửa bước ra, 1 vị bác sĩ già nhất đến trước mặt anh, “Chúng tôi đã cố hết sức, cô ấy có lẽ không sống được đến sáng mai. Anh vào thăm cô ấy đi, chuẩn bị hậu sự đi! Cô ấy đã không thể nói được nữa rồi!” Anh dường như sụp đổ, đẩy cửa bước vào phòng.

Người vợ nằm trên giường đã không còn nhìn ra diện mạo, băng quấn quanh đầu chỉ chừa ra mắt và mũi. Người chồng đau như cắt, đến trước giường vợ nói: “Anh đến muộn mất rồi!” Nói chưa dứt lời, nước mắt anh đã trào ra! Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay vợ, ngạc nhiên thấy khóe mắt cô ấy đỏ hoe ướt ướt, hai hàng nước mắt làm ướt vải gạc, miệng cô khẽ mấp máy, hình như muốn nói gì đó.

Anh vội ghé tai sát vợ, giọng cô yếu ớt, ngắt quãng: “Em….đã điện thoại cho anh, chỉ là……muốn…….nói với anh, trong tủ lạnh có sủi cảo, còn giấy bảo hiểm và sổ tiết kiệm trong ngăn kéo, mật khẩu là ngày sinh của anh, còn có mì sợi mà anh thích nhất, còn có………….em…………….yêu………”. Chưa nói dứt lời, cô không còn nói được nữa. Cô cũng không thở được nữa rồi. Anh bật khóc nức nở. Đến lúc này đây cô vẫn nhớ căn dặn anh, nhớ tới món mì sợi! Kết hôn bao nhiêu năm, anh chỉ thấy cô ốm có 1 lần, mà món mì cô làm thì rất khó ăn!

1 tháng sau, người chồng mở giấy bảo hiểm trong ngăn kéo, ngày làm thủ tục bảo hiểm là ngày đăng kí kết hôn, người thừa hưởng tất nhiên là tên anh. Số tiền không lớn, chỉ có hơn 30 triệu, nhưng ở giữa có kẹp 1 giấy ghi chú, “Chồng yêu à, lúc anh thấy tờ phiếu này có lẽ em đang ở thế giới bên kia rồi. Cho dù chúng ta sau này có thế nào, nếu có lí hôn thì em vẫn muốn anh biết, tình yêu của em với anh trước sau không đổi, thiên chức làm vợ em không tiếp tục được nữa, cho dù em đi rồi, nhưng số tiền bảo hiểm này sẽ thay em, phần nào tiếp tục chăm sóc anh, giống như là em vẫn ở bên anh. Trên thiên đường em sẽ cầu chúc cho anh, yêu anh!”

Đọc những dòng này, anh nấc lên, khóc không thành tiếng. Cô ấy trước khi chết vẫn muốn nói “Em yêu anh”! Sinh mệnh mong manh như thế, ngắn ngủi như thế, vậy thì chúng ta có nói được bao nhiêu lần “em yêu anh”? Thể diện cái gì, giận dỗi cái gì, trong tình yêu không nên quá cố chấp. Khoan dung một chút! Cảm thông một chút! Hiểu nhau một chút! Đừng để trong cuộc sống có những điều đáng tiếc như vậy! Nếu không thì bạn sẽ bỏ lỡ một người cả đời yêu bạn, cuối cùng chỉ nói được một lần câu “anh yêu em.” Lúc ấy thì có hối hận bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nghe được lời bày tỏ yêu thương như vậy nữa! Chúng ta cũng chẳng có lí do gì để mà không nói với người mình yêu câu “anh yêu em” cả. Nói với cô ấy, để cô ấy biết tình cảm của bạn, cô ấy là bầu trời của bạn, là sự sống của bạn!

Phải đối xử với bản thân mình tốt một chút vì một đời người đâu có dài. Phải đối xử tốt với những người bên cạnh ta, vì kiếp sau đâu ai biết là còn có thể gặp nhau nữa hay không! Người ta nói: “Tu 100 năm được ngồi chung thuyền, tu 1000 năm mới cùng chăn gối.” Vậy nên, hãy biết trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi và bình thường bên cạnh bạn.

Ngay cả khi tuyệt vọng nhất, đừng quên bạn vẫn còn những tài sản quý giá bên cạnh mình.

Ngay cả khi tuyệt vọng nhất, đừng quên bạn vẫn còn những tài sản quý giá bên cạnh mình.

Có một người đàn ông 52 tuổi đến tìm tôi tư vấn. Bộ dạng của ông vô cùng tiều tụy, hoàn toàn tuyệt vọng, hoàn toàn chán nản. Ông luôn miệng nói “Hết cả rồi! Hết cả rồi!”, bước đi liêu xiêu như một người mất hồn.

“Tất cả ư?”, tôi hỏi.

“Tất cả”, ông ấy khẳng định một lần nữa như để minh chứng rằng cuộc sống của mình đã ở vào tình cảnh vô cùng tối tăm, u ám.

“Tôi không còn lại gì nữa cả. Tất cả đều đã mất sạch rồi. Không còn hy vọng gì nữa, tôi đã già đến mức không thể làm lại từ đầu nữa. Tôi đã mất hết lòng tin rồi”.

Tôi ái ngại lắng nghe những lời bi thương, thống thiết ấy. Bóng tối tuyệt vọng đã phủ đầy trái tim ông. Sự chán nản đã ăn mòn ý chí của ông. Ông hoàn toàn chẳng có bệnh tật gì. Bệnh của ông là “tâm bệnh”. Bộ dạng tiều tụy, các khớp chân tay co rút cả lại, ông ngồi ở đó cứ như một ông lão đã 92 tuổi đang đếm từng ngày cuối cùng trong viện dưỡng lão.

Tôi cố nén lòng, nói: “Được rồi, bây giờ chúng ta hãy lấy một tờ giấy để tính xem ông còn lại bao nhiêu tài sản nhé!”.

“Không cần đâu bác sĩ!”. Ông thở dài nặng nhọc cất lời: “Giờ tôi không còn lại gì cả. Chẳng phải tôi đã nói rất rõ với anh rồi sao?”.

“Không sao, tôi hiểu. Nhưng chúng ta cứ hãy xem thử lại một lần cuối”. Tôi hỏi ông: “Vợ ông còn sống cùng với ông không?”.

“Gì cơ? Đương nhiên, bà ấy thật sự rất tốt. Chúng tôi đã kết hôn 30 năm rồi. Dù tình cảnh có thê thảm hơn nữa, bà ấy tuyệt sẽ không bỏ tôi mà đi”.

“Tốt, hãy để tôi viết lại điều này. ‘Vợ vẫn còn sống chung với ông, bất kể xảy ra chuyện gì, bà ấy cũng đều sẽ không bỏ rơi ông…’. Con cái của ông thì sao? Ông có con cái không?”.

“Có chứ”. Ông trả lời: “Tôi có ba đứa con, chúng đều rất giỏi giang. Chúng nói với tôi rằng: “Bố, chúng con yêu bố. Chúng con sẽ luôn ủng hộ bố”. Tôi nghe xong thực sự rất cảm động”.

“Được, đây là mục thứ 2. Ba đứa con đều yêu quý ông, luôn ủng hộ ông. Ông có bạn bè không?”, tôi hỏi.

“Tôi có mấy người bạn rất tốt. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi, cũng từng nguyện ý giúp tôi. Nhưng giờ thì chẳng ai có thể làm được gì nữa rồi. Họ không thể giúp tôi được nữa”.

“Vậy là ông có những người bạn thân nguyện ý giúp mình, hơn nữa đều rất tôn trọng ông. Nhưng tôi đang băn khoăn phẩm hạnh của ông thế nào? Có từng làm việc không tốt hay không?”.

“Tôi tự cảm thấy mình sống không hổ thẹn gì cả. Tôi luôn cố gắng làm những điều đúng đắn, không thẹn với lòng, cũng chưa từng hại ai”.

“Rất tốt. Chúng ta hãy chép vào đây thêm một dòng này: ‘Đạo đức tốt’. Sức khỏe của ông gần đây thế nào?”.

“Tôi hoàn toàn ổn, hiếm khi mắc bệnh. Tôi thấy mình là một người khá khỏe mạnh. Nhưng gần đây tôi luôn chán nản, buồn khổ, cảm thấy cuộc đời đã kết thúc từ lâu”.

“Nước Mỹ thế nào? Ông cảm thấy mình còn cơ hội ở đất nước này chứ?”.

“Đây là đất nước duy nhất mà tôi muốn ở lại trên thế giới này cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay”.

Tôi lại hỏi ông: “Ông có tin rằng Chúa sẽ giúp mình hay không?”.

Ông hơi bối rối, nhíu mày một chút rồi nói: “Tôi vẫn tin vào Chúa cho đến lúc giã từ cõi đời này. Khi ấy, tôi mong Chúa sẽ tha thứ những tội lỗi, xóa sạch mọi khổ đau cho mình”.

“Được rồi. Bây giờ chúng ta hãy xem lại tờ giấy này nhé, xem ông còn lại những thứ gì”, tôi nói.

  1. Một người vợ tốt: Đã kết hôn hơn 30 năm, bất kể xảy ra chuyện gì, bà ấy cũng đều sẽ không bỏ rơi.
  2. Ba đứa con đều rất quý mến, hết lòng ủng hộ.
  3. Có những người bạn thân luôn xem trọng và nguyện ý giúp đỡ.
  4. Có đạo đức, không làm chuyện hổ thẹn với lương tâm.
  5. Khỏe mạnh, không bệnh tật.
  6. Sống trên đất Mỹ, nơi đáng sống nhất thế giới.
  7. Tin vào Chúa.

Tôi chìa tờ giấy ra trước mặt ông, nói: “Tôi nghĩ ông vẫn còn có rất nhiều tài sản. Nhưng lúc đầu ông lại bảo với tôi rằng mình không còn lại gì”.

Người đàn ông ngượng ngùng đón tờ giấy từ tay tôi, nhìn chằm chằm vào đó hàng chục phút như đang cố đọc kỹ từng dòng chữ. Bất giác ông ngẩng mặt lên, hai hàng lệ ứa ra từ khóe mắt. Tôi thấy môi ông run lên, dường như đã không giữ được bình tĩnh.

Đoạn, ông nấc lên thành tiếng, lấy hai tay che mặt, rồi bật khóc nức nở. Tôi ngồi lặng lẽ bên ông, nhìn ông khóc ngon lành như một đứa trẻ đang hối lỗi. Ông ngẩng đầu lên, nói: “Tôi đã nghĩ mình chẳng còn gì cả. Tôi thật tồi tệ, ngu ngốc. Hôm nay tôi đã định tự sát sau khi gặp anh. Tôi đã chuẩn bị cho mình một liều thuốc ngủ. Nhưng tôi đã hiểu rồi, đã hiểu rồi… Chúa không bao giờ bỏ rơi tôi!”.

Ông không chờ tôi đáp lời, lặng lẽ đứng dậy, bắt chặt tay tôi, đóng sập cửa phòng bước ra bên ngoài. Trời chợt đổ mưa nhưng ông vẫn đầu trần bước đi dưới con phố. Dáng vẻ ấy hoàn toàn khác với lúc ông đến với tôi. Có lẽ, điều duy nhất ông muốn làm lúc này là trở về nhà, ôm thật chặt vợ và 3 đứa con của mình vào lòng mà nói lời yêu thương vậy…

                                                                  ***

Cuộc đời của chúng ta có lúc sẽ không được như ý. Ta luôn mong có được một đời bình yên và hạnh phúc đủ đầy. Nhưng vẫn có những con sóng cồn, những đêm giông bão ập đến, cuốn lấp ta đi, làm héo mòn trái tim ta, khiến ta dường như chẳng còn hy vọng sống.

Nhưng bạn đã bao giờ thử làm như vị bác sĩ trên chưa? Dù khi tuyệt vọng nhất, hãy điểm lại xem mình còn lại những gì.

Vào lúc tuyệt vọng nhất, chí ít bạn vẫn còn có gia đình, bạn bè, có sức khỏe, có đạo đức và có Đức Chúa Trời ở bên cạnh chở che. Nếu bạn là một người tốt, luôn giữ điều thiện trong tâm, thì cuộc sống sẽ không bao giờ bịt kín lối đi của bạn. “Thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng”, mọi chuyện đến tận cùng rồi cũng êm xuôi, nếu chưa ổn thì chắc chắn chưa phải tận cùng.

Vậy nên, hãy luôn vui sống, tin tưởng, mến yêu cuộc đời và trân quý chính mình. Cha mẹ mang nặng đẻ đau mới sinh ra bạn trên cõi trần thế này. Ở một không gian sâu thẳm hơn, sinh mệnh của bạn có lẽ đã được Chúa Trời chở che, nâng đỡ, tạo thành. Bạn hẳn đã nghe chuyện Chúa Trời tạo ra con người từ bùn đất ra sao. Từ bùn đất, những đấng tối cao đã tạo ra bạn vất vả đến thế.

Nếu không trân quý sinh mệnh của mình, bạn chính là đang có lỗi với bản thân, cha mẹ và cả với Chúa Trời, người đã dưỡng thành sinh mệnh, linh hồn của bạn. Và xin hãy nhớ rằng:

Ảo ảnh trăm năm giữa cõi trần

Ta tìm ta ở chốn lạc lầm

Nhân sinh như mộng qua như chớp

Chỉ cầu giữ mãi mối thiện tâm

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

EM GÁI CỦA TRỜI CHO

Image may contain: cloud, sky, ocean, twilight, outdoor, water and nature
Image may contain: 1 person
Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

EM GÁI CỦA TRỜI CHO

Chương 1

Sau 5 ngày bỏ nhà đi bụi thì cuối cùng tôi cũng chịu mò về nhà, vì hay tin ngoại tôi chống gậy đi tìm. Ngoại mắt không thấy đường, tai nghễnh ngãng rồi, vừa đi vừa gào tên tôi khắp làng khắp xóm. Nghe thằng bạn kể tới đó thôi tôi cũng không đủ can đảm ở lại cái chòi vịt nhà nó thêm một ngày nào nữa, sợ thì ít mà thương ngoại thì nhiều, ngoại nuôi tôi từ bé đến giờ, ngoại cưng tôi nhất.

Lần đầu tiên trong đời tôi dạt khỏi nhà vì cái lý do chẳng giống ai, đó là ba tôi lấy vợ khác sau hơn 10 năm gà trống nuôi… tôi. Đó là một phụ nữ người gốc Huế, bán bánh bèo lọc nậm ở chợ huyện, quen ba tôi trong một lần ba tôi tới tiêm thuốc cho mấy con heo nhà bả (ba tôi là bác sĩ thú y, gọi thế cho oai chứ chả có bằng cấp gì, toàn bị chúng nó gọi là “bác sĩ heo”). Sau đó thì bả hay ghé nhà tôi vì nhà tôi gần chợ, bả đi bán sẵn ghé luôn, thỉnh thoảng có mua quà cho tôi, ban đầu thì tôi thích lắm, cho gì cũng lấy. Nhưng sau khi biết ba tôi chuẩn bị lấy bả làm vợ thì tôi vứt hết, vứt sạch. Thậm chí thấy bả tới nhà là tôi bỏ đi ra ngoài, không thèm chào như trước nữa.

Đến trước ngày cưới một hôm thì tôi bỏ đi, mọi người bận bịu quá nên chắc chả ai để ý đến tôi, khiến kế hoạch phá vỡ đám cưới của tôi sụp đổ. Cưới xong mới bắt đầu thấy có người í ới đi tìm. Ừ thì về nhà, chả ai dám nói gì, nói là tôi bỏ đi nữa, bây giờ tôi oai lắm, ai cũng sợ tôi, tôi dám bỏ nhà đi bụi cơ mà ! Nghĩ thế nên tôi chả thèm chào hỏi ai, lầm lũi xuống bếp bới cơm rồi mang ra vườn ngồi trên khúc cây đổ ăn, ngấu nghiến như một con chó con đói lâu ngày, xong rồi thì lăn ra ngủ, mặc kệ.

Từ đấy tôi bắt đầu gắt gỏng, thỉnh thoảng còn bỏ ăn, bả gọi tôi không thèm thưa, trả lời thì luôn trống không và chưa một lần tôi gọi bả là mẹ. Tôi cố tình chống đối và tỏ ra khó chịu với mẹ ghẻ, mặc dù bả không làm gì tôi cả. Có lần tôi nghe trộm được bả nói với ba tôi là bả thương tôi như con đẻ, từ từ bả sẽ lấy được thiện cảm của tôi. Đừng mơ lừa được tôi nhé “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” Câu này tôi thuộc lòng từ lâu rồi, tôi thách đấy!

Cứ thế năm tháng sau trôi qua, bả vẫn lầm lũi tiếp cận và lấy lòng tôi, còn tôi thì ngày càng ngang ngạnh, có lúc tôi còn nói hỗn với bả. Ba tôi thì vốn hiền lành như khúc củi, ổng lại bị thọt một chân, chưa bao giờ ổng đánh tôi cả. Thế nên tôi càng được thể lấn tới.

