TRUYỆN NGẮN – Tiểu Tử…XÍU…

 

TRUYỆN NGẮN – Tiểu Tử…

XÍU….

Nàng là người Việt gốc Hoa. Tên nàng là Trịnh Tiểu Mi, một cái tên rất… “tài tử Hồng Kông”. Mà thật sự, nàng cũng có nét tài tử Hồng Kông, bởi vì nàng đẹp. Ở nhà gọi nàng là “A Xíu”, một cái tên có âm thanh thật dễ thương. Và cũng hạp với con người của nàng: nhỏ nhỏ thon thon, cân đối gọn gàng như con búp-bế.

Gia đình nàng có nhà ở Chợ Cũ Sàigòn.Tầng dưới là cửa hàng bán cà phê đã rang rồi, cà phê hột và cà phê xay đủ loại. Hai tầng trên để ở và sân thượng là nơi rang cà phê.

Nàng là con gái duy nhứt của gia đình, lại là đứa con út nên được cưng như trứng mỏng. Hai người anh đã có gia đình, đã “ra riêng”, cũng bán cà phê nhưng ở tuốt trong Chợ Lớn.

Ngày ngày, nàng phụ “mà má” đứng bán cà phê. Khách hàng tới mua nườm nượp, nhất là giới trai trẻ. Cà phê được pha trộn và rang theo lối thủ công gia truyền, ngon có tiếng. Bán đắt đã đành nhưng cửa hàng đông khách, có lẽ phần lớn tại vì nàng duyên dáng dễ thương ! Bằng cớ là thiên hạ nói “Cà phê A Xíu” chớ không ai nói “Cà phê Hối Ký” là bản hiệu của cửa hàng !

…Chàng là người Việt “chánh cống”, quê ở Cần Thơ. Chàng thuộc gia đình nông dân, ba đời làm ruộng. Chàng tên là Bảy vì là thứ bảy. Dáng vóc chàng cao ráo, “đô” con, nhưng tánh tình thì trầm lặng ít nói, còn có vẻ… lù đù nữa ! Vì vậy nên hồi đi lính quốc gia, bạn đồng đội “gắn” cho hỗn danh “thằng Bảy Lù”.

Hồi thời trước, nhờ bà con quen lớn sao đó mà chàng được về làm việc văn phòng ở tổng tham mưu. Chàng mướn một căn gác nhỏ ở khu cổng xe lửa số 6 để ở, rồi ngày ngày đi làm bằng xe đạp. Chàng không đủ sức mua Honda nên lúc nào cũng thấy đi xe đạp, cho dầu phải đạp xa cách mấy…

Chàng và nàng gặp nhau lần đầu trong bữa tiệc cưới của một người bạn chung. Chú rễ này cố tình sắp cho họ ngồi cạnh nhau, cùng bàn. Bởi vì khi giới thiệu, anh ta nói : “Đây là Tiểu Mi, người đẹp Chợ Cũ. Chưa có kép nào được lọt mắt xanh của nàng hết. Mày liệu thử thời vận coi ra sao.

Còn đây là thằng Bảy, bạn cùng đơn vị. Nó hơi cù lần nhưng dễ thương như một tờ giấy trắng. Anh sắp nó ngồi cạnh Tiểu Mi để nó… hầu Tiểu Mi đó nghen !” Nàng nhìn chàng, mỉm cười mà hai vành tai đỏ ửng. Chàng gật đầu, nói lí nhí : “Hân hạnh…”. Vậy rồi họ quen nhau…

Về đơn vị chàng giới thiệu “cà phê A Xíu”. Mấy xếp lớn xếp nhỏ uống thử, khen ngon. Sau đó, cứ vài hôm là chàng đạp xe xuống Chợ Cũ mua cà phê giùm mấy xếp. Nhờ vậy, họ thân nhau. “Pà-pá , mà-má” của Xíu cũng mến “thằng Bảy”, nên thường nói : “Tội nghiệp thằng nhỏ ! Đạp xe lên xuống mua cà phê hoài mà không nghe than một tiếng”.

Rồi họ được phép đi chơi với nhau. Đi xe đạp, mỗi đứa một chiếc, chạy song song. Những lúc đi như vậy, chỉ có mình nàng nói, còn chàng thì mỉm cười lắng tai nghe, lâu lâu góp vào vài câu, nhưng góp đúng lúc. Nàng thích chàng ở chỗ tế nhị đó. Còn chàng thì thích nghe nàng nói, nói bất cứ chuyện gì. Bởi vì giọng nói của nàng đã dễ thương mà cách nàng nói càng dễ thương gấp bội.

Vậy rồi họ yêu nhau lúc nào không biết ! Họ chưa từng nói “yêu nhau” nhưng họ biết họ yêu nhau. Bởi vì họ nói tình yêu bằng đôi mắt và họ nghe lời yêu bằng tất cả con tim…

Một hôm -chàng nhớ hoài cái hôm đó, đến bây giờ vẫn còn nhớ rõ, và có lẽ mãi mãi về sau … ờ… mãi mãi về sau … chắc chẳng bao giờ quên- hai đứa hẹn nhau đi chơi, Xíu nói : “Em để xe đạp ở nhà. Đi chơi mà đạp xe song song cứ phải nhìn qua ngó lại, sợ té sợ đụng, có khi quên bẵng đi mình đang nói cái gì … thành ra mất đi cái thú đi chung với nhau”.

Rồi nàng nghiêng nghiêng đầu nhìn chàng, cười cười : “Em muốn anh chở em đi, được không ?”. Chàng sung sướng, gật đầu. Nàng ngồi lên pọt-ba-ga, hai chân buôn thõng một bên, một tay nắm lấy phía sau yên xe. Dáng nàng ngồi thong dong thoải mái. Chàng đạp xe, nghe nhẹ phiêu phiêu. Một lúc, chàng hỏi

– “Xíu ngồi có được không ?”.

Nàng trả lời:

– “Được chớ anh”. Rồi tiếp: “Anh thấy không? Mình đi chung một xe như vầy, nói chuyện với nhau có phải thích hơn không ?

Dĩ nhiên, anh ngồi phía trước, em phía sau, mình không nhìn nhau được trong khi nói chuyện. Nhưng mình đâu cần nhìn nhau mà mình vẫn thấy nhau phải không anh ?”.Chàng nghe mát cả lòng.

Chàng gật đầu rồi nhấn mạnh lên bàn đạp cho xe đi nhanh nhanh như để nói lên niềm phấn khởi ! Rồi đột nhiên chàng nói, lời lẽ không biết từ đâu tuôn ra :

– “Xíu à ! Chở Xíu đi như vầy, có phải đạp suốt ngày, suốt tháng, suốt năm… anh cũng đạp nổi.”

Nàng cười sung sướng, đưa tay véo hông chàng một cái. Sao nàng thèm cắn người yêu thật đau cho hả “cái gì đó” đang căng đầy lồng ngực…

Từ đó, có đi chung thì luôn luôn chàng đèo nàng sau xe…Dễ thương quá là tình yêu của Bảy và Xíu !

Vậy rồi có ngày 30 tháng tư 1975… Phải có ngày đó, để đổ nát được cách mạng đề cao. Phải có ngày đó, để hoang tàn được cách mạng xem là thành tích. Miền Nam giống như nùi giẻ rách, nhờ đã được giải phóng hoàn toàn !

Hai người anh của Xíu đã đưa vợ con di-tản. Pà-pá, mà-má và Xíu ở lại buôn bán lai rai, chờ coi có “làm ăn gì được không”. Cửa hàng bây giờ thâu gọn lại chỉ còn có hai thùng kiếng nhỏ đặt phía trước. Bảng hiệu đã được gỡ xuống cất trên sân thượng. Mấy dụng cụ rang cà phê được chất ngổn ngang trong một góc, giống như đồ phế thải. Làm như vậy để thấy cái vẻ nghèo nàn, làm ăn khó khăn…

Bảy học tập ba hôm rồi về làm thợ phụ cho bác Năm thợ hồ ở cùng xóm. Chàng có “xẹt” qua Chợ Cũ thăm người yêu mấy lần. Bây giờ họ không còn thì giờ để đi chơi với nhau bởi vì ai cũng bận rộn bởi các buổi hội họp, học tập, khai báo, đi mết tinh v.v… là những thứ sanh hoạt rất cần thiết để đưa nhân dân lên làm chủ (Nhà Nước nói như vậy). Thành ra mỗi lần họ gặp nhau, họ coi thời gian quý như vàng ! Có lẽ vì vậy mà bây giờ họ nhìn nhau nhiều hơn là họ nói chuyện với nhau…

Thời gian sau, chánh quyền “đánh tư sản mại bản”.Gia đình Xíu không tránh khỏi “đại nạn” này. Những người “cách mạng” xong vào nhà ngang nhiên và hùng hổ như một bọn cướp. Họ “bươi” từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước… giống như gà bươi đống rác. Gặp gì kiểm kê nấy. Vậy rồi… hốt hết ! Mà-má và Xíu chỉ biết ôm nhau mà khóc, còn Pà-pá thì ngồi trên ghế xích-đu, xích tới xích lui hút thuốc, nín thinh.

Sau “trận” đó, nhiều người nhảy lầu tự tử. Nghe thấy như vậy, Pà-pá nói: “Làm như vậy đâu có giải quyết cái gì ? Tụi nó còn cười, nói mình ngu ! Từ từ rồi tính nữa.” Trong khi chờ đợi pà-pá “tính nữa”, mẹ con Xíu ngồi xổm trên vỉa hè bán giò-cháo-quẩy bánh tiêu…

Bây giờ, Bảy vẫn đạp xe xuống thăm Xíu. Lần nào cũng được nàng cho một cái bánh. Chàng ngồi xổm một bên, ăn. Không đói, nhưng vẩn ăn. Và ăn thấy ngon !

Cách mạng không…”quản lý” được thời gian nên thời gian vẫn đi qua, ngạo nghễ. Thiên hạ lần lượt đi chui-cũng gọi là “vượt biên” -Phần đông đi bằng đường biển. Có người đi thoát, có người bị bắt. Những người đi thoát, có khi mất tích, có khi bị cướp. Dầu vậy, đi chui cũng đã trở thành gần như là một phong trào !

Thấy mỗi người vượt biên phải đóng nhiều cây vàng cho người tổ chức, cán bộ cách mạng “nhào ra làm ăn”. Họ cũng tổ chức đi chui, nhưng là một loại đi chui không sợ bị bắt vì có chánh quyền … hộ tống. Vì vậy, thiên hạ gọi là “đi chui bán chánh thức” ! Người Tàu được ưu tiên đi bằng cách này. Cho nên họ đi ồ ạt…

Một hôm, được thơ hẹn của Xíu, Bảy xin nghỉ việc buổi chiều, đạp xe xuống “Con Rùa” đường Duy Tân, đợi. Một cô gái chở Xíu tới bằng Honda, gật đầu chào Bảy, đợi Xíu bước xuống rồi quay xe đi vội vã. Xíu mặc áo dài trắng, tóc được cột túm lại sau ót. Nhìn đôi mắt mọng đỏ của người yêu, Bảy linh cảm có một cái gì không ổn. Bảy hỏi: “Có chuyện gì vậy, Xíu ?”. Nàng không trả lời, nhưng nói giọng trống rỗng: “Anh chở em đi. Đi đâu cũng được”.

Đợi nàng vén vạt áo ngồi vững vàng lên pọt-pa-ga, chàng mới đạp xe đi. Đi chầm chậm, đi thẳng. Lần này, Xíu không nắm phía sau yên xe. Xíu vòng một tay ôm lấy nửa người của Bảy. Lần đầu tiên được bàn tay thon nhỏ của người yêu đặt lên bụng mình, Bảy thật xúc động. Chàng đạp xe mà tưởng chừng như trên đường phố chỉ còn lại có hai đứa…

Một lúc sau, Xíu mới nói: “Pàpá cho phép em đi chơi với anh từ giờ tới năm giờ chiều”. Rồi nàng nghẹn ngào: “Đi với nhau lần cuối”. Bỗng nàng chồm tới, vòng cả hai tay ôm chặt lấy người yêu, úp mặt lên lưng chàng, khóc ngất. Chàng nghe rớt ra từng tiếng rời rã trên lưng:

– “Tối … nay … em … đi …”.

Mồ hôi bỗng vã ra như tắm, nhưng Bảy vẫn còn tỉnh táo để đặt một bàn tay lên bàn tay người yêu bóp nhẹ. Cử chỉ đó làm Xíu không kềm được nữa. Nàng vừa khóc lớn vừa giúi giúi mặt lên lưng người yêu, mạnh thật mạnh- Làm như nàng muốn chui hẳn vào người của chàng để hai đứa chỉ còn là một, để nước mắt và mồ hôi của hai đứa hòa quyện với nhau cùng chung niềm thống khổ, để đừng thấy đừng nghe đừng biết gì gì nữa, chết lịm đi cho cuộc tình khép lại, vĩnh viễn khép lại… Tội nghiệp ! Rồi ngày mai, rồi mãi mãi, cuộc đời này còn ý nghĩa gì nữa đâu ?

Hai người vẫn đèo nhau đi… Đầu óc trống rỗng. Chẳng còn nói được với nhau chuyện gì hết. Và chắc cũng chẳng còn biết phát âm là gì nữa ! Niềm đau quá lớn đã làm cho họ như người câm. Hai người câm…

Xíu vẫn ôm lấy người yêu, áp một bên má lên cái lưng chắc nịch của người yêu, quên mất rằng đây là lần đầu tiên Xíu chạm vào người của Bảy ! Lâu nay, mặc dầu yêu nhau tha thiết, họ chỉ dám nắm tay nhau thôi, và nắm tay nhau chỉ có mấy lần. Xíu nhắm mắt, tưởng chừng như thời gian đang ngừng lại. Nàng bỗng nghe rõ hơi thở, nghe rỏ nhịp tim của Bảy, những thứ mà lâu nay nàng chưa từng nghe. Mũi nàng bỗng hửi được mùi mồ hôi, hửi được mùi da thịt của Bảy, những thứ mà lâu nay nàng chưa từng dám nghĩ tới. Nàng bỗng nghe hơi ấm từ người của Bảy chuyền sang người nàng âm thầm nhưng rõ rệt, thứ cảm giác dìu dịu lân lân mà lâu nay nàng chưa từng được biết. Nàng bỗng nhận thức rằng người yêu nàng là đây, còn hiển hiện trong vòng tay. Rồi sẽ không bao giờ được như vầy nữa. Bởi vì đây là lần đầu và cũng là lần cuối, lần cuối… Thương xót quá ! Nàng siết chặt người yêu với tất cả sức mình mà nước mắt trào ra không dứt…

…Rồi Bảy cũng phải đưa Xíu về. Chàng vừa thắng xe, chống chân xuống đất, nàng đã đứng xuống chạy ù vào nhà. Tà áo dài trắng của nàng lất phất vài cái như vẫy chào lần cuối trước khi khuất sau cánh cửa. Bảy chống tay lên ghi-đông, đầu gục xuống giữa hai vai. Chàng có cảm giác như mình đã kiệt sức…

…Xíu đi rồi, ngày nào Bảy cũng đạp xe đi long bong. Không biết đi đâu, cứ đạp chầm chậm, đạp hoài. Khát, thì tấp vô uống cái gì đó. Đói, thì tấp vô ăn đại cái gì đó. Ăn gì uống gì, không cần để ý tới nữa.

Vậy mà Bảy cũng đạp tới cái công viên nhỏ mà hai đứa thường hẹn nhau. Chàng dựng xe cạnh chiếc băng xi măng mà hai đứa thường ngồi, rồi bước lại ngồi giống như ngày xưa chàng vẫn ngồi để đợi nàng tới. Nhưng bây giờ thì chàng ngồi một mình, ngồi thật lâu. Và không biết tại sao lại phải ngồi như vậy !

Rồi lại đạp xe đi loanh quanh. Không cần biết đi đâu… Vậy mà Bảy cũng đi đến “Con Rùa” đường Duy Tân, chỗ hai đứa thường đến ăn kem, uống nước dừa. Chàng dựng xe rồi lại ngồi lên bệ gạch, chỗ quen ngồi để đợi nàng đến. Chỗ đó nhìn thẳng xuống sau lưng nhà thờ Đức Bà, nàng luôn luôn đi từ hướng đó đi lên, hướng mà bây giờ chàng nhìn đâm đâm, nhìn mãi…

Vậy mà Bảy cũng đi đến con đường Đinh Tiên Hoàng, khúc rộng thênh thang dẫn dài xuống bờ sông. Hai đứa thường đi bộ ở đó vì đường vắng và mát. Đường đó bây giờ vẫn vắng và mát, Bảy dẫn xe đi bộ chầm chậm như ngày xưa…

Rồi Bảy còn đến nhiều nơi nữa : sở thú, vườn Tao Đàn, con đò Thủ Thiêm, chùa Vĩnh Nghiêm, quán thạch chè Hiển Khánh… Những nơi những chốn mà hai đứa, ngày xưa, đã từng đến một lần, hai lần, nhiều lần. Không biết cái gì đã đưa đẩy chàng đi như vậy ?

Bảy không biết rằng mình đang đi lượm những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái “ngày cách mạng thành công”, thì cuộc tình đó đã không bị đập tan thành mảnh vụn… Để thấy cái gọi là “cách mạng thành công” đã thật sự thành công trong nhiệm vụ phá tan đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó !

Chuyện không nói Xíu có đi được đến bờ đến bến nào không. Điều mà người ta biết là có vài chiếc tàu “đi chui bán chánh thức” bị chìm vì gặp sóng to gió lớn. Việt cộng đã cho đi bằng loại tàu gần như phế thải, không còn đủ tiêu chuẩn vượt đại dương.

Nhưng chuyện nói rằng Bảy vẫn đạp xe đi loanh quanh, hết ngày này qua tháng khác. Và bây giờ Bảy hay đứng ở bờ sông Sàigòn, nhìn xa xâm rất lâu để chỉ gọi thầm có hai tiếng : “Xíu ơi…”.

May be an anime-style image of text

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân

(Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)

 Phạm Tín An Ninh 

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên. Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sống mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau. 

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may mà có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ.

Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.

Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sang… Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nylong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.

Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.

Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng có một số người đã chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!”. Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi… Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.

Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. 

Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. 

Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn: Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lay lắt bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc. 

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7. 

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con. 

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà. 

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây vào giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng

Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây

Rõ ràng hoa rụng hương bay

Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến một quầy gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi… Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.

Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước.

Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:

– Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

– Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

– Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.

– Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:

– Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ. 

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
– Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?

– Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu
– Có anh em không?

– Không.
– Anh có nhớ ngày sinh không?

– Không.(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)
– Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?

– Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
– Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không? (Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
– Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
– Cha mẹ anh đang ở đâu?

