Người Thua Cuộc Hay Bản Lãnh Một Người Đàn Bà…

 

BẠN SẼ XỬ SỰ RA SAO, NẾU LÀ BẠN?

******

Người Thua Cuộc Hay Bản Lãnh Một Người Đàn Bà…

Một năm trước, tôi và Kiệt làm chung hãng. Tuy biết nhau qua nhiều lần gặp gỡ trong những giờ cơm trưa nhưng chưa có dịp để trò chuyện.

Một hôm, thấy Kiệt ngồi ăn trưa với gói xôi, hơi ngạc nhiên tôi hỏi:

– Bà xã đâu mà phải ăn xôi thay cơm vậy anh Kiệt?

Kiệt cười:

– Bả về Việt Nam rồi, phải chay tịnh kiểu này tới hai tháng lận, cô ơi!

Ngày hôm sau, khi chuẩn bị thức ăn trưa, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ mang thêm một phần cơm cho Kiệt. Không chút khách sáo, Kiệt vui vẻ nhận lấy với lời cám ơn nồng nhiệt. Vậy là từ đó, chúng tôi có những bữa cơm trưa thân mật. Một vài tiếng xầm xì bắt đầu nổi lên, nhưng tôi lờ đi như không biết gì. Kiệt là một người thật thà, dễ tính, nên anh cũng chẳng quan tâm đến lời gièm pha của thiên hạ. Anh bảo tôi:

– Ai nói gì thì nói, mình không có thì thôi.

Tôi nhìn Kiệt đẩy đưa:

– Mà nếu có gì thì “đây” cũng chẳng ngán ai.

Kiệt cười phá lên một cách vô tư. Nụ cười thoải mái nhưng đầy hấp lực của Kiệt, làm khơi dậy trong tôi một ý tưởng táo bạo “hai tháng cũng đủ cho một cuộc tình manh nha”.

Tôi vốn là người đàn bà bất cần đời sau hai lần dang dở. Tôi đủ khôn ngoan để không “mắc cạn” như thuở đôi mươi. Và tôi cũng muốn thử sức chinh phục của mình với độ tuổi bốn mươi. Vì thế, tôi bắt đầu tấn công Kiệt. Một cuối tuần tôi hỏi Kiệt:

-Ði biển chơi không?

Kiệt trầm ngâm do dự. Tôi gõ nhẹ vào tay anh:

-Coi vậy… anh cũng thuộc loại “thờ bà” há? Vợ vắng nhà mà cũng giữ kỷ luật nghiêm minh. Phục anh thiệt!

Kiệt nhướng mày, bặm môi với tôi:

– Ðừng có xuyên tạc. Tôi đang nghĩ xem có bận gì không?

Tôi cười nắc nẻ:

– Xin lỗi, tôi đánh giá anh quá thấp… Anh Kiệt chứ đâu phải đồ bỏ.

Kiệt đứng lên, nói vài câu đùa cợt trước khi bỏ đi, nhưng không đá động gì đến lời đề nghị của tôi.

Quyết không chịu thua, tôi nghĩ đến việc mời Kiệt đến nhà, dự sinh nhật của tôi. Buổi tối sinh nhật, khi bước vào nhà chẳng thấy một người khách nào, Kiệt có vẻ bối rối. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Lâu lắm rồi tôi không tổ chức sinh nhật. Hôm nay, bỗng nhiên thấy hứng thú nên muốn mời bạn bè đến chung vui, nhưng vì bất ngờ quá, nên không ai sắp xếp để đến dự được, may còn có anh, để tôi cảm thấy ngày sinh nhật của mình ấm áp đôi chút.

Kiệt ngồi vào bàn với nụ cười quen thuộc. Bữa tiệc trong một khung cảnh lãng mạn với nến hồng, hoa tươi, với tiếng nhạc dìu dặt và rượu nồng, đã làm Kiệt quên giữ gìn ý tứ mà thường ngày anh vẫn có. Tôi cố ý. Kiệt vô tình. Vậy là anh lọt vào cái bẫy êm ái của tôi.

Buổi sáng, khi mở mắt dậy và nhận biết mình đang nằm trên giường của tôi, mặt Kiệt tái xanh. Cái vẻ lúng túng ngượng ngập như con trai vừa mới lớn của Kiệt làm tôi phì cười:

– Anh hối hận à?

Kiệt ấp úng:

– Tôi … tôi…

Thương hại Kiệt, nên tôi níu tay anh trấn tĩnh:

– Có gì đâu … Tôi và anh, không ai dụ dỗ ai hết, mình đồng ý cuộc chơi này mà.

Kiệt nhìn tôi bằng cái nhìn kinh ngạc. Nét hiền lành và thật thà trên khuôn mặt bảnh trai của Kiệt làm tôi xao động. Dù sao, Kiệt cũng là một người đàn ông, khi tôi đã quyết chí quăng mẻ lưới tình, thì làm sao anh có thể thoát được. Thế là tôi và Kiệt trở thành đôi tình nhân.

Thời gian vợ Kiệt vắng nhà quả là thời gian trăng mật tuyệt vời của chúng tôi. Với những kinh nghiệm trên tình trường của một người đàn bà “dám chơi, dám chịu” như tôi, Kiệt chỉ có nước xuôi tay, dấn thân vào cuộc chơi mà không cần biết đến hậu quả.

Rồi cũng đến ngày vợ Kiệt trở về, anh như ngồi trên lò lửa vì không biết phải làm thế nào để chuyện “lăng nhăng” của anh đừng đến tai vợ và làm thế nào để anh có thể đến với tôi thường xuyên.

Tôi hỏi Kiệt:

– Em muốn hỏi, anh yêu em thật sự hay chỉ vì một lý do nào khác?

Kiệt cầm tay tôi, hôn nhẹ:

– Anh không biết nói những câu văn hoa, bóng bẩy, nhưng anh biết rằng anh không thể nào xa em và quên em được.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, tôi nhận rõ được những cảm tình tha thiết mà tôi đã dành cho Kiệt, nên quyết định phải làm những việc tôi nên làm, để giành lấy tình yêu này.

*****

Tôi gửi vợ Kiệt tấm ảnh tôi và Kiệt chụp chung trên bãi biển. Tôi tin chắc rằng, không một người vợ nào có thể ngăn được sự ghen hờn, tức giận, khi nhìn thấy chứng tích ngoại tình của chồng mình. Vợ Kiệt sẽ giày xéo, đay nghiến, hành hạ anh cho thỏa cơn tức giận. Có thể, bà sẽ tìm đến tôi để đánh ghen, để chửi bới. Có hình ảnh nào thê thảm, xấu xí hơn hình ảnh người đàn bà đỏ mặt, tía tai, la hét, khóc lóc trong cơn ghen tuông lồng lộn. ..

Còn tôi. Tôi sẽ kiêu sa, quyến rũ trong căn phòng xinh xắn, ấm cúng của tôi để chờ đợi Kiệt đến tạm trú trong cơn hoạn nạn. Tôi sẽ ngọt ngào an ủi, chiều chuộng Kiệt hết lòng.

Và ai… Ai sẽ là người thắng thế?

Tôi nghe lòng rộn rã với niềm mơ ước sắp thành tựu.

Mấy ngày sau, Kiệt hớt hải tìm tôi. Anh ôm đầu khổ sở:

– Không biết ai cho tin mà vợ anh có vẻ nghi ngờ!

Tôi thăm dò:

– Bà ấy có gặng hỏi, có đưa ra bằng chứng gì không?

– Không… nhưng anh biết, vợ anh là người rất bản lãnh.

Tôi cười mỉa mai:

– Vậy thì bà ta sẽ làm gì được mình?

Kiệt ra về với nét mặt âu lo.

Hai tuần sau, vợ Kiệt gọi điện thoại cho tôi, hẹn gặp ở một nhà hàng Mỹ. Với lòng tự tin, tôi hân hoan đi đến điểm hẹn sau khi trang điểm thật kỹ lưỡng với bộ quần áo thời trang rất “sexy”. Tôi quyết phải để cho người đàn bà này thấy rõ sự thua kém của mình, mà đừng lấy danh nghĩa là vợ của Kiệt để lấn át tôi.

Tôi đến nhà hàng khoảng năm phút sau thì vợ Kiệt xuất hiện. Người đàn bà trước mặt tôi thật xinh đẹp, tươi tắn và quý phái. Với nụ cười rạng rỡ, tự nhiên, bà chìa tay để bắt tay tôi và tự giới thiệu:

– Tôi tên Kiều Loan, bạn bè thường gọi tôi là chị Kiệt. Hân hạnh được biết chị.

Giọng nói dịu dàng, ngọt ngào và điềm tĩnh của vợ Kiệt làm tôi thoáng bối rối. Tôi đã có chuẩn bị. Nhưng chỉ chuẩn bị đối phó với một người đàn bà buồn thảm, hốc hác vì ghen tuông, bà sẽ khóc lóc, van xin tôi trả Kiệt lại cho bà, chứ không phải người đàn bà rất thong dong, tươi tỉnh, đang nhìn tôi bằng cái nhìn rất kẻ cả.

Ngay lúc tôi chưa biết phải nói gì thì Kiệt bước vào. Mặt Kiệt biến sắc khi nhìn thấy tôi và vợ anh.

Ðến lúc này thì tôi chợt hiểu. Vợ Kiệt đã sắp đặt cuộc gặp gỡ ngày hôm nay, để xem Kiệt sẽ xử sự ra sao trước mặt tôi, và cũng để xác định rõ vị trí của bà trong tình cảm của Kiệt.

Bà nhìn Kiệt nhỏ nhẹ nói:

– Ngồi đây anh, có cần em giới thiệu người khách quý này không?

Kiệt vừa lắc đầu, vừa cười. Nụ cười của anh hôm nay trông thảm hại làm sao. Tôi nhìn Kiệt tức tối. Kể từ khi bước chân vào đây, anh không một lần liếc mắt đến tôi. Mới hôm qua anh còn nồng nàn, tình tứ. Mới hôm qua anh còn chất ngất đam mê, sao bây giờ phũ phàng đến thế?

Tôi phóng một nụ cười chua chát về hướng Kiệt, nói rõ từng tiếng một, khi vợ Kiệt yêu cầu tôi chọn món ăn:

– Anh Kiệt có thể chọn món ăn cho tôi. Anh ấy biết rõ tôi thích gì.

Vợ Kiệt nghiêng đầu nhìn sâu vào mắt chồng:

-Em thích món nào anh cũng biết, phải không?

Rồi vợ Kiệt nheo mắt với tôi, thân mật đề nghị:

– Vậy thì tôi và chị cũng nên làm khó anh Kiệt một chút nha.

Quay sang Kiệt, bằng giọng nói thật mềm mỏng, nhưng ánh mắt của bà sâu thẳm, đầy cương quyết:

– Anh chỉ được chọn một món trong những món em và … khách thích.

Kiệt cười không thành tiếng. Thái độ lúng túng của Kiệt đêm nào trên giường ngủ của tôi dễ thương bao nhiêu, thì cái lúng túng của anh ngày hôm nay đáng ghét bấy nhiêu.

Kiệt đã nói rằng anh không thể xa tôi, không thể quên tôi, nhưng món ăn anh lựa chọn ngày hôm nay đã làm đau buốt trái tim tôi.

Vợ Kiệt âu yếm gắp từng món ăn cho Kiệt và luôn miệng khen:

– Món ăn anh chọn cho em ngày hôm nay ngon thật. Cám ơn anh vẫn còn nhớ vợ anh thích gì, dù em không ở cạnh anh mấy tháng nay.

Gắp một ít thức ăn đặt vào bát tôi, vợ Kiệt nói:

– Chị ăn thử món tôi thích xem có hợp với khẩu vị của chị không?

Chưa bao giờ môi miệng tôi lại bị khóa cứng như hôm nay. Tôi ngồi yên không cử động, quên cả lời cám ơn để chứng tỏ sự lịch sự của mình.

Giọng vợ Kiệt như sắc lại:

– Nếu không hợp khẩu vị của chị, là vì nó không phải là món ăn của chị. Chị nên gọi món khác, tôi sẵn sàng mời chị.

Tôi nhìn vợ Kiệt không chớp mắt. Cảm tưởng như mình đang tham gia một vở kịch trên sân khấu mà tôi là một diễn viên không diễn trọn vai trò, làm tôi bối rối, sượng sùng.

Tôi ra về trong nỗi đau và sự thán phục. Giá như vợ Kiệt mắng nhiếc, sỉ vả tôi, có thể tôi sẽ dễ đối phó hơn là thái độ nhẹ nhàng, lịch sự nhưng không kém phần cứng cỏi của bà.

Tôi thua cuộc vì tôi đã khinh địch, đã xem thường câu nhắc nhở của Kiệt “vợ anh là một người đàn bà bản lãnh”, đồng thời tôi cũng nhận ra một điều,

Thượng đế đã dành cho mỗi người một chỗ đứng. Và tôi. Tôi không thể giành lấy những gì không thuộc về tôi…/.

Image may contain: one or more people, tree, outdoor and nature

ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!

ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!

Ngày xưa, một cô gái xinh đẹp cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống hôn nhân và muốn giết người bạn đời của mình.

Một buổi sáng, cô ấy chạy đến bên mẹ và nói với mẹ “mẹ ơi, con mệt mỏi với chồng con lắm rồi, con không còn muốn chung sống với anh ấy nữa. Con muốn giết anh ấy nhưng sợ luật pháp bắt con phải chịu trách nhiệm, mẹ có thể giúp được không? “.

Người mẹ trả lời:

– Được, con gái của mẹ, mẹ có thể giúp con, nhưng có một nhiệm vụ nhỏ kèm theo.

Cô con gái hỏi “nhiệm vụ gì”? Con sẵn sàng và sẵn sàng đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào kèm theo để đưa anh ta biến mất”.

OK, người mẹ nói:

  1. Con sẽ phải làm hòa với chồng con, để không ai nghi ngờ con khi anh ta chết.
  2. Con sẽ phải làm đẹp bản thân để trông trẻ trung và hấp dẫn hơn với chồng con.
  3. Con phải chăm sóc chồng con thật tốt và trân trọng anh ấy.
  4. Con phải kiên nhẫn, yêu thương và ít ghen tuông hơn, có thái độ lắng nghe hơn, tôn trọng và vâng lời hơn.
  5. Tiêu tiền của con cho anh ấy và đừng tức giận ngay cả khi anh ấy từ chối đưa tiền cho con bất cứ điều gì.
  6. Đừng lên tiếng phản đối, hãy khuyến khích hòa bình và dành tình yêu thương để con không bao giờ bị nghi ngờ khi chồng con chết.