Rồi một ngày bả dắt một con bé về, nó đen nhẻm, tóc đỏ quạnh như cháy, quần áo thì quê mùa. Đích thị là con bé nhà quê vì chỉ có bọn nhà quê mới thắt tóc bím 2 bên và mặc áo tay phồng, bọn con gái lớp tôi nó bảo thế. Nó khúm núm chào tôi, mặt có vẻ sợ hãi vì tôi trừng mắt nhìn nó. Ba tôi bảo nó là con riêng của “mẹ”, ở dưới quê với bà nội, vì học chưa hết học kỳ nên bây giờ mới chuyển tới ở được, bảo tôi từ đây chăm sóc bảo ban em học hành.

Tôi chả thèm nói gì, bỏ đi đá bóng, con riêng với chả con chung, rõ là rách việc. Từ ngày có nó tôi lại càng thêm khó chịu, nó đi ra đi vào, đụng cái này ngó cái kia. Cái gì cũng hỏi, cũng cầm lên lắc lắc thử, coi bộ mới thấy lần đầu. Sai nó ủi đồ thì nó lớ ngớ làm cháy mất cái áo đi học vì không biết vặn chỉnh nhiệt độ, bắt nó chép bài hộ thì nó chép ra cả lề vở (sau này tôi mới biết vở nó cuốn nào cũng thế, chép ra lề để tiết kiệm). Đến việc sai mở tivi nó cũng không biết cách, rõ là quê một cục. Tôi bực mình chửi nó: “Mày chưa xem tivi bao giờ à?” Nó đỏ mặt, nó bảo bà nội nó cũng có cái đài casset, nhưng mà chỉ có tiếng, không có hình người.

Tóc nó ban đầu tôi tưởng nó nhuộm, sau hỏi nó mới bảo là ở dưới quê đi chăn bò với lội ruộng nhiều nên nó bị cháy. Nghe thế tôi cười hô hố.. Vào năm thì nó đi học, nó học thua tôi hai lớp, tôi học lớp 8, nó học lớp 6. Trẻ em ở quê thì thường “dậy thì” muộn, đến lớp 10 tôi mới bắt đầu “lớn”, lớp 8 tôi vẫn còn còi coọc và trẻ con lắm, hầu hết con trai trong lớp tôi đều thế, chả riêng gì tôi. Nó còn thê thảm hơn tôi, gầy đét và còi coọc như con bé tiểu học, mới đầu nghe nó nói nó học lớp 6 tôi còn há mồm không tin.

Nhà có mỗi một chiếc xe đạp Phượng Hoàng nên ba tôi bắt tôi phải chở nó đi học, mặc dù tôi cực lực phản đối. Mấy ngày đầu tôi phóng cái vèo đi trước, mặc kệ nó lủi thủi đi bộ theo sau. Mẹ nó thì đi bán từ sớm, ba tôi thì không đi xe đạp được với lại cũng chả có xe, thế nên nó phải cuốc bộ đến trường, mặc dù khá xa. Có lần quên tập, tôi chạy ngược xe về nhà thì thấy nó đang mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi đỏ gay vì mệt, tôi lấy làm đắc chí lắm, nghĩ bụng: “cho mày chết đi con nhà quê”…

Một lần nó sốt mấy ngày liền do đi học nắng quá, nó vẫn giấu không cho ba tôi và mẹ nó biết vụ tôi không chở nó đi học. Thấy nó nằm rên hử hử trên giường, lúc tỉnh nó còn dặn tôi để quần áo đấy nó giặt, nó đang mệt quá không giặt được. Nghe nó lảm nhảm tự nhiên thấy hơi.. tội tội và có lỗi với nó.

Nó hết sốt và đi học lại thì tôi bắt đầu cho nó đi chung xe, ban đầu nó hơi ngạc nhiên, sau nó cũng lên, suốt cả năm học tôi chở nó, chưa bao giờ tôi thấy nó nói gì. Thỉnh thoảng có nghe nó hát nho nhỏ gì đó, tôi quay lại thì nó lại im. Nó là một đứa khá khó hiểu, mãi cho đến lúc nó đi xa mãi, tôi cũng chưa hiểu được nó, con em gái bé bỏng của tôi….

Chương 2

Sau vài lần bị bạn bè bắt gặp tôi chở con bé đi học, bọn trong lớp tôi ngay lập tức rêu rao cái tin động trời này vào lớp: “Thằng T có bồ rồi tụi bay ơi, thằng T có bồ rồi, bồ nó xấu như con ma lem”. Có thằng còn thề sống thề chết là thấy bọn tôi ôm nhau, đúng là chém gió một cách trắng trợn kinh tởm mà. Tôi thanh minh không được, điên máu gào toáng lên rằng đó là “em họ” tôi, đứa nào còn nói nữa thì cẩn thận ăn đấm. Thấy tôi làm dữ, bọn nó cũng chùn không nói nữa, nhưng tôi để ý bọn con gái nhìn tôi với ánh mắt rất đểu, thỉnh thoảng có đứa còn đưa tay bịt miệng cười hi hí. Thật là một nỗi oan động trời mà, tôi đẹp trai thế này, lại là con của “bác sĩ…” mà lại đi cặp bồ với một đứa đen đủi xấu xí như thế à, nghĩ sao vậy chứ, thật bực mình hết chỗ nói.

Hôm sau tôi quyết định không chở nó đi nữa, kệ cho nó đi bộ. Nó cũng không nói gì, cúi đầu lặng lẽ rảo bước khi thấy tôi phóng xe đi trước. Nhưng mà đi được một đoạn, ngẫm lại cái hôm nó ốm liệt giường, thều thào xin lỗi đến tội nghiệp vì không giặt được quần áo, nấu cơm cho tôi được, để tôi phải làm, nó nói như là nó có lỗi lắm ấy… Tôi quay xe lại, dù sao thì…

Từ xa xa tôi thấy nó đang lững thững đi, trông dáng nó bé tí teo như cục kẹo vậy, trên lưng là cái cặp to tướng. À mà không giống cục kẹo lắm, nhìn kỹ thì giống con rùa con hơn, một con rùa cả nghĩa đen và nghĩa bóng… Tôi bảo nó lên xe, nó im lặng bước lên, cũng lại chả nói gì. Nó như là bản sao của mẹ nó vậy, không bao giờ chống đối hay hỏi han điều gì, mẹ con nó như những người phụ nữ ở nhà thống lý Pá Tra ngày xưa…

Tôi đi đường tắt để tránh sự dòm ngó của bọn trong lớp, con đường vòng vo và vắng nhà cửa. Tôi chở nó chạy xe băng băng qua vườn điều, vườn cam, vườn mía, băng qua cả những ngày tôi phởn chí dừng xe lại trèo vào bứt trộm ổi cho nó ăn, nó ở ngoài trông xe mà mặt tái mét, băng qua cả những lần tôi điên tiết bỏ nó giữa đường cho nó đi bộ, làm nó bị trễ cả giờ kiểm tra, băng qua cả những hôm bị xịt lốp xe, hỏng xe, tôi thì dắt, nó đi phía sau phì phò đẩy hộ… Bây giờ thỉnh thoảng có dịp về quê tôi hay xách chiếc xe đạp ngày xưa đi ngang con đường ấy để tìm lại kỉ niệm, có những lúc giật mình buột miệng gì đó mà không thấy ai trả lời, tôi quay lại nhìn phía sau, không còn thấy cô em gầy gò của tôi hai tay bám chặt vào yên xe, mặt ngơ ngác thay cho câu hỏi nữa… Bất giác tôi không còn sức để đi tiếp, dừng xe lại… nước mắt chảy dài…

Ngày ấy bọn tôi hay có trò chơi gảy hình, hình Songoku và dũng sĩ Héc-man. Trong lớp tôi hầu như ngày nào cũng mở hội gảy hình trước giờ học. Tôi chơi dở tệ nên thường xuyên thua sạch, bao nhiêu tiền ba tôi cho mua sách vở bút mực tôi đều mua hình và cống nạp hết cho tụi bạn. Hôm đấy cay cú vì lời thách thức của thằng bạn quá mà hết sạch tiền, tôi chả biết làm sao cả. Ba tôi thì đi vắng chưa về nên không nói xạo để xin tiền được. Tôi đánh liều… Lục cặp của nó trộm tiền, vì tôi biết mẹ nó hay dấm dúi tiền cho nó mua mấy thứ linh tinh của bọn con gái. Định bụng khi thắng cuộc tôi sẽ bán hình lại lấy tiền rồi khéo léo bỏ vào trả lại cho nó như không có chuyện gì xảy ra. Ai ngờ đâu… tôi thua sạch sẽ…

Cả ngày hôm đấy tôi cứ lấm la lấm lét nhìn nó, tôi chỉ sợ nó méc mẹ nó hay ba tôi. Rồi thì ba tôi vặn hỏi, tôi sẽ lắp bắp, rồi thì lộ ra cả chuyện tôi không mua sách vở, rồi thì… lúc đấy thì chỉ có mà nhục hơn chết.

Nhưng mà quái lạ là tôi không thấy nó nói gì, tôi chắc chắn là nó đã biết vì tôi thấy nó soạn sách vở đi học, có lôi mấy thứ trong cái ngăn đựng tiền ra. Nhưng dù sao, tôi cũng thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát được một kiếp nạn…

Mãi sau này tôi mới phát hiện ra một điều, nó là đứa con gái duy nhất trong trường đội nón lá đi học. Trước đây tôi tưởng điều đó là bình thường vì thấy cô, dì, hay những phụ nữ tôi quen đều đội như vậy. Nhưng khi nghe con gái trong lớp xì xào: “con bồ thằng T nó vẫn đội nón lá đi học đấy, đúng là gái dưới quê lên có khác” thì tôi mới chột dạ, như thế là nhà quê, là không hợp thời…

Tôi về nhà lôi nó ra hỏi: “Con kia, sao mày lại đội nón lá đi học, đây có phải như dưới quê mày đâu, mày không biết xấu hổ à?”. Nó lí nhí: “Tiền em dành được để mua nón hoa, em làm mất rồi”. Tôi đứng hình và hiểu ra ngay, thì ra những khi mẹ nó cho nó tiền mua quà, mua bút sách này nọ, nó đều tiết kiệm lại, vở nó viết ra cả lề, nó tính nháp ra chằng chịt cái bàn học vì sợ tốn giấy, trong khi tôi thì giật giấy trắng trong tập gấp máy bay phi ầm ầm, bộ đồ đi học của nó, cũng là được “thừa kế” của một người chị họ, sách giáo khoa của nó cũng là đi mượn về, nhiều quyển còn bị xé lam nham… Nó tiết kiệm từng đồng từng xu để rồi cuối cùng bị thằng khốn nạn như tôi ăn cắp mất…

Tôi đuổi nó vào rồi ngồi thẫn thờ một lúc, lần đầu tiên tôi nhận ra một điều là dù sao nó cũng là một đứa con gái, cũng biết xấu hổ khi bạn bè chê cười, cũng thích nơ kẹp tóc và nón hoa như bao đứa khác… Tôi thấy ân hận ghê gớm, tâm trạng nặng nề kéo dài mãi đến tận mấy hôm sau…

Chương 3

Những ngày tháng trẻ con vụng dại ấy rồi cũng trôi qua nhanh chóng, vẫn chiếc ngựa chiến ấy, tôi chở nó băng băng qua tuổi thơ, băng qua những ngày tháng cuối cùng của đời học sinh ở trường huyện, nhưng tôi không còn cố tình phóng nhanh để cho nó hoảng sợ nữa, tôi không còn bắt nó đi bộ một đoạn rất xa khi gần đến trường để tránh bị phát hiện nữa. Tôi chở thẳng nó vào trường, như thể một thằng anh trai chở em gái đi học. Ừ, nó là em gái tôi mà, lần đầu tiên trong đời tôi có em gái, nó lại ngoan và hiền như thế, có lý do gì để tôi bắt nạt nó hoài cơ chứ… Tôi nhận ra điều này, tuy muộn nhưng không trễ. Nó thấy tôi bắt đầu đối tốt với nó, không còn quát mắng nó như xưa nữa, không còn dọa đánh nó mỗi lần nó làm gì lớ ngớ nữa… Nó không nói gì nhưng nó nhìn tôi lạ lắm, không còn thái độ sợ sệt như trước đây nữa, hình như mắt nó có gì đó long lanh… Nếu nó là con cún con, tôi ắt hẳn nó sẽ vẫy vẫy cái đuôi bé tí…

Một ngày cuối năm lớp 9, tôi đang ngồi học trong lớp thì nó ở đâu chạy vào, nước mắt nước mũi tèm nhem: “Ba bị tông xe rồi anh Bi ơi, người ta đưa vô bệnh viện rồi…”

Tôi chở nó phóng như bay vào bệnh viện, sáng nay có người mang ô tô đến chở ba tôi đi vào xã chích ngừa cho gia súc, bảo là chiều sẽ về…

Vừa để nó xuống xe, tôi phóng như bay vào phòng cấp cứu, tôi biết nó ở chỗ nào vì bà ngoại tôi từng 2 lần nằm ở đây. Cô dì chú bác họ hàng tôi đứng chật ngoài phòng cấp cứu, ba tôi vốn hiền lành và tốt bụng nên được cả họ quý mến… Cô tôi thấy tôi đến thì chạy lại ôm chồm lấy tôi khóc nức nở. Tôi hoảng loạn mặt mày tái mét, miệng lắp bắp: “ba… ba con… sao rồi cô?” Cô không trả lời mà đưa tay lên bụm miệng rồi nấc càng mạnh… Tôi hoảng quá, chạy lại túm lấy anh tôi, chú tôi, bác tôi… gào toáng lên: “ba con sao rồi, ba con sao rồi…”. Không ai đủ dũng khí để nói gì với tôi, một thằng mất mẹ từ năm 3 tuổi… Họ sợ phải chính miệng thốt ra với tôi rằng: “Bi à, ba con mất rồi…”…

Từ ngày ba tôi mất, tôi biến thành một người hoàn toàn khác, không còn muốn quậy phá làng xóm nữa, không còn muốn đùa giỡn chạy nhảy nữa, tôi gần như là một cái xác không hồn… Bạn bè cũng nhìn tôi bằng ánh mắt khác, một ánh mắt đầy thương hại, lớp tôi còn tổ chức đến nhà tôi “thăm và chia sẻ” với tôi, tôi biết thế nên trốn sang nhà ngoại, tôi chẳng cần ai thương hại hết, tôi chẳng cần ai hết, tôi chỉ cần ba tôi mà thôi… ba ơi…

Con em gái tôi, từ dạo đó cũng trở nên ít nói hơn. Hằng ngày tôi vẫn chở nó đi học, vì tôi chỉ còn vài tháng ngắn ngủi nữa là hết cấp 2 rồi, dù sao thì như ngoại tôi nói, tôi phải cố học để ba mẹ tôi ở dưới suối vàng được yên lòng…

Cô tôi sang nhà nói chuyện với mẹ kế của tôi về việc để tôi qua nhà cô ở, cô sẽ nuôi và chăm sóc tôi. Tôi ở trong buồng nghe mẹ kế nói, chậm rãi và từ tốn bằng giọng Huế khá nặng, rằng bà thương tôi như con, ba tôi mất rồi nên bà phải có trách nhiệm nuôi nấng tôi nên người, bà nhất định không để tôi phải khổ…

Từ đấy mẹ kế tôi nuôi tôi và em gái bằng gánh hàng chợ nắng đắt mưa ế, bằng những buổi sáng dậy sớm tinh sương để nặn nặn gói gói chiên chiên xào xào. Tôi nghe hai mẹ con họ thì thầm, để tránh gây ồn “cho anh Bi ngủ…” , tôi nghe con em kể chuyện đi học ở trường, tôi nghe họ nói đến những gì cao xa và tốt đẹp lắm… Chiếc đèn Hoa Kỳ treo ở bếp in bóng hai người phụ nữ bé nhỏ ấy vào tường, in cả vào những giấc mơ của tôi sau này, giấc mơ có mùi hành phi thơm phức… Con bé em tôi từ dạo đấy phải dậy sớm để phụ mẹ nên bị thiếu ngủ, có lần tôi chở nó đi học, quay xe lại nhìn thì thấy tay nó vẫn bám chặt yên, nhưng mắt thì đã nhắm nghiền từ lúc nào, lông mi nó dài và cong lắm…

Nhiều lần tôi áy náy quá, cố dậy theo để phụ làm bánh, nhưng mẹ kế nhất quyết không cho, nằng nặc bảo tôi đi ngủ, bà nói rằng chỉ còn vài tháng nữa là thi chuyển cấp 3 rồi, tôi nhất định phải đậu trường chuyên trên tỉnh, cứ học giỏi vào là khổ bao nhiêu bà cũng chịu được, còn con Luyến (em gái tôi) thì chưa phải chuyển cấp nên để nó phụ. Bà xua tôi vào ngủ như xua tà…

Cuối cùng tôi cũng đậu vào trường chuyên trên thị xã thật, con em tôi là người biết đầu tiên. Nó cầm tờ giấy báo phóng ra ngoài mương câu cá để tìm tôi, bộ dạng nó hớn hở còn hơn cả tôi. Nó đưa tôi tờ giấy, mắt nó mở to và rạng rỡ: “anh Bi xem này.” . Tôi cầm tờ giấy báo trên tay, vui thì ít mà nhớ ba tôi thì nhiều… Nếu ba tôi mà còn sống, chắc chắn ông sẽ vứt cả nạng mà chạy đi tìm tôi… “Bi phải thi khối B, làm hẳn bác sĩ, bác sĩ thật, chứ không phải bác sĩ heo như ba… ”

