Tình ruột thịt

Tình ruột thịt

 Nguyễn Đan Tâm 

Bà Hai giựt mình, chới với khi chạm mặt gần 50 người đang chờ đón bà và con gái. (Hình minh họa: Tomohiro Ohsumi/Getty Images)

Qua nhiều đêm trằn trọc, mất ngủ, bà Hai quyết định trở về Việt Nam thăm họ hàng sau nhiều năm xa cách. Bà sang Mỹ theo diện con lai dù con của bà lai Tây. Chuyện bắt đầu từ thời má của bà lấy chồng Tây và bây giờ con của bà chỉ lai Tây có 25 phần trăm thôi. Nhưng mấy ông cách mạng đâu cần biết chuyện nầy. Cứ thấy có nét lai (Mỹ hay Tây như nhau mà) là lên danh sách cho đi Mỹ. Càng đi nhiều, cán bộ càng có lợi. Ở đây, ta mới thấy cái tầm nhìn xa của các đỉnh cao trí tuệ, khi khúc ruột ngàn dặm biến thành con bò sữa. Trước ngày lên đường, làng xóm tấp nập đến chúc mừng, ca tụng gia đình thế mà có phước, được sang Mỹ như trúng số lớn.

Rồi bà Hai cùng cô con gái sang Mỹ. Đất lạ, quê người, bà lại không biết chữ (Việt và Mỹ), nên suốt ngày chỉ quanh quẩn với công việc nhà, chăm sóc vườn rau xanh, và ngồi chờ con đi làm về để nói chuyện. Chuông điện thoại có reo vang cũng chẳng dám giở máy vì tiếng nói lạ hoắc, nghe mà không hiểu gì. Từ ngày sống ở Mỹ, bà Hai được hưởng tiền già (thời tổng thống Reagan, người ta hay nói đùa là “tiền của ông già”), mặc dù tuổi bà chưa tới 60, lại khỏe mạnh. Một người không tay nghề, lại câm và điếc (dù tai, miệng bình thường) nên lẽ tự nhiên chẳng hng nào dám nhận. Như vậy dư luận trong làng đúng phong phóc: bà cứ qua Mỹ đi, người già bên đó không cần làm gì, có chính phủ nuôi. Người khác lại kể chuyện con Mén con của bà Tư ở xóm trên mới về thăm nhà năm rồi. Ôi thôi! Quần áo lượt là, vàng đeo đầy người, trái ngược với cái nghèo lúc còn ở Việt Nam. Nghe nói làm gì đó bên Mỹ, chắc là làm lớn lắm vì muốn đi đâu đều có xe và tài xế, con cái đi học cũng có xe đưa rước miễn phí, hàng tháng có tiền chính phủ gởi đến tận nhà. Xứ Mỹ thật là thần tiên, vì một con nhỏ nghèo, thất học, con cái đùm đề, bỗng đổi đời trở nên giàu có, sang trọng! Đúng là chuyện “cô bé lọ lem trên đất Mỹ.”

Nhờ sống chung với con nên mỗi tháng bà Hai dành dụm được ít tiền phòng khi hữu sự. Trong khi đó, thư từ của bà con ở Việt Nam tiếp tục đổ sang Mỹ. Thư nào cũng chan chứa tình cảm họ hàng với nhiều nước mắt nhớ thương, mong bà Hai sớm trở về thăm quê hương, làng xóm và kết thúc với một điệp khúc: Xin giúp đỡ tiền bạc vì ai cũng nghèo. Có người còn bảo bà ra máy tự động lấy tiền gởi về cho họ vì ở Mỹ chính phủ in tiền để sẵn trong máy cho dân lấy xài thoải mái. Lương tháng một người lao động ở Việt Nam lúc đó chỉ 30 đô. Mỗi tháng bà gởi hai trăm đô nhưng dường như chẳng thấm vào đâu vì gần đây thư kêu cứu càng thêm gấp rút và nhấn mạnh gia đình cần một ngàn đô mỗi tháng. Bà Hai đọc thư mà tay chân lạnh ngắt vì số tiền to lớn nầy. Tất nhiên, lớn đối với bà, còn quá nhỏ với người Việt Nam có thân nhân ở Mỹ. Con gái bà đi làm hãng, mỗi tháng được ngàn rưỡi đô trừ tiền nhà, xe, điện, nước, ăn uống… còn dư chút đỉnh.  (Phải nói rõ là con nhỏ làm mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối mới được đồng lương như vậy.) Nay bên Việt Nam đòi số tiền lớn hàng tháng thì lấy tiền đâu mà gởi nên bà run là phải.

Bà Hai và con gái về đến phi trường Tân Sân Nhứt vào một ngày nắng đẹp nhưng trong lòng bà thì lắm mối u sầu. Bà hận mình không giúp được họ hàng như bao Việt kiều khác. Sau khi xong thủ tục nhập cảnh, tiến ra ngoài, bà Hai giựt mình, chới với khi chạm mặt gần 50 người đang chờ đón bà và con gái. Tiếng gọi chị, bà, cô… vang lên ơi ới: Nhứt là đám con nít tranh nhau đến mừng bà về. Bà Hai thật ngạc nhiên hôm nay sao có nhiều bà con như vậy. Nhiều người bà  chưa gặp bao giờ. Rồi mọi người lên xe được mướn sẵn trực chỉ về Hậu Giang. Đứa nhỏ nào cũng đòi ngồi kế bà của tao. Xe chưa ra khỏi thành phố thì mọi người nhao nhao và nhứt là lũ trẻ đồng loạt kêu đói bụng vì từ sáng sớm chưa ăn gì. Tài xế không biết tình cờ hay cố ý cho xe chạy trên con đường với nhiều quán ăn, rồi đột ngột ngừng xe trước một tiệm khá khang trang. Chủ tiệm và nhân viên biết hôm nay trúng mối Việt Kiều miệng cười toe toét, vồn vã chào mời. Một giờ sau, mọi người no bụng, vui vẻ. Lẽ cố nhiên khổ chủ của bữa tiệc bất đắc dĩ là mẹ con bà Hai. Điều oái ăm là mẹ con bà Hai chưa bao giờ đi ăn tiệm trong 5 năm ở Mỹ. Nhiều người còn nói lâu lắm rồi mới được ăn ngon như thế nầy, ước gì bà Hai về đều đều thì hay biết mấy. (Như vậy đi ăn chớ đâu phải đi đón Việt kiều.)

Xe về quê bà Hai, một làng nhỏ ở miền Tây. Cảnh cũ, người xưa không thay đổi. Đêm đầu tiên chị em thức khuya kể chuyện gia đình. Ai cũng than công việc làm ăn khó khăn, con cái nheo nhóc, đời sống quá nghèo dù có tiền viện trợ hàng tháng của bà Hai. Mới hừng đông, ngoài ngõ đã nghe xôn xao tiếng người đến mừng bà Hai về thăm quê nhà. Nhà thì nhỏ, khách lại đông, không đủ chỗ ngồi, đứng cả ngoài sân. Khách cứ rề rà, không ai chịu ra về dù trời đã đứng bóng. Cuối cùng, một người đại diện đám đông chúc mừng bà Hai và con gái rồi chấm dứt với điệp khúc xin chút ít quà  từ Mỹ. Bà Hai cũng thông cảm tình cảnh của đồng hương nên cầm một xấp tiền, định cho mỗi nhà 20 đô làm phước. Thật là bất ngờ khi có một người vọt nói: ở đây không ai xài số tiền nầy, phải 50 trở lên mới được. Bà Hai thiếu điều muốn xỉu. Bà nhớ có lần ở Mỹ bà đang đứng trước chợ thì có một người Mỹ đến xin “quarter,” bà cho 1 đô. Người Mỹ được tiền chắp tay cám ơn bà rối rít. Còn ở đây xứ nghèo sao lại chê tờ 20 đô. Nhưng bà cũng phải bấm bụng phát cho mỗi gia đình 50 đô. Xong đám đòi nợ lại đến cô em dâu xin tiền đi chợ vì không lẽ để bà và con gái ăn cơm với nước mắm. Bà Hai ngạc nhiên thấy mấy người trong nhà không đi làm. Sáng 11 giờ mới thấy mọi người thức dậy.  Đàn ông thì ra quán cà phê ngồi, tới trưa về nhà ăn cơm, ngủ một giấc đến 4, 5 chiều rồi ra quán nhậu. Đàn bà thì gầy sòng tứ sắc. Nếu có hỏi tại sao thì câu trả lời như một điệp khúc: Có việc gì đâu mà làm. Con nít ăn no chỉ chạy rong chơi, chẳng thấy đi học. Cơm nước, việc nhà, kể cả việc chia bài đã có mấy đứa  nhỏ hàng xóm sang phụ giúp. Như vậy nguyên nhân cái nghèo thấy rõ ràng trước mắt.

Ngày hôm sau, mới vừa tảng sáng đã thấy một đám người gồm hai công an xã và hai người lạ đến đòi gặp anh Tư (em ruột bà Hai.) Hai người lạ cho biết, từ 5 năm nay, anh Tư có mượn của họ một số tiền Việt Nam tính ra là năm ngàn đô. Họ đưa cho xem giấy ký nợ. Lâu nay hẹn lần không chịu trả, chỉ trả tiền lời thôi. Nay họ phải nhờ công an giải quyết. Phía công an cho biết nếu hôm nay không trả họ phải giải anh Tư về xã chờ đưa lên huyện ra tòa. Cô em dâu khóc lóc, kể lể vì nhà nghèo phải mượn tiền để sống, may mà có thân  nhân là Việt kiều nên có người cho mượn. Nay xin chị cứu giúp em ruột, vì nếu bị giải lên huyện sẽ bị kêu án tù. Bà Hai trông thật khổ sở, nói không ra lời. Tiền thì bà không có đủ. Mới về có một ngày đã tốn hết mấy ngàn. Nay lấy đâu ra năm ngàn trả nợ cho em. Bà đưa mắt cầu cứu con gái. Cô nầy không nói gì. Sau một hồi chờ đợi, đám công an giải anh Tư đi mất. Vợ anh Tư rống lên thảm thiết như chồng chết. Bà Hai chịu không nổi nên năn nỉ con gái cho bà mượn bốn ngàn, cộng với một ngàn còn trong túi của bà đưa cho cô em dâu đi chuộc người. Bà phải hứa với con gái khi qua Mỹ sẽ lấy tiền già trả lần.Và anh Tư về nhà vui vẻ như chưa có chuyện gì xảy ra.

Bà Hai dự định về thăm quê một tháng. Nhưng được một tuần thì cô con gái đòi trở lại Mỹ với lý do: Không đủ tiền chợ cho vợ anh Tư. Mỗi ngày phải chi 200 đô thì sạch túi trước thời hạn. Hai mẹ con lên Saigon đổi vé máy bay qua Mỹ. Khi từ giã không thấy vợ chồng anh Tư cản trở, cũng không thấy người trong xóm đến tiễn đưa.

Máy bay chuẩn bị cất cánh. Qua khung cửa kiếng, bà Hai nhìn mảnh trời quê hương bỏ lại mà thấy lòng se thắt vì bà biết rằng đây là lần cuối cùng.

Mấy tháng sau, bà Hai nhận được thư từ Việt Nam của một đứa cháu kêu bà bằng cô. Nó nói rằng vụ công an đòi nợ là việc sắp đặt giữa vợ chồng bác Tư của nó và đám công an để moi tiền bà Hai. Công an lấy hai ngàn. Bác Tư gái thì lấy ba ngàn đi sắm vàng. Chuyện xì ra vì bác Tư trai muốn lấy tiền đi nhậu, bác gái không cho. Hai vợ chồng cãi nhau dữ quá. Cả xóm đều biết chuyện nầy.

Trời ơi! Khốn nạn quá! Là những tiếng kêu của bà Hai trước khi bà ngất xỉu…

Nguyễn Đan Tâm 

From: TU-PHUNG

CƠM CANH NÓNG SỐT

CƠM CANH NÓNG SỐT

Nguyễn Thị Thanh Dương

 Buổi chiều hai “vợ chồng son” ngồi vào bàn ăn. Bà Lệ mở nồi cơm điện xúc ra hai bát cơm thì ông Kính lên tiếng hỏi ngay:

– Vẫn cơm buổi sáng hả?

– Cơm còn nhiều đủ cho buổi chiều anh ạ.

Nét mặt ông không vui:

– Em biết là anh chỉ thích ăn cơm nóng mới nấu thôi mà.

– Vâng, em biết, nhưng cơm còn nhiều, nấu thêm cơm mới ngày mai chúng ta lại có cơm cũ.

Ông lại nhìn vài con tôm bày trong chiếc đĩa nhỏ xinh xinh bên cạnh bát canh rau cải xanh nấu thịt bò cũng nho nhỏ xinh xinh và…phát giác thêm:

– Tôm rim của ngày hôm qua, còn bát canh của buổi sáng nay. Anh nhắc lại anh chỉ muốn cơm canh nóng sốt, bữa nào ra bữa ấy.

Giọng bà dỗ dành:

– Ngoan đi, nghe lời em. Hôm nay em hơi mệt, anh chịu khó ăn đồ còn dư đỡ mất công em nấu, đỡ tốn tiền và đỡ chật tủ lạnh.

Bà đã nhẫn nhịn, đã dịu ngọt mà ông Kính vẫn sưng xỉa bưng bát cơm ăn như kẻ bị lưu đày, bị đối xử tàn tệ.

Ông ăn lưng bát cơm thì buông đũa suồng sã thô lỗ và đứng dậy xong bữa.

Bà Lệ cảm thấy bị tổn thương và ngán ngẩm. Nỗi buồn bã và ân hận dâng lên tận cổ . Bà nghẹn lời không muốn nói gì nữa.

Mới ở với nhau hơn một năm mà ông Kính đã thay đổi và lộ hẳn con người thật của ông. “Chàng” của…năm ngoái, thuở mới quen không còn nữa.

Hai ông bà gặp nhau trong một buổi sinh hoạt cộng đồng ở Nam Cali. Họ ngồi cạnh nhau. Ông Kính bắt chuyện làm quen trước, qua vài câu thăm hỏi khéo léo, cả hai cùng biết chút đời tư của nhau, cùng độ tuổi và cùng góa bụa đơn lẻ như nhau.

Bà Lệ về hưu tiền ít ỏi nên xin hưởng welfare, bà ở căn apartment dành cho người cao niên lợi tức thấp. Đứa con trai duy nhất của bà đã lập gia đình, vợ nó người Mỹ. Một hai năm vợ chồng nó mới từ tiểu bang khác về Cali thăm bà.

Bà Lệ quen với cảnh sống một mình kể từ khi chồng bà qua đời và con ở xa.