Người mẹ hỏi: Con có thể làm tất cả những điều đó?

Cô ấy đã trả lời: Vâng con có thể.

OK! Bà mẹ nói.

Con hãy lấy bột này và đổ một chút vào bữa ăn hàng ngày của nó, nó sẽ từ từ giết chết nó.

Sau 30 ngày cô gái về với mẹ và nói:

Mẹ ơi, con không có ý định giết chồng nữa. Đến bây giờ con càng yêu chồng con hơn vì anh ấy đã hoàn toàn thay đổi, chồng con

giờ là một người chồng vô cùng ngọt ngào so với những gì con tưởng tượng.

Con có thể làm gì để ngăn chất độc giết chết anh ấy? Mẹ ơi giúp con với!

Cô ấy cầu xin với một giọng điệu buồn bã.

Người mẹ trả lời: Đừng lo lắng con gái của mẹ. Những gì mẹ đưa cho con hôm trước chỉ là Tinh bột nghệ. Nó sẽ không bao giờ giết anh ta.

Trên thực tế, con là liều thuốc độc đang dần giết chết chồng con trong sự căng thẳng và chán nản.

Đó là khi con bắt đầu yêu, tôn trọng và trân trọng chồng con, con mới thấy anh ấy thay đổi thành một người chồng tốt và ngọt ngào.

Đàn ông không thực sự xấu xa, nhưng cách chúng ta phán xét họ sẽ quyết định phản ứng và cảm xúc của họ đối với chúng ta.

Là phụ nữ nếu con biết thể hiện sự tôn trọng, tận tâm, yêu thương, chăm sóc thì anh ấy sẽ 100% ở bên con.

Nguồn: S.T.

 HIỂU LẦM

 
Image may contain: car and outdoor

 HIỂU LẦM …

Gia đình hai vợ chồng họ ở chung một đoạn đường với tôi, cách nhau khoảng 5, 6 căn, có đưá con gái kháu khỉnh dễ thương, sống cùng cha mẹ già. Cả hai cùng đi làm nên cuộc sống có vẻ thoải mái, gia đình hạnh phúc. Chúng tôi quen biết qua tình đồng hương hàng xóm.

Một điều hơi lạ là tuy gia đình có vẻ khá giả, nhưng cách đôi ngày lại thấy ông cụ, có khi cả bà, đẩy một cái xe đi..lục thùng rác !

Mỗi tuần đúng ngày đổ rác, sáng sớm tôi ra đi làm là thấy ông bà cụ đẩy xe tới mấy thùng re-cycle trong xóm bới kiếm những chai nước plastic, hoặc lon nhôm…những loại có thể bán recycle lấy tiền. Tôi để ý vậy nên mỗi tuần bao giờ cũng đặt những thứ đó riêng bên cạnh để ông bà lấy cho dễ. Ngày khác, tôi lại thấy ông đẩy xe sang khu xóm lân cận, hoặc có khi ra cả công viên gần nhà lang thang đi lượm chai lọ.

Thật khó hiểu tại sao hai vợ chồng có vẻ rất gương mẫu đó lại để cho cha mẹ phải đi kiếm tiền lẽ cực nhọc như vậy!

Một hôm anh đến nhờ tôi dùng xe van chở những chai lọ ông bà cụ kiếm được ra chỗ recycle bán. Xe anh bị hư. Tôi đi cùng anh, và thấy số tiền bán hôm đó dưới $50. Ôi công trình ông bà cụ sáng sáng đi lục thùng rác hai tháng trời chỉ được $50? Chưa kể công bao bì đóng gói sạch sẽ và công đứng chờ đong đếm để bán mất cả tiếng đồng hồ của con cái.

Trên đường về, như đoán được những gì tôi đang nghĩ trong đầu, anh tâm sự:

Số tiền này khi về đưa cho bố mẹ sẽ tăng lên …gấp đôi.

Tại sao? Tôi ngạc nhiên.

Anh nói ông bà cụ tự nguyện làm việc này để kiếm thêm tiền góp công quả giúp cho một ngôi chùa nào đó ở Việt Nam đang nuôi dưỡng một số đông trẻ mồ côi, hoặc những trẻ sơ sinh mà cha mẹ không đủ điều kiện nuôi dưỡng, đem đến bỏ lại cho chùa nuôi. Những ngôi chùa từ thiện đó không được chính phủ trợ cấp đồng nào cả. Tất cả chi phí hoàn toàn do từ bá tánh.

Anh muốn công khai đóng góp tiền cho cha mẹ giúp đỡ cũng được, nhưng chọn cách này để ông bà cụ tiếp tục đi lục thùng rác kiếm chai lọ.

Tôi càng ngạc nhiên

Dễ hiểu lắm, anh giải thích: Sức khoẻ, đường, máu, huyết áp… cả ông lẫn bà đều rất tốt đến nỗi bác sĩ gia đình phải ngạc nhiên. Sau khi hỏi qua sinh hoạt của ông bà, bác sĩ nói chính nhờ sự đi bộ thường xuyên đó, nhất là đối với ông cụ, đã khiến sức khoẻ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Một điều nữa là yếu tố tâm lý. Anh thấy cha mẹ từ ngày làm việc này, tinh thần của họ cũng trở nên vui vẻ, lạc quan hẳn lên vì cảm thấy mình vẫn còn khả năng kiếm tiền để làm việc hữu ích cho xã hội mà không cần phải nhờ đến con cái.

Cho nên, anh tiếp, tuy biết hình ảnh ông bà cụ già đẩy xe đi kiếm chai lọ có vẻ…kỳ cục, nhưng thực ra đang mang lại sức khoẻ, niềm hạnh phúc cho cả hai ông bà, vậy tại sao phải ngăn?

Nghe anh nói, tôi cảm thấy xấu hổ vì lỡ có ý nghĩ không tốt cho anh mấy tháng nay!

ThaiNC.

VẪN CÒN CÁI GỐC

 

 Diem Chi

 TRUYỆN

VẪN CÒN CÁI GỐC

Tiểu Tử

Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên, ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi… già trước tuổi sau ngày “cách mạng thành công” ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác. Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít, nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào.

Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu …

Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi…bắt mạch hốt thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi…chỉ còn làm ruộng dài dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các.

Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất …quí phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ…văn chương, cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích…gọn bâng: Tại nó là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác.

Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc (hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng – làm việc được gọi là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: “Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?”

Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An – bà con bạn dì với má tôi – nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy… chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu !

Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là …cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó… lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú.. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không – đôi guốc chỉ dùng để…rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !

Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà…’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày…Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn…

Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”…

Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng. Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức “lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng, cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên…dễ nhớ!) Chớ không thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường hào ác bá “ gì gì…Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị “sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một cách rất…tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành công”. Mừng cho ổng bả!)

Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như phải có những thứ đó thì lúa…mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi khai lý lịch khai tới khai lui…Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết ! Lai căn tạp nhạp.

Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc… chết quá! Tôi đành liều mạng mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo Pulau Bidong (Mã Lai).

Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư. Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”. Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “Asseyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous asseyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc.

Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur, thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ.

Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều này tôi muốn chia xẻ với những người ti. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi… cụt hứng.

Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe. Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi- Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam. Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi thân đến ứa nước mắt….

Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng vẫn được gần với…chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên “Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên, lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng…

Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó, cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc. Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“.

Tiểu Tử

EM GÁI CỦA TRỜI

Image may contain: 1 person, standing and outdoor
 

Chuyện thật hay và cảm động. Mình đã khóc dẫu đọc 2 lần , thấy mình thật là nhỏ bé so với 2 mẹ con trong truyện .

EM GÁI CỦA TRỜI

(Cusiu)

Chương 1

Sau 5 ngày bỏ nhà đi bụi thì cuối cùng tôi cũng chịu mò về nhà, vì hay tin ngoại tôi chống gậy đi tìm. Ngoại mắt không thấy đường, tai nghễnh ngàng rồi, vừa đi vừa gào tên tôi khắp làng khắp xóm. Nghe thằng bạn kể tới đó thôi tôi cũng không đủ can đảm ở cái chòi vịt nhà nó thêm một ngày nào nữa, sợ thì ít mà thương ngoại thì nhiều, ngoại nuôi tôi từ bé đến giờ, ngoại cưng tôi nhất..

Lần đầu tiên trong đời tôi dạt nhà vì cái lý do chẳng giống ai, đó là ba tôi lấy vợ khác sau hơn 10 năm gà trống nuôi… tôi. Đó là một phụ nữ người gốc Huế, bán bánh bèo lọc nậm ở chợ huyện, quen ba tôi trong một lần ba tôi tới tiêm thuốc cho mấy con heo nhà bả (ba tôi là bác sĩ thú y, gọi thế cho oai chứ chả có bằng cấp gì, toàn bị chúng nó gọi là “bác sĩ heo”). Sau đó thì bả hay ghé nhà tôi vì nhà tôi gần chợ, bả đi bán sẵn ghé luôn, thỉnh thoảng có mua quà cho tôi, ban đầu thì tôi thích lắm, cho gì cũng lấy. Nhưng sau khi biết ba tôi chuẩn bị lấy bả làm vợ thì tôi vứt hết, vứt sạch. Thậm chí thấy bả tới nhà là tôi bỏ đi ra ngoài, không thèm chào như trước nữa.

Đến trước ngày cưới một hôm thì tôi bỏ đi, mọi người bận bịu quá nên chắc chả ai để ý đến tôi, khiến kế hoạch phá vỡ đám cưới của tôi sụp đổ. Cưới xong mới bắt đầu thấy có người í ới đi tìm.

Ừ thì về nhà, chả ai dám nói gì, nói là tôi bỏ đi nữa, bây giờ tôi oai lắm, ai cũng sợ tôi, tôi dám bỏ nhà đi bụi cơ mà. Nghĩ thế nên tôi chả thèm chào hỏi ai, lầm lũi xuống bếp bới cơm rồi mang ra vườn ngồi trên khúc cây đổ ăn, ngấu nghiến như một con chó con đói lâu ngày, xong rồi thì lăn ra ngủ, mặc kệ.

Từ đấy tôi bắt đầu gắt gỏng, thỉnh thoảng còn bỏ ăn, bả gọi tôi không thèm thưa, trả lời thì luôn trống không và chưa một lần tôi gọi bả là mẹ. Tôi cố tình chống đối và tỏ ra khó chịu với mẹ ghẻ, mặc dù bả không làm gì tôi cả.

Có lần tôi nghe trộm được bả nói với ba tôi là bả thương tôi như con đẻ, từ từ bả sẽ lấy được thiện cảm của tôi. Đừng mơ lừa được tôi nhé “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” Câu này tôi thuộc lòng từ lâu rồi, tôi thách đấy!

Cứ thế năm tháng sau trôi qua, bả vẫn lầm lũi tiếp cận và lấy lòng tôi, còn tôi thì ngày càng ngang ngạnh, có lúc tôi còn nói hỗn với bả. Ba tôi thì vốn hiền lành như khúc củi, ổng lại bị thọt một chân, chưa bao giờ ổng đánh tôi cả. Thế nên tôi càng được thể lấn tới.

Rồi một ngày bả dắt một con bé về, nó đen nhẻm, tóc đỏ quạnh như cháy, quần áo thì quê mùa. Đích thị là con bé nhà quê vì chỉ có bọn nhà quê mới thắt tóc bím 2 bên và mặc áo tay phồng, bọn con gái lớp tôi nó bảo thế. Nó khúm núm chào tôi, mặt có vẻ sợ hãi vì tôi trừng mắt nhìn nó. Ba tôi bảo nó là con riêng của “mẹ”, ở dưới quê với bà nội, vì học chưa hết học kì nên bây giờ mới chuyển tới ở được, bảo tôi từ đây chăm sóc bảo ban em học hành. Tôi chả thèm nói gì, bỏ đi đá bóng, con riêng với chả con chung, rõ là rách việc.

Từ ngày có nó tôi lại càng thêm khó chịu, nó đi ra đi vào, đụng cái này ngó cái kia.. Cái gì cũng hỏi, cũng cầm lên lắc lắc thử, coi bộ mới thấy lần đầu. Sai nó ủi đồ thì nó lớ ngớ làm cháy mất cái áo đi học vì không biết vặn chỉnh nhiệt độ, bắt nó chép bài hộ thì nó chép ra cả lề vở (sau này tôi mới biết vở nó cuốn nào cũng thế, chép ra lề để tiết kiệm). Đến việc sai mở tivi nó cũng không biết cách, rõ là quê một cục. Tôi bực mình chửi nó: “Mày chưa xem tivi bao giờ à?” Nó đỏ mặt, nó bảo bà nội nó cũng có cái đài casset, nhưng mà chỉ có tiếng, không có hình người. Tóc nó ban đầu tôi tưởng nó nhuộm, sau hỏi nó mới bảo là ở dưới quê đi chăn bò với lội ruộng nhiều nên nó bị cháy. Nghe thế tôi cười hô hố..

Vào năm thì nó đi học, nó học thua tôi hai lớp, tôi học lớp 8, nó học lớp 6. Trẻ em ở quê thì thường dậy thì muộn, đến lớp 10 tôi mới bắt đầu “lớn”, lớp 8 tôi vẫn còn còi cọc và trẻ con lắm, hầu hết con trai trong lớp tôi đều thế, chả riêng gì tôi. Nó còn thê thảm hơn tôi, gầy đét và còi cọc như con bé tiểu học, mới đầu nghe nó nói nó học lớp 6 tôi còn há mồm không tin.