Chương 4

Trường mới cách nhà tôi gần 50km, tất nhiên là với chiếc xe đạp cọc cạch, tôi không thể nào đạp xe đến trường với một khoảng cách xa như vậy được. Vì vậy chắc chắn nếu tôi đi học cấp 3 trên đấy, tôi phải trọ học, phải xa nhà. Vấn đề ở đây không phải là tôi không muốn đi học xa, mà là vì nếu ở trọ thì sẽ có biết bao nhiêu vấn đề phát sinh. Tiền nhà trọ, tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước… Tiền tiền tiền, thứ mà nhà tôi thiếu nhất vào lúc này, khi trụ cột là ba tôi đã không còn nữa…

Lúc ngồi ăn cơm, tôi bảo với mẹ kế: “Thôi con ở nhà học cũng được, ở trọ rồi tiền đâu mà học, với lại con thích ở nhà thôi, lên đó biết chơi với ai”. Bà nghe vậy thì dừng đũa, nói với tôi một cách nghiêm nghị nhất: “Con nghe cô, con nhất định phải đi học, cô còn lo được thì con cứ an tâm mà học hành, sau này cô già yếu không còn sức nữa thì con còn phải thay cô lo cho con Luyến nữa chứ… ”. Bà nói nhiều lắm, đại ý như là tôi phải hoàn thành tâm nguyện của ba tôi, sau này tương lai còn dài lắm, rồi thì cứ học thật giỏi, phải làm gương cho em… Bà ít học, nửa chữ cắn đôi bà cũng không biết, nên bà cảm nhận được cái sự khổ của việc không được đến trường, được đi học… Con Luyến nó cũng ngồi im nghe, nó cũng mong tôi đi học lắm, nó còn bảo sau này nó cũng muốn vào trường chuyên như tôi, nó sẽ học để làm cô giáo…

Một ngày cuối tháng tám, tôi dậy rất sớm để chuẩn bị lên đường, áo len mũ trùm kín mít vì trời lạnh. Chiếc balo đã chật cứng quần áo con Luyến nó xếp vào cho tôi hôm qua, một cái bao đựng hũ ruốc khô mẹ kế làm, một bao gạo đựng trong túi cám con cò, vài thứ vật dụng linh tinh… Ngày ấy phương tiện di chuyển còn ít, đi đâu xa xa là phải đi bằng ô tô than, mỗi lần ba tôi đi lên thị xã mua thuốc hay học lớp kỹ năng nông nghiệp về là áo quần ướt đẫm mồ hôi và bồ hóng bụi than thì bám đen kịt, lấm lem mặt mũi như Bao Công…

Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi rời khỏi cái phố huyện nghèo, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Mẹ kế hôm đấy vẫn đi bán, vì nghỉ bán một ngày là cụt vốn ngay. Tối hôm trước bà đã dặn dò tôi đủ điều rồi, ngồi nghe căn dặn, tôi bắt đầu cảm nhận được tình cảm của bà dành cho tôi, đứa con riêng của chồng suốt ngày chỉ biết chống đối và quậy phá…

Tôi chở con Luyến qua nhà ngoại, để nó ngồi sau ôm ba lô và đồ đạc cho tôi. Ngoại tôi biết là sáng nay tôi sẽ qua nên đã chống gậy đứng sẵn ngoài cửa chờ từ lúc nào. Ngồi nói chuyện với ngoại một lúc thì tôi chào ngoại về để kịp xe, ngoại dúi cho tôi một cục tiền lẻ cuộn tròn và cột chặt bằng dây thun, bảo tôi cầm lấy thỉnh thoảng ăn quà, cục tiền tròn vo và cũ kỹ, có lẽ ngoại đã dành từ rất lâu rồi… Ngoại dặn tôi phải học cho giỏi để làm bác sĩ, để về chữa bệnh đau lưng cho bà, để chữa mắt cho bà, để bà lại được dịp đi lòng vòng khắp xóm để khoe “Thằng cu Bi nhà tôi nó đậu to lắm, đậu trường to nhất trên thị xã…”… Giờ tôi cũng đã thành bác sĩ, nhưng ngoại tôi thì đã đi xa lắm rồi…

Bến xe quê tôi thực chất nó chỉ là một khu đất trống gần chợ, sáng thì nó là bến xe, quá trưa thì thành chỗ phơi cá khô của tiểu thương trong chợ, chiều thì thành chỗ đá bóng của trẻ con. Con Luyến nó nhất quyết chờ tôi lên xe rồi mới chịu về, tôi bị nhét ra hàng ghế sau cùng, tôi úp mặt vào cửa kính phía sau xe, nhìn ra cái bóng bé tẹo của nó xa dần xa dần trong lớp sương mờ của buổi sáng miền núi. Sau này có dịp đi ô tô, xe bus, tôi thường chọn cho mình dãy ghế sau cùng, chỗ mà người ta tránh nhất, để thỉnh thoảng nhìn ra cửa kính, tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì đó thật mơ hồ…

Chương 5

Trường trên thị xã khác hẳn ở dưới quê tôi, tuy không mát mẻ và nhiều bóng cây bằng nhưng rất rộng và sạch sẽ. Sau hai ngày đầu bỡ ngỡ thì anh con của bác hàng xóm dưới quê cũng tìm được cho tôi một phòng trọ ở gần trường, ở chung với một anh người Tày lành như đất lên thị xã học theo diện chính sách.

Ngoài giờ đi học thì tôi hay lăng quăng ra bờ hồ gần trường để đi dạo, ra sân vận động xem đá bóng, thỉnh thoảng buồn quá thì trèo lên cái cột nước ở gần trường để ngồi ngắm nhà cửa, xe cộ, cây cối bé tẹo ở phía dưới. Học trường mới lớp mới, trong lớp toàn học sinh của thị xã con nhà khá giả nên với bộ dạng hai lúa và khù khờ của mình, tôi hầu như không thể hòa nhập được với bọn chúng. À mà thật ra tôi cũng chả muốn chơi với ai cả, chỉ muốn đi học rồi về, ai hỏi thì trả lời, không thì thôi, có hôm cả ngày tôi không nói tiếng nào. Một thời gian thì tôi bị liệt vào thành phần lập dị trong lớp, nhưng tôi chả mấy quan tâm về điều này.

Cứ đều đặn đầu tháng là mẹ kế tôi gởi gạo, tiền, mắm muối và những thứ cần thiết lên cho tôi. Tháng nào cũng như tháng nào, chưa một lần bà để tôi đói hay thiếu thốn. Thỉnh thoảng con em tôi nó có biên thư lên, lá thư của nó thường có ba phần, một phần của ngoại tôi, một phần của mẹ kế, và một dòng ngắn ngủn của nó cuối thư “Anh Bi ráng học cho giỏi nghen…”. Hầu như lần nào cũng chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn háo hức khi mỗi lần nhận được thư của nó, nét chữ của nó tròn vo và nắn nót, tôi đọc được nét mặt của nó trong thư…

Mặc dù trường cách nhà tôi cũng không xa lắm, chỉ khoảng 50 cây số, nhưng ngày xưa đi lại khó khăn và cũng sợ tốn kém nên tôi ở một lèo đến giáp Tết cũng chưa chịu về nhà.

Hôm ấy đi học về thì tôi thấy con Luyến đứng trước nhà, tay cầm mảnh giấy ghi địa chỉ. Tôi ngạc nhiên lắm, chạy ngay lại hỏi nó: “Mày đạp xe lên đây à, xa thế mà mày cũng đi được, mày có hâm không đấy?”

Nó bảo với tôi là nó được nghỉ 2 ngày nên lên thăm tôi, nó đi từ lúc 5 giờ sáng bây giờ mới tới. Với lại nó cũng muốn lên xem thị xã nó như thế nào…

Tôi gỡ những thứ linh tinh trên xe xuống cho nó. Gạo, bánh của ngoại, nửa con vịt của cô, và một bọc bánh tráng nướng nát vụn vì đi đường xa…

Tối hôm đấy nó ngủ lại phòng tôi vì tôi không cho nó đi xe về buổi tối, sợ nguy hiểm. Anh người Tày biết ý nên sang nhà hàng xóm ngủ nhờ và cũng vì cái phòng tôi bé tẹo nên không đủ chỗ cho ba người. Nó đi đường xa mệt nên đi tắm rồi lăn quay ra ngủ. Tôi thì ngồi học bài đến khuya…

Phòng của tôi chỉ rộng 12m2 và kê đủ thứ linh tinh rồi nên chỗ ngủ cũng là chỗ ăn cơm, chỗ tiếp khách. Tôi nằm xuống cạnh nó, lần đầu tiên trong đời tôi nằm gần một đứa con gái như thế. Tôi quay mặt vào tường nhưng có cái gì đó thôi thúc, thôi thúc khiến tôi quay sang nhìn nó. Con em tôi học lớp 8 rồi, cũng bắt đầu lớn rồi. Trong ánh sáng mập mờ của cái đèn học tôi chợt nhận ra nó không còn là con bé đen nhẻm dạo trước nữa. Hai năm ở nhà tôi không phải chăn trâu bắt ốc, không phải ăn uống khổ cực nữa nên nó đã mập và da dẻ đã trắng lên rất nhiều. Tôi nằm nghiêng đối diện nó, tự nhiên tôi nhận ra là so với tất cả con gái tôi từng gặp hay học chung, không có đứa nào đẹp bằng nó cả… Nó xinh lắm, xinh ghê gớm, sao bây giờ tôi mới nhận ra nhỉ, hay là tôi xa nhà nửa năm nên nhìn nó lạ đi…

Năm ấy tôi cũng đã bắt đầu dậy thì rồi, cũng vật vã và cào cấu như bao người khác, nhưng chuyện ấy và con gái đối với tôi là một cái gì đó rất mơ hồ và siêu thực. Tôi không biết là mình muốn gì và cần gì nữa, tôi đón nhận sự thay đổi của cơ thể, của tâm lý một cách tự nhiên và thuần khiết nhất…

Tôi nằm ngắm trộm nó đến nửa đêm thì bỏ ra ngoài đi dạo. Tôi sợ chính mình, sợ chính đôi bàn tay run cầm cập thò ra lại rụt vào của mình, sợ chính cơ thể mình. Sợ con bé nằm ngủ ngoan như thiên thần trước mặt mình… Tôi thấy mình thật ghê tởm và xấu xa như con quỷ…

Sáng hôm sau tôi viết giấy xin phép nghỉ học rồi chở đi nó dạo quanh thị xã. Chỉ còn hơn nửa tháng nửa là Tết nên đường phố đẹp lạ lùng, hay là điều gì khác trong tôi khiến tôi thấy nó bỗng nhiên đẹp nhỉ. Tôi cũng không biết nữa, chỉ biết con em tôi nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngắm những dãy nhà cao tầng, khu chợ nhộn nhịp đông đúc khác hẳn với cái chợ nhỏ vắng teo ở nhà…

Tôi chở nó qua trường tôi đang học cho nó xem, mua cho nó chiếc bánh kẹp trước cổng trường mà ở dưới quê không có, mua cả cho nó một cái bờm kẹp tóc. Lâu lắm rồi tôi mới thấy nó cười, nó cười cũng không giống những đứa con gái khác, có cái gì đó buồn xa xăm, mặc dù tôi biết là nó vui thật…

Lúc nó về, tôi buột miệng bảo nó: “Em đi xe cẩn thận đấy, về nhà thì qua nhà cô Tư gọi điện lên cho anh, cái số anh vừa chép ấy”. Nói xong tôi mới nhớ đây là lần đầu tôi gọi nó bằng em, thôi kệ, tôi thấy tôi và nó cũng đủ lớn để gọi như thế rồi, và tôi biết, điều đó khiến nó vui…

Chương 6

Hai mươi chín giáp Tết tôi mới về đến nhà, bà ngoại với cô tôi chờ sẵn ở nhà tôi từ lúc nào rồi, lúc ăn cơm họ hỏi han tôi đủ thứ rồi lắng yên nghe tôi kể chuyện học trên thị xã, kể về nhà cửa phố phường, về những thứ mà dưới quê tôi không có, về tất tần tật những chuyện xảy ra trong nửa năm tôi xa nhà. Lần đầu tôi đi xa nên ăn cơm gia đình tôi thấy ngon và ấm cúng lạ thường, không chê ỏng eo như ngày còn ở quê nữa. Tôi thấy mình thật dại khi trước đây không biết trân trọng những bữa cơm đông đủ ở nhà…

Tối đấy tôi chở con Luyến đi dạo, tôi bảo nó kể cho tôi nghe chuyện ở nhà, chuyện học hành của nó, chuyện linh tinh xóm làng. Nó ngồi sau tôi thì thầm to nhỏ chuyện anh hàng xóm mới lấy vợ, chuyện con chó ở nhà đẻ được hai con, biết ăn cơm thì nó cắp ra chợ bán, chuyện bà ngoại hay chống gậy sang hỏi bao giờ thì thằng Bi nó về, chuyện về trường cấp 2 mới xây thêm một dãy nhà nữa…

Ngày ấy quê tôi chưa có đèn đường, nhưng vì gần Tết nên nhà nào cũng thắp đèn sáng trưng để gói bánh, để thịt gà thịt heo… Tôi chở nó đi xa tít, ra tận con đập nước ngoài ven, chỗ mà ngày còn ở nhà tôi hay ra tắm với lũ bạn. Ngồi trên bờ đập nước, gió thổi mát lạnh, nói chuyện với nó, tôi phát hiện ra rằng nó đã khác xưa rất nhiều, cũng đã bắt đầu hiểu chuyện chứ không có khù khờ như dạo mới lên nữa… Nó đã lớn thật rồi, chí ít là trong suy nghĩ…

Lúc nằm mơ màng ngủ, nhớ lại lúc ở trên con đập, tôi chợt thấy xao xuyến lạ kì, sao hồi nãy nó cười duyên thế nhỉ, sao hôm nay nó lại kẹp cái bờm của tôi mua cho nhỉ, trông đáng yêu và gọn gàng lắm, không có bù xù như ngày trước… Tôi có tâm trạng ấy cũng là vì lên cấp 3, tôi được đọc cuốn sách về tình yêu đầu tiên trong đời, hình như là quyển ”Đồi gió hú”… Nói cách khác, là tôi đã bắt đầu biết mơ mộng, mơ mộng những thứ mà trước đó tôi cho rằng vớ vẩn và đáng khinh…

Đấy là năm 1995, năm đầu tiên cấm nổ pháo vào dịp Tết. Tết trở nên kém vui hẳn đi. Với lại nhà tôi đang có tang nên tôi cũng chẳng muốn đi đâu, mấy ngày Tết quanh quẩn ở nhà một mình với chiếc ti vi trắng đen có cái chốt vặn cọt kẹt. Mùng 5 Tết thì nó về nhà, nó đi về quê thăm bà nội từ hôm mồng 2, hôm nay phải về để mùng 7 còn đi học lại. Nó bước vào nhà, mặc chiếc váy màu xanh gấp nếp, áo sơ mi trắng cổ tròn. Đấy là kiểu thời trang ngày xưa của hầu hết tụi con gái quê tôi. Giấu vẻ ngạc nhiên khi lần đầu thấy nó mặc váy, tôi gật đầu khi nó chào rồi tiếp tục hướng mắt vào tivi. Nhưng thật ra, thật ra tôi tò mò kinh khủng, tôi muốn quay sang nhìn nó, nhìn dáng nó trong chiếc váy, nhìn thấy nó lần đầu ăn diện. Tôi cố gắng kiềm chế để nhìn lên tivi, cố gắng không quay sang nhìn nó, cũng không biết vì sao tôi làm lại thế nữa. Tôi chỉ biết là mặc dù nhìn thế, nhưng tôi không biết là tivi đang chiếu cái gì, đơn giản là vì tâm trí và ý nghĩ của tôi thuộc về nơi khác…

Tôi lên thị xã học lại, mang theo nỗi bâng khuâng kỳ lạ về cô em gái. Hình ảnh nó hôm Tết cứ ám ảnh tôi mãi, nó đi vào cả những giấc mơ, những buổi chiều thơ thẩn, những lúc ngồi trên bồn nước cao, trong lớp học, thậm chí nó lờ mờ hiện ra cả trên mặt nước bờ hồ, khiến tôi phải giật mình cứ ngỡ là đang ngủ gật…

Đến tháng năm, lúc mà ve đã râm ran chuẩn bị vào hè thì cô tôi biên thư lên bảo tôi về nhà gấp. Tôi thấy kì lạ là sao không phải là em gái tôi, mà lại là cô tôi. Giọng của cô trong thư cũng gấp gáp lạ thường. Chiều hôm đấy học xong tôi bắt xe rồi về quê ngay trong đêm…

Chương 7

May là hôm đấy tôi về ngay, chứ còn chần chừ đến sáng hôm sau thì tôi đã không còn được gặp mẹ kế lần cuối nữa. Bà nằm trên giường, vẫn tỉnh táo và nói chuyện được, nhưng bụng rất to như có chửa sắp sinh, da thì tái nhợt. Cô tôi nói, bà bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, trạm xá trả về tối qua…

Con Luyến nó ngồi cạnh mẹ, tay nắm chặt lấy mẹ. Tôi không biết là nó gan lỳ không khóc để tránh mẹ nó buồn, hay là nó đã trốn vào góc nào đó khóc hết nước mắt rồi. Mặt nó phờ phạc đi vì thức đêm trông mẹ, vì lo lắng, vì sợ hãi… Bà ngoại tôi thì khóc hết nước mắt, bà bảo bà có một đứa “con gái” như mẹ là phúc của cả đời bà, phúc của thằng Cảng (bố tôi), phúc của thằng Bi…