Căn phòng bà ở tầng lầu hai, có lan can cửa sau ngập bóng mát cây cao, bà kê chiếc ghế dựa dài ở đây, những lúc rảnh nằm thảnh thơi đón gió và đọc sách báo. Thỉnh thoảng bà gấp sách báo ngừng đọc cho đỡ mỏi mắt và phóng tầm nhìn xa mây trời lênh đênh hay nhìn xuống dưới đất người ta qua lại trong khu apartment mà vui.

Từ khi ông Kính làm quen, niềm vui của bà nhiều hơn. Đã mấy lần bà ngồi ở lan can hiên sau nhìn thấy ông Kính đang đậu xe và đi bộ vào nhà bà, ông ngước lên, bà nhìn xuống, bốn mắt ở xa nhau mà cùng giao cảm, cùng rộn ràng. Họ như mới ở tuổi đôi mươi hẹn hò.

Mỗi lần ông đến thăm luôn mang theo một món quà, khi thì bó hoa đẹp nên thơ lãng mạn, khi thì thực tế đời thường một hộp heo quay và hai ổ bánh mì còn nóng để hai người cùng ăn.

Bà đáp lễ, có lúc mời ông dùng chung bữa cơm trưa, cơm chiều, ông đều vui vẻ ăn và khen ngon, dù đó là nồi cơm bà nấu hai ngày ăn chưa hết, là nồi cá kho ba ngày vẫn còn, hay nồi thịt kho trứng ít nhất cũng vài ngày cứ kho đi kho lại. Bà cảm động vì đã gặp người cùng sở thích, cảm thông.

Bà tính đơn giản và tiết kiệm vì đồng tiền ít ỏi. Một mình nấu một cup gạo chỉ dính nồi thì bà nấu hẳn vài cup gạo để ăn vài lần, các món kho món mặn cũng thế.

Bà có nhiều thời giờ thảnh thơi xem phim truyện trên you tube và đọc sách bạn bè gởi tặng hay báo miễn phí tha về một đống ngoài chợ búa.

Khi ông Kính ngỏ lời muốn kết hôn với bà, muốn cùng bà “dìu nhau” đi nốt quãng đường đời còn lại bà đắn đo nhiều lắm. Đánh đổi cuộc sống độc thân tự do và nhàn hạ lấy cuộc sống chung hai người trên danh nghĩa vợ chồng rất nhiều khác biệt. Ít nhiều bà sẽ lệ thuộc vào ông.

Về với ông nhà cao cửa rộng, tiền bạc không thiếu. Nhưng trái tim đa cảm của bà đã chọn ông, chọn cuộc sống lứa đôi cuối đời với người mà bà tin là tri kỷ tri âm chứ không vì những thứ vật chất ấy.

Nhà bà cách nhà ông chỉ 30 phút lái xe mà hai khung trời khác biệt.

Ông ở trong khu hàng xóm sang trọng, căn nhà to đẹp, cuộc sống trung lưu. Các con ông đứa nào cũng thành danh trong ăn học, trong kinh doanh.

Khi bà dọn về với ông, ba đứa con ông giỏi xã giao lịch sự với bà, nhưng bà vẫn đọc thấy chúng nhìn bà với vẻ ái ngại và nghi ngờ. Chắc chúng tưởng bà ăn welfare này lấy ông vì tài sản và danh giá của gia đình ông? Chúng đâu biết ông đã phải năn nỉ cầu mong bà nhận lời và bà đã đắn đo suy nghĩ mãi mới đi đến quyết định sống chung.

Những ngày đầu sống chung đã là những tuần trăng mật, họ như đôi vợ chồng son luôn cho nhau những ánh mắt thắm tình và nụ cười trìu mến bao dung. Họ xưng hô “anh, em” ngọt ngào và trân trọng.

Nhưng ông Kính không đơn giản như bà nghĩ. Chắc ông quen sống trong giàu sang, quen được chiều chuộng và quen ra lệnh sai bảo người khác, ông khó tính khó nết đến khác người. Nhà chỉ hai người nhưng ông muốn cơm phải nấu hai bữa sáng chiều, món trưa khác, món chiều khác. Bữa ăn luôn là cơm canh nóng sốt.

Ban đầu bà hào hứng chiều ý ông, nghĩ ra những món ăn ngon để thay đổi và không trùng lập. Bà đã lên danh sách những món cho mỗi tuần. Chưa bao giờ bà phải trổ tài gia chánh chăm chỉ đến thế, chồng con bà trước kia chưa được bà tận tình chăm sóc đến thế.

Dần dần bà cảm thấy mệt mỏi với công việc bếp núc ngày hai bữa này, vì cả khi bà cảm thấy nhức đầu sổ mũi muốn được nghỉ ngơi vẫn phải lăn vào bếp.

Khi xưa ở một mình, nếu không thể vào bếp bà chỉ ăn một tô mì gói cũng xong bữa.

Hôm nào bà ước lượng sai, còn dư cơm dư canh là bị ông cằn nhằn hao tiền tốn bạc vì ông không thích ăn lại món cũ dù cùng một ngày. Ông đưa ra thí dụ cho bà học hỏi:

– Tách trà ngon chỉ nhỏ bằng hạt mít, nhấp từng chút một mới thú vị, cũng trà ấy mà cho vào ly cối tổ bố và uống ào ào thì chẳng ra gì. Cơm canh em cứ nấu ngày hai buổi, mỗi thứ một ít vừa đủ thôi, trông thanh cảnh và ngon.

Bà chán kiểu ăn uống “quý phái” của ông quá rồi. Bàn ăn mỗi thứ một chút, bày trong bát đĩa sạch đẹp sẵn sàng để mời ông ngồi vào bàn như một khách quý.

Lúc còn ở apartment bà từng vừa ăn ổ bánh mì vừa nằm ghế dựa và nhìn mây nhìn gió ngoài hiên sau nhà cũng là hạnh phúc.

Có lần bà làm bếp, đang đứng chặt miếng sườn heo non trên kitchen island thì ông hơ hãi từ trong phòng chạy ra và……. chỉ thị:

– Em làm gì ầm ầm thế? mang xuống nền nhà, tha hồ mà băm mà chặt cho …đỡ hư hại cái quầy này.

– Ngồi đau lưng lắm, mà em chặt vài nhát sườn non thôi mà.

Tuy nói thế bà vẫn phải mang thớt xuống đất để chặt miếng sườn cho xong còn hơn là đứng lý luận với ông và biết là sẽ không có sự thông cảm.

Hay khi bà vào rửa mặt trong restroom thì ông đã vài lần theo bén gót chỉ để ân cần nhắc nhở:

– Em đừng làm nước văng tung tóe lên trên kẻo sinh ra nấm mốc khó sửa chữa lắm.

– Em biết rồi, dù ở apartment em vẫn cẩn thận giữ gìn thế mà. Anh cứ làm như em mới đến Mỹ ngày hôm qua.

Ông Kính rất quý hóa căn nhà của ông, sợ bẩn tường, trầy sơn hư hỏng đủ thứ. Có lần ông nói hớ, bà Lệ hiểu rằng căn nhà này ông đã sang tên cho con gái út và nó muốn ông phải giữ gìn nhà cho tốt để sau này bán sẽ được giá.

Thì ra cha con nhà ông tính toán quá. Biết đâu ông cũng đã chia tiền của, sang tên tài sản cho các con rồi mới…..được quyền bước thêm bước nữa.

Cũng may bà chưa làm hôn thú giấy tờ gì với ông cả, chỉ dọn đến sống chung trước nên đỡ mang tiếng.

Bà Lệ bỗng nhận ra mình như kẻ ở nhờ, hầu hạ cơm nước cho “chủ”, chăm sóc dọn dẹp căn nhà cho “chủ” và mất quyền tự do của chính mình.

Hiếm hoi lắm gia đình thằng con trai mới về thăm bà. Bà không muốn tiếp đón chúng trong căn nhà không phải của bà. Mẹ con bà cháu đã hẹn nhau ở nhà hàng, xong con cháu về khách sạn, bà về…nhà chồng.

Hôm ấy bà tủi thân, nghĩ đến con cháu mà rơi nước mắt . Đáng lẽ con cháu sẽ ùa vào căn phòng apartment như mọi lần, bà sẽ nấu bữa ăn ngon đãi con trai và con dâu, bà mua món bánh kẹo mà hai đứa cháu nội yêu thích, chúng sẽ tha hồ cười nói, đùa nghịch và làm xáo trộn căn phòng hẹp. Gia đình bà sẽ trò chuyện hỏi han nhau nhiều hơn, vui vẻ hơn, ấm cúng biết bao nhiêu.

Ông Kính đã không hiểu được nỗi lòng bà, không an ủi mà còn cau có:

– Gặp con cháu thế đủ rồi, gặp nhiều thêm phiền phức chứ ích lợi gì.

Bà Lệ đã âm thầm xin thuê lại một căn phòng trong khu chung cư cũ, căn phòng trước kia có bóng cây cao râm mát nơi lan can sau nhà đã có người khác ở.

Nhưng căn phòng nào cũng là căn phòng độc thân, căn phòng vui vẻ cho bà trở về.

Khi nhà cửa đã thuê xong xuôi bà Lệ mới lên tiếng chia tay ông Kính. Ông tức giận và ngạc nhiên, ông đơn giản tưởng bà …thoát khỏi cảnh nhà nghèo, rời xa khu chung cư rẻ tiền về với ông ở nhà đẹp, đi xe sang sẽ là may mắn và hãnh diện cho bà.

Thấy bà cương quyết đòi chia tay, ông đành xuống nước năn nỉ. Dù ông thương yêu bà bao nhiêu không làm bà Lệ xúc động nữa. Bản chất vẫn là ông Kính dở hơi khó tính, là người chồng gia trưởng, không thích hợp với bà.

Xách valy ra khỏi cửa nhà ông, bà Lệ đổi cách xưng hô và cay đắng nói:

– Mỗi ngày ông chịu khó hai lần ra khu chợ Việt Nam, vào hàng …cơm chỉ nhé. Sáng chỉ một vài món, chiều chỉ một vài món là luôn có cơm canh nóng sốt, thức ăn đổi mới cho ông vừa lòng.

Nguyễn Thị Thanh Dương

From: TU-PHUNG

 CHUYỆN LẠ QUANH TA

May be an image of 1 person

 CHUYỆN LẠ QUANH TA

Có lần, Charlie Chaplin kể, “Tôi đi tàu điện ngầm ở New York. Về đến nhà, tôi thấy trong túi có một chiếc đồng hồ vàng. Nghĩ mãi, tôi cũng không thể biết bằng cách nào chiếc đồng hồ chui vô túi tôi. Tôi quyết định nộp cảnh sát. Ngày hôm sau, tôi nhận được một lá thư: “Ông Chaplin thân mến! Tôi hành nghề móc túi . Hôm qua trong tàu điện ngầm, tôi đã lấy trộm một chiếc đồng hồ vàng của một quý ông, nhưng khi nhìn thấy ông, tôi quyết định tặng ông một món quà và bỏ nó vào túi của ông.”

Một năm đã trôi qua. Cảnh sát đã không tìm ra kẻ trộm, cũng như không tìm thấy chủ nhân của chiếc đồng hồ, và do đó đã gửi lại chiếc đồng hồ cho tôi. Các tờ báo đã viết về việc này. Và ngày hôm sau,tôi nhận được bức thư thứ hai: “Ông Chaplin thân mến! Một năm trước, tôi đang đi tàu điện ngầm và bị mất cắp đồng hồ vàng đó. Tôi đọc tờ báo và biết rằng,rằng kẻ móc túi đã đưa tặng đồng hồ cho ông. Thưa ông Chaplin, xin Ông hãy giữ lại đồng hồ của tôi. Và vì tôi ngưỡng mộ tài năng phi thường của ông hơn một tên móc túi, nên tôi gửi tặng ông thêm chiếc dây chuyền vàng của chiếc đồng hồ đó”.

NHP sưu tầm-

Gặp Gỡ Diêm Vương… Rồi Trở Về

Gặp Gỡ Diêm Vương… Rồi Trở Về

– Trường Sơn Lê Xuân Nhị –

Tác Giả Trường Sơn Lê Xuân Nhị sau khi gặp Diêm Vương trở về

Một: What’s the hell going on?

Sáng thứ hai, một buổi sáng bình thường như mọi buổi sáng của tuổi về hưu, khoảng 8 giờ ngày 1 tháng 2 Dương Lịch 2021, New Orleans Louisiana, tôi thức giấc… trong cô đơn, nhà cửa vắng tanh vì bà xã đang ở xa lo công việc.  Vào phòng tắm vừa đánh răng xong, xoay người toan bước ra thì tôi bỗng bị… rụng xuống sàn nhà như một trái mít nghe đến rầm một tiếng đinh ai nhức óc.

Đầu và ngực tôi đập xuống sàn có lẽ nặng lắm vì khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy cái … bồn cầu tiêu đang nằm song song ngay trước mặt mình, lại còn cao hơn mình cả … thước, ngạo nghễ, trắng bóc và … tròn quay, đang lắc lư trước mặt mình.

Đù mẹ, mới sáng sớm đã lại có chuyện rồi, tôi lẩm bẩm chửi thề và tự hỏi: “What’s the fuck going on?”  Tối qua mình lại uống rượu say quá chăng?  Không, tối qua tôi chẳng uống gì cả và hôm nay mới sáng sớm chưa có rượu chè gì.  Mình cũng không bị trượt té.  Thế thì tại sao tôi lại nằm thẳng cẳng như thế này hở trời?

Có lẽ đây là hậu quả của những ngày đi Cali chơi mùa Noel rồi mới về, ăn nhậu nhiều quá chăng?  Nhưng về đã hơn tháng rồi, chẳng hề bị rụng, sao bây giờ mới rụng?

Không cần phài suy nghĩ lâu, sống trong thời buổi thiên hạ bị dính Covid rầm rầm, tôi kết luận ngay là mình đã bị dính cúm Tàu.  Tôi đã đọc rất nhiều về cúm Tàu để biết một trong những chuyện thường xảy ra cho bệnh nhân khi mới bị nhiễm là mất hết sức lực.  (Thực tế thì chuyện này chỉ xảy ra ở giai đoạn sau khi bị sốt—nhưng tôi chưa hề bị sốt.)  Tôi cũng thắc mắc là suốt tháng qua, từ khi đi chơi xa về, tôi đã không đi đâu, không tiếp xúc với ai, thế thì sao con Cúm Tàu đột nhập vào tôi được?  Cũng cần nói thêm là tất cả khứu giác, vị giác, thính giác của tôi vẫn còn đầy đủ, những người bị Covid sẽ bị mất hết những thứ này.  Nhưng buổi sáng hôm đó, tôi kết luận ngay là mình bị cúm Tàu.  Gì chớ cúm Covid-19 thì nhằm nhò gì.  Ai sợ, ông đếch sợ.  Ông chỉ cần tỉnh dưỡng và cách ly một vài ngày, xông vài phát thật tốt là xong ngay.  Nhưng chuyện quan trọng bây giờ là phải … đứng lên cái đã.