– Buôn Ban Ma Dek. (Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
– Anh ở chung với cha mẹ anh? – Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
– Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.
– Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

– Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
– Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể nào sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an! 

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi. 

Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

Phạm Tín An Ninh

From: Tuyen Ho- Nguyen

HÃY CHO ĐI, BẠN SẼ NHẬN LẠI NHIỀU HƠN…

GÓC SUY GẪM…

Văn hóa, phong tục, tập qúan ông bà để lại nó đã thấm vào bao thế hệ, mà chúng ta hay gọi là Hồn Việt. Giờ đây đã bị chế độ vô thần, vô luân chà đạp tàn phá đến mọi hang cùng ngõ hẻm quêhương!!!

“Cuộc sống lẽ ra phải cần mọi người gắn bó với nhau.”

***

HÃY CHO ĐI, BẠN SẼ NHẬN LẠI NHIỀU HƠN…

Mười năm sau ngày ba tôi mất, cuối cùng thì mẹ cũng chấp thuận đến ở với chúng tôi sau rất nhiều lần thuyết phục. Lúc đó tôi đã 40 còn mẹ tôi thì 70 tuổi.

Gia đình tôi có 4 anh chị em, ba con gái và một con trai; tôi là con út.

Vào ngày bà chuyển đến, bà khăng khăng đòi mang theo hai túi bột mới xay. Hóa ra bà đã giấu 20 triệu trong các túi bột đó; bà đã tiết kiệm số tiền đó để mua một cái xe cho con trai tôi. Sao bà có thể tiết kiệm được số tiền lớn như vậy mà tôi hoàn toàn không biết gì.

Sau khi chuyển đến, bà lo toan tất cả mọi việc nhà, bao gồm cả việc nấu ăn. Tôi không cần ra ngoài mua đồ ăn nữa; với sự giúp sức của bà, chúng tôi đã có không khí gia đình thoải mái và ấm cúng.

Hai tuần sau ngày bà đến, bà muốn chồng tôi mời bạn cùng lớp, đồng nghiệp và bạn bè tới nhà dự một bữa tiệc gia đình. Vào thời điểm đó, mọi người thường tụ tập ở nhà hàng thay vì ở nhà do cuộc sống quá bận rộn. Chồng tôi đã chiều lòng bà, dù bà đã phải dành suốt hai ngày trời để chuẩn bị đồ ăn nhẹ, bánh ngọt, và các đồ ăn khác cho buổi tiệc.

Mọi người đều thích các món ăn bà nấu, nhiều người trong số họ đã không được thưởng thức đồ ăn ngon như vậy từ rất lâu rồi. Mẹ lại mời tất cả mọi người một bữa khác. Bữa tiệc thật tuyệt vời; chúng tôi đã nói chuyện rất nhiều, và chỉ uống một chút. Chúng tôi có cơ hội để nói về nhiều chủ đề mà thường không được nói đến ở nơi công cộng hoặc ở nhà hàng.

Nhà chúng tôi đã trở thành một điểm hẹn thường xuyên cho mọi người sau đó. Mẹ tôi thật sự thích thú, bà nói: “Cuộc sống lẽ ra phải như thế này; mọi người cần gắn bó với nhau.”

Một hôm tôi ra mở cửa sau tiếng gõ. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy trước cửa là người hàng xóm nhà đối diện với một một đĩa anh đào tươi rói trên tay. Chúng tôi đã có một cuộc cãi vã vài năm trước và không nói chuyện với nhau từ đó.

Cô nói: “Tôi mua một vài thứ cho mẹ cô và hy vọng bà thích chúng.” Tôi cảm thấy hơi lạ, và cô ấy đỏ mặt và nói tiếp: “Lũ trẻ nhà tôi thích những thứ mà mẹ cô làm.”

Tôi đã nhận ra rằng những việc nhỏ của mẹ tôi đã giúp chúng tôi xây dựng mối quan hệ thân thiện với hàng xóm. Sau đó chúng tôi đã làm bạn trở lại và bọn trẻ nhà cô ấy từ đó qua lại nhà chúng tôi thường xuyên hơn và coi mẹ tôi như bà ngoại của chúng vậy.

Mẹ tôi không chỉ quan tâm tới người hàng xóm đối diện bên kia đường, bà cũng quan tâm đến những người khác trong khu. Bà làm bạn với bố mẹ của những người bạn của chồng tôi, và trông nom những đứa cháu nhỏ của họ.

Khi mẹ tôi biết con trai đồng nghiệp của chồng tôi có bệnh u lympho, bà đã đề nghị chúng tôi giúp họ một khoản tiền. Dù họ không mấy thân thiết với chồng tôi, nhưng mẹ tôi rất cương quyết về việc này. Bà nói: “Khi người khác đang gặp lúc khó khăn, chúng ta cần phải làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ. Chúng ta phải biết cho trước khi có thể nhận được.”

Sau khi bà chuyển đến được sáu tháng, chồng tôi được thăng cấp thông qua khuyến nghị từ các đồng nghiệp – bằng phiếu bầu phổ thông. Chồng tôi nói: “Mẹ đã bỏ những lá phiếu đó cho anh.” Sau đó chúng tôi đã nhận ra rằng chúng tôi đã thực sự có các mối quan hệ ấm áp hơn nhiều với những người quanh. Mẹ tôi, một người phụ nữ không biết chữ từ một ngôi làng ở nông thôn, lặng lẽ thu phục trái tim của mọi người mà chúng tôi có nằm mơ cũng chẳng thể có, bởi vì bà luôn sẵn lòng cho đi.

Tôi nhớ bà từng nói: Con phải đối xử tốt với mọi người trước khi muốn họ đối xử tốt với mình. Một lý lẽ đơn giản, nhưng nó thật khó để thực hành.

Mẹ tôi bị say xe, vì vậy bà không thể đi bằng xe hơi. Một ngày cuối tuần, tôi quyết định làm cho dành cho bà một niềm vui là đưa bà đến sở thú, vì bà chưa bao giờ thấy một con voi.

Bà muốn đi bộ, nhưng tôi nghĩ rằng quá xa để đi bộ ở tuổi của bà. Cuối cùng bà chấp thuận để tôi chở bà bằng xe đạp. Tôi đạp xe qua một ngã tư và chúng tôi đã bị chặn lại bởi một cảnh sát trẻ.

Anh ta sắp ghi cho tôi một phiếu phạt vì vi phạm luật giao thông.

Thấy vậy mẹ tôi đã không muốn tiếp tục đi bằng xe đạp nữa. Tôi xin lỗi viên cảnh sát và giải thích rằng mẹ tôi không thể đi xe hơi.

Viên cảnh sát chợt nhận ra rằng pháp luật chỉ cấm trẻ em khi đi xe đạp như thế này, mà không áp dụng đối với người già. Anh ta liền chào chúng tôi, ra hiệu tất cả những chiếc xe phải dừng lại để xe của tôi qua đường. Oa, tôi đã rất xúc động – Tôi chưa bao giờ nhận được sự tôn trọng nhiều như thế này trong đời. Một chút quan tâm chăm sóc cho mẹ làm tôi có được rất nhiều niềm vui!

Sống chung với chúng tôi được ba năm, mẹ tôi được chẩn đoán bị ung thư phổi. Một người bạn bác sĩ của chúng tôi cho rằng ở tuổi của mẹ tôi thì không nên phẫu thuật, và nên để căn bệnh diễn tiến tự nhiên. Chồng tôi và tôi đã thảo luận về điều này và đồng ý rằng đó là lựa chọn tốt nhất cho bà. Chúng tôi đưa bà về nhà, và nói với bà sự thật. Bà bình thản chấp nhận, và nói: “Đó là điều đúng đắn phải làm.”

Tôi đã về quê ở với mẹ tôi những tháng ngày cuối cùng của bà. Tôi đưa mẹ ra ngoài trời để hít thở không khí trong lành mỗi khi mặt trời lên. Bà luôn mỉm cười mỗi khi bà tỉnh táo. Tôi để bà dùng thuốc chỉ đủ để kiểm soát cơn đau.

Một ngày, bà nói với tôi rằng cha tôi đang mong chờ bà. Tôi nắm chặt lấy bàn tay gầy gò của bà và nói thật khó để chấp nhận cho bà rời xa tôi. Nhưng mẹ tôi mỉm cười và nói: “Hãy để cho mẹ đi”!

Khi bà rút bàn tay khỏi tay tôi, trái tim tôi tan vỡ!

Vào ngày tang lễ của mẹ tôi, đã có một đám rước lớn – bao gồm tất cả mọi người trong làng, bạn bè của chúng tôi và hàng xóm trong khu tôi ở.

Đám rước chầm chậm ra khỏi làng, và nhiều người qua đường thắc mắc đây phải chăng là một đám tang của một quan chức cao cấp hay cha mẹ của một quan chức nào đó.

Không, mẹ tôi chưa từng được đến trường cũng chẳng hề có chức tước. Bà chỉ là một người nông dân giản dị với một tấm lòng rộng mở…

TẠ ƠN BỆNH VIỆN MỸ, NƯỚC MỸ

TẠ ƠN BỆNH VIỆN MỸ, NƯỚC MỸ

 Tác giả là trưởng nữ một gia đình thuộc sắc tộc Chăm (Chàm)  đang sống tại Việt Nam, đến Mỹ do sự can thiệp đặc biệt của bệnh viện U.C Davis ở Sacramento, để thăm gặp người em ruột bị ung thư máu sắp từ giã cuộc đời. Câu chuyện được kể trong bài viết, theo tác giả nói lên “nét nhân đạo sâu sắc nhất của bệnh viện Mỹ.”  

***

Tôi đến Mỹ vào một chiều se lạnh…

Mấy chục năm qua, tôi vẫn thầm ước được đi Mỹ, nhưng xa vời quá, giấc mơ không tưởng ấy! Kể từ ngày ba mẹ dẫn các em ra đi theo diện H.O.  Tôi và ba đứa em trai đã lập gia đình đành ngậm ngùi ở lại. Thời gian qua mau, mái tóc đen kia giờ đã điểm bạc, vẫn chưa được trùng phùng cùng ba mẹ. Nhưng số phận lại run rủi chị em tôi được đến Mỹ như một giấc mơ. Một giấc mơ không ngờ!

Đặt chân lên đất Mỹ

Vẫn cứ ngỡ đang mơ

Bao nhiêu năm trông chờ

Bây giờ là sự thật.

Một sự thật đau buồn, bởi vì gia đình tôi được đoàn tụ trong đau thương mất mát.

Gặp Em trên giường bệnh

Niềm vui và nước mắt

Như hòa lẫn vào nhau!

Em ngồi đấy, cụt hai tay, hai chân, mắt đeo kính lão khi tuổi mới hăm ba. Nước mắt tôi dâng tràn nhưng vẫn cố đè nén.

Chị muốn khóc vang thấu thiên địa

Khi thấy em mang thân thể xót thương này.

Đứa em út khôn ngoan hiền hòa, không đua đòi lối sống thác loạn, chỉ biết học hành chăm chỉ, đã ngã bệnh từ năm 2004 khi Em về VN thăm quê. Bệnh viện Chợ Rẫy đã xét nghiệm là ung thư máu! Họ khuyên tôi nên chuyển Em về Mỹ gấp. Tôi không dám nói sự thực đau lòng với em, chỉ nói là: “Việt Kiều về VN chơi mà bị bệnh, chị không dám nuôi, em về Mỹ sớm đi!” Em vẫn ngây thơ dỗi hờn tôi: “Hậu không có lỗi với chị, sao chị cứ đuổi Hậu hoài vậy!” nghe Em nói lời trách móc, tôi đau đứt ruột! Nhưng em vẫn vâng lời ra đi.

Phần thì phải giấu Em, phần thì giấu ba mẹ già sợ ba mẹ buồn phiền trở bệnh, mấy chị em tôi sắp xếp cho Em về Mỹ sớm hơn dự định. Hôm tiễn Em  ra đi, tôi thèm được ôm Em khóc lời chia ly, vì cứ nghỉ chắc đây là  lần cuối được nhìn thấy Em, nhưng không dám bộc lộ ý nghĩ của mình, chỉ gắng gượng vuốt tóc Em nhắn nhủ: “Em qua Mỹ chịu khó uống thuốc cho lành bệnh, rồi lại về thăm quê hương, thăm anh chị.”

Bệnh viện Chợ Rẫy khuyên nên đưa Em vào bệnh viện Mỹ nào gần sân bay đáp  nhất. Nhưng Em đã khẩn khoản xin được về tới nhà rồi mới vào bệnh viện U.C Davis ở Sacramento.

Từ đấy Em được điều trị suốt hai năm ròng rã. Bệnh viện Mỹ đã chữa cho Em “free” vì Em đang đi học – không tiền bạc, không tài sản riêng.

Tiền thuốc thang có thể lên tới cả triệu đô la nhưng họ vẫn chữa cho Em tận tình, không đuổi về như ở VN khi biết rằng bệnh nhân không đủ tiền chi phí.

Em đã cố gắng chịu đựng biết bao đau đớn để vô hóa chất trị liệu (chemotherapy), và cũng đã can đảm chịu đựng cưa hết hai tay hai chân để được sống còn. Sức sống của Em vô cùng mãnh liệt. Em vẫn còn quá trẻ, lời nói và cử chỉ của Em vẫn lộ ra vẻ ngây thơ chân thật. Em chưa hề biết giả dối cùng ai. Các bác sĩ và nurse chữa trị cho Em đã tỏ vẻ khâm phục sự lạc quan yêu đời của Em, và họ đã cố gắng chữa trị cho Em với niềm bao dung tận tụy.

Sau mấy tháng nằm viện, Em bình phục với một thân thể không lành lặn. Em cam chịu tật nguyền để đổi lấy mạng sống! Người chị kế của Em đã hy sinh tất cả để chăm sóc cho Em và cũng được hưởng lương của chính phủ điều khác biệt với VN.

Bệnh nhân khó khăn thì người nhà tự lo, không ăn thua gì tới  nhà nước. Bệnh viện Mỹ còn cử cả bác sĩ tâm lý đến khuyên nhủ Em vui sống và hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.

Em lâm bệnh giữa tuổi xuân phơi phới đường tương lai đang rộng mở ngời ngời

Họ đã chữa cho Em tận tụy

Vẫn không qua số phận đoạn trường!

Đất nước Hoa Kỳ tinh tường, nhân đạo Tạo phép mầu cho chị, cho anh

Được gặp Em lần cuối trước phân ly Đi xa tít phương trời huyền ảo

Dù được bệnh viện U.C Davis chữa trị tận tình. Các bác sĩ và nurse vô cùng yêu thương Em. Họ gọi Em là “Sweet Heart”, “Good Boy”. Em đã cố gắng thích ứng với chân tay giả và đi đây đó với cặp chân giả không cần xe lăn. Em đã cam phận với kiếp sống tật nguyền, miễn là được sống!  Hai tay sắt của Em đánh computer nhanh thoăn thoắt. Hai chân nhựa của Em bước lên xuống cầu thang như người bình thường. Em đã cố gắng luyện tập thành thạo những vật dụng hỗ trợ sự tật nguyền. Chi phí cũng rất cao nhưng tất cả đều “free”. Bệnh viện cũng thường kiểm tra sức khỏe của Em hàng tuần.

Đúng hai năm sau ngày Em khởi bệnh, Em đã xin bệnh viện cho được về VN. Họ đã hỏi em rằng: “Vì sao you cứ đòi về VN”” Em mới trả lời: “Tôi muốn về VN để gặp anh chị tôi lần cuối trước khi chết!” Họ mới rõ ràng không thể giấu được Em. Bịnh của Em đã tái phát và hết phương cứu chữa!

Bệnh viện Mỹ không đồng ý cho Em về VN và viết một lá thư yêu cầu Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ ở Saigon chấp thuận cho 4 chị em tôi đang ở VN được sang Mỹ để gặp mặt Em lần cuối trước khi chia ly.

Theo chân tôi các em cùng đến

Hội tụ đoàn viên nơi đất Mỹ xa xôi

Tóc Mẹ bạc phơ, tóc con đà chớm bạc

 Bạc mái đầu chụm lại khóc Em thơ

Và đây cũng chính là nét nhân đạo sâu sắc nhất của bệnh viện Mỹ. Họ đã  cảm thông cho giây phút cuối cùng của bệnh nhân. Họ đã an ủi chiều chuộng hết sức chu toàn cho bệnh nhân trước giờ lâm chung. Họ còn cho phép chúng tôi được thay phiên nhau ngủ lại trong phòng bệnh nhân để canh chừng cho Em. Họ đã biết bệnh Em không qua khỏi nên thân nhân được phép vào thăm thoải mái. Chỉ cần nói tên H.D là họ “ok” cho vô.

Mỗi lần vô thăm có thể tới 20 người, họ vẫn không đuổi như ở VN. Họ đã duy trì sự êm ái không để đau đớn trước khi chết đến giây cuối cùng.

Khi chúng tôi cho họ biết rằng chúng tôi là dân tộc thiểu số (Chăm) ở VN, người sắp chết phải được đỡ trên tay thân nhân, nếu không thì là chết “Fào”. Họ vẫn tôn trọng tục lệ của chúng tôi cho chúng tôi được đỡ lưng Em trên giường bệnh. Sau khi Em trút hơi thở cuối cùng chúng tôi cứ mãi bịn rịn không muốn ra khỏi phòng bệnh, họ yêu cầu chúng tôi ra ngoài để “Clean” Em. Rồi chúng tôi lại xin được đi theo thi thể Em đến tận phòng xác. Họ cũng chấp nhận luôn!

Đêm ấy Em đã nhắm mắt xuôi tay, không chống nổi với số mệnh nữa. Người Chăm ở Sacramento chỉ khoảng chừng 20 gia đình, tất cả đều khóc thương cho Em, người con trai Chăm thông minh hiền hậu, và tất cả -khoảng 60 người- đã lặng lẽ âm thầm theo chiếc xe phủ khăn trắng mang hình hài Em đi qua những hành lang sâu hun hút, lạnh lẽo đến rợn người mà chưa từng ai được phép vô ngoại trừ nhân viên bệnh viện. Vậy mà chúng tôi đã được phép!

Ngày Em mất Chăm Sacto đều khóc

 Theo chân Em đến tận chốn kỳ cùng

Phá lệ xưa đưa tiễn xác thân Em

Nơi xa xôi, xa bà con thân thuộc

Vẫn ấm lòng bởi tình nghĩa đồng hương.

