BỨC CHÂN DUNG

Vũ Thư Hiên

BỨC CHÂN DUNG

Cuộc chuyển trại diễn ra đột ngột. Không có lấy một dấu hiệu báo trước, dù nhỏ. Tịnh không. Mà ai chứ tù tinh lắm. Một động thái mơ hồ nhất của Ban Giám thị, chỉ cần khác thường một chút là lập tức được các bình luận gia chính trị cũng như hình sự phân tích, cho ra ngay một kết luận, nói chung và về đại thể, nếu không đúng hẳn thì cũng gần đúng.

Vậy mà không một ai biết trước cuộc chuyển trại. Mọi sự diễn ra hết sức bình thường những ngày trước đó.

Đùng một cái, tai hoạ ập đến. Mọi người nhớn nhác, mặt xám ngoét, nhưng đến lúc ấy thì không còn gì để đối phó nữa rồi, không kịp nữa rồi.

Cuộc sống thường nhật, dù trong trại tù, lâu ngày đã ổn định, đã thành nếp, cho dù tồi tệ đến mấy, bỗng nhiên lộn tùng phèo. Mất mát đủ thứ. Tan đàn xẻ nghé. Trước mặt là một sự tù mù trên hết mọi sự tù mù, tốt ít xấu nhiều.

Những nhà giam được bố trí thành hàng như những cục gạch xám bỗng chốc xôn xao như những tổ ong bò vẽ. Đã tới giờ mở cửa cho tù ra làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi đi lao động như thường lệ mà cửa vẫn đóng chặt. Hơn một giờ sau mới thấy một toán quân quan vàng khè xuất hiện ở cổng trại, tiểu liên cầm ngang.

– “Loại ”[1]? – một người trong rất nhiều người chen chúc nhau bám vào song sắt cửa sổ để nhìn ra, nói – Dám lắm.

Đến giữa sân, toán công an tản ra thành từng nhóm nhỏ đi về phía các nhà.

– Có vẻ không phải chuyển trại – một tiếng nói cất lên – Chắc chỉ “loại” thôi…

Một hi vọng thốt thành lời. Nó không được đám đông hưởng ứng.

– Đúng chuyển trại rồi – một người to – Nếu không thì súng ống kè kè làm gì…

– Chuyển trại ắt cánh tự giác phải biết – người khác phản bác – Chuyển trại thì họ đã phải đi dọn tủ, khuân hồ sơ từ mấy hôm trước chứ. Cán bộ có khi nào tự khuân vác…

– Hay là có thanh tra Bộ về chăng?

Gì thì gì, sự bất thường như thế này chắc hẳn lành ít dữ nhiều. Mấy anh tự giác thuộc toán lâm sản hối hả chạy đi thủ tiêu đồ vi phạm nội quy – cẩn tắc vô áy náy. Chỗ thủ tiêu tốt nhất, ai cũng biết, là hố xí cuối phòng. Những viên cai tù trẻ mới vào nghề rất mẫn cán mò mẫm mọi xó xỉnh để tìm cớ trừng phạt bọn tù nhân mất dạy cũng chừa chỗ ấy ra.

Đồ phạm nội quy thì nhiều, kể không xiết. Nó có thể là những ống bương đựng dầu diesel ăn cắp ở tổ máy cày dùng cho việc “sột sệt”, “nhặm xà ”, những bọc trà “tự biên tự diễn” to tú hụ do hái trộm mà có, là quần áo dân sự còn mới để bán cho tù được tha, là bật lửa tàu bò, lưỡi dao cạo râu Tiệp Khắc, những vật dụng đời thường nhờ mua bán đổi chác với dân quanh trại. Có thể kể thêm những dụng cụ sắc nhọn dùng để chế tạo nõ điếu, thìa, hộp đựng thuốc lào, do những tay tổ của nghề chạm trổ làm ra, đẹp còn hơn hàng thủ công mỹ nghệ. Cán bộ thường đặt tù làm những đồ vật cầu kỳ ấy với giá rẻ mạt: vài phong thuốc lào. Những thứ này có thể mang về quê làm quà hoặc bán lại. Được dịp tịch thu vô tội vạ những đồ không đâu có thì ai có thể bỏ qua. Quản giáo và lính thu tất tật mọi vật bằng kim khí, là thứ có thể suy diễn thành dụng cụ cưa chấn song hoặc hung khí cho một cuộc thanh toán giang hồ…

Trong căn phòng tối mờ mịt khói thuốc lào, mấy cái bóng xám vọt vào vọt ra nơi chuồng xí, trong khi ở bên ngoài đã vang lên tiếng khoá mở lạch xạch, tiếng then rít ken két.

– Ê, ra sân tập họp!

– Mang theo đồ đoàn. Không được để lại thứ gì.

Tiếng mấy “ông cán bộ” vang lên nơi cánh cửa vừa được mở rộng. Không khí trong lành của ban mai ùa vào.

Một tiếng ồ ngạc nhiên khe khẽ lan nhanh trong đám tù nhốn nháo. Người ta quýnh quáng:

– “Loại”rồi!

– Chuyển trại là cái chắc.

– Thường, đến trại mới người ta mới “loại” cơ mà.

– Chết cha, con dao mày để đâu? Tao cầm bằng mất toi cái tàu bò[4].

– Suỵt! Giấu không kịp đâu. Vứt.

– Tao nhét bao “ken tẩy ”ở đây đấy nhá. Tao hô rồi đấy. Thằng nào “bẩm” tao xin tí tiết. Trong cái nhà này tao biết tỏng thằng nào là Gia Ve .

Nhưng cả tự giác, tù thường, lẫn Gia Ve, đều chưng hửng khi ở sân trại họ được lệnh rỡ hết đồ đoàn để ra trước mặt. Giờ thì tất cả đều như nhau trong cuộc tổng lục soát.

Hầu như người tù nào cũng có một cái gì đó vi phạm nội quy trại, hoặc nhẹ nhất thì cũng bị coi là trái với nó, nếu trong nội quy chưa ghi đủ. Một cái áo rách xé ra bện thành bùi nhùi giữ lửa có thể bị tình nghi là thứ dùng để vượt tường rào. Một tờ giấy viết dở cũng bị nghi là sự thông tin với bên ngoài chưa kịp chuyển đi.

Già Lương, ông hàng xóm của tôi, ngồi xếp bằng tròn trên giường, bình chân như vại. Trong lúc thiên hạ bấn loạn, chỉ có mình già là tỉnh khô, nhìn đời bằng con mắt bàng quan. Thật vậy, già thì có quái gì mà phải lo.

Người ta sợ mất thứ này thứ khác, cuống cuồng giấu giấu giếm giếm, chứ tài sản của già chỉ có một cái tay nải. Tôi biết tỏng trong đó có gì: một bộ quần áo tù còn lành không mấy khi mặc đến, một cái áo trấn thủ còn khá tươm để dành cho những ngày đại hàn, một sợi chỉ dài quấn quanh một cọng tre với một cái kim bằng cật tre. Không kể mẩu khăn mặt rách, to hơn bàn tay, đã thâm xỉn vì mồ hôi nhiều năm. Đồ vật đáng giá hơn cả thì già đã khoác trên người rồi, đông cũng như hè. Đó là cái áo bông vải kaki xanh Sĩ Lâm , loại bán cho cán bộ chứ không bán cho dân, nhưng cũng đã rách, với những mụn vá sặc sỡ,

Già Lương là tù “số lẻ”, tức tù chính trị. Tôi nằm cạnh ông hơn một năm trời nhưng tịnh không biết ông phạm vào tội gì trong cái sự chính trị rất chi là tù mù ở nước ta. Đáp lại câu hỏi của tôi: ông có phải Ku Dét[8]không? Ông lắc. Có phải ông là Đờ Vờ[9]không? Ông lắc. Hay ông bị quy địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân? Ông cũng lắc. Lại hỏi: có phải ông lỡ lời nói xấu chế độ, hoặc lỡ tay chống người nhà nước để phạm tội chống chính quyền địa phương không? Ông cũng lắc nốt. Tóm lại, tại sao già Lương là tù “số lẻ” là câu hỏi không có lời giải đáp. Chỉ biết ông tội danh của ông là “phản động, chống chế độ”, tức là i xì cái tội danh rất chung chung của hơn hai trăm tù “số lẻ” trong trại. Ấy là thân rồi tôi mới dám hỏi già. Chứ trong tù mà hỏi tội danh của nhau là điều tối kỵ. Người ta chỉ tình cờ biết người nào tội gì vào dịp tổng điểm danh, mỗi năm một lần. Chỉ vào dịp ấy cán bộ trại mới gọi tên từng người, mới công khai xướng lên giữa bàn dân thiên hạ rằng ai phạm tội gì, án phạt bao nhiêu năm.

Cuộc lục soát bắt đầu.

Tù ngồi thành từng toán trên sân điểm danh. Mỗi quản giáo trông hai tự giác lục bới tung toé đồ đoàn của từng người. Giờ thì không ai dám thì thào với ai nữa. Sân trại im phăng phắc.

Những người tù, mặt chảy dài, theo dõi đôi tay sục sạo thoăn thoắt của kẻ khám đồ. Chẳng còn cách nào kịp giấu những thứ cầm bằng bị thu. Ở trong tù cái gì cũng quý, từ mẩu đai thùng được mài sắc làm dao chẻ tăm, cắt móng chân móng tay, kể cả mảnh ni-lông gói đồ.

Thường, trong cuộc tổng “loại” như thế cán bộ chỉ thu đồ vi phạm nội quy chứ không phạt kẻ sở hữu. Phạt không xuể. Số người vi phạm nội quy quá đông, mà trại chỉ có một khu kỷ luật với một tá xà lim. Trừ phi phát hiện ra vũ khí, hoặc đồ vật có thể dùng làm vũ khí, đại loại như dao găm hoặc dùi, búa, cưa sắt, người ta mới tống kẻ vi phạm vào “u tì quốc ”, cùm chặt.

Của thu được dần chất thành đống.

Người trông cuộc tổng “loại” là phó giám thị Tằng, biệt hiệu “Tằng ác ôn”. Lùn một mẩu, cằm bạnh, môi thâm, mắt trắng dã, Tằng nghiện ra oai với tù. Đứng trước mặt y, anh tù nào vô phúc có chiều cao nhỉnh hơn y một tí là phải lập tức khuỵu hai đầu gối xuống, cổ rụt lại, hai tay bỏ thõng tối đa – tthấp đi được chừng nào hay chừng ấy. Già Lương thản nhiên nhìn trời. Mọi sự diễn ra chung quanh chẳng làm già động tâm. Cái lối nhìn trời như thế đã nhiều lần bị các quản giáo bắt tội: này, cái anh già vênh vênh cái mặt kia, anh thách thức ai đấy? Anh láo hả? Cụp cái mặt xuống!

Khốn nạn thân già Lương. Nào già có định thách thức ai đâu, có định thách thức cái gì đâu. Tôi biết cái tật ấy của già lắm. Già mải suy cái nghĩ của già, vậy thôi. Có lần mải suy nghĩ và nhìn trời, già đã ăn mấy báng súng vì tội không thèm trả lời cán bộ. Rồi chứng nào tật nấy, già vẫn cứ thế, cứ vênh vênh, không chừa.

– Tránh voi chẳng xấu mặt nào, bác ơi! – trong những trường hợp như thế chính tôi cũng khuyên già – Mình là thằng tù. Một thằng oắt con đáng tuổi cháu gọi bằng ông cũng có quyền cầm roi vụt mình, bác chớ dại…

– Khốn tính tôi cả nghĩ, ông ạ – già chép miệng – Mà đã nghĩ là cứ lan man, dứt không ra. Thí dụ tôi nhớ chuyện các cụ tôi ngày xưa dạy tôi thế nào, các cụ dữ lắm, đòn luôn luôn, có lần tôi mải nhìn trời nhìn đất gặp ông mõ không chào, thế là bị một trận vì tội khinh người… Ông biết đấy, mõ là thứ cùng đinh trong thiên hạ, bị thiên hạ coi rẻ, cơ mà oan cho tôi, tôi nhãng đi không thấy ông ấy, không phải tôi dám khinh. Chao ôi là dữ, cái trận ấy…

Già bắt đầu kể, rồi im bặt, chìm nghỉm trong hồi tưởng..

Lần này cũng vậy. Trung uý Tằng đến trước mặt già mà già không hay. Mà già cao hơn Tằng hẳn một cái đầu. Phải ngước lên mới nhìn được vào mắt già, Tằng đã khó chịu lắm.

– Anh kia, nhìn nhìn cái gì?

Tôi đứng bên già Lương. Tôi huých già một cái mạnh. Già choàng tỉnh. Cúi xuống nhìn Tằng, già chậm rãi hỏi “ông cán bộ ” chỉ đáng tuổi con út hoặc cháu mình:

– Cán bộ hỏi nhà cháu ạ?

– Còn thằng chó nào vào đây nữa? Anh nhìn nhìn cái gì?

Cặp mắt kéo màng của già mở to hơn một chút, đôi lông mày rậm với những sợi lông dài bạc trắng của già hơi nhướng lên một chút.

– Dạ?

Tằng nạt nộ:

– Dạ cái con khỉ. Tôi hỏi anh phải đứng nghiêm trả lời: anh nhìn cái gì?

Già Lương đến lúc ấy mới vỡ câu hỏi. Theo thói quen, già vuốt râu một cái, rồi mới thủng thẳng đáp:

– À, thưa cán bộ, nhà cháu mải nhìn đám mây ạ.

– Đám mây thì có gì mà nhìn? Anh dở người hử?

– Dạ, không, nhà cháu tỉnh trí ạ…

– Thế sao nhìn mây?

– Dạ, nó giống cái kiệu bát cống ạ.

Tằng gườm gườm nhìn già Lương. Rồi hất hàm gọi tay trật tự trại và tay nhà bếp vừa khám xong một người tù ở gần đấy:

– Lại đây. “Loại” thằng này! Tao bảo đảm: nó có vấn đề.

Già Lương lúc ấy mới thật tỉnh hẳn.

Già tự động ngồi xuống, chậm chạp mở nút buộc tay nải. Những ngón tay khô xác run bần bật. Cái đó lại càng gây ra nghi ngờ. Không có gì vi phạm thì sao lại run? Nhưng cả tay trật tự lẫn tay nhà bếp đều biết tỏng ông già là người thế nào. Ông già hiền lành này chẳng có gì để vi phạm nội quy, có “loại” mấy cũng chẳng ra. Ông có bệnh rung tay. Biết thế, họ chỉ thọc vào cái tay nải rách rưới của ông già, khua khoắng lấy lệ. Khi lôi từ trong đó ra bộ cái áo trấn thủ, mẩu khăn mặt hôi rình và rất nhiều mụn vải, mũi họ chun lại.

– Báo cáo ông, không có gì ạ – anh trật tự đứng lên, lễ phép bẩm.

– Chắc không? – Tằng trề môi – Còn cái áo bông kia?

Y hất hàm ra lệnh cho già Lương cởi áo bông ra.

Đúng vào lúc ấy già Lương phạm một sai lầm không tha thứ được – thay vì lễ phép cởi áo đưa cho anh trật tự thì già lại vứt toẹt nó xuống đất. Thái độ ấy của già làm cho tay trật tự nổi cạu. Chẳng nói chẳng rằng, y hằm hằm nắn bóp cái áo bông.

Bỗng mắt y sáng lên. Y mạnh tay xé rách lớp mền cái roạt rồi lôi ra một khúc nứa tép nhỏ xíu.

– Cái gì đây, anh giế ? – giọng trịch thượng, y hỏi.

– Thì anh cứ xem đi. – thay vì ăn nói lễ phép với trật tự trại, ít nhất thì y cũng là bậc chức sắc trong xã hội tù, già khinh khỉnh đáp.

Tằng nheo mắt nhìn ống nứa tép. “Không biết thằng già giấu cái gì trong đó?”.

Mở cái ống không được, nắp của nó gắn liền với thân bằng một thứ nhựa quỷ quái gì không biết, rất chặt, tay trật tự bèn đặt nó lên đầu gối, bẻ gãy đôi. Tiếng nứa vỡ toác. Bên trong là một tờ giấy cuộn tròn.

– Hừm – Tằng nói – anh “giề” này gớm nhỉ? “Yểm ”cái gì đây?

Sống với tù lâu, Tằng thuộc mọi tiếng lóng của lưu manh.

Già Lương biến sắc.

Tay trật tự mở tờ giấy, giơ ra trước mặt. Đó là một bức tranh vẽ bằng bút chì. Trong tranh là hình một ông già quắc thước, chòm râu thưa phơ phất.

– Gì đây, hử? – Tằng dằn giọng.

Già Lương lí nhí:

– Báo cáo cán bộ: cái này là…

– Cái gì?

– Dạ, báo cáo ông, là cái tranh thờ của nhà cháu ạ….

Tằng ra lệnh:

– Đưa tôi!

Tay trật tự cung kính đưa bức tranh cho phó giám thị bằng hai tay.

– Hừm! – Tằng nghiêng ngó ngắm bức tranh, rồi sẵng giọng – Anh này láo. Láo lắm! Anh có biết anh phạm tội gì không?

Già Lương còn lúng túng hơn nữa.

– Dạ, nhà cháu không biết…

– Lại còn vờ! – Tằng gắt – Không biết? Hay cố tình?

Đến lúc ấy thì già Lương quýnh lên, lắp bắp:

– Dạ, thưa cán bộ, nhà cháu…

– Nói, cái gì?

– Nhà cháu…, thưa ông cán bộ, nhà cháu sợ tranh bị ướt, nhà cháu mới cất cẩn thận…

Tằng nguýt:

– Anh vẫn chưa thấy rằng anh có tội?

Già Lương còn luống cuống hơn nữa:

– Dạ, xin ông cán bộ chỉ bảo…

Tằng nghiêm nghị:

– Để tôi giảng cho anh nghe. Tội của anh là thế này: nhân dân ta ai cũng có lòng thành kính lãnh tụ. Thờ Bác không có tội. Nhưng chỗ thờ phụng Bác phải là nơi tôn nghiêm, chỗ tinh khiết, vậy mà anh dám cả gan giấu ảnh Bác trong cái áo hôi thối của anh. Anh phải biết đây là đâu chứ? Đây là nhà tù, hiểu chửa? Thằng tù không có phép được thờ Bác trong cái chốn nhơ nhuốc này, hiểu chửa?

Già Lương lắp bắp:

– Dạ, nhà cháu hiểu… Nhưng, thưa ông xét cho…

Tằng dằn từng tiếng:

– Im cái mồm. Xét xét cái gì? Đừng có mà nguỵ biện. Không có nhưng nhiếc gì hết. Tôi lại không đi guốc vào bụng các anh ấy à. Mười anh bị bắt vào đây, chín anh rưỡi kêu oan. Có mà oan Thị Mầu! Tội lỗi đầy mình còn ngoạc mồm ra kêu Đảng kêu Bác đèn trời soi xét…

Mặt già Lương thượt ra:

– Dạ, quả thật nhà cháu không dám thế, báo cáo ông …

Tằng quát:

– Anh hay đứa nào ở đây dám vẽ ảnh Bác?

Già Lương còn quýnh hơn nữa, đến nỗi nói lắp:

– Dạ, thưa thưa thưa…ông…

Tằng quát to hơn nữa:

– Im tắp lự. Còn thưa bẩm nỗi gì?

Già Lương cúi mặt:

– Dạ, thưa ông cán bộ, không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Còn cãi. Thằng nào vẽ cho anh? Khai ra.

– Dạ…

– Không thưa bẩm gì hết. Tôi hỏi anh: thằng nào vẽ?

Mấy cán bộ thấy ồn ào chạy lại.

Tình hình coi mòi nghiêm trọng. Không phải chuyện chơi. Mặt già Lương rịn mồ hôi.

Anh trật tự ghé vào tai già:

– Khốn nạn, bố ngu như bò í. Có gì cứ khai thật đi, ông cán bộ thương, ông tha cho.

– Nhưng…

– Còn nhưng nhưng cái gì? – anh ta nhăn mặt – Ngu thế. Cứ thưa thật với ông cán bộ. Muốn chết hử?