Loay hoay mãi một lúc mới vịn cái bồn tắm ngồi lên được và nhìn vào tấm gương trước mặt, tôi giật mình đến thót.  Sao mặt mũi tôi tím bầm và … thô bỉ như thế này hở trời?

Một lúc sau, tôi gượng đứng lên được nhưng lại bị rụng xuống sàn ngay phát thứ hai, cú secondary.

Lúc ấy tôi mới khám phá ra là mình chẳng còn chút sức lực nào trong người cả.  Chuyện này hơi lạ.  Nhưng nghĩ kỹ một chút thì cũng chẳng… lạ chút nào.  Bố khỉ, chú mày đã 70 tuổi rồi, già mẹ nó rồi út ơi.  Thằng Út ngày xưa của phi đoàn 114 bây giờ đã thành một lão già.  Sinh Lão Bệnh Tử là chuyện thường, tôi chẳng lấy gì làm buồn.  Chuyện đáng làm bây giờ là phải làm thế nào để đứng lên đây?  Mẹ bố, không đứng được thì ông đành phải… bò thôi.

Nửa tiếng đồng hồ sau, vừa lết vừa bò, tôi cũng mò được xuống lầu dưới.  Ngồi được xuống cái sofa phòng khách mà tưởng êm ấm như ngồi trên ghế thiên đàng, thở hồng hộc như trâu, và không biết đã ngất đi thêm bao nhiêu lâu nữa.

Khi tỉnh dậy, quên mẹ nó mất là mình đã hết sức, tôi vụt đứng dậy và lại rớt xuống sàn một lần nữa.  Nhà dưới tôi là sàn gạch nên thân thể ê ẩm, tôi nằm co quắp.  Lần này thì tôi không còn bò dậy được, lăn cũng không được, đành nằm luôn dưới sàn nhà.  Lầu dưới nhà tối qua đi ngủ tôi đã tắt máy sưởi, trời bên ngoài hình như khoảng 40 độ, sàn gạch lại lạnh như băng, tôi run lên bần bật…

Nhà lúc ấy chỉ có mình tôi, tôi biết nếu nằm thêm một lúc nữa thì có lẽ tôi sẽ chết cóng…  Vợ đang ở mãi bên Cali, tôi quyết định gọi điện thoại cho thằng con trai.  (Đáng lẽ phải gọi cho 911, nhưng nghĩ không ra)  Nhưng khốn nạn, chẳng biết cái điện thoại bị rớt chỗ nào mất tiêu, kiếm mãi không ra.  May quá, không biết một lúc nào đó, chuông điện thoại tôi reo.  Thì ra nó nằm lọt tuốt dưới đáy cái sofa trước mặt tôi…

Tôi không còn nhớ mình đã gọi cho thằng con trai như thế nào, ra sao, nhưng giật mình tỉnh dậy ra thì đã 11 giờ đêm, đang nằm trong ICU nhà thương Ochsner, chung quanh toàn là đủ thứ ống Ni-lông, từ ống Oxygen cho tới ống máu, ống IV, toàn ống là ống.  Thằng con trai tôi vẫn còn ngoan ngoãn ngồi bên cạnh chờ bố, đang chơi với cái iphone.  Nó mừng rỡ nhìn tôi nói:

-Con tới trễ chừng nửa tiếng thì bố chắc đi rồi…  Sao bố không gọi 911?

-Bố bị Covid phải không con?

No, your Covid test is negative – You got something much, much more serious than thatDaddy.

Nghe như thế thì biết thì biết như thế, nhưng đầu óc tôi lúc ấy hoàn toàn không còn cảm nhận, không hiểu được ra gì cả.  Rồi chẳng bao lâu lại mê đi, rồi lại tỉnh dậy rồi lại mê đi cho đến ngày hôm sau mới nói chuyện được với bác sĩ.  Bác sĩ chỉ vắn tắt cho biết, mày bị ung thư, nhưng tụi tao vẫn còn chờ đợi kết quả thử nghiệm…

Vợ tôi hôm đó cũng đã khẩn cấp bay từ Cali về, hai người chỉ biết ngồi tâm sự, bàn những chuyện cần phải làm, nhưng tuyệt nhiên, không ai than trách số mạng.  Trời cho, trời lấy, chẳng có gì phải thắc mắc buồn phiền ở đây.

Thêm vài ngày nữa, tỉnh táo hơn, nằm trong nhà thương có nhiều thì giờ, tôi bắt đầu suy nghĩ về những gì xảy ra.  Và càng suy nghĩ những chi tiết thì tôi càng thấy giật mình.  Việc tôi nằm ở trong cái ICU này không phải là một chuyện mới xảy ra một sớm một chiều mà dấu hiệu đã có từ cách đây mấy năm mà tôi không thèm để ý đến.  Tôi xin viết lại để chia sẻ với những ai ở lứa tuổi trên dưới 70 như tôi.

Hai: Những dấu hiệu ngầm báo trước mà tôi không thèm … thấy

1/ Cách đây khoảng chừng 3 năm, mặt tôi bỗng bị nổi lên những đốm đen trên má, ban đầu nhỏ nhưng sau lớn dần như đồng xu.  Cho rằng đây là dấu hiệu của tuổi già, tôi phớt tỉnh.

2/ Khoảng 2 năm trở lại đây, tôi thấy trong người khá mệt mỏi và bắt đầu ngủ càng ngày càng nhiều.  Có ngày tôi ngủ đến 10, 12 tiếng, chưa kể ngủ trưa, ngủ vặt.  Tôi nghĩ bởi mình đã lớn tuổi, lại hay ăn nhậu hay làm việc nhiều quá, nên chẳng quan tâm lắm.  Tôi bắt đầu bớt ăn nhậu lại, nhưng tình hình chẳng khá hơn gì.

3/ Đầu óc tôi thấy không còn minh mẫn, không còn trí sáng tạo như ngày xưa.  Có lẽ đó là lý do tôi quyết định về hưu hồi đầu năm ngoái.

4/ Tôi rất dễ cảm thấy lạnh.  Trong sở tôi, ai bước vào văn phòng tôi cũng chê nóng vì tôi để nhiệt độ cao mà vẫn phải mặc thêm áo khoác.

5/ Thân thể cảm thấy bị ngứa ngáy nhiều chỗ, nhất là sau lưng…

6/ Quan trọng hơn cả, những tháng sau nay, mặt mũi tôi bắt đầu lần lần thấy biến dạng, sưng lên những thớ thịt hai bên má và dưới cổ, có hạch ở nách và dưới háng….

7/ Hay bị chảy nước mắt và mắt cảm thấy bị mờ, ngứa ngáy.  Đi khám mắt, bác sĩ chỉ cho thuốc uống.

Đây toàn là những dấu hiệu không tốt, và nếu cẩn thận, một người sẽ đi hỏi bác sĩ.  Dĩ nhiên là tôi có hỏi bác sĩ của tôi, một thanh niên mới ra trường, kinh nghiệm không biết có bao nhiêu nhưng đã mở phòng mạch hốt thuốc đếm tiền.  Hắn chỉ lắc đầu bảo, không có gì quan trọng.  Mẹ, bác sĩ đã nói thế thì ông việc gì phải lo.

Cho đến những ngày hôm nay…

Ba: Những gì tôi đã gây ra cho chính tôi

Thành thật mà nói, dĩ nhiên là tôi cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự suy sụp sức khỏe của mình.  Trước hết, ai cũng biết, tôi bắt đầu biết ăn nhậu từ hồi chưa đi lính.  Vào lính, nhậu dữ hơn.  Qua Mỹ, nhậu tiếp.  Những năm gần đây, tôi bớt uống đi nhiều, nhưng mỗi ngày cũng phải chơi vài chai bia vân vân.

Có nhiều thì giờ ngồi coi lại hồ sơ bệnh tình và của tôi, nhất là phân tích những kết quả thử máu, tôi ngạc nhiên nhận ra vài điều sau đây:

1/ Số lượng sodium (muối) trong máu quá thấp:  Cách đây khoảng 20 năm, vì bị áp huyết hơi cao, nên tôi đã cử ăn mặn tối đa.  Tôi không còn nhớ mình đã cử như thế nào, nhưng hình như đã mấy chục năm qua, tôi còn nhìn thấy một hũ muối nào trong nhà nữa.

2/ Ăn Chay: Khoảng hơn 3 năm nay, khi nhìn thấy những người làm việc trong hãng tôi càng ngày bụng càng bự, đứng gần chúng nó, tôi có cảm tưởng như mình đứng gần cái thùng tô-nô.  Thế là tôi đâm hoảng, không muốn như chúng nó nên quyết định ăn chay.  Thay vì ăn uống 3 bữa như thiên hạ, tôi chỉ rút xuống chỉ còn ăn 1 bữa ăn chính.  Sáng sớm thức dậy, tôi chỉ chơi một ly cà phê, buổi trưa không ăn gì và buổi tối thì ăn một bữa thịnh soạn với rượu bia đầy đủ.

3/ Tự uống Aspirin để ngừa đột quỵ:  Đã từ hơn 20 năm nay, nghe lời ai hay đọc ở đâu không biết, tôi uống mỗi ngày 31 mg Aspirin.  Cách đây 2 năm, tôi tăng lên 238 mg (tức gấp 3 lần).  Cho đến năm ngoái, tự dưng tôi bị chảy máu cam, chảy hoài và chảy nhiều lần.  Tôi liền ngưng uống Aspirin thì đồng thời cũng hết bị chảy máu cam.

4/ Không bao giờ coi trọng việc ăn uống.  Xuất thân là một người lính, tôi luôn luôn coi thường chuyện ăn uống.  Có khi cả tuần lễ, chỉ uống bia chứ không ăn.  Khi nào đói quá, quơ đại vài miếng bánh, miếng chip, ăn cũng xong.  Nếu cần đổi một bữa ăn để lấy một chầu nhậu, tôi sẵn sàng liền.  Lính mà em.

5/ Tôi không biết mình đã bị thiếu dinh dưỡng trầm trọng, từ thiếu máu, muối, ít chất Albumin trong gan, vân vân.  Tôi, nói một cách khác, suốt mấy năm nay, đã tự nhịn đói đến … gần chết mà không hay.

6/ Tập thể thao.  Tôi không bao giờ tập thể thao nhưng mỗi ngày vận động, làm việc nhà, cắt cỏ vân vân cho đủ một tiếng đồng hồ.  Chuyện này không đến nỗi tệ.

Cũng có một điều cần nói là sau 4 tuần lễ trong nhà thương, họ chạy cho tôi hơn vài chục cái khám nghiệm, đủ mọi thứ scan, ultrasound, bone marrow, thử máu, đủ cả, bác sĩ xác nhận bao tử, thận của tôi còn rất tốt, không hề bị tiểu đường hay một thứ bệnh gì.  Tôi không phải là thầy thuốc nên không biết những gì tôi làm đã gây tai hại cho sức khỏe của tôi như thế nào.  Và cũng đếch có thì giờ để bàn thêm ở đây, nhưng xin viết lại để anh em coi cho vui.

Bốn: Vài câu chuyện kể lại cho vui

Dĩ nhiên là trong cuộc đời mình, chuyến đi nào thường cũng để lại nhiều kỹ niệm.  Chuyến đi vô nhà thương vừa rồi tôi cũng có vài chuyện đáng kể lại cho vui.

1/ You can die any moment now… (Lời bác sĩ)

Sau khi được đưa từ ICU xuống phòng bệnh, một buổi sáng Chủ nhật, tôi nhớ hôm đó trời ở Texas bắt đầu bị bão tuyết, tôi đang ngồi nghĩ đến bạn bè bên đó đang bị cúp điện, sống chết không biết thế nào thì khoảng 8 giờ, ông bác sĩ có lẽ là trưởng ca trực ngày hôm đó và một phụ tá bước vào phòng tôi, tay cầm một xấp hồ sơ, mặt mày coi nghiêm trọng lắm.

Ông bác sĩ ngồi xuống giường tôi rồi buông liền một câu xanh dờn:

-Mr. Le, xin thông báo cho ông biết là ông đã được chẩn bệnh với Advanced lung cancer.  You can die anytime now…

Mới nghe qua, tôi tưởng mình nghe lộn.  Nhưng ngài bác sĩ lập lại như thế.  Ngay lúc ấy, tôi còn đủ sáng suốt để biết rằng một ông bác sĩ Mỹ trực một nhà thương to lớn như thế này không bao giờ có thì giờ rảnh để tới đây ngồi nói đùa với tôi một câu chuyện quan trọng như vậy.

My death sentence has just been written in the sky, and I know it… Tôi nhủ thầm trong lòng mình như thế.  (Sau này xuất viện, tôi biết tôi được chẩn bệnh không bị ung thư phổi.)

Tôi nhớ mãi, lúc ấy nghe như thế và nhìn qua cửa sổ nhà thương, tôi thấy như linh hồn mình như sắp sửa được bay ra khỏi cái giường bệnh với những cái ống nhựa đang dính chằng chịt vào người tôi, được bay ra khỏi cái chốn ngục tù tăm tối đầy những sự ràng buộc vô nghĩa lý của thế gian này, bay tuốt lên trời cao, ở một chỗ nào đó thanh vắng hơn, yên bình hơn, tự do thoải mái hơn chỗ tôi đang ở.  Mẹ, làm người khổ thật.

Ở giây phút bi thảm nhất của cuộc đời đó, tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy lòng mình tự nhiên trở nên bình thản và thanh tịnh vô cùng, chẳng thấy có gì phải tiếc nối cả.  Ngày xưa tôi đã luôn luôn nghĩ rằng, nếu một ngày nào đó có ai đến bảo cho tôi biết rằng tôi sắp chết, có lẽ tôi sẽ vật vã đau đớn, quỳ xuống mà lạy trời lạy Chúa, lạy luôn cả Phật, lạy tuốt luốt tất cả để xin được sống lâu thêm. Nói ra nghe hèn thật nhưng cuộc đời là thế, con người là thế, có ai hơn ai.  Phải đến lúc đứng trước ngưỡng cửa Tử Sinh của cuộc đời mới biết được chính mình là ai.

Tôi chưa bao giờ biết được tôi là ai, nhưng, như đã nói, buổi sáng hôm đó tôi không hề thấy sợ hãi hay nối tiếc bất kỳ một cái gì trên cõi đời này.  Phải chăng tôi đã bắt đầu biết được chính tôi sau 70 năm làm người?  Hoặc giả, tôi đang còn bị … say thuốc nên mới “ngon lành” như vậy.  Tôi chẳng biết được.