Tôi từ VN đến Mỹ ngày 9/5/2006. Mười hai ngày sau, 9/17/2006, Em tôiqua đời. Mười hai ngày ngắn ngủi trong bệnh viện UC Davis đã cho tôi thấy tường tận những máy móc tối tân của bệnh viện Mỹ, những liều thuốc quý giá mà nếu ở VN chúng tôi phải tốn hàng trăm triệu mới được điều trị,  thế mà ở đây họ đã cho không. Hơn thế nữa họ đã khẩn khoản viết thư xin với Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ cho phép 4 chị em tôi đang ở VN được qua Mỹ hết để gặp mặt bệnh nhân của họ lần cuối! Thái độ của nhân viên bệnh viện rất mực ân cần. Từ bác sĩ cho đến nurse hay bảo vệ, lao công, họ đã khiêng thêm chiếc ghế ngủ vào cho chúng tôi. Thân nhân vô thăm nhiều, họ bê thêm ghế. Họ cứ hỏi người thăm muốn uống gì họ mang lên. Có một hôm họ bê cả thùng ice cream lên cho, khi thấy khách lên thăm em quá đông. Tất cả đều trái ngược với VN, nên đã tạo cho tôi nhiều cảm xúc và viết lên những lời này. Bệnh viện UC Davis vô cùng nhân đạo, chúng tôi mang ơn họ thật nhiều.

Tôi may mắn đọc được trang báo “Viết Về  Nước Mỹ Năm Thứ Bẩy” của Việt Báo nên xin gửi gấm những cảm xúc của mình vào đây, như lời tạ ơn chân thành nhất của gia đình chúng tôi với bệnh viện Mỹ và nước Mỹ tử tế, nhân đạo.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

CHUYỆN … DUYÊN NỢ-Tác giả là một Sĩ quan TQLC VNCH

May be an image of 1 person, standing and outdoors

CHUYỆN … DUYÊN NỢ – Tác giả là một Sĩ quan TQLC VNCH

LT: Tác giả là một Sĩ quan TQLC VNCH, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Bài viết của ông được một cựu đồng ngũ chuyển tới, về một cựu nữ chiến binh VC, sau chiến tranh, đi vào tận trại tù tìm thăm người sĩ quan VNCH cô từng gặp trên chiến trường, và rồi…”.

***

Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá caọ Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát,những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:

– Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông. Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.

– Một đồng chí nữ nhà ta đấy. Kính reo nho nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước…Nước..cho tôi miếng nước”.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ

– Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời. Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự Tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng …..nước.

– Đ. Mẹ … Câm miệng lại.

Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa.

Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé. “Cám ơn ông nhìều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi.

– Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm.

– Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa.

– Tại vì…Tại vì…Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôỉ…Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như….

– Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì?

Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối, rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.

– Này… Ông tên là gì vậỷ

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này.

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại “cải tạo”, một danh từ mỹ miều nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập!

Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.

Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư.

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hòai Lam có thư.

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc:

“Anh Lam!

Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:

“Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra. Cô viết tiếp:

– Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra.

Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc, nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ gĩa ra đi không?

“Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là…

Trên đất tị nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậy.

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.

Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng.

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Chuyện tình “Hương Giang dạ khúc”

Chuyện tình “Hương Giang dạ khúc”

GSTS Trần Văn Khê và Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thời trẻ là một đôi bạn thân. GS Trần còn giữ nhiều kỷ niệm sâu sắc về nhạc sĩ Lưu. Câu chuyện sau đây Giáo sư Trần đã kể trong những ngày ông về Huế dạy nhã nhạc tháng 4 năm 1996.

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước tác giả Hương Giang Dạ Khúc. TL Internet

Năm 1943, chúng tôi gồm Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng và Trần Văn Khê còn đang theo học tại Hà Hội. Lúc nầy anh Phước được giới trẻ hết sức hâm mộ với các bài hát dành cho thanh niên của anh. Một hôm anh Phước nhận được một lá thư của một nữ sinh Huế tên là Thu Hương. Thư ca ngợi tài năng và tinh thần yêu nước của anh Phước. Nhưng tiếc thay thư lại viết bằng tiếng Pháp. Đọc thư LHP không bằng lòng. Phước viết thư trả lời: “Thưa cô, cô là người Việt mà tôi cũng là người Việt, không hiểu tại sao cô lại viết thư cho tôi bằng tiếng Pháp? Vì thế cô cho phép tôi trả lời cô bằng tiếng Việt “. Ngay sau đó, Phước nhận được lá thư thứ hai, cô nữ sinh giải thích lý do vì sao cô phải viết bằng tiếng Pháp: “Vì tôi quý trọng nhạc sĩ lắm, nhưng mà tôi là con gái không có quyền gọi nhạc sĩ bằng anh, mà  gọi bằng ông thì xa xôi quá. Vì thế tôi đã phải mượn tiếng Pháp để tự xưng là Je (tôi) và gọi nhạc sĩ bằng Vous (anh) một cách bình thường mà lại giữ được sự thân mật. Nếu điều đó đã vô tình làm cho nhạc sĩ bực bội thì tôi xin nhận lỗi vậy “. Lưu Hữu Phước vỡ lẽ, không những không trách nữa mà còn khen ” cô nầy là con gái Huế sâu sắc thiệt”.

Từ đó thư qua thư lại đến mười mấy cái nữa. Đến khi trường Đại học Hà Nội đóng cửa, Phước cùng Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ về Nam. Khi tàu chạy đến ga Huế thì Phước nhảy xuống đi tìm Thu Hương. Phước tìm đến đúng địa chỉ hay gởi thư thì mới biết địa chỉ đó không có thật. Lưu Hữu Phước thất vọng vô cùng. Không gặp được Thu Hương, Phước đi lang thang men theo con đường chạy dọc sông Hương. Anh định một lúc rồi lên ga mua vé tàu đi tiếp vào Sài Gòn thì may mắn gặp được một người bạn. Anh bạn mừng rỡ hỏi Phước đi tìm ai, Phước kể lại sự tình đi tìm Thu Hương ở địa chỉ anh hay gởi thư. Anh bạn cười và cho Phước hay địa chỉ đó chưa bao giờ có ở Huế. Đó chỉ là một cái cốt đặt ở bưu điện. Nghe vậy Phước lại càng thất vọng. Anh bạn mời Phước về nhà ở lại. Nhà anh bạn có hai cô em gái cũng đang học trường Đồng Khánh. Được gặp Lưu Hữu Phước hai cô mừng lắm, họ bèn chạy đi mời một số bạn gái nữa về nhà chơi nghe Phước nói chuyện. Các cô nữ sinh kính phục lắm. Nhưng Phước không để ý đến ai cả mà chỉ thổn thức mơ tưởng đến Thu Hương mà thôi. Nhưng không ai biết Thu Hương là ai cả. Và cũng không ai biết trong những người đến nhà chơi có ai là Thu Hương hay không. Nói chuyện xong, các cô mời anh Phước xuống thuyền dạo chơi trên sông Hương. Nhìn thấy các cô nhón chân bước xuống thuyền đẹp quá, Phước hết sức xúc động. Hình ảnh đó càng làm cho Phước tưởng nhớ đến Thu Hương mạnh mẽ hơn. Nó đã  gợi cho Lưu Hữu Phước sáng tác bài Hương Giang Dạ Khúc. Bởi thế trong bài hát có những câu.

“Nhón chân bước xuống thuyền, tình tôi thương nhớ “.

“Làn hương thu, mờ trong bóng chiều, vờn rung nắng ngà, nhẹ đưa đưa xa, làn hương thu”.

Bài nhạc được viết xong nhưng Phước không gặp được Thu Hương.

Sau năm 1945, trước khi đi kháng chiến Phước đưa cho tôi bài Hương Giang Dạ Khúc và nói:

– “Tôi đặt bài nầy có tên mà không có mặt, nhưng hình ảnh người đó phải là một cô gái Huế. Bài nầy tặng cho các cô gái Huế nhưng đưa cho Khê coi chơi chớ không được hát ra công chúng. Nếu lỡ hát thì không được nói tên tác giả”.

Vì lúc đó cuộc kháng chiến đã bắt đầu. Tình cảm trong HGDK không thích hợp với ý chí mạnh mẽ của tuổi trẻ thời bấy giờ. Vì thế tôi đã giữ trọn lời căn dặn đó. Anh Phước đi kháng chiến rồi đến lượt tôi đi. Trước khi rời thành phố tôi  được các cô mời gặp mặt. Các cô yêu cầu tôi hát HGDK. Không thể từ chối được, tôi hát mà không nói ai là tác giả. Tôi hát chưa hết bài thì trưởng đoàn đến giục đi. Các cô không chịu:

 “Không được, phải hát hết bài nầy rồi mới được đi”.

Xe đến, các cô đóng cửa lại cái rầm và bắt hát hết. Các cô khen:

– “Hay quá. Của ai vậy?”

Giữ lời hứa với anh Phước tôi bảo :

– “Của một nhạc sĩ không tên”.

Vì không tên nên ai cũng nhớ.

Năm 1961 tôi qua Newyork dự Hội nghị âm nhạc Thế giới. Ăn cơm Mỹ ngán hết sức, thấy ở  gần khu Đại học có một tiệm cơm Việt Nam  tôi mừng quá vào ăn ngay. Ông chủ tiệm là người Việt Nam đến, biết tôi cũng là người Việt Nam mừng lắm. Người vợ đến nói:

– ‘”Tôi biết anh là Trần Văn Khê bạn của Lưu Hữu Phước phải không?”.

– “Sao cô biết?”

– “VN có mấy người như các anh đâu mà không biết.”

Sau mấy câu xã giao chủ khách trở nên thân mật như đã quen nhau tự bao giờ. Thế là tất cả những món ăn Huế như bánh khói, bánh bèo, bún bò … có  món Huế gì ngon đều bưng ra mời hết mà không lấy tiền. Từ hôm đó ngày nào tôi cũng ra ăn cơm Huế. Đến bữa cuối cùng tôi báo không ăn cơm Huế nữa vì phải dự chiêu đãi bế mạc hội nghị. Bà chủ nhà hoảng hồn, nói toáng lên :

-” Trời đất ơi, biết anh sắp rời Mỹ, tối nay tôi mời trên ba chục người Việt đến nghe anh nói chuyện âm nhạc VN và chia tay. Anh đi dự chiêu đãi thì chết tụi tôi rồi !”.

Không thể bỏ qua cuộc gặp mặt hiếm có nầy tôi phải bỏ cuộc chiêu đãi bế mạc hội nghị để làm vui lòng chủ tiệm người Huế.

Lúc đó người VN chưa có nhiều ở Mỹ. Với số lượng hơn ba chục người là đông lắm rồi. Hơn ba chục mà có đủ ba miền Bắc Trung Nam. Trong lúc nói chuyện  tôi  hát một câu hò miền Nam, ca mấy điệu Nam bình Nam ai, và ngâm mấy câu sa mạc. Hò miền Nam thì người miền Nam chảy nước mắt, ca Huế thì người miền Trung lấy khăn chặm nước mắt, ngâm sa mạc thì người miền Bắc nhớ quê khóc. Đến khi ai cũng đã chảy nước mắt cả rồi thì cô chủ nhà hỏi:

– ” Anh có biết bài Hương Giang Dạ Khúc không ? “.

– ” Biết. Nhưng sao chị biết bài đó? ” – Tôi hỏi.

Bà chủ nhà không trả lời mà lại hỏi:

– “Anh hát được không?’

– “Được.”

Tôi hát. Khi chị nghe tôi hát đến câu :

– “Làn hương ơi làn hương, mờ xoá bóng ai yêu kiều” .

Bà chủ nhà ôm mặt khóc. Khóc nức nở. Chồng chị là anh Bính – một họa sĩ, biết những giọt nước mắt đó không phải khóc vì mình, nhưng anh đã có một cử chỉ đẹp vô cùng là lấy khăn lau nước mắt cho vợ. Anh ôm vợ vào lòng. Một cử chỉ thật đẹp và  thật vị tha. Không một lời nói ghen tuông tầm thường nào.

Bà chủ lại hỏi:

– “Anh có biết Lưu Hữu Phước đặt bài đó cho ai không?”.

– “Biết. Đặt cho Thu Hương.” – Tôi đáp.

– “Anh có biết Thu Hương là ai không?

– ” Không”.

– “Thu Hương là tôi đó !”– Bà chủ  tiệm ăn Huế nói một cách dứt khoát.

Tôi hơi ngờ:

– “Không, lâu nay tôi nghe tên chị là chị Lan kia mà? “

Bà chủ giải thích :

– “Lan là tôi mà Thu Hương cũng là tôi.”

Trời đất ơi, sao lại có sự trùng hợp lạ lùng như thế nầy. Trong bài hát có câu “Lan Hương Thu”. Mà “Lan Hương Thu” cũng đều là tên của chị.

Chị chủ quán là người “trong cuộc” thế mà chị cũng hết sức ngạc nhiên:

–  “Hương Thu là bí danh của tôi, tên thật là Lan. Tại sao ông Phước đặt bài hát có cả ba chữ Lan Hương Thu?”.

Tôi hỏi chị:

-“Có bao giờ chị có ý định gặp lại anh Phước không?”

Thu Hương đáp:

– “Không! Nhưng nếu gặp anh Phước anh nói hộ với anh ấy: Tôi đã hai lần lập gia đình nhưng không bao giờ tôi quên anh Phước – người đã sáng tác bài Hương Giang Dạ Khúc. Lâu lắm tôi mới nhận được bài hát nầy nhưng tôi biết anh Phước  dành bài hát nầy cho tôi.”

Như thế là vô tình tôi đã tìm được con người mà Phước đã không được gặp mặt hơn mười lăm năm trước. Từ đó tôi trở thành bạn thân thiết với gia đình Thu Hương .

Mười lăm năm sau (1976), nước nhà thống nhất, tôi gặp lại anh Phước ởHà Nội. Sau lúc mừng rỡ, nói chuyện chung xong rồi, tôi kéo anh Phước ra nói nhỏ:

-” Có một chuyện tôi phải nói riêng với anh! “.

-” Chuyện gì?” Phước hỏi.

-” Tôi đã gặp Thu Hương rồi! “

-”  Gặp ở đâu?”

-” Gặp ở Newyork! “

-” Bây giờ Thu Hương ở đâu? “

Tôi đành phải nói một sự thật:

-” Thu Hương đã trở nên người thiên cổ rồi. Do một tai nạn máy bay cách đây sáu bảy năm! “

Tôi nói đến đó nước mắt anh Phước lưng tròng. Và mắt tôi cũng ngấn lệ.

Đó là một kỷ niệm không thể nào quên. Ngày truy điệu anh Phước tôi hát lại bài Hương Giang Dạ Khúc và nhắc lại chuyện nước mắt anh lưng tròng, năm 1976. Lúc đó Thu Hương đã ra người thiên cổ nhưng Phước vẫn còn là người dương trần. Bây giờ tôi khấn trước hương hồn anh:

– “Ngày hôm nay tôi hát lại bài nầy, trong giờ phút nầy biết đâu bạn ở bên kia thế giới đã gặp lại Thu Hương chăng!”

Tôi hy vọng anh Phước đã gặp được con người mà trên trần thế anh chưa hề gặp mặt. Kể lại chuyện nầy với hy vọng các nhà sưu tập nhạc Lưu Hữu Phước bổ sung thêm vào Toàn tập nhạc của anh thêm một bài nhạc mà theo tôi là rất hay.

GSTS Trần Văn Khê kể

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh 

Người Vợ Mù…

Van Pham

TRUYỆN NGẮN….

Người Vợ Mù…

Trong một chương trình radio mang tên “Nẻo về của trái tim”, một cô gái mù đã gửi cho những người làm chương trình câu chuyện của mình.

Mong muốn của cô là được chia sẻ niềm hạnh phúc mà mình đang có và gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới một người.

***

Tôi là một kiến trúc sư vui vẻ, hoạt bát. Cách đây một năm, tôi là người vợ hạnh phúc nhất. Khi thức dậy cùng người mình yêu vào mỗi sáng, chúng tôi thường cùng nhau thưởng thức một tách trà trong không gian yên tĩnh đầu ngày.

Chúng tôi xây dựng cho mình một thói quen: sẽ luôn cố gắng chia sẻ với nhau những suy tư và cảm nhận chân thật nhất của mỗi người để gìn giữ hạnh phúc.

Cuộc sống của chúng tôi êm đềm trôi qua cho tới một ngày. Trên đường từ bến xe buýt vào tới công ty, tôi thấy mọi thứ như nhòa đi trước mắt, chỉ còn lại những tiếng còi xe inh ỏi. Rồi tôi lập tức được đưa vào bệnh viện.

Ngày hôm đó, tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng cảm giác khi nghe câu kết luận của bác sĩ:

“Đây là một căn bệnh thoái hóa nên chúng tôi cũng không thể giúp được gì”.

Bác sĩ còn giải thích rất nhiều điều nữa, nhưng trong đầu tôi chỉ còn đọng lại duy nhất câu nói: “Cô sẽ sớm bị mù”.

Tôi không biết các bạn sẽ cảm thấy ra sao khi đối diện với sự thật này. Còn tôi, tôi đã đầu hàng một cách hèn nhát. Tôi khóc, tôi cáu bẳn thậm chí nhiều lần gắt gỏng, đặc biệt khi chỉ có tôi và anh, trong căn nhà hạnh phúc của chúng tôi. Tôi đã rất sợ, sợ bị rơi vào bóng tối, sợ phải làm một người mù và sợ nhất rằng tình yêu của anh dành cho tôi cũng sẽ không còn.

Tôi không còn dùng trà vào mỗi buổi sáng với chồng nữa.. Bởi tôi muốn tất cả phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của mình, đặc biệt là chồng tôi. Trước sự thay đổi chóng mặt của vợ, chồng tôi không nói gì, anh chỉ lẳng lặng quan sát và chịu đựng những cơn nóng giận vô cớ. Hơn thế anh giúp tôi làm mọi công việc nhà bất chấp sự phản đổi đầy ngang bướng của tôi.

Thời gian đó, ông chủ vẫn sắp xếp cho tôi một công việc nhỏ trong văn phòng. Nhờ đó, tôi có thể được ra ngoài vào mỗi sáng. Được đi làm đã trở thành niềm hạnh phúc nhất của tôi khi ấy. Công việc cho tôi cảm giác tôi không phải là người thừa, tôi được chứng minh sự mạnh mẽ của mình và thỏa mãn cái tôi đang bị tổn thương ghê gớm. Tôi quyết định vẫn đi xe buýt tới công ty như tôi luôn làm trước đây. Tôi biết mình đã rất quen với con đường và tôi cũng đã dần thành thục việc sử dụng cây gậy cho người mù.

Chồng tôi đề nghị, hãy để anh đưa tôi đi làm mỗi sáng và trở về đón tôi mỗi buổi chiều. Nhưng tôi từ chối, tôi không muốn anh phải vất vả như vậy, bởi nơi chúng tôi làm việc cách nhau rất xa. Chồng tôi không phản đối, anh chỉ nói: “Hãy cẩn thận khi qua đường nhé, ngã ba đó khiến anh lo lắng hơn cả”. Tôi giữ im lặng trước lời dặn dò của anh.