Tôi ra ngoài ngồi ủ rũ chẳng biết nói gì hơn, chẳng biết phải làm gì trong lúc này. Một lúc sau thì cô tôi ra gọi tôi vào buồng để mẹ kế tôi gặp. Bà nắm chặt tay tôi, thều thào bảo tôi phải học thật giỏi để đỗ đạt cao, để sau này lo cho con Luyến… Bà nấc lên mấy cái rồi nhắm mắt. Con Luyến thấy thế gào thảm thiết, gào như điên như dại. Cả nhà tôi, bà con chòm xóm đến thăm cũng đồng loạt ôm mặt khóc nức nở. Đến lúc này tôi cũng không nén được nữa, tôi nắm chặt lấy tay mẹ: “Mẹ ơi… mẹ ơi…”. Đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gọi Mẹ bằng Mẹ. Cái từ mà tưởng như đã chết hẳn trong tôi từ lâu lắm rồi…

Mẹ không sinh ra tôi, nhưng đôi quang gánh của bà đã gánh tôi trên vai, gánh cả những tủi nhục của phận làm vợ kế, gánh cả đứa con gái nhặt được ở ngoài mương về nuôi nấng chăm sóc nó như con đẻ, để nó thành em gái tôi như bây giờ. Tình thương của mẹ mênh mông và rộng lớn quá, đến khi mẹ mất đi rồi tôi mới nhận ra thì đã quá muộn. Ngay cả lúc mẹ sắp ra đi, bà cũng cố dặn cả nhà đừng báo cho tôi biết vì sợ tôi lo lắng mà ảnh hưởng học hành. Thỉnh thoảng có nghe ai đó ru con: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng…” tôi lại nghĩ đến mẹ, nghĩ đến đôi quang gánh của mẹ và cái nhìn trìu mến của bà khi lần đầu gặp tôi: “Cu Bi đây à anh, giống bố nhỉ…”…

Đám tang mẹ xong, tôi lên thị xã thu dọn đồ đạc rồi về ngay. Tôi quyết định bỏ học để theo chú tôi đi xẻ gỗ. Mà tôi có muốn đi học cũng không được nữa vì lấy tiền đâu để mà học, rồi thì ai sẽ lo cho con Luyến. Tôi ở nhà khoảng mười ngày, thấy con Luyến nguôi ngoai phần nào rồi, trong bữa cơm tôi nói với nó: “Mai anh theo chú Bảy đi làm, em ở nhà lo học nhá, cứ nửa tháng anh về một lần”. Nó nghe thế thì quên cả vẻ ủ rũ: “Không được, anh không được bỏ học, anh mà bỏ học thì anh là đồ bất hiếu, không nghe lời ba mẹ, ngày mai anh phải lên trường ngay, ở nhà đã có em lo…”. Nó nói như ra lệnh, người lớn và rất dứt khoát. Tôi hơi bất ngờ khi thấy nó như thế, nhưng vẫn từ tốn bảo nó: “Không phải anh không muốn đi học, anh đã quyết thế rồi, em ở nhà học cho giỏi đi, không được nghĩ ngợi gì hết.”.

Nó thì nằng nặc bảo tôi đi học, tôi thì cứ ôn tồn nói với nó, giải thích cho nó hiểu. Cuối cùng nói không được nữa, nó mới nói toẹt với tôi: “Em bỏ học từ sau Tết rồi, từ mai em sẽ đi bán bánh thay mẹ, anh cứ đi học… Anh nghe em… anh cứ học thật giỏi… Còn em là con gái, học hành rồi cũng chẳng tới đâu… Em theo mẹ đi bán từ mấy tháng nay rồi…”. Đến đây thì tôi shock nặng, bát cơm trên tay tôi tự nhiên nặng trịch, tôi không còn lời nào để nói với nó nữa. Nó là đứa học giỏi nhất trường tôi, chỉ vào học nửa năm nó đã đứng đầu trường, tôi nghĩ thế nên kì vọng vào nó biết nhường nào, vậy mà vì tôi, vì một thằng chẳng phải máu mủ gì… Mãi rất lâu sau này tôi mới biết, khi phát bệnh, biết mình sẽ không qua khỏi nên Mẹ đã bảo nó thôi học, tập đi bán dần để sau này… nuôi tôi ăn học.

Sáng hôm sau ngủ dậy thì nó đã đội quang gánh đi bán rồi. Nó để lại cho tôi một mảnh giấy nhỏ, dặn tôi đủ điều. Quần áo của tôi nó đã xếp gọn gàng vào ba lô rồi, trong đó còn có một ít tiền được gói bằng giấy báo, bên ngoài là bọc ni lông, cột rất kỹ càng. Đó là số tiền mẹ để lại cho tôi, cô chú và hàng xóm dấm dúi giúp đỡ… Đủ để cho tôi ăn học trong 2 tháng..

Tôi gạt nước mắt, vác ba lô lên trường để tiếp tục đi học, để lại ở quê cô em gái bé nhỏ hàng ngày vẫn nặng nề đôi gánh trên vai, bước thấp bước cao trên những con dốc chợ miền núi . . .

– “Ai bèo lọc nậm hôn ôn ôn…”

Cusiu

Trùm móc túi 

Trùm móc túi 

CUỐI TUẦN MỜI ĐỌC LẠI CHUYỆN VUI

 Toa hạng nhất chẳng có mấy hành khách. Pierre Joli chọn cho mình một cupe trống. Hắn hy vọng sẽ được ngồi một mình, không ai quấy rầy trong suốt cuộc hành trình. Thế nhưng khi tàu bắt đầu chuyển bánh thì cửa cupe bật mở và một cô gái tóc vàng lịch sự, tay xách chiếc va-li da, bước vào.Cô ta cố kiễng chân nâng chiếc va-li lên giá để hành lý, tuy nhiên việc đó rõ ràng là quá sức đối với cộ Pierre đứng dậy nhiệt tình giúp cô gái.

 Rất cám ơn! – Cô mỉm cười và trong một thoáng, mắt họ gặp nhau. Ánh mắt của cô gây cho hắn cảm giác rằng cô có ý ve vãn đôi chút. Nhưng nếu quả như vậy thật thì cô đã không gặp may.
Sau một ngày khá nặng nề, hắn đã mệt rã rời và chỉ mong ước một điều duy nhất: Chợp mắt vài tiếng để trước khi tàu đến Lyon có thể lấy lại sức lực và chỉnh đốn tư thế. Hắn hy vọng Virginia sẽ ra tận ga đón. Đã 5 năm trời họ không gặp nhau và trong suốt thời gian đằng đẵng đó, hắn đã buồn nhớ cô biết bao.
Cô gái tóc vàng ngồi xuống, châm thuốc hút và rút từ túi ra một cuốn sách. Hắn thầm nhận xét rằng cô ta có đôi chân thật đẹp và rõ ràng cô ta cũng rất ý thức được điều đó. Lát sau, hắn cố thu xếp chỗ ngủ sao cho thật thoải mái, đoạn tắt đèn nhỏ đầu giường mình và thiếp đi.
Khi hắn tỉnh dậy, cô gái tóc vàng vẫn ngồi và đang tuyệt vọng lục lọi, tìm kiếm chiếc túi xách của mình.
– Ôi thật kinh khủng, – cô thốt lên, – tôi bị mất ví rồi! Biết làm sao đây? Bây giờ tôi không còn một xu nào hết, mà tôi cần phải có 200 phờ-răng để mua vé máy bay.
Cô gái nhìn vào mắt hắn:
– Anh có thể cho tôi vay 200 phờ-răng được không?
Cô hỏi thẳng thừng, ráo hoảnh cứ như đang hỏi xin vài que diêm vậy. Dù thế nào thì tiền nong trong người Pierre giờ đây cũng chẳng có nhiều nhặn gì. Và tất cả những gì hiện có trong ví hắn, hắn đã phải khó nhọc tích cóp trong suốt 5 năm trời.
– Không, đáng tiếc là không có, – vì thế hắn trả lời.
Cô gái nở một nụ cười quyến rũ:
– Đưa tôi 200 phờ-răng, anh sẽ dễ dàng thoát thân.
Hắn nhìn cô không hiểu:
– Tôi sẽ dễ dàng thoát thân? Cô ngụ ý gì vậy?
– À, đơn giản là tôi muốn nói rằng tôi cần phải kiếm được 200 phờ-răng trước khi tàu chúng ta tới Dijon. Nhưng, có lẽ anh không có đủ 200 phờ-răng.
– Ô không, cô nói gì vậy, – Pierre gật đầu – tất nhiên là tôi có. Nhưng tôi hoàn toàn không biết cô là ai! Thậm chí cô cũng chưa tự giới thiệu. Mà đây là cả một việc…
Thoáng vài giây cô gái ngồi im, không nói lời nào. Sau đó cô hơi cúi người về phía trước, cố nắm bắt ánh mắt của hắn.
– Anh hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra, nếu như bây giờ tôi bắt đầu gào lên, giật cần hãm “đề phòng sự cố” và kể với trưởng toa rằng anh định cưỡng hiếp tôi. Bởi vì trước đây đã từng có những trường hợp các hành khách đàn ông đi đêm một mình trong cùng cupe với phụ nữ trẻ đã giở những trò như thế. Tất cả những chuyện đó sẽ đưa lại cho anh nhiều điều khó chịu đấy. Nào là cảnh sát đường sắt ư, nào là hỏi cung ư, rồi lại còn các nhà báo đang khao khát những tin giật gân nữa chứ! Để thoát khỏi một vụ bê bối kiểu như thế, tôi nghĩ, anh sẽ không tiếc 200 phờ-răng đâu.
– Tôi nghĩ rằng, với tôi, vở diễn đấy của cô sẽ không thành đâu, cô bạn quý mến ạ, – hắn thờ ơ nói và rít thuốc.
– Anh hãy nghe đây này, – cô gái mỉm cười tự tin, – tôi có cảm tưởng anh chưa tính được rằng tôi hoàn toàn không có ý định đùa đâu nhé. Nếu tôi làm bù đầu tóc lên, xé toạc áo ra, rồi chạy ra hành lang gào ầm lên, thì anh sẽ rất khó thuyết phục những người khác rằng anh không dính dáng gì đến chuyện này cả. Mà như tôi được biết, ở đất nước này, người ta trừng phạt rất nghiêm khắc những ai có những hành vi vô lại đối với phụ nữ!
– Cô quả là đê tiện hết sức…
Cô gái cắt ngang lời hắn:
– Chẳng lẽ không đáng trả 200 phờ-răng để thoát khỏi tất cả những điều khó chịu đó sao! Tôi nhìn thấy anh đeo nhẫn cưới. Vợ anh sẽ nói gì khi cô ấy đọc trên báo rằng chồng cô ấy đã…
– Cô thật là ghê tởm.
Cô gái mỉm cười:
– Ồ không hẳn vậy đâu! Tôi rất hiền lành với anh đấy. Bởi tôi chỉ đòi anh vẻn vẹn có 200 phờ-răng thôi, phải vậy không? Có những trường hợp tôi còn moi được nhiều hơn gấp bội cợ Chẳng hạn 500, 1.000, đôi khi thậm chí còn xoay được vài nghìn ấy chứ! Các chính trị gia với tiếng tăm không mấy trong sạch thường vui lòng “ứng” cho tôi những khoản tiền không nhỏ để phòng ngừa những vụ xì-căng- đan. Tôi thường bao giờ cũng nhắm trước cho mình con mồi. Tôi đánh giá anh khoảng 200 – 300, thậm chí có thể tới 500 phờ-răng, nhưng tôi chỉ xin anh có 200 thôi.
– Cô thôi đi được rồi đấy! – Pierre đứng dậy chụp lấy va-li của mình và muốn nhanh chóng thoát khỏi cupe.
– Hãy ngồi xuống đấy! – Cô gái ra lệnh và ngay tức khắc quay ra ngáng đường hắn, – hay là để tôi kêu lên bây giờ! Trong chuyện này thì tôi lão luyện lắm. Anh hãy tin rằng tôi rất lành nghề trong công việc của mình!
Pierre quẳng va-li xuống ghế và ngồi phịch xuống. Hắn tin rằng cô ta rất dám thực thi những lời đe dọa đó nếu như hắn mưu toan chống lại cô tạ Liếc nhìn sang, hắn thấy trên cườm tay cô ta những đồ trang sức đắt tiền. Đó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy cô ta không hề cường điệu khi nói rằng cô ta rất lão luyện trong nghề.
Cô gái ngó nhìn đồng hồ đeo tay bằng vàng của mình.
– Còn năm phút nữa chúng ta sẽ tới Dijon, mà tôi thì phải xuống bến đó, – cô nói bằng một giọng hết sức lạnh lùng sự vụ, – tôi cho anh đúng một phút nữa để quyết định. Phanh hãm phòng sự cố nằm ngay dưới cửa cupe đây. Tôi chỉ cần vài giây là đủ để xé áo, vò tóc mình, cào mặt anh và kêu cứu. Tôi có thể gào chói tai đến mức…
– Còn tôi thì sẽ lập tức kể với mọi người sự việc trên thực tế ra sao và cô là kẻ lừa bịp thế nào. Cô đừng tưởng rằng…
Cô gái phì cười khinh bỉ:
– Những kẻ cưỡng dâm bao giờ chẳng nặn ra những điều thanh minh ngu xuẩn, nhưng ai mà tin chúng được. Nhất là trong những trường hợp nghiêm trọng như thế này!
Pierre nhổm dậy, dụi đầu thuốc lá vào chiếc gạt tàn và sau vài giây lưỡng lự tiến đến trước mặt cô gái. Cô ta vẫn đứng chắn ngang cửa, một tay nắm lấy cổ chiếc áo sơ mi trắng của mình để sẵn sàng xé toạc nó trong chớp mắt. Những móng tay nhọn hoắt sơn đỏ của cô ta, rõ ràng chỉ cần vài giây là đủ để làm biến dạng khuôn mặt hắn – để “tự vệ” mà.
– Thôi được, – hắn nói, đồng thời nhún vai khuất phục, rút từ ví ra mấy tờ giấy bạc, – nhưng để bù lại khoản này tôi đề nghị phải trả lại tôi lãi suất bằng hiện vật.
– Bằng hiện vật? Thế nghĩa là thế nào?
– Tôi đề nghị cho phép tôi hôn cô, để sau này còn có thể vỗ ngực khoe khoang rằng đã được hôn một nữ quái tống tiền trâng tráo nhất thế giới! Cô sẽ nhận 200 phờ-răng, còn tôi thì được cái hôn. Như vậy theo tôi, có lẽ công bằng hơn. Cô thấy thế nào, hay là cô có ý kiến khác?
Cô gái tóc vàng thoáng chút lưỡng lự. Sau đó cô chụp lấy mấy tờ giấy bạc, còn hắn thì kéo cô về phía mình, ôm hôn say đắm. Đó là một chiếc hôn rất dài.
– Thôi đủ rồi, – cô gái thốt lên rồi quẫy ra. Đúng lúc đó đoàn tàu dừng lại. Cô gái lôi va-li của mình khỏi giá và bước ra. Pierre đứng ở cửa cupe dõi theo bước chân cô dọc hành lang cho đến khi cô bước ra khỏi toa tàu. Đoạn, hắn trở lại, ngồi xuống chỗ của mình, châm một điếu thuốc mới và rút ra một tờ báo. Đã vài phút trôi qua, đoàn tàu lại chuyển mình đi về hướng Lyon.
– Cô nhóc thật ranh ma, quỷ quyệt, – hắn lẩm bẩm không giấu vẻ khâm phục, – nhưng thật không may cho cô ta là đã gặp phải mình.

Nói đoạn hắn đút chiếc đồng hồ và chiếc xuyến vàng của cô ta vào túi áo. Lật qua mấy trang báo, hắn cẩn thận cắt ra một mẩu tin, trong đó có nói rằng ngày hôm nay, sau khi hết hạn 5 năm tù, trùm móc túi Pierre Joli vừa được phóng thích.

 Posted by: lpk 116

From:  Lucie 1937

SỐNG NGHÈO, CHẾT KHỔ

Image may contain: 1 person, closeup, text that says '" ...Khöng bat có bat ky ky möt möt su den bù não có the bù đap cho nhurng mat mát cua nhan dan trong vu nay. Trong nhóm nan nhan vu Thu Thiem, phai dac biet lu'u y là tre em. Các em lón len tam tam ly ly và và nhin nhin nhận cuoc dời se ra sao khi chứng kien gia dinh minh bi crong che?'
Image may contain: 2 people
Image may contain: 3 people
Image may contain: 2 people, shoes
Image may contain: 1 person, smiling, selfie and closeup
+2

Nguyen Dang Hung is with Trần Bang and 95 others.

NỮ KIỆT THỦ THIÊM

+++++++++++++++++

Tác giả chiến tích “Toma-dép”, Nguyễn Thùy Dương viết về gia đình mình qua bao nhiêu năm tháng, thăng trầm khổ ải trên giải đất tổ tiên!
Thật bất ngờ! Một giọng văn Nam Bộ ngọt ngào như nước nguồn sông Đồng Nai!