Dù cả một cuộc đời làm lụng hy sinh cho gia đình, đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất đời cho tổ quốc, mới được về hưu có mấy tháng, chưa kịp hưởng gì đã phải tất tả ra đi, tôi chẳng thấy buồn phiền tiếc nuối gì cả.  Trước sau gì rồi ai cũng phải ra đi thôi.  Đi sớm cũng vậy mà đi sau cũng thế, có ở lại chốn trần gian này thêm vài chục năm chưa biết cũng sẽ được cái gì.

Nhưng tự nhiên, tôi nghĩ đến một điều làm cho tôi cảm thấy đau buồn quá đỗi.  Đau buồn đến khóc được.  Đó là, tôi tự hỏi, suốt đời mình, không biết mình đã làm được cho bao nhiêu người sung sướng?  Hoặc đau đớn hơn cả, mình đã làm cho bao nhiêu người buồn?  Một lời mình nói ra không cần phải nói, một câu chửi thề không cần phải chửi, một lời phê bình không cần thiết, tôi đã làm cho bao nhiêu người buồn phiền cay đắng?

Quãng đời 70 năm từ lúc lọt lòng mẹ cho đến ngày hôm nay chạy xẹt qua thật nhanh như một ánh chớp.  Những ngày thơ ấu làm khổ cha mẹ anh em, vào trường học làm khổ thầy giáo bạn bè, đi lính thì vô kỷ luật, vân vân… Tôi đã làm một người lính… không bình thường chút nào, gây phiền toái rắc rối cho không biết bao nhiêu người.

Suốt đời tôi, tôi đã nói được bao nhiêu lần những lời nói ngọt ngào êm ái ngay cả với vợ con, với người thân, với anh em bạn bè?  Miệng tôi đã nhả được bao nhiêu cành hoa, bao nhiêu hương thơm, bao nhiêu lời hay ý đẹp, bao nhiều lời khen tặng cho đời được tươi đẹp hơn, hay chỉ mở miệng ra là văng tục chửi thề, phun ra những lời nói không hay làm cho nhiều người vốn đã đau khổ lại càng phiền muộn thêm?

Ngay lúc ấy, tôi muốn quỳ ngay xuống đất để xin tạ tội với tất cả mọi người mà tôi đã làm cho họ buồn bực hay không vừa ý trong suốt đời tôi, từ những người thân thiết như cha mẹ đến vợ con, anh chị em trong nhà cho đến bạn bè bằng hữu.  Xin tất cả hãy tha thứ cho tôi, để tôi được thoải mái và thanh thản ra đi, lòng không vướng bận gì.

Một lúc sau, ông bác sĩ lại hỏi tôi, nếu tôi bị trường hợp… bất ngờ, tôi có cho phép nhà thương rút ống hay chữa trị bằng mọi cách?  Tôi đã tính quyết định cho họ rút ống đi, nhưng chợt nhớ ra người vợ ở nhà, tôi bảo chuyện đó để vợ tôi lát nữa sẽ vào đây quyết định.  Tôi sẽ từ từ trình bày với nàng mọi chuyện khi nàng vào đây.

Ông bác sĩ bắt tay, để lại tờ giấy… rút ống trên giường, chúc tôi may mắn.

Tôi liền bốc điện thoại gọi cho hai đứa con thân yêu, báo cho chúng nó biết rằng bố chúng nó sẽ ra đi.  Tôi chậm rãi và bình thản trăn trối cho từng đứa một những lời cuối cùng của một người cha đã hy sinh và chiến đấu cho chúng nó suốt cả cuộc đời mình, vắn tắt dặn dò những gì muốn nói, giọng đều đều, không hề xúc động, bình thản và chịu đựng,như ngày xưa lái tàu bay, sau những trận đánh đẫm máu, gọi máy về nhà báo cáo kết quả, những xe tăng địch bị thiêu hủy, những xác người cháy đen nằm đầy dẫy trên núi rừng Trường Sơn.  Hai trạng huống, hai mảnh đời khác biệt, nhưng mầm móng và hình ảnh đau thương buồn thảm của những sự chết chóc chia lìa chẳng khác nhau chút nào.  Một lúc nào đó, các con tôi khóc rống lên trong đường giây, nghe chịu không được.

Rồi vợ tôi vào, câu chuyện trở nên hơi phức tạp hơn và rất nhiều xúc động, nhiều cảm tình và nước mắt nhưng rồi cũng xong.  Chúng tôi đồng ý ở một quyết định chung.

Nhưng cuối cùng thì tôi vẫn… không chịu chết.  Ra khỏi nhà thương 3 lần, lại bị lôi cổ nhập viện vào phòng cấp cứu 2 lần vì bị xuất huyết không cầm được.  Lần cuối cùng, nếu trễ nửa tiếng đồng hồ thì tôi đã được đưa thẳng xuống nhà xác thay vì ICU.  Đây là lời bác sĩ nói, tôi không… chế biến.

Bây giờ tôi đã về nhà được gần 2 tuần, đang xạ trị và thấy càng ngày càng khỏe ra như trâu.

2/ I’m not a brave man

Một đêm nọ, một bà y tá tới đổi máu và chích thuốc cho tôi.  Nhìn những ống kim ống ni-lon chằng chịt quanh mình, tôi lắc đầu ngao ngán than: “You know, I’m not a very brave man.  This stuff scares me …”

Tôi nói là nói cho vui vậy thôi trong một giây phút ngã lòng chán nản, nào ngờ, bà y tá quay lại nhìn tôi, nghiêm mặt nói: “Mr. Le, everybody here thinks you’re a very brave man.

“Wow, how is that?”

You have conducted yourself perfectly in this hospital.  You are suffering tremendously, yet you take it bravely, silently and gracefully.  You always have that beautiful and confident smile on your face.  We are supposed to comfort you, but it’s you that comfort us, cheer us up.  Thank you Mr. Le.”

Thành thật mà nói, nghe như thế thì lòng mình thấy vui hẳn lên.  Không phải riêng gì tôi nhưng bất cứ ai đã từng mắc áo lính đều phải học để biết… chấp nhận thương đau.  Mẹ, nếu chết thì đành phải chết chứ làm đếch gì mà phải nhăn nhó đau khổ, làm mất cái hào khí của người lính đi, phải không các bạn?  Tôi hãnh diện rằng mình vẫn còn có chút máu lính trong người và hành xử như một người lính của QLVNCH trong một cơn thất cơ lỡ vận.

3/ Thèm ăn đồ Mỹ và đồ ngọt

Sau một tuần lễ nằm bệnh viện và được tiếp khoảng 9 bịch máu, tôi bỗng thèm đồ ăn thức uống của… Mỹ.  Những cái Hamburger King mày ngày xưa đi làm, cực chẳng đã mới ăn vài cái, và chẳng bao giờ thấy ngon lành gì.  Nhưng nằm coi TV, thấy chúng nó quảng cáo, tôi thèm nhỏ dãi.  Lại thèm cả những đồ ngọt mà ngày xưa tôi rất ghét như Coca, bánh Cookie, Kem vân vân…  Nửa đêm tôi gọi điện thoại cho vợ, dặn dò mua cho tôi những thứ này thứ kia.  Ngày hôm sau, vợ tôi khệ nệ bưng vào một bịch đủ thứ.  Nàng nói đùa với tôi: “Anh được tiếp máu Mỹ nhiều quá nên bây giờ anh thành người Mỹ rồi.”  Một câu nói đùa nhưng nghĩ cũng hơi có lý.  Vài ngày sau, có chút thì giờ rảnh, tôi dở kết quả thử máu ra nghiên cứu thật kỹ mới thấy lượng đường trong máu mình xuống còn có 54 (bình thường 70-110), ngay cả lượng muối, Potassium, cái gì cũng thiếu cả.

4/ Nhớ lại một bài thơ cũ làm năm 2012

Vì không biết làm thơ nên tôi rất sợ thơ, nhưng lâu lâu nổi hứng cũng làm đại một bài.  Năm 2012, nhân việc thiên hạ bàn chuyện “Ăn Cơm Hay Ăn Phở” trong một bàn nhậu, tôi nổi hứng làm đại một bài chọc phá thiên hạ cho vui.  Bài thơ mới đầu là ăn phở, nhưng từ từ lại … biến thái trở thành chuyện nhậu nhẹt với Diêm Vương dưới âm phủ.

Một đêm trong nhà thương, tôi giật mình thức dậy vì không thở được.  Không hiểu tại sao, tất cả những ống ni-lông ống Oxy và IV của tôi vẫn đầy đủ nhưng tôi không thể nào thở được.  Tôi ngộp thở muốn chết, tôi vùng vẫy lăn lộn, muốn bấm máy gọi y tá nhưng không gọi được, đầu óc trở nên xây xẩm rồi ngất lịm đi.

Và tôi thấy hồn mình bay khỏi xác, bay xuống dưới âm phủ thật.  (Tôi phải xuống âm phủ vì chẳng ai cho một thằng du côn mất dạy như tôi vào Thiên Đàng—đành chịu thôi) Và xuống âm phủ thì nhất định phải gặp Diêm Vương.  Nhưng gặp Diêm Vương rồi lại được trở về mới là hay…

Không biết bao lâu sau đó, tôi giật mình tỉnh giấc thấy thiên hạ bu quanh mình đông như kiến, chỉ chỏ nói năng tùm lum.  Tôi đếch có thì giờ để tìm hiểu tại sao, nhưng tôi biết tôi vừa thoát chết.  Và tôi nhớ ngay đến bài thơ “Ăn Phở” tôi làm năm 2012 như sau:

Ăn cơm hay ăn phở? 

Đầu năm mới làm bài thơ … con cóc

Chuyện ăn cơm, ăn phở thứ nào ngon?

Thiên hạ người muốn ăn kẻ bảo đừng

Có anh còn sợ cơm nhà bị hàng xóm… bứng

Lạy Thượng Đế con xin người tha thứ

Phần con, cơm khê, cơm nhão, con đều… đớp ráo

Ra đường gặp phở con cũng… chơi luôn.

Hủ tíu Mỹ Tho ư? Sức mấy con từ

Mì Vịt tìm là món con khoái khẩu

Ếch xào lăn, khỏi nói nhậu tới chiều

Càng cua rang muối càng nhai càng nhớ đến:

Cặp… mông đít em cắn mãi, sao ngon được như vầy?

Ham Bơ Gơ Mỹ ai chê xin để đấy

Tóc vàng mắt xanh, “Thù dân tộc” con đành phải trả

Su-Shi uống với Sa-Kê con sẽ …  “Đoàn kết Đại Đông Á”

Jambon Pháp thịt trắng tươi thơm phức, ngu sao chẳng vồ?

Đời người ngắn ngủi làm con phải ằng-gioi

Ai cười con chịu ai chê con cũng cười

Nhưng có vài thứ con không bao giờ đụng tới:

Một là vợ bạn, hai bà con máu mủ,

Ba là phụ nữ tuổi con cháu mình…

Được dâng hiến con lắc đầu… bỏ chạy

Mai mốt ngủm, xuống đáy tầng địa ngục

(Trời đất nào dung một thằng quỷ như con?)

Gặp Diêm Vương hắn chỉ mặt quát lớn:

Thằng quỷ sống, sao giờ này mới xuống?”

Con chẳng hãi quạt liền, “Mẹ, vừa thôi bố,

Cũng đều là … quỷ, sao mày nỡ ép nhau?

Kiếm chai rượu mình ngồi đây cạn láng

Nói thật với mi tao chẳng hám Thiên đàng,

Bởi trên đó toàn Cha Cố Bà Sơ, người đúng đắn

Mặt mày táo bón, bộ tịch nghiêm trang coi mà thấy nản,

Ăn mặc kín bưng chẳng cho ai xem tí… vú chút đùi

Uống toàn nước lạnh, hay cô ca hay cà phê sữa đá

Tao đây bợm rượu làm sao mà sống nổi?

 Tao thà xuống địa ngục với mi

Bởi nơi đây hảo hán bạn bè đầy đủ cả,

Toàn những thằng trời đánh phải…. đứng xa

Những thằng ngày xưa vá trời lấp biển

Áo lính giày sô ngang dọc bốn phương trời

Nhưng nửa đường gẫy cánh dù đại bàng cũng ngã

Thành không giữ được, gạt nước mắt, lời thề xưa đành bỏ

Thằng chết thảm, thằng vào tù, thằng bỏ chạy

Uất hận cháy con tim và linh hồn ngập máu

Thôi đành “Làm Quỷ Nước Nam” kể từ ngày tháng đó…

Mi Quỷ nhà trời, tao Quỷ nước Nam, mình cùng đều là quỷ

Thôi uống đi cha đừng giở trò lý sự…”

Diêm vương nghe nói liền bùi ngùi sa lệ,

Hắn vỗ vai con “Này thằng quỷ nước Nam,

Năm 75 địa ngục tao bỗng rộn ràng,

Dân lính miền Nam tự dưng ào đổ xuống

Chết trong ngục tù, chết trên biển cả đại dương…

Chết vùng kinh tế mới, chết vì thiếu ăn, chết bờ chết bụi

Những người thảm tử chết oan mắt không thể nhắm

Chuyện tang thương tao đâu biết, bây giờ mi mới nói,

Cho tao xin lỗi đã làm mi nổi nóng

Thôi bây giờ mi có muốn chi không?”

 Lỗi phải mẹ gì vểnh tai nghe tao nói

Tao muốn mi lên trở lại trần thế

Diệt hết loài Cộng Phỉ cho tao

Thằng Hồ thằng Duẫn chết trốn nơi nao?

Và luôn cả thằng cẩu Kỳ khốn nạn

Chỉ cho tao, tao đái vào mặt chúng

Diêm Vương đưa con cuốn sổ miệng cười cười:

Chuyện nhỏ cưng ơi, đây này mày sẽ thấy

Cộng Phỉ sắp tàn rồi sổ sách có ghi đây

Còn bọn thằng Hồ tụi Cộng Sản ác ôn

Tao nhốt hết dưới hầm phân mày ỉa đái

Thôi uống đi cha để rồi cho tao hỏi

Tại sao trần thế có cơm mà còn hay mê phở?”

Con làm ngụm rượu rồi khà ra một phát:

Mẹ, quỷ nhà trời sao hiểu được bọn tao?

Cơm ăn hoài phải đổi món chớ sao

Không những Phở ngon nhưng còn nhiều thứ khác…

Diêm vương ngắt lời và chắp tay mà lạy:

Con lạy ông, xin ông đừng nói nữa

Làm con thèm chắc bỏ địa ngục theo ông

Ông quả đúng là một thằng quỷ sống…

Quỷ sống (mầm non thi sĩ) Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Xuân 2012

Gần chục năm sau, nhớ lại bài thơ, thấy… hay hay, viết lại chia sẽ cho anh chị em coi.  Một điều quan trọng, tâm hồn tôi ngày xưa thế nào thì bây giờ cũng y như vậy, chẳng thay đổi chút nào.  Ai biết đời đổi thay, sẽ không bao giờ thay đổi.