Mọi chuyện sau đó diễn ra suôn sẻ ngoài mong đợi của tôi. Có lẽ sư lo lắng của tôi và chồng đều là thái quá. Khi dừng đèn đỏ ở ngã ba đầu tiên, tôi nhớ lại lời của chồng và bắt đầu cảm thấy sợ. Ngay lúc ấy có một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên:

“Cô ơi, cô có thể dẫn cháu qua đường không?”

Tôi quá đỗi ngạc nhiên với câu hỏi của cậu bé, hình như cậu bé không biết tôi bị mù.

“Cháu à, cô xin lỗi, nhưng cô sẽ không bảo đảm an toàn được cho cháu vì cô không nhìn thấy…” Tôi chưa kịp nói hết câu thì cậu bé chen vào.

“Cháu biết cô bị mù, cháu xin lỗi ý cháu là cô không nhìn thấy, nhưng không sao.. Cô là người cao lớn, những người lái xe sẽ nhìn thấy cô, họ sẽ tránh chúng ta. Còn cháu sẽ dắt cô qua đường, cháu sẽ làm đôi mắt cho cô ở ngã ba này nhé.”

Trước lời nói ngây thơ của cậu bé, tôi thấy mũi mình cay cay. Chuyển gậy dò đường sang tay phải, tôi chìa bàn tay còn lại để nắm lấy bàn tay nhỏ bé đó. Cậu bé nắm tay tôi thật chặt. Cái siết tay của cậu khiến tôi có thêm rất nhiều tự tin.

Hóa ra tôi vẫn còn có ích, vẫn có thể giúp đỡ một ai đó chứ không hoàn toàn là “đồ vô dụng” như tôi luôn nghĩ về mình sau khi không còn nhìn thấy. Bên trong tôi bất giác thấy lại được niềm vui.

Cậu bé quả là một người dẫn đường tài tình, chúng tôi đã qua đường an toàn và dường như không làm một người lái xe nào nổi giận. Khi chia tay ở ngã ba, cậu bé nói:

“Cháu hy vọng mai cô sẽ lại ở đây nữa, vì sáng nào cháu cũng phải đi qua ngã ba này để đến trường. Cảm ơn cô nhiều nhé. Giờ cháu đi học đây.”

Cậu bé chào tôi và chạy đi nhanh như một cơn gió. Trước khi đi, cậu bé quay lại, nói thật to:

“Hẹn cô ngày mai nhé, cháu sẽ chờ cô đấy”. Cậu bé khiến nụ cười trở về trên môi tôi, đôi má tôi cũng ửng hồng.

Một cảm giác ấm áp khiến những căng thẳng bao ngày qua tan mất. Có lẽ ai đó nhìn thấy tôi lúc ấy sẽ phải thắc mắc: Cô gái mù ấy sao lại cười rạng rỡ thế?

Không để tôi thất vọng, ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, cậu bé vẫn xuất hiện và chúng tôi đã trở thành đôi bạn “chinh phục ngã ba” từ đó.

Đôi lúc chúng tôi còn nán lại nói chuyện với nhau. Tôi đã biết cậu bé thiên thần ấy (chí ít là với tôi) tên là Jimmy. Jimmy nhỏ người, mặt nhiều tàn nhang, tóc màu hung và có một cái mũi hơi kì lạ… Đó là dáng vẻ mà cậu bé tả về mình cho tôi nghe.

Nhờ Jimmy bé nhỏ, tôi dần lấy lại niềm vui trong cuộc sống của mình.

Tôi cũng đã có thể đối đãi dịu dàng trở lại với chồng, không còn nặng nề với anh nữa. Nhưng cảm giác muốn mở lòng để chia sẻ với chồng vẫn chưa trở về.

Niềm vui của tôi chỉ kéo dài được một tháng. Sáng hôm đó, khi ở ngã ba tôi không thấy Jimmy, cậu bé đến muộn chăng? Tôi chợt hiểu ra rằng hình như những đứa trẻ đã kết thúc năm học và Jimmy sẽ không đến trường ngày hôm nay. Tôi chưa biết làm thế nào để qua đường khi không có người hoa tiêu nhỏ bé, tiếng lanh lảnh quen thuộc vang lên:

“Cô James chờ cháu.”

“Cháu đấy à, cô mừng quá, cô cứ nghĩ là cháu sẽ không đến”..

“Cháu không thể để cô một mình qua đường được. Đó là lời hứa danh dự..

Nhưng cháu sắp theo bố mẹ về quê với ông bà rồi.. Cô biết mà, trường học đã nghỉ hè và hôm nay là ngày cuối cùng cháu ở đây”.

Tôi cảm thấy lo lắng và hơi buồn, nhưng cố trấn tĩnh. Tôi hỏi Jimmy về “lời hứa danh dự” của cậu bé, điều khiến tôi cảm thấy rất tò mò.

“Cháu đã hứa với một người.. Nhưng chú ấy không cho cháu nói điều này với cô.”

Chúng tôi cùng nhau băng qua đường trong im lặng. Nhưng khi tới nơi, cậu bé níu tay tôi lại, hỏi rằng tôi có thể đi với cậu bé một chút không? Tôi đồng ý và chúng tôi thả bộ cùng nhau trong một công viên gần đó. Hóa ra cậu bé muốn kể cho tôi nghe về lời hứa danh dự của mình.

Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, đã có một người đàn ông nhờ cậu bé dắt một phụ nữ xinh đẹp nhưng bị mù qua đường. Người đàn ông ấy giải thích với cậu bé rằng, đó là vợ chú. Cô ấy vừa bị mất đi đôi mắt và chú không thể yên tâm để cô ấy một mình đi qua con phố đông đúc này.

Nhưng chú cũng không thể tự tay dắt cô sang đường, vì cô đang đóng cửa tâm hồn mình với chú.

Nước mắt tôi bắt đầu rơi. Cậu bé tiếp tục kể. Cậu bé đã đồng ý giúp người đàn ông lạ mặt đó.. “Không chỉ một lần, cháu không biết tại sao nhưng khi nghe chú ấy kể về cô, cháu nhớ đến cách bố cháu nói về mẹ, đầy yêu thương. Vì thế, cháu đã hỏi chú ấy có cần cháu giúp những ngày tiếp theo không. Đôi mắt của chú ấy lúc đấy rạng rỡ như mắt cháu lúc được đi chơi hay ăn kem vậy”.

“Đó là lý do vì sao sáng nào cháu cũng ở đây chờ cô?”

“Vâng, nhưng không chỉ chờ cô, cháu chờ cả chú ấy nữa. Chú ấy ngày nào cũng đi qua đường với chúng ta mà. Chú chỉ lặng lẽ đi cạnh cô, cách cô một đoạn để cô không cảm thấy sự có mặt của chú ấy. Chỉ khi cô cháu mình sang đường an toàn chú ấy mới đi làm”.

– “Thật vậy sao?” Tôi không còn biết nói gì hơn.

– “Cháu không định nói chuyện này cho cô nghe. Nhưng ngày mai cháu đi rồi. Cháu sợ cô sẽ thấy hoang mang vì không có cháu. Thêm nữa cháu sợ cô vẫn giận chú”.

“Vậy hôm nay chú ấy có đi cùng chúng ta không, Jimmy?”

Chồng tôi đã đứng đó từ bao giờ. Anh đã lắng nghe câu chuyện của cô cháu tôi. Tôi không biết khuôn mặt anh lúc ấy như thế nào.. Chỉ biết có một bàn tay to lớn, ấm áp và rất quen thuộc nắm lấy bàn tay tôi, nhẹ nhàng dắt tôi đi hết quãng đường từ công viên tới văn phòng.

Sau ngày hôm ấy, tôi đồng ý để chồng chở đi làm, và buổi chiều tôi đi xe buýt về, anh đã nhờ được một người bạn trong công ty đưa tôi ra bến xe. Tôi còn được biết, công việc mà ông chủ sắp xếp cho tôi chính là nhờ anh đã tới gặp và thuyết phục ông.

Đó là câu chuyện tình yêu mà tôi muốn chia sẻ với các bạn. Những ngày tháng vừa qua đã khiến tôi nhận ra rằng:

Trong cuộc sống nhiều đau khổ này, tình yêu thực sự hiện hữu, và nó mang một sức mạnh chữa lành thật to lớn. Khi nghĩ về sự nhẫn nại của anh suốt thời gian cùng tôi và Jimmy sang đường, khi cảm nhận được rằng trái tim chan chứa thiện niệm của anh luôn nghĩ cho cảm giác của tôi, nghĩ đến việc làm thế nào để tôi an toàn và hạnh phúc nhất, tôi mới hiểu ra thế nào là thực sự yêu một ai đó.

Chia sẻ câu chuyện này cũng là cách tôi muốn anh biết: Từ tận đáy lòng, tôi biết ơn tình thương và những điều anh đã dành cho tôi. Và hơn thế, anh và Jimmy bé nhỏ đã cho tôi hiểu và học được rằng yêu thương một người là dành cho người đó sự bao dung, nhẫn nại và những điều thiện lành nhất mỗi ngày.

TRẠI TÙ SÓNG THẦN NƠI CUỐI CÙNG TRƯỚC KHI ĐƯỢC TẠM HOÃN CẢI TẠO

 May be an image of child, standing and outdoors

 Bài hơi dài, nhưng rất hay!

HỒI KÝ BS. NGUYỄN DUY CUNG

Nguyên Giám đốc BV. Nguyễn Văn Học Gia Định

TRẠI TÙ SÓNG THẦN NƠI CUỐI CÙNG

TRƯỚC KHI ĐƯỢC TẠM HOÃN CẢI TẠO

Trại Sóng Thần trước kia là căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến đóng trong khu rừng Cấm-Dĩ An, thuộc địa phận Thủ Đức. Đây là một trong những đơn vị trẻ trung, hào hùng của Quân Lực VNCH, nhưng không may, cũng là đơn vị có nhiều bác sĩ Q. Y tử trận ngoài chiến trường kể từ năm 1964 như bác sĩ Trương Bá Hân tại Bình Giả, Bác sĩ Lê Hữu Anh tại Quảng Ngải, Bác sĩ Trần Ngọc Minh tại Quảng Tín.

Vào mùa thu năm 1960, có những trận đánh dữ dội đầu tiên trên vùng biên giới cực Bắc tỉnh Kon Tum. Quân đội chính quy Bắc Việt theo đường mòn Trường Sơn Tây tràn qua biên giới VN, với mưu toan đánh chiếm thành phố hẻo lánh Kon Tum nhân ngày lễ Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1960. Nhưng âm mưu bại lộ nên xoay qua tấn công cùng một lúc năm tiền đồn Mang Khiêng, Mang Búc, Toumerong, Dakrotah, Dakha.

Lúc này tôi đang xử lý thường vụ chức vụ Y sĩ trưởng Sư đoàn 22BB và đang tham gia cuộc hành quân tái chiếm đồn Dakrotah. Một tiểu đoàn TQLC cùng một tiểu đoàn Nhảy Dù-tiểu đoàn 6 của Thiếu tá Đỗ Kế Giai đã lên tăng cường trung đoàn 40 để giải toả áp lực và chận đường tiến quân của địch.

Chiếc xe nhà binh Motolova của Liên Xô từ Suối Máu chở tôi về tới Sóng Thần lúc trời ngã chiều Tôi lại bị chuyển trại lần nữa nhưng không lẽ K3 chỉ có một mình tôi? Trại khá rộng, nhưng có vẽ tiêu điều, với những dãy nhà trệt thấp lợp tôn, chen lẫn với những vùng đất bỏ hoang lâu ngày cỏ mọc um tùm hoang dã. Chiếc xe chạy vô thẳng trong sân, đậu nối đuôi sau một đoàn quân xa hiệu Trung Quốc vừa chở tù binh ngoài Bắc về. Lần đầu tiên đến đây, tôi thấy ngỡ ngàng, chưa định ra phương hướng. Chỉ thấy trước mặt trại có con đường rầy xe lửa, không biết chạy về đâu. Trại không có cổng lớn, không có hàng rào kẽm gai, cũng không có lính canh. Không có lệnh tập họp tổ. Không có lệnh làm vệ sinh trại, nhổ cỏ, hốt rác, đào giếng nước như ở các trại Trảng Lớn, Xuân Lộc, Suối Máu.

Tôi được đưa xuống một căn nhà nhỏ bỏ trống đã lâu, nền đất tối om, nhà không cửa, không đèn đuốc, không chiếu màn. Tôi cảm thấy mệt mỏi sau một thời gian dài di chuyển, thần kinh còn căng thẳng vụ tử hình Thiếu tá Nam ở trại tù Suối Máu, giờ đây lại không biết còn chuyện gì sẽ xảy đến cho mình nữa, tôi cảm thấy chóng mặt vì bụng đói cồn cào, ngồi lâu trên chuyến xe nhà binh bít bùng lắc lư, nên không còn tỉnh táo nữa, tôi lấy tấm đắp đem theo trải xuống đất, nằm ngũ thiếp đi cho đến sáng.

Trời còn sớm, một cán bộ Quân Y Việt Cộng – Y sĩ trưởng của trung đoàn đến khám bệnh cho tôi. Tôi nằm dài dưới đất không cựa quậy, để mặc anh ta muốn khám gì thì khám. Đầu tiên anh ta đặt ống nghe lên giữa xương ức của tôi xong kéo xuống bên hông bụng tôi về bên trái. Với cách đặt ống nghe không tương ứng với phương vị các bộ phận bên trong lồng ngực hay trong xoang bụng, như trong sách vở y khoa thường dạy, tôi không biết anh ta muốn khám tim gan phèo phổi ra sao, tuy nhiên tôi vẫn nằm yên không thắc mắc. Chỉ đến khi nghe anh ta đề nghị chích thuốc thì tôi mới ngồi nhỏm dậy, cám ơn và từ chối. Nhớ đến chuyện chai xá xị chứa đựng một chất nước nâu nâu mà anh bạn tù ở lán 31 đã kể cho tôi nghe lúc còn ở Xuân Lộc, với lời khuyên đừng bao giờ để cho ai chích thuốc gì lạ vào cơ thể mình. Âu đó cũng là kinh nghiệm xương máu của tù nhân . Ai biết được âm mưu của VC thâm độc đến cở nào?

Nghe đến Rừng Cấm, tôi cũng ngại ngùng. Mặc dầu không có người canh chừng, nhưng suốt ngày tôi cũng chỉ đi loanh quanh gần trại, nhìn xem phong cảnh. Tình cờ thấy một hộp giấy vuông trống trơn, bên ngoài có đề tên Bác sĩ NQH. Đúng là tên một đồng nghiệp đàn anh trên tôi nhiều lớp đã từng làm chỉ huy trưởng TYV Cộng Hoà vào năm 1967 với cấp bậc Trung tá. Có lẽ món quà của gia đình gởi vô một trại nào đó cho anh và anh mang luôn đến đây. Bìa hộp bằng carton còn nguyên vẹn, ít ra tôi cũng có một người quen đang ở đây.

Trong trại đặc biệt có một cái quán nhỏ nhưng tôi đâu có tiền để vô ngồi ăn. Lúc mới nhập trại, có lệnh đổi tiền, còn bao nhiêu tôi đã kê khai hết, nhưng đâu có được hoàn trả lại. Khi tôi đến đây, nhiều tháng đã trôi qua, sau vụ cải tổ tiền tệ. Không biết cái quán có từ bao lâu nhưng thấy cô chủ quán vẫn còn lúng túng trong vấn đề thối tiền buôn bán. Cô nhờ tôi giúp làm bảng đối chiếu tiền cũ và tiền mới. Tôi nhận lời, trở về “chòi riêng” ngồi dưới đất tính toán, trình bày sạch sẽ trên hai trang giấy học trò, dán trên bìa cứng tôi lượm được ngoài sân, phụ với cô treo trên vách cho khách hàng xem. Cô thấy vừa ý, khen tôi viết chữ đẹp, trình bày hay, và lịch sự đền ơn tôi bằng một dĩa trứng gà ốp la với bánh mì nóng.

Trên bàn ăn gần đó, khách hàng hội nhau ngồi kể chuyện, từ những trận chiến ác liệt ở Hạ Lào, những gian truân trên dãy Trường Sơn bạt ngàn đèo núi, vách đá cheo leo, với khe sâu thăm thẳm, những cảnh sống kham khổ của tù binh bị đưa ra Bắc chân lết đi từng bước nặng nề, có những tù binh Hoa Kỳ, không quen với thời tiết của miền nhiệt đới, dễ bị đau yếu kiệt sức, không còn gượng nổi, bị giam giữ lại dọc đường trong những hầm được thiết lập trong rừng sâu. Họ được đánh giá thành những đơn vị để trao đổi máy cày hay xe ủi đất.

Khách còn kể lại có những bác sĩ miền Nam, không chịu nổi thời tiết nghiệt ngã ngoài biên giới Việt Hoa, và những cách đối xử gắt gao, khắc khổ trong các trại tù, nên đã gục ngã hoặc đã quyên sinh. Xéo xéo nơi tôi ở, có một anh sĩ quan trợ y trẻ tuổi, về đây đã được mấy hôm. Tôi không quen biết anh trước, nhưng dường như anh đang mắc phải một chứng bệnh tâm thần.

Buổi trưa hè, trời nắng nóng chang chang mà anh cứ tưởng như là đêm trăng mờ Đà Lạt. Anh mặc quần đùi, mình trần, ra đứng giữa đường mòn, đi tới đi lui nghêu ngao ca hát. Thỉnh thoảng lại ngửa mắt nhìn trời bị mây che, ngâm nga Hàn Mặc Tử: “Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt, như đón từ xa một ý thơ”, và có vẽ như đắc ý với lời thơ, anh cứ thế một mình lập đi lập lại.

Ngành Trợ y là thành phần Quân y bị tổn thất nhiều nhất, vì thường xông pha ngoài trận mạc, theo những đơn vị hành quân nhỏ. Rất có thể anh bị kích xúc mạnh sau những trận chiến ác liệt, có nhiều thương vong và bạn bè thất tán!.

Qua ngày sau, cũng chính anh Bác sĩ đã khám cho tôi hôm đầu trở lại, nhưng lần này anh hoàn toàn thay đổi cách xưng hô làm tôi ngạc nhiên

“Bây giờ em biết anh là ai rồi (?)”.