Già Lương cuống lên, gắt:

– Thì tôi khai thực mà. Anh đừng lên mặt với tôi. Anh cũng là thằng tù như tôi thôi…

Quay sang Tằng, già chắp hai tay van vỉ:

– Thưa ông, nhà cháu xin khai thật… Cái này không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Thế nó còn là cái gì? Hử?

Già Lương ấp úng thẽ thọt:

– Dạ, nó là… , nó là bức tranh thờ của nhà cháu…

Tằng gắt to:

– Của anh, rõ rồi, không phải của anh thì việc gì anh phải “yểm” kỹ thế? Câu hỏi của tôi anh đừng có lờ: thằng nào vẽ? Anh phải thành khẩn khai ra: thằng nào dám vẽ Bác để cho anh thờ trong tù?

– Dạ, nhà cháu…

– Đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Sao? Anh không muốn khai hử? Còn muốn che giấu hử?

Già Lương cúi gằm mặt.

– Thằng nào? Nói mau!

Những người tù đứng gần quên cả việc lục soát, chằm chằm nhìn vào mặt già.

– Thưa ông, nhà cháu khai thật ạ. Không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Vẫn còn chối, hử?

– Thật ạ – giờ thì già Lương không kiềm chế được nữa, già nói một thôi một hồi – Nói có trời đất, nhà cháu không dám nói sai. Nhà cháu năm nay gần tám mươi rồi. Chẳng còn mấy nả nữa… Sắp xuống lỗ rồi…Lúc đi trại, mười lăm năm rồi, không phải ít, nhà cháu đi không một hình tích để lại, con cái cháu chắt ở nhà nhiều đứa chỉ nhớ được cái tên chứ không biết mặt… Vậy nên nhà cháu mới cậy người ta hoạ cho một bức…để khi nào có người nhà lên thăm thì cho mang về…

– Hừm – Tằng nheo mắt, chăm chú nhìn lại bức hình, rồi nhìn người tù trước mặt – Tức là, anh nói hình này là hình anh?

– … Dạ, đúng vậy. Nhà cháu nghĩ: nay mai có chết đi thì, thưa ông, cũng còn tấm hình để lại.

Tôi ở với già Lương cả năm mà không biết già có bức hình ấy. Liếc mắt nhìn tờ giấy trong tay Tằng, tôi thấy Tằng không phải không có lý – người trong bức hình quả có hao hao giống lãnh tụ tối cao, cha già dân tộc. Cũng cặp mắt sâu, cũng đôi lưỡng quyền cao, cũng chòm râu thưa “tu bất phủ hầu”, được thiên hạ coi là quý tướng. Không biết già có bức hình này từ khi nào?

Tằng dịu giọng:

– Chắc là hình anh không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, có trời đất chứng giám…

– Không cần anh thề. Thề cá trê chui ống. Anh có thề cả trăm lần tôi cũng không tin. Anh trả lời tôi tắp lự: đứa nào vẽ?

– Thưa ông, anh Ca ạ – như chết đuối vớ phải cọc, già Lương chắc mẩm Tằng đã mềm lòng, ngước nhìn hắn bằng cặp mắt ướt nhèm – Anh ấy được tha năm ngoái. Cái anh xương xương người, Ban vẫn thường gọi lên kẻ bảng với làm vườn hoa ấy ạ.

– Ờ…

– Thưa ông, anh ấy có hoa tay, nét vẽ rất có tinh thần…

– Chuyện này rồi phải cho điều tra đến nơi đến chốn. Cái thằng Ca này xem chừng có vấn đề đây. Có âm mưu gì trong chuyện này đây?

– Dạ, đúng là thế ạ.

– Nói để anh biết: tôi sẽ đích thân xem xétviệc này. Tôi sẽ tư về địa phương cho điều tra lại thằng Ca. Các anh đừng có tưởng bở: khỏi vòng cong đuôi, cầm được trong tay tờ lệnh tha là xong, là hết mọi chuyện. Đừng hòng nhé! Ở đâu cũng là đất đai của Đảng, của Bác. Lưới Đảng lồng lộng, con ruồi chui không lọt.

– Thưa ông, xin ông đừng nghĩ oan cho anh ấy – già Lương thấy mình có trách nhiệm bảo vệ tác giả bức hình, lại lắp bắp một thôi một hồi – Anh Ca có án đàng hoàng đấy ạ, không phải tập trung cải tạo như nhà cháu đâu ạ. Anh ấy cũng không phải phản động, không phải kẻ thù của nhân dân đâu ạ. Ông cán bộ cũng biết, anh ấy còn thuộc diện cải tạo tốt đấy ạ. Nhà cháu thấy anh ấy hoạ được, mới nhờ anh ấy hoạ cho một bức. Nể lắm, thương lắm, anh ấy mới hoạ cho nhà cháu. Ông xem lại bức hình, giống in nhà cháu đấy ạ. Anh ấy không dám báng bổ Cụ Hồ đâu ạ… Ông xét cho, anh ấy người hiền lành tử tế…

– Hừm, anh dám bảo thằng Ca là hiền lành tử tế, hử? Người hiền lành tử tế không ai ở tù. Lại còn bảo bức vẽ của nó giống nhà anh, là có tinh thần.

– Dạ.

Tằng vẫn giữ giọng nghiêm khắc, nhưng không còn gay gắt:

– Vẽ anh mà lại hoá ra giống Bác, bậy, bậy hết sức. Phải có ẩn ý gì nó mới vẽ ra thế chứ?

– Thưa, ông đèn giời soi xét – già Lương nói – người già mà lại gày thời hao hao nhau. Ông chớ nghi anh Ca phải tội…

– Nghi đứa nào, nghi cái gì, là quyền của tôi, Tằng cao giọng – Ngay cái chuyện nó vẽ hình cho anh để thờ cũng đáng trừng phạt rồi. Ai cho phép nó vẽ? Nó có xin phép cán bộ được vẽ không? Lại nữa, anh là thằng nào? Hử? Anh là thằng phản động. Có phải thằng phản động không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, phải.

– Không ai thờ thằng phản động hết, rõ chửa? Con cháu cũng vậy, không con cháu nào được thờ ông cha phản động. Đứa nào thờ phản động thì đứa ấy cũng là phản động. Anh muốn cả nhà anh kéo nhau vào đây hay sao?

– Dạ, không ạ.

Giọng Tằng “ác ôn” bỗng dịu xuống:

– Thôi được, là nói thế thôi, chứ tôi tha cho anh lần này. Là tôi thương cái tuổi già của anh…

– Dạ, nhà cháu đội ơn Ban…

– Nhưng cái hình này thì tôi thu.

Già Lương mếu máo:

– Thưa ông …

– Còn thưa bẩm cái gì nữa đây?

Già Lương chắp hai tay, van lơn:

– Xin ông cho lại nhà cháu cái hình. Không phải dễ gì nhà cháu được gặp người như anh Ca để có được bức hình này. Nhà cháu thưa thật tình: trong cả gia tộc không còn cái hình nào của nhà cháu cả… Trâu chết để da, người chết cũng phải để lại cái hình cái bóng…

– Im ngay! Không lằng nhằng!

Tằng quát. Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn ông bạn già. Cú thúc quá mạnh, ông nhăn mặt. Tằng nhìn tôi, lừ mắt.

– Dạ – giọng già Lương run run – Xin ông rón tay…

Tằng bỗng ghé sát mặt già Lương, đăm đăm nhìn. Thằng khốn nạn, y còn định làm gì ông già khốn khổ nữa đây

– Hừm – Tằng ra chiều suy nghĩ – Hừm.

Trong giây phút kéo dài ấy già Lương vẫn còn phấp phỏng chờ đợi, vẫn còn hi vọng, có vẻ là như thế. Biết đâu đấy, dù sao Tằng cũng là người, y ác đấy, nhưng cũng phải có lúc y không ác chứ, y sẽ nghĩ lại cho già cũng nên. Rất có thể y sẽ trao lại cho già bức chân dung để thờ kia, với một câu quát lấy lệ, không quát không được, nhưng y sẽ trả lại. Tôi đoán phỏng thế. Trong phút đó tôi hình dung ra bức hình của già được đặt trang trọng trên ban thờ, trong khói hương vương vất.

Rời khỏi mặt già Lương, Tằng lắc đầu, giọng thương hại:

– Anh là thằng không có trí khôn. Loại ngu lâu, khó đào tạo. Thằng như anh biết bao giờ mới được đánh giá là cải tạo tốt để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng…

– Dạ, thưa ông, nhà cháu biết thế ạ, nhà cháu không dám nghĩ tới ngày về đâu ạ… – già Lương vẫn chưa hết hi vọng – Vì thế nhà cháu mới muốn có bức hình, để đến nỗi vi phạm nội quy…

– Nghĩ thế cũng không đúng. Đã vào đây rồi, an tâm cải tạo là tốt, nhưng phải nghĩ tới ngày được Đảng thương đến, Đảng cho về với vợ con chứ…

– Dạ. Cảm ơn ông cán bộ dạy bảo.

– Hừm.

Đúng là Tằng suy nghĩ. Với loại người như Tằng, những phút suy nghĩ rất hiếm hoi. Tôi cho rằng cơn nóng đã dịu, y sẽ cho ông già được phép giữ bức hình.

Tại sao y không thể làm người, dù chỉ trong một phút?

Nhưng tôi sai. Bằng giọng ôn tồn, y nói với già Lương:

– Nói cho anh biết: anh là thằng tù. Đừng có lúc nào quên điều đó. Nhá? Được tha rồi cũng chớ quên. Hồ sơ anh còn đấy, nó sẽ theo anh mãi mãi. Suốt đời. Phàm là thằng tù thì không được hỗn. Không được phép giống Bác. Giống Bác là hỗn đấy. Tù nào cũng thế, tuốt mo, tù hiếp dâm, tù ăn cướp, tù phản động chống chế độ. Không được là không được. Hiểu chửa?

Già Lương nuốt nước bọt đánh ực.

Tằng gập bức hình làm tư, đút vào túi quần.

Đoạn, y vẫy tay gọi anh văn hoá trại đang lui cui khám một người tù gần đấy:

– Ê, văn hoá!

– Dạ, thưa ông gọi!

– Phải. Bỏ đó đã. Mang tông đơ lại đây!

Thoắt cái, anh ta chạy lên phòng văn hoá, cách đấy khá xa, thoắt cái đã đứng nghiêm trước mặt Tằng “ác ôn”, tay phải lăm lăm cái tông đơ.

– Húi trụi cả râu lẫn ria anh này cho tôi!

Nhìn vào mặt già Lương, Tằng xin xít nói qua hai hàm răng nghiến:

– Vào đây rồi mà còn để râu. Lại còn dám nói: hao hao giống Bác. Láo! Láo đến thế là cùng! Húi!

Anh văn hoá trại kiêm phó cạo đưa tông đơ lên.

Tôi nhìn xuống. Tôi không muốn chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong tầm mắt của tôi, tôi nhìn thấy những sợi râu bạc trắng rơi xuống. Tôi nhìn thấy đôi chân gày của già Lương kiễng lên, kiễng lên mãi. Ấy là khi cái tông đơ rúc lên hai lỗ mũi già.

Tằng “ác ôn” lững thững rời khỏi chỗ già Lương đứng, tiếp tục chỉ huy cuộc lục soát.

Trong cuộc chuyển trại diễn ra sau đó, khi cuộc tổng “loại” kết thúc, mọi người trên xe chở tù đều im lặng, lắc lư, không ai nói với ai một câu.

Tôi không nghe già Lương ngồi bên tôi than thở.

Ngay cả một tiếng thở dài cũng không.

1990

Lời Tạ Lỗi Muộn Màng

 

NHƯ CHỈ MỚI HÔM QUA – KÝ ỨC MỘT CHUYỆN TÌNH….

Lời Tạ Lỗi Muộn Màng

THANH HÀ/SGN

Viết cho H., Hải Quân Trung úy BTL Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi muộn màng mà khi xưa TH đã giấu lòng mình nói dối anh. Bất luận anh ở nơi nào, TH cầu mong anh luôn được hạnh phúc, an bình và mạnh khỏe.

Ngày ấy cách đây bốn mươi mấy năm. Sài Gòn thanh bình. Giờ tan trường có hai nữ sinh đi học về trên đường Hồng Thập Tự, bước chân thong dong, tóc xõa ngang lưng, trong đồng phục áo dài trắng. Hai chị em ruột, 17 và 18 tuổi, từ một tỉnh ven biển miền Tây lên thủ đô mới vài tuần. Người chị thi đậu tú tài đôi, đang ghi danh chờ nhập học Đại học Luật, cô em đậu xong tú tài một, đáng lẽ chờ xong trung học mới được lên Sài Gòn nhưng ba má thương cô chị chưa bao giờ sống xa nhà, nên để cô em cùng lên cho có chị có em. Hai nữ sinh ấy là người chị thứ ba của tôi và tôi.

Với tôi lúc ấy, được lên học ở Sài Gòn là một giấc mơ tuyệt vời. Sài Gòn là cái nôi của văn minh, tri thức, lịch sự, nhã nhặn. Là nơi hội tụ tinh hoa trong mọi lãnh vực khoa học, giáo dục, văn chương, nghệ thuật…

Biết em gái nhút nhát chưa quen thầy cô, bạn mới, nên chị Ba thỉnh thoảng buổi trưa giờ tan trường hay đến đón tôi cùng đi về cho vui. Hôm ấy, đi đến đoạn công viên Tao Đàn, trong lúc hai chị em còn mãi ngắm cảnh vật bên đường, bỗng xuất hiện hai chàng sĩ quan Hải Quân trong bộ quân phục trắng, cỡi hai chiếc Lambretta trắng từ hướng ngược chiều chạy đến. Họ ngang qua chúng tôi, rồi mấy phút sau lại chạy ngược lên, chầm chậm vượt qua mặt chúng tôi một đoạn rồi… quanh lại. Chị em tôi không thể không chú ý thái độ của hai anh chàng nên thầm thì:

– Hai ông nầy đảo tới đảo lui mấy bận, chắc định làm quen với tụi mình đây!

Quả như chúng tôi đoán. Sau khi lượn lờ mấy vòng, hai chàng quyết định dừng xe cạnh lề đường trước mặt chúng tôi vài mét, chờ chúng tôi đi tới, rồi một trong hai người bắt chuyện làm quen.

Tôi vốn nhút nhát, hay mắc cỡ. Lúc ở nhà, có họ hàng hay khách khứa đến chơi, mới nghe tiếng họ ngoài cổng là tôi trốn mất dạng. Khi học tôi cũng nổi tiếng rụt rè, nhiều năm sau gặp lại các bạn vẫn còn nhắc. Vì vậy khi được hai chàng Hải Quân hỏi chuyện tôi run lắm, tim đập mạnh, nhường hết cho chị Ba trả lời. Thấy đứng giữa đường nói chuyện không tiện, nên sau khi tự giới thiệu, H., một trong hai người hỏi xin số nhà chúng tôi để đến thăm.

Trường hợp H. làm quen với tôi giống một coup de foudre – tình cờ hai ánh mắt thoáng giao nhau trên đường mà anh đã quyết định làm quen ngay lập tức. Có lẽ anh nghĩ nếu không nắm ngay lấy cơ hội thì sẽ chẳng còn dịp nào nữa. Khách quan mà nói, có lẽ chúng tôi rất đẹp đôi. Chàng là trung úy trẻ tuổi đẹp trai, lịch lãm, giọng “Bắc 54” nhẹ nhàng truyền cảm; còn nàng là cô nữ sinh 17 tuổi, xuất thân từ gia đình công chức ở một tỉnh xứ biển, hiền ngoan, xinh xắn. Nhưng tôi, ở tuổi non nớt đó, lại có cái nhìn khác về chính bản thân. Tôi nghĩ về tôi quá khắc khe, tự đánh giá thấp và mặc cảm là mình không xứng với H.

So với H., tôi thấy mình chỉ là một nữ sinh nhà quê vừa lên thành phố, ăn nói vụng về, cư xử ngượng ngập, còn anh là người lịch lãm, tự tin, đôi bàn tay rất đẹp, đẹp hơn cả bàn tay tôi (!). Điểm nào tôi cũng thua anh, ngoại trừ chiều cao thì tôi lại hơn anh, oái oăm là vậy. Phải như thuở ấy tôi đừng quá câu nệ chuyện chiều cao, đừng lo sợ sự phán xét của thiên hạ “ví dầu chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng” mà giữ vững quan niệm tình yêu là sự hòa điệu giữa hai tâm hồn và trái tim, thì hẳn tôi đã giữ được cho mình một mối tình đẹp.

Qua những lần trò chuyện, chúng tôi nhận ra có nhiều điểm tương đồng: đọc cùng loại sách, thơ, văn, yêu mến cùng văn, thi, nhạc sĩ, thưởng thức cùng loại âm nhạc, cùng yêu thích thiên nhiên… Tôi nói rất ngưỡng mộ tiếng hát Thái Thanh, anh tán thành ngay, khen nữ ca sĩ có giọng hát tuyệt vời cùng vóc dáng cao ráo, xinh đẹp. Nghe thế tôi nhủ thầm: thì ra anh thích những phụ nữ dáng cao, thảo nào anh thừa biết tôi cao hơn mà vẫn quyết định làm quen. Tôi luôn mặc cảm việc mình cao hơn H. nên nhiều lần anh ngỏ ý mời tôi đi chơi ngày Chủ Nhật, tôi đều kiếm cớ chối từ, để tránh sánh vai cùng anh ra đường.

Tự xét lòng, tôi biết mình có cảm tình với anh. Nhưng hỡi ơi, vì quan niệm cao thấp vô cùng ngốc nghếch ấy mà tôi đã tự bóp chết đóa-hoa-tình vừa chớm nụ bằng một lời nói dối có chủ ý. Dối với chính lòng và dối với anh. Mỗi lần anh đến thăm, trong tôi có hai tâm trạng trái ngược nhau: vừa vui vì được gặp anh, người bạn trai tế nhị đáng mến, vừa nơm nớp lo sợ anh sẽ khám phá những điểm yếu của mình rồi sẽ thất vọng mà xa lánh. Bây giờ hồi nhớ lại, tôi chắc chắn với sự tinh tế lịch lãm khi ấy anh đã nhận biết tính cách của tôi rồi, nhưng có khi chính những vụng về ngây thơ đó mà anh lại càng thích tôi chăng?

Nhân một dịp lễ, trường cho nghỉ học vài hôm tôi cùng chị Ba về quê thăm gia đình. Vài hôm sau tôi trở lại Sài Gòn thì buổi trưa anh đến thăm. Hôm đó cũng là cơ hội hiếm hoi chỉ chúng tôi với nhau để có thể trao đổi chuyện riêng tư. Anh hỏi tôi:

– Chắc hồi ở Kiên Giang, TH có nhiều người theo đuổi lắm phải không? Và TH đã có người yêu rồi?

Nghe vậy, như từ vô thức, tôi bỗng trả lời ngay:

– Dạ, vì TH lớn lên và đi học ở đó nên TH đã có người yêu rồi anh ạ.

Anh nhìn tôi bằng ánh mắt buồn thiu, thất vọng. Không khí ngưng đọng. Tôi sững sờ, nghe như có gì đó vừa đổ vỡ trong hồn. Sao tôi có thể nói dối dễ dàng như vậy? Một lời nói dối nặng nề nhất – dối gạt người, dối gạt với chính mình.

Khi anh từ giã ra về, tôi muốn gọi anh lại để đính chính là tôi không hề có bạn trai nào hết, khi mà ba má tôi rất nghiêm khắc với năm cô con gái ở tuổi thiếu nữ. Nhưng tôi đã không thể cất lời. Với ý nghĩ non dại, tôi tự nhủ: thôi thì cứ để anh tưởng tôi đã có người yêu rồi xa tôi lúc tình cảm chưa sâu đậm, ít ra anh còn lưu giữ hình ảnh đẹp về tôi hơn là gần gũi nhau lâu ngày thì anh sẽ phát giác những khuyết điểm của tôi rồi thất vọng nhiều hơn.

