Qùa Giáng Sinh

Qùa Giáng Sinh

Ở các nước Phương Tây, Giáng Sinh là dịp người ta nghĩ đến quà. Cha mẹ tặng quà cho con cái, con cái tính đến việc biếu quà cho các bậc sinh thành. Những người đang yêu hay đã nên vợ, nên chồng nghĩ đến những món quà cho “một nửa kia của mình”. Bạn bè, đồng nghiệp cũng tính đến quà Giáng Sinh cho những người mình quý mến. Ngay cả những người hảo tâm cũng quan tâm đến những người bất hạnh để an ủi họ bằng những món quà mang ý nghĩa từ thiện.

qua-giang-sinh

 

 

 

 

 

 

 

 

Cứ  đến Giáng Sinh tôi lại nhớ đến truyện ngắn của O. Henry [*], một trong những người viết truyện ngắn nổi tiếng của Hoa Kỳ và cũng là nhà văn lừng danh thế giới. Tôi muốn nói đến truyện “The Gift of the Magi” mà ngày xưa hồi còn ở Trung học đã có dịp được đọc. Có nhiều bản dịch tiếng Việt với các tựa đề mang tên khác nhau như “Món quà Giáng Sinh”, “Món quà của nhà thông thái” hay “Món quà của các đạo sĩ”.

Nhân vật chính trong truyện là một cặp vợ chồng trẻ, James và Della, được O. Henry viết và in lần đầu tiên ngày 10/4/1906. Truyện xảy ra một ngày trước lễ Giáng Sinh và cũng như bao nhiêu người khác, James và Della phải tính đến việc mua quà tặng cho nhau. Có điều cặp vợ chồng này rất nghèo nên phải chắt chiu từng đồng để mua những món quà mà đối với họ có ý nghĩa nhất.

Chỉ một ngày trước lễ Giáng Sinh, Della vét hết trong túi và thấy cô chỉ có vỏn vẹn 1 đô-la và 87 xu nhưng cô  lại ao ước mua một sợi dây cho chiếc đồng hồ bỏ túi quý giá của James. Chiếc đồng hồ vàng này là tài sản duy nhất của gia đình truyền lại nhưng chưa bao giờ James có đủ tiền để mua sợi dây.

Đối với James, mái tóc nâu dài, thướt tha, óng mượt của Della là cả gia tài mà anh hãnh diện. Mái tóc đó lâu nay thiếu một bộ kẹp tóc mà James chắc Della thầm ao ước. James quyết định, với bất cứ giá nào anh sẽ mua tặng Della bộ kẹp tóc trong dịp Giáng Sinh.

qua-g-s-2

  1. Henry dẫn người đọc truyện đến những tình tiết éo le, đầy bất ngờ vào đêm Giáng sinh khi James về nhà. Người kể chuyện viết:

“Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: “Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói “Giáng sinh Vui vẻ”, em có một món quà rất hay cho anh này!”

“Em đã cắt mất tóc rồi à?” Jim hỏi.

“Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!” Della nói.

Thì ra Della đã đến tiệm làm tóc giả để bán tóc của mình với giá 20 đô-la. Cộng thêm 1 đô-la trong túi, Della mua sợi dây cho chiếc đồng hồ bỏ túi cho James và về nhà với 87 xu còn lại.

James sững sờ nhìn vợ với mái tóc ngắn cũn cỡn. Lại một bất ngờ kế tiếp: James vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói:

“Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.”

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, nhưng liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống trên má nàng. Quà Giáng Sinh cho Della là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc dài, óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính của một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà trong tay, mắt tràn đầy hạnh phúc. “Tóc em sẽ chóng dài ra thôi, Jim”, nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng tặng Jim và chạy đi lấy. Khi Della đưa chiếc dây đồng hồ cho James. Nàng nói:

“Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa đồng hồ cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.”

Người đọc chuyện đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khi James không làm theo lời Della. Ngược lại, anh ngồi xuống mỉm cuời nói: “Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp tóc cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa ăn tối được rồi em yêu”.

Đó là một câu chuyện thật cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng dành cho nhau. Cái cách họ đối phó với những thách thức của việc mua quà tặng Giáng sinh với số tiền ít ỏi mà họ có.

Cốt truyện và tình huống trớ trêu của cuối truyện là một câu chuyện tình cảm động với một bài học về cách tặng quà và trở thành một câu chuyện phổ biến để thích ứng với những tình huống trớ trêu và biểu lộ tình cảm cho nhau trong những dịp đặc biệt, nhất là trong mùa Giáng sinh.

O.Henry tâm sự: “Tôi đã vụng về kể cho bạn nghe một câu chuyện không có hậu về hai cô cậu khờ dại trong một căn hộ nghèo nàn, đã hy sinh những tài sản quý giá của mình một cách không khôn ngoan chút nào. Nhưng lời cuối cùng để nói với những người khôn ngoan thời buổi này là trong những người tặng quà, hai người này là khôn ngoan nhất. Và tất cả những ai trao quà theo cách của họ, kể cả người cho và người nhận, ở bất cứ nơi đâu, đều là khôn ngoan nhất. Họ chính là những nhà thông thái thật sự”.

 qua-giang-sinh-4

“The Gift of the Magi” là câu chuyện Giáng Sinh của năm 1906. Bây giờ đã là thế kỷ thứ 21 và chúng ta có thêm một câu chuyện về quà tặng Giáng Sinh vào năm nay, 2014. Chuyện quà Giáng Sinh của năm 1906 xảy ra tại thành phố hoa lệ New York nhưng chuyện năm 2014 lại xảy ra tại Kansas City, thành phố lớn nhất tiểu bang Missouri.

Kansas City có diện tích 820  km² bao gồm các quận Jackson, Clay, Cass và Platte với dân số ước tính khoảng trên hai triệu người. Tại đây, trong suốt hơn 10 năm qua, cứ vào dịp Giáng Sinh một  thương gia ẩn danh dành ra một trăm ngàn đô la tiền mặt, toàn là giấy 100, để tặng cho người nghèo trong thành phố. Người ta gọi ông là “Ông Già Noel Bí Mật” (Secret Santa).

Một cư dân Kansas City tên Jen Behrend cho biết: “Ông Già Noel Bí Mật” của Kansas  đã có năm ông ấy đến trạm xăng QuikTrip và trả tiền xăng cho mọi xe đến đây hoặc khiến mọi người tại trạm xăng phải ngạc nhiên khi tặng mỗi người tờ 100 đô-la. Ông ấy dấu tên nhưng tôi hy vọng ông ấy biết là những người sống ở Kansas City đều ái mộ ông vì tấm lòng hảo tâm”.

Năm 2014 “Ông Già Noel Bí Mật” đã thay đổi cách tặng quà. Thay vì tự tay phát những tờ 100 đô-la, ông nhờ Cảnh sát quận Jackson làm việc đó. Nhiệm vụ của họ là chạy trên xa lộ, tìm những xe xấu xí nhất như bị móp méo, sơn xe bị trầy sướt hoặc kính bị nứt bể…

chiec-xe-gs

Cảnh sát chặn những chiếc xe này lại không phải vì vi phạm luật giao thông. Thay vào đó, cảnh sát mở đầu với lời chúc “Merry Chirstmas” và tặng chủ xe mỗi người một tờ 100 đô-la làm quà Giáng Sinh.

nha-tu-thien

Nhà từ thiện dấu tên & dấu mặt hội ý với cảnh sát

… Và phân phát cho cảnh sát mỗi người 10 tờ giấy 100 đô-la để thay mặt ông tặng quà cho những người nghèo:

tang-qua

Phản ứng đầu tiên của những người bị cảnh sát chặn xe trên xa lộ là sự lo lắng. Họ lo sốt vó vì đã nghèo mà lại gặp eo.

su-lo-lang-bien-mat

Nhưng không, sự lo lắng biến mất khi cảnh sát chúc họ “Merry Christmas” và chìa ra món quà 100 đô-la.

niem-vui-vo-oa

Và niềm vui vỡ òa khi một món quà Giáng Sinh… từ trên trời rơi xuống.

Cảnh sát còn hào phóng tặng 200 đô-la nếu trên xe có hai người. Thế là niềm vui được nhân đôi.

tang-200-do-la

Ngoài việc tặng quà Giáng sinh cho những người lái xe “cà tàng” trên xa lộ, “Ông Già Noel Bí Mật”còn nhờ cảnh sát vào siêu thị tặng những tờ 100 đô-la cho các bà nội trợ, những kẻ vô gia cư trong dịp mua sắm cuối năm.

mua-sam-cuoi-nam

Đã có gần 50 triệu lượt người trên thế giới vào xem clip. Bạn cũng có thể vào xem tại:

https://www.facebook.com/video.php?v=10153003404704073&set=vb.340093714072&type=2&theatersas***

Chú thích:

[*] O’Henry (1862 – 1910) là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tên thật là William Sydney Porter. Truyện ngắn của ông nổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái kết bất ngờ một cách khéo léo.

Năm 1894, ông thành lập tờ tuần san hài hước “The Rolling Stone” và làm chủ bút. Tờ báo này không mấy thành công nên chết yểu sau một năm. Ông cũng làm phóng viên cho báo khác và thỉnh thoảng đóng góp vẽ hí họa.

Cuộc đời của O. Henry chỉ gặp toàn chuyện trắc trở. Ông qua đời trong nghèo khổ tại thành phố New York ngày 5/6/1910 vì bệnh lao phổi cộng thêm chứng xơ gan. Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học (Society of Arts and Sciences) thiết lập “Giải thưởng Tưởng niệm O. Henry” (O. Henry Memorial Awards), hàng năm trao cho những truyện ngắn xuất sắc.

Tại Việt Nam đã có nhiều bản dịch một số truyện ngắn của O. Henry. Truyện ngắn “The Gift of the Magi” (Quà Giáng Sinh) và  “The Last Leaf” (Chiếc lá cuối cùng) đã được đưa vào chương trình quốc văn trước năm 1975.

Anh chị Thụ Mai gởi

Hơi Ấm Của Tình Người

Hơi Ấm Của Tình Người

Một vị linh đạo Ấn Giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra… Nhưng bỗng chốc, vị linh đạo già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”.

Trong cơn thổn thức, vị linh đạo già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng này quá đủ cho ta… Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”.

Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh… Họ đưa người đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo già cũng trút bớt được nỗi rét run của mình.

Câu chuyện được trích từ kho tàng khôn ngoan của người Ấn Ðộ trên đây có lẽ gợi lại cho chúng ta lời của thánh Giacôbê tông đồ: “Ðức Tin không có việc làm là một Ðức Tin chết”. Vị linh đạo già trên đây đã cảm thấy rét run là bởi vì sự ấm áp của thầy trò đang có với nhau chưa được chia sẻ cho người khác. Ông chỉ cảm thấy thật sự ấm lòng, khi hơi ấm của sự quây quần ấy được san sẻ cho người khác.

Vị linh đạo này là hình ảnh của đời sống Ðức Tin của chúng ta. Dù có sốt sắng bao nhiêu trong việc cầu nguyện, trong các nghi thức phụng tự, nếu tâm hồn chúng ta không được nuôi dưỡng bằng lòng mến đối với tha nhân, thì hơi ấm của lòng đạo đức nơi chúng ta chỉ là một thứ hơi ấm giả hiệu… Một Ðức Tin nhiệt thành, một Ðức Tin có hơi ấm thật sự cần phải được nuôi dướng bằng lòng mến.

Trích sách Lẽ Sống 

Anh chị Thụ & Mai gởi

GIAI THOẠI VỀ CÔ BÉ BÁN DIÊM

GIAI THOẠI VỀ CÔ BÉ BÁN DIÊM

Truyện Cô Bé Bán Diêm của văn hào người Đan Mạch – Andersen được rất nhiều người biết đến.  Song ít người biết rằng cô bé ấy thật sự đã có mặt trên đời này và đã từng đi qua cuộc đời Andersen.

Vào một buổi tối mùa thu, tại một khu phố thuộc thành phố Copenhagne – Danmark.

co-be

– Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm!

Một tiếng nói khàn khàn, mệt mỏi chợt vọng đến tai Andersen.  Đằng kia, trước mặt chàng hơn mươi bước là một người đang ngồi co ro trên thềm của một ngôi nhà cao ráo.

Ánh sáng đèn từ trong nhà chiếu ra cho chàng thấy đó chỉ là một đứa bé con.

Hẳn nó đã phát ra những lời vừa rồi.

– Tối lắm rồi sao cháu còn chưa về nhà ngủ?

Andersen bước đến, ái ngại.  Đấy là một cô bé khoảng hơn 10 tuổi, run rẩy trong bộ quần áo vá víu bẩn thỉu.

Vai áo rách để lộ đôi vai gày còm.  Nhìn gương mặt hốc hác của nó, có thể đoán nó đang chịu cảnh thiếu ăn, thiếu uống từ lâu.

– Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm!

– Tay cầm bao diêm, cô bé chỉ vào chiếc túi con căng phồng bên cạnh, khẩn nài – Cả ngày cháu chẳng bán được gì, cũng chẳng ai bố thí cho cháu đồng nào.

Cô bé rơm rớm nước mắt.  Thân hình tiều tụy ốm yếu của em run lên khi gió lạnh thổi qua.

– Thế sao?  Andersen động lòng.

Chàng khẽ vuốt mái tóc dài xoăn thành từng búp trên lưng cô bé.