Vừa nói anh vừa rút trong lưng ra một trang giấy học trò màu nâu đánh máy bài Diệt trừ Sốt rét, đồng thời xòe hai bàn tay chai cứng cho tôi sờ. “Mỗi ngày em phải gánh phân để tưới 500 gốc mì! Thấy anh cán bộ thật tình, nghĩ mình sắp được về, tôi nói với anh sau này có cần dụng cụ Y Khoa gì cứ đến tìm tôi trong nhà thương Nguyễn văn Học và tôi hứa sẽ giúp anh con dao mổ, vài cây kéo, vài cây kềm mà anh hằng ao ước. Những vật dụng mới toanh này, trước kia được bày bán đầy rẫy ngoài chợ trời, trên các lề đường Chợ Cũ. Thấy đẹp và rẻ, thỉnh thoảng tôi mua về để dành. Về nhà, tôi giữ lời hứa, soạn sẵn một vài dụng cụ tốt để dành tặng anh nhưng không thấy anh đến lấy. Có thể vì tên nhà thương đã đổi nên anh không tìm ra nhà tôi được.

Tôi ở trại Sóng Thần hơn một tuần lễ. Có vài người khi về đây nói sắp được thả ra nhưng đêm đến lại bị chuyển đi nơi khác, làm những người còn lại trong trại lo ngại, hoang mang. Buổi ăn nào thấy kha khá, có chút thịt chút cá, là biết có phái đoàn quan trọng nào đó đến thăm trại. Mỗi ngày tôi cũng được ba tờ giấy khổ lớn, dài, để làm bản tự kiểm. Nhưng có điều lạ, không giống như ở các trại tù khác, là khi tôi viết theo đúng bài bản “Đế quốc Mỹ xâm lược, tội ác đầy trời” v. v… thì cán bộ nhỏ nhẹ khuyên tôi không nên chỉ trích Mỹ nữa… “Khi ra khỏi trại về nhà anh sẽ thấy đời sống có khác đi!”. Tôi không nghĩ là mình nên hy vọng vào một điều gì thay đổi trong chế độ CS.

Dưới nhà bếp, có nhân viên dân sự làm việc. Tôi lén nhờ người trao tin về cho gia đình tôi. Vợ tôi mừng rỡ dẫn hai đứa con Duy Huân và Xuân Uyên lên thăm tôi, nhưng không được bảo lãnh tôi ra. Chính Bác sĩ V. C Giám đốc bệnh viện Nhân dân đi xe nhà thương Ford Falcon lên đón tôi, cũng bị ông Thủ trưởng Đoàn 875 cương quyết từ chối

“Anh này được tạm hoãn học tập cải tạo vì nhu cầu nhà thương cần bác sĩ giải phẩu về lồng ngực. Anh mà mất đi, thì tôi không có người để thay thế”.

Tôi buộc ở lại thêm ít hôm đợi xin được giấy giới thiệu của Bà Thứ trưởng Bộ Y tế Dương Quỳnh Hoa, tôi mới rời khỏi trại Sóng Thần.

Xe nhà thương đưa tôi về đến Trung Tâm Thực Tập Y Khoa Gia Định (bây giờ đã đổi tên là bệnh viện Nhân Dân) vào buổi trưa ngày 20 tháng 4 năm 1976, gần một năm sau ngày miền Nam sụp đổ. Còn trong giờ làm việc, nhưng một số nhân viên đã tự động ra đứng hai hàng ngoài sân bệnh viện để đón tôi. Nhìn thấy tôi tiều tụy trong bộ đồ bà ba đen, chống nạng, chân đi khập khiễng, có người đã ứa nước mắt.

Tình cảm bất ngờ của nhân viên làm cho tôi thật sự xúc động. Bây giờ tôi không còn quyền hành gì nữa. Tôi không còn là Giám đốc của họ mà chỉ là một “người tù cải tạo” thất thế, mới được thả về. .

Xin cám ơn những giọt nước mắt thương cảm của anh em, chúng ta đã mất tất cả rồi, chỉ còn lại tấm lòng nhân nghĩa với nhau thôi.

ĐI TÙ VỀ NHỮNG TỦI NHỤC TINH THẦN VÀ VẬT CHẤT

Chế độ Cộng Sản thật vô cùng thâm độc. Ngoài chủ trương tận diệt “Trí, Phú, Địa, Hào”, đào tận gốc, móc tận ngọn đối với Sĩ quan trong Quân lực VNCH phải tìm cách phân tán tối đa gia đình. Bắt chồng đi tù vô hạn định, đuổi vợ con về vùng kinh tế mới để dễ bề lung lạc tình cảm, tinh thần, cướp đoạt tài sản, con cái phải chịu cảnh ngu dốt, không được lên Đại học vì cái chủ nghĩa lý lịch phân biệt.

Khi đi tù về, tôi mới biết gia đình gặp nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần hơn cả sự suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên tôi vẫn thấy mình còn may mắn vì gia đình tuy túng thiếu nhưng vẫn nguyên vẹn, so với nhiều gia đình khác bị Cộng sản làm cho đổ vỡ tan hoang.

Trước đây vì cống hiến tất cả ngày giờ cho nhà thương và cho bệnh nhân, không mở phòng mạch riêng, tôi chỉ sống với đồng lương công chức thanh bạch. Cuối tháng lãnh được bao nhiêu tiền, tôi đem về đưa cho vợ để nuôi hai con còn nhỏ. Lương công chức không là bao. Phải biết tiết kiệm, gói ghém trong việc tiêu pha. Thỉnh thoảng có những phái đoàn từ thiện đến xin bệnh viện giúp đỡ trẻ mồ côi. Thông thường tôi tìm cách tránh né, vô phòng mổ làm việc để khỏi phải tiếp xúc phái đoàn với tư cách Tổng Quản Đốc. Tôi không muốn chi tiêu số tiền hạn hẹp của nhà thương do ban Hành chánh giữ để giúp cho những bệnh nhân nghèo khi xuất viện làm lộ phí trở về nguyên quán ở nơi xa. Khi nào không tránh được, tôi đã phải thành thật móc bóp cho họ xem. Tôi chỉ có bấy nhiêu tiền vừa lãnh. Đôi khi tôi chỉ có thể giúp đỡ một phần nhỏ tượng trưng trong số lương cố định của tôi, vì tôi còn phải để dành tiền mua sữa cho con tôi. Cũng may nhờ có vợ tôi dạy thêm đàn Dương Cầm nên cuộc sống gia đình cũng chưa đến độ thiếu trước hụt sau.

Nhưng kể từ ngày tôi rời gia đình để đi qua các trại tù, lương hàng tháng của tôi đã mất. Học trò của vợ tôi cũng thưa dần vì khó đến nhà được. Nhà công chức cho chúng tôi ở nằm trong khuôn viên nhà thương, cổng ra vào bây giờ có lính gác nghiêm ngặt. Có thể gia đình học trò cũng gặp khó khăn về tài chánh. Nhân viên trong Trung tâm thương cảnh gia đình vợ con tôi gặp khó khăn, nheo nhóc nhưng không giúp gì được, vì họ cũng nghèo, chỉ biết an ủi nâng đỡ tinh thần, chỉ dẫn cách thức cho vợ tôi vô Chợ Lớn mua hàng tạp hóa, sữa hộp, v. v… về trải ngoài đường trước cửa nhà bán kiếm tiền lẻ qua ngày.

Có bệnh nhân lén lút mang được một ít thịt heo từ lục tỉnh lên cho các con tôi, nhưng phải giấu cất kỹ lưỡng, lo lót tiền khi qua trạm kiểm soát Tân Hương-Mỹ Tho vì VC có chánh sách “ngăn sông cấm chợ” nên vấn đề vận chuyển thực phẩm lên thành phố quả là gian nan, vất vả.

Một hôm có người đi xích lô đạp đến nhà cho gia đình tôi 10kilo gạo. Đến cổng nhà thương bị Công an chận xét, hạch hỏi. Anh ta cởi phanh áo ngoài, chỉ vết sẹo dài từ sau lưng ra trước ngực và phân trần:

“Trước đây, tôi bị lao phổi nặng. May nhờ được Bác sĩ Cung mổ cứu sống, lành bệnh, đi làm việc trở lại được để nuôi vợ nuôi con. Bây giờ nghe nói ông đi tù về, gặp cảnh sống khó khăn, tôi đem biếu ông ít gạo gọi là đền ơn ông”.

Có một chiếc xe đạp đàn ông cũ của ai mang đến bỏ trước nhà nói tặng tôi để di chuyển. (Sau này sang Hoa Kỳ, tình cờ tôi được biết xe đó là của GS Nguyễn văn Trường, nguyên Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục.) Tôi về nhà thương làm việc lại trong phòng mổ đã chín tháng nhưng không được trả lương. Chỉ được cấp một giấy chứng nhận của BS Lê văn Tốt trong ban lãnh đạo của bệnh viện, với hàng chữ viết tay nắn nót “Anh Bác sĩ Nguyễn Duy Cung là Bác sĩ Khoa Ngoại, đã cộng tác tự nguyện không lương 9 tháng nay, coi như được thử thách qua thời gian”!.

Chân đau tôi phải chống nạng làm bằng nhánh ổi do bạn tù đốn cho tôi khi tôi còn ở Trảng Lớn. Tôi đi đứng khó khăn. Suốt ngày phải đứng mổ trên một chân trái như chim Flamengo bên xứ Kenya-Phi Châu. Còn chân đau thì co lại, gác lên trên cái ghế tròn nhỏ do anh Huỳnh văn Tỵ, Y tá trưởng phòng kê dùm phía sau. Ban ngày làm việc trong phòng mổ, chiều đến tôi trở thành bệnh nhân khu Nội Thương và Vật lý trị liệu. Tôi bị chứng Cao huyết áp và chân yếu do vấn đề suy dinh dưỡng trong các trại tù chỉ có cơm gạo mọt với muối và mắm ruốc loại xấu nhất được vứt bỏ ngoài bờ biển Vũng Tàu.

Sau mỗi lần mổ, tôi không được ngồi nghỉ ngơi một mình trong phòng riêng dành cho Bác sĩ Trưởng khoa như xưa, mà phải ngồi ngoài phòng họp có người qua lại, để dễ bề kiểm soát, trông chừng.

Thỉnh thoảng, sau khi mổ tôi nhận được một mẩu giấy nhỏ, ra lệnh đi trình diện ở những nơi thật là hắc ám, kín cổng cao tường, phòng ốc tối om, cán bộ Công an mặc quân phục cầu vai xanh, mang kính đen. Mỗi cuối tuần tôi phải đi trình diện ban An ninh khóm 6, phường 3, quận Bình Thạnh, Gia Định.

Có lần tôi được giấy báo đến trại Bạch Đằng, nhìn ra tượng Đức Trần Hưng Đạo đứng chỉ tay xuống sông mà dân chúng thường rỉ tai “Đức Thánh khuyên: Muốn sống hãy xuống nước mà đi”. Nơi này cổng sắt thật cao và nặng, lâu ngày rỉ sét, khi mở ra kêu thành tiếng to ken két. Tôi được đưa vô ngồi bên trong căn phòng tối om chờ đến 4 tiếng đồng hồ mới thấy một viên Thiếu tá đến. Ông ta chỉ hỏi vài câu chuyện bâng quơ rồi thả cho về.

Một buổi trưa khác, tôi lại được giấy đến trình diện Quận 3. Tôi cũng được đưa vô một phòng tối, gặp cán bộ đến chất vấn:

-“Ngày trước, anh được đề nghị đặc cách lên Trung tá, được bổ nhiệm làm Giảng sư trường Đại học Y Khoa, Tổng Quản Đốc Trung Tâm Thực Tập Y Khoa Gia Định, bệnh viện Nguyễn Văn Học, một cơ sở Y Tế lớn vào hàng nhất nhì trong Đô thành. Vậy nhà cửa, tiền bạc của anh như thế nào?”

Không cần suy nghĩ, tôi trả lời ngay:

– “Cấp bậc thật thụ sau cùng của tôi là Y sĩ Thiếu tá, nhà tôi đang ở trong bệnh viện là do Chánh phủ cấp. Về tiền bạc, tôi lãnh lương công chức, mỗi tháng phòng phát lương đưa bao nhiêu đựng trong bao thơ tôi đem về cho vợ tôi chi dụng. Chỉ nghe than là thiếu hụt. Có một điều tôi biết rõ nhất là từ ngày đi cải tạo về làm việc cho đến nay đã 9 tháng rồi mà nhà nước Cách mạng không trả cho tôi một đồng xu nào! Nhà thương trước đây, có cho gia đình tôi mượn 20 lít xăng để lo đám tang cho Ba tôi, khi tôi còn ở trong trại tù Xuân Lộc, tôi đã trả được 15 lít, chỉ còn thiếu 5 lít. Ông Chính ủy Ba Thiên của nhà thương có gặp tôi trong phòng mổ và có nói “Thôi coi như huề đi, trả bao nhiêu cũng đủ rồi”. Nhưng tôi đã cám ơn ông. Vì đó là xăng của nhà thương để chuyên chở bệnh nhân. Tôi có bổn phận thay mặt gia đình để trả cho dứt, tôi muốn trả lại bằng thứ xăng tốt, chứ không dám mua bừa bãi xăng bán ngoài lề đường trước nhà thương, thường pha thêm nước lạnh.”.

Tôi phẫn uất nhìn thẳng vào mặt tên cán bộ nói một hơi dài mà không cần xem thái độ nó ra sao, thú thiệt là tôi quá mệt mỏi trong từng ngày sống chung đụng với mấy tay CS ở đây, giữa bầu không khí nặng nề ngột ngạt. Trình diện xong tôi trở về nhà thương, tình cờ gặp Bác sĩ Giám đốc Trần Cửu Kiến nguyên là bạn của Bí thư Lê Duẫn. sau khi biết nội dung cuộc phỏng vấn của Q3, ông liền điện thoại lên Thành ủy và cho tôi được nghe cuộc đối thoại giữa cấp Thành và Quận 3:

“Đồng chí đã tìm sai đối tượng, anh Bác sĩ này đi làm việc buổi sáng, đưa tiền trả xe lam, người ta thối lại bao nhiêu cũng không để ý đếm xem đúng hay sai, đủ hay thiếu… ông ta không phải là thành phần tham nhũng bóc lột đâu. ”

Một buổi sáng khác tôi nhờ anh bạn Hoàng Văn Lộc chở dùm đi trình diện bằng Honda. Địa điểm là một biệt thự rộng lớn khít bên dinh Phó Tổng Thống cũ trên đường Công Lý. Đến đúng nơi ghi trong giấy, nhưng anh bạn tôi cố tình chạy luôn. Tới ngang dãy tiệm ăn đối diện Viện Pasteur, anh ngừng xe, kéo vô tiệm, mời tôi một tô phở lớn. “Ít lắm anh cũng có chút gì trong bụng”, đợi tôi ăn xong, anh bảo tôi trao hết giấy tờ tùy thân, để anh mang về nhà dùm. Thấy lính gác cổng nơi tôi đến trình diện, đặc biệt toàn là Công an mặc đồng phục nhà binh với cầu vai xanh, anh ngại tôi sẽ bị giữ đi học tập lại.

Hai người Công an vũ trang dẫn tôi qua một cái sân rộng, đến thềm nhà lớn bên trong, trình cho một sĩ quan cấp tá mang kính đen đứng chờ sẵn, để đưa tiếp tôi vô phòng họp. Chung quanh một cái bàn vuông thấp, đã có tám người đàn ông mặc thường phục đang ngồi, im lặng.

Ánh sáng lờ mờ, không nhìn thấy rõ mặt nhưng cũng có thể đoán là thành phần sĩ quan VNCH đi học tập cải tạo được thả về. Chủ tọa là một phụ nữ, bà luật sư Ngô Bá Thành. Tôi chỉ nghe tên chứ chưa bao giờ được biết bà trước. Có lẽ bà bị xuyển, vì hơi thở của bà có vẻ mệt, nghe rõ tiếng khò khè nho nhỏ. Trước mặt bà có một lọ thuốc viên trăng trắng. Đến trễ, tôi chỉ nghe bà hỏi:

“Các anh biết tại sao các anh được về sớm hay không?”.

Rồi tiếng bà tự trả lời:

“Vì các anh đã học tập tốt, lao động tốt”.

Được hỏi ý kiến, tôi thành thật cho biết tôi chuyển trại học tập bốn lần từ Trảng Lớn qua Xuân Lộc, đến Suối Máu về Sóng Thần. Lúc đầu khỏe mạnh, tôi còn khuân vác bao gạo nặng 5-60 kg được, nhưng lần lần yếu sức đi vì suy dinh dưỡng, chân đau đi đứng chậm chạp…

Còn lý do mà tôi không nói ra là tại sao tôi được tha về thì không chắc là tôi đã “giác ngộ cách mạng” hay lao động cải tạo tốt… Có lẽ họ cần tay nghề của tôi, lúc nào còn xài được thì cứ xài!

Và họ đã “xài” tôi khi có việc cần cứu cho tên cán bộ trẻ mới 39 tuổi, là một tay đặc công chuyên môn gài mìn chung quanh các địa đạo ở Củ Chi… Nhập viện ngày 11/9/76,với triệu chứng đau ngực, sốt và ho ra máu ; cao 1m 70, nặng 60 kilô, bệnh nhân còn đi đứng bình thường, nên sau cuộc Hội chẩn do BS Lê Văn Tốt Giám đốc mới của Trung Tâm triệu tập, thấy bề ngoài sức khỏe người bệnh trông còn tốt, ban lãnh đạo chưa dứt khoát trong việc nghe theo lời khuyên của giới chuyên môn dùng đến khoa Giải phẩu mà lại chủ trương… chờ đợi, đến khi bệnh nhân bị xuất huyết quá nhiều, tình trạng suy kiệt, như sợi chỉ mành treo chuông, mới cho tôi vô điều trị…

Lương tâm nghề nghiệp đã khiến tôi quên đi cảnh tù tội uất ức của mình do CS gây ra, tôi đã tận tình để trọn buổi sáng chủ nhật đứng mổ cho ông ta…và sau đó mỗi ngày đưa ông xuống phòng mổ để chăm sóc vết thương dài trên ngực. Gạch của phòng mổ trở nên đen xì do thuốc sát trùng Formaldehyde nhiễu xuống Nhờ chăm sóc đúng phương pháp, dùng đúng thuốc, thêm ăn uống bồi dưỡng,vết thương từ từ lành hẳn, bệnh nhân được xuất viện sau đó vài tháng. (Ngày về, khi đứng trước cổng Trung Tâm, ông xui xẻo bị một chiếc xe La Dalat thình lình trờ tới ủi, vì khỏe nên ông phản ứng nhanh bằng cách chống một tay nhảy lên ngồi gọn trên đầu xe thoát chết…) Thành ủy và đảng bộ trong nhà thương đến cám ơn tôi và đề nghị giúp đỡ tôi mua “ lò ga” để tiện dụng trong sinh hoạt gia đình. Nhưng tôi đã cám ơn và từ chối ơn huệ này … Tôi chỉ muốn cho CS biết rằng: “ Đó là lương tâm và trách nhiệm của các bác sĩ trong miền Nam từ trước đến nay. Chúng tôi chỉ dựa vào một phương châm để làm việc: “Nhìn vết thương người bệnh để chăm sóc chớ không nhìn cái áo khoác mặc bên ngoài…”

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng như những người bạn khác, tôi đã phải trải qua nhiều đớn đau và tủi nhục khi miền Nam sụp đổ. Cuộc đời tôi giống như một trái dưa bầm vập trong một đám rẫy bị côn trùng tàn phá, chỉ còn chút sinh lực để cống hiến cho cái xã hội mà tôi không hề được quyền lựa chọn.