Những câu văn ngắn, rắn chắc, chân tình như lục bình trôi về biển, như trần tình trước nhân dân!… NĐH
____________________________________________________

SỐNG NGHÈO, CHẾT KHỔ

Nguyễn Thùy Dương

Phần 1: Duyên phận cùng khổ

Ông Bảy có 7 anh chị anh. Chị lớn lấy chồng, còn lại sáu anh em trai ế vợ đều hết do nghèo quá không ai lấy. Theo phong tục miền Nam, ông Bảy dù thứ 7 nhưng là con thứ 6 trong nhà. Má ông Bảy đẻ ông Tám khó quá nên lìa đời. Hai năm sau, ba ông cũng đi chầu ông bà. Chị Hai nghèo ráng lo thằng Tám, còn lại mấy anh em đi ở mướn cho nhà giàu.

Ông Bảy đi ở hồi 7-8 tuổi, còn nhỏ chỉ phụ cắt cỏ, gieo hột giống, phụ việc vặt trong nhà chủ kiếm cơm. Chủ thương cho học, được học chữ nho để đọc được thôi, về sau ông được học lỏm thêm được thêm chữ Việt. Vậy là ông biết hai tuồng chữ, đọc thì được, chứ viết như cua bò. Sau lớn lên ông thích tuồng chữ Nho hơn, coi hát đình quệt cho nó oai.

Năm ông Bảy hơn 10 tuổi, chủ giao ông chăn bò, chăn được chục năm thì ông lấy vợ. Vợ ông Bảy là cô ở đợ chung nhà luôn. Năm sau, bà Bảy đẻ được thằng con trai coi bộ cũng được lắm. Ông sáng lùa bò ra đồng, đi chợ về nấu cơm cho vợ. Nhưng ai có dè bà Bảy ở nhà chờ đói quá, bà ra sau nhà thọc (hái) trái đu đủ chín hòm hòm vô gọt ăn. Ông Bảy đi chợ về nghe con khóc dữ, chạy vô thì vợ sùi bọt mép cứng đơ rồi.
Đám ma bà Bảy diễn ra đơn giản, ông Bảy xin nghỉ, ôm con đi xin sữa. Đứa nhỏ thiếu sữa, bịnh ngặt không lâu cũng chết. Ông Bảy buồn, xin chủ cho nghỉ, ông bán mấy con bò. Bị vì hồi đó chăn lâu nên ông bà cho con bò cái già, nó đẻ được mấy lứa. Ông nhập chung bầy bò chủ chăn luôn. Ông lãnh lương cũng được một mớ, ông chia cho mấy anh em, rồi quẩy giỏ bỏ xứ mà đi. Năm đó, ông mới hơn 20 tuổi. Mang tiếng bỏ xứ chứ cũng không xa lắm, cách có con sông thôi. Bỏ từ thành Tuy Hạ qua Cát Lái (cách 5 cây số).

Ông Bảy bỏ xứ đi mần mướn tiếp. Ông cứ cặm cụi mần không để ý chuyện vợ con, bao nhiêu tiền ông đi đá gà, đá cá. Chơi hết tiền thì thôi, không trộm cắp ai hết. Nhà ông Bảy ở kế bên một nhà làm thuốc. Thầy thuốc nhà đó già rồi, thiên hạ đồn có tay phục dược dữ lắm. Gia đình giàu có, quan trong huyện cũng phải tìm tới. Nhà đó có đứa cháu ngoại coi cũng ngộ. Con nhỏ hay chạy chơi vòng quanh mấy bụi bông trang, da trắng phau, mắt to tròn, mũi thanh, thấy thương lắm. Mấy bữa đi đá gà về ông Bảy hay mua cho nó mấy cái bánh. Con nhỏ khoái lắm.

Rồi nhà con nhỏ phá sản, ông ngoại nó khám bịnh cho quan. Dần lâu sa đà vô bàn đèn, thuốc phiện, gia sản bán hết, không ai tới khám. Ông ngoại nó chết vừa chôn người ta siết nhà luôn. Cả gia đình mười mấy người dọn ra bờ ruộng ở, nhà làm thuốc nên không trữ ruộng. Tới lúc bại sản không có nổi công ruộng để mần. Nên đi cắt cỏ bàng, cỏ lát về đan đệm, đan giỏ.

Con nhỏ lớn lên đẹp lắm, nó cao nhong nhỏng. Ông Bảy đứng tới mang tai con nhỏ. Nó lớn lên lấy chồng gặp phải thằng âm hồn, con nhỏ sanh đứa con gái. Thằng chồng bỏ, tại hổng biết sanh, trước đó thằng chồng lấy hai bà vợ đều sanh con gái. Con nhỏ năm đó mới 18, trẻ măng như bông chớm nở, ôm đứa con gái khóc không nên tiếng. Đêm ông Bảy nằm nghe đứa nhỏ khóc mà tội. Ông nhớ thằng con trai ông, năm đó nó cũng khóc như vậy, rồi lịm dần trên tay ông. Được đâu một tháng, sau khi cô Bảy hàng xóm bị chồng bỏ, ông Bảy mê đá gà bên này bỏ đá gà, qua xin chắp nối với cô Bảy.
Nhà cô Bảy đan chiếu mừng húm. Có thằng rước dùm đỡ miệng ăn, nghèo quá mà. Ngặt nổi cô Bảy hông chịu, do anh Bảy lớn hơn cô 18 tuổi. Má cô Bảy đánh cô dữ lắm, roi phướn đánh tím mình mẩy. Cuối cùng cô chịu về ở với ông Bảy. Ngày theo chồng, cô Bảy chỉ quẩy cái giỏ mấy bộ đồ cũ, ôm theo đứa con nhỏ.

Ông Bảy tính tới tính lui. Hồi đó, một mình ênh sao cũng được, giờ có vợ con phải lo cho vợ con. Ông được người chỉ đi xin ruộng quan Tây. Nào giờ, ông có biết quan Tây đâu. Ông sợ Tây lắm, Tây nó lớn lắm, tóc cũng khác màu. Ông cũng đánh liều ra đồn Cát Lái xin ruộng. Hên sao, ông gặp quan Việt với quan Tây. Ông thấy đỡ lo, có quan Việt là mừng. Ông nói qua hoàn cảnh rồi cũng thiệt tình kể qua có người chỉ qua xin ruộng. Quan Việt nói gì đó với quan Tây, ông Tây nghe xong cười haha, rồi lại nói gì đó với ông Việt. Hai ông cùng cười, cuối cùng ông Việt nói lại:
– Đất gì là đất xin, đất này là của trời đất. Mày khai được tới đâu, cho tới đó. Miễn thuế 3 năm đầu.
Ông Bảy mừng quá, bái lạy lia lịa. Quan Việt tiếp lời:
– Mày biết mấy tuồng chữ.
– Dạ, thưa quan. Con biết hai tuồng chữ mà rành chữ nho hơn. Có điều con biết đọc thôi à!
– Mày đỡ hơn thằng hồi nãy. Mày tên gì?
– Dạ, thưa Quan. Con tên Nguyễn Văn Cát, tên thường kêu là Bảy Hạt. Vợ con là Nguyễn Thị Siêng, tên thường kêu là Bảy Siêng.
– Mày nghèo là đúng rồi. Siêng cỡ nào cũng số hột cát à con. Dìa đi!
Ông Bảy bái quan rồi dìa. Cái ông lo là lấy gì ăn trong lúc khai hoang? Vợ thì còn con nhỏ? Kể từ bữa đó, ông nghỉ đi ở. Ông lên rừng đào củ mài về luộc đem theo ra đồng cắt cỏ khai hoang. Bà Bảy ban đầu ở nhà sau thấy chồng cực quá cũng ra đồng phụ. Ông bà bẻ tràm dựng cái lều nhỏ bỏ con trên bờ còn mình đi cắt cỏ. Ông lựa khoản đất gần chỗ nước vô ra cho có nước. Lần đầu, ông bà bắt tay mần ruộng. Vợ chồng ăn củ mài thay cơm. Đứa con thiếu sữa ốm nhách. May sao, bữa đó thằng Chín đi ngang. Nó hỏi:
– Chú Bảy! Cơm đâu mà chú thím hổng ăn, đi ăn củ mài chi cho khổ dạ?
– Gạo đâu mà ăn, hổng ăn củ mài cho đói hả?
– Hông có thì đi xin, tía con cũng xin mà. Hồi đó đói y như chú thím đi xin lúa về ăn.
– Ở đâu mà xin?
– Quan Tây chứ đâu trời, quan thiếu gì lúa!
Ông bà Bảy hết hồn nhìn thằng Chín.

***
Phần 2: Cuộc vực dậy như mơ, bước đầu theo Việt Minh

Ngã ba sông

Ngày hôm sau, dù là sợ nhưng ông Bảy cũng tới phủ quan trong thành Cát Lái. Gặp quan ông khúm núm chắp tay xá hai Quan. Quan Việt nhai trầu, Quan Tây phì phèo điếu thuốc phất tay ra hiệu cho ông Bảy nói chuyện:
– Dạ, thưa hai quan. Hôm bữa trước, con có tới xin ruộng. Được hai quan cho, con mừng lắm. Hai vợ chồng con nhờ bà con phụ mần cỏ, dọn bàng cũng được khá khá, ngặt nỗi. Vợ chồng con nghèo, có đứa con gái nhỏ, vợ con thì bầu bì. Tình thiệt với quan, tụi con phải đào củ mài ăn qua ngày. Nay qua đây xin quan thương cho con xin lúa giống về làm tiếp.
– Mày mần được mấy mẫu rồi? Hồi giờ, mày có mần ruộng chưa? Tao nghe lính báo mày khai hoang gần mé sông.
– Thưa quan lớn! Sáu mẫu hơn. Hồi giờ, con chỉ chăn trâu bò, cắt cỏ, mần mướn thôi quan. Con tính khai gần mé sông cho đỡ dẫn nước thưa quan!
– Ừa! Liệu mà làm, ba năm hông đóng thuế là tao lấy lại ruộng. Tao cho mày hai chục giạ lúa, dư để làm giống. Còn thì để cho vợ con làm cái ăn, mần mà gặp Việt Minh ở đâu về báo quan chưa?
– Dạ, thưa quan! Việt Minh ra sao quan? Con hổng biết.
– Mày về thấy người lạ lúp lén báo tao. Thôi đem lúa về đi.
Ông Bảy xá hai quan rồi theo chú lính qua cổng sau lấy lúa. May sao có xe bò dân đi qua, ông gửi nhờ đi về chứ làm sao mà vác cho nổi. Bà Bảy thấy xe bò bỏ lúa xuống bà mừng lắm. Bữa đó, nhà ông bà có một bữa cơm trắng với cá lóc kho, rau muống luộc.
Mùa lúa năm đó, ông Bảy không trúng lắm nhưng cũng đủ ăn, đủ sống. Ruộng gần sông tiện thì có tiện về con nước, mà khổ cũng khổ vì con nước. Ông lên quan xin khai khúc ruộng trên rồi chịu khó khai nước lên, làm dưới này đắp lại bờ không cũng muốn chết. Xong mùa lúa cũng là lúc bà Bảy đẻ được cho ông đứa con trai đầu. Ông cưng lắm, vừa được con trai. Trong nhà vừa có cái bồ hơn ba trăm giạ lúa.
Ông vừa lo chợ búa, vừa khai ruộng trên, làm ruộng dưới, đi sớm về khuya. Ra tháng bà tự lo được, ông với mấy anh em trong xóm phụ nhau làm dần công. Mãn mùa năm đó, ông mua được hai con trâu. Ruộng trên thì qua mùa lúa năm sau là làm được. Cách năm sau đó, bà Bảy đẻ được đứa con trai nữa. Cũng năm đó, dịch trái rạ bùng phát. Đứa con gái lớn may mắn qua khỏi nhưng hai đứa con trai nhỏ không qua nổi. Bà Bảy ngồi nhìn con như vô hồn, bà không chịu cho ai đem con bà ra đồng chôn. Ông Tám em trai bà đứng ôm vai chị: Chị Bảy ơi! Đừng buồn mà. Tui thương chị mà chị Bảy! Tui cũng thương thằng Tí với thằng Tèo nữa.

Bà Bảy như manh lá chuối khô quắt queo trong gió. Ông im lặng hút thuốc. Xóm không có thầy chùa, phải qua xóm trong kiếm thầy. Hòm đóng bằng mấy tấm ván đóng lại. Ông Bảy đem con đi chôn ở đâu bà cũng không biết. Năm sau, ông bà trúng lúa đóng đủ thuế lúa cho quan. Trong nhà lúa ngàn giạ. Ông Bảy qua sông, về quê thăm anh chị em, gói ghém mua mấy bao thuốc vấn cho anh em trai, sấp vải cho chị hai.
Ông về tới nhà ông Sáu đã giữa trưa. Ngồi hút điếu thuốc, uống ly nước trà rồi thủng thẳng nói chuyện. Đêm đó, ông ngủ lại nhà ông Sáu. Nửa đêm có tiếng gõ cửa, ông Bảy ngủ ở nhà trên lên tiếng: Ai?

Ngoài kia im bặt, ông Sáu bưng đèn dầu ra dấu cho ông Bảy giữ im lặng rồi nói nhỏ: “Thằng con lớn của anh Năm với chú Tám mình. Họ đi Việt Minh, ban ngày Tây lùng dữ lắm. Tối mới về đây“.
Ông Sáu mở cửa hé cho đám người mặc đồ đen đi vô. Người có súng, người có dao. Vợ chồng ông Sáu dọn cơm ra cho họ ăn, cửa đóng chặt lại. Ánh đèn dầu loe loét sáng, ăn xong họ nói chuyện gì mà ông Bảy không rõ. Họ rút đi, ông Tám với thằng Hai ở lại nói chuyện với ông Bảy:
– Sao tụi mày đi theo Việt Minh, phạm pháp, quan bắt chết, sống chui nhũi như vậy nữa.
– Anh Bảy à! Để giặc Tây trên đất nước mình mới là phạm pháp, phạm cái pháp làm người, cái pháp quân tử với ông cha. Tây họ đâu phải người mình đâu anh Bảy. Tui mấy lần qua bên anh, ngặt nỗi tui thấy anh thân với quan Tây quá, tui hông ghé. Quan Tây cho anh ruộng để mần chẳng qua lấy lòng dân, bình định lòng dân thôi chứ họ thương gì dân mình. Mình tiếp tay cho Tây là phường phản quốc đó anh Bảy!
Ít học thiệt nhưng nghe tới chữ phản quốc là ông biết rất nghiêm trọng. Ông hỏi ông Sáu:
– Vậy tao làm sao để không phản quốc?
– Quốc gia lâm nguy thất phu hữu trách, mỗi người phụ một tay, hy sinh một chút để quốc gia sớm ngày độc lập. Nhiệm vụ tui sẽ báo anh sau. Hẹn anh đêm mùng 1 tháng sau, tui sẽ ghé thăm anh.
Ông Sáu với thằng Hai đi rồi, ông Bảy ngồi châm thuốc hút, một lát cũng ngã lưng lên tấm ván chợt mắt. Sáng ra ông về sớm, phần vì lo vợ con, trâu bò ở nhà, phần vì nhiều suy tư. Ghe qua tới bến sông, ông đi vô xóm. Vừa đi vừa lên tiếng: “Hai à! Siêng à!”
Đứa con gái nhỏ chạy ra ôm chân ông. Ông đồng con gái lên cổ đi vô nhà. Ông cởi áo dài, máng lên sào, lấy đôi guốc trong giỏ ra bỏ lên kệ. Đời nghĩ cũng ngộ, mang guốc cho khỏi đau chân, dậm gai. Mà mang thì sợ mau hư nên không kẹp nách thì cũng bỏ trong giỏ xách. Ông vấn thuốc rê hút rồi hỏi bà: “hai bữa rày, ai coi trâu bò?”
– Tui nhờ cậu Tám coi dùm, cẩu được nghỉ học mấy bữa. Tui nấu cơm đem ra cho công cấy họ ăn. Cậu Tám giờ lớn bộn, cao hơn tui luôn, tiếng Tây nói cũng rành. Hôm qua, quan xuống thăm xóm, cẩu ra nói chuyện chạy ro ro. Quan khoái lắm. Cẩu nói, nửa mà cẩu lớn cẩu đi lính như quan Tây.

Ông Bảy nghe như sét đánh ngang tai! Ông thở dài rồi vô nhà trong nằm. Ông nghĩ tới ngày ăn củ mài của hai vợ chồng, ông nhớ vẻ hoảng sợ của bà Bảy khi nước vô lở bờ, ông nhớ ngày bà lấy ông cả người toàn dấu đòn roi, ông nhớ ánh mắt đẹp mà vô hồn của bà ngày chiếc xe bò chở hai cái hòm đi. Ông muốn bà sung sướng, ông muốn bà vui vẻ sau bao nhiêu đau khổ mà sao khó quá.
Cái câu: Quốc gia lâm nguy thất phu hữu trách và hai chữ phản quốc cứ lởn vởn trong đầu ông. Đời! Sống khó lắm!