– Gia đình cháu đâu cả rồi?  Không ai lo cho cháu sao?

Cô bé buồn bã lắc đầu.  Em bùi ngùi kể lại những năm xưa khi còn sống trong ngôi nhà xinh đẹp với những dây trường xuân leo quanh.

Từ khi bà em qua đời, gia sản lụn bại, gia đình em phải lìa bỏ mái nhà thân yêu đó để chui rúc trong một xó xỉnh lụp xụp, tối tăm.

– Không có tiền cháu đâu dám về nhà vì bố sẽ đánh chết thôi!

Cô bé nhìn Andersen, đôi mắt cầu khẩn.

Thực vậy, em có một người cha ác nghiệt.  Hơn nữa về nhà cũng chẳng hơn gì.

Hai cha con chen với nhau trên một gác xếp tồi tàn, gió rét vẫn lùa vào được dù đã bít kín những lỗ thủng trên vách.

Lúc này, đôi chân cô bé đã lạnh cóng, em mang đôi giầy vải mòn cũ do mẹ em để lại.

– Cháu đừng lo!

Andersen cho tay vào túi lấy ra một số tiền đặt vào bàn tay bé bỏng của em

– Còn bấy nhiêu chú cho cháu cả.  Cháu về nhà mau kẻo chết cóng mất.  Ôi, lạy Chúa!

Vẻ đầy mừng rỡ, cô bé hôn tíu tít lên tay chàng – Từ ngày bà cháu mất đi, chú là người thương cháu nhất trên đời này.  Với món tiền này, bố con cháu sẽ được nhiều bữa no.

Nhưng… cô bé bỗng đăm chiêu… Nếu chú cho cháu hết thì tiền đâu chú sống, hở chú?

– Sao cháu khéo lo thế?

Chàng mỉm cười, nụ cười đầy hiền dịu – Chú sẽ còn cho cháu nhiều thứ nữa.  Chú sắp đi xa, đầu năm tới mới trở lại nơi này, khi ấy chú sẽ tặng cháu một món quà đặc biệt.

Ồ, thích quá!  Còn cháu, cháu cũng sẽ tặng chú một món quà.  Mà chú tên gì nhỉ ?

– Chú là Andersen

– Chàng âu yếm nắm đôi vai gầy của cô bé – Có bao giờ cháu nghe đến tên ấy chưa?

– Tên chú nghe quen lắm – Cô bé nhìn đăm đăm gương mặt trầm tư có chiếc mũi khoằm của chàng

– Chú có phải là thợ mộc không?

– Không phải!  Andersen mỉm cười lắc đầu.

– Thợ may?

– Cũng không.

– Hay chú là bác sĩ?

– Ồ, không phải đâu.  Thế này này…

Chàng đưa ngón tay trỏ viết viêt vào không khí, vẻ hơi đùa cợt.

A!  Cô bé reo lên.

– Cháu hiểu rồi, chú làm nghề bán bút!

Andersen chỉ tủm tỉm cười.  Chàng thấy yêu cô bé quá.  Em khiến chàng, một nhà văn thề suốt đời gắn bó với tuổi thơ, nhớ đến thời thơ ấu của mình và thành phố Odense cổ kính, nơi tuổi thơ của chàng êm ả trôi qua.

Là con một trong gia đình nên dù cha chỉ là một bác thợ giày nghèo, cậu bé Andersen hầu như chẳng phải mó tay đến bất cứ một việc gì ngoài mỗi việc là mơ mộng liên miên.

Cậu bé lắm khi chỉ thích bầu bạn với chiếc cối xay già nua đứng run rẩy trên bờ sông hiền lành của thành phố quê hương. …

Sau đó Andersen đi du lịch đâu đó… và chàng đã quên luôn lời hứa với cô bé bán diêm.

Khi về thăm lại khu phố năm nào, chàng tự trách mình đã quá mải mê với chuyến viễn du đến nỗi quên khuấy đi lời hứa với cô bé bất hạnh mà giờ này hẳn đang lang thang đâu đó với chiếc túi đựng đầy diêm.

Phải mua ngay cho em một chiếc áo len, một chiếc áo lông cừu dày và thật ấm để em qua được cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông…

Và Andersen sau những lần dò hỏi tin tức của em bé bán diêm, được ông chủ hiệu quần áo cho biết:

– Con bé chết rồi còn đâu.  Ngày đầu năm mới người ta nhìn thấy em bé chết cóng tự lúc nào ở một góc đường giữa hai ngôi nhà.

Cái chết cứng đờ của nó ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn.

Có lẽ nó muốn sưởi cho ấm.  Có điều lạ là hai mà nó vẫn hồng và miệng nó như đang mỉm cười.

– À này, ông ta tiếp tục trước khuôn mặt chết lặng của Andersen, khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi nó rơi ra vật gì giống như một chiếc quản bút làm bằng những bao diêm.

Hẳn nó để dành tặng ai, vì trên chiếc quản bút có ghi dòng chữ: tặng chú Andersen.

Andersen quên khuấy món quà ông định tặng cho cô bé bán diêm.  Nhưng cô bé, cô bé vẫn nhớ tới lời hứa của mình với vị khách tốt bụng của buổi tối mùa thu.

Hơn nửa thế kỷ qua, hàng triệu con người trên trái đất đã nghe tim mình thổn thức mỗi khi đọc câu chuyện về cô bé đáng thương của văn hào Đan Mạch.

Phải chăng Andersen đã viết câu chuyện ấy như một món quà để tặng hương hồn cô bé bán diêm?

Hans Andersen

Langthangchieutim gởi

Chuyện đời Vua Doughnuts …

Chuyện đời Vua Doughnuts …

  Sưu tầm- từ LA Times        ted-ngoy

Ted Ngoy ham mê bài bạc. Nay bỏ đạo Phật
theo Tin Lành và chấp nhận Chúa phạt
vì đã phản bội vợ con. (Ảnh Gary Friedman/ LAT)
Dưới mái hiên của một mobile home ở Long Beach, vua Doughnuts Cambốt, ngả lưng nằm suy gẫm sự đời. Một thời được hưởng giầu sang và sự nể trọng của cộng đồng; Một chú bé nghèo rớt mùng tơi, lấy được con gái người danh gia vọng tộc nhất Cambốt; Triệu phú, đã gặp mặt và tài trợ cho 3 vị Tổng thống Hoa kỳ.

Ted Ngoy tạo sự nghiệp bằng nghề làm doughnuts. Qua nhiều năm ông hướng dẫn hàng ngàn đồng bào ông vào thương trường. Nhờ doughnuts, nhiều người Cambốt đã thoát khỏi hoàn cảnh cô lập đi vào dòng sinh hoạt chính của người Mỹ. Tạo dựng hình ảnh nơi thương trường: “Những chủ nhân ông doughnuts, người Cambốt.”

Ngày nay, ở tuổi 62, vua doughnuts đã phá sản, vô gia cư và sống nhờ vào sự bố thí của vài người bạn còn lại.

Ông James Dok, Chủ tịch Liên Hiệp Cộng Ðồng Cambodge, cán sự xã hội ở Long Beach nói: “Ông ta đã mất hết mọi tiệm doughnuts, giờ đây ông mới bắt đầu một đời sống mới.”

Với cái tên cúng cơm Bun Tek Ngoy, mẹ nuôi Ngoy tại một làng nhà quê sát biên giới Thái Miên. Anh thuộc giống Miên gốc Hoa, thành phần bần dân ở xứ Chùa Tháp.

Năm 1967, mẹ gởi anh lên học ở thủ đô Nam Vang. Anh phải lòng một cô gái đẹp và kiêu sa. Tên cô Suganthini Khoeun. Bố cô là một viên chức cao cấp trong chính phủ. Anh rể cô, Sutsakhan Sak, là cảnh sát trưởng, đã một thời gian thật ngắn, trong những biến động chính trị của Cam Bốt đã hành sử quyền làm tổng thống trong vài ngày ngắn ngủi.

Cha mẹ nàng mong muốn con mình sẽ nên duyên chỗ xứng đôi vừa lứa. Lúc bấy giờ, ở tuổi 16, Suganthini bị kín cổng cao tường, không bạn bè, không được nói chuyện với con trai và hoàn toàn cấm ra khỏi nhà một mình.

Ngoy sống trên gác xép, một căn nhà thuê, cách căn phố lầu của nhà nàng mấy con đường. Là con trai một anh phu xích lô chắc hẳn không có chút hy vọng nào được lọt vào mắt nàng, không có cả quyền mơ đến chuyện yêu cô. Nhưng một đêm anh đã nghĩ ra cách. Giống như truyện Trương Chi, Ngoy leo lên nóc nhà ngồi thổi ống sáo, tiếng sáo lánh lót vang xa khắp xóm. Suganthini và mẹ cô nghe được tiếng sáo thiên thai ấy. Mẹ cô nói đó là loại âm thanh của người con trai đang yêu.

Ngoy viết thơ cho nàng, nhận là người thổi sáo ấy, và nhờ cô sen của nàng đem thơ trao nàng. Tuần sau, Suganthini hồi âm, từ đó cô cậu bắt đầu bí mật trao đổi thư tín. Và rồi, Ngoy xin được gặp mặt.

Nàng viết, “Em nghĩ anh không dám vào phòng em đâu, nhà em đầy lính gác và có nhiều chó dữ.” Một đêm mưa tầm tã, Ngoy chui qua rào kẽm gai bị xước da rách thịt, leo cây dừa chung quanh nhà nàng. Ðu cây dừa nhẩy lên mái nhà rồi lẻn chui qua một cửa sổ. Ướt như chuột, máu me tùm lum, Ngoy rón rén ngoài hành lang mà cũng không biết phòng nào là phòng nàng. Hé mở cửa và lại trúng ngay chóc phòng Suganthini.

Cô nàng kinh hoàng, nhưng cũng cho anh ở lại. Suốt 45 ngày, anh trốn trong phòng nàng. Ngủ dưới gầm giường và phải trốn khi gia nhân vào phòng dọn dẹp. Ðêm đêm, Ngoy cõng nàng trên lưng leo cây dừa xuống đường, đạp xe đưa nàng ra dạo phố Nam Vang. Gần sáng lại phải đưa nàng về phòng. Một đêm, dưới ánh trăng rằm, hai người quì gối bên nhau, chích máu ngón tay, nặn vào ly nước, cùng uống, thề trọn đời chung thủy.

Bất thần, bố mẹ nàng khám phá chuyện bí mật tống cổ Ngoy ra khỏi nhà. Họ dàn cảnh cho Ngoy hẹn gặp nàng tại nhà một người quen, ép Ngoy phải nói anh chỉ đùa với nàng mà thôi. Bố mẹ cô và người nhà ngồi nấp phía trong theo dõi.

Thoạt đầu, Ngoy nói không yêu cô; Anh chỉ giả bộ vậy thôi. Nhưng sau đó Ngoy rút dao ra đâm vào bụng mình và thú thật, anh nói theo lời ép của bố mẹ em. Máu me lênh láng, buộc lòng bố cô phải kêu xe cứu thương chở đi bác sĩ.

Sau biến cố ấy, Suganthini bị nhốt trong phòng nhiều ngày. Bất mãn, đau khổ, cô uống thuốc ngủ tự tử. Nhờ phát giác kịp Suganthini chỉ bị coma. Sau khi cả hai bình phục, buộc lòng bố mẹ nàng phải chấp thuận cho họ lấy nhau. Chiến tranh bùng nổ, năm 1970, Ngoy nhập ngũ. Ðược người anh rể nàng nâng đỡ, Ngoy leo lên đến cấp thiếu tá và được bổ đi làm tại lãnh sự quán bên Thái Lan.

1975, Pol Pot và Khờ Me đỏ cướp chính quyền, cuộc diệt chủng Cam Bốt mở màn. Ngoy sang Mỹ khởi nghiệp trong thế giới doughnuts.

Họ thuộc đợt dân Cambốt đầu tiên đến tị nạn ở Mỹ. Hai vợ chồng, ba người con đến trại Pendleton không một xu dính túi. Nhà thờ Lutheran Peace ở Tustin thuê Ngoy làm hốt rác, quét dọn. Anh xin được việc làm thứ hai tại cây xăng. Gần cây xăng có một tiệm donut. Hàng đêm anh quan sát khách ra vào tiệm. Hăm hở muốn học việc buôn bán, Ngoy tìm gặp ông chủ tiệm. Họ nói Winchells Donut có chương trình huấn luyện và thuê làm quản lý. Ngoy xin vào học nghề rồi nhận tiệm Winchell donut ở Newport Beach. Anh thuê vợ và đứa cháu vào làm. Mấy người nhà làm 17 giờ mỗi ngày và dành dụm nhiều năm.

Ngoy mua tiệm donut đầu tiên của một cặp vợ chồng về hưu, tiệm xìu xìu ễn ễn. Từ ngày đổi tên là Christys Doughnuts ở La Habra bắt đầu sung túc. Từ đó bất cứ tiệm donut nào Ngoy mở cũng mang tên Christys Doughnuts.

Trong vòng năm sau Ngoy mua các tiệm ở Fullerton, Anaheim, Anaheim Hills và Buena Park. Anh còn muốn mua thêm tiệm nữa, nhưng đã thấm mệt với 5 tiệm đầu tiên này. Ngoy nẩy ra sáng kiến. Dân Cambốt tị nạn đến California khá đông. Tiệm doughnuts rất dễ điều hành. Chủ nhân có thể thuê mướn toàn người nhà. Ngoy mua và mở thêm nhiều tiệm và cho người đồng hương sang lại. Ngoy gật gù: “Tôi vui và mọi người đều vui vẻ cả làng.”