Nhà có mỗi một chiếc Phượng Hoàng nên ba tôi bắt tôi phải chở nó đi học, mặc dù tôi cực lực phản đối. Mấy ngày đầu tôi phóng cái vèo đi trước, mặc kệ nó lủi thủi đi bộ theo sau. Mẹ nó thì đi bán từ sớm, ba tôi thì không đi xe đạp được với lại cũng chả có xe, thế nên nó phải cuốc bộ đến trường, mặc dù khá xa. Có lần quên tập, tôi chạy ngược xe về nhà thì thấy nó đang mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi đỏ gay vì mệt, tôi lấy làm đắc chí lắm, nghĩ bụng: “cho mày chết đi con nhà quê”…

Một lần nó sốt mấy ngày liền do đi học nắng quá, nó vẫn giấu không cho ba tôi và mẹ nó biết vụ tôi không chở nó đi học. Thấy nó nằm rên hử hử trên giường, lúc tỉnh nó còn dặn tôi để quần áo đấy nó giặt, nó đang mệt quá không giặt được. Nghe nó lảm nhảm tự nhiên thấy hơi.. tội tội và có lỗi với nó.

Nó hết sốt và đi học lại thì tôi bắt đầu cho nó đi chung xe, ban đầu nó hơi ngạc nhiên, sau nó cũng lên, suốt cả năm học tôi chở nó, chưa bao giờ tôi thấy nó nói gì. Thỉnh thoảng có nghe nó hát nho nhỏ gì đó, tôi quay lại thì nó lại im. Nó là một đứa khá khó hiểu, mãi cho đến lúc nó đi xa mãi, tôi cũng chưa hiểu được nó, con em gái bé bỏng của tôi….

Chương 2

Sau vài lần bị bạn bè bắt gặp tôi chở con bé đi học, bọn trong lớp tôi ngay lập tức rêu rao cái tin động trời này vào lớp: “Thằng T có bồ rồi tụi bay ơi, thằng T có bồ rồi, bồ nó xấu như con ma lem”. Có thằng còn thề sống thề chết là thấy bọn tôi ôm nhau, đúng là chém gió một cách trắng trợn kinh tởm mà. Tôi thanh minh không được, điên máu gào toáng lên rằng đó là “em họ” tôi, đứa nào còn nói nữa thì cẩn thận ăn đấm. Thấy tôi làm dữ, bọn nó cũng chùn không nói nữa, nhưng tôi để ý bọn con gái nhìn tôi với ánh mắt rất đểu, thỉnh thoảng có đứa còn đưa tay bịt miệng cười hi hí. Thật là một nỗi oan động trời mà, tôi đẹp trai thế này, lại là con của bác sĩ… mà lại đi cặp bồ với một đứa đen đủi xấu xí như thế à, nghĩ sao vậy chứ, thật bực mình hết chỗ nói.

Hôm sau tôi quyết định không chở nó đi nữa, kệ cho nó đi bộ. Nó cũng không nói gì, cúi đầu lặng lẽ rảo bước khi thấy tôi phóng xe đi trước. Nhưng mà đi được một đoạn, ngẫm lại cái hôm nó ốm liệt giường, thều thào xin lỗi đến tội nghiệp vì không giặt được quần áo, nấu cơm cho tôi được, để tôi phải làm, nó nói như là nó có lỗi lắm ấy… Tôi quay xe lại, dù sao thì…

Từ xa xa tôi thấy nó đang lững thững đi, trông dáng nó bé tí teo như cục kẹo vậy, trên lưng là cái cặp to tướng. À mà không giống cục kẹo lắm, nhìn kỹ thì giống con rùa con hơn, một con rùa cả nghĩa đen và nghĩa bóng… Tôi bảo nó lên xe, nó im lặng bước lên, cũng lại chả nói gì. Nó như là bản sao của mẹ nó vậy, không bao giờ chống đối hay hỏi han điều gì, mẹ con nó như những người phụ nữ ở nhà thống lý Pá Tra ngày xưa…

Tôi đi đường tắt để tránh sự dòm ngó của bọn trong lớp, con đường vòng vo và vắng nhà cửa. Tôi chở nó chạy xe băng băng qua vườn điều, vườn cam, vườn mía, băng qua cả những ngày tôi phởn chí dừng xe lại trèo vào bứt trộm ổi cho nó ăn, nó ở ngoài trông xe mà mặt tái mét, băng qua cả những lần tôi điên tiết bỏ nó giữa đường cho nó đi bộ, làm nó bị trễ cả giờ kiểm tra, băng qua cả những hôm bị xịt lốp xe, hỏng xe, tôi thì dắt, nó đi phía sau phì phò đẩy hộ…

Bây giờ thỉnh thoảng có dịp về quê tôi hay xách chiếc xe đạp ngày xưa đi ngang con đường ấy để tìm lại kỉ niệm, có những lúc giật mình buột miệng gì đó mà không thấy ai trả lời, tôi quay lại nhìn phía sau, không còn thấy cô em gầy gò của tôi hai tay bám chặt vào yên xe, mặt ngơ ngác thay cho câu hỏi nữa… Bất giác tôi không còn sức để đi tiếp, dừng xe lại… nước mắt chảy dài…

Ngày ấy bọn tôi hay có trò chơi gảy hình, hình Songoku và dũng sĩ Héc-man. Trong lớp tôi hầu như ngày nào cũng mở hội gảy hình trước giờ học. Tôi chơi dở tệ nên thường xuyên thua sạch, bao nhiêu tiền ba tôi cho mua sách vở bút mực tôi đều mua hình và cống nạp hết cho tụi bạn. Hôm đấy cay cú vì lời thách thức của thằng bạn quá mà hết sạch tiền, tôi chả biết làm sao cả. Ba tôi thì đi vắng chưa về nên không nói xạo để xin tiền được. Tôi đánh liều… Lục cặp của nó trộm tiền, vì tôi biết mẹ nó hay dấm dúi tiền cho nó mua mấy thứ linh tinh của bọn con gái. Định bụng khi thắng cuộc tôi sẽ bán hình lại lấy tiền rồi khéo léo bỏ vào trả lại cho nó như không có chuyện gì xảy ra. Ai ngờ đâu… tôi thua sạch sẽ…

Cả ngày hôm đấy tôi cứ lấm la lấm lét nhìn nó, tôi chỉ sợ nó méc mẹ nó hay ba tôi. Rồi thì ba tôi vặn hỏi, tôi sẽ lắp bắp, rồi thì lộ ra cả chuyện tôi không mua sách vở, rồi thì… lúc đấy thì chỉ có mà nhục hơn chết. Nhưng mà quái lạ là tôi không thấy nó nói gì, tôi chắc chắn là nó đã biết vì tôi thấy nó soạn sách vở đi học, có lôi mấy thứ trong cái ngăn đựng tiền ra. Nhưng dù sao, tôi cũng thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát được một kiếp nạn…

Mãi sau này tôi mới phát hiện ra một điều, nó là đứa con gái duy nhất trong trường đội nón lá đi học. Trước đây tôi tưởng điều đó là bình thường vì thấy cô, dì, hay những phụ nữ tôi quen đều đội như vậy. Nhưng khi nghe con gái trong lớp xì xào: “con bồ thằng T nó vẫn đội nón lá đi học đấy, đúng là gái dưới quê lên có khác” thì tôi mới chột dạ, như thế là nhà quê, là không hợp thời…

Tôi về nhà lôi nó ra hỏi: “Con kia, sao mày lại đội nón lá đi học, đây có phải như dưới quê mày đâu, mày không biết xấu hổ à?”. Nó lí nhí: “Tiền em dành được để mua nón hoa, em làm mất rồi”. Tôi đứng hình và hiểu ra ngay, thì ra những khi mẹ nó cho nó tiền mua quà, mua bút sách này nọ, nó đều tiết kiệm lại, vở nó viết ra cả lề, nó tính nháp ra chằng chịt cái bàn học vì sợ tốn giấy, trong khi tôi thì giật giấy trắng trong tập gấp máy bay phi ầm ầm, bộ đồ đi học của nó, cũng là được “thừa kế” của một người chị họ, sách giáo khoa của nó cũng là đi mượn về, nhiều quyển còn bị xé lam nham… Nó tiết kiệm từng đồng từng xu để rồi cuối cùng bị thằng khốn nạn như tôi ăn cắp mất…

Tôi đuổi nó vào rồi ngồi thẫn thờ một lúc, lần đầu tiên tôi nhận ra một điều là dù sao nó cũng là một đứa con gái, cũng biết xấu hổ khi bạn bè chê cười, cũng thích nơ kẹp tóc và nón hoa như bao đứa khác… Tôi thấy ân hận ghê gớm, tâm trạng nặng nề kéo dài mãi đến tận mấy hôm sau…

Chương 3

Những ngày tháng trẻ con vụng dại ấy rồi cũng trôi qua nhanh chóng, vẫn chiếc ngựa chiến ấy, tôi chở nó băng băng qua tuổi thơ, băng qua những ngày tháng cuối cùng của đời học sinh ở trường huyện, nhưng tôi không còn cố tình phóng nhanh để cho nó hoảng sợ nữa, tôi không còn bắt nó đi bộ một đoạn rất xa khi gần đến trường để tránh bị phát hiện nữa. Tôi chở thẳng nó vào trường, như thể một thằng anh trai chở em gái đi học. Ừ, nó là em gái tôi mà, lần đầu tiên trong đời tôi có em gái, nó lại ngoan và hiền như thế, có lý do gì để tôi bắt nạt nó hoài cơ chứ… Tôi nhận ra điều này, tuy muộn nhưng không trễ. Nó thấy tôi bắt đầu đối tốt với nó, không còn quát mắng nó như xưa nữa, không còn dọa đánh nó mỗi lần nó làm gì lớ ngớ nữa… Nó không nói gì nhưng nó nhìn tôi lạ lắm, không còn thái độ sợ sệt như trước đây nữa, hình như mắt nó có gì đó long lanh… Nếu nó là con cún con, tôi ắt hẳn nó sẽ vẫy vẫy cái đuôi bé tí…

Một ngày cuối năm lớp 9, tôi đang ngồi học trong lớp thì nó ở đâu chạy vào, nước mắt nước mũi tèm nhem: “Ba bị tông xe rồi anh Bi ơi, người ta đưa vô bệnh viện rồi…”

Tôi chở nó phóng như bay vào bệnh viện, sáng nay có người mang ô tô đến chở ba tôi đi vào xã chích ngừa cho gia súc, bảo là chiều sẽ về…

Vừa để nó xuống xe, tôi phóng như bay vào phòng cấp cứu, tôi biết nó ở chỗ nào vì bà ngoại tôi từng 2 lần nằm ở đây. Cô dì chú bác họ hàng tôi đứng chật ngoài phòng cấp cứu, ba tôi vốn hiền lành và tốt bụng nên được cả họ quý mến… Cô tôi thấy tôi đến thì chạy lại ôm chồm lấy tôi khóc nức nở. Tôi hoảng loạn mặt mày tái mét, miệng lắp bắp: “ba… ba con… sao rồi cô?” Cô không trả lời mà đưa tay lên bụm miệng rồi nấc càng mạnh… Tôi hoảng quá, chạy lại túm lấy anh tôi, chú tôi, bác tôi… gào toáng lên: “ba con sao rồi, ba con sao rồi…”. Không ai đủ dũng khí để nói gì với tôi, một thằng mất mẹ từ năm 3 tuổi… Họ sợ phải chính miệng thốt ra với tôi rằng: “Bi à, ba con mất rồi…”…

Từ ngày ba tôi mất, tôi biến thành một người hoàn toàn khác, không còn muốn quậy phá làng xóm nữa, không còn muốn đùa giỡn chạy nhảy nữa, tôi gần như là một cái xác không hồn… Bạn bè cũng nhìn tôi bằng ánh mắt khác, một ánh mắt đầy thương hại, lớp tôi còn tổ chức đến nhà tôi ”thăm và chia sẻ” với tôi, tôi biết thế nên trốn sang nhà ngoại, tôi chẳng cần ai thương hại hết, tôi chẳng cần ai hết, tôi chỉ cần ba tôi mà thôi… ba ơi…

Con em gái tôi, từ dạo đó cũng trở nên ít nói hơn. Hằng ngày tôi vẫn chở nó đi học, vì tôi chỉ còn vài tháng ngắn ngủi nữa là hết cấp 2 rồi, dù sao thì như ngoại tôi nói, tôi phải cố học để ba mẹ tôi ở dưới suối vàng được yên lòng…

Cô tôi sang nhà nói chuyện với mẹ kế của tôi về việc để tôi qua nhà cô ở, cô sẽ nuôi và chăm sóc tôi. Tôi ở trong buồng nghe mẹ kế nói, chậm rãi và từ tốn bằng giọng Huế khá nặng, rằng bà thương tôi như con, ba tôi mất rồi nên bà phải có trách nhiệm nuôi nấng tôi nên người, bà nhất định không để tôi phải khổ…

Từ đấy mẹ kế tôi nuôi tôi và em gái bằng gánh hàng chợ nắng đắt mưa ế, bằng những buổi sáng dậy sớm tinh sương để nặn nặn gói gói chiên chiên xào xào. Tôi nghe hai mẹ con họ thì thầm, để tránh gây ồn “cho anh Bi ngủ… “, tôi nghe con em kể chuyện đi học ở trường, tôi nghe họ nói đến những gì cao xa và tốt đẹp lắm… Chiếc đèn Hoa Kỳ treo ở bếp in bóng hai người phụ nữ bé nhỏ ấy vào tường, in cả vào những giấc mơ của tôi sau này, giấc mơ có mùi hành phi thơm phức… Con bé em tôi từ dạo đấy phải dậy sớm để phụ mẹ nên bị thiếu ngủ, có lần tôi chở nó đi học, quay xe lại nhìn thì thấy tay nó vẫn bám chặt yên, nhưng mắt thì đã nhắm nghiền từ lúc nào, lông mi nó dài và cong lắm…

Nhiều lần tôi áy náy quá, cố dậy theo để phụ làm bánh, nhưng mẹ kế nhất quyết không cho, nằng nặc bảo tôi đi ngủ, bà nói rằng chỉ còn vài tháng nữa là thi chuyển cấp 3 rồi, tôi nhất định phải đậu trường chuyên trên tỉnh, cứ học giỏi vào là khổ bao nhiêu bà cũng chịu được, còn con Luyến (em gái tôi) thì chưa phải chuyển cấp nên để nó phụ. Bà xua tôi vào ngủ như xua tà…