Từ đó tôi không bao giờ gặp lại H. Theo thời gian, tôi trưởng thành, có cuộc sống an vui bên chồng con, đôi lúc cũng nhớ về quãng đời thanh xuân nhiều mơ mộng, nhưng chỉ thoáng bâng khuâng, rồi quên ngay.

Nhưng có một ngày, như hôm nay, quá khứ tưởng đã nằm yên dưới lớp bụi thời gian, bỗng trồi lên chiếm lấy tâm hồn tôi ào ạt. Có những kỷ niệm đẹp tươi, có những kỷ niệm ray rức. Nghĩ về H., tôi giật mình chợt nhận thức lời nói dối thuở xưa hẳn đã làm tổn thương anh biết bao nhiêu. Tôi muốn gặp anh một lần để đính chính, nhưng biết tìm nơi đâu? H. ơi, bây giờ anh có mạnh khoẻ, hạnh phúc bên vợ hiền con ngoan, hay đã nằm xuống trong trận chiến nào đó, hoặc vùi thây trong trại tù cải tạo, hoặc dưới lòng biển sâu khi vượt biên, di tản?

Tôi mong rằng trời đất sẽ khiến xui để anh đọc được bài viết này. Biết rằng không thể nào thay đổi quá khứ, nhưng giãi bày được nguồn cơn một lời nói năm xưa tôi đã lỡ, thì lòng tôi cũng nhẹ nhàng thanh thản hơn là cứ ôm nỗi ân hận đeo mang suốt đời.

– Hình Minh họa…

– Tác giả Thanh Hà (ảnh tác giả gửi)

MỘT CUỘC TÌNH – (câu chuyện có thật)

 

MỘT CUỘC TÌNH

(câu chuyện có thật)

Sau bao nhiêu ngày nghĩ tới, nghĩ lui bữa nay ăn cơm xong chị nhẹ nhàng mở lời với anh:

Chỉ còn nửa tháng nữa là hết hợp đồng nhà, em tính nói với anh dạo này em không khỏe, mình trả nhà rồi ai về nhà nấy.

Anh giãy nảy lên

“Em nói thế mà nghe được à! thằng này có phải con nít đâu mà vui thì ở, buồn thì đi”

Chị đành phải tung chiêu cuối cùng

Em bị viêm gan siêu vi C, giờ nếu ở chung lây sang cho anh thì nguy hiểm lắm.

Anh hoảng hốt

“Ờ vậy thì đường ai nấy đi, còn tiền cọc tính sao?”

Chị cười buồn!

Mai em về nhà em, anh cứ ở cho hết tháng rồi làm việc với chủ nhà, tiền cọc (thật ra là tiền của chị) anh cứ lấy mà tiêu.

Anh “ừ” nhẹ tênh! Vậy là chấm hết một cuộc tình.

Nửa năm trước chị gặp anh ở câu lạc bộ dưỡng sinh. Cùng cảnh góa bụa nên cả hai dễ dàng tìm được tiếng nói chung.Tuy đã 60 tuổi nhưng trông chị vẫn trắng trẻo, đầy đặn, phúc hậu. Anh hơn chị 5 tuổi nhưng vì chăm tập thể thao nên nhìn anh rất phong độ, đẹp trai. So với ông chồng già đã khuất của chị thì anh hơn hẳn, vừa chiều chuộng, vừa ga lăng. Muốn hoa có hoa, muốn thơ có thơ. Facebook, Zalo, Viber suốt ngày tưng bừng, rộn rã. Ánh mắt lấp lánh của chị như ngầm công bố cho mọi người biết về quan hệ mới của hai anh chị. Các con của chị đều rất thương mẹ nên vui vẻ tán đồng. Mấy người con của anh đã có gia đình riêng cũng không phản đối. Vẫn là đứa con gái mà chị coi như bạn đề nghị:

“Mẹ với bác đi thuê căn hộ ở chừng vài tháng xem sao, nếu hợp thì tiến tới, thông báo với họ hàng hai bên, làm một cái lễ nho nhỏ mẹ à! còn nếu không hợp thì thôi, cũng đỡ mang tiếng”

Vậy là chị bàn với anh rồi cùng đi thuê căn hộ nho nhỏ.Tiền cọc một tháng, tiền nhà 3 tháng chị trả hết vì anh nói sổ tiết kiệm của anh chưa tới kì hạn.

Ngay bữa cơm chung đầu tiên chị đã ngỡ ngàng! Anh ngồi cắm cúi ăn hết món này đến món khác, miệng thì sai chị liên tục. Bữa cơm có một tiếng mà chị đứng lên ngồi xuống không biết bao nhiêu lần, lúc thì lấy ớt, lúc thì thêm mì chính, món thì bỏ thêm một chút đường… Sau đó vừa nhìn chị dọn dẹp bát đĩa anh vừa xỉa răng tanh tách và nói:

“Vợ anh ngày xưa nấu ăn ngon lắm, em cố gắng xem sách dạy nấu ăn đi, anh là ngày phải ăn đủ ba bữa tươm tất, món ăn lúc nào cũng phải nóng sốt, không ăn lại đồ cũ được đâu em”.

Chị chạnh lòng nhớ đến chồng mình. Vì lớn hơn chị nhiều tuổi nên anh rất nhường chị, chị nấu gì anh ăn nấy, đến bữa cơm anh toàn gắp cho chị những món mới còn anh lẳng lặng ăn lại đồ ăn cũ từ bữa trước. Mấy chục năm chung sống chưa khi nào anh đòi hỏi chị bất cứ điều gì.

Ngày nối ngày chị bắt đầu nuối tiếc cuộc sống yên ả trước khi gặp anh. Sáng làm biếng gặm trái bắp rồi coi phim bộ, trưa chiều gọi ông đi qua bà đi lại tô hủ tiếu, đĩa xôi cũng xong. Còn giờ đây mới mở mắt ra chị đã phải tất tả ra chợ lo mua đồ ăn cho đủ 3 bữa tươm tất như lời anh dặn. Về nhà hì hụi, lọ mọ dưới bếp cả buổi, đến bữa thì ngồi như học sinh chưa thuộc bài chờ anh kiểm tra, ban phát những lời khen tặn tiện.

Con anh 3 đứa cộng 6 đứa cháu nội ngoại thường xuyên ghé chơi xem chị chăm anh như thế nào. Mỗi lần tới trẻ con thì la hét, bầy bừa người lớn thì ăn nhậu tới khuya. Khách về chị rửa bát, dọn dẹp còn anh ôm cây đàn guitar ra ban công ngồi gảy. Ngày mới quen nhau chị mê đắm tiếng đàn của anh, ngồi hàng giờ ngắm mái tóc bồng bềnh của anh buông xõa xuống trán. Giờ đây chị mỏi mệt, hững hờ đấm cái lưng nhức nhối vì suốt ngày phải hầu con, trông cháu người ta. (Chồng cũ chị không biết đàn, biết hát nhưng trong nhà từ việc lớn đến việc bé anh cặm cụi làm, lo cho chị hết) Mới hơn 2 tháng chị đã phải tới nhà anh nấu 3 cái đám giỗ, rửa cả một nhà chén bát. Mấy cô em gái anh không hề phụ chị một chút nào mà còn ngồi thi nhau kể anh ngày xưa đẹp trai như thế nào, tài giỏi ra sao, bao nhiêu người đẹp hơn hoa hậu theo đuổi mà anh lại chọn chị, phúc ba đời nhà chị đó nên chị cố gắng mà lo liệu cho tốt.

Thỉnh thoảng hai đứa con chị đảo qua xem mẹ có khỏe không thì anh đi tới, đi lui nhìn đồng hồ ngầm nhắc chị sắp đến giờ nấu cơm. Chị biết ý nói với con lần tới mẹ con gặp nhau ở nhà riêng của chị, giờ chị vẫn đang để không, tranh thủ mỗi lần đi chợ chị ghé về tưới cây, nhổ cỏ, thắp nén nhang cho chồng đỡ quạnh hiu.

Mới hơn 2 tháng mà tiền để dành của chị vơi đi quá nhiều.Trước lúc mất chồng chị đưa cho chị 2 quyển sổ tiết kiệm hơn 2 tỉ. Tiền lãi hàng tháng, tiền các con biếu thêm chị sống rất thoải mái, thỉnh thoảng còn đi du lịch đó đây. Từ ngày quen anh đến giờ mọi chi phí chị phải lo, ngoại trừ tháng đầu chung sống anh góp 5 triệu tiền cơm, anh luôn nói là chờ đến hạn rút tiết kiệm anh sẽ đưa cho chị. Tiền giỗ chạp, tiền đóng học cho cháu anh, chị cũng phải bỏ ra.

Chị chán lắm rồi, chị nản lắm rồi. Ngày khổ một thì đêm khổ mười. Anh thì còn đang hừng hực mà chị nào huyết áp cao, nào tiểu đường chị chiều anh không nổi. Mới vài ngày trước đây sau khi gần gũi anh dài giọng đay nghiến

“Em lúc nào cũng nằm như khúc gỗ ấy, chả bằng một góc vợ anh”.

Rồi anh lăn ra ngáy, còn chị cả đêm ra ban công ngồi ôm mặt khóc. Đến sáng chị quyết định bằng mọi giá phải về nhà cũ thôi.

Anh chị chia tay rất nhẹ nhàng! Giờ mỗi lần nhớ lại chị coi quãng thời gian gần 3 tháng ấy như một giấc mơ, có điều giấc mơ dù đẹp, dù xấu thì cũng phải tỉnh thôi.( st )

May be an image of one or more people and text

BLIND MAN

BLIND MAN

Anh bị mù từ lúc mới sinh ra. Tức là thế giới xung quanh anh chỉ là một màu đen kịt. Thậm chí anh không có cả khái niệm về màu sắc nữa, chỉ biết mẹ anh bảo đó là màu đen.

Mù bẩm sinh ít có cơ hội để phục hồi cho nên những lần đi khám, chữa bệnh thường kỳ đối với cha mẹ anh cũng chỉ là phương pháp để an ủi và nuôi hy vọng cho con mình mà thôi…

Điều mà họ có thể mang lại lợi ích thiết thực nhất cho anh là gửi anh vào một trường học chữ cho người mù …

Từ khi biết đọc, anh hình dung được vạn vật mà không nhất thiết phải dùng đến tay để sờ mó…

Anh rất thích những bông hoa vì thấy nó mềm mại, và có mùi thơm khác nhau… Người ta nói, những người bị mù thì thường các giác quan khác cực kỳ phát triển, điều này rất đúng với anh. Hàng chục các loại hoa khác nhau, chỉ cần đưa lên mũi là anh có thể nói tên vanh vách.Người ta thường khen hoa đẹp, mà chẳng bao giờ thấy ai chê…cho nên anh có ước mơ: Nếu được nhìn thấy ánh sáng cho dù chỉ một lúc thôi thì ngoài cha mẹ ra anh sẽ chọn những bông hoa để ngắm nhìn chiêm ngưỡng…

Từ khi biết đọc, anh còn biết thêm hoa còn là biểu tượng khi người ta ngưỡng mộ tôn sùng lẫn nhau …

Năm nay anh đã 17 tuổi, trong thế giới đen kịt của anh bỗng thỉnh thoảng lại lóe lên những “tia chớp” có màu khang khác, không phải màu đen. Thấy lạ, anh kể với bố mẹ. Họ lập tức đưa con trai đi khám … Sau 2 ngày xem sét kỹ các kết quả khám nghiệm, bác sỹ chuyên ngành gọi riêng cha mẹ anh đến để nói chuyện:
– Con trai của ông bà bị mù bẩm sinh là do thiếu tác động của một loại hormone, chúng tôi đã dùng nhiều loại thuốc để kích hoạt nhưng không có hiệu quả… Năm nay cháu 17 tuổi, tuổi dậy thì. Nội tiết tố trong cơ thể thay đổi, nếu cháu tự nhiên nhìn thấy những tia sáng, điều này chứng tỏ hormone đã có những tác đông tích cực đến thị lực của cháu. Đây là một điều rất đỗi khả quan cho chúng ta… Nếu ông bà đồng ý tôi sẽ gửi các mẫu xét nghiệm của cháu ra nước ngoài. Vạn sự mà được như ý thì chỉ sau một cuộc phẫu thuật của họ, ánh sáng sẽ đến với con trai của ông bà … Có điều là, chi phí cho việc này rất tốn khém, nếu gia đình ta không có điều kiện thì tôi cũng không thể giúp được điều gì hơn…

Tất nhiên là cha mẹ anh đồng ý ngay lập tức, đối với họ việc này không cần phải suy nghĩ vì họ chỉ có với nhau một đứa con trai. Còn chuyện tiền nong thì họ có thể lo được, nếu cần thì sẵn sàng bán đi tất cả để đổi lấy ánh sáng, đã từ lâu tối mờ trong gia đình của mình…
Bác sỹ bổ sung thêm:
– Trong thời gian chờ đợi có khi tới khoảng 2 tháng. Tôi nghĩ, con trai của ông bà phải sống tại trại điều dưỡng và phục hồi khuyết tật cho người mù của chúng tôi, để được theo dõi thường xuyên và sâu sát hơn. Và đặc biệt trong thời gian này, cháu nó tuyệt đối không được khủng hoảng về tinh thần, như tức giận, đau buồn, thất vọng … Tôi nói vậy chắc ông bà hiểu… Tất cả chúng ta phải cố gắng cùng nhau tạo cho cháu một môi trường sống thật bình yên và vui vẻ…

Cô cũng bị “mù”, nhưng chỉ là tạm thời, đó là kết quả của 1 va chạm cơ học trong một tai nạn giao thông…
Cô vào trạm điều dưỡng này đã hơn 3 tuần. Theo lời các bác sỹ thì quá trình phục hồi của cô rất kém bởi vì cô hay khóc và tức giận mỗi khi chạm vào những vết sẹo chưa lành hẳn trên cơ thể và chỉ nhìn thấy trước mặt mình một màn tối đen …

Hôm nay, đang ngồi thừ ra suy nghĩ “chuyện đời” thì cô được bác sỹ trưởng khoa gọi lên phòng khám, nghe nói ông này là chuyên gia lẫy lừng đã mang lại “ánh sáng” không biết cho bao nhiêu người…
– Cháu ngồi xuống đi – Bằng giọng nói đầy truyền cảm và thuyết phục bác sỹ nói với cô gái:
Đáng nhẽ ra cháu được xuất viện từ lâu rồi, nhưng chỉ vì thiếu lạc quan với cuộc đời và hay khóc cho nên cháu cho đến giờ vẫn ngồi trước mặt chú đấy
– Nhưng…Cô định nói gì đó nhưng ông đã ngắt lời:

– Thôi bỏ qua chuyện đó đi, hôm nay chú có một chuyện khiến cháu sẽ vui và không bao giờ khóc nữa, bệnh của cháu chẳng mấy chốc mà lành. Cháu sẽ được giao một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và sẽ không còn cảm giác là người thừa khi vào đây nữa
Cô bắt đầu thấy tò mò và lần đầu tiên kể từ khi bị tại nạn cô mỉm cười:
– Nhiệm vụ gì thế hả chú ?
– Ngày mai sẽ có một chàng trai trạc tuổi với cháu nhập viện để chờ một ca mổ tại nước ngoài, anh ấy thật đáng thương vì bị mù cả 2 mắt từ lúc mới sinh ra, nhưng lại rất lạc quan và yêu đời, đặc biệt có rất nhiều tài năng mà người bình thường kông thể có. Tiếp xúc với anh ấy, cháu sẽ thấy rất thú vị cho mà xem … Nhiệm vụ của cháu là chủ động tiếp cận làm quen, chia sẻ mọi chuyện buồn vui, mục tiêu là để anh ấy không bị rơi vào trạng thái khủng hoảng tinh thần do nhớ nhà và cô đơn gây ra.

Thấy mình được người lớn tin cậy và cũng vì sự tò mò của một cô gái mới lớn chưa có người yêu, cô gật đầu đồng ý.
Trước khi cô ra về bác sĩ còn nói với theo  “Bằng mọi giá cháu nhé, nhớ đấy! Chú rất hy vọng ở cháu!”

Nhiệm vụ được giao đã hoàn thành một cách xuất sắc. Chỉ có vài ngày mà họ đã thân quen như đã từng biết nhau từ thủa thiếu thời…

Chưa bao giờ cô thấy có một “nhiêm vụ” nào mà nó đáng yêu đến thế! … Chàng trai luôn làm cô ngạc nhiên về tài sử dụng các giác quan khác của một người khiếm thị bẩm sinh … Chỉ cần sờ lên các đồ vật là anh biết ngay chúng được làm bằng gỗ, nhựa hay sắt thép… Hỏi, “tại sao anh biết?” thì nghe câu trả lời rất đơn giản “chúng nóng lạnh khác nhau mà”.

Nhất là tài phân biệt các loại hoa thì cô phục sát đất luôn! Cô hay được bố mẹ, bạn bè mang hoa đến tặng, anh ngửi chúng và gọi tên chẳng bao giờ sai. Thậm chí hoa tulip và thược dược chẳng có mùi vị gì mà anh cũng phân biệt được…

Anh thì cũng “mê” cô chẳng kém, mê từ giọng nói. tiếng cười, đặc biệt là cái sở thích “yêu hoa” của cô rất giống anh. Qua các câu chuyện của cô, thế giới không những trở nên nhiều màu mà nó còn có thêm cả vị nữa, đó chính là vị ngọt của tình yêu mà anh chưa được biết…

Hai tuần đã trôi qua… Tình yêu là bản năng gốc của con người không phận biệt ngoại lệ, nó đã đến là không ai có thể né tránh được… Anh và cô cũng vậy, họ yêu nhau từ lúc nào mà chẳng biết … Gặp nhau từ sáng đến tối mà họ vẫn thấy “thiếu” nhau kinh khủng, màn đêm trong đôi mắt anh luôn luôn có chớp giật, nhất là những khi họ cầm tay, dắt nhau đi chơi…

Tất nhiên nhiệm vụ nào mà chẳng có “sự cố” … Đó là lần anh bỗng nhiên ôm cô thật chặt, cô muốn kêu lên và đẩy anh ra nhưng nhớ lại lời dặn của bác sỹ, cô nhanh trí nói nhỏ vào tai anh “Em bị tai nạn, cơ thể vẫn còn đau lắm, tạm thời mình đừng làm thế anh nhé!” …
Vị bác sỹ đôi khi cũng muốn hỏi cô về cái nhiệm vụ ấy đã làm được đến đâu, nhưng hàng ngày vẫn được nghe tiếng cười của họ từ hành lang vọng vào phòng khám, ông lại thôi và chỉ mỉm cười mãn nguyện…

Một lần anh đợi cô ở trước cổng viện, bỗng có một thứ mùi rất đặc biệt của các loại hoa trộn lẫn nhau… Anh cất tiếng gọi:
– Này! Người bán hoa ơi! Làm ơn lại đây cái nào! …
Bà bán hoa chạy lại:
– Cậu gọi tôi à? không nhìn thấy gì sao mà biết được nhỉ?”
Anh chỉ mỉm cười:
– Bà làm ơn bán cho cháu mấy bông hoa màu vàng và màu tím có được không ạ? Cô ấy thích hai màu này lắm …
Cầm lấy bó hoa nhỏ anh đưa lên mũi hít từng hơi thật dài, cô cũng vừa chạy tới, anh đưa hoa cho cô rồi nói:
– Anh thấy trong sách họ viết, hoa là biểu tượng cho sự tốn sùng và ngưỡng mộ lẫn nhau, em cầm lấy đi, đây là lần đầu tiên anh tặng hoa cho một cô gái đấy …

Cô cầm hoa rồi bẽn lẽn dụi đầu vào ngực anh:
– Em cũng thế, lần đầu tiên được một người đàn ông tặng hoa, em sẽ giữ nó mãi anh nhé!”…
Một tháng trôi qua, cô đã bình phục, hình dáng của anh đã rõ nét chứ không còn “lờ mờ” như xưa, anh cao lớn, đẹp trai còn hơn cả cô tưởng tượng… Đôi khi cô còn chạnh lòng “To cao đẹp giai vậy, sau này khỏi bệnh chắc gì đã đoái hoài đến mình!!”