Kết luận

Đời người, Sinh Lão Bệnh Tử là lẽ thường, mỗi ngày có hàng trăm ngàn người chết trên thế giới, chết thêm một thằng dở hơi như tôi cũng chẳng có gì quan trọng.  Tôi viết lại những dòng này vì bây giờ có nhiều thì giờ để nhìn lại cuộc đời mình.  Và nhìn đến đâu thì tôi thấy mình mang nợ tới đó.  Nợ công ơn sinh thành dưỡng dục của song thân, nợ công cha nghĩa mẹ chữ thầy, nợ sông nợ núi, nợ những người lính QLVNCH đã chết cho tôi được sống, nợ bạn bè bằng hữu, nợ tha nhân, vân vân.  Nợ tiền bạc có thể trả được, nhưng nợ ân tình thì khó mà trả lắm, chỉ có chết mới đem theo được mà thôi…

Đã trải qua một lần ở ngưỡng cửa tử sinh của cuộc đời và nhìn thấy được cái phù du mong manh của kiếp người, tôi mới thấy biết ơn vợ con, anh em ruột thịt trong nhà.  Những chuyện này bình thường tôi không nhìn thấy, nhưng khi hữu sự, mới thấy đó là những món quà vô giá mà trời ban cho tôi.  Những giọt nước mắt thổn thức và đau đớn của người vợ hiền, những cái nhìn lo âu sợ của con cái, những chia sẻ ngọt ngào của anh em ruột thịt trong nhà, đã làm cho lòng tôi rúng động.  Rồi còn bạn bè xa gần nữa.  Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã làm gì xứng đáng để được quý thương như thế.  Tôi thật là may mắn lắm …

Thôi thì xin cho tôi được quỳ xuống đất mà lạy tạ tất cả.

Nhắc tới bạn bè, từ bạn học La San ngày xưa còn bé cho đến bạn bè anh em trong phi đoàn ngày xưa, bạn lính, bạn trong những hội ái hữu, bạn trong phong trào tranh đấu, bạn văn, bạn ăn nhậu bây giờ, bỗng cảm thấy nhớ và thương quá họ quá.  Tôi chí tình với người ta như thế nào thì tôi chưa biết rõ, nhưng tôi thấy anh em bạn bè chí tình với tôi quá.  Từ ngày tôi ngã bệnh, đã không biết có bao nhiêu email, bao nhiêu lời nhắn gởi nồng nàn thân thiết đến với tôi.  Tôi đọc và cảm động lắm, nhưng chưa có dịp trả lời.

Nhân bài này, tôi xin gởi đi khắp nơi để cám ơn tất cả các bạn bè thân mến xa gần của tôi, dù chỉ quen biết nhau qua email, chưa một lần được gặp.  Những tấm thịnh tình này, tôi nguyện khắc cốt ghi tên.  Tôi hiện còn mệt lắm, xin đừng gọi điện thoại, nhưng tôi có thể đọc mail, dù chưa thể trả lời được…

Văn Bút Nam Hoa Kỳ ở Houston sắp long trọng tổ chức họp mặt bầu ban chấp hành mới ngày 13 tháng 3 này, nghe vui quá nhưng tôi đang làm Xạ Trị, không đi được, đành xin kiếu.  Xin uống giùm tôi vài hớp rượu cho tôi đỡ thèm, chửi thề giùm tôi vài tiếng cho tôi đỡ nhớ, và cuối cùng, hãy cười lên khằng khặc để nhớ đến nhau.  Chúc anh chị em vui vẻ và hẹn lần sau.

From: TU PHUNG

Người Mẹ Của Biên Giới Sống Và Chết

Người Mẹ Của Biên Giới Sống Và Chết

 NGUYỄN TẦM THƯỜNG

 

 

 

Năm 2000 tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu.

Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng, bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy, 1 US dollar được 25 pesos tiền Philippine. Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ sách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.

Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót. Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước, và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.

Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết. Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Đau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu? Vợ chồng mỗi người một ngả. Đứa con mất tích sẽ ra sao. Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.

Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.

Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện.

Câu chuyện bắt đầu…

Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.

Đó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong thánh lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.

Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Đất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.

– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Đỏ Hongkong?

Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.

Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Đợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh. Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên nhà thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông nhà thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.

Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây thánh giá trên nóc nhà thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây thánh giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Đêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.

Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé.

Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Đó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.

Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột. Để thỏa mãn điều kiện kia, sở di trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy tỵ nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng không tin chuyện có thể xảy ra như thế.

Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất cả ai cũng khóc. Cao Ủy tỵ nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của con người với con người.

Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thailand tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Đối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm?

Đây là lý do:

Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Độ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin bộ ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế.

Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ bề trên dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh. Một linh mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:

– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.

Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: Người Mẹ của biên giới sống và chết.

Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.

Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn. Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ vào ngày lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh bí tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở nhà thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.

Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi nhà thờ nhỏ miền quê độc nhất. Đêm Noel năm 1985 sau khi đến nhà thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.

Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.

Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi. Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ?

NGUYỄN TẦM THƯỜNG

(Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục, sách in lần thứ nhất năm 2002)

Chuyện Tình Của Chú Năm-TRUYỆN NGẮN-Ý NGÔN…

  May be an image of food

TRUYỆN NGẮN Ý NGÔN…

Chuyện Tình Của Chú Năm

Chú Năm bước đến hàng bán cá mua hai con cá rô phi, nhờ người bán làm sạch và chiên dòn. Có một người đàn bà cũng đang đứng chờ chiên cá như chú, chị nói:

– Bữa nay thứ Tư họ thay dầu mới, cá chiên nóng về ăn với nước mắm tỏi ớt ngon lắm.

Chú Năm mỉm cười không nói gì, chú đâu biết pha nước mắm tỏi ớt, hồi trước lúc vợ chú còn sống chuyện bếp núc một tay bà lo.

Vợ chú chết hai năm nay, chú không biết nấu ăn lại không thích vô bếp, cứ ra tiệm mua thức ăn người ta làm sẵn mang về, ở thành phố này thì có rất nhiều tiệm bán thức ăn Việt, rất tiện.

Chú có hai đứa con, một trai một gái. Đứa con gái lớn vừa lấy chồng, theo chồng sống ở tiểu bang khác. Thằng con trai mới học xong mùa hè vừa rồi, xin được chỗ làm lương cũng khá, nhưng hơi cực, ngày làm mười tiếng lâu lâu phải đi công tác xa cả tuần mới về. Hai cha con chú ăn uống cũng dễ, nhà có gì ăn đó, nếu không thì luộc mì gói cũng xong.

Thằng con chú đi làm bận bịu cả ngày, nó thường ăn ở ngoài, thỉnh thoảng mua đồ ăn đem về cho chú. Từ ngày bà xã thình lình bỏ chú ra đi, chú cảm thấy căn nhà sao mà trống vắng buồn tênh. Chú tìm việc gì làm cho khuây khỏa, chú ra sau vườn nhổ cỏ trồng rau, nếu không thì thả bộ lang thang mấy khu mua bán của người Việt, nghe người ta nói tiếng Việt lao xao cũng thấy đỡ buồn.

Sáng nay thứ Tư, nhớ lời người đàn bà chú gặp tuần trước, thứ Tư người ta thay dầu mới, chú đến chợ mua cá rô phi chiên dòn. Chú định bụng nếu gặp người đàn bà đó, chú sẽ nhờ chị ta chỉ cách pha nước mắm tỏi ớt.

Đến nơi, có lẽ còn hơi sớm, chợ ít người, hàng bán cá chẳng thấy ai mua, chú không phải chờ lâu xách hai con cá vừa chiên xong nóng hôi hổi ra về. Ra cửa chú thấy người đàn bà đó đang đứng chờ người nhà đến đón, chú xáp lại nói chuyện.

– Dễ lắm, anh rót nước mắm sống vô chén, pha chút nước lạnh, bỏ đường, nặn chanh, cho vô ớt bằm, tỏi bằm. Nếm vừa ăn là được, tùy người thích ăn ngọt thì thêm chút đường.

– Pha nước mắm mà nhiều công đoạn quá vậy?

Chị cười xoà. “Bả đâu?”

– Bả bỏ đi hai năm rồi.

Chị im lặng mím môi, chắc là chị nghĩ ông này bị vợ bỏ. Chú Năm không buồn đính chánh câu nói lấp lửng của mình.

– Cô chờ người đến đón?

– Dạ, chờ thằng cháu.

– Có phải cô tên Sáu? Hôm trước tôi nghe người nhà cô kêu chị Sáu.

– Tôi tên Nguyệt, thứ sáu nên người trong nhà kêu theo thứ chớ không kêu tên.

– Tôi cũng vậy, tôi tên Minh nhưng người quen đều kêu theo thứ, nhiều người tưởng tôi tên Năm.

– Anh đã nghỉ hưu?

Chú Năm cười xoà chỉ mái tóc của mình, tóc bạc hết cô không thấy sao, vài tháng nữa là bảy chục rồi.

– Thấy anh cũng còn trẻ, về Việt Nam người ta tưởng chừng sáu chục. Chú Năm cười hề hề, lúc này xuống dốc thấy mau già chớ lúc trước tôi trông trẻ lắm, ai thấy cũng khen.

– Cô chắc còn đi làm?

– Dạ, tôi còn trẻ mà, anh thấy tôi chừng bao nhiêu tuổi? – Sáu chục. – Sáu mươi hai rồi đó.

– Chắc cô mới qua?

– Dạ cũng được ba năm rồi, lúc tôi qua má tôi yếu nhiều, bệnh già thôi, tôi qua kịp lúc săn sóc bà già trong những ngày cuối đời của bà. Chớ lúc trước bà ở nhà lủi thủi một mình tội lắm, ai cũng đi làm. Má tôi chết hơn sáu tháng rồi, nhiều người quen thấy tôi săn sóc người già tốt, họ kêu tôi giúp. Tôi hiện đi làm hai chỗ, tôi có bằng lái xe nhưng còn hơi nhát không dám lái, đi đâu cũng nhờ đưa đón nhiều lúc cũng bất tiện.

Chị cười hì hì… Thằng cháu chị đến đón, chú Năm trở vô chợ mua ớt, tỏi, đường, nước mắm, nhà chú lâu nay chẳng ai nấu nướng nên trong bếp trống lỏng chẳng có gì. Tự nhiên chú thấy vui vui yêu đời, chú tập tành làm bếp.

Sáng thứ tư là chú Năm thấy rộn ràng muốn đi chợ, chú thấy nhớ cô Sáu, chú muốn gặp cô nói ba điều bốn chuyện. Mới gặp nhau sao thấy hạp, nói chuyện hoài không muốn dứt. Hình như cô không có chồng, cái kiểu cô nói chuyện có thể đoán cô là người có một mình ên.

Đến nơi chú Năm đến hàng bán cá trước, không thấy “người ta” chú đi lòng vòng gian hàng bán đồ khô, nhưng chú không mua thứ gì rồi bước qua khu bán rau cải. Chú mua mấy trái dưa leo cùng một bó rau muống. Rau muống luộc thì chú biết cách làm không cần ai chỉ.

Đảo quanh mấy vòng cũng không thấy “người ta”, chú đến quầy trả tiền rồi bước ra.

Hôm nay chú không mua cá, thằng con chú không thích ăn cá, hồi nhỏ nó ăn cá he mắc xương giờ thấy cá nó sợ. Chú vô tiệm bán thức ăn làm sẵn gần bên mua một phần canh chua tôm và một phần thịt sườn ram mang về.

Chú Năm chợt thấy “người ta” bước vô chợ, chú đã đề máy xe nhưng lưỡng lự chưa muốn đi, chú tắt máy xe bước vô chợ. Chú đi qua hàng đồ khô mua lung tung, đến hàng rau cải mua lung tung mặc dầu không biết mua về để làm gì.

“Người ta” gặp chú mừng rỡ vui ra mặt, chú thì mừng trong bụng kiếm chuyện đi theo “người ta” hỏi nầy hỏi nọ hỏi kia. Chú nói hồi nãy chú qua tiệm “Food Togo” mua thịt sườn ram, thằng con tôi rất thích ăn món này.

Cô Sáu nói dễ làm lắm để tôi chỉ anh làm. Chú Năm liền mua mấy pound thịt sườn non, “để tôi làm thử, làm không xong hôm nào cô đến nhà tôi chỉ tôi làm nhe”.

Bước ra ngoài cô Sáu nói anh về trước, hôm nay tôi đi xe bus, không ai đưa đón.

– Nếu cô không ngại để tôi đưa cô về, nhà cô ở đâu?

Cô Sáu nhìn người đàn ông mới vừa quen, “thấy” ông ta có vẻ là người đàng hoàng tử tế.

– Tôi thì không ngại, chỉ sợ vợ ông ghen.

– Vợ tôi không ghen, nhưng con nhỏ con gái tôi ưa “ghen” dùm cho má nó. Tôi mà quen bà nào, nó theo dòm ngó, nhưng bữa nay nó có chồng đi ở xa rồi, mà giờ chắc lo giữ chồng không còn lo giữ ông già nữa.

Cô Sáu cười khúc khích đi theo chú Năm ra xe. Lúc đến ngã tư đèn đỏ, chú Năm chỉ căn nhà mái ngói đỏ xéo bên kia đường, “nhà có cây chanh phía trước là nhà tôi đó”.

Cô Sáu nói ở đây chanh sai trái thấy ham, giờ thấy cây chanh mới nhớ hồi nãy quên mua. Chú Năm nghe vậy quay đầu xe lại, nói vậy vô nhà tôi hái về ăn, khỏi mua.

Cô Sáu nhìn căn nhà to lớn nghĩ bụng vậy mà ở có hai cha con. Nhà em mình chút xíu ở bảy tám người lớn. Hái chanh xong chú Năm mời cô vô nhà chơi cho biết.

Cô Sáu sẵn dịp chỉ chú Năm làm món sườn ram. Hai người vô bếp, cô Sáu để chú tự làm, cô đứng gần bên chỉ cách. Làm xong chú hâm cơm nguội mời cô sẵn dịp dùng bữa. Cô Sáu tự nhiên không khách sáo, hai người tâm đắc như là quen nhau từ thuở nào.

Trong phòng ăn có treo tấm hình gia đình chụp hai vợ chồng cùng hai đứa con. Cô Sáu khen vợ anh đẹp quá. Chú Năm buồn bã nói vậy mà bả đành đoạn bỏ tôi đi. Chú chỉ về phía bàn thờ gần đó, bả ngồi đó hai năm rồi, phát bịnh có sáu tháng thì mất.