Ngoy lái xe motorhome, xe đủ tiện nghi đi vòng quanh California, mở tiệm ở Los Angeles, Modesto, Fresno, San Jose, vùng vịnh Brisbane, Sacramento và San Diego. Tại mỗi địa phương anh dựng tiệm và huấn nghệ cho gia đình rồi sang lại cho chủ nhà. Ngoy dạy họ cách làm bánh và tính sổ sách. Anh dạy họ tên từng loại bánh: Old fashion, Jelly-Filled, Glazed. Anh giúp họ xin giấy phép. Anh cùng đứng tên với chủ vay tiền mua dụng cụ và hàng hóa. Ngoy giúp cho hàng trăm dân Cămbốt tị nạn xin nhà ở và thẻ An sinh xã hội. Cũng nhờ Ngoy mà nhiều người Cambốt khai nghề nghiệp đầu tiên của họ ở Mỹ là làm Donut.

Doughnuts giúp cho nhiều ngàn người thoát khỏi gánh nặng Welfare. Nhiều gia đình đã đi theo bước chân của Ngoy học buôn bán, làm ăn và học Anh ngữ. Lợi tức từ tiệm donut đưa con cái họ vào đại học. Ðến bấy giờ Ngoy không nhớ nổi đã làm chủ bao nhiêu tiệm donut, 40 ? 50 ? 60 ?

Ngoy thường nói: “Tôi muốn mở càng nhiều tiệm càng tốt. Chẳng biết rồi sẽ ra sao, nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục mở thêm tiệm.” Cũng như Ngoy, nhiều người Cambốt gốc Hoa sang tiệm của ông. Họ sang tiệm và giao dịch bán buôn chỉ cần một cái bắt tay. Ông nói hầu như mọi người đều sòng phẳng với ông.

Khoảng giữa thập niên 1980 Ngoy đã thành triệu phú. Nhưng, hơn cả tiền tài, ông được sự kính nể của mọi người. Năm 1985, ông và Suganthini trở thành công dân Mỹ. Họ thay tên Mỹ. Ông là Ted bà là Christy. Vợ chồng ông mua căn nhà 3 tầng, 7,000 square-feet, trị giá $1 triệu đô, garage 3 xe ở Lake Mission Viejo, Quận Cam. Ted thích chơi xe Cadillac và bà vợ khoái Mercedes-Benz mui trần. Họ có một căn nhà mát ở Big Bear, và phần nhà chung nghỉ hè ở Acapulco, Mexico. Họ đã đi du lịch sang Âu Châu hai lần.

Ted Ngoy gia nhập đảng Cộng Hòa, tổ chức tiệc gây quĩ cho tổng thống Bush bố, đã diện kiến tổng thống Reagan và Nixon.Ông luôn luôn cổ động đồng hương gốc Á Châu ủng hộ đảng Cộng Hòa.

tedngoy-h-2Năm 1991 Ted Ngoy gia nhập Ðảng Cộng Hòa,
giúp gây quỹ tuyển cử cho Tổng Thống George Bush.
(Ảnh Gary Friedman/ LAT)

Dân Cambốt theo kiểu Ted Ngoy làm thương mại. Khách hàng của Ted mở thêm tiệm và cho đồng hương sang lại. Khoảng đầu thập niên 1990 con số tiệm Doughnuts, do người Cambốt làm chủ tại California lên đến 2400 tiệm.

Ngoy mãn nguyện: “Mọi người đã tìm được mỏ vàng.”

Thế nhưng, dù với những thành công ấy, Ted Ngoy vẫn cảm thấy không hạnh phúc và bị cô lập. “Thiếu chính trị, thiếu tôn giáo, chỉ có làm và làm;” “Tất cả chỉ thấy tiền, đonut rồi ngủ.”

Ông sẵn sàng đi vào một thứ đam mê khác. Ngoy cảm nhận hương vị đam mê mấy năm trước đó. Gia đình ông Ngoy đi Las Vegas lần đầu năm 1977. Họ coi Elvis Presley trình diễn, và Ted chơi vài ván “Zì Zách.” Mấy năm sau, Ted trở lại Vegas hàng tháng, coi show Tom Jones, Diana Ross và Wayne Newton, và cũng đánh bài nhiều hơn.

Các sòng bài Caesars Palace, MGM Grand và Mirage đón rước Doughnuts King rất phải phép. Họ cho phòng free, đồ ăn, vé máy bay hạng nhất, ngồi hàng đầu xem show và boxing. Ngược lại, Ted cúng cho sòng bài hàng ngàn, hàng ngàn đô la.

Ted Ngoy tâm sự: “Las Vegas là thế giới mới, bên cạnh tiền và Donut.” Vợ Ngoy rất ghét tánh cờ bạc của ông. Chị thấy những khoản tiền thua bạc khổng lồ rồi họ cãi cọ liên miên. Nhiều lần bà tha thứ khi ông hứa bỏ, nhưng ít lâu sau, chứng nào tật ấy. Bà nói: “Tôi đã tin lời hứa của ổng cả ngàn lần rồi.”

Rồi Ngoy lén bay đi Las Vegas không cho vợ biết, nhiều khi đi cả tuần không về. Bà lái xe, chở đứa con út, kiếm ổng từ sòng bài này tới casino khác. Ngoy ký giả tên vợ, check vợ. Ngoy mượn tiền của các chủ thuê tiệm. Mượn nhiều quá ổng gán tiệm luôn cho họ.

Ngoy tâm sự: “Khi ngồi vào bàn bạc, ta thấy hứng khởi, ma lực trong cơ thể sai khiến ta, không thể cưỡng lại nổi.”

Tiếng đồn lan ra. Người tị nạn vẫn đến nhờ ông cố vấn bắt đầu xa lánh, họ sợ bị ông vay tiền. Trong lớp hướng dẫn tránh bài bạc Gamblers Anonumous, Ngoy than: “Tôi khóc, mọi người thề thốt, nhưng sau đó chúng tôi vẫn trở lại với thần đỏ đen.” Ngoy còn cá độ với những tay bookies Cambốt đủ đồ chơi: football, basketball. Nhiều Chua nhật ông thua cả 50 ngàn đô.

Năm 1990, Sau cuộc khủng hoảng bài bạc ở Las Vegas, ông Ngoy bay lên Washington DC xin vào chùa, cạo đầu, mặc áo cà sa. Ông vua Donut tu tâm trọn tháng. Sau đó ông còn bay sang chùa ở miền quê bên Thái Lan. Sáng sáng ôm bình bát, đi chân không, trên nhiều khúc đường sỏi đá xin ăn với các khất sĩ khác.

Sau chuyến khổ tu, trở lại quận Cam, ông lại cờ bạc hơn trước. Ngoy than: “Sư sãi, không giúp được tôi, Phật cũng chẳng cứu nổi tôi.”

Cambodge có chương trình bầu cử lần đầu năm 1993, nhà nước kêu gọi công dân về tham chánh. Ngoy là một trong số những người nghe theo. Tài sản Doughnuts của ông cũng gần tiêu tan hết. Ông bán luôn mấy tiệm còn lại. Nhà băng tịch thu căn nhà ở Mission Viejo.

Trở về Cambốt, Ngoy lập đảng Cộng Hòa Tự Do Phát Triển. Ông Ngoy tin sẽ giúp tạo cơ hội cho mọi người phát triển đi đến phồn vinh.

Ông cũng hy vọng với việc tham gia sinh hoạt chính trị sẽ giúp ông lánh xa bài bạc.. “Khi thành một nhân vật lớn, tôi không thể bài bạc được nữa vì cử tri sẽ không bỏ phiếu cho tôi. Họ không tin kẻ bạc bài.”

Ðảng của ông thảm bại cả hai cuộc bầu vào quốc hội 1993 và 1998. Nhưng thủ tướng Hun Sen mời ông Ted Ngoy làm cố vấn về thương mại và nông nghiệp.

Dùng ảnh hưởng thân cận với đảng Cộng Hòa, ông Ngoy thành công trong việc vận động Hoa kỳ ban qui chế Tối Huệ Quốc cho Cam bốt, năm 1995, giúp cho kỹ nghệ may mặc phát triển mạnh tạo hàng ngàn việc làm.

Khi Christy trở về California dự sinh nhật cháu ngoại năm 1999, Ngoy cặp một thiếu nữ, ông mang về sống trong nhà. Ðối với Christy, đó là sự phản bội sau cùng. Bà ly dị và không trở lại Cambốt nữa.

Ông Ngoy rời chính trường bất ngờ năm 2002, khi chống lại hai người đồng minh lớn, bộ trưởng thương mại và Chủ tịch phòng Thương mại Cambodge. Trong một cuộc họp báo ông Ngoy tuyên bố giải tán đảng và tố cáo chính quyền tham nhũng. Ngày hôm sao ông bay trở lại Los Angeles, bỏ sau lưng bà vợ mới và hai đứa con với bà.

Ông vua doughnuts một thời đến phi trường LAX chỉ còn $50 đô trong túi.

Ông trở lại với cộng đồng tỵ nạn ngày xưa. Trong khi ấy 30 tiệm Doughnuts của bà Christy vẫn còn hoạt động cũng như hàng trăm tiệm của những chủ nhân Cambodge khác. Người Cambodge cũng đang bắt đầu bỏ dần nghề đô nut, vì quá mệt mỏi với cách làm việc 17 giờ mỗi ngày mà chỉ kiếm được 13 xu lợi tức từ mỗi chiếc bách bán ra 65 xu. Họ bắt đầu tiến lên, đầu tư vào tiệm liquor, chợ và nhà hàng.

Không một người nào đã được ông Ngoy giúp đỡ ngày xưa cứu vớt ông. Ông Ngoy trách: “Tôi dạy cho họ, chia xẻ tình yêu với họ, bằng con tim trí óc. Và bây giờ họ đâu hết rồi?”

Ông nói tật bài bạc của ông đã kiểm soát được rồi – hoặc chẳng còn tiền bạc để thử nữa. Hiện giờ ông Ngoy sống nhờ vào lòng từ bi của vài người bạn bố thí cho. Ông từ chối làm gác dan, vì: “Còn sức đâu mà đứng ngày 8 tiếng.” Ông có học lớp địa ốc nhưng than không thể nhớ nổi nhiều chi tiết.

Ông Ngoy đã tin Chúa Jesus, cho biết ông cầu nguyện mỗi ngày, xin Thiên Chúa cứu giúp ông. Chua Nhật ông thường dự Thánh lễ tại nhà thờ Parkcrest Christian ở Long Beach, rồi trầm tư mỗi chiều, một mình, ngồi đọc Thánh Kinh.

tedngoy-h-3Ted Ngoy nhờ một mái hiên, mobile home ở Long Beach, CA
làm nhà trọ lúc cuối đời, sau khi đã lên voi, xuống chó vì phản bội vợ con và tính cờ bạc. (Ảnh Gary Friedman/ LAT)
Một tín hữu cùng Hội thánh cho ông ngủ nhờ ở mái hiên có lưới, bên ngoài cái mobile home của bà. Ông thu vén lại thành chỗ ngả lưng, gia tài còn lại là mấy cái áo và vài cái quần máng trên dây phơi.

Ông Ngoy tự xét mình, đang chịu hình phạt của Thiên Chúa, phạt ông về tội bội lời thề uống máu của ông và Suganthini dưới ánh trăng rằm ở Nam Vang năm nào!

Bà Christy Ngoy hiện giờ làm chủ một nhà hàng đặc sản Peru ở Irvine. Một người con trai của họ làm cố vấn tài chánh, người kia làm Computer Networking. Con gái bà làm chủ tiệm Hamburger kiểu cổ điển cũng ở quận Cam.

Bà Christy nói về người chồng cũ: “Ðã có lần tôi tưởng, chắc tôi chết nếu có chuyện gì xẩy đến với anh ấy. Nhưng cuộc tình lãng mạn ấy giờ đây đã quá xa, tôi thấy dường như đã xẩy ra cho một người nào khác. Người đàn ông lạ đột nhập vào phòng ngủ của tôi cách đây 35 năm là một người xa lạ với tôi rồi.”

Ted Ngoy cũng trở thành người xa lạ với chính ông ta. Ông nói: “Tôi không biết bây giờ tôi là ai. Tôi tự hỏi: Ted, Ông là Ai? Tôi cũng không biết luôn.”

Source: CNN viết theo Sam Quinones, Los Angeles Times

Cám ơn cuộc Đời

Cám ơn cuộc Đời

Mặc dầu Lễ Tạ ơn đã qua nhưng xin đăng bài này, rất cảm động.

cam-onHôm nay Thứ Năm ngày 24/11/2016 là Lễ T Ơn tại Mỹ. Trân trọng mời đọc bài viết đặc biệt cho mùa lễ tạ ơn của tác giả Hoàng Thanh. Cô tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 33’., hiện là cư dân Westminster, Orange County. Bài viết về Lễ Tạ Ơn của cô mang tựa dề “Xin Cám Ơn Cuộc Ðời” kể lại câu chuyện xúc

động, giản dị mà khác thuờng, bắt đầu từ cái Bình Thuờng nhất: ” Chỉ với một n cuời 

 

happy-hoa

Xin cám ơn cuộc đời

Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ Ơn, tôi thầm nghĩ, “Dân ngoại quốc sao mà… “quởn” quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ, màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business đó mà…”

Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn.

Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục, nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi.

Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm đó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà lại đang điều trị ung thư ở giai doạn cuối.

Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cuời vui với bà, thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà. Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhung lại bị tật nguyền, rồi từ dó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở nhà duỡng lão.

Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà cuời với tôi và đưa tặng tôi một tấm thiệp cùng một ổ bánh ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm thiệp ra đọc liền đi.

Tôi mở tấm thiệp và xúc động nhìn những nét chữ run rẩy, xiêu vẹo:

Dear Thanh,

My name is Josephine Smiley, but life does not “smile” to me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I met you in this pharmacy.You are the ONLY person who always smiles to me, after the death of my husband and my son.You made me feel happy and help me keep on living. I profit this Thanksgiving holiday to say “Thank you”, Thanh.

Thank you, very much, for your smile…

(Thanh thân mến,

Tên tôi là Josephine Smiley, nhưng cuộc sống Không có “nụ cười” với tôi cả. Nhiều lần tôi muốn tự tử, cho đến ngày tôi vào tiệm thuốc tây này.

Cô là người luôn luôn mỉm cười với tôi, sau cái chết của chồng tôi và con trai tôi. Cô làm tôi cảm thấy hạnh phúc và giúp tôi tiếp tục sống. Nhân dịp ngày Lễ Tạ Ơn để nói lời “Cảm ơn”, Thanh.

Cảm ơn cô, rất nhiều, vì nụ cười của cô …)
Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn… Tôi thật hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống còn.

Ðó là lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghĩa cao quý của ngày lễ Thanksgiving.

Ngày Lễ Tạ ơn năm sau, tôi cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ đến tìm gặp tôi. Cô đưa cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô y tá này tấm thiệp và nhờ cô đến đưa tận tay tôi vào đúng ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa của tôi đã làm nhòe hẳn đi những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn nghèo trên trang giấy:

My dear Thanh,
I am thinking of you until the last minute of my life.
I miss you, and I miss your smile…
I love you, my “daughter”.. .

( Thanh thân yêu,

Tôi đang nghĩ đến cô Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời tôi.
Tôi nhớ đến cô, và tôi nhớ nụ cười của cô …
Tôi yêu cô , “con gái” của tôi.. 
.)

Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm đó, không sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của bà, nguời “Mẹ American” đã gọi tôi bằng tiếng “my daughter”…

Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành cho bà, vào mỗi ngày lễ đặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm ở pharmacy đó.

Mãi cho đến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã “cảm” được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này.

Thông thuờng thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào đó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (tuckey).

Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có… Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi nguời ăn nhậu.
Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thuờng làm món gà ta, “gà đi bộ.” Ngày xưa tôi cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn.

Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi “Free meals” tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp…để chờ đến phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một cái túi ngủ qua đêm.

Ở nơi đâu trên trái dất này, cũng luôn vẫn còn rất rất nhiều nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta…

Nếu nói về hai chữ “TẠ ƠN” với những nguời mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy…

Cám ơn quê hương tôi -Việt Nam, với hai mùa mưa nắng, với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi- nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê nguời…

Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi duỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế kỷ qua…

Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học….

Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho đất nuớc, xã hội…
Cám ơn các chị, các em tôi, đã xẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại…

Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm – buồn vui- những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua được. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo trắng của tôi không có chút gì dể mà lưu luyến cả…
Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xưa, đã “nuôi” tôi cả mấy năm trời Ðại học, bằng những lon “gigo” cơm, bữa rau, bữa trứng, bằng những chén chè nho nhỏ, hay những ly trà đá ở căn tin ngày nào.

Cám ơn các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất, đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật…

Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc…

Cám ơn những nguời tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã giúp tôi biết đuợc cảm nhận đuợc thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly.

Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương…

Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc dời, để nhận ra cuộc sống này là vô thuờng… để từ đó bớt dần “cái tôi”- cái ngã mạn của ngày nào…

Xin cám ơn tất cả… những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì:
Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau…”

Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những người thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi.

Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói “Con thương Mẹ”, hay một tấm thiệp, một cành hồng.Tình thương, là phải đuợc cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không?

Xin cám ơn cuộc đời…

Hoàng Thanh

Hồi ức Tị Nạn

Trong dịp cuối năm, cũng là 41 năm kể từ 1975, xin chia sẻ với quý anh chị em một chút tâm tình:

Hồi ức Tị Nạn

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi không có thói quen viết nhật ký. Hồi bé tôi cũng ráng bắt chước các chị trong nhà, nắn nót viết vì được tặng một cuốn sổ có chìa khóa bé xíu rất xinh, nhưng chỉ viết được vài dòng thì chán – chơi búp-bê, chạy nhảy ngoài sân với bạn vui hơn.

Lớn lên, khi buồn chuyện này người kia, tôi cũng có ý định trang trải tấm lòng trên trang giấy, nhưng vốn biếng lười rồi sợ có người đọc được nên thôi. Thế nhưng hôm nay tôi lại chạnh lòng, muốn viết một chút gì đó để hồi tưởng lại 40 năm tị nạn, nhớ lại chặng đường dài mà người dân Việt đã đi qua. Nếu như tôi đã viết nhật ký, việc ghi nhớ chuyện cũ có lẽ sẽ dễ dàng hơn nhiều, vì bây giờ những kỷ niệm xưa, các suy tư đã phôi pha theo ngày tháng, tuổi tác  … Nhưng hôm nay tôi nhủ lòng sẽ cố gắng ghi lại một chút tâm tình – Tâm tình của người tị nạn, của một thuyền nhân nhỏ bé tầm thường – viết lại tâm trạng khắc khoải của người di tản buồn phải lưu vong trên xứ người. Tôi vẫn thích hát “Hãy cố quên đi mà sống…”, nhưng ngược lại có những điều tôi không cho phép mình được quên để biết mình là ai và trách nhiệm như thế nào… “Mời người lên xe, về miền quá khứ”….

Ngày… tháng…

30 tháng 4, 1975, tôi chưa tròn 15 tuổi. Những tháng trước đó gia đình tôi không được ở nhà mình tại khu nhà thờ Tây Ninh nữa, mà phải xin tạm trú với người bà con ở xa khu vực tỉnh lỵ để tránh pháo kích. Sợ lắm, nửa đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng đạn nổ thật to, thật gần. Ba má và mấy chị em chúng tôi phải chạy trốn xuống hầm tránh đạn, ngồi co ro lo lắng. Tôi hay hỏi: Hết pháo kích chưa để được lên nhà nằm ngủ, ba má biết đường nào mà trả lời! Tôi đã thấy những miểng đạn thật to bay vào sân nhà, tôi đã đi đám tang của bà bán chè trong xóm chết tại chỗ, thịt da và máu lẫn trong nồi chè lênh láng. Tôi đã nghe radio loan tin về các em học sinh bị pháo kích ở Cai Lậy, và rơi nước mắt với nhiều gia đình vì người thân đi lính đã tử trận. Ôi chiến tranh, ôi thời kỳ đau thương khốn khó.

Xưa kia em có mẹ cha

Xưa kia em có ông bà

Trong một ngày em mất cả ba….

Anh tôi hiểu tình hình thời sự, nên khuyên ba má và mấy đứa em chúng tôi bỏ Tây Ninh lên thành phố sinh sống, vì Saigon dù sao cũng có tai mắt quốc tế, ít sợ bị trả thù, bị gò bó như ở tỉnh nhỏ. Rời Tây Ninh tôi buồn lắm, xa trường mất bạn nhưng biết làm sao hơn.

Nhưng buồn hơn cả là biết được 30 tháng 4 là ngày mất nước, Việt Cộng đã tràn vào tới Saigon, trên đài phát thanh ông Dương Văn Minh đã chính thức đầu hàng. Chị tôi bảo phải lo cắt móng tay cho thật ngắn, vì Việt Cộng không thích những đứa xí xọn để móng tay dài. Má tôi có vài lượng vàng, vài cái nhẫn, bắt chúng tôi giấu kín trong người, tưởng rằng như thế là qua mắt được “họ”! Chúng tôi còn ngây thơ quá, ít kinh nghiệm với Cộng Sản quá, bằng chứng là sau đó hai ông anh của tôi đã nghe lời ra trình diện học tập cải tạo 10 ngày, để rồi đi “mút mùa” bao nhiêu năm.

Mấy tháng sau ngày 30 tháng 4, tôi được đi học lại, nhưng ngày đầu tiên là học hát nhạc đỏ, nhạc “cách mạng”, nghe giảng chính trị dài dòng vô nghĩa. Dù sao tôi cũng còn may mắn có sự bảo bọc của gia đình, không phải đi kinh tế mới, không phải đi bán vé số, lượm rác…

hoi-uc-ti-nan-1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

​Ngày… tháng…

Tôi học trung học cấp Ba, tuổi học trò nên còn vô tư, còn vui với bạn bè, dù cuộc sống đã bắt đầu thay đổi. Vì lao động là vinh quang, học sinh phải làm công tác sản xuất ngoài giờ học chữ, nên chúng tôi quay quần bên nhau đan lá mây tre, tức là ngồi đan những cái rổ, cái giỏ để xuất khẩu cho nhà trường kiếm tiền. Chúng tôi thủ thỉ chuyện thơ văn, chuyện bất công đói rách đang xảy ra trên quê hương, tình bạn thật thắm thiết dù thầy cô “quốc doanh” dạy chúng tôi phải có tinh thần tập thể, cái gì cũng phải mang ơn Bác và Đảng, như ngắm trăng cũng phải cùng ngắm chung, ngồi một mình tư lự với trăng là tư duy sai lầm, là cá nhân chủ nghĩa!

Hôm nay N. đến trường nhưng không ở hết buổi học, anh tới giã biệt tôi vì phải cùng mẹ đi xa kiếm cách sinh sống. Ba của N. đã trốn vào bưng tìm cách đấu tranh giành lại chính quyền, kinh tế gia đình gặp khó khăn, công an có thể tới nhà N điều tra khó dễ. Tôi buồn lắm, một phần vì cũng có cảm tình đặc biệt với N, lũ bạn hay “cáp đôi” chúng tôi với nhau, một phần vì lo sợ cho chính gia đình tôi. Trước vận mệnh đất nước, nhiều chia ly, đau khổ sẽ diễn ra. Thầy T. đang dạy chúng tôi môn Toán cũng bị công an tới tận lớp bắt đem đi mất, nói là có tội với Cách mạng, cô T. và gia đình thầy khổ sở biết bao nhiêu. Tôi nhớ câu chuyện Bầy Phượng Vỹ Khác Thường của Nhã Ca, chúng tôi cũng đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, không an tâm học hành, không biết ngày mai chuyện gì sẽ xảy ra…

Ngày… tháng…

Sáng nay tôi giật mình dậy sớm vì nghe tiếng khóc nỉ non, tiếng kể lể từ nhà hàng xóm bên cạnh vọng lại. Trời ơi! bạn K. bị bắt đi nghĩa vụ quân sự mấy tháng trước đã bỏ mình nơi chiến trường Campuchea. Xót xa nào hơn khi cha mẹ tóc bạc phải khóc con đầu xanh, mà lại không được thấy xác con để nhìn mặt lần cuối hoặc chôn cất. Hèn chi người anh bà con của tôi nhất định không chịu trình diện làm lính thế thân cho Cộng Sản. Anh trốn chui trốn nhũi đói khát thật đáng thương. Anh không được đi học đi làm, cũng không thể ở nhà vì lệnh bắt trốn nghĩa vụ quân sự ai cũng biết, không ai dám chứa chấp. Chị tôi bị ép phải “phấn đấu” để có thể trở thành cảm tình viên của Đoàn Thanh niên Cộng Sản. Chị đâu có muốn thành đoàn viên. Gia đình tôi lý lịch xấu, cha làm công chức cho chế độ cũ, anh làm “Lính Ngụy”, phấn đấu 10 đời cũng không tới đâu, nhưng họ vẫn bắt chị đi họp hành ca hát, công tác liên tục. Mấy đứa cháu phải tham gia Thiếu Nhi Khăn Quàng Đỏ, bị nhồi sọ những chuyện sai lầm, sắt máu. Còn các bà mẹ, các người chị phải ra ngoài buôn thúng bán bưng, đầu tiên là bán các thứ trong nhà để sống cầm hơi, vì người đàn ông trụ cột trong gia đình đã đi tù cải tạo. Mọi người có thêm gánh nặng nhịn ăn nhịn mặc để lo thăm nuôi người nhà trong trại tù. Tôi có cùng chị dâu đi thăm anh tôi ở trại cải tạo một lần, thật là thương cho các chiến sĩ, nhân viên chế độ Cộng Hòa bị sa cơ thất thế. Đói rét đã đành, nhiều người bệnh nặng, bị biệt giam gông cùm thật khổ. Trong cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện có ghi lại kinh nghiệm tù mà tôi còn nhớ. Khi bị cùm lâu ngày một chân sẽ bị teo nhỏ lại không đi vững được, nhưng người tù vẫn không dám xin cán bộ đổi cùm sang chân kia. Lý do không phải vì sợ cán bộ từ chối, nhưng chân teo nhỏ lại sẽ ít bị cái cùm siết chặt, ít đau đớn hơn. Nhiều người bị nhốt trong phòng tối mười mấy năm, mắt trở nên mù lòa thật khổ. Tôi hồi ấy cũng còn ngây thơ, nên thắc mắc cán bộ không cho tù cải tạo ăn đường là phải, vì mua đường tốn tiền, nhưng muối rất rẻ mà sao họ cũng không cho ăn để cải tạo bị phù thủng? Thì ra Cộng Sản muốn làm khổ, muốn hành hạ cho phá bệnh tật để không còn sức lực tranh đấu, chứ không phải vì thiếu muối. Thật vậy, tình thương yêu thông cảm đâu tốn xu nào để mua, mà con người vẫn dè sẻn đâu đã cho nhau hết lòng, nói chi đến Đảng Cộng Sản sắt máu.