***

Và tin vui của anh cũng đã đến trước thời hạn… Bên kia họ điện về bảo bệnh nhân phải sang gấp để khỏi bỏ lỡ cơ hội “ngàn năm có một ” . Bệnh của anh là đề tài nghiên cứu khoa học của rất nhiều người cho nên được miễn phí. Gia đình anh chỉ cần phải lo chuyện đi lại ăn ở mà thôi…

Ngày chia tay, thấy anh có vẻ buồn khi cùng cha mẹ bước ra khỏi cổng viện… Cô gọi, anh quay lại, họ ôm chặt lấy nhau, cô thì thào: “anh hãy vui lên, đừng buồn, thành công hay thất bại em cũng vẫn sẽ đợi anh về với em”, nói rồi cô đặt lên môi anh một nụ hôn vụng về nhưng nồng cháy… Lần đầu tiên anh được biết “nụ hôn” có sức mạnh ghê gớm như thế nào. Toàn thân anh như bốc lửa, màn đêm trong mắt anh lại nổi cơn giông tố đầy màu sắc…

Lại một tuần trôi qua, không có ngôn từ nào có thể lột tả hết niềm vui không giới hạn của anh khi được tháo băng trên mắt. Trong cái phòng tối đó, lần đầu tiên trong đời, anh nhìn thấy mọi người và các đồ vật ở xung quanh mình…

Rồi, tất cả đi ra, chỉ còn anh và bố mẹ ở lại ôm nhau mà khóc, nước mắt được nhân ba trong một niềm vui đang nức nở…
Vài ngày sau anh đã được tiếp cận với mặt trời. Việc đầu tiên là anh ra vườn trước cổng bệnh viện để ngắm những bông hoa…
Nếu như mặt trời rực rỡ gấp trăm lần trong tiềm thức , thì những bông hoa còn đẹp hơn gấp nghìn lần so với trí tưởng tượng của anh hồi ấy….
Và anh nghĩ đến cô, anh không biết cô trông như thế nào nhưng tấm lòng cô dành cho anh có lẽ còn đẹp hơn gấp vạn lần mặt trời và hoa…
Anh nhắm mắt lại, trong vườn rất nhiều hoa, nhưng anh không tìm thấy mùi vị của những bông hoa mà anh đã tặng…

Ngày bay về nước, mẹ nói với anh: “Cha mẹ đã sinh ra con lần thứ nhất trong bóng tối nhưng may mắn thay con lại được người ta tái sinh lại dưới ánh mặt trời, con có biết những người ấy là ai không?” Anh trả lời không chút ngần ngừ
– Đó là bác sỹ trưởng khoa viện mắt Trung Ương “…
– Còn ai nữa?”
Anh lắc đầu, thì mẹ nói:
– Là người yêu của con đấy, hơn một tháng chờ đợi phẫu thuật, cô ấy đã đem hết tình yêu, lòng bao dung của người phụ nữ dành cho con, để cảm giác hạnh phúc không rời con nửa bước mặc dù đáng nhẽ ra cô ấy đã được ra viện từ lâu
Bây giờ anh mới hiểu, và càng cảm thấy nhớ cô hơn… Mẹ lại nói:
– Chuyện con lành bệnh mọi người đã biết cả rồi. Họ quyết định ra sân bay để đón con đấy, liệu con có thể dùng trực giác của mình như xưa để tìm ra họ được không?
Anh nói giọng quả quyết
– Con sẽ làm được mà, hãy tin ở con đi…

Qua khỏi hàng rào kiểm soát, trước mắt anh là cả một rừng người, hoa nhiều vô số, họ đang ngóng đợi người thân của mình trở về…
Thấy anh có vẻ hoang mang mất phương hướng, mẹ anh động viên:
– Con hãy tìm đi! họ đứng ở hai nơi khác nhau nhưng đều mang theo những dấu hiệu riêng mà con còn nhớ…
Anh nhắm mắt lại suy nghĩ gì đó rồi nói với mẹ:
– Mẹ lấy cái khăn và bịt mắt con lại đi !”

Mẹ anh làm theo, cả thế giới ngày xưa lại trở về… Anh đi lang thang giữa dòng người…

Thấy chuyện lạ nhiều người quên cả việc đón thân nhân, nhìn anh theo dõi… Bỗng anh dừng lại, cởi khăn che mắt rồi quỳ gối trước một người đàn ông tuổi trung niên giọng ngẹn ngào:
– Chú ơi, con đã về với chú đây này! Cám ơn chú đã đem lại cho con điều rực rỡ nhất của cuộc sống con người là ánh sáng mặt trời…
Người đàn ông vội đỡ anh dậy:
– Con vẫn giỏi giang như xưa, chỉ cần chú mặc bộ blu của bệnh viện có mùi thuốc mà hàng ngày con phải uống là đã nhận ra rồi. Bây giờ thì con hãy đi tìm tình yêu của mình đi, mau lên!”
Anh lại buộc khăn che mắt và đi tiếp vào dòng người, họ như biết chuyện của anh, tất cả đứng im lặng để cổ vũ …

Cô vội đỡ anh lên, vì cô không muốn anh phải quỳ… Anh cũng không cởi khăn vì chỉ muốn cho cô biết rằng cô luôn xinh đẹp và cao cả như xưa, tấm lòng của anh bây giờ dành cho cô vẫn là tấm lòng của thằng mù hồi ấy và sẽ không bao giờ thay đổi theo thời gian…

Họ ôm hôn nhau trong tiếng vỗ tay của tất cả những ai hôm đó đã từng có mặt tại sân bay này…
Có một điều khó hiểu đối với nhiều người là tại sao anh lại tìm ra cô dễ dàng đến như vậy? Chuyện này đối với anh thật đơn giản, anh đi theo mùi vị đặc biệt của một bó hoa mà cô đang cầm ở trên tay, bó hoa mà hôm đó anh đã tặng cô ở cổng bệnh viện, nó đã khô lại nhưng hương vị thì vẫn chưa phai mờ…

07-05-2019

From: TU-PHUNG

Nhà tôi rất nghèo.

Nhà tôi rất nghèo. Nhà nghèo nên cái gì mẹ cũng mang đi bán. Từ mấy ngọn rau ngót, rau mùng tơi đến quả chuối, quả hồng, quả bưởi hay con gà, con chó, con mèo, mẹ đều cho vào cái mẹt con, đội ra chợ bán hết. Mẹ bảo phải bán để dành dụm tiền cho các con ăn học.

Nếu không bán thì mẹ lại để mang đi biếu, đi cho. Mỗi khi ra thăm các bác ở thành phố, có cái gì ngon, cái gì đẹp mẹ đều mang đi làm quà biếu hết. Mẹ bảo của biếu, của cho thì phải đàng hoàng kẻo người ta lại cười cho.

Thế là còn bao nhiêu những cái xấu xí, sâu si, đầu thừa, đuôi thẹo thì để lại nhà dùng. Nhiều khi tôi cứ nghĩ có khi cả đời bố mẹ cũng chả được miếng ăn ngon.

Một hôm, đi học về, thấy mẹ đang vặt lông gà, tôi chạy ào xuống, ôm cổ mẹ, vừa nhảy tưng tưng, vừa reo lên sung sướng:

– “A! Hôm nay nhà mình được ăn thịt gà! Thích quá! Thích quá!”.

Mẹ nuôi hơn chục con gà nhưng trừ dịp tết nhất, giỗ chạp ra chẳng bao giờ thịt nên có khi cả năm mới có miếng thịt gà mà ăn. Cứ nghĩ đến đĩa thịt gà lá chanh, tôi lại thấy đói cồn cào ruột gan, nước miếng chảy qua kẽ răng nuốt không kịp.

Tôi nhún vai mẹ giục:

– “Mẹ thịt gà nhanh lên mẹ, con thèm lắm rồi!”

Mẹ cười:

– “Mẹ cha mày, chỉ được cái ăn là giỏi !”

Hóa ra con gà nhà tôi bị chó vồ. Lúc mẹ phát hiện ra thì nó đã bị ăn mất một góc. Tiếc của, mẹ lôi cổ con chó về, lấy chiếc dép nhựa đánh cho nó mấy cái vào mõm, dí mũi nó sát vào con gà chết dọa sẽ cho ăn riềng nếu còn tái phạm.

Tôi thì lại thấy vô cùng sung sướng, muốn cảm ơn con chó đáng ghét vì nhờ nó mà tôi mới có cơ hội được ăn thịt gà.

Có thịt gà, bữa cơm nhà tôi vui hơn hẳn. Mọi hôm, đến bữa, phải gọi mỏi mồm chị em tôi mới thèm về ăn cơm. Nhưng hôm nay, không đứa nào bảo đứa nào tự giác túc trực ở nhà từ lúc mẹ thịt gà cho đến lúc ăn cơm, không bước ra ngoài nửa bước.

Mẹ cứ quay vòng hết gắp cho bố lại gắp cho chị em tôi mà chẳng thấy gắp cho mình. Tôi vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi:

– “Ơ, sao mẹ không ăn?”

Mẹ cười bảo:

– “Mẹ không thích ăn thịt gà.”

Thằng em tôi nhe răng cười vô tư:

– “Mẹ ơi, mình ăn thừa của chó mà ngon nhỉ mẹ nhỉ!”

Tôi tức mình quát:

– “Không phải ăn thừa. Đây là mẹ cướp được của nó chứ. Mẹ mà về muộn tí nữa thì con chó đã xơi hết rồi còn đâu nữa mà ăn!”

Mẹ lại gắp cho mỗi đứa một miếng nữa vào bát:

– “Thôi ăn đi! Ăn đi! Chúng mày nhiều chuyện quá!”

Ăn xong, vừa buông đũa buông bát, anh em tôi đã chạy ù đi chơi với cái bụng no nê đầy năng lượng. Nhưng vừa chơi được một tẹo, tôi đã thấy khát nước nên phải chạy về uống. Có lẽ vì món thịt gà rang của mẹ hơi mặn.

Vừa tới cửa bếp, tôi đã phải lùi lại, nép vào sau cánh cửa. Dưới ánh sáng hơi tối của chiếc bóng tiết kiệm điện bị mạng nhện bao phủ, mẹ đang gặm lại những miếng xương gà mà chúng tôi đã ăn. Chẳng biết nó có còn dính tí thịt nào không nhưng nhìn mẹ gặm có vẻ như chúng rất ngon lành.

Lòng tôi thắt lại, tim tôi nhói đau muốn chạy lại ôm mẹ thật chặt nhưng sợ mẹ tủi nên không dám. Tôi khẽ lùi ra ngoài, chạy đến một gốc cây to, ngồi ôm mặt khóc.

Bây giờ, tôi đã học xong đại học, đi làm, có tiền, mỗi lần về nhà đều mua rất nhiều đồ ăn ngon cho mẹ ăn. Nhưng lần nào về cũng thấy đồ ăn trong tủ lạnh vẫn còn nguyên.

Tôi cằn nhằn thì mẹ cười bảo:

– “Răng rụng hết rồi còn đâu nữa mà ăn?”

*Ba Cong.

Oan Trái-Truyện ngắn – Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Truyện ngắn – Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Oan Trái

Sau ngày đình chiến theo Hiệp định Geneve năm 1954, Đỗ Thị Tình kết hôn với Phan Văn Anh, một Chính Trị Viên tiểu đoàn của bộ đội Việt Minh.

Một tháng sau, chồng đi tập kết ra Bắc để nàng ở lại trong Nam. Tình có nhan sắc mặn mà nên lắm người tán tỉnh. Vài anh thanh niên trong xã , dăm cán bộ Dân Sự Vụ năng lui tới nhà, khiến Tình lo ngại bỏ quê đến đất Gia Ðịnh vào chùa lánh thân giữ mình. Nàng có hạnh nguyện ở chùa hai năm, chồng về sẽ trở lại đời sống bình thường hưởng cảnh hạnh phúc trần tục.

Thời gian kéo dài, người chồng năm xưa vẫn biền biệt. Tình không ngờ nàng đã chôn gíấu cuộc đời son trẻ của mình trong chiếc áo nâu sòng lại lê thê vô vọng. Và từ một ni cô “Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.”(*) Ni cô Thích Tâm Ngọc (tục danh Đỗ ThịTình) đã trở thành Sư trụ trì chùa D.Q. thay Sư Bà Thích Tâm Huệ viên tịch.

Bà Đỗ Thị Thân là chị ruột của Sư Trụ trì Thích Tâm Ngọc gởi con trai là Bùi Hữu Thiệt vào chùa D. Q. tạm trú để theo học đại học tại Sài Gòn. Thiệt chỉ lo ăn học, tính tình chất phát ,vô tư.

Một hôm, Thiệt nhận được một số sách tái bản của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn do một phật tử vô danh gởi tặng. Các tác phẩm nổi tiếng ngày xưa mà Thiệt rất mê đọc như Gánh Hàng Hoa, Ðọan Tuyệt… Thiệt giật mình bởi khoảng mười trang đầu là truyện, còn những trang trong thì in toàn tài liệu tuyên truyền của Việt cộng như “Những Mẫu Chuyện Trong Ðời Hồ Chủ tịch”, “Ba Mươi Năm Ðời Ta Có Ðảng”… Thiệt bắt đầu lo ngại và nghi ngờ những hoạt động của chùa D. Q. , vì vậy, hắn quyết định xin phép bà dì Trụ trì được vào ở khu nội trú sinh viên với lý do dành thì giờ đến thư viện đọc sách tham khảo.

Vừa tốt nghiệp đại học lại trúng đợt Tổng động viên, Bùi HữuThiệt không chần chừ nhập ngũ khóa Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức. Bà Thân , Mẹ của Thiệt bảo chạy giấy tờ hoãn dịch vì “hoàn cảnh con một” nhưng Thiệt từ chối. Hắn khuyên mẹ yên tâm, sau khi mãn khóa hắn sẽ làm đơn xin phục vụ tại đơn vị không tác chiến. Qua giai đoạn 2, Thiệt được chọn vào khóa sĩ quan kỹ thuật không quân.

Sau bốn năm phục vụ tại phi trường Biên Hòa, Trung úy Bùi Hữu Thiệt cưới vợ và yêu cầu mẹ bán nhà vào ở với hắn nơi cư xá không quân. Bà Thân luyến tiếc ngôi nhà, không nỡ dứt bỏ cái thị trấn mà bà đã gắn bó từ thời ấu thơ, dù biết rằng nơi nầy không còn an ninh nữa.

Ðêm 24 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu khu QN được lệnh rút quân về Chu Lai, nơi đóng quân của BTL Sư đoàn 2 BB. Người người tranh nhau theo chân quân đội rời thị trấn hướng về Chu Lai tìm nơi an toàn. Bà Thân mệt mỏi, cô đơn chẳng màng chạy lánh nạn. Bà chỉ sốt ruột lo lắng cho gia đình con trai ở Biên Hòa có mệnh hệ nào không.

Bà hối hận đã không nghe lời con. Tháng trước đây, Thiệt có đánh điện nhắn mẹ vào Biên Hòa gấp vì tình hình bất ổn. Bà Thân cứ chần chừ mãi đến nay thì muộn rồi. Thôi thì phó mặc cho số mạng. Ý nghĩ như thế, nhưng trước tình hình bất lợi cho phía Quốc gia, trong thâm tâm bà Thân lại mừng thầm rằng bà có cơ hội gặp lại ông Dinh chồng bà và đứa con trai út tên Bùi Văn Thà đã tập kết ra ngoài miền Bắc đã gần hai mươi mốt năm. Niềm hy vọng đoàn tụ với chồng con ngày càng gần giúp cho lòng bà yên ổn trở lại.

********

Chiếc xe con kiểu Liên xô băng qua cổng vào chùa D. Q., theo sau là chiếc Molotova chở đầy bộ đội cộng sản Bắc Việt, kéo theo một khẩu đại pháo. Tất cả dừng trước sân chùa. Người chỉ huy và hai lính bảo vệ xuống xe vào thẳng khu chánh điện.

A Di Ðà Phật, giọng trầm trầm của một Ni cô vẳng lên từ trên điện thờ. Trong bộ cà sa màu khói hương , Ni cô tiến đến trước mặt ba người bộ đội:

– A di đà Phật, quý khách cần gì ?

Người chỉ huy lên tiếng :

– Tôi cần gặp chủ hộ ngôi chùa nầy.

– A Di Ðà Phật, Ni cô quay mặt đi vào cửa hông chánh điện. Một lát sau, sư Trụ Trì đến trứơc mặt ba người đang giương mắt nhìn những tượng phật mạ vàng trên bàn thờ sáng trưng. Không biết trong đầu họ đang nghĩ gì trước cảnh chùa lộng lẫy đến khi vị Sư Trụ Trì lên tiếng A Di Ðà Phật họ mới giật mình hỏi :

– Bà đứng tên chủ hộ chùa nầy phải không ?

– A Di Ðà Phật, thưa phải .

– Tôi là Thủ trưởng của trung đoàn pháo của Cách mạng, được cơ sở địa phương chỉ dẩn đến đây thông báo cho bà rõ một đơn vị pháo của lực lượng cách mạng sẽ đóng chốt tại vườn chùa nầy.

Nghe giọng nói của người xứ Quảng pha giọng Bắc , vị sư Trụ trì ngước nhìn gương mặt người chỉ huy, đột nhiên sư cúi xuống thầm thì: “Ôi, Anh …” rồi ngã khuỵ xuống. Ba lính Bắc Việt quay lưng rời khỏi chánh điện. Các ni cô bên sau điện thờ vội chạy ra dìu sư phụ mình vào trong.

Ðặt sư nằm trên chiếc giường tại phòng tĩnh tâm, các đệ tử nhìn nhau lo ngại. Lần đầu tiên họ thấy tâm tư thầy bất an dường như có điều gì đó đang khuấy động đời sống tu hành . Họ nào biết khuôn mặt người chỉ huy Trung đoàn pháo đã đánh thức ký ức của Sư Trù trì nhớ lại kỷ niệm của hai mươi mốt năm về trước. Lòng rạo rực yêu đương của người con gái trong tuổi xuân thì đã bị lừa dối làm con tin trong sách lược cài người của CS Hà Nội chuẩn bị cho cuộc lấn chiếm Miền Nam sau này càng làm nhói buốt tim bà. Khuôn mặt lạnh lùng khắc khổ của người chồng cũ khơi thêm nỗi đau làm rối loạn Bồ Ðề Tâm của bậc tu hành.

Sư trụ trì ngồi dậy, chậm rãi đi về hướng chánh điện gióng hồi chuông đảnh lễ trước điện thờ Phật rồi tọa thiền dưới chân Ðức Thế Tôn tụng tạng kinh Bát Nhã lấy lại sự yên tĩnh tâm hồn.

*******

Hai mươi mốt năm sống ở miền Bắc, Bùi Mậu Thà được chế độ đào tạo thành một bác sĩ. Đầu năm 1976, Thà về Nam gặp lại mẹ . Người anh cả Bùi Hữu Thiệt sĩ quan miền Nam đang ở trong tù. Bà Đỗ thị Thân mừng rỡ khi gặp lại đứa con trai út sau bao năm trời xa cách. Bà đã ngoài sáu mươi tuổi, dành dụm được một số vàng, thương đứa con xa cách lâu năm nên chia cho Thà một nửa. Năm lượng vàng đối với một bác sĩ ở miền Bắc là cả một gia tài. Thế nhưng,vợ chồng hắn nghi ngờ số vàng mẹ chia có thể chỉ một phần mười hay một phần hai mươi.

Ba tháng sau do vợ hối thúc, Thà quay về đòi mẹ phải đưa thêm vàng. Mẹ thực lòng nhưng con không tin, bà cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Thương con, bà đã gom góp chút của cải cuối cùng chia đều cho hai đứa, thế mà hắn vẫn ngờ vực tấm lòng rộng rãi của mẹ. Bà giận lắm, bèn bảo :

– Năm cây vàng đó là ân huệ của tao cho, mầy chẳng có quyền gì đòi hỏi. Số còn lại là phần của thằng Thiệt, anh ruột mầy đang ở trong trại tù cải tạo, và một ít của tao dành để dưỡng già.