***
Phần 3: Sống nghèo, chết khổ

Với lý do có quá nhiều đọc giả đọc phần đầu, cứ hồi hộp khúc cuối. Mà nếu viết hết truyện này phải tầm 10 chương, nên mình rút lại viết 3 chương cuối. Nói về người con gái chung duy nhất của hai ông bà Bảy còn sống sót sau nhiều tai nạn, dịch bệnh.

oOo

Cô Tiếu ngồi ở bờ mương nước mắt tự nhiên chảy ra. Cô không khóc mà cũng không biết tại sao lại như vậy. Từ hôm qua tới hôm nay, cô không có hột cơm bỏ bụng. Cô đi năn nỉ mấy chỗ bán nhu yếu phẩm bán cho cô một hộp sữa đặc. Hay bán cho cô một ít thôi cũng được, cô trả gấp đôi, gấp ba tiền.

Dù cô nghèo nhưng cũng ráng gom hết tiền đi mua sữa đặc cho ba mình – ông Bảy. Ông Bảy bệnh nặng lắm, chắc không qua nổi ngày mai. Từ lúc nhà nước mở ra Hợp Tác Xã bắt ông hiến đất, ông đâu có chịu, ông nói: “Đất của tui có gần chục mẫu, dân nghèo xin tui cho bớt bây giờ còn có năm mẫu mấy. Hiến nữa là sao sống được? Mỗi nhân khẩu mấy ông chia 900 thước thì chỉ có chết thôi. Tui hổng hiến gì hết“.

Họ đưa gia đình ông Bảy vào diện bất hợp tác với chính quyền. Họ kiểm tra nhà liên tục vì nghi ngờ có chứa phản động. Ông Bảy tức lắm vì họ không bán phân bón cho ông, ông làm gì họ cũng làm khó. Ông chửi thẳng luôn: Mịe! Tụi mày, anh em cháu tao chết sạch. Cả dòng họ tao chết hết vì đi theo tụi bây. Dòng họ bên vợ tao cũng chết vì nghe tụi bây, tao có một đứa con gái một là con Tiếu, cũng để theo tụi bây đưa đường, đưa tin, đưa đạn dược tới mức tù đày mang tật. Mà bây giờ, bây ăn ở như vậy, bây phải người không?

Chửi thì chửi vậy, qua năm sau ông cũng bị ép vô Hợp Tác Xã. Từ hồi vô HTX, ông Bảy xuống sắc rõ, ông không mần ruộng nữa mà để hết cho cô Tiếu và mấy đứa cháu ngoại mần. Ông chỉ ngồi nhìn ruộng rồi đôi mắt già nua đỏ lên, ông vấn thuốc hút, vừa hút vừa cười sằng sặc, nước mắt tuôn ra. Ông lấy cái khăn rằn lau mặt, đứng lên chống gậy về, vừa đi vừa nói mấy câu trong vô định: Vô ơn là lính, bạc nghĩa là làng.

Đất của ông Bảy đo được năm mẫu hai. Họ trừ đủ thứ còn lại bốn mẫu tám. Họ cấp cho nhà ông một mẫu hai với công khai hoang là năm công nữa. Vị chi được một mẫu bảy. Một công mần trúng lắm thì cũng chỉ được 20 chục giạ một mùa. Đằng này chiến tranh kết thúc thì hạn hán xảy ra, phân bón không có, đói nghèo một năm.

Qua năm sau, lúa trúng hai mùa tưởng đâu có được chén cơm đủ ăn thì họ chở lúa đi hết. Họ cấp phát lúa theo đầu người, dùng lúa trả công cho công thợ. Lỗ lãi ra sao dân không biết.

Nửa đêm ông nghe tiếng bước chân, tiếng mở cửa nhà, ông hắng giọng. Người kia lên tiếng: “Tui nè ba”. Ông Bảy giở mùng chui ra, thấy con gái ướt như chuột, quần săn ngang gối: “Bây đi đâu giờ này về”?
– Tui đi ra ruộng, ăn trộm lúa. Lúa của mình, để mai mốt cắt rồi họ chở đi hết.
Bà Bảy kêu con đi thay đồ. Hai ông bà nhìn nhau nằm xuống ngó lên nóc mùng. Đèn dầu tắt rồi mà hai cặp mắt già nua còn mở trừng trong bóng tối. Con mình phải đi ăn trộm trên chính mảnh đất còn lại của gia đình, trên chính lúa nó trồng ra. Nếu bị bắt còn có thể bị ở tù.

Hồi xưa, con ở tù một lần ở Chí Hoà vì tình nghi hoạt động Cộng Sản, ông bà đã sợ lắm rồi. Khi con đi nó bình thường, khi nó về mắt đã lệch đi vì bị chích điện, bị tra tấn. Tội hoạt động Cộng sản là nghiêm trọng lắm. Người phụ nữ nhỏ bé đã nhất quyết không khai một lời nào về Đồng Bưng Sáu Xã, về những ai đang hoạt động đưa tin từ Cát Lái, Bình Trưng tới Đồng Bưng. Những đòn đánh dã man vì lính VNCH đã có gần như đầy đủ bằng chứng hoạt động của cô Tiếu. Đặc biệt người chiêu hồi đã khai rõ, Tiếu giấu thùng đạn trong đống cỏ chở đi, móc nối đưa tin đắc lực, giữ các thông tin về mắc xích hoạt động.

Gia đình có một dòng họ bên nội kháng Pháp chết sạch, bà ngoại bị giết vì tiếp tay Việt Minh, cậu là công chức Pháp lại dẫn Việt Minh về đánh bót Pháp, sau chết mất xác. Cô Tiếu nhớ lại mỗi lần nghe tiếng cán bộ mở cửa là tim treo lên cổ, là ám ảnh khủng khiếp, gai óc nổi lên. Hai tháng tra tấn liên tục mà không lấy được tin gì. Nha cảnh sát Chí Hoà phải thả cô Tiếu ra, cô không biết đường về.

Lúc họ bắt cô ở nhà, còng lại rồi chở đi. Cô không biết mình bị chở đi đâu. Từ nhỏ, cô chỉ quanh quẩn ở huyện Thủ Đức, chứ chỗ này lạ lắm. May sao cô gặp một bà Đầm, bà cho tiền mướn xích lô chở về tới bến Bạch Đằng, cô đi đò về Thủ Thiêm, rồi đi bộ về nhà.

Bữa đó, thấy con, bà Bảy đã khóc nhiều lắm. Bà tưởng đời này bà mãi là tre già khóc tiễn măng non. Khuya đêm đó, cán bộ ghé thăm nhiều lắm. Họ động viên hỏi thăm coi cô khai gì, cô có tính chiêu hồi không? Họ nói năng thâm tình lắm, tới gần sáng mới rút đi.

***

Cô Tiếu vẫn thẩn thờ. Tại sao hồi ba mình cầm đèn dẫn lối cho họ đi trong đêm hành quân, nấu cơm cho quân ăn, không ai đòi ba mình giấy chứng nhận. Mà bây giờ, ba mình sắp chết rồi, họ đòi giấy chứng nhận của bác sĩ, họ mới bán sữa. Mà bác sĩ đâu chịu vô cái vùng heo hút này để khám, ba mình lại không nằm xe bò nổi.

Cô nhớ thùng sữa hộp quan Pháp cho ba mình lúc quan tới thăm, kêu nhà cô đi qua Pháp khi họ rút về nước. Ông Bảy từ chối vì không muốn bỏ mồ mả ông bà, bỏ anh em chiến sĩ. Ông quan vỗ vai ba cô rồi đi. Ông nói không biết còn có cơ hội gặp lại không. Bây giờ thì cô Tiếu chắc rồi, không bao giờ gặp lại.

Chiều hôm đó, nhằm ngày 23 tháng Chạp năm 1979, ông Bảy tắt thở mà không được uống một giọt sữa nào trong cơn thèm của người sắp chết. Đứa cháu ngoại lớn đang đi nghĩa vụ không kịp về nhìn mặt ông ngoại lần cuối. Trước khi đi, ông Bảy dặn con: “Tiếu! Ruộng của ba khai hoang, kêu họ trả đủ lại cho mình nghe con. Của ba để lại cho con nghe Tiếu. Ráng lo cho má nghe con“.

Ánh mắt tật nguyền của cô Tiếu không rõ là căm giận hay đau thương. Cô không khóc, cô chỉ nắm tay ba mình. Cô nhớ ba cô từng nói: Tao khổ nhiều rồi, đặt bây tên Tiếu cho bây vui cười cả đời. Tiếu là cười mà, sách nho viết vậy.

***
Phần 4: Sống nghèo, chết khổ

Ông Bảy qua đời đến cái hòm cũng phải mua thiếu, trại hòm cho mượn cặp chim phụng chạm khắc đóng đầu hàng. Họ nói, nếu hỏng có tiền thì ra tới huyệt mộ họ cạy cặp chim đem về cũng được. Nhưng cô Tiếu hông chịu, vì ngày cô lấy chồng, ba cô làm đám cưới hết 2 con bò, đãi ăn hai ngày hai đêm, quần áo, vàng bạc, vải vóc không thiếu. Nay cha chết mà để người ta cạy đầu hàng, cô chịu không đặng.

***

Ông Bảy được bầu làm ông hương đình. Cô Tiếu lớn lên gặp lúc chiến trận dữ dội, không được học nhiều do chạy nạn. Chạy từ Xóm Mới chạy riết vô Bình Trưng. Nhờ có bà cô của ông Bảy hiếm muộn không con cái, nên cho ông phần đất thừa tự ở xã Bình Trưng. Cô Tiếu không được học nhiều, cô biết mặt chữ, biết nói tiếng Pháp.

Cô thích đi chăn bò, chăn trâu kiếm lúa, mấy bữa thả trâu về Xóm Mới. Cô mon men cùng đám bạn leo lên tường nhìn vô thành Cát Lái, nhìn qua nhìn lại, nhìn đúng phòng lính Tây ngủ. Họ ngủ hông bận đồ, cả đám hét lên té đụi xuống đám cỏ dưới đất. Thời Pháp thành Cát Lái chưa có bến Cảng cho tàu ra vô, con chim sắt bay từ cái đường láng, bay xuống mặt nước sông rồi bay vút lên trời. Đám trẻ chăn trâu, bò khoái lắm. Cô Tiếu được coi là dữ tinh nhất trong đám trẻ.

Bữa trước, cô đang cho bò ăn cỏ, máy bay đáp xuống, bầy bò chạy tán loạn. Cánh quạt quạt cô sấp mặt xuống cỏ. Cô trườn lên phía mặt trước máy bay cho đỡ gió theo kinh nghiệm gặp con chim sắt mấy lần. Cô bật dậy, chạy ù vô thành, không thèm nói chuyện với quan Việt. Cô liếng thoắt với quan Tây, đại khái là ông phải cho con chim sắt hạ chỗ khác, tránh bầy bò của tui ra, cô vừa nói vừa nhảy nhót. Một con nhóc 12 tuổi đòi quan bắt lính đi kiếm bò về cho mình. Nếu không, đền đủ tiền cả bầy bò cho mình. Cả phủ quan cười ầm lên rồi bắt lính đi lùa bò phụ.

Mười 14 tuổi, cô đi đưa thư liên lạc, gửi thuốc men cho Việt Minh, từ Rạch Chiếc cho tới Tam Đa (Long Trường bây giờ). 19 tuổi lấy chồng, sinh được hai con thì chồng chết. Sau đi bước nữa, sinh được hai đứa con nữa thì cũng gãy đổ. Cô một mình phụng dưỡng cha mẹ, nuôi con, giúp đỡ cách mạng. Chỉ với ý nghĩ đơn giản: người Việt làm chủ nước Việt, khi đó, cuộc sống của ai cũng sung sướng hơn gấp ngàn lần. Tây dù sao cũng tóc vàng, mắt xanh. Hông phải người mình, hông được.

***
Sau khi chôn cất ông Bảy ở mảnh đất sau nhà, chủ trại hòm cho lính vô đòi tiền liên tục. Cô Sáu phải vô trại hẹn nợ để thủng thẳng cô trả chứ cô quyết không quỵt đâu mà lo. Nghĩ thói đời cũng bạc, chủ trại hòm đó ngày xưa nghèo khó từng ở nhờ nhà cô, cả cha lẫn con. Ông Bảy đối người không tệ, cho ăn uống, giúp đỡ qua cơn hoạn nạn. Vậy mà tới khi ông nằm xuống, họ quên mất cái nghĩa hàn vi.

Nghĩ chủ trại hòm đã bạc vậy mà thói đời nhiều thứ còn chua chát hơn. Ông Bảy mồ chưa nảy đậu, Hợp Tác Xã gạch tên ông, thu lại 900 thước đất ruộng. Có nghĩa là ông không để lại được phần ruộng của chính ông được chia trên chân đất cũ của mình cho con cháu mình. Đời còn gì nghẹn ngào hơn, cha chết, nợ chồng chất, mẹ già hai đứa con sau còn nhỏ, phần ruộng của cha mình bị thu lại. Cô Tiếu trở nên khắc nghiệt hơn hẳn.

Sau này, Hợp Tác Xã không còn chở lúa đi nữa. Họ chở một phần thôi, phần còn lại thuộc về dân. Nhưng trừ tiền phân bón, thuốc thang cũng không còn gì nữa. Cô Sáu nuôi mấy con heo, lấy vỏ trấu xay ra làm cám cho heo ăn, mót vỏ mít, cắt rau dền gai về băm ra nấu cháo cho heo ăn.

Bà Bảy lớn tuổi không làm được gì. Bà ở nhà cho heo ăn phụ con gái mấy lúc nó đi làm đồng, đi xúc tép, cắm câu, đặt truôn… Mấy hữa, bà Bảy bằm rau dền gai, gai đâm hai bàn tay bà nhốm đỏ hết. Bà vẫn vô thức xếp rồi băm.

***
Năm 1990, HTX giải thể vì hoạt động không hiệu quả. Bà Tiếu nhớ lời cha dặn đi đòi ruộng lại. Bốn mẫu tám, anh chia tui một mẫu, bảy trăm bốn mươi bảy mét. Cha tui chết anh trừ 900 thước vị chi còn một mẫu sáu, tám trăm mét. Bốn mẫu tám là 48.000m2 – 16.800 = 31.200m2. Nhưng cán bộ trừ sao không hiểu: 48.000m2 – 16.800m2 = 20.396m2. Và thông báo phần đất này đã giao cho dân, không trả lại bà Tiếu.

Trước đó, cuối năm 1989, bà Tiếu gả con gái Út cho một chàng trai dân gốc An Phú, huyện Thủ Đức. Con trai của một chủ lưới chim. Ngày 28/8/1990, cô Út sinh được đứa con gái đầu lòng ở trạm xá Ấp Tây, xã Bình Trưng, huyện Thủ Đức. Cô mong con lớn lên hiền lành, nhu mì như cây liễu trong ngôi chùa bên xóm, nên đặt con tên Thùy Dương.

Đứa nhỏ dặt dẹo khó nuôi, khóc miết, trái tính. Cô Út ẵm con đi coi thầy thì được phán: không cọp cũng hùm chứ thuỳ mị gì mà mong. Về kiếm ai tuổi cọp cho nhận làm con nuôi người ta. Về lấy cái thúng, bỏ vô, đem ra đầu đường, nhờ người tuổi cọp đó lượm về nhận đỡ đầu.

Cô Út nghe lời, về nhờ chị Ba mình tuổi Dần đi lượm con nhỏ vô dùm. Đặt tên ở nhà là Xí Được, ý là con lượm được chứ không phải con ruột.

***
Phần cuối: Lấy của người nghèo chia cho người nhà

Bà Tiếu đi hái rau mát ngoài ruộng về thấy hàng rào kẽm gai rào trước nhà đâu mất. Bà vô hỏi má mình là bà Bảy:
– Má! Cái hàng rào kẽm gai của mình đâu rồi má?
– Tám Thuận nó tháo qua rào mì nó trồng rồi!
Bà Tiếu thủng thẳng qua nói chuyện với Tám Thuận:
– Anh Tám! Hàng rào của em, anh tháo rào mì. Chừng nào mì lớn, anh trả hàng rào cho em nha anh Tám!
Tám Thuận trợn trừng nhìn bà Tiếu, ổng đang là cán bộ xã lấy hàng rào, mà con mẹ dân đen dám ăn nói như vậy. Tám Thuận quát luôn:
– Hàng rào gì của mày? Mày liệu hồn, tao còng đầu mày đó!
Bà Tiếu không nói gì, bà quày quả về nhà tháo bó rau mát xuống. Dặn má mình xắt rau trộn cám cho vịt ăn. Bà đạp thẳng lên xã gặp cán bộ xã.
– Anh Năm! Khoẻ hả anh? Tui lên hỏi anh Mỹ nó rút về nước hết chưa anh?
Ông Năm Ghẻ lạ gì tính bà Tiếu hồi đi hoạt động. Từ ngày thống nhất, bà không liên hệ gì với chính quyền, bà mà tới thì lo nhiều hơn vui. Nên ông cũng nhẹ nhàng đáp lời:
– Dạ, họ rút về hết rồi chị.
– Tụi này bậy quá, rút về mà để quên đồ anh ơi!
– Sao kỳ vậy chị?
– Hồi Mỹ Nguỵ nó chỉ kiềm kẹp thôi là nó có cái kiềm với cái kẹp. Nó về nó đem theo cái kiềm với cái kẹp. Không biết nó có để quên cái còng, còng đầu không, mà thằng Tám Thuận vừa ăn cắp kẽm gai, vừa đòi còng đầu tui vậy anh? Anh kêu nó về đây còng đầu tui thử?
Nói rồi bà bỏ về. Sáng hôm sau, Tám Thuận đem cuộn kẽm gai qua rào lại cho bà, lẳng lặng chuồn mất.