Cuối cùng tôi cũng đậu vào trường chuyên trên thị xã thật, con em tôi là người biết đầu tiên. Nó cầm tờ giấy báo phóng ra ngoài mương câu cá để tìm tôi, bộ dạng nó hớn hở còn hơn cả tôi. Nó đưa tôi tờ giấy, mắt nó mở to và rạng rỡ: “anh Bi xem này. “. Tôi cầm tờ giấy báo trên tay, vui thì ít mà nhớ ba tôi thì nhiều… Nếu ba tôi mà còn sống, chắc chắn ông sẽ vứt cả nạng mà chạy đi tìm tôi… “Bi phải thi khối B, làm hẳn bác sĩ, bác sĩ thật, chứ không phải bác sĩ heo như ba… ”

Chương 4

Trường mới cách nhà tôi gần 50km, tất nhiên là với chiếc xe đạp cọc cạch, tôi không thể nào đạp xe đến trường với một khoảng cách xa như vậy được. Vì vậy chắc chắn nếu tôi đi học cấp 3 trên đấy, tôi phải trọ học, phải xa nhà. Vấn đề ở đây không phải là tôi không muốn đi học xa, mà là vì nếu ở trọ thì sẽ có biết bao nhiêu vấn đề phát sinh. Tiền nhà trọ, tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước… Tiền tiền tiền, thứ mà nhà tôi thiếu nhất vào lúc này, khi trụ cột là ba tôi đã không còn nữa…

Lúc ngồi ăn cơm, tôi bảo với mẹ kế: ”Thôi con ở nhà học cũng được, ở trọ rồi tiền đâu mà học, với lại con thích ở nhà thôi, lên đó biết chơi với ai”. Bà nghe vậy thì dừng đũa, nói với tôi một cách nghiêm nghị nhất: “Con nghe cô, con nhất định phải đi học, cô còn lo được thì con cứ an tâm mà học hành, sau này cô già yếu không còn sức nữa thì con còn phải thay cô lo cho con Luyến nữa chứ… ”. Bà nói nhiều lắm, đại ý như là tôi phải hoàn thành tâm nguyện của ba tôi, sau này tương lai còn dài lắm, rồi thì cứ học thật giỏi, phải làm gương cho em… Bà ít học, nửa chữ cắn đôi bà cũng không biết, nên bà cảm nhận được cái sự khổ của việc không được đến trường, được đi học… Con Luyến nó cũng ngồi im nghe, nó cũng mong tôi đi học lắm, nó còn bảo sau này nó cũng muốn vào trường chuyên như tôi, nó sẽ học để làm cô giáo…

Một ngày cuối tháng tám, tôi dậy rất sớm để chuẩn bị lên đường, áo len mũ trùm kín mít vì trời lạnh. Chiếc balo đã chật cứng quần áo con Luyến nó xếp vào cho tôi hôm qua, một cái bao đựng hũ ruốc khô mẹ kế làm, một bao gạo đựng trong túi cám con cò, vài thứ vật dụng linh tinh… Ngày ấy phương tiện di chuyển còn ít, đi đâu xa xa là phải đi bằng ô tô than, mỗi lần ba tôi đi lên thị xã mua thuốc hay học lớp kỹ năng nông nghiệp về là áo quần ướt đẫm mồ hôi và bồ hóng bụi than thì bám đen kịt, lấm lem mặt mũi như Bao Công…

Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi rời khỏi cái phố huyện nghèo, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Mẹ kế hôm đấy vẫn đi bán, vì nghỉ bán một ngày là cụt vốn ngay. Tối hôm trước bà đã dặn dò tôi đủ điều rồi, ngồi nghe căn dặn, tôi bắt đầu cảm nhận được tình cảm của bà dành cho tôi, đứa con riêng của chồng suốt ngày chỉ biết chống đối và quậy phá…

Tôi chở con Luyến qua nhà ngoại, để nó ngồi sau ôm ba lô và đồ đạc cho tôi. Ngoại tôi biết là sáng nay tôi sẽ qua nên đã chống gậy đứng sẵn ngoài cửa chờ từ lúc nào. Ngồi nói chuyện với ngoại một lúc thì tôi chào ngoại về để kịp xe, ngoại dúi cho tôi một cục tiền lẻ cuộn tròn và cột chặt bằng dây thun, bảo tôi cầm lấy thỉnh thoảng ăn quà, cục tiền tròn vo và cũ kỹ, có lẽ ngoại đã dành từ rất lâu rồi… Ngoại dặn tôi phải học cho giỏi để làm bác sĩ, để về chữa bệnh đau lưng cho bà, để chữa mắt cho bà, để bà lại được dịp đi lòng vòng khắp xóm để khoe “Thằng cu Bi nhà tôi nó đậu to lắm, đậu trường to nhất trên thị xã…”… Giờ tôi cũng đã thành bác sĩ, nhưng ngoại tôi thì đã đi xa lắm rồi…

Bến xe quê tôi thực chất nó chỉ là một khu đất trống gần chợ, sáng thì nó là bến xe, quá trưa thì thành chỗ phơi cá khô của tiểu thương trong chợ, chiều thì thành chỗ đá bóng của trẻ con. Con Luyến nó nhất quyết chờ tôi lên xe rồi mới chịu về, tôi bị nhét ra hàng ghế sau cùng, tôi úp mặt vào cửa kính phía sau xe, nhìn ra cái bóng bé tẹo của nó xa dần xa dần trong lớp sương mờ của buổi sáng miền núi. Sau này có dịp đi ô tô, xe bus, tôi thường chọn cho mình dãy ghế sau cùng, chỗ mà người ta tránh nhất, để thỉnh thoảng nhìn ra cửa kính, tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì đó thật mơ hồ…

Chương 5

Trường trên thị xã khác hẳn ở dưới quê tôi, tuy không mát mẻ và nhiều bóng cây bằng nhưng rất rộng và sạch sẽ. Sau hai ngày đầu bỡ ngỡ thì anh con của bác hàng xóm dưới quê cũng tìm được cho tôi một phòng trọ ở gần trường, ở chung với một anh người Tày lành như đất lên thị xã học theo diện chính sách.

Ngoài giờ đi học thì tôi hay lăng quăng ra bờ hồ gần trường để đi dạo, ra sân vận động xem đá bóng, thỉnh thoảng buồn quá thì trèo lên cái cột nước ở gần trường để ngồi ngắm nhà cửa, xe cộ, cây cối bé tẹo ở phía dưới. Học trường mới lớp mới, trong lớp toàn học sinh của thị xã con nhà khá giả nên với bộ dạng hai lúa và khù khờ của mình, tôi hầu như không thể hòa nhập được với bọn chúng. À mà thật ra tôi cũng chả muốn chơi với ai cả, chỉ muốn đi học rồi về, ai hỏi thì trả lời, không thì thôi, có hôm cả ngày tôi không nói tiếng nào. Một thời gian thì tôi bị liệt vào thành phần lập dị trong lớp, nhưng tôi chả mấy quan tâm về điều này.

Cứ đều đặn đầu tháng là mẹ kế tôi gởi gạo, tiền, mắm muối và những thứ cần thiết lên cho tôi. Tháng nào cũng như tháng nào, chưa một lần bà để tôi đói hay thiếu thốn. Thỉnh thoảng con em tôi nó có biên thư lên, lá thư của nó thường có ba phần, một phần của ngoại tôi, một phần của mẹ kế, và một dòng ngắn ngủn của nó cuối thư “Anh Bi ráng học cho giỏi nghen…”. Hầu như lần nào cũng chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn háo hức khi mỗi lần nhận được thư của nó, nét chữ của nó tròn vo và nắn nót, tôi đọc được nét mặt của nó trong thư…

Mặc dù trường cách nhà tôi cũng không xa lắm, chỉ khoảng 50 cây số, nhưng ngày xưa đi lại khó khăn và cũng sợ tốn kém nên tôi ở một lèo đến giáp Tết cũng chưa chịu về nhà.

Hôm ấy đi học về thì tôi thấy con Luyến đứng trước nhà, tay cầm mảnh giấy ghi địa chỉ. Tôi ngạc nhiên lắm, chạy ngay lại hỏi nó: “Mày đạp xe lên đây à, xa thế mà mày cũng đi được, mày có hâm không đấy?”

Nó bảo với tôi là nó được nghỉ 2 ngày nên lên thăm tôi, nó đi từ lúc 5 giờ sáng bây giờ mới tới. Với lại nó cũng muốn lên xem thị xã nó như thế nào…

Tôi gỡ những thứ linh tinh trên xe xuống cho nó. Gạo, bánh của ngoại, nửa con vịt của cô, và một bọc bánh tráng nướng nát vụn vì đi đường xa…

Tối hôm đấy nó ngủ lại phòng tôi vì tôi không cho nó đi xe về buổi tối, sợ nguy hiểm. Anh người Tày biết ý nên sang nhà hàng xóm ngủ nhờ và cũng vì cái phòng tôi bé tẹo nên không đủ chỗ cho ba người. Nó đi đường xa mệt nên đi tắm rồi lăn quay ra ngủ. Tôi thì ngồi học bài đến khuya…

Phòng của tôi chỉ rộng 12m2 và kê đủ thứ linh tinh rồi nên chỗ ngủ cũng là chỗ ăn cơm, chỗ tiếp khách. Tôi nằm xuống cạnh nó, lần đầu tiên trong đời tôi nằm gần một đứa con gái như thế. Tôi quay mặt vào tường nhưng có cái gì đó thôi thúc, thôi thúc khiến tôi quay sang nhìn nó. Con em tôi học lớp 8 rồi, cũng bắt đầu lớn rồi. Trong ánh sáng mập mờ của cái đèn học tôi chợt nhận ra nó không còn là con bé đen nhẻm dạo trước nữa. Hai năm ở nhà tôi không phải chăn trâu bắt ốc, không phải ăn uống khổ cực nữa nên nó đã mập và da dẻ đã trắng lên rất nhiều. Tôi nằm nghiêng đối diện nó, tự nhiên tôi nhận ra là so với tất cả con gái tôi từng gặp hay học chung, không có đứa nào đẹp bằng nó cả… Nó xinh lắm, xinh ghê gớm, sao bây giờ tôi mới nhận ra nhỉ, hay là tôi xa nhà nửa năm nên nhìn nó lạ đi…

Năm ấy tôi cũng đã bắt đầu dậy thì rồi, cũng vật vã và cào cấu như bao người khác, nhưng chuyện ấy và con gái đối với tôi là một cái gì đó rất mơ hồ và siêu thực. Tôi không biết là mình muốn gì và cần gì nữa, tôi đón nhận sự thay đổi của cơ thể, của tâm lý một cách tự nhiên và thuần khiết nhất…

Tôi nằm ngắm trộm nó đến nửa đêm thì bỏ ra ngoài đi dạo. Tôi sợ chính mình, sợ chính đôi bàn tay run cầm cập thò ra lại rụt vào của mình, sợ chính cơ thể mình. Sợ con bé nằm ngủ ngoan như thiên thần trước mặt mình… Tôi thấy mình thật ghê tởm và xấu xa như con quỷ….

Sáng hôm sau tôi viết giấy xin phép nghỉ học rồi chở đi nó dạo quanh thị xã. Chỉ còn hơn nửa tháng nửa là Tết nên đường phố đẹp lạ lùng, hay là điều gì khác trong tôi khiến tôi thấy nó bỗng nhiên đẹp nhỉ. Tôi cũng không biết nữa, chỉ biết con em tôi nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngắm những dãy nhà cao tầng, khu chợ nhộn nhịp đông đúc khác hẳn với cái chợ nhỏ vắng teo ở nhà…

Tôi chở nó qua trường tôi đang học cho nó xem, mua cho nó chiếc bánh kẹp trước cổng trường mà ở dưới quê không có, mua cả cho nó một cái bờm kẹp tóc. Lâu lắm rồi tôi mới thấy nó cười, nó cười cũng không giống những đứa con gái khác, có cái gì đó buồn xa xăm, mặc dù tôi biết là nó vui thật…

Lúc nó về, tôi buột miệng bảo nó: “Em đi xe cẩn thận đấy, về nhà thì qua nhà cô Tư gọi điện lên cho anh, cái số anh vừa chép ấy”. Nói xong tôi mới nhớ đây là lần đầu tôi gọi nó bằng em, thôi kệ, tôi thấy tôi và nó cũng đủ lớn để gọi như thế rồi, và tôi biết, điều đó khiến nó vui…

Chương 6

Hai mươi chín giáp Tết tôi mới về đến nhà, bà ngoại với cô tôi chờ sẵn ở nhà tôi từ lúc nào rồi, lúc ăn cơm họ hỏi han tôi đủ thứ rồi lắng yên nghe tôi kể chuyện học trên thị xã, kể về nhà cửa phố phường, về những thứ mà dưới quê tôi không có, về tất tần tật những chuyện xảy ra trong nửa năm tôi xa nhà. Lần đầu tôi đi xa nên ăn cơm gia đình tôi thấy ngon và ấm cúng lạ thường, không chê ỏng eo như ngày còn ở quê nữa. Tôi thấy mình thật dại khi trước đây không biết trân trọng những bữa cơm đông đủ ở nhà…

Tối đấy tôi chở con Luyến đi dạo, tôi bảo nó kể cho tôi nghe chuyện ở nhà, chuyện học hành của nó, chuyện linh tinh xóm làng. Nó ngồi sau tôi thì thầm to nhỏ chuyện anh hàng xóm mới lấy vợ, chuyện con chó ở nhà đẻ được hai con, biết ăn cơm thì nó cắp ra chợ bán, chuyện bà ngoại hay chống gậy sang hỏi bao giờ thì thằng Bi nó về, chuyện về trường cấp 2 mới xây thêm một dãy nhà nữa…

Ngày ấy quê tôi chưa có đèn đường, nhưng vì gần Tết nên nhà nào cũng thắp đèn sáng trưng để gói bánh, để thịt gà thịt heo… Tôi chở nó đi xa tít, ra tận con đập nước ngoài ven, chỗ mà ngày còn ở nhà tôi hay ra tắm với lũ bạn. Ngồi trên bờ đập nước, gió thổi mát lạnh, nói chuyện với nó, tôi phát hiện ra rằng nó đã khác xưa rất nhiều, cũng đã bắt đầu hiểu chuyện chứ không có khù khờ như dạo mới lên nữa… Nó đã lớn thật rồi, chí ít là trong suy nghĩ…