Nhiều em bé không được tới trường, phải lang thang đầu đường xó chợ đói rách kiếm ăn. Do thiếu giáo dục các em hỗn láo ma lanh, dối gian… Nhà cầm quyền lại đánh phá “Tư sản mại bản” bằng nhiều hình thức, một trong những cách là đổi tiền hai ba lần. Tôi nhớ lần đầu mỗi gia đình chỉ được đổi 200 đồng tiền Hồ, còn lại mất hết, ba má và người thân tiếc tiền phát bệnh, có người còn tự tử. Ôi, thân phận con người thế hệ chúng tôi.

hoi-uc-ti-nan-2

Ngày… tháng…

Đến thời gian này phong trào “Đi” được bắt đầu, vì cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ bỏ trốn Cộng Sản để ra đi mà! Chuyện đút lót mua bãi để không bị bắt lại, chuyện bị lường gạt mất “cây” mà không đi được, chuyện vào tù vì dám bỏ trốn chế độ xảy ra thường xuyên. Rồi vượt biên lạc đường bị đói khát, bị cướp biển, bị làm mồi cho cá mập… Ai nấy căng thẳng sợ hãi. Nhưng ở lại cũng chết, ra đi dù sao cũng có chút hy vọng, nên đông đảo người dân đã liều mình vượt biên, tạo nên một sự kiện đặc biệt trong lịch sử. Hôm nay đi học tôi lại thấy vắng thêm một người bạn, công an đang hồ hởi phong tỏa căn nhà của gia đình bạn để làm cơ sở thành phố. Thầy bói có thêm cơ hội hành nghề, vì nhiều người quá lo phải tới nhờ thầy xem dùm có đi thoát không rồi mới dám liều. Anh chị Hai tôi ở Bến Tre, anh là Đại Úy phải đi học tập, chị bị công an tịch thu nhà để làm Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, đuổi đi kinh tế mới. Đàn con phải làm rẫy khổ sở, nên chị liều mình vượt biên, rủ tôi cùng đi.

May mắn chuyến hải trình êm xuôi, chúng tôi không bị hải tặc, chỉ bị công an Việt Nam chặn lại cướp của làm tiền. Chúng tôi được đưa tới trại tị nạn tại Nam Dương, mừng quá là mừng. Đó cũng là nhờ cháu bé con anh Năm tôi lúc đó mới 3 tháng tuổi. Khi tàu Tây Đức đi ngang qua, họ không muốn rắc rối nên chỉ cho thức ăn nước uống để chúng tôi đi tiếp. May quá một người nhanh trí đã ẵm cháu tôi giơ lên cao cho người Đức thấy. Có lẽ vì thương trẻ em cùng với con thuyền bé nhỏ mong manh trên biển cả, họ bảo chúng tôi đục cho tàu ngập nước, rồi gọi về cho cấp trên nói là chúng tôi đang chết chìm nên phải cứu.

Trại tị nạn Indonesia được mệnh danh là “Ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người”, chúng tôi an tâm học Anh văn, chuẩn bị ngày đi Mỹ. Cơm Cao Ủy phát chúng tôi ăn còn đói, còn thiếu thốn rất nhiều các phương tiện khác, nhưng không dám đòi hỏi gì hơn. Chỉ buồn là thấy chung quanh cũng có một số ít người vì chút quyền lợi, vì thiếu suy nghĩ nên luồn cúi cảnh sát Indonesia làm hại bà con, hoặc có các chị chịu đi chơi riêng với người Indonesia, không tiếc phẩm giá. Lại có người độc thân tại chỗ, vì quá cô đơn yếu đuối cần nơi nương tựa, nên đã “ghép form” ở tạm với nhau, làm sau này gặp phải cảnh  hai vợ hai chồng, không biết chọn ai bỏ ai. Ở lại quê nhà là một dấu chấm than, nhưng ra đi được lại là một dấu chấm hỏi to tướng. Trách nhiệm rất nặng nề, mình sẽ làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước đây?…

Ngày… Tháng…

Thời gian ở trại Tị nạn thật dài với những vui buồn lẫn lộn. Vui vì thoát được chế độ Cộng Sản, buồn vì xa nhà, lo lắng cho tương lai trên xứ lạ quê người. Cuối cùng tôi và gia đình anh chị cũng tới được Cali đất Mỹ. Tôi vừa học vừa làm, mỗi ngày mười mấy tiếng, có bệnh cũng không dám nghỉ, ráng dành dụm gởi tiền, gởi quà về cho gia đình và bè bạn. Ngày ấy vải vóc ở Việt Nam rất quý, hơn một thước vải xoa Pháp vài đô-la là may được một cái quần đen, nếu chúng tôi nhịn xài thì có thể giúp được nhiều người. Mỗi khi thèm quá mua bánh kẹo trái cây ăn, cô cháu gọi tôi bằng dì luôn xuýt xoa “Chèn ơi! Ăn hết một cái quần xoa Pháp rồi!”

Chúng tôi bây giờ văn minh, bắt đầu sợ mập ăn kiêng, nhưng vẫn không quên những ngày đói khổ tại quê nhà. Chúng tôi hay nhắc lại kỷ niệm cũ như lúc phải nấu cháo ăn cho đỡ tốn, hoặc lúc đi lặn lội đào kinh làm công tác thủy lợi do phường khóm đề ra, không đi là cắt hộ khẩu, cắt gạo, bị kiểm điểm. Cái màn tự kiểm và bị kiểm điểm thật ghê sợ, nếu không nói dối, không khôn khéo sẽ bị tù như chơi. Tôi khi ấy cũng phải phụ giúp gia đình, sáng đi học chiều đi bán nước mía cho người bà con kiếm thêm tiền. Tôi lượm vỏ mía về cho má tôi nấu ăn thay củi, vỏ mía cháy vèo vèo nhưng chịu cực thì cơm cũng chín. Có lần lãng đãng lo ra, tôi đút cả ngón tay vào trục xay nước mía, may mà chỉ bị mất một phần nhỏ ngón tay cái, không bị cụt!

Tôi đã từng sắp hàng cả ngày để mua được vài ký bo bo, nấu lên cứng ngắc ba tôi nhai trệu trạo thật đau lòng. Tôi cũng nhớ có lần mang sổ hộ khẩu sắp hàng để mua được một chia bia, đem bán chợ đen ngay để có tiền mua đi chợ. Chị tôi đi dạy học có tiêu chuẩn mỗi tháng nửa ký thịt, nhưng chị vừa hiền lành vừa khẳng khái không tranh dành, nên chỉ đem về chừng vài trăm gram thịt mỡ bèo nhèo, lớp cán bộ đã ăn bớt, lớp các bạn đồng nghiệp chia chác hai ba đợt. Ba tôi lâu ngày không có thịt ăn, ăn vào lạ bụng tiêu chảy quá chừng. Buổi cơm gia đình tôi lúc ấy thường chỉ là rau muống luộc, đậu hũ luộc, ngày nào có khách thì mua vài cái trứng vịt, quậy thêm với bột mì để chiên cho được nhiều. Nhiều nơi hàng xóm dòm ngó nhau, nếu có thịt, có thức ăn ngon cũng phải dấu diếm, nếu không sẽ bị tố giác, làm khó dễ. Cộng Sản quá khôn ngoan ác độc với những hình thức trừng phạt, gieo vào lòng tất cả người dân một sự sợ hãi khó lòng vượt qua được. Sợ, sợ lắm, tới bây giờ tôi vẫn còn sợ….

Nhớ lúc mới được nhà thờ bảo trợ qua Mỹ, chúng tôi còn xấu hổ. Nhà thờ hôm ấy mừng lễ Phục Sinh, tức là Easter có cho trẻ em chơi trò dấu trứng. Trứng đây là kẹo chocolate gói giấy màu thật đẹp hình trái trứng, tượng trưng cho sự đổi mới sanh sôi nảy nở. Các cháu tôi ốm nhom bé choắt, lại khai rút tuổi để dễ đi học nên khôn lanh so với con nít Mỹ thật nhiều. Có bao nhiêu kẹo dấu ở đâu chúng cũng hớn hở tìm ra hết, hình như chúng “hửi” được mùi ngọt, đám con nít Mỹ ngây thơ hầu như chẳng tìm được trái trứng nào. Gia đình “Mít” thâu lượm hết, không biết chia sẻ, không biết đây chỉ là trò chơi cho vui!

Lại còn chuyện đãi các ông bà bảo trợ cũng mắc cười. Chị tôi mua tôm càng to đút lò, làm chả giò và nhiều món ngon mời bảo trợ tới nhà ăn để tỏ lòng biết ơn. Dĩ nhiên mấy dì cháu tôi đâu có tiêu chuẩn ăn tôm, nhưng may thay khách tới trò chuyện vui quá, chị tôi quên mất món tôm còn để nguyên trong lò. Khách về chúng tôi sung sướng thưởng thức, trong khi anh chị tôi tiếc hùi hụi….

hoi-uc-ti-nan-3

Ngày… Tháng…

Vấn đề ngôn ngữ bất đồng tại xứ người cũng rắc rối. Mấy dì cháu tôi khổ sở ngày ngày tra tự điển, uốn lưỡi tập đọc tiếng Anh, ráng nói mà sao Tây Mỹ vẫn tròn xoe mắt không chịu hiểu. Bạn tôi ước gì có viên thuốc đặc biệt uống vào là tiếng Anh như gió để có thể tìm việc làm mà không cần phải học. Nói tiếng Anh chúng tôi không mỏi miệng mà mỏi tay, vì phải ra dấu diễn tả lung tung.

Hôm đó là ngày lễ, tức là longweekend không phải đi học đi làm, nhưng chúng tôi nhận điện tín báo tin buồn. Vì nhân viên bưu điện cũng nghỉ lễ, nên họ không tới nhà trao điện tín, mà đọc nội dung cho nghe qua điện thoại trước, rồi sẽ giao giấy sau. Họ đánh vần rõ ràng “Ba đã mất” nhưng khi cô cháu nhận phôn nói lại, cả nhà không ai chịu tin. Má tôi bệnh tiểu đường, rất yếu nên má mất mới hợp lý, chứ ba tôi còn khỏe lắm. Chúng tôi trách cháu nghe cò ra quạ, chữ M lại tưởng chữ B, rồi khóc mà không biết khóc ai! Hôm sau nhận điện tín mới rõ đúng là ba đã mất.

Qua được xứ Mỹ nhưng chúng tôi rất hà tiện, vì mới chân ướt chân ráo làm lương rẻ và còn đang đi học thêm. Mỗi lần chợ đại hạ giá món hàng nào, chị Hai bắt hết mấy dì cháu chúng tôi sắp hàng mua thật nhiều về để dành. Khi có dư chút đỉnh chị mua vàng lá để trong nhà ngắm nghía. Chúng tôi bàn nên gởi ngân hàng cho có tiền lời, nhưng chị bảo hồi ở Việt Nam quá khổ, cái nhẫn một chỉ cũng không có nên bây giờ chị nhất định mua ít vàng về chưng trong phòng cho bõ ghét! Ấy thế mà chị “trúng”, sau này vàng lên giá quá chừng. Chị cũng rất sáng suốt, tuy cần tiền nhưng nhất định không cho ai “share” phòng, dù lúc này việc cho mướn phòng kiếm thêm tiền đang rất phổ thông. Chị bảo cho đàn ông vào share phòng thì sẽ mất con gái, còn cho đàn bà vào ở thì sẽ mất chồng!

Các cháu tôi ít nhiều cũng biết khổ là gì vì lớn lên ở Việt Nam, biết giá trị của cuộc sống nên cố gắng học hành, sau này đều thành bác sĩ, kỹ sư thật thành công. Cô cháu Út bắt đầu quên tiếng Việt, nói tiếng Mỹ đúng giọng rất hay. Đám trẻ thật dễ hội nhập, thật là mừng và cảm ơn xứ người đã cho chúng tôi cơ hội sống tốt đẹp hơn. Nghĩ cũng lạ, nhiều nhà cha mẹ nói tiếng Anh không giỏi lắm, nhưng con cái không biết chút tiếng Việt nào. Một người quen bảo lãnh được cha mẹ sang giúp trông cháu, đứa cháu cần cái ly, nói tiếng Anh ông bà không hiểu, phải gọi điện thoại vào hãng nhờ mẹ thông dịch mới có cái ly uống sữa! Do phải làm việc nhiều, một số gia đình không có giờ dạy dỗ con cái, chúng học theo cái xấu của Tây Mỹ trở nên hư hỏng, vợ chồng bất hòa ly dị…. Được tự do no ấm, nhưng cuộc sống hải ngoại cũng không dễ vì đang có những vấn nạn khác, không có gì là toàn vẹn….