Đến ngày 02 tháng tư năm 1977, tôi được “phục hồi quyền Công dân” đã mất đi từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi miền Nam thất thủ.

CS có những từ ngữ kỳ quặc khiến dân miền Nam cứ nhạo báng với nhau là sau ngày giải phóng mình bị mất nhiều thứ quá, trong đó “Mất quyền Công Dân” là điều nguy hiểm nhất và có ai lượm được cái quyền này xin cho lại…

Nhân viên trong phòng mổ cũng bơ phờ, vì vừa làm việc chuyên môn lại vừa đi lao động, thay phiên cuốc đất trồng khoai, trồng mì ở Long Thành. Thu hoạch không được bao nhiêu mà tiền mướn xe chuyên chở về Sài Gòn quá đắc, nên sản phẩm đành bỏ lại tại chỗ. Đây cũng là một chánh sách “cưởng bức lao động” đối với người thành thị, không đi thì bị kiểm điểm mà đi thì “cây cuốc cong thì mình mong nó gãy, cây cuốc gãy thì mình khỏi lao động…”

Gần cuối năm 1978, tôi được lệnh chuẩn bị để tham gia chiến trường Campuchia, nhưng tôi khỏi phải đi vì có sự tranh chấp quyền lực giữa những đảng viên trong bệnh viện. Theo lệnh của ông Chính ủy Ba Thiên, Bác sĩ Tư Lân là đảng viên tập kết, nên phải đi trước để làm gương cho dân. Nhưng rồi tôi lại được một cái lệnh khác, thu xếp để đi ra ngoài Bắc. Việc làm của CS luôn luôn bí mật. Không biết được lý do. Gởi tôi đi tham quan miền Bắc hay đưa tôi ra giam giữ trở lại trong một miền biên cương Cao Bắc Lạng nào đó, chung với sĩ quan cùng trại tù Suối Máu đã được đưa đi trước đây.

Tôi có hai người anh cô cậu cấp Đại tá QLVNCH đã bị đưa ra Bắc tháng 6 năm 1975 và đã chết trong một trại giam nào đó ngoài biên giới Việt Hoa.

Lúc còn đang hoang mang lo ngại bị vào tù trở lại thì một chuyện may mắn bất ngờ khác lại xảy đến cho tôi. Có một cán bộ Y tế cao cấp, một bác sĩ tốt nghiệp Liên Xô về, nằm chữa bệnh trong nhà thương Chợ Rẫy. Ông có một cái bướu nhỏ bất thường nằm giữa thùy phổi phải. Tôi được một giới chức Sở Y tế chở vô bệnh viện Chợ Rẫy để hội chẩn. Trong buổi họp, người có tuổi đảng cao nhất là Bác sĩ Giám đốc viện Ung bướu tên Nguyễn Văn Trương. Ông cũng là một bác sĩ được huấn luyện theo chương trình Y Khoa Pháp trước đây. Với tiếng nói chung quyết của một người có tuổi đảng cao nhất, ông đồng ý với những lập luận khoa học của tôi về phương pháp chẩn đoán cũng như về cách thức điều trị.

Bệnh nhân được chuyển sang Bệnh viện Hồng Bàng để đặt ống thông khí quản, lấy chất trong cuống phổi làm sinh thiết, và làm tổng kết chức năng hô hấp v. v… trước khi quyết định giải phẫu. Người bệnh cũng viết cho tôi một bức thư nhỏ bằng bàn tay, lời lẽ rất cảm động, nhờ người nhà của bác sĩ Nguyễn Anh Tài trao lại cho tôi vào một buổi tối:

“Tôi không biết anh nhưng có nghe nói anh có chuyên môn về Giải phẫu phổi. Tôi yêu cầu anh vô Bệnh viện Chợ Rẫy để mổ và cứu vớt đời tôi, vì tôi là một Phó tiến sĩ nhưng tôi không thể giao sinh mạng của tôi cho những người sắp mổ cho tôi cũng là Phó tiến sĩ”.

Mặc dù vậy, đến ngày mổ tôi cũng không được phép đến nhà thương Chợ Rẫy đã trực thuộc ngoài Bắc. Trong hồ sơ bệnh lý của bệnh nhân, ông Bác sĩ Giám đốc Chợ Rẫy Nguyễn Văn Ánh có ghi rõ:

Không để cho Bác sĩ Nguyễn Duy Cung vô mổ. Làm như vậy là làm “giảm uy tín của Cách mạng”.

Không dè người bệnh có thân thế mạnh, nên đã từ chối không để cho cán bộ trong bệnh viện Chợ Rẫy mổ, mà được chuyển ra Hà Nội bằng máy bay theo lệnh của Bác sĩ Cẩn-Tổng trưởng Y Tế ngoài Bắc. Một chuyện lạ lùng kèm theo. Việc chuyển tôi ra ngoài Bắc cũng được đình hoãn lại, vì theo lời người anh ruột của bệnh nhân đã đến Bệnh viện Nguyễn Văn Học cho tôi biết:

“đã chuyển bệnh nhân ra Bắc mà còn chở tôi cùng đi chung, sẽ vô tình tạo ra một hiểu lầm rất lớn: dân chúng trong Nam cho rằng ngoài Bắc mời tôi ra Hà Nội để mổ. Như vậy là giảm uy tín của Đảng và Nhà nước”.

Đó là điều Cách mạng muốn tránh. Cũng nhờ trong nội bộ VC có sự tranh chấp như vậy mà tôi thoát được nhiều chuyện rắc rối xảy ra.

Hai năm sau, vào khoảng tháng tám năm 1978, tình cờ có một Cán bộ MTGPMN tạt ngang nhà thương thăm tôi khi ông đang trên đường ra mặt trận Campuchia. Ông ta có vẽ chân tình khi bộc lộ:

“Trước kia anh có giải phẫu để cứu mạng cho một người thân trong gia đình của chúng tôi. Nên hôm nay chúng tôi muốn đến đây để trả ơn lại cho anh. Chúng tôi có theo dõi hoạt động của anh từ ngày anh đi học tập cải tạo về. Chúng tôi cũng nghe dư luận nói về cảnh nhân viên trong nhà thương ra sân đón anh. Anh đang ở trong thế nhân dân, nên bây giờ người ta chưa làm gì được anh… Nhưng anh nên thận trọng vì một ngày nào đó, với nhiều phương cách, người ta sẽ cố gắng tìm dùm cho anh một cái lỗi nhỏ để hại anh…

Chúng tôi cũng biết chuyện anh không được vô nhà thương Chợ Rẫy để mổ cho một Cán bộ Y tế cao cấp có một cái bướu trong phổi. Anh đừng lấy chuyện không mổ theo lời yêu cầu của bệnh nhân mà cảm thấy ái ngại, không yên. Trong hoàn cảnh này không ai trách anh cả. Còn việc người ta không cho anh mổ, đó là một điều may mắn vô cùng cho anh, vì dù anh có đứng mổ, dù anh chỉ đứng phụ mổ, hay dù anh chỉ đứng cho có mặt trong khi mổ, nếu có điều chi sơ suất xảy ra không tốt cho bệnh nhân, anh đều chết. Nếu có phương tiện an toàn để ra nước ngoài, thì anh nên đi, nhưng phải tuyệt đối cẩn thận vì người ta sẽ gài bẫy để bắt lại anh”.

  1. Nguyễn Duy Cung * Huu Nguyen Pham

Chuyện vị thư sinh nghèo

Xưa kia có một vị thư sinh nghèo, sống bằng nghề viết chữ thuê cho người khác. Có một lần gần đến tết âm lịch, vì kiếm được chút tiền từ việc viết câu đối cho người ta nên vị thư sinh này đã mua một con gà trống về giao cho vợ.

Lúc vợ anh ta đang đun nước nóng để thịt gà, thì một người đầy tớ của nhà hàng xóm vội vàng chạy tới và nói: “Vợ chồng nhà này nhanh thật đấy, mới thoáng cái mà đã bắt con gà nhà ta rồi”. Bà ta nhấc con gà lên rồi mang đi, người vợ này cũng không nói một câu nào.

Buổi tối người chồng trở về nhà, hỏi người vợ: “Sao lại không làm thịt gà vậy?” Người vợ trả lời: “Đều là tại thiếp quá ngu ngốc, gà không giết được mà còn làm nó bay mất, thật sự xin lỗi chàng!” Người chồng nói: “Cũng là tại ta kém cỏi, nếu có tiền mua thịt lợn thì sẽ không xảy ra việc này.”

Sáng sớm ngày đầu tiên của năm mới, người hàng xóm đến nhà vợ chồng thư sinh nghèo này chúc Tết, còn nói với vị thư sinh rằng: “Cậu là người đại nhân đại nghĩa, sau này chắc chắn có tiền đồ tốt đẹp. Năm nay kinh thành tổ chức thi, ta nghĩ cậu nên đi dự thi đi.”

Vị thư sinh mặt đỏ ửng rồi trả lời: “Nói ra sợ ngài chê cười chứ, nhà tôi đến miếng ăn còn khó khăn, nói gì đến tiền làm lộ phí vào kinh dự thi?”

Người hàng xóm nói: “Ta biết điều này, nhưng mà ta sẵn sàng cho cậu mượn tiền, thứ nhất không cần hạn trả nợ, thứ hai không cần trả lãi. Ta thực sự cảm thấy cậu sau này có phúc lớn.” Ông ta vừa nói dứt lời liền cáo từ ra về.

Người hàng xóm đi rồi, vị thư sinh này hết sức băn khoăn khó hiểu trước những lời nói kia của ông ta. Người vợ cười nói: “Xem ra con gà của nhà hàng xóm chắc chắn là đã được tìm thấy rồi!” Người chồng nghe xong càng không hiểu gì, người vợ nói tiếp: “Hôm qua nhà hàng xóm sang lấy con gà nhà mình về, thiếp sợ chàng trở về nhà sẽ nổi giận, như thế sẽ khiến nhà người ta vừa sang năm mới đã gặp chuyện không tốt và nhà mình cũng vậy, cho nên thiếp mới nói là nó đã bay đi mất.” Người chồng nghe xong đã hiểu rõ tất cả, từ trong lòng cảm thấy bội phục tấm lòng nhân từ độ lượng của người vợ.

Hai vợ chồng họ đang nói chuyện thì thấy người đầy tớ của nhà hàng xóm đem hai trăm lượng bạc sang đưa cho hai vợ chồng nói là tiền ông chủ bảo mang sang để cho thư sinh vào kinh ứng thí . Người đầy tớ cũng xin lỗi hai vợ chồng vị thư sinh : “Tôi thực sự xin lỗi, hôm qua tôi đã nhận sai gà nhà hai người. Tối hôm qua ông chủ tôi đã tìm được gà nhà tôi rồi, lúc đó chúng tôi mới biết là đã lấy nhầm gà nhà hai người, thế mà hai người lại không có chút động tĩnh nào cả. Ông chủ tôi nói: “Con người rộng lượng như vậy, ngày sau tất có tiền đồ, vì thế trong tâm ông ấy rất bội phục thư sinh!” Vị thư sinh đến lúc này đã hết sức minh bạch, nguyên do tất cả là nhờ vào lòng nhân từ của vợ mình.

Thế là vị thư sinh nhận tiền làm lộ phí vào kinh dự thi và quả nhiên đã thi đỗ trạng nguyên.

NGƯỜI MẸ KHÔNG QUEN BIẾT

Dao Van Ba  is with  Nguyễn Trung Tính  and  Bac Tran

Từ email của Bacvtran, mời các bạn đọc..cho vui ,

NGƯỜI MẸ KHÔNG QUEN BIẾT

Nguyễn Thị Thanh Dương

Inline image

Người đàn bà lớn tuổi, nhếch nhác, tay cầm chiếc nón lá tay xách cái ba lô bộ đội màu đã cũ. Bà ghé vào một nhà hỏi thăm:

– Cô ơi cho tôi hỏi nhà ông bà Minh Vũ, họ đi đâu cả rồi?

Nhà ông Minh Vũ sát nách nhà cô hàng xóm, sáng nay ông bà đi vắng nên cổng đã khoá. Cô nhìn qua cách ăn mặc người đàn bà và nghe giọng nói cũng đoán được:

– Bác từ ngoài Bắc vào thăm ông bà Minh Vũ hả, ông bà vừa đi vắng chốc nữa mới về.

– Ôi, thế thì tôi phải đợi thôi… tôi đáp tàu hỏa từ bắc vào đây cô ạ.

– Vậy thì mời bác vào nhà cháu ngồi chơi đợi ông bà Minh Vũ về.

Cô rót một ly nước trà mời bà khách của nhà hàng xóm. Bà khách bắt chuyện:

– Cô ở đây lâu chưa? Ý tôi là cô hàng xóm với ông bà Minh Vũ lâu chưa?

– Lâu lắm rồi bác, cháu chơi với Minh Tâm con út ông bà Minh Vũ từ ngày còn bé đến giờ. Tình hàng xóm giữa bố mẹ cháu và ông bà Minh Vũ rất thân thiết…

Bà khách hỏi lại:

– Thế thằng Minh Tâm cũng ở đây với bố mẹ từ ngày ấy đến giờ nhỉ?

– Dĩ nhiên rồi, hai ông bà Minh Vũ đều thương yêu và cưng chìu Minh Tâm lắm, chưa ai sung sướng bằng Minh Tâm, con út mà cứ như con một ấy..

Người đàn bà thoáng đăm chiêu im lặng, cô hàng xóm chẳng biết nói gì thêm

– Cô thấy thằng Minh Tâm thế nào? Nó giống bố hay mẹ?

– Cháu thấy Minh Tâm giống ông Minh Vũ ở cái cao ráo.

Bà khách nửa đùa nửa thật:

– Thế cô thử nhìn xem Minh Tâm có giống tôi tí nào không?

Bây giờ cô hàng xóm mới nhìn người đàn bà kỹ hơn, Minh Tâm giống bà ở đôi mắt mí lót và cái miệng hơi rộng nhưng không kém phần duyên dáng dễ mến. Bà này tuổi trẻ chắc có một thời nhan sắc:

– Vâng, Minh Tâm có vài nét giống bác. Vậy bác là họ hàng về phía ông hay bà Minh Vũ?

Bà khách Bắc lấp lửng:

– Họ hàng xa ấy mà…

Ông bà Minh Vũ về đến nhà thế là người đàn bà vội cám ơn và từ giã cô hàng xóm để sang bên ấy… Ông bà Minh Vũ có 3 người con, một trai một gái lớn đã lập gia đình ở riêng, cả hai sự nghiệp vững vàng và giàu có, chỉ còn hai ông bà với cậu con trai út Minh Tâm. Bà ở nhà quán xuyến một cửa hàng tạp hóa ngay gian nhà trước, ông làm công chức nay đã nghỉ việc, kinh tế gia đình khá giả, cậu út tha hồ được bố mẹ cưng chìu. Cậu út cũng thành đạt như anh chị, Minh Tâm tốt nghiệp bác sĩ y khoa xin được làm ngay tại bệnh viện đa khoa Bà Chiểu chẳng phải xa cha mẹ ngày nào… Bà Minh Vũ thường hãnh diện nói với hàng xóm:

– Thằng Minh Tâm có hiếu lắm, nó bảo sẽ ở với bố mẹ cả đời, cô nào lấy nó phải chấp nhận điều kiện ấy.

Minh Tâm đẹp trai học giỏi như thế, cha mẹ nhà cao cửa rộng như thế thì cô nào dám từ chối điều kiện thường tình ấy.. Nghe đâu Minh Tâm đang yêu một cô gái là ái nữ một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng ở Sài Gòn. Chuyện nhà ông bà Minh Vũ đẹp toàn vẹn như trong tiểu thuyết. Cả ông bà Minh Vũ đều ngạc nhiên khi thấy người khách lạ bước vào nhà. Vài phút sau ông Minh Vũ vẫn còn ngờ ngợ:

– Có phải bà là… bà Thi?

Bà Minh Vũ đã nhận ra:

– Chào bà Thi, mời bà vào nhà…

Bà khách chậm rãi lên tiếng:

– Vâng, tôi xin chào hai ông bà…

Bà khách kín đáo ngắm nghía quanh nhà, ngôi nhà cao ba tầng lúc nãy đã làm bà choáng bây giờ vào bên trong nội thất trang trí lịch sự sang trọng càng làm bà khách choáng thêm. Bà cay đắng nghĩ thầm: “Sao mà số họ cứ mãi giàu có sung sướng thế nhỉ…”

Bà Minh Vũ hỏi:

– Chắc bà vào Nam thăm người thân họ hàng và ghé thăm chúng tôi luôn thể, chúng tôi mừng thấy bà vẫn khỏe mạnh.

– Tôi chẳng có tiền bạc và thời gian đi vào tận đây thăm họ hàng nào cả..

Bà khách buông câu nói lửng lơ dường như để cho chủ nhà thấm thía rồi mới nói thêm:

– Nghe người làng vào Sài Gòn về kể ông bà khá giả, thằng Minh Tâm làm bác sĩ tôi mừng lắm, tôi không ngờ cuộc đời tôi lại có được người con tài giỏi như thế nên tôi mới lặn lội đường xa vào thăm con để xem mặt mũi nó ra sao…

Ông bà Minh Vũ cùng nhìn nhau, cùng một câu hỏi trong đầu không biết bà Thi vào thăm con hay vì mục đích gì qua câu nói vừa rồi… Khách bắc vào thăm nhà ông bà Minh Vũ như những nhà khác sau năm 1975, bà ở tại nhà ông bà Minh Vũ vì không có họ hàng nào khác, họ tiếp bà như một người làng và hơn thế nữa như một người thân trong họ.

Ông Minh Vũ xưa là công tử con nhà giàu nhất làng, học giỏi nhưng cũng giỏi ăn chơi bay bướm, cha mẹ cưới cho ông một bà vợ, con nhà gia giáo hiền thục để kềm giữ bước chân hoang đàng của ông nhưng không hiệu quả gì. Ăn ở với vợ được hai mặt con, ông Minh Vũ vẫn chứng nào tật ấy, ông mê đánh bạc và mê đàn bà, ông Minh Vũ đã gặp bà Thi trong một chiếu bạc, hai người kề vai tựa má nhau trong chiếu bạc mà nên tình.. Mối tình đắm say cả làng đều biết.