***
Năm con Xí Được 3 tuổi, nó ý thức được, chiều chiều bà cố nó dẫn nó lên bờ hầm cá trên đường lộ ngồi. Bà cố nó già lắm rồi, da nhăn, tóc bạc búi một cục đằng sau đầu. Bà cố nó hay ăn trầu, bà có cái ngoáy trầu bằng đồng cầm nặng trịch à.
Cố dẫn nó lên ngồi đầu lộ, lâu lắm mới dẫn nó về. Cố chống gậy nó lủng chủm chạy theo. Bên đường là con kênh chạy dọc về nhà. Lâu lâu, nó hỏi Cố: Lên đây chi vậy cố? Ngày nào cũng ngồi chán lắm!

Bà cố nó chỉ nói: Cứ lên đợi đi, thế nào nó cũng về à!
– Chờ ai vậy Cố? Con chán rồi! Con hông chờ đâu, Cố dẫn con đi uống nước trái vải đi!
Con nhỏ khoái chai nước trái vải bằng thuỷ tinh trong suốt, thơm phức. Mà tới 1000 đồng 1 chai lận. Lâu lâu, Cố nó cũng dẫn nó đi. Lúc trả tiền, Cố nó mở mấy lớp túi nilong lấy ra hai tờ 500 đồng đỏ chói đưa cho chủ quán.
Cứ như vậy, mỗi buổi chiều, nó chạy chân sáo theo Cố nó chờ. Cho đến khi nó gần 6 tuổi, Cố nó yếu lắm rồi. Nhưng cứ ngày nào đi nổi, Cố đều dẫn nó lên đầu đường để chờ. Rồi Cố cũng nói:
– Cố chờ thằng Tám. Ông cố Tám của con. Nó tên Nguyễn Văn Tấn – Tám Tấn, nó đánh bót Thủ Thiêm cuối thời Pháp mà chưa về nữa. Hồi đó, nó hứa Pháp về nước là nó về nhà ở với chị Bảy là ở với Cố, con biết hôn. Cái thằng nó tệ lắm. Hơn 50 chục năm rồi mà nó chưa về. Người ta nói nó chết rồi, xác thả xuống sông. Cố có lên Thủ Thiêm kiếm mà không có. Nó đẹp lắm, cao ráo, trắng trẻo. Nó đi lính Pháp mà nghĩ lại người Pháp không phải người mình nên bỏ theo Việt Minh. Quan Pháp kêu vợ nó làm sao bắt được nó về thì quan thưởng, con đó giả bệnh dụ má của bà cố qua cắt giác. Rồi để cho lính bắt bà sơ con luôn. Thằng Tám nghe tin về cứu mẹ thì họ giết bà sơ rồi. Nó điên lên đánh bót Tân Lập, bót Cả Bảy. Nó về kiếm vợ nó mà nó không giết con nhỏ. Nó chỉ bắn một phát lên trời rồi bỏ đi. Lần cuối nó về nhà là lúc nhà còn ngoài Xóm Mới. Đêm đó mưa lắm. Nó ướt nhem, nó nhìn cố, nắm tay cố, nó rờ ngoại con. Nó hứa Pháp rút nó về, nó còn kêu Cố lên báo quan nó về ăn trộm tiền. Chứ không thì họ cũng biết nó về, liên luỵ Cố. Ngoại trừ ông Cố con, con cháu trong nhà, nó là người thân duy nhất của Cố. Cái thằng cũng bạc, hơn 50 chục năm rồi mà nó hổng về!
24/2 âm lịch năm 1996, bà Bảy mất, bà thọ 83 tuổi. Bà mất khi không được nhìn đứa em trai mình thương yêu nhất – thằng Tám của bà. Để khi đứa cháu cố của bà năm nào lớn lên, nó cảm nhận được nỗi đau của người đàn ông mất mẹ do vợ hại. Nó cảm nhận được nỗi đau, giằng xé của người chị chờ em hơn 50 năm trường vẫn không tin em đã chết. Nỗi đau của người đàn ông trẻ về thăm chị đêm mưa, để rồi phải tự mình kêu chị đi báo quan.

Có những thứ trên vạn dặm chiến trường vẫn khiến người ta ngoảnh lại đau thương, nhung nhớ muốn được tựa vào đó là tình thân ruột thịt. Suốt bao năm nay, tôi tự hỏi, ai trả lại được cho những con người thiên cổ nghẹn ngào đó một kết cục tốt đẹp. Mong sao họ gặp nhau khi đã mất, có thể ôm nhau, cái ôm của thương nhớ đợi chờ.

***
Bà Tiếu suy tính, nếu thằng cán bộ đã nhất quyết trừ sai, nó nói ruộng mình trừ phần mình nhận lãnh ra còn 20.396 m2 thì mình cứ đi đòi số đó. Bà ráng viết đơn, đạp xe đi gửi lên huyện, nó trả lời không trả, dù có chủ trương của ông Nguyễn Văn Linh nào đó kêu trả dân về chân đất cũ.

Thế là bà Tiếu và 10 hộ dân được lãnh ruộng của ba má bà xảy ra tranh chấp. Người dân được cấp ruộng thì chắc rằng đây là phần ruộng nhà nước cấp cho mình. Bà Tiếu thì đòi phần ruộng của ba má mình, bà nói thẳng: “Nhà nước chia lắm! Chia lên kinh tế mới đó, không làm hợp tác xã nữa thì trả ruộng cho tui”.

Khi người dân đứng giữa cuộc tranh chấp chính quyền địa phương không hòa giải, mà cứ mặc tình họ. Dân lúc đó dùng vũ lực để nói chuyện với nhau. Ngày nào, cánh đồng Cát Lái cũng xảy ra đánh lộn, chém lộn, phản, mát, dao phay luôn có sẵn. Khung cảnh giành ruộng cứ như cuộc chiến thời phong kiến. Sai lầm bắt nguồn từ đâu? Có phải chăng từ cải cách ruộng đất đưa đất vào Hợp Tác Xã?

Năm 1998, thành phố HCM ra quyết định thu hồi phần đất trên giao cho Ủy ban Nhân dân Quận 2 quản lý. Họ nạy ra lý do là phần đất trên do ông bà Bảy thuê của chế độ cũ. Nhưng họ quên mất trong quyết định giao 17.747m2 đất có 1 chi tiết rất nhỏ nhưng khẳng định đó không phải là đất thuê.

Năm 2002, 11 hộ dân vẫn tiếp tục kiện tụng, tuy nhiên có một điều vi diệu đã xảy ra. Vào thời điểm này, Quận 2 bắt đầu Công Nghiệp Hoá – Hiện Đại Hoá đất nước, ống khói công nghiệp là biểu tượng phát triển. Họ quy hoạch một phần phường Cát Lái để làm khu công nghiệp. Họ chia thành 4 khu, khu Công Nghiệp Cát Lái cụm 1 (KCNCL), cụm 2, cụm 3, cụm 4. Ở phần đất của KCNCL cụm 1, 2 giá đền bù chỉ có 60-80 nghìn đồng/1m2. Nhưng ở khu Công Nghiệp Cát Lái cụm 3, 4 có giá từ 300 nghìn đồng đến 3 triệu đồng cho 1m2. Đất bà Tiếu và 10 hộ xã viên tranh chấp nằm ở cụm 4. Nó được chuyển đổi công năng thành khu dân cư nên giá đền bù cao hơn khu 1, 2.

Thật ra chính sách về giá đền bù đã sai ngay từ đầu khi bắt hàng trăm hộ dân ở khu CNCL cụm 1 chịu hy sinh, nhận đền bù thấp để phát triển đất nước. Không có một truyền thống hay chính sách nào có thể hút máu dân một khu vực để nuôi dân một nước cả. Nếu có, nó chỉ là chính sách của giống khác loài.

Xui rủi thay người nhà cán bộ toàn có đất ở khu CNCL cụm 1, 2. Khi hàng trăm hộ dân đau khổ thì họ vẫn bình chân như vại. Họ không nhận tiền đền bù, họ nhận đất. Tất cả các phần đất đang tranh chấp của dân ở khu CNCL cụm 3, 4 được hoán đổi cho người nhà cán bộ. Đúng là mọi con vật đều bình đẳng, nhưng có một số con bình đẳng hơn.
Khu Cụm 3, 4 ngoài bà Tiếu và 10 hộ dân, còn hàng chục gia đình đang tranh khác cũng mất đất. Để đến khi các hộ dân hoà giải tỉ lệ xong, Quận 2 trả lời không còn đất để đền. Khó vậy mà họ cũng nghĩ ra được. Đúng không cô Thái Thị Hạnh người xuất thân là lính của Bác Hai – Lê Thanh Hải trong phong trào Thanh Niên Xung Phong? Lúc đó ai ký hoán đổi đất vậy cô?

https://baotiengdan.com/…/nguyen-thuy-duong-song-ngheo-che…/

CÂU CHUYỆN ĐẮNG LÒNG…

Lê Vi
CÂU CHUYỆN ĐẮNG LÒNG…

Một ngày, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt:
– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?
Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong hổ thẹn:
– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm!
Chị sầm mặt xuống:
– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc lên đầu lên được. Hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?
Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối:
– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!
Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối:
– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi. Chỉ cần nửa năm hay vài ba tháng gì cũng được. Em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh sẽ lại đón nó về.
Chị thở dài:
– Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi. Thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã. Có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.
Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.
Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Ðông Ðức. Chị theo học Ðại Học Sư Phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Ðức. Chị tốt nghiệp đại học, về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Ðức.
Vừa sang Ðức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu: Ðể có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được. Như vậy mà anh đã không dám mạo hiểm ra làm ăn.
“Ðồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…” đó là câu nói cửa miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.
Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nửa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó: Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.
Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ rằng buộc sẽ làm khổ chị. Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ. Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn. Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá.
Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới. Thành phố Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.
Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay Noel, chị cũng có quà riêng cho con bé. Nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ Giáng Sinh nữa.
Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Chị chỉ hiểu, dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà…
Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.
Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.
Ði học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Ðứa em trai cùng mẹ của nó, cũng như mẹ nó và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.
Em trai nó học thêm piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách.
Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lõm bõm: “…đàn… đàn…klavia…con muốn…” Anh thở dài và hát cho nó nghe.
Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần.
Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó giở chứng.
Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm.
Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì… Và chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo… sống với cha êm như làn mây trắng… Nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con…với tháng năm nhanh tựa gió… Ôi cha già đi, cha biết không…”
Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lồng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.
Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.
Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.
Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Ðại ý là nó diễn đạt rằng:
– Bố lên ở trên Thiên Ðường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con…”
Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ. Ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg…

● Tôi nghe người ta kể lại chuyện này, lúc đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Ðức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy. 😭😭😭

ST.

No photo description available.

Thảm Trạng Gia Đình Tại Mỹ

Thảm Trạng Gia Đình Tại Mỹ

Sau 30-4-1975, như tất cả các Sĩ Quan QLVNCH còn ở lại miền Nam, bản thân tôi đã phải chịu hơn 6 năm tù cải tạo.

Trước khi có dịp định cư tại Hoa Kỳ, tôi đã nghe nhiều chuyện “dở khóc, dở cười” tại cái quê hương hợp chủng này, nên tôi luôn cẩn thận, chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng đối diện với thực tế.

Đặt chân đến Mỹ vừa tròn 3 tháng, thì gia đình tôi đã phải ứng phó với sự “kỳ thị” của “cô con dâu”!

Từ quê hương đau khổ, nghèo nàn, được sang một đất nước giàu mạnh, văn minh tột đỉnh, dân chủ thật sự, tự do nhất thế giới… thật là một phúc đức lớn lao! Nhưng niềm vui chưa trọn, thì chuyện buồn lại đến liên miên…

Vì con trai tôi sponsor, nên bước đầu gia đình tôi phải về ở chung tại San José. Tôi cũng đã sòng phẳng “trả tiền phòng” hàng tháng coi như “share phòng” hầu tránh phiền muộn về sau. Thế nhưng càng ngày tôi thấy “cô con dâu” càng tỏ ra “kỳ thị” với 3 đứa em chồng và thường sửa sai, gây gổ luôn cả chồng. Bà vợ tôi phải lo đi chợ nấu ăn cho cả nhà nên bận rộn suốt ngày! Thế mà chẳng được ơn mà còn bị oán.

Bạn hữu của cô con dâu thấy chuyện bất bình, đã lén gọi điện thoại lại báo cho chúng tôi. Cô ta nói với bạn, “Phải gắt gao với họ (chúng tôi) để chồng không dám giúp đỡ họ… và đoan chắc rằng họ chẳng bao giờ dám xa rời hoặc bỏ đi, vì lý do duy nhất là họ mới qua Mỹ, chưa có xe, không tiền thì phải chấp nhận đau thương thôi!”

Chịu đựng đau khổ được 3 tháng, vợ chồng tôi bàn nhau tìm đường “di tản”!

May mắn làm sao, chỉ vài hôm sau, một người bạn thân từ Dallas gọi sang và rủ chúng tôi qua. Thế là chúng tôi quyết định “move” sang Garland (Dallas) thuộc tiểu bang Texas.

Chúng tôi ra đi vì hạnh phúc của con trai tôi, tôi không muốn cái hạnh phúc của con bị sứt mẻ vì sự hiện diện của chúng tôi, và cũng để cho chúng tôi được an thân.

Thượng đế cũng thương nên qua Garland tôi tìm được việc làm tại hãng Mervyn. Làm “Machine Operator” được 3 tháng, thì nhận được “giấy” đi khám sức khỏe để vào permanent, nhưng vì vết thương chiến tranh còn để lại “nơi cột sống” nên tôi phải nghỉ việc.

Một lần nữa, gia đình tôi phải “move” đi tìm việc làm. Cuộc phiêu lưu vì “đô la” bắt đầu.

Chúng tôi di chuyển xuống Houston, một thành phố khá lớn, nằm phía Nam của Texas. Tại thành phố nghèo việc làm này, tôi cũng may mắn tìm được một job: lái xe đưa rước những gia đình H.O mới sang Mỹ đi học Anh ngữ ESL. Nhờ vậy, tôi đã được tiếp xúc với rất nhiều bạn bè thuộc mọi giới trong xã hội để được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm.

Mỗi người một số phận, mỗi gia đình một hoàn cảnh, tuy nhiên đa số đều giống na ná nhau: khó khăn về ngôn ngữ, phong tục tập quán, trong gia đình thì vấn đề con cái đã trở nên nghịch lý.

Tôi chỉ biết lấy kinh nghiệm của người đến Mỹ trước, an ủi tất cả anh em để họ có đủ niềm tin và an tâm, hầu vượt qua được bước “khởi đầu nan”! Và tôi đã đi thấy nghe, hoặc chứng kiến, nhiều chuyện “cười ra nước mắt”!

Tháng 5/95 tôi có dịp giúp đưa một người bạn là chị H. đến “viện dưỡng lão” để thăm “bà cô chồng”.

Bà cô trong “Viện Dưỡng Lão” là một bà cụ đã 89 tuổi nhưng vẫn còn nét đẹp lão quí phái. Tóc trắng cả mái đầu, mắt vẫn còn long lanh, trong sáng. Bà đọc báo không cần mang kính lão. Bà chỉ có một khuyết tật nhỏ là hơi lãng tai. Khi tiếp xúc với Bà chỉ viết trên giấy để bà đọc, và bà trả lời rất rõ ràng.

Lần đầu đi với chị H, và sau khi chị H trở về Cali, chúng tôi vẫn đến thăm bà ta những khi rảnh rỗi và rồi được bà kể là bà lập gia đình năm 19 tuổi, đến năm 24 tuổi thì ông nhà mất, để lại 3 đứa con, mà đứa con gái út chỉ mới lên 2 tuổi!

Góa chồng ở lứa tuổi 24, tuy vẫn còn trong độ thanh xuân, nét mỹ miều còn làm bao thanh niên trong Quận theo đuổi, nhưng vì thương con, thương chồng, bà quyết ở vậy nuôi ba đứa con đến ngày khôn lớn.

Bà tần tảo mua bán, lập nghiệp từ một ít vốn của ông chồng để lại. Sau đó bà làm chủ 2 tiệm vàng tại quận TB thuộc tỉnh Tây Ninh.

Ngày 30/4/75 miền Nam thất thủ. Thời thế đổi thay. Bà cùng 2 con gái di tản sang Hoa Kỳ. Dù tuổi đời bà đã 69 tuổi. Quyết định bỏ cả ruộng vườn nhà cửa và chỉ mang theo 03 bao cát vàng.

Đến cuối năm 1975, bà ta và 2 con được phép định cư tại Texas.

Qua năm 76, dù mới định cư chưa được 1 năm nhưng với số vàng sẵn có trong tay, bà quyết định mua một ngôi nhà để cho con gái út (còn gọi là Út Thơm) và chồng cùng các cháu an cư rồi sẽ lập nghiệp, và các cháu được an tâm học hành.

Sau 9 năm, hai cháu ngoại đã tốt nghiệp Đại Học. Một là Bác Sĩ, một là Dược Sĩ…

Khi thấy cháu ngoại dự trù mở phòng mạch mà không có tiền, bà đã không do dự, mà còn khuyến khích, hỗ trợ bằng cách trao lại cho Út Thơm tất cả tài sản còn lại của Bà để Út Thơm lo cho cậu con bác sĩ có được phòng mạch…

Theo bà nghĩ sở dĩ trước đây bà giữ số vàng mang theo là vì sợ con, cháu ỷ lại, tiêu pha hết. Không còn để phòng thân khi hữu sự. Nay, các cháu đã thành tài. Bà không cần lo nữa và an tâm sang luôn tên nhà, giao hết của cải cho Út Thơm.