Lúc đưa cô Sáu về chú Năm hỏi xin số phone, để khi nấu nướng có cần gì gọi nhờ cô chỉ, hoặc là đi chợ chú qua nhà chở cô đi chung để cô “cố vấn” chú mua thứ gì, nấu món gì vừa nhanh vừa dễ nấu.

Mỗi cuối tuần cô Sáu hay đi chợ trời, cô rủ chú Năm đi theo chơi cho biết. Cô thích vô đó mua trái cây và rau cải, vừa ngon lại vừa rẻ.

Chú Năm đi theo coi người ta mua bán đồ cũ thấy cũng vui. Cô Sáu là người dưới quê miền Tây, hồi nào tới giờ không có chồng sống với cha mẹ anh em. Cô mới vừa qua Mỹ, ở vào cái tuổi người ta chuẩn bị nghỉ hưu thì mình mọi việc chỉ ở mức khởi đầu. Nhưng cô không buồn, bằng lòng với cái “trời đã định” cho mình.

Chú Năm goá vợ, mấy năm nay chú thình lình bị rơi vào một cơn hụt hẫng buồn hiu. Nhiều lúc ở nhà một mình chú chợt thèm có ai đó đi ra đi vào lảng vảng gần bên. Đi đó đi đây với người đàn bà vừa quen, chị này có gì cũng nói chú nghe, về nhà thấy nhớ thấy trống trãi chỉ mong tới lúc được gặp.

Chú Năm tập cô Sáu lái xe cho quen đường và không còn sợ. Mỗi ngày chú đến nhà cô đậu xe bên lề đường, vô ngồi trong xe của cô. Khi cô lái, có người ngồi kề bên cô thấy tự tin hơn và không sợ.

Chừng một tuần thì cô tự lái đi một mình, cô cám ơn chú Năm rối rít. Rồi thì qua lại tới lui, mỗi khi đi chợ cô gọi chú Năm. Một tuần cô đi chợ ba lần, chợ trời mua rau cải trái cây, chợ thực phẩm Á Đông và Costco mua đồ linh tinh xài trong nhà.

Chú Năm nhiều thì giờ rãnh rỗi, tình nguyện đưa đón cô đi đây đi đó chớ ở nhà một mình buồn thúi ruột. Cô Sáu trả công đến nhà chú tập chú nấu nướng, cô vui mà chú cũng vui, nấu xong hai người ngồi ăn như hai vợ chồng.

Thằng con chú Năm thỉnh thoảng gặp ba nó dẫn đàn bà về nhà, nó nói với chị nó cở này ba có bồ.

Có lần cô Sáu kể chú Năm nghe, hồi lúc cô còn ở Việt Nam, lúc gần đi Mỹ có xuống Bạc Liêu chỗ ông cha Diệp cầu nguyện.

– Em cầu nguyện điều gì? (lúc này hai người xưng anh em).

Cô Sáu cười không nói nhưng cô kể:

– Bận về ghé vô chợ Cần Thơ nghỉ ăn trưa. Em đi vô chợ tính kiếm mua một ít trái cây, có một ông già ngồi coi bói, em đi ngang ổng nói cô ơi coi bói không cô, tôi thấy đường hậu vận cô tốt lắm. Em đi vô quán ăn suy nghĩ thấy ông tội nghiệp, trở ra cho ông một ít tiền. Ông cầm tay em nói cuối đời em sẽ gặp người tốt thương yêu lo cho em, em sẽ không còn cô đơn cô độc một thân một mình nữa.

– Em có tin không?

Cô Sáu nhìn xa xăm đôi mắt mơ màng. – Từng tuổi này mình đâu có mong gì nữa, nhưng chuyện tình cảm nhiều khi tránh cũng không được.

Chú Năm trằn trọc không ngủ được, cứ nhớ đến lời cô Sáu nói ban chiều. Thấy thương cô quá! Nhiều lúc thấy tội nghiệp. Nhưng chú chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bước thêm bước nữa.

Cuộc đời giờ chỉ lấy niềm vui bên con cháu. Thằng con trai chú hơi khó tánh, trong nhà nó giữ ngăn nắp sạch sẽ. Nó là thằng con ngoan thương cha thương mẹ.

Chú Năm hơi ngán nó, không hiểu sao chú cứ ngài ngại nó không đồng ý chú đi thêm bước nữa. Chú không dám dẫn cô Sáu về khi nào có nó ở nhà. Hồi còn trẻ đi chơi với bồ sợ cha mẹ la, giờ bảy chục tuổi không dám dẫn đàn bà về nhà… sợ con la.

Một buổi chiều lúc hai cha con ngồi ăn cơm, chú nói với nó:

– Con cũng biết hồi nào tới giờ ba rất thương cái gia đình này. Má con không may mất sớm, giờ ba chỉ còn hai con, ba cũng đã lớn tuổi không còn sống bao lâu, ba không muốn làm bất cứ điều gì khiến cho gia đình mình không vui, nếu hai con không thích ba sẽ ở vậy cho đến hết cuộc đời còn lại.

Thằng con nghe cha nói như vậy nó ứa nước mắt, tội nghiệp cha nó quá, thương cha nó quá.

– Con và chị con rất thương ba, hồi nhỏ con hay đòi mua cái này cái nọ mà không biết gia đình mình không khá giả gì. Lớn lên con hiểu chuyện thấy ngày đó mình thật là có lỗi.

Giờ ba đã già, con không muốn đòi hỏi ở ba điều gì cả. Từ lúc má chết, đôi lúc thấy ba cô đơn buồn bả con thương ba lắm mà không biết làm sao.

Giờ nếu ba gặp được người nào vừa ý, con và chị con rất mừng, chúng con mong ba luôn vui và hạnh phúc trong những ngày cuối đời.

Thằng con trai khóc, ba nó cũng khóc.

Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku – Phạm Tín An Ninh  

Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku

Phạm Tín An Ninh

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:

– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?

Tôi khựng lại, ngạc nhiên:

– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!

– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?

Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:

– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà. Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi: – Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác. ***

Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:

– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả Nhà Thờ Núi Nha Trang bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt còn có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.

Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:

– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?

Vị linh mục buồn bã:

– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.

Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.

Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.

– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?

Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:

– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.

Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.

– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:

-Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.

Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh

ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!


ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!

Ngày xưa, một cô gái xinh đẹp cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống hôn nhân và muốn giết người bạn đời của mình.

Một buổi sáng, cô ấy chạy đến bên mẹ và nói với bà:

-Mẹ ơi, con mệt mỏi với chồng con lắm rồi, con không còn muốn chung sống với anh ấy nữa. Con muốn giết anh ấy nhưng sợ luật pháp bắt con phải chịu trách nhiệm,mẹ có thể giúp được không?

Người mẹ trả lời:

-Được, con gái của mẹ, mẹ có thể giúp con, nhưng có một nhiệm vụ nhỏ kèm theo.

Cô gái hỏi:

-Nhiệm vụ gì? Con sẵn sàng và sẵn sàng đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào kèm theo để đưa anh ta biến mất.

Bà mẹ chấp nhận rồi nói:

  1. Con sẽ phải làm hoà với chồng con,để không ai nghi ngờ con khi anh ta chết.
  2. Con sẽ phải làm đẹp bản thân để trông trẻ trung và hấp dẫn hơn với chồng con.
  3. Con phải chăm sóc chồng con thật tốt và trân trọng anh ấy.
  4. Con phải kiên nhẫn, yêu thương và ít ghen tuông hơn, có thái độ lắng nghe hơn, tôn trọng và vâng lời hơn.
  5. Tiêu tiền của con cho anh ấy và đừng tức giận ngay cả khi anh ấy từ chối đưa tiền cho con bất cứ điều gì.
  6. Đừng lên tiếng phản đối, hãy khuyến khích hoà bình và dành tình yêu thương để con không bao giờ bị nghi ngờ khi chồng con chết.

Rồi người mẹ hỏi:

-Con có thể làm tất cả những điều đó chứ?

Cô ấy trả lời:

-Vâng,con có thể.

Bà mẹ nói:

-Vậy thì được, con hãy lấy bột này và đổ một chút vào bữa ăn hàng ngày của nó, thuốc sẽ từ từ giết chết nó.

Sau 30 ngày cô gái về với mẹ và nói:

-Mẹ ơi, con không có ý định giết chồng con nữa. Đến bây giờ con càng yêu chồng con hơn vì anh ấy đã hoàn toàn thay đổi, chồng con giờ là một người chồng vô cùng ngọt ngào so với những gì con tưởng tượng. Con có thể làm gì để ngăn chất độc giết chết anh ấy? Mẹ ơi giúp con với! Cô ấy cầu xin với một giọng điệu buồn bã.

Người mẹ trả lời:

-Đừng lo lắng con gái của mẹ. Những gì mẹ đưa cho con hôm trước chỉ là THẢO DƯỢC. Nó sẽ không bao giờ giết anh ta.

Trên thực tế, chính con là liều thuốc độc đang dần giết chết chồng con trong sự căng thẳng và chán nản. Hãy nhận trách nhiệm về chính mình và sửa mình.

Và khi con bắt đầu yêu, tôn trọng và trân trọng chồng con, con mới thấy anh ấy thay đổi thành một người chồng tốt và ngọt ngào.

Đàn ông không thực sự xấu xa, nhưng cách chúng ta phán xét họ quyết định phản ứng và cảm xúc của họ đối với chúng ta.

Là phụ nữ nếu con biết chăm sóc, yêu thương chính mình, biết thể hiện sự tôn trọng, tận tâm, yêu thương, chăm sóc thì anh ấy sẽ 100% ở bên con.

(Sưu tầm)

From: TU-PHUNG

Cái ấm đất – Khái Hưng

Cái ấm đất 

Khái Hưng

Ngày xưa có một người cự phú xứ quê ốm nặng và biết mình thế nào cũng sẽ từ trần liền gọi ba con trai đến bên giường mà bảo rằng:

– Cha sinh được ba con, nhờ trời cùng khỏe mạnh và nết na. Đó là sự quý báu nhất và sung sướng nhất trong đời cha. Trong đời cha, cha đã làm nhiều điều ác, nhiều sự bất công, cha xin thú thực thế trước khi nhắm mắt vĩnh biệt các con.

Nhưng đối với các con thì cha chỉ có một lòng thương mến, chiều chuộng. Có lẽ cũng vì quá thương mến chiều chuộng các con, và quá nghĩ đến tương lai tốt đẹp của các con mà cha đã ác nghiệt, bất công đối với kẻ khác.

Trong khoảng bao nhiêu năm cha đã bòn chắt làm giàu, cha đã hà hiếp bóp hầu bóp họng người ta để có được cái tài sản ngày nay mà cha sắp đem chia cho ba con, chia một cách thực công bằng, nghĩa là chia ra ba phần thực ngang nhau.

Người ốm mỉm cười chua chát nói tiếp:

– Sự công bằng, cha vẫn yêu quý sự công bằng, khốn nỗi cha lại yêu quý các con hơn sự công bằng, vì thế mà dù bản tâm công bằng cha đã nhiều lần trở nên thiên lệch. Thôi thì không công bằng với người đời, ít ra hôm nay cha cũng công bằng được với các con.

Cha muốn rằng sau khi cha từ trần, các con sẽ không kêu ca một điều gì về sự bất công của cha, và sẽ hoàn toàn ưng thích phần gia tài mà cha sắp chia cho.

“ Đây, ba phần tài sản ấy đây, cha đã chia từ lâu (vừa nói người cha vừa đưa ra một bản chúc thư). Nay chỉ việc điền tên các con vào phần các con ưng thuận. Ba phần ấy là: Phần thứ nhất, cái dinh cơ này và ao vườn bao bọc chung quanh, có tới dăm chục mẫu; Phần thứ hai, hai trăm mẫu ruộng và năm chục con trâu; Phần thứ ba, một cái ấm đất …”

Người con cả và người con thứ hai cùng ngắt lời, kêu:

– Một cái ấm đất?

– Ừ, một cái ấm đất. cái ấm đất ấy hiện cha chôn ở dưới một chân giường cha đương nằm đây. Cha yêu quý nó lắm. Ở đời nếu có vật gì cha yêu quý hơn cả các con thì vật ấy là cái ấm đất của cha. Chính nhờ nó mà ngày nay cha có nhà cửa nguy nga và vườn ruộng hằng trăm mẫu. Các con hãy để cha kể lịch sử nó cho các con nghe.

“Hẳn các con cũng biết mang máng rằng ngày xưa cha nghèo lắm. Nhưng chắc các con chưa rõ, chắc các con không thể tưởng tượng được cha nghèo đến bực nào. Ông bà sớm mất, cha phải mang thân đi tha phương cầu thực, trong hầu bao chỉ vỏn vẹn có hơn quan tiền?

Đó là tất cả gia tài mà ông để lại cho cha, và túp nhà tre lợp rạ làm nhờ trên một miếng đất công của làng đã sụp sau một trận bão lớn. Nhưng dù nghèo và mới mười hai tuổi đầu cha vẫn không lo chết đói, cha vẫn tin ở sức cha, ở lòng can đảm của cha và hy vọng ở tương lai, tuy tương lai chỉ lờ mờ xa lắc.

“Buổi đầu bỡ ngỡ, và không có chủ kiến, không có mục đích, cha đi lang thang trên đường cái, định bụng hễ gặp việc gì thì làm việc ấy. Nhưng chả gặp việc gì.

Vì thế, khi tới một tỉnh lỵ, cha đã ăn lấn vào cái vốn liếng nhỏ mọn mất gần một nửa. May sao, Trời Phật dun dủi, một hôm cha gặp một thằng bé tay xách cái ấm đất, tay cầm cái bát sành, miệng cất tiếng rao lanh lảnh: “Có ai nước vối nóng, hai đồng một bát không nào?”

“Cha như chợt trông thấy con đường đi của mình. Thế là cha làm thân với thằng bé, hỏi nó cách thức bán hàng và ngày hôm sau cha trở nên một bạn đồng nghiệp của nó …”

“Câu chuyện dài lắm, mà cha lại sợ mệt không đủ sức kể hết đầu đuôi, ngành ngọn cho các con nghe được. Các con chỉ nên biết rằng cha xuất thân với nghề bán nước vối rong, và cái đồ vật nuôi sống cha lúc buổi đầu, hơn thế, cái đồ vật đã gây cho cha cái lưng vốn thứ nhất nó sinh sôi nẩy nở mãi ra cho tới ngày nay là cái ấm đất quý báu, là cái ấm đất linh thiêng giấu ở trong một bí mật dị kỳ, cái ấm đất mà cha sắp đem chia cho một trong ba con yêu mến của cha.