Thà nói :

– Bà quên rằng tên lính ngụy đó đã đi ngược lại truyền thống cách mạng của gia đình ta, mượn bom Mỹ giết chết người cha suốt đời tận tụy với Ðảng để lại những đứa con côi cút ở Hà Tỉnh.

Nhắc đến người chồng phụ bạc, bà Thân không nén được cơn đau. Lão Dinh ra Bắc chưa đầy ba năm là lấy người vợ khác, riêng bà vẫn chung thủy chờ chồng. Sau ngày Ba Mươi tháng Tư 1975 bà Thân mới biết được tin chính xác ông Dinh đã tử thương dưới chân súng phòng không đặt tại cầu Hàm Rồng trong trận máy bay Mỹ ném bôm.

Mối hận tình âm ĩ làm khô héo tim bà. Giờ đây chính miệng thằng con trai út giở giọng chửi anh ruột mình là ngụy lại còn bênh vực người cha đốn mạt , cơn giận ập đến như thác vỡ bờ, bà hét lên :

– Cả lũ bay là đồ bất nghĩa, vô ơn. Cút ! cút ra khỏi nhà tao ngay !

Thà đứng lên, từng bước một đến sát bà mẹ, miệng gầm gừ :

– Không cần bà đuổi, tôi đi ngay bây giờ, nhưng hãy đưa hết vàng đây. Vừa nói hắn vừa chụp lấy cổ mẹ hăm dọa. Bà Thân cảm thấy bị xúc phạm, đưa cao hai tay dùng hết lực cấu vào mặt hắn. Cơn giận sôi lên, Thà siết mạnh tay hơn. Hơi thở bà Thân khò khè, chân tay giựt lên từng hồi rồi cả người bà rũ xuống. Thà hoảng hốt buông tay. Hắn vội vàng vào buồng ngủ lục tìm được gói vàng giấu bên dưới đầu giường rồi lên xe đò ra Bắc, trốn biệt từ ngày đó.

Sau cơn ngất vì nghẹt thở, bà Thân dần dần hồi tỉnh. Khi nhớ ra hành động của thằng con đòi thêm vàng, bà vội vàng vào xem lại số vàng đã cất giấu thì hỡi ôi , thằng con khốn nạn đã lấy đi hết số vàng bà đã dành dụm, gồm 5 cây vàng cho thằng con lớn và 5 cây bà để dành dưỡng già. Bà Thân ngã vật trên giường rồi ngất đi, đến ngày hôm sau bà trút hơi thở cuối cùng.

Ba năm sau ra tù, Bùi Hữu Thiệt ôm mộ mẹ khóc suốt một ngày. Chàng vì mẹ đã trễ chuyến bay cuối cùng ra hạm đội. Mẹ vì chàng quyết giữ năm cây vàng để chàng có phương tiện vượt biên đoàn tụ với vợ con đang ở nước ngoài. Thiệt giận em thì ít, nhưng căm thù cộng sản đã tạo cho con người sống trong chế độ mang tính ác thú.

*******

Người chỉ huy của Trung đoàn pháo Bắc Việt có toán quân đóng chốt tại chùa D. Q. trong những ngày đầu của 30 tháng Tư, bây giờ là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện . Ông vừa ký lệnh trưng dụng ngôi chùa D. Q. làm Trung tâm thương nghiệp và ra lệnh trục xuất tất cả những ai cư trú bất hợp pháp trong chùa.

Sư Trụ trì Tâm Ngọc buông tờ công lệnh có chữ ký của chủ tịch huyện Phan Văn Anh. Bà không tưởng tượng được lại có ngày oan trái đến với bà. Ngôi chùa đã che chở bà những năm tháng còn trẻ trung để tránh cạm bẫy trần tục, giữ trinh tiết chờ chồng. Ngôi chùa đã che giấu cán bộ hoạt động nội thành mỗi khi cơ sở bị phá vỡ. Bà, các sư muội cùng thiện nam tín nữ đã góp công góp của xây dựng, tu sửa ngôi chùa để bây giờ “Cách mạng” gom vào tài sản nhà nước và tước đoạt quyền hành đạo của nhân dân.

Nỗi đau của bà là đã hi sinh cả một thời xuân sắc cho chồng, ngược lại chồng đã quên hẵn bà, xem bà như không còn hiện hữu trên cõi đời nầy !

Ðúng giờ Ngọ ngày Rằm tháng Tư Âm lịch (1978) Ni Sư Thích Tâm Ngọc đã châm lửa tự thiêu giữa sân chùa D. Q. để phản đối chính quyền cộng sản biến ngôi chùa thành trung tâm thương nghiệp. Công an thành phố đã cướp xác sư Trụ trì kín đáo mang đi. Trên cổng chùa, cửa chánh điện được dán đầy những bản sao lệnh trưng dụng ngôi chùa có chữ ký của Chủ tịch huyện Phan Văn Anh.

Ngày hôm sau, Nhật báo “Sài Gòn Giải Phóng” đăng mẩu tin ngắn :

“Một phụ nữ quê quán miền Trung tên Ðỗ Thị Tình mắc bệnh tâm thần, có lẽ vì trắc trở tình duyên nên đã tự thiêu tại sân chùa D. Q. Thi thể đã được chính quyền địa phương an táng.”

********

Chủ tịch huyện Phan Văn Anh đọc lướt qua bản tin trên rồi bình thản đặt tờ báo lên bàn. Cùng lúc, ban văn thư mang vào văn phòng một phong bì lớn, ghi tên người nhận : Phan Văn Anh . Khui bao thư khác thường nầy ông lấy ra một chiếc khăn trắng đã ố màu có thêu hai đóa hoa hồng đan chéo với nhau, một lọn tóc đen dài và một lá thư. Ông tái mặt, vội vàng lùa những món “tang tóc” ấy vào ngăn kéo rồi thẫn thờ đọc lá thư :

Thưa ông Phan Văn Anh,

Tôi viết thư nầy với tư cách của một người phụ nữ mang tên Ðỗ Thị Tình.

Trước tiên, tôi gởi lại chiếc khăn tay mà ông đã tặng cho tôi trong ngày cưới, đó là món quà duy nhất của cô dâu nhận được khi về làm vợ ông. Thứ hai là lọn tóc của tôi đã cất giữ suốt hai mươi năm từ lúc vào chùa quy y. Tôi đã lặng người và khóc hết nước mắt khi mái tóc dài óng mượt của tôi được mẹ bảo dưỡng từ lúc còn bé thơ bị cắt đi. Người con gái mới hai mươi ba tuổi đời đã chịu xuống tóc vào chùa là một quyết định hi sinh vô bờ bến cũng chỉ vì muốn giữ lâý lòng trung trinh tiết nghĩa đối với chồng. Thế mà ông đã nhẫn tâm quên hẳn người vợ ở lại trong Nam. Ngày tôi gặp lại ông sau hơn hai mươi năm xa cách là lúc ông đưa đơn vị pháo đến giẵm nát cảnh chùa mà tôi đã tu tịnh trong suốt thời gian qua. Hành động tiếp theo cuả ông là ký lệnh biến chùa làm nơi buôn bán của nhà nước.

Thần tượng “Cách mạng” trong tôi hoàn toàn sụp đổ . Tài sản đồng bào miền Nam đã bị đảng các ông cướp đọat một cách trắng trợn và chà đạp lên cả quyền sống con người.

Khi ông nhận được thư nầy, tôi với tư cách là Sư Trụ trì chùa D. Q. đã tự thiêu để phản đối chính sách cướp chùa phá đạo của Cộng sản Việt Nam. Tôi vì Ðạo pháp mà thắp sáng ngọn lửa Từ bi Vô úy trong tinh thần Ðại ngã Tinh tấn của Phật Giáo để soi đường cho chúng sanh và hi vọng soi sáng cả lương tri ông .

A Di Ðà Phật.

Ni Sư Thích Tâm Ngọc, trụ trì chùa D.Q.

Ðặt bức thư trên bàn, Phan Văn Anh đưa mắt nhìn khu cây kiểng trước phòng làm việc. Gương mặt ông tối sầm. Kéo chiếc hộc bàn ông nhìn lại lọn tóc đen tuyền nằm khoanh tròn trong bao nylon. Chợt khuôn mặt của người vợ trẻ ngày xưa như thoáng hiện chập chờn bên lọn tóc, ông trầm ngâm, nghĩ ngợi. Một hồi lâu, ông cầm điện thoại gọi phòng công an bảo vệ chính trị hỏi cái xác thiêu ở chùa D. Q. chôn ở nơi nào.

Một tuần lễ sau, đích thân ông lén lút đặt trên ngôi mộ người vợ cũ một bia có khắc hàng chữ : “Nơi an nghỉ của Ðỗ Thị Tình, sinh ngày 18 tháng 4 năm 1931 tại Q. N. Chết ngày 15 tháng 4 năm 1978 tại Gia Ðịnh, thọ 47 tuổi”.

Ông âm thầm thực hiện công việc nầy có lẽ để lương tâm ông đỡ cắn rứt. Nhưng ông không ngờ cử chỉ đó lại càng xúc phạm đến linh hồn người tu sĩ đã dày công tu luyện. Bởi vì trên bia ông đã cố ý giấu nhẹm Pháp danh “Sư Nữ Trụ Trì Chùa D.Q. Thích Tâm Ngọc.”

********

Trước khi thực hiện một chuyến vượt biển, Bùi Hữu Thiệt tìm đến mộ bà dì ruột Ðỗ Thị Tình thắp hương từ biệt. Nhìn tấm bia mộ không tên người phụng lập, lòng Thiệt quặn thắt. Thiệt chấp tay khấn nguyện : “ Dì đã hiến thân cho Ðạo Pháp mang ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ngọn lửa Bi Trí Dũng của Phật pháp bùng lên từ thân xác Dì đã thắp sáng lương tri loài người và soi đường cho chế độ này ra khỏi vòng mê lụy.

Thưa Dì, ngày mai nầy con sẽ ra đi, không may gặp hiễm nguy, thân con có thể chìm tan trong biển cả mênh mông nhưng hồn con sẽ nhập cùng với hàng vạn linh hồn của những người bỏ nước ra đi bị tử nạn làm nên những con sóng thần đánh động lương tâm thế giới.

Linh hồn Dì linh thiêng xin phò hộ cho con trong chuyến đi này được bình yên đến được bến bờ Tự do . Con hứa với Dì , nơi vùng đất mới , con sẽ ươm mầm hạt giống Tự do để chờ ngày mang về trồng lại trên mảnh đất quê hương Việt Nam mà hiện nay đang tràn ngập cảnh khổ đau đầy máu và nước mắt !”

May be an image of 1 person and standing

MONG MANH …ĐỢI CHỜ!!!- TRUYỆN NGẮN…

Mời đọc xem bạn có rơi nước mắt không nhé?

Van Pham

TRUYỆN NGẮN…

Một câu chuyện hay và cảm động, nhưng không thấy tên truyện và tác gỉa… Các bạn giúp đặt tên nhé, cái tên này tôi đặt tạm thôi…*

***

MONG MANH …ĐỢI CHỜ!!!

Anh ôm chặt lấy cô vào lòng, hôn lên tóc cô và thì thầm nói:

– Nép vào ngực anh,

cô lặng lẽ gật đầu, bao nhiêu điều muốn nói nhưng không thể nói ra. Nước mắt cô lăn dài trên má. Vậy là chỉ cần trời sáng, chỉ cần đồng hồ cất lên 9 tiếng chuông lạnh lùng, anh sẽ xa cô và chẳng để lại cho cô điều gì ngoài một chữ ‘đợi’.

Anh, con nhà giàu, đẹp trai, sự nghiệp sáng lạng được biết bao người ngưỡng mộ. Cô, chỉ là một đứa trẻ mồ côi, tứ cố vô thân không nơi nương tựa, tương lai của cô chỉ có thể dựa vào tấm bằng đại học còn chưa lấy được.

Chuyện tình của họ cũng như bao chuyện tình không môn đăng hộ đối khác. Gia đình anh, bạn bè anh phản đối và nhìn cô với ánh mắt khinh thường. Khinh thường một con nhỏ trèo cao không biết thân phận. Nhưng tình yêu có bao giờ chịu thua số phận, anh bất chấp tất cả để ở bên cô, sống với cô. Cô đã từng hạnh phúc, đã từng mơ và rồi giấc mơ ấy cũng tan vỡ. Bố mẹ anh dùng đủ mọi cách bắt anh ra nước ngoài, thậm chí là dùng cả sức khỏe và mạng sống của họ.

Anh đầu hàng số phận và ra đi. Cô không trách, cũng không thể trách điều gì cả, nếu giữa tình yêu và bố mẹ thứ anh chỉ có thể mất là tình yêu.

Nhìn bóng lưng anh đi xa dần, cô khuỵu xuống đất, nấc lên không thành tiếng. Chỗ dựa duy nhất của cô, người thân yêu duy nhất của cô đã đi. Giờ đây cô lại chỉ có một mình.

***

4 năm, đối với một số người trôi qua thật nhanh, nhưng đối với anh đó là quãng thời gian dài dường như vô tận. Bốn năm, giờ đây anh đã có được tất cả những gì mà một con người thành đạt cần có. Nhưng tình yêu của anh thì đã mất và có thể mãi mãi không thể tìm lại được.

Khi anh đi cô đã hứa sẽ đợi anh, vậy mà tất cả những gì cô có thể làm là bặt vô âm tín rồi chỉ sau 2 năm anh nghe tin cô lấy chồng. Một người chồng giàu có, lớn tuổi và có thể cho cô tất cả những gì cô muốn. Anh đã không muốn tin nhưng không thể liên lạc với cô để hỏi rõ mọi chuyện. Anh đau khổ, dằn vặt, chờ đợi, cho tới một ngày một tấm thiệp cưới được gởi tới từ gia đình cho anh và tên cô nghiễm nhiên nằm trên đó. Anh đã tin và bắt đầu chấp nhận. Giờ đây khi quay trở lại, mong ước duy nhất của anh là tìm cô để nhìn thấy cô thật sự hạnh phúc…. Và đó cũng là lần cuối anh muốn gặp cô.

Khi những chiếc lá đã bắt đầu ngả màu vàng, khi mà thời tiết đã bắt đầu trở lạnh, cô vội vã khoác lên mình chiếc áo ấm dày, với tay kéo chiếc mũ sụp xuống che đi gương mặt mình. Cô nhanh tay vơ lấy những tờ tiền vương vãi trên tấm trải giường nhàu nhĩ và bước vội ra khỏi khách sạn.

Cô cứ cúi mặt đi, đi rất nhanh như để lẩn trốn ánh mắt dè bỉu của mọi người. Cũng có thể chẳng ai nhìn cô đâu, nhưng một khi đã sai trái thì cảm giác bị người khác khinh rẻ luôn bám theo mình. Vô tình, lúc cô bước đi, một người nhìn thấy cô và sửng sờ làm rơi chiếc cốc rượu.

Anh đứng phắt dậy, đẩy bàn và chạy theo bóng dáng người phụ nữ kia. Có thể cách ăn mặc, trang điểm lòe loẹt và chiếc mũ che đi gần hết khuôn mặt nhưng với anh, hình ảnh của cô đã in đậm trong ký ức nên không thể nào anh không nhận ra cô. Chạy như điên cuồng về phía trước, anh thấy cô đứng lặng lẽ bên cột đèn đường, ánh đèn hắt lên người cô một cách mờ ảo. Anh định chạy tới níu lấy tay cô nhưng rồi một chiếc xe sang trọng trờ tới, cô bước lên xe một cách lạnh lùng và khi chạy lướt qua anh, anh thấy người đàn ông trên xe bắt đầu nhào tới kéo áo cô như một con thú, điên cuồng. Chết lặng…. đây đâu phải là viễn cảnh anh từng nghĩ tới.

Người chồng của cô kia ư? hạnh phúc của cô là thế ư? vậy cô đến khách sạn để làm gì? Bao nhiêu câu hỏi dằn vặt anh, bao nhiêu nghi ngờ dồn nén trong anh bộc phát khiến anh không sao trả lời cho chính mình được.

Cầm trên tay những tờ tiền xanh nhạt cô nhẹ nhàng vuốt thẳng nó một cách cẩn thận và yêu chiều. Với một số người đây là đồng tiền bẩn thỉu nhưng với cô đây là tất cả những hi vọng cô có thể gom lại để mua lấy một hạnh phúc mong manh.

Cầm xấp giấy được thám tử đưa cho mình, nhìn gương mặt cô hiện rõ trên tờ giấy phẳng phiu đó…. Anh bỗng thấy lợm người, tờ giấy trắng trong tay, khuôn mặt tươi cười của cô khiến anh cảm thấy thật buồn nôn. Thì ra đây chính là con đường cô đã chọn, nhơ nhớp và đáng khinh làm sao.

Cô vẫn đứng lặng lẽ trên vỉa hè để chờ người khách tối nay. Chiếc váy đỏ nhẹ nhàng ôm lấy cô làm cô thật nổi bật, vẻ nổi bật đó được đổi lại nhờ ánh mắt soi mói của người đi đường. Khẽ nhếch môi, chính cô còn khinh mình nữa là…. Nụ cười của cô chợt tắt ngấm khi nhìn người đang đứng trước mặt mình.

Anh nhìn cô bằng ánh mắt lạnh lẽo tăm tối nhất. Trong trí nhớ của cô anh luôn nhìn cô ấm áp và dường như hiểu ra mọi chuyện cô bất ngờ cười lớn, cười thật to nhưng đuôi mắt đã ươn ướt từ lúc nào.

Nắm tay cô kéo lên xe, anh lái như điên tới một nơi vắng vẻ… Sau giây phút yên lặng để anh và cô nhìn nhau, tìm ở nhau những điểm gì thay đổi sau từng ấy năm xa cách và thoáng giật mình khi cả hai cùng nhận ra rằng anh vẫn vậy nhưng cô đã thay đổi gần như hoàn toàn:

– “Anh nghe nói em đã lấy chồng, vậy chồng em đâu?” anh lạnh lùng nhìn cô rồi cất giọng.

– “Em thì nghe nói anh đã lấy vợ, vậy vợ anh đâu mà để anh đi tìm ‘gái’ thế này?” Cô nheo mắt hỏi ngược lại anh. Anh sửng sờ nhìn cô. Trò đùa gì thế này?

Nhíu mày nhìn cô, anh không thể thốt lên một lời nào cả. Thì ra có những việc, mọi người sắp đặt thật là khéo, thật là hay…. Dù đó là hiểu lầm nhưng nhìn cô lúc này anh cũng không thể nào nguôi hận. Cứ cho là vì anh, cô cũng không nên biến mình thành loại người như hôm nay.

– “Anh nhìn đủ chưa? Đủ rồi thì đưa em về lại chỗ cũ ngay đi….” Cô gắt lên. Đưa tay mở cửa xe.

– “Tại sao?” mắt vẫn không nhìn cô, bàn tay siết chặt lấy vô lăng anh hỏi cô một cách nặng nề, mệt mỏi.

– “Em cần tiền….”

– Tiền, tất cả chỉ vì đồng tiền thôi sao? Anh tức giận đưa tay lôi cô vào xe và nhấn ga lao đi.

Thoáng bàng hoàng nhìn anh, nhưng rồi cô nhanh chóng lấy lại vẻ mặt bất cần của mình. Có gì đâu, khi bây giờ đã không còn đáng được yêu thương và tôn trọng.

Chiếc xe lao nhanh đến một khách sạn gần đó, anh lôi cô vào trong, nhận chìa khóa rồi lại kéo tay cô lôi lên phòng. Đẩy mạnh cô xuống giường, anh đưa tay đè cô xuống và hôn tới tấp vào môi cô. Nụ hôn mạnh bạo chứa đầy tức giận, đau khổ, không còn là những cữ chỉ âu yếm ngọt ngào như trước đây. Khi chiếc váy trượt xuống khỏi cơ thể, những vết bầm tím trên vai, ngực cô hiện lên rõ ràng dưới ánh đèn, anh ngừng lại. Cô bây giờ không còn là cô gái trong sáng chỉ thuộc về anh, cô bây giờ đã nhàu nhĩ cũ nát và héo úa đến mức đáng giận. Đẩy cô ra, anh đứng dậy nhặt chiếc áo sơ mi mặc vội vào người.