Một tuần lễ sau đó, Út Thơm cùng chồng và 2 con tổ chức đãi mừng Ngoại 79 tuổi và Út Thơm cùng chồng ngỏ ý đưa Bà đi nghỉ mát vùng xa… đổi gió. Bà ngập ngừng suy nghĩ nhưng vì 2 cháu năn nỉ thêm, nên miễn cưỡng bằng lòng cho gia đình được vui!

Sáng thứ bảy, cả nhà dậy sớm lo cho Bà ăn sáng, quần áo và vật dụng thường dùng. Hai cháu ngoại dìu Bà ra xe để lên đường. Ngồi trên xe khoảng 30 phút, xe dừng trước một tòa nhà lớn lao, sang trọng.

Tại đây, Bà được Bác Sĩ Mỹ khám bệnh trước khi đi chơi xa. Khám xong, Út Thơm vui vẻ bảo với Bà bác sĩ nói sức khỏe Mẹ rất tốt, ngoại trừ chỉ bị hơi lãng tai thôi! Sau đó Út Thơm dìu Bà lên phòng khách ngồi, mang cho Bà lon trà ướp lạnh, rồi bảo: “Mẹ uống nước chờ con vào trong thanh toán tiền cho Bác Sĩ, xong con trở ra chở Mẹ đi.”

Ngồi chờ suốt mấy tiếng đồng hồ, Bà sốt ruột nên đi tìm. Chẳng thấy cô Út ở đâu! Bà bắt đầu lo sợ…thì xuất hiện cô y tá người Mỹ đến nói gì Bà chẵng hiểu và dẫn Bà vào phòng ăn. Đến nơi nhưng Bà không ăn, nhìn quanh toàn là những bà Mỹ già, chẳng có người VN và cũng chẳng có ai quen.

Bà gọi tên Út Thơm… nhưng vô vọng! Bà chạy ra ngoài nhưng nhân viên trực không cho Bà đi. Bà la, khóc và nói thật nhiều nhưng chẳng ai hiểu Bà, vì Bà chưa hề biết tiếng Mỹ.

Bắt đầu từ đây, Bà phải sống với bao nhiêu cực hình mà đám y tá Mỹ trắng, Mỹ đen rất bạc đãi, đôi khi còn xô đẩy Bà nữa!

Khi tôi đến thăm thì Bà đã ở đây được 9 năm, tuổi đã 88 tuổi. Suốt 9 năm dài, Út Thơm, con gái Bà không bao giờ trở lại thăm mẹ. Con cháu Bà, tuy phòng mạch ở downtown cách nơi đây chỉ 20 phút lái xe, cũng chẳng hề thăm viếng!

Gặp chúng tôi Bà vẫn còn sáng suốt. Bà yêu cầu chúng tôi giúp cứu Bà ra khỏi trại Dưỡng Lão này, liên lạc giùm với em trai của Bà, hy vọng sẽ đưa Bà trở về quê hương. Nhưng, than ôi, chúng tôi cũng như em trai Bà tất cả phải bó tay. Vì luật của Hoa Kỳ là ai gởi Bà vào thì chính người đó mới có quyền lãnh ra. Em trai Bà là cậu ruột của Út Thơm, đã có lần đến gặp Út Thơm để yêu cầu cô lãnh Bà ra giao cho gia đình Ông nuôi. Chẳng những bị Út Thơm xua đuổi, ông cụ còn bị gia đình Út Thơm hăm gọi cảnh sát vì chen vào nội bộ gia đình cô!

Từ lúc hiểu được hoàn cảnh của Bà, chúng tôi thường dành thì giờ đến thăm Bà. Mang quà bánh biếu, Bà không ăn. Biếu tiền, Bà không nhận. Bà nói Bà tuyệt thực và cầu nguyện ơn trên cho Bà chết sớm. Từ hơn 2 năm rồi, Bác Sĩ ra lịnh bắt Bà ngồi xe lăn, nên đến nay Bà không đi đứng được nữa.

Giữa năm 1995, vì tôi bị thất nghiệp nên phải move đi tiểu bang khác. Mãi đến năm 1998, chúng tôi trở về Houston thăm Bà ta…nhưng, tiếc thay Bà đã vĩnh viễn lìa bỏ cái “địa ngục xa lạ” này, ra đi trong cô quạnh. Hết một kiếp người!

Hình ảnh bà cụ bị con cháu bỏ rơi trong viện dưỡng lão làm tôi trăn trở mãi. Mỹ quốc là một siêu cường quốc, có nền văn minh và phát triển cao nhứt thế giới, nơi có đủ thứ luật lệ bảo vệ con người. Một xứ xở tốt đẹp như thế, tại sao đạo lý lại không được quan tâm” Phải chăng đây là nơi suy tàn của đạo lý gia đình Việt Nam”

Công Cha như núi bỏ hoang!

Nghĩa Mẹ như nước lụt tràn lối đi!

Nhớ bà cụ đã mất. Thương chính thân thế gia đình mình, tôi không muốn tin điều ấy là có thực. Đành chỉ còn biết cầu mong cho các thế hệ tương lai không còn thảm cảnh này. 

Nam Huỳnh

From: Lucie 1937

TINH THẦN QUỐC DÂN CỦA NGƯỜI NHẬT QUA CHUYỆN “NGƯỜI PHU XE HIẾM CÓ”:

Huy Chiêu shared a post.

Một câu chuyện của Phan Bội Châu.
Nếu là ở Việt Nam chắc cụ bị chặt chém hết đường đỡ rồi.
Nước Nhật vĩ đại từ những điều nhỏ nhất, thật khâm phục

Image may contain: sky, outdoor, nature and water

Những câu chuyện thú vị

TINH THẦN QUỐC DÂN CỦA NGƯỜI NHẬT QUA CHUYỆN “NGƯỜI PHU XE HIẾM CÓ”:

Cuối năm 1905, Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ dành dụm được vài đồng bạc làm hành phí để lên Tokyo tìm cho được anh học sinh Trung Quốc, quê Vân Nam có tên Ân Thừa Hiến. Xuống khỏi xe lửa, 2 người gọi một phu xe và đưa danh thiếp “Ân Thừa Hiến” ra. Người phu không biết chữ Hán bèn đi tìm một đồng nghiệp khác biết chữ. Người này viết chữ trao đổi: “Bạn tôi không thông chữ Hán nên tiến tôi với các ông. Tôi biết chữ Hán nên nếu muốn đi đâu, các ông cứ viết chữ ra là tôi đưa các ông tới”.

Nói rồi, người phu đưa 2 ông tới Chấn Võ Học Hiệu, hỏi học sinh Ân Thừa Hiến. Té ra anh này đang thuê nhà nơi khác chờ qua năm, không ai biết ở đâu.

Người phu xe nghĩ một lúc rồi kéo xe vào bên đường và nói: “Các ngài hãy cứ chờ tôi ở đây vài ba tiếng, tôi đi tìm chỗ ở của người đó, rồi sẽ quay lại”.
Đứng chờ từ 2h đến 5h chiều, Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ nghĩ, Tokyo quá rộng, lữ quán có muôn nhà, tìm chỗ ở một học sinh Tàu, gốc Vân Nam chỉ biết tên thiệt không lấy gì làm chắc, nếu cùng một nết với dân Việt, e sẽ khốn nạn với vấn đề tiền nong… Ai dè sau 3h, anh phu xe mừng rỡ chạy về, dắt hai người đi thêm 1 tiếng, đến một lữ quán có treo biển với hàng chữ “Thanh quốc Vân Nam lưu học sinh Ân Thừa Hiến”.

Giờ mới hỏi đến tiền công, anh phu nói: “Hai hào năm xu”.

Phan Bội Châu làm lạ, rút một đồng bạc ra trao và tỏ tấm lòng đền ơn. Người phu xe đáp lại khảng khái: “Theo quy luật Nội vụ sảnh đã định thì từ nhà ga Tokyo đến nhà trọ này, giá xe chỉ có ngần ấy. Vả lại các người là ngoại quốc, yêu mến văn minh nước NHẬT mà đến đây; Vậy ta nên hoan nghênh các vị, chứ không phải hoan nghênh tiền bạc đâu. Bây giờ, các người cho tôi tiền xe vượt quá lệ, thế là khinh bạc người NHẬT BẢN đó!”.

Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ tạ ơn người phu xe đáng kính, lòng thêm tủi!
Than ôi! Trí thức trình độ dân nước ta xem với người phu xe Nhật Bản, chẳng dám chết thẹn lắm hay sao!
(Tự phán, Phan Bội Châu)

*** Tại đây có nhiều câu chuyện thú vị! Hãy để lại biểu cảm để tôi biết bạn đã đọc. Bạn có thể Share nếu muốn!!!

ĐÁI ĐƯỜNG – CÁM ƠN NƯỚC MỸ

ĐÁI ĐƯỜNG –
CÁM ƠN NƯỚC MỸ

Dương Lan Chi

Tôi là một bà già quê dốt đặc cán mai, nửa chữ bẻ đôi mà hỏi tui còn hổng biết, làm sao mà nói được tiếng Mỹ.
Những người quen biết, ai gặp tui cũng hỏi thăm sao tui hay quá vậy.
Thật ra, chuyện tui “tự nhiên “ được chữa khỏi con mắt bị hỏng, lãnh
tiền trợ cấp và được ở nhà housing thiệt hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của tui và tất cả những người quen biết với tui.

Tui qua Mỹ theo làn sóng vượt biên, cũng nhờ gia đình tui làm nghề đánh cá, một chiếc tàu vượt biên lớn sợ “bể” đã cho tui đi “chùa” nghĩa là không phải đóng “cây”.

Thuyền tui đi lại gặp may nên chẳng
gặp một thằng cướp biển nào, khi đến đảo lại được “bốc” vô Mỹ rất nhanh.
Thế là tui được ở một đất nước mà mọi người đều mơ ước.

Tui nghe nói nhiều người có tiền mà đi hoài không được, nhiều khi còn bị bắt giam cả mấy năm, ở tù phải lao động cực khổ không thua mấy ông sĩ quan học tập cải tạo.

Một hôm, cũng như mọi ngày, tui đi bộ để vừa chiêm ngưỡng những nhà cửa sang trọng với những bãi cỏ xanh và đủ loại hoa đẹp rực rỡ như cảnh tiên.

Đang đi bỗng mắc đái không chịu được, sẵn thấy chân cầu có vẻ kín đáo, tui bèn bước vội đến đó, nhìn trước nhìn sau thấy coi bộ hổng có ai dòm, chỉ có xe hơi chạy nườm nượp hàng hàng lớp lớp, yên chí lớn, ai mà thèm dòm đít bà già. Thì tui đã quen làm như vậy khi ở
Việt Nam mà!

Tui ung dung ngồi chồm hỗm xuống, khoai khoái dễ chịu vô cùng. Vừa
đứng lên thì xe cảnh sát ở đâu bất ngờ trờ tới, thắng nghe một cái réec, ra dấu biểu tui để hai tay lên xe, tui vừa để lên thì nó lấy hai tay tui bẻ quặt ra đàng sau, tui nghe một tiếng “cắc” rồi cảm thấy hai cổ tay lạnh ngắt, thì ra tui đang bị còng tay.

Tui sợ điếng người nhưng đành chịu vì có biết tiếng Mỹ nào đâu mà nói với chẳng nói. Mấy ổng dìu tôi vô xe, thật ra mấy ổng vừa dìu vừa đẩy thì đúng hơn vì tui thấy sợ quá, không muốn vô xe cảnh sát chút nào.

Mấy ông cảnh sát đưa tui tới một chỗ gì mà thấy rùng rợn lắm, chỗ nào cũng có máy móc thấy ngộp, muốn xỉu.

Một ông đi đâu một hồi rồi trở lại với một ông khác, nhìn thấy ông này tui càng sợ hơn vì ổng mặc cái áo choàng màu xanh và lại còn đeo mặt nạ màu xanh, không biết họ sẽ làm gì tui đây! Tự nhiên tui nổi gai ốc khắp người.

Ông mới ra dấu biểu tôi nằm vô giữa máy rồi ấn hết nút này đến nút khác, một hồi cái đầu tui bị kẹp chặt, tui cố cựa quay mà hổng ăn thua gì. Tui nhắm mắt lại thật chặt, bụng nghĩ là chắc tụi nó cho tui lên máy chém, tui niệm Chúa niệm Phật lung tung. Biết vậy thà ở Việt Nam cho sướng hơn, muốn đái đâu cũng được, cùng lắm thì bị chọc quê chứ làm gì mà tới phải lên máy chém!

Nhớ lại hồi còn ở Việt Nam, mỗi lần đi xe đò, lâu lâu xe đậu lại là mấy ông mấy bà mạnh ai nấy đái: mấy ông thì cứ đứng đái đại lề đường, còn mấy bà thì kiếm lùm cây.

Tui tưởng mình đã chết, chợt nghe hai bên đầu được nới rộng dần, rồi có người lay tôi dậy. Thì ra tui vẫn còn sống! Để chắc ăn, tui lắc thử cái đầu và sờ vào cổ không thấy máu me gì cả. Hú hồn!

Rồi có một người Việt Nam đến, ông ta tự giới thiệu là thông dịch, họ đua nhau hỏi tại sao tui có sẹo trên mặt phía trên con mắt bên phải, họ nói trong óc của tui có dấu vết tổn thương nặng. Hèn chi tui nhức đầu hoài. Họ hỏi tui nhiều câu lắm. Tui giải thích là do bị VC đánh bằng báng súng trong lúc họ đuổi tui đi kinh tế mới mà tui hổng chịu, tui cho họ biết con mắt phải của tui bị hư là do lần bị đánh đó.

Kết quả gởi về tận nhà cho biết tui bị thần kinh và bị mù một mắt.

Họ còn gởi cho tui nhiều giấy tờ khác nữa. Nhờ những giấy tờ này mà sau
này tui được hưởng đủ thứ giúp đỡ: được Mỹ chữa khỏi con mắt bị hư,
được cấp thuốc uống không mất tiền, rồi lại còn được ở nhà housing đến
bây giờ, mỗi tháng tui còn được lãnh một món tiền nho nhỏ, tui xài tiện tặn, lâu lâu gởi về chút đỉnh cho bà con, hàng xóm.

Nếu tui còn ở Việt Nam thì giờ này vẫn còn ngày hai bữa ăn cơm với rau
muống luộc chấm nước mắm, một giỏ cá nục phải chia ra ăn cho đủ hai
ngày.. Con mắt của tui làm gì mà có tiền chữa, mà có tiền chưa chắc đã
chữa được. Cái đầu của tui bây giờ không còn bị giựt giựt như trước khi được Mỹ mổ. Thiệt không uổng công tui vượt biên đi Mỹ chút nào.

Nhưng xin bà con đừng bắt chước tui mà đái ngoài đường à nghen! May mà
họ tưởng tui điên. Người không điên làm sao dám làm chuyện đó ở xứ văn
minh lịch sự này! Tui nghe người ta nói tội đái bậy bị phạt rất nặng mà còn bị ghi vào lý lịch suốt đời.Nước Mỹ có nhà vệ sinh sạch và tiện nghi lắm, bởi vậy nên nó được đặt tên là “Rest room” là “nhà để nghỉ” đó mà.
Nghe nói đi xa vài chục dặm là có một “rest area” để khách du lịch đi vệ sinh và nghỉ ngơi thoải mái không những thế còn có những bàn ghế bằng đá, có thùng đựng rác khắp nơi và nhất là có phong cảnh rất hữu tình. Vậy thì đái bậy bị phạt nặng cũng phải.
Tui cũng muốn nói thêm điều này, vì đây là điều tui rất khoái:

Người nào đến xứ Mỹ cũng biến thành người lịch sự, đi đâu làm gì cũng “get
line” chớ không có thói quen chen lấn như ở nước mình nên bà con cứ yên tâm. Tui bây giờ cũng lịch sự lắm.

Mỗi lần kể chuyện này, tui chỉ muốn đi tìm lại hai ông cảnh sát Mỹ để nói lời cám ơn đã còng tay tui lúc đó. Nếu không thì làm gì tui có ngày nay.

Dương Lan Chi ( Tác giả )

(Sống Mỹ còn được hưởng nhiều cái hay hơn nữa , xin kể một vài , con cái bắt buộc phải đi học – cấp trung và tiểu hoc –
(trong giờ học – và không phải kỳ nghỉ hè) , mà con nhà ai lang thang ngoài đường , cảnh sát sẽ ” hỏi thăm sức khỏe ” cha mẹ …..
Học xong trung học , muốn học Đại học , nếu nghèo , có thể vay tiền ,sau này đi làm trả lại . v…v…
Vậy mà mấy ông Việt Công lô loa trên internet là : sống ở Mỹ không đáng sống . Sống ở quốc nội hay hơn !? . Trong khi đó , mấy quan chức VC đã lo sắm sửa từ lâu mua nhà mua cửa , gởi con cái đi du học Mỹ rồi ! Nghĩ tội nghiệp cho mấy khối óc tự ti mặc cảm ! )