Nó là người bạn hàn vi của cha. Nó là người bạn thân mật của một quãng đời trong sạch của cha, vì ngày còn phải kiếm ăn với cái ấm đất, cha rất hiền lành, ngay thẳng, thành thực.

Rồi sau, một ngày một thêm giàu có, cha cũng một ngày một thêm lừa lọc, gian trá, ác nghiệt, tàn nhẫn. Nhà cửa đồ sộ, cha đựng lên bằng mồ hôi nước mắt của người đời; vườn, ruộng mênh mang, đó là những giọt máu đào của người đời mà cha đã khôn khéo, gian ngoan, chiếm đoạt.

Đến như cái ấm đất nuôi sống cha thì nó hoàn toàn trong trắng, không hề nhuộm máu, đựng mồ hôi nước mắt của một ai.”

Ngừng một lát, yên lặng nhìn đỉnh màn nghĩ ngợi, rồi người cự phú lại nói: “Cái ấm đất chứa một bí thuật sung sướng, và cha đã tha thiết muốn sung sướng… nhưng cha đã dại dột chỉ muốn giàu có …

Nhưng đó là một điều bí mật mà cái ấm đất sẽ giúp một trong ba con khám phá ra. Vì thế cái ấm đất của cha sẽ là cái ấm đất yêu quý, cái ấm đất đạo đức, phần gia tài mà cha dành cho con nào xứng đáng nhất.

Vậy các con thử mỗi đứa trả lời một câu xem đứa nào sẽ có hân hạnh, sẽ có diễm phúc được chia phần gia tài trong sạch và thiêng liêng ấy”.

Người con cả vội đáp:

– Thưa cha, đời cha thực là một cái gương kiên nhẫn, cần lao, đạo đức cho chúng con và cho khắp mọi người soi. Cái cơ nghiệp hằng vạn của cha, cha đã tay trắng làm nên…

Người cha giơ bàn tay ra vội gạt:

– Không, cha khởi cơ nghiệp bằng cái ấm đất vậy con phải nói: Cha đã được ấm đất dựng lên nhà gạch mới đúng.

– Dạ, con cũng biết thế. Nhưng xây nhà xây cửa, tậu vườn tậu ruộng, há không phải do hai bàn tay trắng với lòng kiên nhẫn, với cái thông minh mẫn tiệp của cha?

Trên đời có biết bao nhiêu đứa trẻ bán nước vối, vậy thử hỏi ngoài cha ra đã một ai làm nên trăm nên nghìn chứ đừng nói làm nên vạn như cha vậy. Vậy thì cái ấm đất chỉ là một vật, một khí cụ mà cha đã dùng để trước là kiếm ăn, sau là làm giàu, cũng như cái cầy, cái bừa, chẳng hạn.

Vâng, thưa cha, cái cầy, cái bừa, con trâu đã giúp cha gây dựng cơ nghiệp to tát, con thiết tưởng ít ra ba thứ ấy cũng phải được xếp ngang hàng với cái ấm đất chứ; Cớ sao cha lại nỡ bên trọng, bên khinh…

Người cha mỉm cười ngắt lời:

– Thôi, con không nên dài lời vô ích, cũng không nên bắt bẻ cha, tội nghiệp. Cha hiểu ý con rồi. Con muốn được chia phần trăm mẫu ruộng và năm chục con trâu chứ gì?

Người con yên lặng cúi đầu không đáp. Người cha lại nói:

– Quả thực con không xứng đáng được cha chia cho cái ấm đất trong sạch và thiêng liêng của cha. Vậy đem bút mực đây để cha điền tên con vào chỗ phần thứ hai.

Người con Cả, sung sướng chạy vội đi lấy cái bút và nghiên mực đặt ở bên mình cha, rồi đưa tay ra sau gáy nâng cha ngồi dậy. Người ốm vừa viết vừa nói:

– Đáng lẽ cha phải chia cho con phần dinh cơ trong đó có nhà thờ ông cha, mà con lại là con trưởng. Nhưng con đã thích ruộng, thích trâu, thì cha cũng chia ruộng trâu cho con.

Cha không muốn làm phật lòng các con trước khi cha nhắm mắt. Bây giờ đến lượt anh Hai. Anh nghĩ sao? Anh thử trả lời để cha xem anh có xứng đáng được hưởng cái phần gia tài quý giá nhất của cha không?

Người con thứ Hai lễ phép cúi đầu thưa:

– Cha đã hỏi, con xin thành thực trình bày. Cái ấm đất mà cha vừa kể cho chúng con biết rõ lịch sự, thực là một cái ấm đất quý, một cái ấm đất phi thường, một cái ấm đất thiêng liêng nữa, như lời cha dạy.

Nó là người bạn buổi thiếu thời của cha, nó là người bạn trong sạch nhất của cha. Bây giờ cha lại muốn để nó làm bạn với một trong ba anh em chúng con, thì con thiết tưởng kẻ nào được phần danh dự ấy phải là người có tài cao, có đức lớn mới xứng đáng. Nay con tự xét mình còn tài hèn, đức mỏng…

Người cha vội cướp lời:

– Nghĩa là con không ưng lấy cái ấm đất chứ gì!

– Dạ, xin cha cho phép con nói hết ý nghĩ của con đã. Cha là người có đại tài, đại đức nên đã tay trắng làm nên cơ nghiệp to tát ngày nay. Con nói tay trắng, tuy con vẫn nhớ công cái ấm đất kia.

Con nói thế là vì con cho rằng có tài, đức như cha dù xuất thân làm nghề gì cha cũng tới được cái đích giàu có hằng vạn. Cái ấm đất chỉ may mắn được lọt vào tay cha lúc ban đầu. Nếu cha xuất thân làm thợ ngõa thì chắc cái bay, cái thước nay cũng được cha quý trọng như cái ấm đất. Tóm lại, làm nên giàu có là chỉ nhờ về tài về đức của cha. Nếu con cũng có tài cao, có đức dầy thì với cái ấm đất cha để cho con, con sẽ cũng làm nổi cơ đồ như cha ngày nay.

Nhưng tiếc rằng tài con hèn, đức con mỏng nên không dám cáng đáng lấy cái công việc khó khan mà chỉ những người phi thường như cha mới làm nổi.

Người cha cười:

– Khéo! Khéo! Khéo! Con khéo nói lắm. Như thế kể con cũng có tài đấy, cái tài ngôn ngữ. Nhưng đức của con thì quả còn mỏng mảnh như con nói. Vậy con chưa xứng đáng để cha chia cho cái ấm đất của cha. Còn anh Ba, anh Ba nghĩ sao? Thử nói cho cha nghe nào.

Người con thứ Ba đáp:

– Thưa cha, cái ấm đất của cha thực là một gia bảo của nhà ta, nếu cha giao nó cho con, thì con xin cam đoan với cha rằng con sẽ chăm nom giữ gìn nó, con sẽ là người bạn suốt đời của nó.

Người cha kinh ngạc hỏi:

– Con có đủ tài đức để giữ nó không, để giữ nó mãi mãi không?

– Thưa cha, con không dám tự cao cho rằng con có đủ tài, đủ đức, và con cũng không biết con có xứng đáng được cha giao cho thứ bảo vật yêu quý của cha không, nhưng nếu cha xét thấy con xứng đáng mà ban cho thì con xin vui lòng nhận.

– Con vui lòng?

– Vâng, con vui lòng.

– Nhưng con phải biết phần gia tài ấy chỉ có một cái ấm đất với mười quan tiền để mua nồi, mua vối, mua củi…

– Thưa cha, ngày xưa cha xuất thân chỉ có một cái ấm đất với ngót một quan tiền.

– Con sẽ phải đi bán vối rong, con sẽ phải cất cao giọng rao suốt ngày nầy sang ngày khác: “Có ai uống nước vối nóng không?”.

– Cha làm được thì con cũng xin cố làm được.

– Con sẽ ngủ nhiều đêm ở vệ hè, ở trong quán chợ.

– Người ta ngủ như thế được thì con cũng ngủ như thế được.

– Hai anh con được một người hai trăm mẫu ruộng, và một người cái dinh cơ đồ sộ này, mà con chỉ được mỗi một cái ấm đất, con không suy bì?

– Thưa cha, hai trăm mẫu ruộng, một nơi dinh cơ rộng rãi với một cái ấm đất, hơn kém nhau thế nào khó lòng mà so sánh được. Nhưng có một điều con tin chắc, là cha đã chia ra làm ba phần bằng nhau, thì tất ba phần ấy phải bằng nhau, không hơn không kém.

Nhận phần hai trăm mẫu ruộng, hay phần dinh cơ, hay phần một cái ấm đất, con tin chắc rằng cũng thế mà thôi, nhất con lại được nghe cha ca tụng cái quãng đời bán nước vối của cha là trong sạch, là sung sướng, và mạt sát cái đời làm chủ nhân mấy tòa nhà và hai trăm mẫu ruộng mà cha cho là một đời lừa lọc, gian trá, ác nghiệt, tàn nhẫn.

Thưa cha, nếu kiếm ăn với một ấm nước vối là sống và tiêu pha phung phí trong tòa nhà này cũng chỉ là sống thì can gì không chọn lấy cái sống trong sạch và sung sướng kia mà lại đi chuốc lấy cái sống ô trọc, khổ sở này.

Thưa cha, con quả quyết xin cha ban cho con cái ấm đất, nếu cha xét con thực xứng đáng được lĩnh phần gia tài quý báu ấy.

Người cha vui cười:

– Xứng đáng thì con xứng đáng lắm rồi! Ngày xưa, lúc lâm chung, mẹ con có căn dặn cha rằng thằng Ba khá hơn hai anh nó, vậy khi chia gia tài, phải nghĩ đến nó hơn hai anh nó một chút.

Quả thực ngày nay cha thấy rõ rằng con khá hơn hai anh con, và quả thực ngày nay con được cha chia cho phần gia tài đích đáng nhất. Cha cứ tưởng phần gia tài ấy không ai được nhận và cha sẽ phải làm lại chúc thư. Nhưng bây giờ thì sẽ yên tâm mà nhắm mắt từ biệt các con.

Năm hôm sau người cha chết giữa lúc tâm trí còn sáng suốt, vì lời cuối cùng của nhà cự phú là lời dặn các con nên giản dị trong việc ma chay. Dẫu có lời trối trăn ấy, anh Cả và anh Hai cũng cứ làm ma linh đình để được tỏ lòng hiếu, không phải hiếu đối với cha mà đối với làng, xóm họ hàng. Vì đối với người cha đã qua đời, họ không cần lấy lòng lấy bề như xưa để hòng được hưởng phần gia tài lớn nữa.

Riêng người con thứ Ba là thành thực đau đớn. Xưa nay anh vẫn yêu cha, vì yêu cha là một tính tình tự nhiên trong lòng anh. Nhưng từ lúc được nghe mấy lời tâm huyết của cha, tình yêu của anh lại tăng lên bội phần, tình yêu lẫn trong tình thương.

Ban ngày ngồi một mình, anh tưởng tượng cái đời vất vả, nghèo đói, khổ sở của cha thửa trước. Anh thấy hiện ra trước mắt một thằng bè rách rưới, gầy còm, xách ấm nước vối chạy rong, miệng luôn luôn rao hàng: “Có ai uống nước vối nóng không nào!” Thằng bé ấy là cha anh, và vài hôm nữa sẽ là anh.

Đã có đêm Ba chiêm bao thấy chính Ba xách ấm đi thất tha thất thểu ngoài đường, dưới mưa phùn gió lạnh. Tỉnh dậy Ba lại càng thương cha. Và Ba muốn sống ngay cái đời rét mướt ấy để được biết ngày xưa cha khổ sở đến bực nào.

Anh Cả và anh Hai thương hại em và muốn chia của cho em để em được cùng mình hưởng giàu có. Nhưng Ba nhất định từ chối, nói cha đã chia cho một cái ấm đất và một chục quan tiền để làm vốn mua vối nấu nước bán, thì anh chỉ nhận phần gia tài ấy thôi. Hai anh dọa Ba rằng Ba sẽ chết đói. Ba cười đáp:

– Thế thầy ngày xưa thì sao? Không những thầy không chết đói mà thầy còn làm nên nhà cửa, tậu được ruộng vườn để ngày nay chia cho anh em ta.

Và Ba lại cười. Hai anh cho rằng Ba nói mỉa mai, tức giận im lặng. Vì sự thực những nhà cửa, ruộng vườn ấy chỉ hai anh được hưởng, chứ Ba có dự phần nào đâu. Nhưng cái cười của Ba là cái cười tự nhiên, chứ không có ngụ ý mỉa mai hay oán trách hai anh.

Vả lại chính Ba đã bằng lòng và xin nhận cái phần gia tài mà cha cho là trong sạch ấy. Anh nghĩ thầm: “Có lẽ cái trong sạch đã làm cho cha sung sướng, khi cha còn bần hàn, vì trong cái đời giàu có của cha, ta chưa từng thấy cha sung sướng bao giờ: lúc nào cha cũng phàn nàn, lo nghĩ, xoay xở, có khi mất ngủ mất ăn.

Ta chỉ mong được sung sướng, vậy thì có cái ấm đất mà sung sướng còn hơn có cửa nhà, vườn rộng mà khổ sở.”

Thế là Ba quả quyết với cái chí tự lập lấy thân.

Vừa xong việc tang ma, anh bắt đầu bước vào nghề mới, cái nghề bán nước vối rong.

Anh bỏ ra ba quan thuê một cái quán tranh ở bên chợ. Với năm quan anh mua lá vối và các đồ dung để nấu nước. Rồi sáng sáng dậy thực sớm, dậy trước cả tiếng gà gáy thứ nhất, anh nấu nước rót vào cái ấm đất ra đi và cất tiếng rao lanh lảnh:

– Nước vối nóng ngon, có ai uống không? Có ai uống nước vối nóng ngon không nào?

Mà nước vối của Ba vừa nóng vừa ngon thực. Lá vối trước khi nấu Ba đã ủ kỹ nhiều ngày. Ba lại nấu với nước mưa trong sạch và tra vào một ít nụ vối. Vì thế nước vối của Ba ngọt và thơm. Các bà đi chợ xa nghe tiếng rao, vui mừng bảo nhau:

“Chúng ta hãy đặt gánh nghỉ chân uống một bát nước vối của anh Ba đã! – Nước vối anh Ba uống vào là hết nhọc mệt liền!” Rồi gọi lại mỗi người uống một bát. Uống xong, các bà khen lấy khen để: “Nước vối anh Ba nấu khéo quá! Ai đã uống một lần thì không sao quên được nữa, không sao bỏ được nữa, người ta nghiện nước vối anh Ba như nghiện rượu,” “Nước vối anh Ba” câu ấy đã thành như một câu ngạn ngữ.