Trước khi quay đi, anh vung tay ném lên giường cho cô những tờ năm trăm ngàn mới tinh rồi bước vội ra khỏi phòng.

” Em cần tiền…. Chỉ cần tiền mà thôi….” Cô cười lên như điên dại, nhặt những đồng tiền anh vứt ra như nâng niu một thứ gì đó đáng quý nhưng rất tiếc là đã vỡ nát mất rồi.

Những ngày sau đó anh lao vào công việc. Những ngày sau đó cô lại lao vào kiếm tiền. Chỉ khi đêm về anh lặng lẽ ôm vào lòng khuôn mặt cô cách đây bốn năm, một khuôn mặt xinh đẹp, trong sạch.

Chỉ khi đêm về, cô lại lê những bước chân nặng nề trên nền gạch bệnh viện, lặng lẽ ôm vào lòng hạnh phúc nhỏ nhoi của riêng cô bằng tấm thân nhơ nhuốc của mình. Và họ không gặp nhau, dù là vô tình hay cố ý.

***

Anh lái xe chậm rãi trên những con đường trước đây anh và cô cùng đi qua. Những kỷ niệm đẹp bỗng trở về nhưng không còn mang lại hơi ấm hạnh phúc, ngọt ngào mà dường như chỉ gợi lại những chua chát, đau thương. Thẩn thờ nhìn về phía bên kia đường, một cảnh tượng đập vào mắt khiến anh khó chịu. Một người đàn bà to béo đang ra sức đánh chửi tới tấp vào mặt một cô gái trẻ. Một tay bà nắm tóc cô, tay kia ra sức kéo tay cô ra và tát mạnh vào mặt cô. Đúng. Cô gái đó chính là cô ấy, là người một thời anh yêu thương, ôm ấp. Những câu chửi rủa từ người đàn bà đó và từ những người xung quanh đập vào tai anh, nhức nhối.

– “Con điếm, mày chết đi…. Dám bu bám theo chồng bà à…. Mày đúng là thứ cặn bã mà.”

– “Cái thứ này không đáng để cứu…” “Cặn bã…”

– “Sao chúng nó còn chường mặt ra ngoài xã hội nhỉ…”

– “Chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh…

Anh bật cười, cái giá cho đồng tiền em kiếm được chỉ như vậy thôi đấy. Em thấy không, đến anh còn thấy khinh em nữa là người khác. Cúi đầu bật chìa khóa, anh không còn muốn can thiệp vào cuộc đời cô nữa rồi. Bất chợt, một tiếng thét chói tai vang lên, tiếng rít của bánh xe nghiến trên đường kéo sự chú ý của anh trở lại nơi cô đang đứng…

Thì ra cô lấy sức đẩy người đàn bà đó ra, nhưng lại bất ngờ bị bà ta đẩy ngược lại một cái thật mạnh. Cô bị đẩy ra đường, một chiếc ô tô bất ngờ lao tới không thể tránh kịp đã tông vào cô. Cô nằm đó, máu không ngừng chảy, ướt đẫm mặt đường.

Đẩy cửa xe thật mạnh anh chạy tới chỗ cô, đưa đôi tay run rẩy nâng cô dậy. Anh nhìn cô đau đớn, nỗi đau đè nặng lồng ngực khiến việc gọi tên cô cũng thật khó khăn.

Cô nhìn anh, ánh mắt mờ đục, đưa tay quờ quạng như muốn tìm một thứ gì đó:

– “Giúp em…. ………. Túi……. Xách ……” cô thều thào nhìn anh van nài.

Nhặt chiếc túi xách đưa cho cô, cô run rẩy mở túi xách, nhưng sức cô yếu quá rồi, đến chiếc khóa kéo cũng không thể mở được. Gỡ tay cô ra, anh cúi đầu mở túi, bên trong không có gì cả, ngoài một cuốn sổ cũ kĩ và ố vàng, một tấm ảnh chụp một đứa bé trai ngộ nghĩnh đang cười toe toét. Ấn cuốn sổ vào tay anh, cô ôm lấy tấm ảnh rồi khẽ mỉm cười.

– “Giúp ……………. Em …………..cứu đứa trẻ này….. được không?”

Không kịp nghe câu trả lời từ anh, mắt cô dần khép lại, đôi tay vẫn ôm chặt tấm ảnh vào lòng, môi mỉm cười. Nụ cười cuối cùng của một cuộc đời đầy nước mắt. Trời bắt đầu mưa nặng hạt và cô đã ra đi mãi mãi…

***

Nhiều khi anh cũng tự cảm thấy bản thân mình là một người lạnh lùng, vô cảm. Kể cả lúc nhìn thấy cô nằm trên vũng máu đỏ, đến lúc nhìn chiếc xe cứu thương chở xác cô đi tuyệt nhiên anh không rơi một giọt nước mắt. Ngồi lặng lẽ trong căn phòng quen thuộc của mình, chiếc áo sơ mi trắng anh mặc trên người vẫn loang lỗ những vệt máu của cô.

Đưa tay giở từng trang giấy, nét chữ nghiêng nghiêng quen thuộc, từng dòng, từng dòng, những tâm sự của cô chất chứa trong bốn năm hiện lên trước mắt anh.

Ngày…Tháng … Năm…

Hôm nay anh đi, em về lại căn nhà của chúng ta mà sao thấy trống vắng quá. Thật sự em không muốn như vậy chút nào, nhưng em vẫn sẽ đợi. Em hứa chắc đấy!

Ngày… Tháng… Năm…

Lâu lắm rồi không nghe được tin tức gì từ anh vậy mà lúc nghe được lại là tin anh lấy vợ. Em thật sự hoang mang lắm, không biết có nên tin hay hông đây? Nhưng anh yên tâm, em đã hứa sẽ đợi thì nhất định em sẽ đợi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Hôm nay em thấy khó chịu trong người quá, đã mấy ngày nay không thể ăn được gì cả. Em nhớ anh, nếu anh ở đây anh sẽ chạy ngược chạy xuôi mua thuốc và thức ăn cho em. Hạnh phúc chỉ như vậy thôi nhưng sao lại ngắn ngủi vậy hả anh?

Ngày…. Tháng…. Năm….

Em có thai rồi, đáng lẽ ra phải vui nhưng sao không thể cười nỗi, nước mắt cứ không ngừng tuôn ra. Có con, nhưng em như vậy làm sao nuôi được con đây, làm sao báo cho anh biết đây…. Em bổng tủi thân, tủi thay cho cả con của mình….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Bụng em ngày càng lớn, em phải nghỉ học thôi, ước mơ của em chắc chỉ có thể được đến như vậy. Nhưng cũng thật may, có người nhận em vào làm tạp vụ tại một quán ăn, lại thêm một việc nữa để em có thể kiếm tiền mua cho con một chút đồ gì đó khi con ra đời.

Anh à, bao giờ anh sẽ trở về hả anh?

Ngày…. Tháng…. Năm….

Hôm nay tự nhiên lại ngã, nhìn máu chảy ra không ngừng em sợ lắm, em không muốn mất con đâu…. Đi khám thì tất cả vẫn ổn, không sao cả, em mừng đến phát khóc anh ạ. Tối nay lại đau không chịu được, em vỗ nhẹ và thì thầm với con ‘thương mẹ thì đừng làm mẹ đau nữa nhé, làm xong việc này mẹ sẽ về cho con nghỉ ngơi mà’. Đúng là con của anh, ngoan lắm, em hết đau ngay lập tức. Có thể với em bây giờ là hạnh phúc.

Ngày…. Tháng…. Năm….

Con ra đời rồi anh ạ, trông đáng yêu lắm. Nhìn con ngủ ngoan trong tay mình em lại thấy mắt cay cay, ước gì anh ở đây để bế con. Dù chỉ một lần thôi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Sinh nhật con tròn hai tuổi, nhưng ông trời lại tặng con mình món quà độc ác quá anh ạ. Nó đã không có bố, không được sống đầy đủ vậy mà giờ đây lại mắc bệnh ung thư máu. Phải làm sao hả anh? Em nhìn con mê man trong cơn sốt, nhìn những vết bầm tím trên người con mà không thể cầm lòng. Đến giờ phút này em không thể mạnh mẽ được nữa rồi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Xin lỗi anh, em không còn cách nào khác. Tiền điều trị cho con cao quá, em không thể cầm cự được nữa rồi. Công việc hàng ngày của em không đủ đề chi cho những ngày con nằm viện. Em không muốn mất con, em muốn con được ăn ngon, được uống thuốc, em đành phải đánh mất chính mình thôi. Lần đầu làm thật không dễ, nhưng rồi sẽ quen thôi. Em quyết định sẽ không đợi anh nữa vì con cần em hơn. Xin lỗi!!!!

Ngày…. Tháng…. Năm….

Cuối cùng anh cũng trở về, thật buồn cười khi giờ đây anh nhìn em như vậy. Thấy em khác quá nhiều so với tưởng tượng của anh đúng không? Anh nhìn em bằng ánh mắt gê tởm, đúng là con người em đã rách nát thật rồi. Anh vung tiền cho em để xem sĩ diện của em có còn hay không hả? Xin lỗi anh, em không cần sĩ diện nữa rồi, em cần tiền. Tự nhiên em lại thấy vui, tối nay con lại được tiêm thuốc, ăn ngon và là lần đầu tiên con có quà sinh nhật từ bố. Chắc con cũng sẽ vui như em….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Tủy của em không tương thích với con, nhưng em nghĩ anh sẽ thích hợp. Sáng mai em sẽ tìm anh, em sẽ cho con gặp anh…. Chờ em nhé….

Một giọt nước mắt nhỏ lên những trang giấy đã nhòe nhoẹt nước mắt của cô. Ôm cuốn nhật kí vào lòng anh khẽ khóc lên không thành tiếng.

***

Anh nhẹ nhàng khép cửa, đứa bé ngước đầu nhìn anh mỉm cười, mặc cho người y tá lấy đi một xi lanh đầy máu, nó vẫn không khóc lấy một tiếng, chỉ khẽ nhíu mày. Khuôn mặt đứa trẻ nhìn kháu khỉnh, thông minh và giống anh như đúc. Đưa tay xoa đầu con anh cúi xuống hỏi nhỏ:

– “Con có đau không?”

– “Đau…. Nhưng con không khóc đâu, mẹ đã dặn là con trai thì không được khóc.”

Đưa bàn tay nhỏ gầy guộc đầy dây nhợ nắm chặt lấy vạt áo của anh, đứa bé yếu ớt reo lên:

– “Bố về rồi, từ giờ con không phải nhìn bố trong ảnh nữa rồi phải không?”

– “Ừm, bố đã về.” *Anh nhìn con âu yếm.

– “Mẹ đâu rồi ạ?” Đứa trẻ lại thều thào hỏi.

Ôm con vào lòng, anh vỗ nhẹ vào lưng con:

– “Mẹ mệt rồi, mẹ phải nghỉ ngơi con ạ. Từ giờ bố thay mẹ chăm sóc con nhé?”

Thằng bé ngọ nguậy gật đâu, những giọt nước mắt nóng hổi của bố lăn dài và ướt đẫm áo nó.

Anh ra đi để lại cho em chữ ‘đợi’ bây giờ em bỏ đi cũng chỉ để lại cho anh một chữ ‘đau’…

From: Van Pham

CHIẾC XÍCH LÔ. Truyện ngắn rất hay-Tác giả: Thanh Thương Hoàng .

 May be an image of 2 people, people sitting and outdoors

CHIẾC XÍCH LÔ. Truyện ngắn rất hay.

Tác gỉa: Thanh Thương Hoàng .

Một câu chuyện tình thời chinh chiến hay như cổ tích; Tháng Tư Đen.

***

Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa

Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân – những ngày tháng cũ trước 75 – anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm.

Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

“Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói:

”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”

“Đúng!”

Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.

Cô khách đáp: “Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh.”

“Nghĩa là…?”

“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”

“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy:

“Nghĩa là…?”

“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:

”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:

“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:

“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.

“Cô ăn được cả nước mắm?”

“Cũng hơi… khó chịu một chút lúc đầu.”

Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:

“Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”

“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”

“Cô tới đây lần đầu?”

Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc robe xuyến hoa văn xanh đậm thật trang nhã. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ và hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.

“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.

Khách khẽ gật.

“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang nào vùng đó.”

Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân:

“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

Tân hóm hỉnh cười:

“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng mà các cô gái mơ ước.”

Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm với món “võ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:

“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học và sống ở Washington DC.”

Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.

“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”

“Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:

“Cô đã vào Chợ Lớn chưa?”

“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”

“Cô đã đến Hồng Kông?”

“Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ.”

Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:

“Xin lỗi, cô đã lập gia đình?”

“Phải, tôi đã lập gia đình gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, sau cặp kính mát nhạt, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:

”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:

“Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”

“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:

“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”

“Vì tôi đã ở bên đó và có mua tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”

“Ồ, anh đã ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”

“Tôi đi học.”

Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:

“Đi học? Thì ra anh sang Mỹ du học!”

“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sỹ quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường:

“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”

Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:

“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”

“Anh còn nhớ tên khóa huấn luyện?”

“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với toán Pilot Hải Quân Mỹ.”

Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.

Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:

“Họ chắc không phải là người Việt?”

“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”

“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”

Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân cãi:

“Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”

“Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực.”

“Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, tư bản… quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:

“Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại… lại đi đạp xích lô?”

Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:

“Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”

“À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”

“Gần mười năm.”

“Trời! Anh được tha lâu chưa?”

“Mới sáu tháng.”

“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”

“Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”

“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu…”

Tân cười nửa miệng:

“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn.

Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi – Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.

“Hôm nay cô muốn đi đâu?”

“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh.”

“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền?

Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:

“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”

“Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi!”

Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:

“Cho chắc ăn!”

Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”

“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”

Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:

“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:

“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”

“Có chứ! Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người.”

“Anh còn nhớ tên?”

“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không!”

Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về:

“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.

” Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:

“Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.

” Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.

“Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.

“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa!”

“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”

“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước.”

“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm?”

“Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”

“Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.

” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”

“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không?”

“Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.

” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.

“Còn cha mẹ anh?”

Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng:

“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù!”

Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế còn đứa nhỏ?”

“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.

Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói:

“Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”

“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”

Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:

“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”

“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà…. Hẻm… Đường…. Thành phố Saigon.”

Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ý mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:

“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.

” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”

”Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:

“Tạm biệt Tân, người bạn mới quý mến của tôi.”

Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn:

“Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:

Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:

“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”

“Cái gì?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”

“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:

“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”

Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:

“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:

“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:

”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.

Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:

“Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”

Cô ký tên một chữ tắt “J”.

2

Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” – tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:

“Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:

“Tin vui? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:

“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi.”

Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt.

Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:

“Sao? Quà của ai gửi vậy?”

Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

3

Washington DC. ngày… tháng… năm….

Tân thân mến,

Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”

Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:

“Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:

“Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.

Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.

Chúc anh vui khỏe.”

J.

Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay… Anh đã không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.

4

Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi – Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lý nào cô nàng yêu mình? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều… nhẹ như lông hồng!

Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm thì được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đã gặp ông trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

5

“Anh Hoàng thân quý,

Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó.

Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.

Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.

Quý mến,

Đỗ Tân. ”

Thanh Thương Hoàng

Món nợ không thể đòi

Món nợ không thể đòi

Nguyễn Ngọc Tư

Mẹ đi đằng trước, con lẽo đẽo theo sau, buổi chợ sớm mai thưa người nhưng chộn rộn vì những câu hỏi ríu ran của thằng nhỏ. Mẹ ơi, con cá gì mà có cái mỏ dài quá vậy, thằng con chỉ tay vào con… vịt, hỏi. Nhưng khi mẹ trả lời đấy là con vịt, nó giãy nảy, con vịt phải có lông chứ. Dằng dặc sau đó là những câu hỏi khác, tại sao con cá kia lại nằm im re, vì sao nó chết, ai làm nó chết. Tại sao cọng rau này màu tím còn rau kia màu xanh. Mẹ vẫn nhẫn nại trả lời con và diễn đạt làm sao cho giản dị, dễ hiểu. Chỉ câu hỏi: “Mẹ ơi, tại sao người ta đem bán cá em bé? Sao người ta không cho cá em bé đi học mẫu giáo mà ăn thịt tụi nó làm chi, tội nghiệp…”, mẹ phải ngẩn ra rất lâu, phân vân tìm câu trả lời. 

 Nhưng không thể lờ đi, vì thằng con ngước con mắt đầy vẻ xót thương nhìn mẹ, như chờ đợi, như van xin, như cầu cứu. Trong cái thau gần đầy nước, hàng triệu con cá con (mà thằng nhỏ xem như bạn đồng trang lứa với nó) đang chen chúc nhau đớp không khí một cách tuyệt vọng. Lứa cá nhỏ hơn đầu đũa này thường là từ 15-30 ngày tuổi, người ta gọi là rồng rồng. Hơi giống trẻ con, lúc mới chào đời rồng rồng có màu đỏ, và ngả sang đen khi chúng lớn dần lên. Lúc ấy, chúng sẽ từ bỏ cái tên cúng cơm của mình, xúng xính với tên mới: Cá lóc.

  Rồng rồng được cá mẹ sinh khi trời bắt đầu rải xuống những sợi mưa. Nước hớn hở dâng lên, tắm mát những ao, đìa đã mỏi mê vì những ngày khô kiệt. Sấm chớp vẫn lừ đừ, gầm gừ trong những đám mây nặng trĩu nước. Sa mưa ! Những nụ mầm mới bắt đầu nhú lên trên những cọng rau muống, rau đắng, rau ngổ… già nua. Những sinh vật của ruộng đồng như cá, ếch… vào mùa sinh sản. Lúc này, trong ao hay xuất hiện những bầy rồng rồng – những quầng đỏ lâm nhâm trên mặt nước, to như cái nia, di chuyển lấp lánh, nhịp nhàng.

 Đây cũng là khoảng thời gian mẹ đi chợ, hay thấy lòng buồn rợn ngợp. Đầu chợ là cá rồng rồng, cuối chợ cũng cá rồng rồng. Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng trứng lặc lè. Ai cũng có thể nhìn thấy muôn vạn hạt trứng nhỏ lấm tấm bên trong. Dài theo lối đi, người ta bày bán mấy con cá lóc ốm nhom vật vờ bên cạnh lũ cá rô, cũng lép kẹp, chỉ bụng là quá khổ vì phải bọc lấy trứng. Cá quãng này ăn không béo, nhiều nhớt, tanh, thịt cứng, dai nhách. Dường như lũ cá đã cố ép xác, tự làm mình xấu đi, già đi, nhếch nhác, xóa dấu của sự hấp dẫn để bảo vệ lũ con sắp chào đời nhưng cũng không thoát khỏi bàn tay của con người. 

 Nhưng giữa chợ đời, chẳng mấy ai để tâm mà cám cảnh cho phận rồng rồng, cho con cá… có bầu, như mẹ. Hay ai cũng thấy bất nhẫn, nhưng họ cũng im lặng làm ngơ, như mẹ. Khi lấy đũa gắp mớ rồng rồng kho tiêu thơm lựng, họ cũng thấy áy náy, quá nhiều sinh vật mất cơ hội sống chỉ vì một miếng ăn của con người? Hay họ vô tư, chẳng nghĩ gì cả, bằng chứng là những sinh vật tội nghiệp ấy đã bị tận diệt hết sa mưa này đến sa mưa khác, bất chấp lệnh cấm của chính quyền (cũng phải, ngang nhiên bày bán mà có thấy ông chính quyền nào lên tiếng đâu, mắc gì phải sợ).

  Mẹ đắn đo rất lâu, mẹ sợ suy nghĩ kia được nói nên lời sẽ là quá tàn nhẫn đối với đứa trẻ. Cuối cùng, mẹ nói, tại bà con mình còn nghèo. Vì nghèo, nên phải dầm mình kéo từng bầy rồng rồng, lội ròng rãi trên khắp đồng bãi tìm bắt từng con nhái, con ếch để đổi lấy ít gạo. Vì nghèo, nên đang cạy cơm cháy bữa sáng đã lo ngay ngáy bữa chiều, hơi sức đâu nghĩ tới tương lai xa vời. Và vì bụng chưa no, nên những gì người ta rao trên đài, nào là phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn hệ sinh thái… chỉ là những ngôn ngữ xa vời. 