Bà Thi có thai đẻ ra thằng con trai, bà một mực bắt ông Minh Vũ cưới bà làm thê thiếp, nhưng cha mẹ ông Minh Vũ đời nào chấp thuận một người đàn bà bị chồng bỏ vì ăn chơi bạt mạng rồi lang chạ với hết người này đến người kia về làm dâu con trong nhà mình dù là ngôi vị dâu thứ, không chính thức. Thế là bà Thi đem đứa con còn đỏ hỏn đến giao cho ông Minh Vũ, bà Minh Vũ đã giúp chồng, bà chấp nhận nuôi đứa trẻ thơ vô tội, bà cảm kích tình cảnh đứa trẻ bị mẹ bạc đãi, đã xem con chồng như con chính mình đẻ ra.

Năm 1954 ông bà Minh Vũ và các con di cư vào Nam. Bà Thi biết trước, biết mình sẽ mất đứa con trai nhưng bà không phản ứng gì. Thế mà hôm nay bà Thi lại vào Nam tìm thăm đứa con bà đã bỏ rơi. Khi Minh Tâm đi làm về bà Minh Vũ giới thiệu bà khách với con:

– Đây là dì Thi họ hàng bên mẹ. Dì Thi từ Bắc vào thăm gia đình chúng ta.

Minh Tâm đã quen với những khách từ bắc vào thăm gia đình mình, nào người thân bên họ cha lại người thân bên họ mẹ nên chàng vui vẻ nhã nhặn:

– Cháu chào dì Thi đến chơi

Minh Tâm vô tư bao nhiêu thì bà Minh Vũ lo âu bấy nhiêu. Bà Minh Vũ cứ luẩn quẩn bên con, bà sợ sẽ mất con, bà Thi sẽ làm điều gì đó với thằng Minh Tâm của bà. Ông Minh Vũ bây giờ không còn là ông Minh Vũ ngày xưa nữa, ông đã là người chồng người cha tốt. Gặp lại người xưa bệ rạc, ông cảm thương dù trong thâm tâm ông vẫn oán trách bà Thi trong quá khứ đã lợi dụng đứa con làm tiền ông và đã phủi tay ruồng bỏ đứa con không thương tiếc. Mỗi buổi sáng ông bà Minh Vũ đều đưa bà Thi ra hàng quán ăn điểm tâm, tiếp đãi lịch sự nay món này mai món khác. Sáng nay sau khi đi ăn phở ở đầu phố về thì cả ba người lại ngồi vào bàn hàn huyên chuyện trò, bà Thi đã kể chuyện đời mình:

– Cái số tôi lận đận chẳng ra gì, sau dạo chia tay ông Minh Vũ thì thời cuộc đến, giá mà tôi cũng di cư vào Nam như ông bà thì đỡ khổ thân tôi. Sau đó tôi lấy chồng, trời quả báo hay sao ấy, thằng chồng này dữ dằn vũ phu, tôi chán nó mà không làm gì được nó, không dám bỏ nó, vợ chồng với 3 đứa con sống nghèo khổ trong căn nhà tềnh toàng, vất vả cực nhọc, ruộng nương mà cũng chỉ ngô khoai vào bụng.

Bà Minh Vũ bùi ngùi:

– Thế rồi các cháu khôn lớn có khá hơn không?

– Tài thánh gì má khá lên được hở bà! 3 đứa con tôi có đứa nào được đi học đến cấp hai đâu, chữ nghĩa chỉ một rúm thì chỉ có đi làm ruộng, làm thuê, đời cha mẹ nghèo đời con cháu cũng nghèo theo, căn nhà vẫn nghèo xấu nhất làng…

Bà Thi than thở xong và thay đổi ngay thái độ:

– Nhưng hôm nay tôi đến đây không để nhận những lời an ủi suông của ông bà đâu nhé. Tôi có việc đấy…

Bà Minh Vũ giật mình:

– Bà nói thế là ý gì?

– Tôi chẳng có nhiều thì giờ mà ở đây quanh co, nói toạc ra là tôi cần ông bà… giúp đỡ một món tiền về làm vốn…

Ông Minh Vũ nghiêm nét mặt:

– Bà muốn gì? Bà đang làm tiền chúng tôi đấy hả?

Bà Thi lạnh lùng:

– Ông bà có tất cả những gì mà cả đời tôi không có, hạnh phúc và tiền bạc, thì cũng nên chia cho tôi hưởng chút ít phước đức của ông bà chứ. Hãy đưa tôi một món tiền thì không đời nào thằng Minh Tâm cũng như hàng xóm láng giềng của ông bà biết nó là đứa con già nhân nghĩa non vợ chồng trên chiếu bạc thâu đêm của tôi và ông Minh Vũ. Minh Tâm vẫn mãi là con yêu quý của bà Minh Vũ và tôi mãi là bà dì họ như bà Minh Vũ đã giới thiệu.

Ông Minh Vũ tức giận:

– Bà đã bỏ rơi nó, đã tống của nợ cho tôi, nếu không có nhà tôi thì tôi không biết xoay sở ra sao. Vậy mà hôm nay …

Bà Minh Vũ ngắt lời chồng:

– Kìa ông, chuyện cũ đã qua bao nhiêu năm rồi…

– Nhưng nghĩ lại tôi vẫn còn hận lắm…

Bà Minh Vũ suy nghĩ một lúc lâu rồi ôn tồn nói với bà Thi:

– Tiền bạc là mồ hôi nước mắt của chúng tôi, nhưng tôi đồng ý, sẽ bàn với nhà tôi đưa bà một món tiền, trước xem như giúp đỡ hoàn cảnh nghèo khó gia đình bà, sau là gia đình tôi đang êm ấm không bị xáo trộn, tôi không muốn thằng Minh Tâm bị cú “sốc”, bị tổn thương. Tội nghiệp nó.

Bà Thi hả hê:

– Vậy ông bà quyết định nhanh đi. Khi có tiền trong tay tôi sẽ rời khỏi nhà ra ga xe lửa về bắc ngay và hứa không bao giờ trở lại. Tôi đã ở đây ăn hại nhà ông bà mấy ngày, ông bà tiếp đãi tử tế lắm tôi cám ơn.

Bỗng Minh Tâm xuất hiện, chàng đang từ thang lầu bước xuống làm ông bà Minh Vũ và bà Thi cùng giật mình sửng sốt:

– Con chào bố mẹ, chào… dì Thi..

Bà Minh Vũ lắp bắp:

– Kìa con… con… chưa đi làm sao?

– Vâng, sáng nay con mệt nên nghỉ ở nhà…

Bà Minh Vũ càng bối rối và lo lắng:

– Mẹ sơ ý quá cứ tưởng con đã đi làm. Thế con… con… đã nghe những gì rồi?

– Tình cờ khi con vừa bước xuống vài bậc thang lầu nghe cha mẹ và dì Thi nói chuyện con càng tò mò nghe thêm và hiểu hết câu chuyện.

Không ai bảo ai, cả ông bà Minh Vũ và bà Thi cùng nín lặng chờ đợi Minh Tâm nói tiếp, chàng hướng về phía bà Thi:

– Thưa dì, tôi xin lỗi phải gọi thế dù bây giờ tôi đã biết dì là ai, nhưng tôi khó có thể gọi dì là mẹ, khi bỗng dưng một người mẹ không quen biết xuất hiện đã làm tôi ngỡ ngàng và càng làm tôi ngỡ ngàng đau đớn, khi người mẹ ấy đem tôi ra làm vật đổi chác bằng tiền. Ngày xưa dì còn trẻ, hư hỏng và nông nỗi bỏ rơi tôi, hôm nay dì đã bỏ rơi đứa con của dì thêm một lần nữa, vô tâm hơn, tàn nhẫn hơn…

Chàng xúc động nghẹn lời, mãi mới nói tiếp được:

– Bây giờ dì có ra ngoài đường hét to lên cho cả khu phố hay cả thế giới này biết tôi là đứa con nhân tình nhân ngãi của dì với cha tôi ngày xưa cũng không làm tôi xấu hổ hay đau đớn thêm nữa.

Minh Tâm lấy lại bình tĩnh hơn:

– Nhưng thưa dì, tôi vẫn thương cảm cảnh ngộ cuộc đời của dì. Ngoài bố mẹ tôi, tôi cũng sẽ giúp đỡ dì một món tiền để dì sửa chữa lại căn nhà.

Chàng đi lên lầu lấy tiền và mang xuống đưa cho bà Minh Vũ:

– Mẹ đưa số tiền này cho dì Thi giùm con. Bây giờ con phải đi làm, còn hơn ở nhà con sẽ buồn thêm và mệt mỏi thêm.

Minh Tâm quay qua bà Thi:

– Chào dì. Chúc dì về nhà bình an.

Bà Minh Vũ gom số tiền của ông bà và Minh Tâm, gói mảnh giấy báo và bỏ vào bịch ni lông cột lại cẩn thận trước khi trao tận tay bà Thi. Ngoài món tiền, bà Minh Vũ còn mua mấy bộ quần áo mới làm quà cho con cháu bà Thi. Cái ba lô cũ của bà Thi lúc mới đến lèo tèo vài bộ quần áo cũ nay đã căng đầy lại thêm một túi xách đầy quà của chủ nhà. Ăn bữa cơm trưa vội vã xong, bà Thi giã từ ra về.

Khi bà Minh Vũ vào dọn dẹp lại căn phòng của bà Thi thì thấy gói tiền bọc trong bao ni lông vẫn nằm giữa giường. Tưởng bà Thi bỏ quên, nhưng bên cạnh là một mẩu giấy ghi vài hàng:

“Tôi xấu hổ quá, có lẽ cuộc sống nghèo khổ và cái xã hội thiếu tình người bao nhiêu năm nay đã biến tôi thành con người xấu xa đê tiện. Tôi ghen tức khi thấy ông bà hạnh phúc sung sướng, tôi tham lam mờ mắt khi thấy ông bà nhà cao cửa rộng.

Minh Tâm, con cho phép mẹ được một lần xưng hô với con thế này. Con đã được ông bà Minh Vũ nuôi dạy thành người tử tế, con tử tế gấp trăm, gấp nghìn lần mẹ. Hãy tha lỗi cho mẹ.

Tôi để lại món tiền này, vì tôi đã nhận món quà khác, một món quà vô giá từ ông bà Minh Vũ và Minh Tâm. Đó là lòng tử tế, bao dung.”

Nguyễn Thị Thanh Dương

Have a Blessed day,

“CẦU XIN SẼ ĐƯỢC…”  ai đã từng ở Pleiku…

Sống sót tù Việt cộng tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù Vit Cộng chắc còn thua một bậc…

“CẦU XIN SẼ ĐƯỢC…”  ai đã từng ở Pleiku…

“…Ngày 22 tháng mười hai năm 1976 tôi bước chân ra khỏi nhà tù Pleiku. Tôi bị bắt ở Kontum cách đó khoảng bảy tháng. Từ Saigon đi xe đò lên cái tỉnh tận cùng biên giới ở phía Tây, chưa kịp nằm nóng lưng công an đã đến thăm hỏi, còng tay tống vào tù một tháng trời chờ xe đưa về trại giam tỉnh Pleiku. Hồi đó thời sinh viên khờ khạo, chưa bao giờ rời nơi sinh ra và lớn lên ở Saigon, chuyến đi Kontum là một mạo hiểm lớn. Vì quá nhiều lần toan tính vượt biên bằng tàu thất bại tôi quyết định thử thời vận lần nữa bằng đường bộ. Đâu có biết rằng những ngày vừa sau 30/4/ 75 VC chăng lưới tình báo nhân dân ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ngơ ngơ ngáo ngáo như tôi khi đến một địa phương xa lạ chắc chắn sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của an ninh.

Lục soát ba-lô tôi đem theo, bọn chúng thấy một cuộn dây đi rừng và tai hại hơn nữa, một viên đạn colt 45 nằm lẫn lộn trong mớ quần áo,bèn đẩy tôi vào ngay biệt giam. May cho tôi ngoại trừ tang vật hiện trường chúng không tìm được gì khác. Tôi vẫn còn giữ tấm thẻ sinh viên đại học Khoa Học Saigon và thẻ căn cước nên chúng không biết khép tôi vào tội gì . Sau này tôi mới biết với VC, tội tình nghi nặng hơn bất cứ tội nào khác. Ăn cắp ăn trộm còn có án về, tình nghi thì “mút chỉ cà tha”. Ba năm là chuyện nhỏ, có người đã phải “học tập” trên chục năm trời ngày trở về ba má vợ con nhìn không ra.

Khoảng một tháng sau khi tạm giam ở Kontum, CA chuyển tôi về Pleiku. Địa ngục trần gian bắt đầu hiện ra trước mặt tôi. Chỉ có ba phòng sức chứa khoảng 150 người, nay bị dồn nhét hơn ba trăm . Một biệt giam gồm khoảng trên mười hộc (dành cho 10 người) chất đến ba chục mạng.Lần đầu tiên ở tù tôi chỉ muốn tự tử. Chung quanh tôi đa số là Fulro cắc-kè-bông với vết thẹo ghẻ lở phủ kín người. Cấp bậc nhỏ nhất là thằng Giu Se Mới, khoảng 20 tuổi đại úy Fulro. Tôi nằm chung hộc với nó và thẳng Y Nguoun, thiếu tá, bị bắt vì chỉ huy một đại đội tấn công đồn Công An quân số khoảng mười bốn mạng. Đánh đấm thế nào mà thiếu tá Y Nguoun bị bắt sống, lính lác chạy tán loạn, đồn CA thì vẫn còn nguyên.

Đó là lần đầu tiên tôi biết con rận. Sáng sớm thức dậy nhìn thấy một giọt máu nhỏ bằng đầu kim đi chuyển trên cánh tay, tôi kinh ngạc không biết là cái gì. Giu Se Mới chụp ngay lấy bỏ vào miệng cắn cái cóc . Nó còn khuyến khích tôi “ thử đi, ngọt lắm”. Ông nội tôi cũng không dám thử.

Mỗi ngày, chúng tôi được múc nước vào rửa ráy buồng giam một lần, ai có nhiệm vụ trực hôm đó đuoc hưởng thêm phần cơm cháy. Một thằng giết người (dân tộc Kinh) đang chờ ngày ra tòa vẫn dành giựt nhiệm vụ này với Thượng để có thêm cơm ăn. Ỷ mình Việt Nam chính cống nó ăn hiếp bọn Thượng khờ khạo (hay giả khờ qua ải). Thùng đựng nước là một thùng đạn lớn dùng chứa đủ thứ từ rác rưởi, ỉa đái, khạc nhổ. Sáng sớm hai thằng khiêng đổ ra đống rác rồi súc sơ sài bằng nước giếng, sau đó múc nước cũng từ giếng vào tắm rửa. Có lần tôi còn thấy rõ cục đàm của thằng nào nổi lều bều trên mặt. Không ăn nhằm gì hết với tù biệt giam vì cắc-kè-bông không sợ lở, chỉ việc vớt bỏ rồi thoải mái mà xối lên người, kỳ cọ với xà bông cục . Dân Thượng địa phương có thăm nuôi , sáu thằng Việt Nam chúng tôi đói khát muôn năm.

Đó là lý do tại sao sạch sẽ tắm rửa như vậy mà anh Fulro nào cũng thành cắc-kè bông. Thăm nuôi nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng lại không ánh nắng mặt trời (biệt giam bị cấm ra khỏi khu vực buồng tối), vệ sinh tệ hại, không bị ghẻ đầy người mới là chuyện lạ.

Cuối cùng tôi chuyển đến phòng ngoài. Ra rồi tôi lại nhớ thời gian nằm “hộc “. Dù sao thỉnh thoảng cũng được chia cho vài hơi thuốc rê quấn giấy bọc lương khô Trung Cộng. Hút cháy cổ mà vẫn ngon, hoặc chí ít cũng nếm được mẩu bánh đậu xanh (lương khô Tàu) lớn bằng đầu ngón tay cái.

Tôi biết ơn Giu Se Mới đã “bố thí” vì trong biệt giam hai phong lương khô cộng với sáu điếu thuốc rê đổi được áo jacket lính Dù mặc rất ấm với khí hậu miền núi. “Thấy cái mặt mày khờ, tao tội nghiệp”. Không có sự tội nghiệp của đại úy Giu Se Mới suốt đời tôi cũng chẳng biết hương vị “ration C” Tàu nó như thế nào…

Nhất y nhất quởn từ ngày bước lên chiếc xe đò định mệnh vốn liếng đi theo tôi cho tới ngày rời khỏi nhà tù chỉ bấy nhiêu để chống chọi cái rét khủng khiếp mùa đông .

Tôi bắt đầu có ghẻ, ghẻ mọc khắp nơi trên người bất kể chỗ kín hay hở. Ghẻ và đói là hai kẻ thù khủng khiếp hành hạ những thằng tù ngày cũng như đêm. Ghẻ và đói lại tàn ác hơn với những thằng tù “xa xứ” quê quán ở tận Saigon như tôi. Tù Saigon đông lắm, nhưng đường xá xa xôi nhất là vào những ngày mới bị VC chiếm đóng miền Nam, phương tiện giao thông nghèo nàn, chẳng thằng nào có thăm nuôi. Bao nhiêu quần áo mang theo đã đổi lấy lương khô, thuốc rê, còn lại thì đem ra quấn hết vào người. Tù khổ nhưng rận rệp lại mừng vì càng ngày càng mập mạp, chỗ trú ẩn ấm cúng sau mấy lớp quần áo.

Buổi sáng tù được ra tắm nắng mỗi thằng tự mài lấy cho mình một cây kim từ những miếng sắt vụn kiếm được. Có hai lợi ích khi sở hữu một cây kim: để may lại bộ đồ rách (chỉ là những sợi nilon rút ra từ bao tải) và để bắt con ghẻ. Nhiều thằng tù không ngồi được vì đít đầy ghẻ mủ, chổng mông cho một thằng khác chà sát xịt máu rồi rửa bằng nước muối. Đó là cách trị ghẻ duy nhất tù nghĩ ra được.

(Sau 30/4/75, ở tù là chuyện dĩ nhiên đối với tất cả những ai sinh ra và sống dưới chế độ VNCH. Con nít ba tuổi còn phải đi tù với mẹ, nhiều bà lặc lè cái bụng cũng ngồi vài tháng vì tội vượt biên hoặc buôn bán lặt vặt. Hễ là người miền Nam (không theo VC) thì phải “học tập cải tạo”, đó là quy luật.)

Một đêm lúc còn trong hộc, bỗng dưng tôi thức dậy vào khoảng ba giờ sáng, chắc tại mấy con rận rệp cắn ngứa ngáy quá chịu không nổi. Thình lình tôi nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông boong boong vọng vào tai rồi thấm dần đến quả tim từ lâu đã quên bẵng. Tôi nằm trong này hơn hai tháng rồi, chưa biết bao giờ mới được cho ra phòng ngoài chứ đừng nói gì đến được tha. Bao nhiêu ký ức hiện trong đầu tôi, những ngày còn ở ngoài đời.