Lúc nằm mơ màng ngủ, nhớ lại lúc ở trên con đập, tôi chợt thấy xao xuyến lạ kì, sao hồi nãy nó cười duyên thế nhỉ, sao hôm nay nó lại kẹp cái bờm của tôi mua cho nhỉ, trông đáng yêu và gọn gàng lắm, không có bù xù như ngày trước… Tôi có tâm trạng ấy cũng là vì lên cấp 3, tôi được đọc cuốn sách về tình yêu đầu tiên trong đời, hình như là quyển ”Đồi gió hú”… Nói cách khác, là tôi đã bắt đầu biết mơ mộng, mơ mộng những thứ mà trước đó tôi cho rằng vớ vẩn và đáng khinh…

Đấy là năm 1995, năm đầu tiên cấm nổ pháo vào dịp Tết. Tết trở nên kém vui hẳn đi. Với lại nhà tôi đang có tang nên tôi cũng chẳng muốn đi đâu, mấy ngày Tết quanh quẩn ở nhà một mình với chiếc ti vi trắng đen có cái chốt vặn cọt kẹt. Mùng 5 Tết thì nó về nhà, nó đi về quê thăm bà nội từ hôm mồng 2, hôm nay phải về để mùng 7 còn đi học lại. Nó bước vào nhà, mặc chiếc váy màu xanh gấp nếp, áo sơ mi trắng cổ tròn. Đấy là kiểu thời trang ngày xưa của hầu hết tụi con gái quê tôi. Giấu vẻ ngạc nhiên khi lần đầu thấy nó mặc váy, tôi gật đầu khi nó chào rồi tiếp tục hướng mắt vào tivi. Nhưng thật ra, thật ra tôi tò mò kinh khủng, tôi muốn quay sang nhìn nó, nhìn dáng nó trong chiếc váy, nhìn thấy nó lần đầu ăn diện. Tôi cố gắng kiềm chế để nhìn lên tivi, cố gắng không quay sang nhìn nó, cũng không biết vì sao tôi làm lại thế nữa. Tôi chỉ biết là mặc dù nhìn thế, nhưng tôi không biết là tivi đang chiếu cái gì, đơn giản là vì tâm trí và ý nghĩ của tôi thuộc về nơi khác…

Tôi lên thị xã học lại, mang theo nỗi bâng khuâng kì lạ về cô em gái. Hình ảnh nó hôm Tết cứ ám ảnh tôi mãi, nó đi vào cả những giấc mơ, những buổi chiều thơ thẩn, những lúc ngồi trên bồn nước cao, trong lớp học, thậm chí nó lờ mờ hiện ra cả trên mặt nước bờ hồ, khiến tôi phải giật mình cứ ngỡ là đang ngủ gật…

Đến tháng năm, lúc mà ve đã râm ran chuẩn bị vào hè thì cô tôi biên thư lên bảo tôi về nhà gấp. Tôi thấy kì lạ là sao không phải là em gái tôi, mà lại là cô tôi. Giọng của cô trong thư cũng gấp gáp lạ thường. Chiều hôm đấy học xong tôi bắt xe rồi về quê ngay trong đêm…

Chương 7

May là hôm đấy tôi về ngay, chứ còn chần chừ đến sáng hôm sau thì tôi đã không còn được gặp mẹ kế lần cuối nữa. Bà nằm trên giường, vẫn tỉnh táo và nói chuyện được, nhưng bụng rất to như có chửa sắp sinh, da thì tái nhợt. Cô tôi nói, bà bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, trạm xá trả về tối qua…

Con Luyến nó ngồi cạnh mẹ, tay nắm chặt lấy mẹ. Tôi không biết là nó gan lỳ không khóc để tránh mẹ nó buồn, hay là nó đã trốn vào góc nào đó khóc hết nước mắt rồi. Mặt nó phờ phạc đi vì thức đêm trông mẹ, vì lo lắng, vì sợ hãi… Bà ngoại tôi thì khóc hết nước mắt, bà bảo bà có một đứa “con gái” như mẹ là phúc của cả đời bà, phúc của thằng Cảng (bố tôi), phúc của thằng Bi…

Tôi ra ngoài ngồi ủ rũ chẳng biết nói gì hơn, chẳng biết phải làm gì trong lúc này. Một lúc sau thì cô tôi ra gọi tôi vào buồng để mẹ kế tôi gặp. Bà nắm chặt tay tôi, thều thào bảo tôi phải học thật giỏi để đỗ đạt cao, để sau này lo cho con Luyến… Bà nấc lên mấy cái rồi nhắm mắt. Con Luyến thấy thế gào thảm thiết, gào như điên như dại. Cả nhà tôi, bà con chòm xóm đến thăm cũng đồng loạt ôm mặt khóc nức nở. Đến lúc này tôi cũng không nén được nữa, tôi nắm chặt lấy tay mẹ: “Mẹ ơi… mẹ ơi…”. Đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gọi Mẹ bằng Mẹ. Cái từ mà tưởng như đã chết hẳn trong tôi từ lâu lắm rồi…

Mẹ không sinh ra tôi, nhưng đôi quang gánh của bà đã gánh tôi trên vai, gánh cả những tủi nhục của phận làm vợ kế, gánh cả đứa con gái nhặt được ở ngoài mương về nuôi nấng chăm sóc nó như con đẻ, để nó thành em gái tôi như bây giờ. Tình thương của mẹ mênh mông và rộng lớn quá, đến khi mẹ mất đi rồi tôi mới nhận ra thì đã quá muộn. Ngay cả lúc mẹ sắp ra đi, bà cũng cố dặn cả nhà đừng báo cho tôi biết vì sợ tôi lo lắng mà ảnh hưởng học hành. Thỉnh thoảng có nghe ai đó ru con: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng…” tôi lại nghĩ đến mẹ, nghĩ đến đôi quang gánh của mẹ và cái nhìn trìu mến của bà khi lần đầu gặp tôi: “Cu Bi đây à anh, giống bố nhỉ…”…

Đám tang mẹ xong, tôi lên thị xã thu dọn đồ đạc rồi về ngay. Tôi quyết định bỏ học để theo chú tôi đi xẻ gỗ. Mà tôi có muốn đi học cũng không được nữa vì lấy tiền đâu để mà học, rồi thì ai sẽ lo cho con Luyến. Tôi ở nhà khoảng mười ngày, thấy con Luyến nguôi ngoai phần nào rồi, trong bữa cơm tôi nói với nó: “Mai anh theo chú Bảy đi làm, em ở nhà lo học nhá, cứ nửa tháng anh về một lần”. Nó nghe thế thì quên cả vẻ ủ rũ: “Không được, anh không được bỏ học, anh mà bỏ học thì anh là đồ bất hiếu, không nghe lời ba mẹ, ngày mai anh phải lên trường ngay, ở nhà đã có em lo…”. Nó nói như ra lệnh, người lớn và rất dứt khoát.. Tôi hơi bất ngờ khi thấy nó như thế, nhưng vẫn từ tốn bảo nó: “Không phải anh không muốn đi học, anh đã quyết thế rồi, em ở nhà học cho giỏi đi, không được nghĩ ngợi gì hết.”.

Nó thì nằng nặc bảo tôi đi học, tôi thì cứ ôn tồn nói với nó, giải thích cho nó hiểu. Cuối cùng nói không được nữa, nó mới nói toẹt với tôi: “Em bỏ học từ sau Tết rồi, từ mai em sẽ đi bán bánh thay mẹ, anh cứ đi học… Anh nghe em… anh cứ học thật giỏi… Còn em là con gái, học hành rồi cũng chẳng tới đâu… Em theo mẹ đi bán từ mấy tháng nay rồi…”. Đến đây thì tôi shock nặng, bát cơm trên tay tôi tự nhiên nặng trịch, tôi không còn lời nào để nói với nó nữa. Nó là đứa học giỏi nhất trường tôi, chỉ vào học nửa năm nó đã đứng đầu trường, tôi nghĩ thế nên kì vọng vào nó biết nhường nào, vậy mà vì tôi, vì một thằng chẳng phải máu mủ gì… Mãi rất lâu sau này tôi mới biết, khi phát bệnh, biết mình sẽ không qua khỏi nên Mẹ đã bảo nó thôi học, tập đi bán dần để sau này… nuôi tôi ăn học.

Sáng hôm sau ngủ dậy thì nó đã đội quang gánh đi bán rồi. Nó để lại cho tôi một mảnh giấy nhỏ, dặn tôi đủ điều. Quần áo của tôi nó đã xếp gọn gàng vào ba lô rồi, trong đó còn có một ít tiền được gói bằng giấy báo, bên ngoài là bọc ni lông, cột rất kỹ càng. Đó là số tiền mẹ để lại cho tôi, cô chú và hàng xóm dấm dúi giúp đỡ… Đủ để cho tôi ăn học trong 2 tháng..

Tôi gạt nước mắt, vác ba lô lên trường để tiếp tục đi học, để lại ở quê cô em gái bé nhỏ hàng ngày vẫn nặng nề đôi gánh trên vai, bước thấp bước cao trên những con dốc chợ miền núi “Ai bèo lọc nậm không…”

(Cusiu)

ANH CHƯA TỪNG BỎ RƠI EM

ANH CHƯA TỪNG BỎ RƠI EM

Tiền trong nhà ngày trước cha mẹ để lại đã tiêu hết, người anh trai không đành lòng để em gái ở nhà đợi chết, cậu dùng chiếc xe kéo tự chế của mình đưa em tới một bệnh viện lớn trên thành phố.

Bác sĩ bị tình cảm của hai anh em làm cho cảm động, sau khi họp bàn các bác sĩ quyết định miễn phí làm phẫu thuật cấy ghép thận, người hiến thận tất nhiên là người anh trai câm của cô bé.

Sau đó bác sĩ lại dẫn cậu anh trai vào phòng làm việc, thẳng thắn nói với anh:

“Nếu hiến thận của cậu cho em gái, thì cô bé có thể sống, nếu không hiến, em gái cậu sẽ nhanh chóng qua đời. tuy nhiên nếu trong cuộc phẫu thuật có gì sai sót, thì tính mạng của cậu cũng có thể là không giữ được”.

Người anh trai câm, sắc mặt tái nhợt, trong lòng nặng trĩu, đầy những suy nghĩ, và có chút do dự. Một lúc sau anh ngẩng đầu nhìn bác sĩ và gật đầu vẫn tiếp tục làm cuộc phẫu thuật này cho em gái. Bác sĩ vui mừng vỗ vai anh, bảo anh về nhà đợi.

Không ngờ, buổi chiều ngày hôm đó, người anh trai câm liền mất tích. Vị bác sĩ hỏi Tiểu Tiểu:

“Rốt cuộc anh trai cháu đã đi đâu? Lúc đi có nói gì với cháu không?”

Tiểu Tiểu nói: “Anh nói với cháu, phải về nhà 1 chuyến”.

Bác sĩ thấy có chút kỳ lạ, nhớ đến sắc mặt tái nhợt khi ông nói với người anh trai câm về sự cố không may xảy ra trong phẫu thuật. Ông cau mày nói:

“Sắp đến ngày phẫu thuật rồi, tại sao anh trai cháu còn về nhà làm gì?”

Tất cả đều đã chuẩn bị kỹ càng, chỉ cần đợi người hiến thận là xong, nhưng vào giờ phút này người anh trai câm lại bỗng dưng mất tích, khiến cả bệnh viện náo loạn.

Một ngày nữa lại trôi qua, người anh trai câm vẫn chưa xuất hiện. Tất cả ý tá, bác sĩ trong viện đều biết chuyện, tất cả mọi người đều không nói ra, nhưng trong lòng đều cho rằng anh nhất định vì sợ quá nên đã chuồn rồi.

Do lo lắng Tiểu Tiểu không chịu được sự đả kích này, bác sĩ và các y tá đều không dám nói trước mặt cô bé. Bất kể là như vậy, Tiểu Tiểu từ sắc mặt của mọi người cũng có thể đoán được ít nhiều, trên khuôn mặt của cô bé không còn những nụ cười vui tươi nữa, cả ngày cô bé đều khóc lóc.

Thời gian phẫu thuật cũng sắp đến, lúc đó, có một người vội vội vàng vàng chạy vào phòng bệnh. Thì ra đó chính là người anh trai câm đã mất tích mấy ngày qua của cô bé.

Tiểu Tiểu vừa nhìn thấy anh, dùng những động tác hình thái để nói chuyện với anh, một lúc sau cô bé bỗng khóc òa.

Mọi người có mặt trong phòng đều mơ hồ: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”, cuối cùng vì cảm xúc của cô bé lên cao quá mà cuộc phẫu thuật phải hoãn lại.

Vị bác sĩ tò mò hỏi Tiểu Tiểu: “Tất cả mọi người đều muốn biết, vừa rồi, cháu và anh trai đã nói gì với nhau vậy?”

Tiểu Tiểu lau nước mắt, nghẹn ngào nói:

“Cháu hỏi anh trai về nhà làm gì, vì bác sĩ đã miễn phí tiền viện phí và chi phí phẫu thuật rồi, anh nói với cháu là mấy ngày qua anh về nhà để vào rừng kiếm củi, gánh nước. Với số củi và nước đó cháu có thể dùng trong vòng nửa năm”.

Bác sĩ ngạc nhiên hỏi: “Anh trai cháu sao lại làm như vậy?”

Tiểu Tiểu vừa cười vừa khóc nói:

“Cháu cũng hỏi anh như vậy, anh nói để nếu có lỡ xảy ra chuyện gì trong lúc phẫu thuật, nếu anh có qua đời thì cháu cũng không phải lo về việc không có củi đốt và nước dùng”.

Khi đó mọi người mới hiểu những ngày qua không phải vì anh muốn bỏ rơi em gái ở lại, một mình chạy trốn, mà là vì anh muốn chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống của người em sau cuộc phẫu thuật nếu như anh không còn ở bên. Biết chuyện ai nấy đều cảm động trước tình cảm của anh dành cho em gái.

Được làm anh em trong cùng một gia đình là phúc phận của mỗi người. Hãy luôn yêu thương quý mến nhau, vì không phải ai cũng có may mắn hạnh phúc đó. Tình cảm anh em là một trong những tình cảm quý giá mà ai cũng nên trân quý.