Ngày… Tháng…

Hôm nay đi chợ bất ngờ tôi gặp lại bạn cũ. Tôi không nhận ra nhưng chị gọi tôi. Chị đi với một thanh niên rất cao ráo, thì ra đây là cháu trai hồi đó sinh ra ở đảo – đứa con không mong đợi khi chị bị hải tại cưỡng hiếp trên đường vượt biên. Tôi nhớ ngày ấy chị rất buồn. Không nỡ phá thai, nhưng chị xấu hổ bó bụng lại nên sanh ra cháu èo uột đen đủi, có người bảo cháu giống … con khỉ. Tình mẹ thật nhiệm mầu, dù cháu có nhăn nhó xấu xí chăng nữa chị vẫn chăm sóc, hôn hít yêu thương. Sau khi trò chuyện, tôi biết chị sang Cali, đã lập gia đình với anh D – người cùng thời ở đảo, nhưng anh này lớp khó tính, lớp hay đem chuyện chị bị hãm hiếp ra dày vò mỗi khi nổi giận, nên chị ly dị ở một mình nuôi con. Tôi ủng hộ quyết định của chị, nếu việc bị hải tặc ngày xưa mà cứ đem ra nói đi nói lại thì chẳng khác nào làm chị bị cưỡng hiếp thêm lần nữa. Cháu trai nay sắp tốt nghiệp dược sĩ, rất ngoan và siêng năng. Tôi thật mừng cho chị. Cuộc đời có ai biết ai ngờ, nhiều người tưởng là sẽ thành công nhưng cuối cùng lại thất bại, nhiều người bị thử thách nhưng không ngờ lại có thể vượt qua mà vươn lên. “Con khỉ” ngày xưa bây giờ là một dược sĩ bảnh trai – Hạt giống đau khổ nhưng nẩy mầm trong vùng đất tốt đã trổ sinh hoa trái tươi đẹp. Thật là một phép mầu, mà nếu không ở xứ Tự Do hai ngoai thì phép mầu này khó có thể xảy ra được.

Ngày… Tháng…

Chúng tôi sống một ngày như mọi ngày, trẻ đi học, người lớn đi làm, đi chợ nấu ăn, giặt giũ, cuối tuần thì tới nhà thờ, đi chùa, dự tiệc tùng hoặc các sinh hoạt khác…. Dù bận rộn nhưng cũng vui. Khi kinh tế khó khăn, chúng tôi cũng bị thất nghiệp, phải lo lắng nhưng rồi cũng có việc khác. Một số bạn bè bắt đầu nghề làm móng tay, mở tiệm Nail khấm khá hẳn ra. Nhiều người học cao tạo được danh tiếng trong thương trường, đóng góp đáng kể cho xã hội và được vinh danh tại hải ngoại. Sinh hoạt văn nghệ, truyền hình, sách báo sáng tác cũng rất phong phú. Ngược lại cũng có người buôn lậu, trồng cần sa hoặc trộm cắp, gian lận trợ cấp welfare, medicare làm xấu hổ người Việt, nhưng cũng may số người xấu này không đông. Trên các diễn dàn, thế giới ảo email, facebook lại hay có những bài viết nặc danh chửi bới làm nản lòng mọi người, làm thối chí ai muốn đóng góp cho Tự Do Dân Chủ trên quê hương, nhưng nói chung người tốt và các sinh hoạt ý nghĩa vẫn tiếp tục được thực hiện. Thật an ủi vì đa số ai cũng sẵn lòng góp công góp của làm việc tốt, việc thiện. Truyền thống hào hùng bất khuất, lá lành đùm lá rách vẫn mãi tồn tại và được đề cao tại hải ngoại.

Riêng tại quê nhà, cuộc sống vất vả và cái nghèo luôn hiện hữu. Một số chán nản trước đời sống không lối thoát đầy tệ nạn nên đã tìm quên trong men rượu, thậm chí bài bạc làm xã hội càng thêm xuống dốc. Không có Tự do Dân chủ, sống chung quanh các giả trá dối gian, nhiều người chịu ảnh huởng trở nên xấu thật đáng tiếc. Bất công và ranh giới giàu nghèo ngày càng rõ. Chỉ có giới cán bộ tai to mặt lớn là giàu sụ, còn lại dân nghèo dân oan khắp nơi…. 40 năm thay vì phát triển và là hòn ngọc sáng chói của Viễn Đông, nước tôi trở nên lạc hậu nghèo khổ hơn bao giờ.

Dù sao, tôi cũng xin ghi lại những dòng chữ hôm nay để cảm ơn các vui buồn trong cuộc sống, cảm ơn những thử thách để có thể tôi luyện chính mình. Tôi chân thành ghi nhớ những gương lành, những vị đã kiên trì làm việc tốt cho cộng đồng, cho người khác. Tôi cũng cám ơn cuộc sống tiện nghi, những phương tiện truyền thông tân tiến giúp tin tức, kiến thức mọi người được tốt đẹp. Tạ ơn cuộc sống này dù có nhiều phức tạp âu lo….

Ngày… Tháng…

Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hưởng ứng các sinh hoạt cộng đồng, góp tiếng tranh đấu cho Nhân Quyền, cho các Dân Oan bị áp bức không thể lên tiếng tại Việt Nam. Riêng tôi rất thông cảm cho các nhóm tổ chức. Ai cũng bận rộn khiếm khuyết, thiếu thì giờ, nếu có sai sót cũng rất đáng được bổ sung, cùng góp ý xây dựng sửa đổi, không nên chửi bới mạt sát. Ngày sanh con, đem các cháu đi bác sĩ chích ngừa các loại bệnh thông thường như đậu mùa, phong đòn gánh, tôi đã ước gì có loại thuốc chích ngừa tinh thần, tức là làm sao chủng ngừa cho các con tôi tránh được bệnh ích kỷ, bệnh lười biếng vô cảm cũng như các chứng hư tật xấu để các cháu có thể xây dựng tương lai – không những cho chính mình mà còn sống vì người khác. Bây giờ tôi thấm thía chính tôi cũng cần chích ngừa và tránh những bệnh đó. Chính tôi phải làm gương để các cháu hiểu được thế nào là tình người, là trách nhiệm với tổ quốc. Ai cũng sợ bị đột quỵ, bị stroke bất ngờ nằm bán thân bất toại, nhưng cơn stroke tâm hồn có lẽ còn nguy hiểm hơn nếu không tích cực, không sẵn lòng hy sinh và đoàn kết yêu thương. Tôi cũng đã từng bị đột quỵ tâm hồn, ú ớ không nói được lời động viên, xin lỗi với người chung quanh hoặc nhát sợ không dám lên tiếng cho sự thật, mặc “cha chung không ai khóc”!

Nhìn lại cuộc sống của một người tị nạn tầm thường nhưng đầy may mắn, tôi không biết nói sao để dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, đội ơn tiền nhân và biết ơn đất nước đã cho tôi tạm dung. Được tự do, có việc làm, có rất nhiều quyền mà trong đó quyền căn bản của con người được tôn trọng, được học hỏi nhiều điều hay tại Tây Phương, được đi du lịch đó đây, con cháu có cơ hội học hành thành đạt trong xã hội mới… tôi còn mong muốn gì hơn. Thế nhưng tôi vẫn hay tự hỏi: Bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng, sau mấy mươi năm nhìn lại tôi đã làm được gì cho bản thân, gia đình và việc chung? Tôi phải làm gì để san sẻ sự may mắn của mình cho người khác, đặc biệt cho những đồng bào còn đang chịu áp bức, đau khổ ở quê nhà? Tôi đã quá nửa đời người, khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại tôi nên làm gì, nghĩ gì? Cụ Phan Bội Châu đã viết những câu thơ rất hay và làm tôi suy tư thật nhiều, sống đứng chật trời không ích lợi gì thì sống làm chi?

Vì thế tôi mạnh dạn ghi thêm vài dòng suy tư, để cùng với biết bao người tị nạn khác, gạt nước mắt ly hương mà tôn vinh và tri ân các chiến sĩ, các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho chính nghĩa Tự do và bảo vệ đất nước. Tôi xin góp lời để hiệp thông và ủng hộ các nhà Dân Chủ tại quê hương – những anh hùng anh thư thời đại dám vượt qua sợ hãi tù đày, sợ gia đình bị liên lụy để mang khát vọng yêu chuộng Tự do và Nhân quyền của người dân trong nước để thế giới hiểu được. Tôi cũng nhủ lòng phải cố gắng tích cực hơn, lạc quan hơn và làm việc nhiều hơn, dù chỉ là những việc bé nhỏ nhưng với hết tấm lòng. Tôi tin nếu ai cũng ra sức đóng góp thì chắc chắn việc chung sẽ có kết quả cao.

Vâng, bốn mươi năm mới đó mà đã thoáng qua, biến cố 30 tháng Tư như một cơn sóng thần khủng khiếp đã quét mất nước Việt Nam Cộng Hòa, đã cuốn trôi bao sinh linh, bao đổ vỡ mà hệ lụy vẫn còn kéo dài. Mỗi khi tham dự lễ Chào Cờ với phút mặc niệm, liệu một phút ngắn ngủi ấy có đủ cho mình nhớ thương và vững lòng với trách nhiệm hay không? Câu hát hùng tráng trong bài Quốc Ca Việt Nam: “Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống”, tôi đã đồng lòng đoàn kết và đã hy sinh được bao nhiêu? Thật là tủi hổ vì câu trả lời của tôi hầu như là zero – dù tôi cũng có một chút lòng thành. Có lẽ tôi sẽ vẫn mãi hoài yếu đuối, ngại khó không làm được gì – dù tôi cũng thiết tha chờ đợi một ngày quê hương vinh sáng.

Người Do Thái sau bao năm lưu đày đã quyết tâm trở về, và họ đã làm được. Không biết tới ngày nào tôi mới có thể bắt đầu trang nhật ký mới bằng câu: Hôm nay chúng tôi vinh quang trở về xây dựng quê hương, vì gông cùm cộng sản không còn – Ngày ấy chắc tôi sẽ cảm động rơi nước mắt. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện và hi vọng. Xin chắp tay dâng một lời kinh tự đáy lòng để tình người được triển nở và đất nước, con người Việt Nam sẽ sớm bước sang chặng đường mới sáng tươi…

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Lễ Tạ Ơn: Chiếc Kính Gãy

Lễ Tạ Ơn: Chiếc Kính Gãy – VVNM 2016 – Việt Báo Online
Tác giả: Phan
Bài số 4972-18-30672-v7111916

Nhân mùa Lễ Tạ Ơn bắt đầu, mời tiếp tục đọc về Tháng Mười Một, bài thứ 3 của Phan. Chiếc Kính Gãy là chuyện trên đất Mỹ. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông cũng là tác giả Viết Về Về Nước Mỹ đầu tiên có bài đạt số lượng trên một triệu người đọc và đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016.
* * *

kinh-gay-gong

Kính gãy (gọng).

Mùa Lễ đã về, lễ Tạ ơn đến gần từng ngày với những sớm mai thức dậy trong hơi thu lành lạnh, những chiều về bát ngát trời thu trên những cánh đồng…Tôi nhớ lắm những người quen kẻ còn người mất, thương đám trẻ trong nhà không còn háo hức đợi quà mà chúng đang tất bật đời sống của những người đã trưởng thành, những người cố nhín chút thời gian đi mua quà cho người thân của chúng khi ngày lễ Tạ ơn đã cận kề.

Tôi còn nhớ lễ Tạ ơn đầu tiên năm tôi đến Mỹ. Tôi nghĩ riêng trong lòng, xứ giàu người ta bày vẽ quá, lễ này lễ nọ để bán thiệp, bán quà… những hình thức thương mại thật đa dạng, phong phú ở xứ tư bản. Nhưng chỉ lễ Tạ ơn năm sau tôi đã nhìn ra, làm thương mại ở xứ giàu dù sao cũng còn nhân đạo hơn làm thương mại ở xứ nghèo là chế tạo ra đồ giả, thuốc tây giả, hàng nhái…bất chấp an toàn thực phẩm và sức khoẻ của người khác.

Những suy nghĩ bước đầu hội nhập ấy tôi nhớ rõ vì đó là những suy nghĩ đầu tiên về lễ Tạ ơn trên mảnh đất dung thân mà mình vừa tới được. Những ý nghĩ cụ thể hơn khi ấy chỉ là một ngày nghỉ được trả lương, và một buổi tối ăn uống với gia đình.

Nhưng hội nhập sâu hơn vào đời sống Mỹ tôi mới hiểu thêm được ý nghĩa của ngày lễ Tạ ơn. Tại sao hàng năm lễ Tạ ơn lại được xem như quốc lễ; tại sao muôn người đều hoan hỷ đón mừng lễ Tạ ơn… Bởi ngoài lịch sử của lễ Tạ ơn đầu tiên trên nước Mỹ đã quá đẹp, và ngày lễ này ngày càng đẹp đẽ hơn với thêm nhiều ý nghĩa về tình người, nhân bản, từ bi… mà tôi đã may mắn được làm người chứng.

Sau lần nước Mỹ bị khủng bố, tôi bị mất việc. Hàng tuần lãnh tiền thất nghiệp đã tới những tuần cuối rồi cũng chưa tìm được việc làm khác vì kinh tế Mỹ lúc ấy tuột dốc nên việc làm ít. Tôi nghe lời người bạn cùng mất việc với tôi, và theo anh ta đi làm công việc dễ nhất trong thành phố là đi giao pizza tận nhà cho khách hàng đặt hàng (order) qua điện thoại.