Tôi là người Công Giáo, theo kiểu ông bà cha mẹ có đạo thì đương nhiên tôi cũng có đạo. Từ lúc lớn khôn tôi chẳng ý thức gì về vấn đề tôn giáo, nhưng phải đi lễ mỗi Chúa Nhật là một cực hình (tôi thà rong chơi với bạn bè trong mấy quán cà phê). Sinh viên năm thứ ba ĐHKH Saigon tôi thích những nơi có nhạc Trịnh Công Sơn, lơ mơ điếu thuốc quấn Bồ Đà. Hồi nhỏ ba má tôi vẫn buộc chúng tôi phải đi lễ chung với gia đình, nhưng khi bước vào đại học, ông bà để chúng tôi tự do. Tôi trịch thượng so sánh những linh mục với những con quạ đen.

Nhưng đêm hôm đó, tôi bị “đánh thức”. Tiếng chuông vọng lại nhắc đến những Giáng Sinh gia đình thiếu vắng tôi trong lễ nửa đêm. Hình ảnh ba má tôi chăm chỉ dự lễ đều đặn nhất là sau ngày đại tang của đất nước. Ông bà cầu nguyện điều gì tôi không biết nhưng gương mặt già nua của cha mẹ giờ đây hiện rõ ràng trong tâm trí. Tôi bật khóc, tự nhiên tôi ngồi dậy, hai cái còng chữ u dưới chân rọt rẹt làm Giu Se Mới cằn nhằn “ngủ đi thằng Sài Gòn”.

Tôi không ngủ được nữa, lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu tôi mấp máy môi đọc một kinh Lạy cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh. Rồi tôi quyết định make a deal với Thiên Chúa. Tôi thưa như thế này:

– Lạy Chúa, bao lâu rồi con đã không dự lễ với ba má, Xin cho con được về trước Giáng Sinh năm nay, con muốn cùng ba má con dự thánh lễ Giáng Sinh. Nếu có thể xin hãy cho con điều đó. Nếu không cho hãy cất linh hồn con, con hết chịu nổi rồi. Sau Giáng Sinh nếu còn ở trong này con sẽ chẳng tha thiết điều gì nữa, cho con chết đi thì hơn.

Như đã nói, tội của tôi là tội “tình nghi” mà đối với VC “tình nghi” nặng hơn “tình thiệt”. Tình thiệt còn có ngày về, tình nghi thì cứ “mút mùa Lệ Thủy”. Do đó cầu nguyện là một chuyện, cầu được ước thấy lại là chuyện khác. Tôi đinh ninh như thế và rồi tôi quên đi những gì mình đã thưa vào đêm thức dậy ba giờ sáng.

Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1976. Đang lúc ra tắm nắng tù được lệnh trở vào phòng giam, thường là lệnh chuyến đi lao động những tù đã có án. Trước đó hai ngày ngày 20/12/1976 tôi chợt nhớ lại lời cầu xin của mình và lòng buồn rười rượi vì chắc chắn sẽ còn ở đây lâu. Thân thể tôi giờ như một bộ xương khô, cái đói chiếm trọn đầu óc. Đã có lần tôi suýt nhặt một trái ớt hiểm nằm giữa đống phân vì thèm. Tôi sắp chết rồi.

Đợt đầu được gọi ra để chuyển trại, cửa phòng giam mở khoảng mười lăm phút để tù có án tập trung . Sau đó lại đóng. Điều này hơi bất thường vì trước đây chưa từng . Hóa ra còn một đợt kêu tên nữa cho về. Tên tôi nằm hàng thứ ba mươi sáu.

Tôi đi như bay ra khỏi nhà giam, đầu óc tôi tê điếng chẳng còn cảm giác Điều tôi không ngờ đã đến. Tôi bước ngang Biệt Giam thấy mặt Giu Se Mới cười và nghe rõ tiếng nói của nó: “thằng Saigon về rồi!”. Cảm ơn mày nha Giu Se Mới, tao sẽ nhớ mày và Y Nguoun.

Hồi bị bắt tôi còn ít tiền, công an VC trả lại tôi đầy đủ (Điều này cũng đã làm tôi ngạc nhiên một thời gian, ít quá không đáng để lấy?). Tôi mua ngay một nải chuối, mấy cái bánh tét, tất cả những gì tôi thèm khát mà số tiền có thể mua được. Kết quả thấy ngay lập tức, tôi đứng dậy không nổi. Bao tử bị o ép thời gian dài nay căng ra quá độ làm tôi bị bội thực. Tôi ráng lết ra bến xe, trên người còn mặc bộ đồ tù trại phát. Ra đến đó tôi ngồi trên một băng ghế dài, ngẫm nghĩ cách để về nhà. Tiền đã hết, làm thế nào đây? Cách duy nhất tôi có thể thực hiện lúc này là cầu nguyện. Tôi lại thưa:

– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời con kêu xin, cho con được ra tù mà chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh, con lại không có tiền . Không lẽ Chúa bỏ con bơ vơ ở nơi này? Vậy thì cho con ra tù để làm gì?

Còn đang lẩm bẩm, tôi chợt nghe có tiếng nói

– Sao ngồi đây?

Tôi ngước lên, trước mặt là một người đàn ông trung niên, ăn mặc như nông dân. Giọng miền Nam hơi phảng phất Trung Phần. Anh nhìn tôi có vẻ thông cảm (chắc tại bộ đồ tù)

Tôi thưa thiệt:

– Dạ tôi mới tù ra, nhà ở tận Saigon không biết làm sao để về nhà .

– Vậy hả, tôi tên Tường, mà nè sáng giờ ăn uống gì chưa?

Mặc dù ăn no đến bội thực, bao tử đang hành hạ nhưng cái đói ám ảnh khiến tôi buông vội (vì tưởng như mình vẫn đang rất đói):

– Dạ chưa

– Vậy ngồi đây chờ chút tôi đi, chút xíu quay lại.

Tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Như thể Chúa đang ở trước mặt tôi, Ngài đang trò chuyện, đang nghe những lời kêu van thống thiết và gởi một thiên sứ đến giúp tôi . Anh là Thiên Sứ của Thiên Chúa hay người thường vậy anh Tường?

Anh trở lại với khúc bánh mì:

– Nè ăn đi, tôi đã sắp xếp một chỗ cho anh trên chiếc xe đò về Saigon rồi.

Tôi theo anh, anh dẫn tôi lên chiếc xe, nói gì đó với người tài xế, rồi ngoắc tay:

– Về nhà bình yên nghe

Tôi vẫn không biết anh có phải là Thiên Thần Bổn Mệnh của tôi, vì thời điểm đó, đâu có ai muốn rắc rối, dây dưa với người lạ nhất là một thằng tù còn mang trên người bộ quần áo. Càng co cụm, khép kín càng tốt. Ai biết ai…là ai!

Tôi lên xe ôm cái bụng cóc ọc ạch vì thức ăn nằm ủ trong đó. Cứ khoảng một cây số tôi lại xin người tài xế ngừng lại để đi cầu. Trên dưới đều không ra được làm tôi như người sắp chết. Bụng tôi căng cứng giống trái banh chờ lúc bùng nổ. Tôi lại lâm râm cầu nguyện. Những lời kinh phần nào làm đau đớn dịu xuống, nhưng hỗn tạp hàng chục loại thức ăn trong dạ dày khiến tôi chỉ muốn chết cho xong.

Hành khách đi chung xe không ai dám nói chuyện với tôi, họ chỉ liếc mắt nhìn, người đầu tiên ngồi hàng cuối đứng dậy xuống, đi ngang qua ném cho tôi hai đòn bánh tét rồi đi thẳng. Người thứ hai, thứ ba giả bộ để rơi tờ giấy bạc, gói thuốc. Tôi cảm ơn họ những người xa lạ chỉ vì bộ đồ tù tôi mặc trên người sẵn sàng nhường nhịn chia sẻ chút vật thực rất nghèo nàn của họ. Những ngày đầu mất nước chẳng ai giàu có đủ để chia sẻ phần sở hữu của mình. Chắc họ đoán tôi là tù VC vừa được tha, mà đã là tù VC thì (ngoài hình sự ) tất cả đều là anh hùng. Cảm ơn họ, những người miền Nam giàu lòng vị tha.

Tối hôm đó xe ngừng lại ở Qui Nhơn. Nhờ có tiền tôi thuê được cái ghế bố. Tôi muốn ngủ nhưng đau đớn quá đến bật khóc. Tôi lại ngồi dậy thầm thì cầu xin:

– Lạy Chúa, Chúa đã cho con ra tù, cho con có phương tiện về nhà không lẽ Chúa để con chết ở đây? Chúa biết là con cũng sắp chết rồi. Con thở không nổi nữa, đau quá Chúa ơi

Cầu nguyện một chặp, tôi mệt nằm xuống thiếp đi. Đoán chừng khoảng mười lăm phút sau, tôi ngồi bật dậy. Một con nôn thốc nôn tháo tống khứ hết mọi thức ăn đã nằm trong bao tử tôi hai ngày nay.Tôi tưởng sau đó tôi sẽ chết, thật lạ, hết cơn nôn tôi cảm thấy mình khỏe khoắn như chưa bao giờ khỏe như thế. Tối hôm đó tôi ngủ say như một đứa trẻ vừa no sữa.

Xe đến ven thị xã Phan Thiết thì ngưng lại. Lệnh giới nghiêm không cho phép xe lưu thông qua thành phố sau nửa đêm. Đó là tôi đoán vậy, còn thật sự như thế nào tôi không biết. Đêm đó cũng như mọi người chúng tôi nằm lăn lóc ở hai bên vệ đường trong khách sạn “Ngàn Sao”( nhìn lên trời thấy sao không!)

Sáng ngày 24/12/1976 tôi về tới nhà. Con chó Lucky má tôi thừa hưởng từ người dì đã đi tản qua Canada để lại. Nó gốc quân khuyển thường được ăn đồ ngon cho tới khi về với má tôi và sống dưới chế độ VC. Tội nghiệp “thằng nhỏ” phải tập ăn mọi thứ má tôi có thể chia cho nó. Chơi láng hết từ khoai mì khoai lang, cám heo v..v . Hai “đứa” tụi tôi vẫn chơi thân với nhau trước ngày tôi đi tù.

Nghe tiếng người Lucky từ trong nhà chạy ào ra sủa dữ dội. Tôi la khẽ “Lucky, tao nè” nghe tiếng tôi nó ư ử mừng rỡ, chân cào lên hàng rào đuôi vẫy dữ dội. Má tôi đang ăn cơm, nghe chó sủa vội chạy ra coi là ai, tay vẫn còn cầm chén. Vừa nhìn thấy tôi, má chết sững

– Trời ơi, ông ơi, thằng Bảy nó về rồi nè.

Ba tôi chạy ra, mếu máo. Má tôi mở cổng, ôm chầm lấy tôi, Lucky nhảy chồm lên người tôi, ba tôi cứ cầm tay tôi mà lắc. Sau này khi bình tĩnh tôi mới biết ba má tôi tưởng tôi đã chết rồi vì không có tin tức gì hết từ ngày tôi bỏ đi. Ba má biết tôi tìm cách vượt biên đường bộ. Thú dữ, Khờ Me Đỏ, VC chắc là tôi không tài nào đi lọt. Thậm chí má tôi đã xin lễ cầu hồn cho tôi. Tôi đâu có dám cho ba má tôi biết bị tù ở Pleiku, sợ ông bà tuổi già sức yếu lại lo gồng gánh thăm nuôi. Cuối cùng tôi chịu hết nỗi đánh liều gởi lén thằng bạn được tha bức thư cầu cứu chỉ cách ngày tôi được tự do có một tuần lễ. May là thằng bạn chắc về tới nhà vui quá quên giao thư. Cảm ơn nó, nếu không tôi lại làm khổ ba má tôi lần nữa.

Tính ra VC giam tôi hơn sáu tháng. Sáu tháng với một thằng thư sinh như tôi, từ nhỏ tới lớn chỉ biết ăn bám vào cha mẹ là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Tôi biết được con rận hình dạng ra sao, con cái ghẻ nhớ như thế nào và làm cách nào bắt “quả tang hung thủ” bằng đầu kim mài nhọn từ mảnh sắt vụn. Tôi biết sự dã man khi bệnh “đói” hành hạ, cảm giác “sung sướng đến tê dại” lúc áp chai thủy tinh nước nóng vào hai cái mông đầy ghẻ, hoặc khi thằng bạn “ghẻ” chà bật máu mủ rồi chế nước muối lên. Gọi là bạn ghẻ vì chúng tôi sẽ luân phiên “điều trị” bệnh ghẻ cho nhau theo lối đó.

Tôi cũng phải cảm ơn VC. Nghe lạ quá ha? Nhưng đúng là nhờ VC, bao tử tôi giờ vô địch. Tôi có thể ăn bất cứ con gì miễn là nó nhúc nhích (tôi đã từng nếm “hương vị” rận no máu khi cắn cái cóc trong miệng ). Bây giờ nhiều khi ăn thức ăn để lâu hoặc cơm thiu người khác sẽ bị ngộ độc thực phẩm, còn tôi hả? “vô tư”! Vi trùng sợ tôi chứ tôi đếch ngán bất cứ vi trùng nào. Sống sót tù VC tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù VC chắc còn thua một bậc.

Câu chuyện này hoàn toàn có thật mà bao nhiêu năm nay tôi muốn kể lại để VINH DANH  CÁM ƠN Thiên Chúa, nhưng vì không biết cách viết, cộng thêm với sự lười biếng, lo toan cuộc sống tôi chưa làm được. Tin hay không tuỳ quý vị, nhưng ơn Thiên Chúa ban cho có thật, nhất là cộng thêm lời cầu bầu rất linh nghiệm của Mẹ Maria.

Còn đối với anh Tường tôi vẫn cầu nguyện cho anh ( tôi rất muốn biết anh chỉ là một người giàu lòng nhân đạo tình cờ đi ngang qua hay anh thật sự là một Thiên Sứ được sai đến?)

Tôi xin lỗi, tôi quên phần kết luận: chỉ trong vòng có hai ngày, từ trưa 22/12/1976 với một cái bụng bội thực gần chết, với phương tiện giao thông nghèo nàn dưới sự điều hành của VC đi từ Pleiku (cách xa Saigon bao nhiêu cây số ?) , tôi đã về tới nhà mình vào đúng trưa ngày 24/12/1976. Điều đó có nghĩa là đêm Giáng Sinh tôi đã được tham dự Thánh lễ nửa đêm với ba má mình như lời nguyện xin trong phòng biệt giam ở Pleiku…”

VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

(Theo lời kể của một người bạn)
nguoiviettudo

 From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh gởi

CÁI ÔM GIẢI CỨU (Chuyện thật, cảm động!)

CÁI ÔM GIẢI CỨU (Chuyện thật, cảm động!)

Ngày 17-10-1995, tại Trung tâm Y tế Trung ương Massachusetts (Mỹ), cặp song sinh nữ Kyrie và Brielle thiếu đến 12 tuần tuổi chào đời, tổng trọng lượng 2 bé chưa đầy 1kg. Để giảm nguy cơ nhiễm trùng, các bác sĩ đã quyết định nuôi dưỡng 2 bé trong 2 lồng kính khác nhau, với tiên lượng rất xấu rằng một trong hai bé sẽ khó sống sót.

 Lúc đầu, tình trạng của Kyrie có vẻ tiến triển tốt, cô chị bắt đầu tăng cân trong khi cô em bé bỏng Brielle thì ngược lại, Brielle gặp vấn đề về hô hấp và tim mạch, tăng cân ít, đồng thời lượng oxy trong máu rất thấp.

 Vài tuần sau, tình trạng của Brielle trở nên nguy kịch, cơ thể bé bắt đầu tím tái, nhịp tim tăng vọt và thở rất khó khăn. Cha mẹ cũng như các bác sĩ đều nghĩ rằng Brielle không thể sống sót. 

 Một hiện tượng bất thường đã xảy ra: Cô bé Kyrie vốn đang khỏe mạnh bỗng nhiên la hét không dừng, dù các y tá đã tìm mọi cách để giúp đỡ, nhưng Kyrie vẫn khóc thét mãi, và bắt đầu lên cơn co giật.

 Các biện pháp hỗ trợ dường như vô hiệu, mọi người tuyệt vọng, không hiểu chuyện gì đang xảy ra với 2 đứa trẻ, nữ y tá Gayle Kasparian đã nảy ra một ý định táo bạo, điều chưa từng có tiền lệ tại Mỹ, đó là đặt cặp sinh đôi nằm sấp bên cạnh nhau.

 Kỳ tích đã xuất hiện ngay khi y tá Gayle vừa đóng cửa lồng ấp, Brielle đang kiệt sức bỗng nhích người lại gần Kyrie, lúc đó Kyrie dừng khóc và theo bản năng, Kyrie đã vòng một cách tay sang ôm lấy đứa em gái bé bỏng gần như đang hấp hối của mình. 

 Chỉ vài phút sau hành động thân thương này, điều kỳ diệu đã xảy ra, tình trạng hô hấp của Brielle đã cải thiện đáng kể, thân nhiệt cũng dần ổn định.

 Sau đó, các y tá vẫn tiếp tục duy trì cách chăm sóc đặt 2 đứa trẻ nằm cạnh nhau trong một thời gian dài, điều này không chỉ giúp Kyrie càng thêm khỏe mạnh mà còn giúp sức khỏe của Brielle cải thiện nhanh chóng, bé tăng cân đều và đuổi kịp cô chị song sinh.

 Hiện tại, Kyrie và Brielle đều đã tốt nghiệp đại học và trở thành những thiếu nữ xinh đẹp, cả hai vẫn luôn ở bên cạnh nhau như ngày còn bé.

 Điều kỳ diệu giúp cặp sinh đôi may mắn sống sót – Phương pháp đặt trẻ song sinh nằm cạnh nhau, đã được giới y khoa đi sâu nghiên cứu và nhận thấy biện pháp này thật sự có ích đối với những cặp song sinh thiếu tháng vì sự gắn kết “da kề da” sẽ giúp các bé ổn định thân nhiệt, cải thiện hô hấp, cùng nhau phát triển tốt.

 Bức ảnh chụp cảnh cô chị Kyrie vòng tay ôm lấy em gái Brielle đang hấp hối, đã trở nên vô cùng nổi tiếng với tên là Cái Ôm Giải Cứu (rescuing hug), được rất nhiều tạp chí danh giá đăng tải liên tục trong nhiều năm qua.

 Phong Luu (tổng hợp Internet)

From: TU-PHUNG