Nguồn: Sưu tầm

From: Duong, Paul H  

 CHUYỆN CẢM ĐỘNG VÀ ĐÁNG SUY NGẪM

 CHUYỆN CẢM ĐỘNG VÀ ĐÁNG SUY NGẪM

Một vụ nổ xảy ra tại Donetsk, Ukraine, ngày 20/10/2014

Căn nhà bốc cháy, người chủ trước lúc chạy thoát thân đã nhớ và tháo bỏ dây xích của chú chó trong nhà, hy vọng nó cũng mau theo chủ bỏ chạy ra ngoài. Nhưng không …. con chó này đã không làm như thế mà quay đầu xông vào căn nhà đang cháy.

Đây là điều người chủ không ngờ tới, nhưng lửa mỗi lúc một lớn, họ không tài nào quay trở lại để cứu con chó của mình. Khi người chủ còn đang lo âu nôn nóng, thì con chó từ trong biển lửa xông ra, miệng đang ngậm một chú mèo con.

Con mèo này cũng là thú nuôi của gia đình, cả hai vẫn đùa giỡn với nhau, vậy nên khi ngọn lửa bùng cháy, phản ứng đầu tiên của chú chó chính là đi cứu bạn.

Hành động dũng cảm của chú chó này đã khiến người chung quanh cảm động. Con mèo con thân thể gầy yếu, bị mắc kẹt trong biển lửa, không biết lối nao mà chạy; nếu chú chó không quay lại cứu, mèo con chắc hẳn sẽ chết trong biển lửa.

Trong lúc nguy cấp đó, chú chó không một chút do dự, lao vào biển lửa để cứu người bạn thân. Tình bạn có hậu của nó rất đáng cho chúng ta thán phục.

Chính chúng ta đây, ngay tại thời khắc giữa sự sống và sự chết, sẽ có người chỉ lo cho mạng sống của riêng mình, nhưng chú chó này hoàn toàn ngược lại. Chú không ngại tình huống sống hay chết.

Câu chuyện cho chúng ta thấy rằng hãy trân quý cuộc sống, ngay cả của những con vật, và tất cả mọi thứ xung quanh bạn, bởi chúng đều có linh tính và tình cảm.

Xin chuyển cho mọi người để càng nhiều người hơn nữa biết được câu chuyện cảm động này.

St.

Image may contain: outdoor

Ðầu Ðường Xó Chợ – 1934 – Nhất Linh

Ðầu Ðường Xó Chợ – 1934

Nhất Linh

Từ năm thầy tôi mất, anh chị tôi rời bỏ chốn quê nhà đi tha phương cầu thực, đến ở một túp nhà tranh ở ngay đầu chợ C… Bắt đầu từ đó, tôi bỏ cái đời cũ là cái đời một cậu con quan ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời riêng mới cho tôi: tôi gọi là cái đời đầu đường xó chợ.

Năm ấy tôi mới mười ba tuổi.

Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái xã hội quí phái của tôi ngày trước: này gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộc bán nồi đất.

Từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những gian nhà xiêu vẹo, tối tăm, bẩn thỉu. Trước nhà một cái rãnh nước dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối, giẻ rách.

Thật là một xã hội xấu xa, mà xấu xa vì nghèo khổ quá. Tự nhiên tôi đem lòng mến những đứa trẻ cùng trạc tuổi tôi của những gia đình hèn hạ ấy: cái Nhớn, thằng Cu, con Tẹo là bạn tôi cả. Tôi đã trông thấy chúng ăn cả bữa cơm có dúm muối, vài quả cà thâm hay đĩa rau sam luộc, tôi đã thấy chúng nhặt những gốc mía người ta vứt đi mà chia nhau hít cho đỡ thèm, nên tôi thương; chiều mát tôi đi với chúng ra đồng, xem chúng đặt những cái lờ vào các lạch con để bắt tôm cá. Chúng được nhiều tôm cá, tôi cũng mừng hộ và tôi đợi đến bữa cơm của chúng để xem trong mâm có được thêm đĩa cá rô kho hay mấy con tôm đỏ nào không.

Người mà tôi quí nhất hồi đó là chị Hiên, vợ một người phu xe ở xế cửa nhà tôi.

Nguyên anh chị tôi được lĩnh một cái ty bán thuốc phiện, nên chị Hiên thường lui tới mua thuốc cho chồng. Lần đầu tôi trông thấy chị ta, tôi đem lòng thương hại ngay. Bây giờ tôi mới rõ rằng tôi có cái cảm tình đó vì chị Hiên còn trẻ, xinh và có duyên, lại lấy phải chồng nghiện ngập, xấu xí. Nhưng chị Hiên thì không nghĩ như tôi. Cả ngày chị cặm cụi ngồi đan lờ trong khi chồng đi kéo xe vắng. Hôm nào chị bán lờ được một hào, chị mua cho chồng một hào thuốc thì chị lấy làm vui vẻ, sung sướng lắm.

Chị không nghĩ gì đến thân chị, có cái áo nâu đã bạc, đã vá tay, vá vai, vá lưng mà chị không chịu để dành tiền may cái áo mới.

Trí non nớt của tôi không sao hiểu được cách hành động của chị đối với một người chồng nghiện ngập, hèn hạ như thế.

Một hôm, tôi sang bên nhà chị, thấy chị ngồi gục đầu vào cánh tay, bên cạnh mấy chiếc lờ đan dở. Tôi vào, chị ngẩng lên nhìn, hai con mắt như có ngấn lệ. Tôi vừa định quay ra thì chị ta vẫy tôi lại gần hỏi khẽ:

– Này cậu, cậu có một hào, cậu cho tôi vay, vài hôm tôi giả.

– Tôi làm gì có tiền cho bác vay! Bác vay làm gì?

Chị Hiên lẳng lặng chỉ vào trong buồng. Tôi hỏi:

– Bác giai đau phải không? ốm hay sao mà rên dữ thế?

– Cậu ạ, hai ngày hôm nay, nó lên hai cơn sốt rét, không đi kéo xe được. Nhà không có tiền, tôi phải nhịn cơm từ hôm qua, nhưng nguy nhất là hết tiền mua thuốc. Đã ốm mà cơn nghiện lên thì chết mất. Hay cậu về ăn cắp ở nhà một hào chỉ cho tôi vay.

Tôi mỉm cười, lắc đầu:

– Chiều tối, bác mang tiền lại mua thuốc, tôi thêm cho ít nhiều thì họa may… còn tiền thì tôi không thể nào có được.

Vừa lúc ấy con gà trống to của anh chị tôi nuôi lởn vởn đến bên cạnh mẹt vừng của chị Hiên phơi trước cửa. Chị Hiên tay xua con gà, miệng nói đùa:

– Giá được con gà này mà bán thì chồng tôi tha hồ hút.

Đã khuya, nhà tôi đóng cửa đi ngủ, bỗng có người gọi mua thuốc.

Tôi nhanh nhẹn cầm cây đèn hoa kỳ ra vì tôi biết chắc đấy là chị Hiên mua thuốc cho chồng. Qua khung cửa bán thuốc, một cái bàn tay thò vào cầm một cái vỏ hến trong có một hào chỉ đã nhẵn mặt. Chị tôi cầm lấy đồng hào, nhìn đi nhìn lại rồi nói:

– Đưa hào khác thì bán, hào này nhẵn mặt lắm không tiêu được.

Tôi lo lắm, và tôi chắc chị Hiên đứng ngoài cửa còn lo gấp mấy. Tôi vội bảo chị tôi:

– Thôi, chị cứ nhận cho người ta, mai giả nhà đoan cũng được.

Tôi không dám nói rõ vì tôi biết chị tôi ghét vợ chồng nhà này lắm.

Khi chị tôi cân thuốc xong, quay lưng đi, tôi vội cầm cái que thuốc rỏ thêm vào trong hến một giọt. Lúc đưa cho chị Hiên, tôi bảo khẽ:

– Thêm cho rồi đấy nhé.

Tôi vừa đóng xong cái cửa bán thuốc thì ở ngoài bỗng có tiếng kêu:

– Chết tôi rồi, cậu cho tôi mượn cái đèn, đổ cả rồi!

Tôi đưa đèn ra xong rồi nhìn qua khe cửa, thấy một cảnh tượng không bao giờ tôi quên được; hến thuốc đổ sấp xuống đất, thuốc bắn tung ra thành từng chấm đen nhánh. Chị Hiên cúi xuống lật cái hến lên, cái hến chỉ còn rây một ít thuốc; trong lúc hấp tấp chị lấy ngón tay quệt thuốc dưới đất cho vào hến, nhưng thuốc lẫn cả với đất còn hút gì!

Không làm sao được, chị nhặt cả những hòn đất có dây thuốc để vào bàn tay – Rồi chị cứ ngồi đấy khóc thút thít. Sau thấy chị tôi giục đem đèn vào, tôi phải để mặc chị Hiên ngồi khóc trong bóng tối. Tôi vừa đặt mình xuống giường nằm thì vẳng có tiếng người cãi nhau, tôi chắc là ở nhà chị Hiên, chồng chị đương đánh mắng chị ta.

Sáng hôm sau, tôi sang nhà chị Hiên sớm, thấy chị ta ngồi dựa vào góc, đầu tóc bù xù, vẻ người mệt mỏi, trên trán có một chỗ sưng tím lên. Tôi không thấy mấy cái lờ nan đan dở để đấy, liền hỏi:

– Bác bán lờ đi rồi phải không?

– Không, tôi cất ở dưới bếp.

– Thế hào chỉ hôm qua?

Chị ta thấy tôi hỏi đường đột, nhìn tôi có vẻ sợ hãi, nói một cách hoảng hốt:

– Tôi vay của…. Không! Người ta trả nợ tôi.

– Bác mà có người nợ tiền.

– ấy nợ cũ… đã lâu.

Vừa nói đến đấy thì nghe bên nhà tôi có tiếng người nói to, con đỏ nhà tôi chạy ra ngơ ngác như tìm một vật gì. Tôi hỏi thì nó trả lời:

– Nhà mất con gà, con gà sống thiến to nhất…

Chị Hiên hỏi tôi:

– Con gà nào thế cậu nhỉ!

– Ấy con gà hôm qua nó sang đây mổ vừng của bác ấy.

Chị Hiên thốt nhiên nói:

– Chết tôi rồi! Gà nhà cậu!

Tôi hỏi:

– Làm sao mà chết?

Chị Hiên luống cuống như định nói lại thôi, nhưng cái trí non nớt của tôi đã hiểu rõ, đã đoán ra hết. Tôi ngắm lại chị ta thấy vẻ mặt tái mét, nửa vì đói, nửa vì lo mà tôi đem lòng thương hại vô cùng. Vì hết lòng với chồng phải đi ăn trộm gà lại bị chồng mắng. Tự nhiên tôi muốn tìm cách chống chế cho người đã ăn cắp gà nhà tôi.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo chị ta:

– Được! Bác đừng lo, bác để mặc tôi!

Rồi tôi về nhà chạy thẳng ra cổng sau nhìn xuống sông, bảo chị tôi rằng:

– Nhà mất gà phải không, thôi đừng tìm nữa vô ích, hôm qua tôi thấy con gà giống con gà nhà ta đậu ở dưới thuyền buôn nồi đất. Bây giờ họ đi họ cuỗm đi rồi. Còn biết thuyền ai mà hỏi.

Tôi lấy làm tự đắc rằng đã tìm được một kế hay và rất mừng rằng cái kế đó hiệu nghiệm, vì chị tôi coi như mất hẳn con gà rồi, không cho người đi tìm nữa.

Tôi còn bé không hiểu rằng giúp đỡ một người ăn cắp thế là tốt hay xấu, tôi chỉ biết rằng trong lòng tôi lúc bấy giờ vui vẻ lắm, vui vẻ vì cứu thoát được một người khổ sở, đáng thương.

Về sau, tôi càng ngày càng cách biệt với cái xã hội đầu đường xó chợ ấy. Đến nay đã gần hai mươi năm, cái cảnh đời cũ đã lờ mờ trong trí nhớ, nhưng câu chuyện của chị Hiên thì không bao giờ tôi quên được.

Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thủa còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa.

Nhất Linh – 1934

Image may contain: one or more people and outdoor

Vụ án mẹ già tạt xăng đốt nhà con gái ruột: Bản án nào cho con?

Câu chuyện buồn

Vụ án mẹ già tạt xăng đốt nhà con gái ruột: Bản án nào cho con?

02/11/20

Người mẹ già cô độc, ngồi trong phiên tòa. (Ảnh qua BaoPhapLuat)

Bà Võ Thị Ánh Nga (SN 1940) có tổng cộng 5 người con và nhiều cháu, nhưng bà chỉ sống một mình trong căn nhà tại đường liên khu 1/6 (phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP.HCM).

Nuôi lớn cả thảy 5 con cho đến khi dựng vợ gả chồng, nhưng bà vẫn không nhờ được vào đứa nào chăm sóc cho mình. Phần lớn ngôi nhà đang ở, bà cho người ta thuê để lấy tiền sinh sống, đồng thời cũng có người qua lại, trò chuyện cùng bà, khiến căn nhà đỡ trống vắng hơn.

Một ngày nọ, đứa con gái lớn của bà là Võ Thị Ánh Hà (SN 1959) dắt theo cả đại gia đình, gồm chồng và 10 con về tá túc nhờ nhà mẹ. Bà Nga vui vẻ đồng ý, nhưng trong thời gian sống chung, hai mẹ con liên tục cãi vã nhiều lần. 

Lừa đảo mẹ ruột để chiếm đoạt tài sản

Có lẽ từ lâu, người con gái đã có ý định muốn chiếm đoạt căn nhà của mẹ ruột. Do đó, trong một lần, chị Hà thủ thỉ với mẹ rằng, muốn vay vốn ngân hàng 50 triệu để kinh doanh, mong bà Nga đi cùng mình đến văn phòng công chứng làm thủ tục.

Lợi dụng bà Nga không biết chữ, phòng công chứng cũng không đọc nội dung văn bản đã ký cho bà Nguyệt nghe. Thân làm mẹ, mà con cái nhờ vả, bà thương con nên tin tưởng không chút nghi ngờ. Nào đâu, cái chữ ký hôm đó, bà đã chính thức giao toàn bộ tài sản của mình cho người con.