Ôi, bao nhiêu tự ái, tủi thân cứ nhỏ lệ âm thầm mỗi tối khi ngồi đếm những đổng tiền tip trong ngày có được để sinh tồn. Nhưng cũng bao nhiêu tự ái, tủi thân ấy chấp cánh bay đi vào một lễ Tạ ơn để tôi an nhiên sống, thậm chí thích nghề giao pizza tận nhà từ món quà của thượng đế ban cho.

Hôm đó gần lễ Tạ ơn, trời đổ nước đá bào chứ không phải tuyết, những hạt mưa đá nhỏ tí teo tung tăng trên đường theo gió. Tôi trợt chân trước cửa nhà một khách hàng, không bị thương nhưng gãy mất cái kính.

Bà chủ nhà là một bà cụ Mỹ trắng rất phúc hậu. Bà lo lắng và thương cảm cho tôi đến cảm động. Tôi đã ngồi xuống sofa nhà bà, uống tách trà nóng do bà mời. Tôi đã làm một việc sai trái với nội quy cho người đi giao pizza là không được phép làm như thế, không được bước vào trong cánh cửa nhà của khách hàng. Nhưng trước thịnh tình của người bản xứ thì phải biết xử sự sao cho ra một người Việt Nam?

Tôi quên hết nỗi lo sợ có thể mất việc nếu ông quản lý ở tiệm pizza biết được. Tôi cảm ơn bà cụ đã vỗ về tự ti mặc cảm trong lòng tôi vào một đêm đông. Tôi chỉ cái bảng tên đường gắn trên khung cửa cách biệt phòng khách với nhà sau trong nhà bà. Tôi hỏi: “Bà thích Elvis Presley lắm hả?” Vì tôi thấy trên khung cửa ấy là tấm bảng màu xanh lá cây, chữ trắng, và ghi là “Elvis Presley. Blvd”

Bà cụ như trẻ lại tới thời bà còn con gái, bà huyên thuyên kể về kỷ niệm. Tôi chỉ hiểu được đó là món quà của người bạn trai đầu tiên đã tặng bà khi hai người đi xem buổi ca nhạc của Elvis Presley. Đó là lúc ông cụ đã đói bụng nên mò từ trên lầu xuống, hỏi: “Pizza tới chưa?”

Mọi chuyện cứ diễn ra như theo ý Chúa. Sáng hôm sau tôi đi làm. Nhà tôi nhờ đem trả đồ mà má xấp nhỏ đã mua ở Trung tâm thương mại Collin Creek mà người Việt quen gọi là Collin Creek Mall. Sao tôi lại thấy một khách hàng khác cũng đi trả đồ như tôi. Cô ta trả lại hai cái đồng hồ treo tường be bé, xinh xinh, trên mặt đồng hồ có in hình Elvis mờ mờ, có cả chữ ký của Elvis nữa.

Tôi đợi cô trả xong thì xin mua. Cả hai cái đồng hồ có sáu mươi đô la, vị chi có ba mươi đồng một cái. Tôi cần một cái để thay cái đồng hồ Toyota ở nhà, hồi mua xe người ta cho quà. Nhưng nó đã rơi và vỡ kính. Tôi nghĩ đến bà cụ nên mua hai để tặng bà một. Tôi nghĩ thầm, chắc bà cụ vui lắm vì cái đồng hồ này độc đáo là mỗi giờ Elvis lại hát một câu trong những bản nhạc ngày xưa ông hát. Món quà tặng này biết đâu có thể làm bà cụ mỗi giờ mỗi trẻ lại khi hoài niệm và yêu mến Elvis Presley.

Đâu ngờ ý Chúa đã an bày, tới hôm lễ Tạ ơn năm ấy. Tôi không có cơ hội đi giao pizza đến nhà bà nên đợi hết giờ làm thì lái xe đến nhà bà. Bấm chuông để tặng bà cái đồng hồ. Bà vui đến ứa nước mắt với một người Việt nam vô danh, tôi thì khóc được với một người bản xứ đã tặng tôi cái kính mới vào lễ Tạ ơn năm ấy. Bà nói với tôi, “Cái kính gãy của anh đã rơi khỏi túi áo lạnh của anh nửa cái. Sáng hôm sau tôi thấy trên sofa, nên tôi đi đặt làm cái kính mới cho anh, theo độ của cái kính gãy. Anh thử lại xem có vừa mắt không…?”

Chúng tôi thành bạn vong niên với nhau cho tới lúc bà mất. Tôi thành bạn nhậu của ông nhà sau khi bà mất đến lúc ông phải vô viện dưỡng lão…

Từ đó tôi cảm nhận về ngày lễ Tạ ơn qua lăng kính mới. Nếu cứ nhìn cuộc sống qua bảng giá, cộng thuế ở Mỹ này thì cuộc đời khô xảm lắm! Mỗi người chỉ còn là cái máy in tiền để đi mua và trả thuế. Tôi hiểu thêm ý nghĩa của lễ Tạ ơn là sự cho đi và nhận lại; dù chỉ một câu chúc mừng nhau, món quà mọn, nhưng làm ấm lòng nhau cho cuộc sống thăng hoa tới người người cảm nhận được hạnh phúc quanh mình. Nên tôi hiểu được một người bạn đã trò chuyện với tôi trước lễ Tạ ơn gần đây, cô ấy nói, “Ngày xưa em cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày quy y, em không ăn thịt gà nữa. Cứ lễ giết gà về là em ráng làm những việc tốt, lớn nhỏ gì cũng hồi hướng công đức cho tất cả những con gà sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn…”

Có phải lễ Tạ ơn đã cứu rỗi một người, rồi ý nghĩa ngày lễ thấm sâu thêm vào lòng người để mỗi người hướng thiện theo cách riêng? Để mỗi năm lễ Tạ ơn về, ai cũng ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những bữa ăn miễn phí tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những người không nhà. Ai từng đến với những bữa ăn này, thường sang năm lại đến vì thôi thúc của lòng từ bi đã thức dậy trong tâm khi nhìn những người nghèo đứng xếp hàng trong gió lạnh để nhận một phần ăn từ những người thiệm tâm. Ai có thể đứng ngoài tình người dửng dưng cho được. Phải đứng về một phía, nếu ta không là người cho thì ta sẽ là người nhận. Chẳng ai đứng ngoài xã hội mình đang sống được cả.

Với lễ về năm nay, tôi vừa gãy cái kính do bất cẩn. Ta thán với người bạn xa,“sao tôi xui dữ vầy nè?” Bạn tôi gợi ý, đi tìm cái kính cũ xài đỡ đi, rồi tính sau. Tôi chỉ tìm ra cái kính của bà cụ năm xưa cho, cũng đã gãy… Tôi hỏi tại sao những người cho không cung cấp đủ kính cho tôi dùng – là ý nghĩ trong mùa Tạ ơn này! Nhưng nhờ không có kính nên tôi chẳng nhìn xa được nên nhìn vào lòng mình là khỏi cần kính. Tôi thấy rõ ra mình cứ đứng mãi bên phía người nhận nên bên cho hụt người! Tôi gọi cô bạn đã quy y, “Cho anh đóng góp chút đỉnh vô bữa ăn cho người không nhà mà nhóm con lai của các em tổ chức. Nếu hôm đó anh có thời gian thì anh sẽ góp một bàn tay với anh chị em…”

Một trong những ý nghĩa của lễ Tạ ơn là sự cho và nhận. Ở đâu cũng nhiều người rộng lòng nên ở đâu cũng có rất nhiều người đang cần những tấm lòng nhân ái của mọi người. Nếu Tạ ơn chỉ gói ghém với những người mà ta từng thọ ơn thì danh sách những người ta phải mang ơn, đền ơn sẽ dài hơn trí nhớ chúng ta nhiều bởi không ai tồn tại trên đời mà không từng mang ơn người khác. Chúng ta được sinh ra làm người, đã là một ân sủng của Tạo hoá. Tôi không biết xuất thân của ai, nhưng bản thân thì tôi rõ. Từ đứa bé đủ cơm no áo ấm, mỗi ngày đến trường. Rồi lớn lên trong mù mịt tương lai vì lịch sử sang trang. Rồi vượt thoát đến miền đất hứa, trải qua bao nhiêu hoàn cảnh khi hưng lúc khó… Tôi không thể một mình vượt qua tất cả để tồn tại đến bây giờ mà ơn thọ từ cái kính của người bản xứ đã tặng tôi, làm thay đổi cái nhìn của một người di dân theo hướng thiện tâm và tích cực hơn…

Mùa Tạ ơn về, lễ Tạ ơn cận kề với bao tấp nập ngoài phố thị, trên môi cười trẻ nhỏ, lo toan trong ánh mắt những người lớn còn khó khăn… Tôi đã đủ cơm ăn áo mặc, một việc làm ổn định, một chỗ ở không phải sợ nắng mưa. Tôi Tạ ơn xứ sở này đã cho tôi biết bao nuôi dưỡng và dung thứ để tôi có hiện tại. Tạ ơn quê nhà đã đón nhận tôi từ một sinh linh bé bỏng, cho tôi thật nhiều kỷ niệm tuổi thơ, cả nỗi nhớ thương quê dạt dào trong lòng người viễn xứ khi lễ Tạ ơn về.

Tạ ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục. Tạ ơn thầy cô đã dạy dỗ cho tôi từ vỡ lòng tới khai trí. Tạ ơn anh chị em trong nhà đã chia cay xẻ đắng với nhau khi vận nước đổi thay, cha tù mẹ bệnh… Tạ ơn bạn bè đã lắng nghe và chia sẻ cùng tôi. Tạ ơn em mùa về khơi gợi biết bao nỗi niềm. Tạ ơn cả lời thơ dòng nhạc đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi theo năm tháng…

Tạ ơn đời khoan thứ bao dung…

Thanksgiving 2016

Phan

From: nguyenkimchuc & Anh chi Th ụ  Mai gởi

3 câu chuyện khiến bạn phải xem tới 3 lần và trầm ngâm tới 3 tiếng…

3 câu chuyện khiến bạn phải xem tới 3 lần và trầm ngâm tới 3 tiếng…

Trong việc đối nhân xử thế, chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe, nên cho người khác có cơ hội để giải thích. Có như vậy, mới giúp chúng ta tránh được nhiều điều khiến ta phải hối tiếc sau này.

1. Sự khoan dung.

Câu chuyện kể về một người lính Mỹ, cuối cùng đã được trở về nhà sau trận chiến đấu vô cùng ác liệt ở Việt Nam…
Từ San Francisco, anh gọi điện cho cha mẹ mình: “Ba mẹ ơi, con đã trở về nhà này, nhưng con có một chuyện muốn nhờ ba mẹ. Con có một người bạn, con muốn đưa anh ấy về nhà cùng con”. “Chắc chắn rồi, con trai yêu quý“, cha mẹ anh vui vẻ trả lời: “Ba mẹ rất muốn gặp bạn con”.
“Nhưng có một điều con muốn nói trước với ba mẹ”, chàng trai tiếp tục, “anh bạn con đã bị thương khá nặng trong chiến tranh. Anh ấy đã hơi bị đãng trí và còn bị mất một cánh tay và một chân. Anh ấy không có nơi nào để về, và con muốn anh ấy đến sống với chúng ta…”
“Ồ, ba mẹ xin lỗi con, con trai… Nhưng có lẽ chúng ta có thể giúp anh ấy tìm một nơi nào khác để sống…”
“Không, ba mẹ ơi, con muốn anh ấy tới sống với chúng ta”.
“Con à“, người cha nói, “con có biết con đang yêu cầu cha mẹ điều gì không? Một người tàn tật đến như vậy sẽ là một gánh nặng khủng khiếp cho ba mẹ. Ba mẹ còn có cuộc sống riêng của mình chứ, ba mẹ không thể để một điều như vậy làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng. Ba nghĩ rằng con hãy về nhà đi và quên anh bạn đó của con đi. Anh ấy rồi sẽ tìm được cách lo liệu cho cuộc sống của mình thôi…”
Lúc đó, người con trai gác điện thoại. Cha mẹ anh không còn nghe thấy điều gì từ đầu dây bên kia nữa. Song, một vài ngày sau đó, họ đột nhiên nhận được một cú điện thoại từ đồn cảnh sát San Francisco. Con trai của họ đã qua đời sau khi ngã từ trên một tòa nhà xuống, cảnh sát đã thông báo như vậy cho họ. Cảnh sát San Francisco nhận định rằng đó là một vụ tự sát.

Cha mẹ người lính, trong đau đớn tột cùng, đã vội vã bay tới San Francisco và được đưa tới nhà xác thành phố để nhận diện thi thể của con trai. Họ nhận ra anh, người con trai yêu quý của mình. Nhưng đột nhiên họ khiếp hãi không thốt nên lời khi nhìn thấy một điều mà trước đó họ không hề hay biết, đó là con trai của họ chỉ còn một cánh tay và một chân.
Những giọt nước mắt ân hận rơi xuống, nhưng tất cả đã quá muộn màng.