 Mẹ buộc phải nói những điều quá phức tạp, đối với thằng con năm tuổi. Nhưng đó là câu trả lời bao dung nhất, ít đau đớn nhất… Chắc chắn, lớn lên nó sẽ hiểu. Chỉ sợ, lúc đó, những sản vật của ao đồng trở thành hàng quý hiếm. Và vĩnh viễn thằng con không biết âm thanh ếch, nhái kêu ran ngoài đồng sau mưa, cảnh cá rô, thác lác ục sôi dưới đìa mùa hạn, tiếng cá lóc táp lụp bụp như dừa rụng xuống ao.

 Tất cả những thứ ấy, như một món nợ mà lớp con cháu không thể đòi lại từ những thế hệ đi trước. Có trả nổi đâu mà đòi…

 Nguyễn Ngọc Tư.

From: TU-PHUNG

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

Nguyễn Chí Thiện ở tù cùng với tôi tại trại Phong Quang, Lào Cai.

Tính về mức độ tàn bạo, theo sự đánh giá của những người tù thâm niên, nó chỉ đứng sau trại Quyết Tiến, hoặc còn gọi nôm na là trại Cổng Trời, ở Hà Giang.

Tôi ra tù trước Nguyễn Chí Thiện vài tháng, hoặc nửa năm chi đó. Người ta thả tôi với điều kiện ngặt nghèo – phải được một cơ quan, xí nghiệp nhận vào làm việc. Người nhà, bè bạn chạy xất bất xang bang, cuối cùng rồi cũng gặp được một ông giám đốc dám làm cái việc không ai muốn làm.

Tôi được ký hợp đồng tạm tuyển, tạm tuyển thôi, làm công nhân bốc vác ở Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Sơn Bình. Nó là cái tỉnh mới, gồm Hà Đông, Sơn Tây và Hoà Bình, theo sáng kiến của ông tổng bí thư anh minh được ca ngợi là ngọn đèn 200 bougies soi đường cách mạng. Thời ông này người vào tù đông nhất. Các trại mới mọc nhanh như nấm.

Ông giám đốc tốt bụng chẳng những không bắt tôi làm công việc bốc vác, giữ tôi ở văn phòng, mà còn cho phép tôi không phải ở nhà tập thể của công ty ở thị xã Hà Đông, hết ngày thì về nhà mình ở Hà Nội.

Nguyễn Chí Thiện được thả về nguyên quán Hải Phòng, ở đấy anh còn bà chị.

Chẳng khác gì tôi, anh không thể kiếm được việc làm. Trước khi đi tù lần thứ nhất, anh làm nghề dạy học. Sau lần đi tù thứ hai vì tội làm thơ phản động, anh thất nghiệp trăm phần trăm. Trở về nghề cũ, nghề duy nhất anh biết thì chắc chắn không được rồi. Làm thầy giáo trong nhà trường xã hội chủ nghĩa nếu lý lịch không sáng như gương thì cũng phải là người không một lần vướng vòng lao lý, thậm chí không bị cái gọi là “cơ quan chức năng” cho vào sổ đen. Các cơ quan, xí nghiệp nhà nước chỉ cần lướt qua lý lịch hai lần tù của anh là xua anh như xua tà. Anh sống vắt mũi bỏ miệng, lúc đói lúc no.

Thỉnh thoảng, chẳng có việc gì để làm, anh lên Hà Nội thăm tôi và bạn tù cũ: Trình Hàng Vải, Vĩnh Đại Uý, Văn Thợ Mộc, Dũng Con…, hi vọng anh em mách bảo cách nào kiếm sống.

Trình Hàng Vải hiến kế đi buôn – cất đũa xe đạp ở Hà Nội về bán ở Hải Phòng. Thiện đi được vài chuyến trót lọt, cũng kiếm được chút đỉnh. Cái may khốn thay lại không dài – vào một ngày đông rét cắt ruột anh đụng thuế vụ. ThấyThiện mặt gày quắt, áo bông lại to xù, người nhà nước đè ra khám. Tất tật các bó đũa xe đạp quấn quanh người bị tịch thu. Thế là mất cả chì lẫn chài.

Tôi may mắn hơn Thiện.

Đang lúc không biết cách nào kiếm sống thì rất bất ngờ, tôi gặp lại ông bạn cũ, trước kia là giảng viên khóa 6 trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tình đồng ngũ khiến anh tự tìm tôi để giúp đỡ. Lê Sĩ Thiện là con dao pha, việc gì đến tay anh cũng tìm ra cách làm bằng được. Trước khi về hưu, anh là phó giám đốc nhà máy điện Lào Cai. Mặt hàng đầu tiên chúng tôi sản xuất là bột nở thực phẩm. Chúng tôi gặp thời – trước kia bột nở phải nhập của Tàu, nay hai nước lủng củng, không có hàng về, cái quẩy giờ chỉ to bằng ngón tay. Các bà bán cháo quẩy ào ào mua hàng của chúng tôi. Nhờ có bột nở nội hoá này cái quẩy lại phồng to như cán búa.

Thấy bột nở chạy, Nguyễn Chí Thiện muốn lấy một ít về Phòng bán thử. Nhưng ngay cả tiền trả hàng mẫu anh cũng không có.

Với bạn tù, tôi không tiếc. Nhưng việc này phải được Lê Sĩ Thiện bằng lòng.

Chúng tôi khởi đầu bằng hai bàn tay trắng. Gõ mọi cửa có thể gõ mới vay được năm chục bạc, bằng lương kỹ sư một tháng. Được cái việc sản xuất không cần nhiều thiết bị lôi thôi, làm ra nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã có những đồng lãi đầu tiên. Tuy vậy, mới bắt tay vào sản xuất, tiền thu chưa được bao nhiêu. Bán chịu trong những ngày ấy không khó, nhưng nó mang lại sự xúi quẩy, người ta tin như thế.

Lê Sĩ Thiện không quen Nguyễn Chí Thiện, hai người mới chỉ gặp nhau vài lần ở nhà tôi. Tôi e anh không bằng lòng. Nhưng tôi lầm. Lê Sĩ Thiện biết chúng tôi thân nhau, rất có thể trong thâm tâm anh có cảm tình với những người bị bỏ tù vì tội chống chế độ.

Anh gãi đầu, rồi quyết:

– Để cậu ấy lấy. Bán được rồi, trả sau có sao.

Vào thời gian ấy chẳng ai trong chúng tôi, những bạn tù của Nguyễn Chí Thiện coi anh là nhà thơ, mặc dầu không ít thì nhiều chúng tôi đều được anh thì thầm đọc cho nghe thơ anh trong những buổi tối của đời tù đằng đẵng. Anh cũng thật thà thú nhận:

Thơ của tôi không phải là thơ.

Mà là tiếng cuộc đời nức nở.

Tiếng cửa nhà giam ngòm đen khép mở.

Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ.

Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ.

Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ.

Nhưng cũng có những vần thơ của anh tôi nghe một lần mà nhớ mãi:

Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương.

Còn tôi – ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng,

Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương.

Từ hai câu: Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương của thi hào Lý Bạch mà bật ra sự liên tưởng so sánh vừa hồn nhiên vừa đau đớn ấy, hồn thơ trong Nguyễn Chí Thiện đã thức giấc. Nó đặc biệt gợi nhớ cái xà lim cấm cố ai từng qua thì không thể nào quên.

Nhưng khi nghe những vần thơ khác:

Đảng như hòn đá tảng

Đè lên vận mạng quê hương.

Muốn sống trong hòa hợp yêu thương,

Việc trước nhất phải tìm phương hất xuống.

Thì Lê Sĩ Thiện hết hồn: “Bị bỏ tù còn là nhẹ. Còn sống là may.

Lê Sĩ Thiện chưa từng ở tù, anh chỉ có thể đoán, chứ không thể biết tâm trạng người tù. Con người sống trong cái xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, với cái sợ được chương trình hoá, được định hình trong vô thức, anh chăm chú nghe, giật mình khi nghe, rồi ngẩn người, không thốt được lời nào.

– Tâm hồn người này thật trong sáng – Lê Sĩ Thiện nói riêng với tôi – Rất thật thà. Anh ta rồi còn gặp nhiều nguy hiểm.

Nhờ buôn bột nở, Nguyễn Chí Thiện nhanh chóng trang trải được nợ nần, thậm chí còn dư chút đỉnh giúp họ hàng ở quê, giúp các bạn tù còn loay hoay tìm kế sinh nhai. Ấy là sau này Thiện tâm sự tôi mới biết.

Thiện sòng phẳng. Bán được nhiều rồi, tích được lãi làm vốn rồi, anh lấy hàng lần nào thanh toán ngay lần ấy, không dây dưa.

Một lần, anh dồn tất cả tiền có được để mua một lượng hàng lớn theo yêu cầu của người đặt hàng.

Hoá ra ở miền Nam bấy giờ rất thiếu bột nở cho cao su để làm dép xốp Thái Lan. Lái buôn từ miền Nam ra, nghe nói Hải Phòng có thứ đó, mua về, thấy tuy chất còn kém, nhưng dùng được, liền đặt hàng, bảo Thiện có bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Thiện tính sẽ lãi to, ai ngờ thất bại nặng. Tất cả số bột nở anh mang về đều bị thuế vụ tịch thu.

Vụ ấy tôi hoàn toàn không biết. Chỉ thấy Thiện vắng mặt lâu, không thấy lên lấy hàng.

Đùng một cái, Trình Hàng Vải hớt hải báo: “Thiện bị bắt lại rồi!”

Anh bàn với tôi và các bạn góp tiền đưa cho bà chị Thiện đi tiếp tế. Chúng tôi, tất nhiên không được thò mặt ra trong việc này. Thì ra thời gian Thiện vắng bóng là lúc anh âm thầm chép lại toàn bộ thơ làm trong tù để rồi đột nhập đại sứ quán Anh, nhờ họ chuyển ra nước ngoài. Tập thơ đầu tiên của Thiện có tựa đề “Hoa Địa Ngục”. Chi tiết vụ này thế nào mọi người đều đã biết.

Mãi sau tôi mới được nghe kể chuyện gì đã xảy ra trong chuyến lấy hàng lần chót của Thiện mang về Hải Phòng.

Một người bạn của Thiện, cựu đại uý Bảo chính đoàn, nay đạp xích-lô, một buổi tối vắng khách mới rẽ vào thăm Thiện. Đẩy cánh cửa không bao giờ khoá vào nhà, anh thấy nhà tối om. Bật lửa lên soi thì thấy Thiện nằm co trên giường. Sờ soạng tìm công tắc, bật điện Vẫn tối om.

– Điện đóm sao thế này? Đèn đâu? – anh hỏi.

Thiện ngỏng đầu lên:

– Bán rồi!

– Bán rồi là thế nào?

– Bán rồi là bán rồi, chứ còn là thế nào.

Thì ra sau vụ bị tịch thu tất cả số bột nở trên tàu, Thiện chẳng còn đồng nào trong túi. Về được đến nhà, bụng đói cật rét, trong nhà chẳng còn gì đáng giá ngoài cái bóng điện 15 watts. Bèn tháo ra mang đi đổi lấy một bơ gạo (bơ, tức là cái vỏ hộp sữa đặc, một thời được dân chúng coi là đơn vị đo lường) về nấu cháo.

Ăn cháo xong, đắp chăn ngủ.

Anh cựu đại uý đạp xích lô bảo Thiện:

– Cậu có khai với chúng nó là bột nở không đấy?

– Không.

– Cậu khai sao?

– Bảo: tôi không biết, người ta thuê tôi mang thì tôi mang.

Anh bạn thở phào:

– Thế thì có cơ cứu vãn. Chúng nó mà biết là bột nở thì xong phim. Chúng nó sẽ đem bán để chia nhau. Cậu nghe đây, tớ quen bọn ấy. Còn có cơ cứu vãn.

– Quen thế nào?

– Làm ăn ấy mà.

Thiện chồm dậy:

– Liệu lấy lại được không?

– Còn tùy tình hình. Mình sẽ hỏi chúng nó.

– Nhất rồi – Thiện reo lên – Có phải đấm mõm chúng nó không? Tớ không còn xu nào dính túi đâu đấy nhá.

Anh bạn gãi đầu:

– Không. Nhưng thế nào thì cũng phải đãi chúng nó một chầu.

– Tớ nói rồi – tớ không còn xu nào đâu.

– Để tớ lo. Sau, cậu trả lại tớ.

Anh cựu đại uý điều đình thế nào không biết. Một bữa thịt chó được anh tổ chức, không linh đình, nhưng thoả thuê. Đến lúc ấy Thiện mới biết bọn thuế vụ chẳng biết cái chúng thu là cái quái gì. Cứ thứ gì mà người mang không trình ra được hoá đơn là coi như hàng lậu, thu tất.

Thiện được trả lại tất cả số hàng bị thu.

Bữa ấy Thiện say khướt. Say đến nỗi không biết làm sao mình về được tới nhà. Anh không bao giờ uống rượu. Phần lớn thời gian đời anh trôi qua trong tù, nơi không thể có rượu, trừ những người trong toán tự giác. Những người này thỉnh thoảng cũng được một lần say sưa nhờ đổi những vật dụng tù mang theo người khi vào trại lấy rượu với dân bản lân cận.

Tôi hỏi Thiện chuyện này khi chúng tôi được sống cùng nhau trong một căn hộ tại Strasbourg, thành phố miền Bắc nước Pháp.

– Đó là lần đầu tiên tôi uống rượu, ông ạ – Thiện nói – Trước đó cũng có nhấp tí chút trong một đám giỗ, chẳng thấy ngon lành gì. Cay xè.

– Say thế làm sao về? – tôi hỏi.

– Ông này buồn cười, anh đại uý bạn tôi chở tôi về chứ. Anh ta có cả một cái xích lô cơ mà.

10.2016

Đôi Tay Nhân Gian Chưa Từng Độ Lượng

httpv://www.youtube.com/watch?v=_iQJbvCkpis

CCTS – Đôi Tay Nhân Gian Chưa Từng Độ Lượng

Việt Nam Thời Báo

ĐÔI TAY NHÂN GIAN CHƯA TỪNG ĐỘ LƯỢNG…

Bs Nguyễn Bảo Trung

#VNTB Một lần nọ tôi đi khám bệnh từ thiện cho những đứa trẻ mồ côi tật nguyền ở Thủ Đức.

Thật ra tôi không muốn đi, vì đó là Chủ Nhật, ngày để nghỉ ngơi. Ngày mà tôi có thể nằm dài trên sofa vừa uống bia vừa xem trận bóng ngoại hạng, thi thoảng gào lên tức tối, cứ y như là cả cuộc đời chỉ có mỗi chuyện đá bóng vào gôn là có ý nghĩa.

Tôi khám qua quýt cho xong. Lúc ra về tôi lướt qua những ma sơ chăm sóc trẻ. Họ chẳng có gì đặc biệt, không phấn son với những chiếc áo dòng màu xanh. Nhưng khi gần tới cổng, tôi thấy một ma sơ dáng người nhỏ thó, chiếc lưng còng xuống, vẻ như đang gánh một vật gì đó quá lớn trên vai. Cam chịu. Cô chỉ có một cánh tay trái, cánh tay phải đã cụt.

Khi bước qua, tôi cúi đầu chào theo phép lịch sự tối thiểu của một bác sĩ. Nhưng lúc cúi xuống, vô tình tôi cảm nhận được một mùi hương thanh thoát tỏa lan nhẹ nhàng từ cánh tay đang kéo chiếc cổng sắt nặng nề.

Tại sao ma sơ tật nguyền này lại có đôi tay thơm tho đến thế?

Câu hỏi đó theo tôi suốt chặng đường về. Để rồi từng đêm từng đêm tôi bị mùi hương đó ám ảnh.

Tôi nói với đồng nghiệp, Mọi người đều bật cười và trêu:

Mày nên đi khám tâm thần, bị ảo khứu, nguy hiểm lắm. Ha ha…

Sau những nụ cười vui vẻ ấy tôi đâm hoang mang. Không lẽ mình bị tâm thần? Không lẽ đôi tay xấu xí, tật nguyền ấy lại có thể ám mình? Tôi có rất nhiều đôi tay để ám cơ mà?

Những đôi tay hồng hào, mềm mát như gió của bạn tình, những đôi tay đầy ma lực từng ngón như rắn lên xuống, làm tôi kiệt sức bao lần.

Quyết không để mình bị tâm thần lãng như vậy, tôi đi Thủ Đức một chuyến nữa. Vẫn người ma sơ có đôi tay gớm ghiếc ấy mở cổng và vẫn mùi hương thanh khiết bay, váng vất như hương hoa hồ điệp. Người ma sơ tên Thị Mây bối rối cúi xuống trả lời khi nghe tôi hỏi:

– Dạ… tại sơ bị tai nạn giao thông.

Chỉ vậy thôi, đúng chỉ vậy thôi, tai nạn giao thông nghiền nát cánh tay phải của ma sơ. Như vậy đó, ừ thì cũng như bao người cụt chân, cụt tay khác bị tai nạn. Thế thôi. Có gì mà vướng bận?

Tôi quay về Sài Gòn, nhủ lòng mình rảnh và vớ vẩn quá. Lo công việc đi, còn bao nhiêu thú để ăn chơi, còn bao nhiêu bàn tay đẹp để nắm, để sờ mò những khi bản năng thôi thúc, đúng không? Nhưng tất cả vẫn như cũ.

Hết ngày rồi lại đêm mùi hương cánh tay đó vẫn thoang thoảng quanh tôi. Khi thì dịu dàng như mùi hoa chanh, khi thì nồng nàn như mùi hoa nguyệt quế.

Tôi sợ đến nỗi, tưởng mình đã điên. Sao kỳ lạ đến như vậy? Một ma sơ có đôi tay cụt vì tai nạn thì có gì là bất thường? Tôi điện thoại cho thằng bạn thân, thạc sĩ chuyên khoa tâm thần, nó cười hú hú lên rồi phán:

Mày bị con nhỏ “viêm cánh “bỏ bùa rồi, ha ha ha, mày có gu với mùi hôi đó, cưới đi, để tối tối hít hít ngửi ngửi cho sướng, ha ha ha.

Tôi cũng ha ha ha trong ngượng ngùng.

Nhân dịp có chuyên gia tâm lý bên Mỹ qua dự hội nghị Chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân tai biến mạch máu não. Tôi liên lạc xin một cuộc hẹn để tư vấn. Thật khó, vì bà ta không có ý định là qua Việt Nam khám chữa bệnh. Người nước ngoài rất rõ ràng trong công việc.

Sau khi hỏi hết mọi chuyện, bà Rose, chuyên gia tâm lý Mỹ, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi dừng ở khoảng giữa. Tôi hơi ngượng một chút với cái nhìn soi mói ấy.

– Lần cuối cậu quan hệ tình dục khi nào?

Tôi quan hệ tình dục thì liên quan gì đến vụ ám ảnh cánh tay cụt, tôi suy nghĩ như thế, nhưng vẫn trả lời:

– Cách đây ba tháng.

– Tại sao lâu thế? Tôi nghĩ vấn đề của cậu là thiếu thốn trong việc quan hệ, hay không thỏa mãn trong vấn đề chăn gối nên mới như vậy.

Trời… Sao người nước ngoài hay liên kết mọi sự rắc rối cuộc sống vào trong tình dục thế kia? Hay họ xem việc đó cũng giống như ăn, ngủ, cầu nguyện?

Bó tay. Tôi hay dùng nhiều từ “thông dụng” như thế. Chứ còn biết làm gì?

Nhiều khi ngủ tôi mở bung hết cửa sổ xịt nước hoa khắp phòng mà không thể đuổi được mùi hương đó.

Tôi đành quấy quả trở xuống Thủ Đức.

Vẫn người ma sơ có cái tên quê mùa Thị Mây ấy mở cổng. Và vẫn lời đáp nhẹ như bấc, sơ bị tai nạn giao thông. Nhưng ánh mắt ma sơ nhìn tôi rất khó hiểu.