Kể từ đó, chị Hà cũng không còn nhân nhượng với mẹ nữa, mỗi lần có gì không như ý, là chị Hà mắng chửi, ngược đãi mẹ thậm tệ, hai mẹ con cứ liên tục khắc khẩu nhau như thế trong thời gian dài. Bà Nga cảm thấy khó mà sống hòa hợp nên yêu cầu gia đình con gái hãy rời khỏi nhà bà.

Lúc này, người con cũng lật bài ngửa với mẹ, chị Hà gằn giọng:  “Ngôi nhà bây giờ là tôi đứng tên, nếu phải ra khỏi đây, thì người đó chính là bà”.

Bà Nga bị sốc trước lời con gái nói, càng không tin sự thật, rõ ràng bà chưa từng đồng ý sang tên nhà cho con, nên đã lên UBND quận Bình Tân để tìm hiểu.

Lúc này thì bà mới ngã ngửa, hóa ra cái hôm ký giấy thế chấp cho vay mà con gái nói, chính là giấy sang tên chuyển nhượng nhà. 

Hồ sơ lưu ở phòng công chứng Gia Định có ghi rõ ràng rằng, ngày 26/4/2010, bà Nga đến làm hợp đồng nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho con gái là Võ Thị Ánh Hà. Từ hợp đồng này, chị Hà đã làm thủ tục sang tên chị. Ngày 4/6/2010, UBND quận đã cấp sổ đỏ cho “chủ mới”.

Bà Nga đau đớn quyết liệt phản đối, cho rằng mình đã bị lừa, vì lúc ký kết bà không hề hay biết gì cả. Tuy nhiên, giấy trắng mực đen đã rõ ràng, bà Nga chỉ biết nuốt đắng vào lòng.

Có một lần trong lúc tranh cãi với con, bà Nga bị con gái tiếp tục đuổi ra khỏi nhà, bà giận bỏ nhà đi bụi 2 – 3 ngày mới về. Khi về đến nhà, do mệt quá, bà nằm xuống chiếc ghế bố để chợp mắt một chút. 

Nào ngờ đứa con gái thấy mẹ về không những không vui mừng, còn cầm chân mẹ lôi dậy, mắng chửi té tát: “Bà về đây làm gì, biến đi!”.

Âm thầm đốt nhà rồi bỏ đi bụi

Đau đớn trước câu nói của con, bà Nga tức giận không kìm được, canh lúc cả nhà đang nằm ngủ trưa, bà âm thầm đi ra cây xăng, mua 50 ngàn xăng về đổ lên yên 2 xe máy dựng trong nhà. Tiếp đến bà ngắt cầu dao điện, lấy một tờ báo châm lửa ném vào 2 chiếc xe máy. 

Ngửi thấy có mùi khét, cả nhà chị Hà tỉnh giấc, hô hoán nhau chạy thoát ra khỏi nhà an toàn. Vụ cháy đã thiêu hủy 2 chiếc xe máy và nhiều tài sản trong nhà, tổng thiệt hại khoảng 200 triệu đồng. Đứa con bé nhất của chị Hà cũng bị bỏng nặng sau đám cháy.

Bà Nga sau đó cũng bỏ nhà đi mất tích, không ai tìm thấy bà đâu nữa.

Không biết mình bị truy nã, vui vẻ theo công an đi về đồn

Sau vụ án đốt nhà, lệnh truy nã bà Nga được chuyển về phòng Cảnh sát truy nã tội phạm (PC52) Công an TP.HCM, và giao cho trinh sát Nguyễn Thành Công thực thi. 

Trong quá trình tìm bà Nga, tổ trinh sát có đi qua các nhà con cái của bà, nhưng bà không ở với ai cả. Do hành tung bà bất định, nên công an phải mất nhiều ngày mới tìm kiếm ra được nơi trú của bà.

Hóa ra, bà đi bán vé số dạo để kiếm tiền, ăn bờ ngủ bụi ở khắp nơi, trên các con phố, vỉa hè, gầm cầu,… có những đêm mưa to, bà không có nơi trú thân nên người ướt nhẹp, đứng núp ở vỉa hè cả đêm không chợp mắt. Gầm cầu thì trú được mưa, nhưng nơi đó không an toàn, vì là nơi nhiều tay nghiện ngập, giang hồ lui tới, do đó bà không dám ngủ ở đó nữa. 

Bà đi bán vé số dạo để kiếm tiền, ăn bờ ngủ bụi ở khắp nơi, trên các con phố, vỉa hè, gầm cầu,… (Ảnh minh họa)

Nhiều người tội bà nên mách, buổi tối xin vào chùa ngủ nhờ, nhưng bà không chịu được sự cô quạnh nên lại tìm đến vỉa hè để ngủ, chẳng nơi đâu là nơi ở cố định của bà. 

Sau một thời gian lang thang, bà may mắn gặp được một gia đình tốt bụng ở phường Bình Trị Đông A, họ cho bà căng tấm bạt trước vỉa hè nhà để trú tạm, còn cho bà sử dụng chung nguồn nước. Trong nơi ở của bà, chỉ có một túi nilon treo vài bộ quần áo, một túi khác treo một chiếc xoong, vài cái chén…

Người trinh sát khi tìm thấy bà, từ xa xa anh bỗng khựng lại khi nhìn thấy cảnh tượng trước mắt mình. Kẻ tội phạm mà anh sắp bắt về đồn, chính là một bà lão mái tóc bạc phơ, thân hình gầy gò, nhỏ thó, gương mặt bà khắc khổ, bi thương, khiến người khác phải chạnh lòng.

Có lẽ hôm nay bà đã thấm mệt sau những ngày dài vất vả ngoài đường, nên bà đã ngủ thiếp đi trên chiếc võng đang treo vắt vẻo. Dáng vẻ co ro, mệt mỏi ấy, khiến người trinh sát cũng không dám đến làm phiền.

“Có lúc tôi nghĩ, hay quay về, không bắt nữa. Nhưng một phần đó là nhiệm vụ, phần nữa đã có lệnh truy nã, tôi không bắt thì người khác cũng bắt. Tôi cố gắng làm cách nào để bà lão cảm thấy nhẹ nhàng nhất”, Trinh sát Công kể lại.

Đồng thời, sau một hồi suy nghĩ, anh cũng chia sẻ thêm rằng: “Và cuối cùng tôi lại nghĩ đến việc đưa bà lão về quy án, để kết cho ‘xong tội’, phần vì ở trại giam còn không khổ sở như lang thang vỉa hè kiếm miếng ăn; cuối cùng tôi quyết định bắt”. 

Mãi đến 16h chiều, trời lúc này đổ mưa to, hai người trinh sát, kiếm cơ hội chạy đến xin trú mưa dưới tấm bạt của bà. Bà lúc này chẳng hề hay biết họ đến để mang bà đi, nên vẫn niềm nở chia sẻ nơi ở của mình cho những người khách lạ.

Phân vân một lúc, người trinh sát bèn mở lại hỏi chuyện bà: “Cô có phải cô Ánh Nga không? Con nghe nói cô mâu thuẫn với con gái, con là công an, mời cô về phường nói chuyện được không?”. 

Nghe thấy có người hỏi thăm mình, bà tủi thân trút hết nỗi lòng tâm sự, vui vẻ theo những người trinh sát lên xe đi về đồn. Nhưng khi đến nơi, bà mới biết mình là tội phạm bị truy nã, vốn dĩ bà tức con nên chỉ định đốt nhà cho hả giận, chẳng biết như thế là phạm pháp.

Lúc này, bà oán trách, gào khóc, bằng sức lực yếu ớt, bà lao vào đánh người trinh sát như để tuôn cho hết những uất ức trong lòng mình. “Con tôi nó cướp nhà tôi, mấy chú không bắt nó, sao lại đi bắt tôi”. 

Tiếng khóc bà như xé lòng, người trinh sát thì cười buồn: “Những lần khác tìm được đối tượng trốn nã, bắt họ về quy án là tôi thấy nhẹ cả người, sao lần này lại thấy lòng nặng trĩu. Bà có sai cái lý thì bị pháp luật trừng trị, nhưng đúng là vụ án này thấy ẩn khuất cái tình. Con cái đối xử bất hiếu với người có công sinh thành nuôi dưỡng mình như vậy, pháp luật nào xử họ, cảnh sát nào có quyền ‘truy nã’ họ đây?”.

Tại phiên tòa TP.HCM, nơi bà Nga bị kết tội, hết thảy 5 người con, không một người có mặt, chỉ mình bà ngồi bơ vơ, tội nghiệp, lắng nghe những lời phán quyết dành cho mình.

HĐXX nhận định, bị cáo đã già yếu, hành vi cũng xuất phát một phần từ lỗi của bị hại, và bị hại cũng đã bãi nại; nên sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt. Tòa tuyên xử bà Nga hai năm tù, cho hưởng án treo, với tội danh Huỷ hoại tài sản.

Nghe toàn tuyên án, bà Nga rơi nước mắt, vì bà không còn nơi nào để đi nữa. Con gái thì ngược đãi mẹ, các con trai đã có gia đình riêng, nên bà không thể ở cùng được.

“Bây giờ được thả, tôi không biết phải ở nhờ nhà ai đây”, bà nói trong nước mắt.

Chẳng ai biết rồi cuối cùng bà sẽ ở đâu, chỉ biết hơn 2 năm sau khi vụ án xảy ra, ngôi nhà cũ của bà, đã được người con gái xây lên 2 lầu khang trang, còn người mẹ già yếu gần đất xa trời, vẫn phải bán vé số lang thang khắp nơi. /-

Chúc Di (t/h)

From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen

Sau vụ tai nạn giao thông ấy…

Nguyen Thi Kim Hong

 Image may contain: 1 person, sitting

Cảm động quá

Sau vụ tai nạn giao thông ấy, người ta đưa chị vào viện, chị đã đấu tranh giành giật sự sống trong hai ngày. Anh muốn đưa con gái vào thăm nhưng chị cố cản lại, giọng yếu ớt: “Đừng, đừng. Anh đừng làm con bé sợ”. Nói rồi nước mắt chị ứa ra chảy tràn hai bên khóe mắt. Sinh mạng của chị chỉ còn mong manh như sợi chỉ.

Trước khi ra đi chị luôn miệng gọi tên con gái. Tiếng chị nhỏ dần nhỏ dần dường như không phát ra tiếng được nữa, chỉ thấy môi mấp máy nói gì đó. Anh phủ phục bên cạnh chị, nhắc đi nhắc lại một câu: “Anh biết rồi. Anh biết rồi”. Anh nắm chặt tay chị, áp mặt vào bàn tay lạnh cóng của chị, mặc cho bàn tay ấy cứ lạnh dần, lạnh dần…

Đứa bé vừa tròn một tuổi đang sống với bà nội ở quê. Nó đang lắp bắp học nói, hàm răng cũng mới nhú lên được mấy chiếc nhỏ xíu. Hàng ngày nó vẫn chơi, vẫn cười, vẫn khóc. Nhưng bất luận là cười hay khóc, nó cũng đều rất vui. Một đứa trẻ mới tròn một tuổi đã hiểu gì về cái chết, làm sao hiểu nổi chiếc ô tô màu xanh giống chiếc ô tô trong bức tranh lại có thể cướp đi sự sống của mẹ nó, khiến nó vĩnh viễn mất mẹ.

Anh về quê đón con. Trên ô tô, anh phải hết sức kìm nén mới không để bật ra tiếng khóc. Phải nói với con gái thế nào đây? Nếu được lựa chọn, anh thà để chiếc xe đó đâm vào mình. Nếu không có con gái anh đã muốn chết cùng với chị. Nếu con gái có thể lượng thứ, anh muốn xin lỗi con một nghìn lần…

Nhưng phải nói với con thế nào đây? Anh nói: “Mẹ đi làm kiếm tiền, còn lâu mới về”. Con gái chớp mắt bập bẹ: “Mẹ! Mẹ!”. Nhưng mẹ đã đi kiếm tiền ở một nơi rất xa, rất xa, xa đến nỗi trên bản đồ cũng không tìm thấy, còn rất lâu, rất lâu mới có thể về.

Con gái lại chớp chớp đôi mắt đen tròn bập bẹ: “Mẹ! Mẹ!”.

Anh quay mặt đi nhìn ra ngoài cửa sổ, nuốt những giọt nước mắt vào trong. Những cánh đồng hoa cải trải vàng trước mắt làm anh như nhìn thấy chị chạy trên cánh đồng ấy ngày nào. Hình ảnh chị những giây phút cuối cùng với giọng nói yếu ớt: “Em nhớ con lắm, nhưng anh đừng đưa con đến, nó nhìn thấy em sẽ sợ…”.

Thời gian qua đi, hàng ngày anh thay chị kể chuyện, giặt quần áo, nấu cơm, mua đồ chơi cho con gái. Anh đến nhà trẻ đón con, không quên cắm trên đầu một chiếc ăng ten, đóng giả thành người ngoài hành tinh cho con thích thú. Anh đưa con đến công viên để nó được chạy tung tăng trên bãi cỏ như ngày xưa ấy. Anh cố gắng để con quên đi người mẹ, cố gắng làm cho tuổi thơ của con tràn đầy ánh nắng. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích, thỉnh thoảng vào đêm khuya nó lại nhắc: “Bố, mẹ đâu bố? Khi nào mẹ về?”.

Anh quay đi tránh không nhìn vào mắt con gái – đôi mắt trong veo đầy mong ngóng. Nó mới bốn tuổi đầu, nhưng sao trong mắt nó lại chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm đến thế?

Cảm thông cảnh ngộ của anh, nhiều người đã giới thiệu vợ mới cho anh. Nể họ anh cũng đi gặp mặt đôi ba lần nhưng rồi lại bỏ đó không liên hệ tiếp. Gần đây, tối tối anh thường nhớ đến chị, nhớ sự dịu dàng lương thiện của chị, nhớ hình dạng chị chạy trên cánh đồng ngan ngát hương thơm. Anh biết rõ chị đã đi rất xa không bao giờ trở về, nhưng anh vẫn nhớ chị đến bạc cả tóc.