Cảm ngộ: Đừng bao giờ đối xử phân biệt với người khác, bạn sẽ không biết được người thực sự bị gây tổn thương là ai? Hãy bao dung rộng lượng với mọi người và tự nghiêm khắc với bản thân mình! Nếu mỗi người chúng ta đều có thể dành sự bao dung và nhân ái cho những người lạ như cho chính người thân của mình, thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao.
Bởi vì với sự từ bi, bao dung chúng ta sẽ đủ sức mài mòn bất kỳ hòn đá vô tri vô giác nào để trở thành một viên ngọc lung linh tỏa sáng, đủ sức biến điều khó khăn trở nên dễ dàng, đủ sức biến một người tầm thường hay tàn khuyết thành một vĩ nhân.  Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

2. Sự hiểu lầm:

Tại Alaska có một cặp vợ chồng trẻ mới kết hôn. Đến thời kỳ người vợ sinh nở nhưng do sinh khó nên đã qua đời để lại đứa con.

Người cha vì mải cuộc sống bận rộn, nên con không có ai chăm sóc. Vì vậy người cha đã đào tạo một con chó. Con chó này rất thông minh và biết nghe lời, có thể chăm sóc em bé được. Nó còn mang được bình sữa mang đến cho em bé uống.

Một hôm người cha để con chó ở nhà trông chừng đứa bé, khi ông trở về nhà bỗng thấy khắp miệng con chó toàn là máu, nguyên nhân là vì……
Người đàn ông ra ngoài có việc, để con chó ở nhà trông đứa bé. Khi ông trở về, nhìn thấy khắp sàn nhà toàn là máu, nhưng lại không thấy đứa bé đâu cả. Còn con chó thì vừa liếm máu tươi ở khóe miệng, vừa vẫy vẫy cái đuôi vui vẻ nhìn ông.

Người đàn ông nổi giận, liền rút con dao đâm mạnh vào bụng con chó. Con chó kêu thảm một tiếng, làm cho đứa trẻ đang ngủ say dưới tấm thảm loang lổ vết máu giật mình tỉnh dậy. Lúc này, người đàn ông kia mới phát hiện xác chết của một con cho sói đang nằm bên cạnh góc tường.

Cảm ngộ: Có rất nhiều sự việc mà bạn nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai, nhưng nó chưa chắc đã đúng như những gì bạn nghĩ.
Trong việc đối nhân xử thế, chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe, nên cho người khác có cơ hội để giải thích. Có như vậy, mới giúp chúng ta tránh được nhiều điều khiến ta phải hối tiếc sau này.
Ngược lại nếu chúng ta không hỏi, không nói, không giải thích mà đã vội vã hành động hay phán xét thì đây không phải là thể hiện sự mạnh mẽ, cá tính mà nó chính là sự bất công, không có trách nhiệm với chính mình và những người khác.

3. Sự nóng giận

Một cậu bé có tính xấu rất hay nổi nóng. Một hôm cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh và nói với cậu bé rằng mỗi khi cậu nổi nóng thì hãy chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ.
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần cậu bé đã tập kiềm chế cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào mỗi ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình thì dễ hơn là phải đóng cây đinh lên hàng rào.

Một ngày kia, cậu đã không nổi giận một lần nào suốt cả ngày. Cậu nói với cha và ông bảo cậu hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào mỗi một ngày mà cậu không hề nổi giận với ai dù chỉ một lần.

Đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một bữa cậu bé tìm cha mình báo rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu đã cùng cậu đến bên hàng rào. Ở đó ông nói với cậu rằng:

“Con đã làm rất tốt, nhưng hãy nhìn những lỗ đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không thể giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói đó cũng giống như những lỗ đinh này, để lại những vết sẹo trong lòng người khác. Dù sau đó con có nói xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như những vết thương thể xác vậy. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con trong mọi chuyện. Họ nghe con nói khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng mình cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…”

Cảm ngộ: Con người khi cáu giận thường trút giận dữ lên những người thân yêu ở quanh mình, bởi vì họ biết những người thân yêu của chúng ta sẽ luôn bao dung và tha thứ cho chúng ta. Nhưng những lời nói khi tức giận luôn giống như những chiếc đinh làm tổn thương người khác. Có thể bạn chỉ là vag lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Không Qúa Muộn Ðể Nên Thánh

Không Qúa Muộn Ðể Nên Thánh

Người Nhựt Bản có kể một câu chuyện như sau:

Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ.

Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.

Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.

Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:

“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi”.

Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.

Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.

Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.

Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:

“Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?”

Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói:” Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ”. Nét đẹp quí phái nhất nơi lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình ảnh của sự phục thiện mà Thiên Chúa vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.

Nhưng bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được. Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

ty-phu

Sau bao năm miệt mài theo đuổi ước vọng giàu sang nhưng rồi tỷ phú Vương Quân Dao cũng phải đối diện với cái chết khi tuổi đời còn quá trẻ. Những lời ông nói trên giường bệnh khiến nhiều người không khỏi giật mình.

Trong sự nghiệp kinh doanh, tôi đánh trận nào thắng trận đó. Trong con mắt người khác, tôi là một doanh nhân thành đạt điển hình. Nhưng niềm vui tôi có được ngoài công việc cũng không nhiều. Thói quen hưởng thụ vật chất dư thừa của cuộc sống giàu sang khiến cơ thể tôi phát phì.

Giờ đây, khi mắc bệnh phải nằm viện, tôi mới có thời gian suy nghĩ lại cuộc sống trước đây. Bao nhiêu sự đắc ý, bao nhiêu công danh lợi lộc đối với một người sắp chết, chúng không còn sức hút nữa, không có chút ý nghĩa nào nữa.

Trong bóng tối, tôi đã nhiều lần tự hỏi chính mình. Nếu như có thể làm lại cuộc đời, điều tôi muốn làm nhất là gì? Liệu có thể xem nhẹ tiền tài và danh vọng? Có thể làm được vậy không?

Trong bóng đêm, tôi thấy những thiết bị y tế phóng ra những ánh sáng đủ màu sắc và những tiếng gọi của tử thần.

Hiện tại, tôi hiểu được rằng, khi còn sống, con người nên biết đủ tiền tài, dành thời gian nhiều hơn để theo đuổi niềm đam mê khác như tình yêu thương, nghệ thuật, hoặc chỉ để có một thân hình đẹp.

Theo đuổi tiền tài chỉ làm con người tham lam hơn và sống nhạt nhẽo. Biến con người thành những hình hài kỳ quái giống như tôi hiện tại.

Lúc Thượng Đế tạo ra con người với đầy đủ giác quan, là muốn con người cảm thụ vạn vật bằng tất cả con tim, không phải niềm vui mang đến từ tiền bạc.

Tôi đã kiếm được rất nhiều tiền khi còn khỏe mạnh, nhưng khi chết, tôi lại không mang theo được thứ gì. Tình thương yêu không có quan hệ đến vật chất, chúng không phai mờ và mất đi, có được nó mới là thật sự đạt được giàu sang. Tình thương sẽ đi theo, luôn bên cạnh, tiếp thêm động lực và tạo ra ánh sáng soi đường cho mỗi bước đi đúng đắn. Còn tiền bạc sẽ không đi theo con người ta mãi mãi.

Tiền bạc đủ dùng cho chi tiêu sinh hoạt cơ bản, phần còn thừa nên để nó phục vụ lý tưởng, phục vụ tinh thần và phục vụ xã hội.

Tình yêu thương sẽ đưa chúng ta đi xa ngàn dặm. Dù đi bao xa, trèo lên bao cao, nó đều nằm trong trái tim của mỗi người. Ai cũng nắm trong tay tình yêu và thế giới này đều nằm trong đó.

Chiếc giường nào đắt tiền nhất trên thế giới? Đó chính là giường bệnh.

Trên chặng đường đi của đời người, chúng ta có thể có người lái xe thay, có thể giúp kiếm tiền nhưng không có ai mang bệnh hộ chúng ta được. Đồ vật mất đi có thể tìm trở lại, nhưng có một thứ mất đi không bao giờ tìm trở lại được, đó là sinh mệnh.

Vương Quân Dao sinh năm 1966 vì mải mê theo đuổi ước vọng giàu sang để thực hiện giá trị nhân sinh của đời người, anh đã làm việc rất chăm chỉ. Vì mắc phải bệnh ung thư và làm việc quá sức, anh đã từ biệt cõi đời khi mới 38 tuổi.

Bác sỹ đòi rút ống thở của con trai, ông bố trả lời bằng hành động cực sốc:

Câu chuyện của anh khiến tôi nhớ đến lời trăn trối cuối cùng của một vị vua vĩ đại, Alexander. Trước khi chết ông đã để lại 3 điều ước:

“Điều ước đầu tiên, hãy bảo thầy thuốc mang quan tài của ta về một mình.”

“Ước nguyện thứ hai, hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho trên suốt dọc đường đến mộ ta khi các ngươi mang quan tài ra nghĩa địa.”

“Ước muốn cuối cùng, hãy đặt hai bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài.”

Rồi vua Alexander giải thích: “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã nhận ra. Để người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình: bởi một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng phải trân quý cuộc sống của chính mình.

Mong ước thứ hai của ta là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên theo đuổi mộng giàu sang. Ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu sang, nhưng ta đã lãng phí hầu hết thời gian của đời người.

Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng.”

Nói xong những lời này, vua Alexander đã nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.

Công danh lợi lộc chẳng dài lâu, đời người chỉ thoáng qua như mây khói. Vì vậy, hãy tận dụng những năm tháng đời người ngắn ngủi để sống sao cho có ý nghĩa, sống sao cho có ích, đừng để đến khi sắp cận kề cái chết, mới nhận ra ý nghĩa của đời người.

San San

Thiên thần phải bật khóc vì lòng đố kỵ của con người…

Thiên thần phải bật khóc vì lòng đố kỵ của con người…

Có một câu chuyện kể rằng, một ngày nọ có một thiên sứ đến nhà của một đôi vợ chồng ở một nông trang, thiên sứ nói với họ rằng: “Do các con sống hiền lành lương thiện, ta quyết định cho các con 3 điều ước, nhưng có một điều kiện là: Cho dù các con có ước điều gì đi chăng nữa, thì hàng xóm của các con cũng sẽ nhận được gấp đôi”.

thien-than

Người vợ nghe thấy thế vui quá bèn nói: “Hãy cho con một núi thóc, để năm nay chúng con sẽ không phải làm ruộng nữa!”. Sáng ngày hôm sau, quả nhiên trước nhà xuất hiện một ngọn núi bằng thóc, người chồng rất vui mừng, nhưng nghĩ một lát thấy kho thóc nhà mình sẽ không đủ để cất giữ, liền chuẩn bị vào thị trấn mua gỗ về dựng kho thóc lớn hơn.

Người chồng vừa đi đến nửa đường thì gặp người hàng xóm, hỏi ra thì biết rằng người hàng xóm cũng đi mua gỗ về để dựng kho chứa thóc. Người hàng xóm phấn khích nói: “Hôm nay trước cửa nhà tôi đột nhiên xuất hiện 2 ngọn núi bằng thóc, năm nay và cả năm sau tôi sẽ không phải làm ruộng nữa!”. Ông chồng nghe xong lập tức tâm ghen tị liền nổi lên, chỉ mong sao người hàng xóm biến đi cho khuất mắt.

Một tuần sau, thiên sứ lại đến, hai vợ chồng lại ước điều ước thứ 2, họ nói với thiên sứ rằng:“Chúng con không có con, chỉ ước sao có một đứa con xinh xắn đáng yêu”. Mười tháng sau, hai vợ chồng quả nhiên sinh hạ một em bé, đang chuẩn bị đi thông báo cho người thân và bạn bè tin tốt lành này, ai ngờ vẫn chưa kịp bước ra khỏi cửa, người hàng xóm đã mang trứng gà đỏ vào nhà, rất phấn khích nói: “Vợ tôi sinh rồi, quả thật không ngờ được vợ chồng tôi vẫn có thể có con, thậm chí còn sinh đôi nữa”.

Hai vợ chồng nghe thấy thế không vui cho lắm, nhìn trứng gà đỏ hàng xóm mang đến mà nuốt không trôi. Tối hôm đó thiên sứ lại đến, và bảo họ hãy ước điều ước thứ 3, ông chồng phẫn nộ nói: “Tôi yêu cầu chặt đi một cánh tay của tôi!”. Thiên sứ nghe thấy thế rất kinh ngạc, ông chồng lại nói: “Tôi muốn để cho tên hàng xóm dương dương tự đắc kia mất hết cả hai tay, cả đời sẽ không làm gì được nữa.”

Người chồng quỳ xuống đất, đợi cho cánh tay của mình rơi xuống, nhưng mãi không thấy phản ứng gì, liền ngẩng đầu lên, nhìn thấy thiên sứ nước mắt chảy dài, rồi nói: “Yêu cầu của ngươi ta không thể thực hiện nổi, tại vì ta yêu tất cả mọi người trên thế gian này. Ngươi thật là ngốc nghếch, sao ngươi lại muốn hại người khác, và khiến cho bản thân cũng bị đau khổ, đồng thời cũng khiến Thần cảm thấy thương tâm?”

Những người bạn yêu quý, trong hoàn cảnh công tác hay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, có phải chúng ta cũng thường vô ý mà đố kỵ những người “hàng xóm” may mắn hơn chúng ta không?

Đố kỵ cũng như một con dao, bạn tưởng rằng bạn đã đâm nó lên thân của kẻ khác, kỳ thực bạn đã đâm nó vào chính trái tim mình.

Theo Secretchina