Lần này tôi không về vội, tôi đi lang thang trong khuôn viên ngôi nhà dòng dưới hàng cây bàng xanh thẳm lá. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá. Không gian thật thoáng đãng và thanh bình. Bầu trời rất trong và mây trắng trôi nhởn nhơ.

Tôi giật mình tự hỏi, sao tháng ngày qua tôi cuống cuồng hết đi rồi chạy, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng để được gì?

Tôi chưa bao giờ chịu dừng lại ngồi xuống bên một tách trà thơm để ngắm nhìn cuộc sống, hay đơn giản hơn để đọc một trang sách.

Vô tình tôi nhìn vào căn phòng đối diện. Tiếng cười the thé của lũ trẻ tật nguyền vọng ra, có một ma sơ già ngồi giữa chúng. Bà ta vỗ tay nhè nhẹ vào nhau, hết nghiêng nhìn đứa này ríu rít cười, đến nghiêng nhìn đứa kia nheo mắt. Cả căn phòng như bừng sáng. Thứ ánh sáng trong trẻo thánh thiện. Nụ cười móm mém không có son môi, không có phấn má, mà sao đẹp đến thế. Lũ trẻ bu quanh chạy tới chạy lui ríu rít. Tiếng ú ớ vỡ ra thành hàng ngàn tiếng leng keng reo lên trong gió. Tôi như chết lặng, sững sờ trước hình ảnh ấy. Đẹp quá, thật quá, lộng lẫy quá. Nắng chan hoà, gió cũng chan hoà.

Không biết bao lâu tôi mới choàng tỉnh. Bối rối nhận ra có một linh mục già ngồi kế bên. Khuôn mặt ông ta toát lên một vẻ hiền từ bình an. Ánh mắt như chờ đợi tôi trút nỗi lòng.

Tôi hỏi, sao cánh tay ma sơ Mây bị cụt. Trầm ngâm một chút ông kể:

“Năm 16 tuổi, thay vì như những cô gái khác, ngây thơ vui đùa cùng bạn bè, Mây cùng mẹ Mây đến nhà dòng này xin khấn trọn đời. Lúc đó Mẹ bề trên nhìn Mây ái ngại, vì Mây là con một, gia đình lại giàu có. Mẹ ruột của Mây rưng rưng nước mắt, nhưng trong giọt nước mắt ấy có một tình yêu, một niềm tự hào.

Năm 18 tuổi, Mây ra dáng một thiếu nữ mơn mởn, tóc dài đen nhánh, đôi tay xinh đẹp mềm mại, rất khéo nấu ăn, thêu thùa. Nhưng lúc nào Mây cũng giấu mình trong chiếc áo dòng tu kín đáo.

Có một đêm cô gõ cửa Mẹ bề trên, xin cho được ra làng mồ côi, chăm nuôi mấy em nhỏ. Mẹ bề trên ưng thuận. Thế là đôi tay đẹp kia hằng ngày mớm cơm đút cháo cho mấy em. Có khi các em sốt, Mây thức trắng đưa bàn tay mình đặt lên trán chúng, xem nhiệt độ thế nào, rồi nhúng khăn lau tới lau lui. Bàn tay búp măng mũm mĩm không còn nữa, mà thay vào đó là bàn tay không ngần ngại hốt phân dãi của các em đi đổ. Nhiều đêm, thấy đôi tay ấy chắp lại trước ngực cầu nguyện.

Cầu nguyện điều gì không ai biết. Chỉ biết rằng đôi tay đó không còn như xưa…

Hôm kia, có một bé chạy tung tăng trong sân, cổng để mở, bé băng ra đường. Xe tải dìu dập trên xa lộ lớn. Em bé ấy quá nhỏ, lao ra quá nhanh, nên không ai kịp trở tay.

Rầm, khi tất cả các sơ chạy ra thì tiếng em bé khóc lên thất thanh thật to. Bên cạnh em, Mây nằm nhắm nghiền mắt. Cánh tay phải bị bánh xe nghiền nát. Máu chảy lênh láng.

Khi tỉnh dậy cô kể:

Lúc đó, con đang đứng trên dải phân cách chờ băng qua đường thì thấy nó lao ra giữa xa lộ, con sợ quá, chạy ào đến, ôm nó, lăn vội vào. Tội nghiệp nó lắm, nó sợ quá, khóc thét lên.

Nghe Mây kể, mọi người chưa hết bàng hoàng. Sao cô kể chuyện hồn nhiên đến thế? Liều cả mạng mình mà không tiếc chỉ để cứu một đứa bé tật nguyền, rồi còn tội nghiệp vì nó sợ khóc thét lên.

Có lẽ Mây bị khùng mất rồi. Không khùng ai làm thế ? Từ đó cô lại xin Mẹ bề trên đứng gác cổng ra vào, cô sợ các em tật nguyền kia, không ý thức lại lao ra giữa dòng xe. Cô nói cuộc sống đáng quý lắm.

– Con xin lỗi mẹ, vì con cứ đòi hỏi mẹ hết lần này đến lần khác.

Mẹ bề trên bật khóc:

Con đâu có gì phải xin lỗi. Con luôn đòi hỏi để phụng sự người khác.

Thế là từ đó, Mây thành người gác cổng. Khi được hỏi tại sao cô bị cụt tay, cô đáp nhẹ như bấc, bị tai nạn giao thông.

Tôi không dám hỏi, cô có tiếc vì mất cánh tay không. Vì hỏi như vậy là thừa. Ngay cả mạng mình cô còn không tiếc.

Vị linh mục già kết thúc câu chuyện.

Nắng chiều rải rác xuống thềm như một tràng hoa rực rỡ. Chỉ có hoa nắng mới kết vừa vương miện cho những con người ở đây. Tất cả loài hoa thế gian, tất cả kim cương, ngọc bảo thế gian khi đính vào vương miện chỉ làm cho nó trần tục hơn, vật chất hơn mà thôi.

Bây giờ tôi mới biết, vì sao đôi tay của Mây có hương thơm kỳ lạ.

Và bây giờ tôi mới biết tại sao nụ cười và ánh mắt những người ở đây luôn ẩn chứa một trời long lanh nắng sớm.

Bởi vì như linh mục Nguyễn Tầm Thường đã viết:

Hy sinh vì người khác luôn cho hương thơm bay ngược chiều gió. Gánh nặng vì tình yêu luôn song hành cùng sức mạnh vô song. Bất cứ gỗ đá nào chạm phải tình yêu đều trở nên bao dung mềm mại.

Tôi về thành phố, thấy lòng mình bỗng chật. Những gì trước đây tôi cho là đúng, bây giờ tôi đâm nghi ngờ. Những gì trước đây tôi luôn theo đuổi, giành giật để có, bây giờ thấy chẳng còn quan trọng nữa.

Những tay thét ra lửa, những tay sừng sỏ mà tôi từng kính nể, bỗng dưng tôi thấy họ bình thường. Họ cố gắng dùng đôi bàn tay chứng tỏ mình, khuếch trương mình, những cái họ có được chỉ là thứ trơ trẽn. Họ không bình yên trên vật chất họ có được. Họ khoác những chiếc áo sang trọng, tay đeo đầy những kim cương, xịt toàn nước hoa hảo hạng, nhưng không bao giờ có mùi hương thanh tao, dịu ngọt, tỏa lan khắp bầu trời.

Tôi bị ám ảnh, vì trong tôi hoài thai một lối sống. Tôi muốn thoát khỏi bàn tay của chính mình. Tôi là người tìm kiếm bàn tay đẹp.

Bàn tay biết dang ra, biết sẻ chia là bàn tay đẹp. Bàn tay biết nắm lấy tay người bất hạnh hơn mình để cùng bước là bàn tay đẹp. Bàn tay biết nâng niu, gìn giữ cái đẹp, cái chân, cái thiện, là bàn tay đẹp. Và hàng ngàn định nghĩa về bàn tay đẹp khác.

Có bàn tay cầm nắm rất nhiều, có thể điều khiển người khác. Có bàn tay xoè ra ăn xin từng đồng lẻ bố thí. Có bàn tay khéo léo làm nên những tuyệt tác nghệ thuật. Có bàn tay vụng về chỉ làm đổ vỡ mọi thứ khi chạm vào. Có bàn tay cho đi. Có bàn tay giữ lại. Nhưng khi về với đất, bàn tay nào cũng rỗng. Rỗng tuyệt đối.

Vậy sao không ướp hương cho đôi tay mình, tôi tự hỏi lòng như thế. Có hàng ngàn cách ướp hương. Như masơ Mây, ướp hương thánh thiện, âm thầm, khiêm cung, bé nhỏ, mà hương thơm lại bay vượt mọi không gian. Có bao giờ sơ Mây kể lể với Giêsu về mình không? Chắc không, vì sơ Mây không có thời gian cho mình, chỉ biết lo cho mọi người thôi.

Khi sinh ra, tay tôi nắm chặt. Khi chết đi tay tôi buông thõng. Từ nắm chặt đến buông thõng, một hành trình dài đầy nụ cười hạnh phúc và nước mắt đau thương.

Kết cho riêng tôi.

Tôi đã đọc, đã suy ngẫm, đã tự soi mình chỉ mong muốn mình bớt tầm thường phàm phu trong đời sống này. Dẫu biết rằng rất khó!

CUỐN SỔ NỢ CỦA NGƯỜI MẸ KẾ

CUỐN SỔ NỢ CỦA NGƯỜI MẸ KẾ

Mẹ bỏ nhà đi khi cô còn bé, cô sống với cha đến năm 5 tuổi thì cô có mẹ kế. Cha con cô sống ở nhà mẹ kế, mọi chi tiêu đều nhờ vào tiền của bà.

Mẹ kế có một người con trai lớn hơn cô ba tuổi, không ức hiếp cô nhưng rất ít nói, thỉnh thoảng lại dùng ánh mắt lạnh lùng nhìn cô. Bà có một cửa hàng bán trái cây, bà đối xử với cha con cô cũng rất tốt.

Kể từ ngày mẹ đẻ bỏ cô mà đi, cô sống khép kín, ít nói, không thân thiện với mẹ kế. Bà đóng học phí cho cô, giặt quần áo cho cô. So với những đứa trẻ khác, cô không quá hạnh phúc nhưng cũng không đến nỗi khổ sở.

Cuộc sống cứ thế trôi qua cho đến năm cô lên 10 tuổi, công trường nơi cha cô làm việc bị sập do quá cũ, công nhân làm việc ở đó bị vùi trong đống cát, trong đó có cha cô.

Lúc cô chạy đến bệnh viện, cô thấy người ta đã phủ tấm vải trắng lên người, mẹ kế đang khóc lóc vật vã bên cạnh. Cô đứng chết lặng trước phòng bệnh, cậu con trai của mẹ kế đẩy cô vào: “Nhanh lại nhìn cha lần cuối đi!”. Nói rồi, cô chạy nhào đến, khóc thét một tiếng rồi ngất lịm trên người cha cô.

Ngày tiễn đưa cha, cô như người mất hồn bên di ảnh của cha, những người xung quanh xì xào, đứa bé thật tội nghiệp, kiểu gì chẳng bị mẹ kế đuổi ra khỏi nhà. Tối đó, cô mơ thấy mình quần áo rách rưới, ăn xin ở ngoài đường. Cô bừng tỉnh và cảm thấy sợ hãi vô cùng.

Sáng sớm, mẹ kế vẫn như thường ngày, thức dậy nấu cơm, gọi cô dậy ăn sáng rồi đi học như chưa có chuyện gì xảy ra vậy. Đầu cô đau như búa bổ, cô thấp giọng van nài: “Hôm nay con có thể nghỉ một hôm không ạ? Con nhớ cha!”.

Bà lạnh lùng nói: “Không được! Không đi học thì cha cô có sống lại được không? Nếu có sống ông ấy cũng không đồng ý chuyện này đâu”.

Cô vác ba lô đi học trong nước mắt. Trước khi ra khỏi nhà, mẹ kế đứng đằng sau la lớn: “Đặng Phương Anh, cô nhớ cho tôi, bắt đầu từ hôm nay, tôi không muốn nhìn thấy cô khóc, nghe rõ chưa?”.

Cũng bắt đầu từ hôm đó, mẹ kế dường như không bao giờ cười với cô, thái độ của bà khác hẳn so với khi cha cô còn sống. Cô bắt đầu nghĩ đến lời dân làng nói và thấy nó đúng thật. Cô tự nhủ mình nhất định phải lớn nhanh và rời khỏi ngôi nhà này.

Năm học lớp bảy, lần đầu tiên có kinh, cô sợ hãi. Mẹ kế cô biết chuyện liền vứt cho miếng băng vệ sinh, cô loay hoay không biết thế nào, bà cũng không giúp mà nghiêng mắt nhìn cô: “Đặng Phương Anh, chuyện gì cũng phải dựa dẫm vào người khác mới làm được à ?”.

Cô uất ức nhưng không biết nói với ai, cô nhủ mình phải học cách tự lập, không được nhờ cậy vào ai nữa.

Cô bắt đầu học cách giặt giũ, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa, khâu áo. Cũng từ đó, mẹ kế không giặt đồ cho cô nữa.

Mặc dù mẹ kế không phải là người học giỏi, con trai bà cũng không có thành tích học tập tốt, tốt nghiệp xong chuyển sang học trung cấp nhưng bà yêu cầu cô phải xếp nhất lớp, nếu không thì sẽ bị phạt.

Mặc dù năng lực học tập của cô không đến nỗi nhưng để giành được vị trí nhất lớp là điều quá khó khăn. Cô hận, hận người mẹ kế độc ác, đối xử hà khắc với cô, chắc bà ta đang tìm trăm phương nghìn kế để đuổi cô ra khỏi nhà, nhưng cô không thể ra đi lúc này được bởi cô không muốn làm một kẻ ăn mày.

Và rồi, cô lao đầu vào học, học ngày học đêm, có nhiều lúc buồn ngủ quá cô gục xuống bàn, một lát sau lại tỉnh dậy đi rửa mặt và học tiếp. Thực ra cô rất chán ghét việc học nhưng cô không có sự lựa chọn nào khác. Kết quả thi cuối năm, cô vượt lên bao nhiêu bạn trong lớp và giành được vị trí thứ ba. Giáo viên chủ nhiệm cùng các bạn trong lớp đều ngạc nhiên bởi không ai ngờ cô lại giành được vị trí như vậy. Ấy thế nhưng cô không có chút niềm vui của kẻ chiến thắng, bởi trong cô lúc này là nỗi lo phải đối mặt với mẹ kế.

Tan học, cô sợ phải về nhà, cô vừa bước đến cửa, mẹ kế đã chỉ thẳng vào góc tường và mắng: “Đúng là đồ phế vật, mau quỳ xuống cho tôi!”. Thì ra, trước lúc cô về, mẹ cô đã đến hỏi bạn bè. Cô quỳ vào góc tường, không khóc một tiếng. Hai từ “phế vật” luôn ám ảnh trong đầu cô, nó thôi thúc cô quyết tâm phải đậu Đại học, để xem bà ta có dám mắng nhiếc cô thế nữa không.

Chuyện mua bán của mẹ kế không được thuận lợi như trước. Ngày nào về cô cũng nhìn thấy bà ngồi đếm những tờ tiền, mà tiền thì ngày càng ít đi. Cô cầu mong ông trời đừng để cho mẹ kế không kiếm ra tiền, vì như thế cô sẽ không được đi học nữa.

Lần đó, cô bạn gần nhà sang tìm cô, mẹ kế mở cửa, cô bé kia vội nói: “Bạn Phương Anh có ở nhà không ạ? Bạn ấy mượn sách tham khảo của cháu, sắp thi tốt nghiệp rồi, cháu đang cần gấp ạ!”.

Sách tham khảo không hề rẻ chút nào, một bộ hai quyển dày cộm, giá của một quyển phải mất hơn năm chục nghìn, vì thế nhiều lần muốn xin tiền nhưng cô không dám mở miệng.

Hôm sau, bà bỗng đưa cho cô tờ một trăm nghìn, vứt vào người cô như kiểu bố thí: “Cầm tiền mà đi mua sách! Tôi không cho không đâu, tôi ghi hẳn vào sổ nợ đấy!”.

Cô thi đậu vào trường điểm cấp ba, những tưởng rằng mẹ kế sẽ bớt đay nghiến cô nhưng khi bà cầm tờ giấy báo trúng tuyển căm cụi tính tiền học phí, lâu lâu lại lẩm bẩm trong miệng: “Đúng là con quỷ đòi nợ! Nếu không vì sau này cô sẽ trả nợ cho tôi thì còn lâu tôi mới nuôi cô ăn học!”. Cô nói với mẹ ở trong ký túc cho đỡ tiền, bà dí tay vào trán cô nói với giọng đay nghiến: “Ở trong trường không tốn tiền à?”.

Ba năm sau, khi cầm tờ giấy trúng tuyển đỏ rực trong tay, cô khóc. Kể từ khi cha mất, đây là lần đầu tiên cô khóc, cô khóc trong sự sung sướng. Ngày lên trường đăng kí nhập học, mẹ kế gói bánh cho cô ăn, bà không nói gì, cũng không tiễn cô. Còn cô thì vui mừng vì đã thoát được cái ngôi nhà này, giờ cô không cần tiền mẹ kế gửi nữa bởi cô đã có thể tự kiếm tiền thêm từ việc dạy kèm, nghỉ hè cô không về nhà và dần dần hình ảnh mẹ kế bị phai nhòa trong đầu cô.

Năm thứ ba, trước giờ giao thừa, cô nhận được điện thoại của cậu con trai bà. Anh ta chỉ nói muốn cô về nhà một chuyến rồi cúp máy. Cô không muốn quay lại ngôi nhà đó, nơi đó có gì để cô luyến tiếc đâu. Nhưng rồi, cô cũng về xem sao.

Về đến nhà, cô chỉ nhìn thấy người con trai ngồi ở ghế, cô cũng không muốn hỏi bởi vốn dĩ cô không quan tâm. Nhìn thấy cô bước vào, anh trai đứng dậy và đưa cho cô một quyển sổ cũ. Đó là sổ nợ của mẹ kế.

Cô cười nhạt, cầm quyển sổ trên tay, cô nhìn anh ta với vẻ mặt khinh bỉ:

“Sao, bây giờ muốn đòi nợ tôi à?”

Bỗng từ trong sổ rơi ra một quyển sổ tiết kiệm, đó là số tiền sang sạp trái cây mà mẹ kế để lại cho cô, còn ngôi nhà thì mẹ để lại cho anh trai. Mẹ đã qua đời…

Đó không phải sổ nợ mà là quyển nhật ký của mẹ kế. Tay cô run run lật từng trang nhật ký, cô ngồi thụp xuống và nước mắt vỡ òa.

Mẹ kế viết: “Ông à, ông yên tâm, tôi không đi bước nữa đâu. Tôi nhất định sẽ nuôi Phương Anh ăn học nên người, nó sẽ làm ông mở mày mở mặt. Ông đừng trách tôi tàn nhẫn với con nhé. Phương Anh không giống với những đứa trẻ khác, nó không có cha mẹ bên cạnh, vì thế nó phải học cách kiên cường, tự lập, nhịn nhục, chịu khổ. Nó thi không giành được hạng nhất, tôi phạt nó quỳ là quỳ với ông, bởi người nó có lỗi nhiều nhất chính là ông.

Tôi xuất thân từ nông thôn, không được học hành nhiều, tôi không biết liệu mình dạy con như vậy có đúng không nhưng giờ con bé đậu Đại học rồi, đã đến lúc nó tự lo cho bản thân mình được rồi. Tôi mừng cho nó, đã đến lúc tôi đi gặp ông, tôi mệt lắm rồi, tôi muốn được nghỉ ngơi!.

Phương Anh à, hãy cho mẹ được xưng hô mẹ với con. Mấy năm nay, con không về thăm mẹ, mẹ rất buồn. Chắc là con rất ghét mẹ đúng không, mẹ biết điều đó. Hãy cố gắng học tập thật tốt, tự chăm lo cho bản thân mình nhé! Tuy không phải con ruột nhưng mẹ muốn nói rằng

“Mẹ yêu con!”.

S.T.

From: Phong Duong