Một buổi sáng soi vào gương, lúc dùng tay vuốt ngược tóc lên, anh bỗng phát hiện thấy những sợi tóc bạc trắng lẫn trong tóc đen. Anh giật mình, anh chỉ mới 29 tuổi…

Anh biết con gái nhớ mẹ, anh cũng biết kí ức về mẹ trong nó rất mờ nhạt. Một tuổi thì con có thể lưu giữ lại được bao nhiêu hình ảnh hoàn chỉnh về mẹ? Con nhớ mẹ chẳng qua vì con cũng muốn được có mẹ như những đứa trẻ khác mà thôi. Vì con biết rằng đáng lẽ con cũng phải có một người mẹ chứ.

Anh vẫn thường nói với con: “Mẹ đã đi đến một nơi rất xa. Trên bản đồ cũng không tìm thấy… Có lẽ cũng sắp về rồi!”. Bà nội nó cũng nói thế, hàng xóm nhà nó cũng nói thế, ngay cả cô giáo ở vườn trẻ cũng nói thế… Mọi người đều nói với nó như thế, nhưng khi nói trong lòng đều cảm thấy xót xa. Thực ra phải che giấu sự thật phũ phàng đó với một đứa trẻ chưa hiểu sự đời, ai cũng cảm thấy khổ tâm.

Một lần, người chị gái của vợ đến thăm hai bố con. Chị ái ngại nói với anh:

– Em lấy vợ đi, em và con gái không thể sống mãi thế này được.

Anh gạt đi:

– Em chưa quên được cô ấy.

– Chị biết em vẫn còn yêu nó, chị cũng thương nó… Nó là vợ em, cũng là em gái chị. Nhưng em cứ sống thế này thì không phải là cuộc sống. Hãy tìm một người phụ nữ tốt, cô ấy sẽ cùng em chăm sóc con bé. Vợ em trước lúc mất cũng muốn như vậy.

Anh không nói gì, cúi đầu, mắt nhòe đi. Đúng vậy, phải chăm sóc con bé cho thật tốt. Đó cũng là chính nguyện vọng của vợ. Hơn nữa, anh cũng không có quyền giấu con bé mãi như vậy. Con bé đáng thương cũng sắp 6 tuổi rồi.

Và rồi anh cũng gặp được một người phụ nữ tử tế. Cô ấy ít nói, thật thà, lương thiện, cùng anh đi dạo, cùng anh nói chuyện, giặt quần áo cho anh, cũng đến cổng nhà trẻ kín đáo quan sát con bé. Anh vẫn chưa muốn để cô tiếp xúc với con bé quá sớm. Anh sợ một khi lời nói dối bao năm nay của anh bị phát hiện, thì trái tim nhỏ bé yếu ớt của con bé sẽ bị tổn thương như thế nào. Vậy hãy chờ thêm 2 năm nữa vậy, chờ con bé lớn thêm một chút, hiểu biết thêm một chút anh sẽ nói thật hết với con bé.

Hôm đó khi anh dẫn cô vợ mới về, tươi cười nói với con gái: “Mẹ con đã về đây này”. Con bé ngớ ra, dường như không dám tin lời bố. Bố nó lại nói tiếp: “Nhưng mẹ gầy hơn trước… Con không nhận ra mẹ sao?”. Con bé nghiêng nghiêng cái đầu nhỏ bé, suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu.

Anh khẽ cười, thấy có cái gì đó nhói lên trong tim, cũng thấy hơi hơi vui, dẫu sao nó vẫn là một đứa trẻ.

Cô vợ mới của anh kéo va li hành lí vào trong nhà, dang rộng hai cánh tay muốn ôm con bé đang chơi dưới sàn nhà. Con bé vẫn ngớ ra và đứng nguyên tại chỗ, tỏ ra chút lúng túng. Bố nó vội nói: “Kìa, con gái, con không nhận ra mẹ à?”. Con bé vẫn đứng yên, không chịu sà vào lòng mẹ nó. Bố nó giục: “Mau chào mẹ đi con”. Con bé bước lên mấy bước gọi khẽ: “Mẹ”, rồi sà vào lòng cô vợ mới của bố. Lúc này, anh nhìn thấy những giọt nước mắt to nặng của cô ấy lăn dài trên má.

Ăn cơm trưa xong, vợ mới của anh theo con bé đi vào phòng. Cô nói với nó: “Mẹ đọc truyện cho con nghe nhé!”. Con bé nói: “Cháu biết cô không phải là mẹ, cô chỉ là bạn của mẹ cháu thôi phải không ạ?”.

Vợ mới của anh sững người. Con bé nghiêm túc thì thầm: “Cháu nói với cô một bí mật! Mẹ cháu đã chết rồi. Cháu nghe bà nội nói như vậy. Ông bà nội nói chuyện với nhau và cháu đã nghe được. Chỉ có ông, bà và cháu biết là mẹ cháu đã chết thôi, bây giờ cả cô cũng biết nữa. Mẹ cháu chết lúc cháu 1 tuổi, mẹ không bao giờ về nữa, nhưng bố cháu thì vẫn cứ tưởng mẹ cháu đang đi công tác ở nơi xa…”.

Vợ mới của anh vẫn không thốt ra được lời nào, con bé nói tiếp: “Nếu cô tốt với cháu, tốt với bố cháu, cháu đồng ý cô làm mẹ của cháu”. Con bé kéo tay cô, ngoắc ngón tay bé xíu, nói tiếp: “Đây là bí mật của cô cháu mình nhé, không bao giờ được để lộ cho bố biết. Nếu bố biết thì bố sẽ rất buồn…”.

Anh đứng ở cửa phòng, cắn chặt môi, lặng yên nghe con bé nói, bất giác hai giọt nước mắt to nặng ứa ra!

S.T.

MỘT ÔNG BỐN BÀ

MỘT ÔNG BỐN BÀ

Một ông nhà giàu kia … có 4 bà vợ.

– Ông yêu người vợ thứ tư nhất, luôn mua sắm cho bà ta những bộ đồ sang trọng đắt tiền. Ông nâng niu chiều chuộng, “Coi người vợ thứ tư như một món đồ trang sức quý …”.

– Ông cũng rất yêu người vợ thứ ba. Ông tự hào về người vợ này và luôn muốn “khoe” vợ với bạn bè. Tuy nhiên, trong ông luôn thường trực nỗi lo sợ bà bỏ đi với người đàn ôngác.

– Ông cũng yêu người vợ thứ hai. Ông coi bà như người bạn tâm tình, người giúp ông vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Bất cứ khi nào gặp khúc mắc, ông đều tìm đến bà.

– Người vợ thứ nhất lại là người rất chân thành, chung thuỷ, luôn kề vai sát cánh bên ông lo toan chu đáo chuyện gia đình. Tuy nhiên, ông lại không yêu bà vợ thứ nhất. Mặc dù bà rất yêu ông, ông hầu như chẳng bao giờ chú ý đến bà…

Một ngày, ông ngã bệnh. Ông tự biết rằng mình sắp từ giã cõi trần. Ông nghĩ về cuộc sống giàu sang xa hoa và tự nhủ : “Hiện mình có 4 bà vợ. Nhưng khi mình chết, lại chỉ có một mình. Thật cô đơn làm sao !”.

– Ông ta hỏi bà vợ thứ tư : “Tôi yêu mình nhất, luôn dành cho mình sự quan tâm đặc biệt và những điều tốt đẹp nhất. Tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa, liệu khi tôi chết, mình có nguyện đi theo tôi không ?”.

“Không đâu” – Bà vợ thứ tư đáp lại và bước đi.

Câu trả lời như một nhát dao cứa vào.

– Ông hỏi người vợ thứ ba : “Tôi yêu bà nhiều lắm, tôi sắp chết rồi, bà có nguyện theo tôi không ?”.

“Không, cuộc sống vẫn đang đẹp mà. Sau khi ông chết, tôi sẽ tái hôn”. Trái tim ông run lên đau đớn.

– Sau đó, ông hỏi người vợ thứ hai : “Bất cứ khi nào gặp vấn đề khó khăn rắc rối gì tôi cũng đều tìm đến bà. Bây giờ tôi xin bà hãy kề vai sát cánh cùng tôi lần cuối cùng. Khi tôi chết, bà có nguyện đi theo tôi không ?”.

Bà vợ thứ hai trả lời : “Xin lỗi, lúc này tôi không thể giúp ông được. Nếu có, tôi chỉ đưa linh cữu ông ra mộ thôi”.

Ông nghe câu trả lời mà như sét đánh ngang tai. Ông thực sự quá đau đớn vì người mà ông nghĩ có thể tin tưởng nhất cũng bỏ rơi ông.

– Bỗng có một giọng nói cất lên : “Tôi sẽ đi cùng ông, đi đến bất cứ nơi nào ông tới”. Ông dáo dác tìm kiếm chủ nhân của giọng nói và nhận ra đó chính là người vợ thứ nhất, người mà chẳng mấy khi ông để ý tới.

Trông bà gầy và xanh xao quá. Rưng rưng xúc động, ông nói : “Đáng lẽ ra trước đây tôi phải chăm sóc bà nhiều hơn nữa”.

Mỗi chúng ta ai cũng có 4 bà vợ :

Bà vợ thứ tư chính là thân thể của chúng ta. Cho dù ta có chăm chút, trau chuốt đến mấy, rồi nó cũng rời bỏ ta khi ta chết.

Còn bà vợ thứ ba ? Đó chính là của cải, địa vị… Khi chúng ta chết, chúng sẵn sàng đi theo người khác.

Bà vợ thứ hai chính là gia đình và bạn bè. Cho dù có thân thiết đến mức độ nào, khi ta chết, họ cũng chỉ khóc đưa ta ra mộ mà thôi…

Bà vợ thứ nhất chính là tâm hồn ta, thường bị lãng quên khi ta chạy theo tiền tài, địa vị, danh vọng, của cải, nhưng nó sẽ theo ta suốt cuộc đời. Tốt hơn hết là nuôi dưỡng tâm hồn ngay từ bây giờ, vì đó là “người” thân tín nhất bên ta. Đừng để phải hối hận vì đã lãng quên nó…!

PHÚC BÁO

Image may contain: plant, tree, flower, grass, sky, outdoor and nature

 PHÚC BÁO

Vào một sáng Chúa nhật, một phụ nữ trông rất quý phái đi bộ xuống phố, cô phát hiện một người ăn xin. Người đàn ông không cạo râu và quần áo mặc ngược. Mọi người qua đường nhìn anh với sự khinh miệt.

Nhưng khi người phụ nữ này nhìn thấy anh ăn xin, cô lấp đầy lòng từ bi.

Người ăn xin không có được quần bộ áo thích hợp với thời tiết rất lạnh.

Cô cúi xuống hỏi người ăn xin:

– “Thưa anh? Anh không có chỗ trú chân trong thời tiết giá lạnh sao? “

Người ăn xin nhìn nghĩ rằng cô , giống như mọi người khác, chỉ để chế giễu anh ta. Anh tự ái, gầm gừ lên tiếng:

– “Hãy, Để tôi yên!”

Người phụ nữ mỉm cười với anh và nhẹ nhàng hỏi anh có đói không?

Người ăn xin trả lời với một vẻ mỉa mai :

– “Không, tôi ăn uống với tổng thống!”

Sau một hồi tranh luận với sự trợ giúp của cảnh sát khu vực, người phụ nữ cũng đưa được anh chàng ăn xin vào quán ăn. Họ vừa ngồi vào bàn nhân viên quán đã đuổi khéo vì có sự xuất hiện một gã ăn xin bẩn thỉu. Nhân viên quán ăn cho rằng người ăn xin không xứng đáng được họ phục vụ.

Người phụ nữ lấy chiếc ví ra và rút một danh thiếp đưa cho nhân viên quán trong đó có tên: “Sara, Giám đốc nhân sự Ngân hành Thành phố”. Nhân viên quán ngạc nhiên và chấp nhận phục vụ.

Người phụ nữ hỏi anh ăn xin:

– “Bạn có nhớ một cô gái rét và đói, người thường xuyên đến viếng nơi này khi bạn làm việc ở đây?

Anh chàng ăn xin nhìn cô một hồi và nhớ khung cảnh quá khứ hiện về…..

Người phụ nữ kể:

– “Lúc đó, tôi vừa tốt nghiệp và đến thành phố tìm việc làm. Không tìm thấy một công việc nào trong một thời gian rất dài. Tôi hết tiền mặt và bị yêu cầu dọn ra khỏi căn hộ cho thuê. Và tôi sống trên các đường phố. Đây là tháng lạnh của tháng hai, tôi vẫn còn nhớ…”

Khuôn mặt của anh ăn xin đột nhiên sáng lên:

– “Ah,… tôi nhớ cô rồi. Tôi bán bánh tại quầy. Cô đến và hỏi tôi cho một cái gì đó để ăn. Tôi nói rằng nếu làm như vậy là chống lại chính sách của công ty “.

“Tôi biết”, người phụ nữ nói. “Sau đó bạn vẫn mạnh dạn cho tôi chiếc bánh sandwich lớn nhất kẹp thịt bò nướng, một tách cà phê, rồi cho tôi ngồi và thưởng thức bữa ăn”.

Người phụ nữ nói tiếp:

– “Nhớ lại thời khốn khổ, sáng nay tôi ghé qua phố này, không ngờ lại nhìn thấy anh…Anh đừng tự ái… tôi có thể kiếm việc làm và chỗ ở cho anh. Anh đừng lo, tôi có thể sắp xếp được vì tôi hiện nay là giám đốc nhân sự của một ngân hàng lớn trong thành phố”.

Những giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt của anh ăn xin:

– “Biết bao giờ tôi có thể trả ơn để đáp đền lòng tốt của cô.”

Người phụ nữ đỡ lời:

– “Anh đừng nghĩ thế! Hãy cám ơn Chúa GiêSu, Ngài dẫn tôi đến với anh.”

Khi hai người rời quán, người phụ nữ nói với nhân viên: Cảm ơn vì tất cả sự phục vụ của các bạn!

Nhân viên quán ăn:

– “Oh không, thưa quý bà! Ngược lại, cảm ơn quý bà. Hôm nay tôi được nhìn thấy một phép lạ!”

Theo Internet