Đi khỏi một quãng, các bà đem chuyện anh Ba ra kể với nhau cho vui trên con đường xa. Một bà bảo:

– Anh Ba là con cụ Bá làng tôi. Cụ giàu nứt đá đổ vách mà sao cụ vừa mất được mươi hôm anh ấy đã phải đi bán nước rong.

Bà khác đáp :

– Hai người anh cũng tệ ! Nào nhà cửa linh đình, nào ruộng nương hằng trăm mẫu mà nỡ để em đi bán nước vối.

Bà thứ ba nói :

– Nghe đâu hai người anh có xin chia của cho em, nhưng anh Ba anh ấy nhất định không nhận. Anh ấy bảo ngày xưa cụ Bá xuất thân với cái nghề bán nước vối rong thì nay anh ấy cũng cứ theo cái nghề ấy.

– Dễ thường anh ấy điên ?

– Chẳng điên thì cũng lẩn thẩn. Thiên hạ lại có người chê của thì cũng lạ !

Trong khi các bà khác kháo chuyện anh thì Ba đương rẽ xuống ruộng bán nước vối cho một bọn thợ gặt. Nghe tiếng rao trong trẻo, họ đã ngừng tay cắt lúa và cất tiếng gọi :

– Anh Ba, đem nước xuống đây bán cho chúng tôi, nước vối của anh chúng tôi uống hôm qua,hôm nay vẫn còn nhớ vị thơm ngọt. Chúng tôi đương mong ngóng anh đây !

Chẳng mấy lúc ấm nước đã cạn. Ba chạy về nhà rót đầy ấm khác rồi lại đi bán rong cho khách qua đường, mãi xế chiều mới trở về nơi quán tranh thổi cơm ăn.

Cơm xong, Ba nghêu ngao hát chèo, hát trống quân chơi rồi đi ngủ để sáng hôm sau lại dậy sớm nấu nước vối đi bán.

Và anh tự cho là sung sướng, tự cho là đời anh đầy đủ. Phải, anh còn thiếu một thứ gì ? Anh có nhà để ở. Có một nghề “trong sạch” để kiếm ăn. Anh không lo nghĩ, không phiền muộn, băn khoăn.

Ngày ngày anh kiếm không những đủ ăn, mà còn để ra được chút đỉnh. Số tiền ấy anh sẽ dùng vào việc thuốc thang khi không may anh xảy ra đau ốm. Nhưng anh chắc chắn rằng không khi nào anh sẽ đau ốm được. Anh ăn uống có điều độ, ngủ thức có điều độ.

Công việc làm không những anh cho là không vất vả mà lại còn có hứng thú nữa. Khi xưa ở nhà với cha, không bao giờ anh để ý ngắm cảnh đẹp, không bao giờ anh để tai nghe chim hót.

Ngày nay thì anh coi như đó là những vật sở hữu của anh. Buổi sáng tiếng chim chích chòe làm cho lòng anh thư thái ; Buổi chiều tiếng chim sơn ca vừa hót vừa bay thẳng vút lên trời xanh làm cho trí anh cao rộng.

Rồi thân thể anh nở nang ra dưới gió mát, dưới nắng trong, dưới làm không khí thênh thang nơi đồng áng. Cả mưa dầm gió lạnh cũng không làm cho thân anh hao tổn, trái lại nhờ thế mà bắp thịt anh rắn chắc lại, mà lòng can đảm, chí phấn đấu của anh tăng mãi lên. Và anh càng thấy anh sung sướng.

Một buổi sáng, Ba dậy sớm nấu nước vối xong rót vào ấm đất ra đường rao bán. Nhưng hôm ấy không phải là ngày phiên chợ nên anh phải đi một quãng đường dài để đến bán nước cho bọn thợ cấy ở các thửa ruộng xa.

Gần tới nơi, anh gặp một ông lão râu tóc bạc phơ ngồi mệt lả ở bên vệ đường. Ông lão uể oải giơ tay vẫy anh, như không còn đủ sức để cất tiếng gọi. Ba lại gần hỏi :

– Cụ xơi nước ?

Ông lão gật đầu. Rồi Ba chưa kịp rót nước ra bát, ông lão đã giựt lấy cái ấm đất và ngậm vòi uống ừng ực. Ba vội kêu :

– Ấy nước nóng, khéo không cụ bỏng mồm đấy.

Nhưng lạ chưa. Không những ông lão không bỏng mồm mà ông còn có vẻ khoan khoái nữa. Một lát, ông đưa cái ấm đất trả lại Ba. Anh cầm thấy nhẹ bỗng, ghé mắt nhòm vào trong thấy ấm ráo hoảnh. Ông lão mỉm cười nói :

– Lão uống mất nhiều phải không ? Lão khát quá đi mất thôi. Không có ấm nước vối của anh thì không khéo lão đã chết rồi. cám ơn anh nhé. Thôi, lão đi đây, bây giờ khỏi khát rồi thì lão đi xa đến đâu cũng được.

Dứt lới, ông lão đứng lên đi thẳng.

Ba không nói gì, chỉ vội vàng chạy một mạch về nhà rót đầy ấm nước khác đem đi bán.

Hôm sau cũng vào lúc ấy và ở chỗ ấy. Ba gặp một bà lão nằm rên khừ khừ. Ba ghé lại hỏi thăm :

– Cụ làm sao thế ?

Bà lão đáp :

– Già khát lắm mà không có tiền uống nước. Không khéo già chết khát mất thôi.

– Thưa cụ, có nước vối nóng đây, xin mời cụ xơi, Bao giờ cụ có tiền cụ trả cũng được.

– Nhưng già làm gì có tiền, già nghèo lắm.

– Mời cụ cứ xơi, cháu xin biếu không cụ một bát.

– Một bát thì thấm thía vào đâu !

– Vậy mời cụ muốn uống bao nhiêu tùy ý.

– Thế à ?

Bà lão vui sướng vồ lấy cái ấm đất, nhưng tay bà run lẩy bẩy đánh rơi ấm xuống cỏ, nước đổ lênh láng.

– Thôi, thế này thì khổ già rồi. Đổ không còn lại một giọt nào nữa.

Ba không lộ vẻ thất vọng, không thốt một lời gắt gỏng hay phàn nàn. Anh chỉ ôn tồn bảo bà lão:

– Cụ chịu khó ngồi đấy chờ cháu một lát, cháu về nhà lấy ấm nước khác đem đến mời cụ xơi.

Rồi anh xách cái ấm đất cắm đầu chạy thực mau về nơi quán tranh, trong lòng chỉ áy náy lo rằng nếu mình chậm trễ thì bà lão kia sẽ chết khát mất. Lúc ra tới chỗ cũ thì quả bà lão, mệt lả vì khát, đương nằm phục bên đường. Anh vừa thở hổn hển vừa gọi:

– Cụ ơi, nước đây rồi, cụ dậy mà uống.

Bà lão vội vàng ngồi dậy nói:

– Ồ! Thế thì tốt quá!

Rồi choàng tay ra vồ lấy cái ấm đất. Nhưng trong lúc hấp tấp, bà ta lại đánh đổ hết nước trong ấm.

Lần thứ hai, Ba xách ấm chạy về nhà. Không những anh không bực tức và oán trách bà lão, mà anh còn cố chạy mau hơn lần trước, vì sợ bà lão đã khát quá không khéo lần này anh sẽ không kịp cứu sống.

Nhưng Ba cứu sống được bà lão, vì lần cuối cùng này anh rất cẩn thận, cầm ấm và bát rót nước cho bà lão. Bà uống luôn ba bát, và mặt bà tỉnh táo hẳn lên. Bà mỉm cười nói:

– Anh tốt bụng lắm, vừa thương người vừa nhẫn nại. Thương người già yếu thì có người bằng anh đấy, nhưng nhẫn nại như anh thì có lẽ không một ai nữa. Nước của anh đổ, anh đã không tức giận, không tỏ lòng tiếc, lại còn hấp tấp chạy về nhà lấy ấm nước khác để cho người đánh đổ nước của anh uống; anh thực là một người hiếm có và giống hệt cha anh thửa còn hàn vi….

Ba kinh ngạc hỏi:

– Thưa cụ, cụ biết cha cháu từ thời cha cháu hàn vi?

Bà lão cười đáp:

– Phải, tôi biết lắm. Vì chính tôi đã giúp cha anh trở nên giàu có. Tôi thấy cha anh là người phúc hậu nên tôi thương, – tôi nói ngày xưa cơ, chứ về sau cha anh đã thay đổi hẳn, không còn dễ dàng và có lòng tốt thương người nữa. Cho hay đó vẫn là lẽ tự nhiên, khi người ta giàu có thì người ta dễ thay đổi tính tình…

– Vậy thưa cụ, cụ là ai ?

– Tôi là linh hồn cái ấm đất này. Tôi là thần Ấm Đất, và cũng như cha anh ngày xưa, nhờ phép tôi, anh sẽ trở nên giàu có ngay lập tức. Anh đã hiểu vì sao cha anh chia cho anh cái ấm đất này chưa ?

Anh đã hiểu vì sao thương yêu anh nhất trong ba con, cha anh đã chia cho anh phần gia tài quý báu này chưa ? Trong ba phần gia tài thì phần này to hơn nhất, mà to hơn nhất là vì tôi sẽ có phép làm cho anh giàu có hơn cả hai người anh không tốt của anh ?

Anh thì anh tốt lắm. Hôm qua tôi đã thử anh một lần, hôm nay tôi lại thử anh hai lần nữa, đều thấy anh vẫn không thay lòng đổi dạ.

Ba ngây người đứng nghe, tưởng mình đương chiêm bao. Bà lão lại tiếp :

– Cha anh chia cho anh phần gia tài này còn vì một lẽ nữa. Là nếu cái ấm đất có lọt vào tay hai người con lớn của cha anh thì họ cũng chẳng biết, chẳng thèm dùng đến. Mà có dùng đến thì cũng chẳng được tôi hóa phép giúp đỡ, vì tôi rất ghét cái tính ngạo mạn và huênh hoang của chúng. Cha anh biết chỉ có anh mới cảm động nổi tôi. Quả thực anh đã được lòng tôi, vì tôi đã hiện lên đây để giúp đỡ anh.

Ba vẫn ngây người không hiểu. Anh nhắc lại :

– Giúp đỡ cháu ?

– Phải, giúp đỡ anh. Nhưng trước khi hóa phép, tôi hỏi anh câu này : “Anh muốn giàu có như cha anh và suốt đời lo nghĩ, băn khoăn, cặm cụi, mong ước mỗi ngày một giàu có mãi hơn lên, phải, anh thích cái đời giàu có và không bình tĩnh một chút nào ấy hay cái đời đủ ăn và luôn luôn thư thái, không làm phiền ai và không bị ai làm phiền mình. Tóm lại, anh thích một đời giàu có hay một đời sung sướng ?”

Hai tiếng “sung sướng” như đánh thức Ba.

Anh không ngần ngừ nữa, quả quyết trả lời :

– Cháu chỉ ao ước được sung sướng, suốt đời sung sướng.

– Nghĩa là anh không ham giàu ?

– Không.

– Anh không thích sang ?

– Không.

– Anh không thích ở nhà lầu ? Anh phải biết ở nhà lầu, cao ráo, sạch sẽ, mát mẻ.

– Thưa cụ ở nhà tranh cũng có thể cao ráo, sạch sẽ, mát mẻ được.

– Anh không thích ăn sơn hào, hải vị ? Sơn hào, hải vị ngon lắm chứ ?

– Thưa cụ, rau muống, đậu phụ chấm tương cũng ngon lắm mà lại lành ?

– Anh không thích được ngắm những thửa ruộng thẳng cánh cò bay của mình.

– Thưa cụ, cháu thường được ngắm nhiều hơn thế, cháu thường được ngắm những cánh đồng lúa chạy thẳng tắp đến tận chân trời.

– Nhưng đó không phải ruộng của anh.

– Thưa cụ như thế càng hay, vì cháu được ngắm cái đẹp mà không phải chăm nom săn sóc tới.

– Nhưng thóc sẽ về tay người khác.

– Nhưng người ấy có ăn được hết số thóc đâu ? Cháu không có một tấc ruộng nào mà hằng ngày vẫn đủ no. Tiền bán nước vối cũng đủ nuôi sống cháu rồi.

– Vậy anh muốn gì ? Anh muốn tôi giúp anh như thế nào, vì thế nào tôi cũng phải giúp anh. Tôi là bạn thân của cha anh thửa xưa, cha anh đã phó thác anh cho tôi, chẳng lẽ tôi lại để anh nghèo đói, khổ sở, chẳng hóa ra tôi phụ lòng tin cậy của cha anh lắm ư?

– Thưa cụ, quả cháu không khổ sở. Nếu cụ làm cho cháu cứ được vui vẻ, sung sướng suốt đời như ngày hôm nay thì cháu cám ơn cụ lắm.

Bà lão đứng dậy nói:

– Anh sẽ vui vẻ, sung sướng suốt đời.

Rồi bà biến đi.

Sáng hôm sau Ba dậy sớm để nấu nước, nhưng lạ quá! Cái ấm đất ai đem để ngay trong nồi, và lạ hơn nữa! Cái ấm đất ấy đựng đầy nước vối nóng. Ba rót ra bát nếm thử thì thấy nước ngọt và thơm hơn mọi ngày nhiều. Anh vui mừng xách ấm đi bán rong. Và mãi chiều anh mới về nhà thổi cơm ăn vì cái ấm đất kỳ dị của anh không bao giờ nước vơi, nên anh không cần về lấy thêm. Hàng anh bán lại chạy gấp năm, gấp mười trước: Hình như tiếng rao của anh có phép thiêng lôi cuốn khách lại.

Đó là pháp thuật của thần Ấm Đất. Thần đã chuẩn lời mong ước của Ba: Suốt đời sung sướng.

Và Ba sẽ suốt đời sung sướng với cái ấm đất linh thiêng bao giờ cũng đầy nước vối thơm ngọt.

Ba sẽ sung sướng được sống một đời trong sạch.

Ba sẽ sung sướng với sự giúp đỡ kẻ nghèo, vì không cần giàu có, Ba cũng có thể giúp đỡ được kẻ nghèo bằng một bát nước vối nóng thơm, ngọt.

Ba sẽ sung sướng vì một đời bình dị sẽ không bao giờ thay đổi lòng Ba như một đời giàu có: Ba sẽ mãi mãi giữ được nguyên vẹn lòng tốt của mình.

Không có lòng tốt thì người ta sung sướng sao được.

Ba sẽ suốt đời sung sướng

Tiết Nhơn Quý – Tiểu Tử

Tiết Nhơn Quý – Tiểu Tử

Trước ngày 30 tháng Tư 1975, trong cơn sốt di tản, tôi chen lấn đẩy được vợ con lên trực thăng. Thằng Mỹ đen thòng người xuống, vừa kéo tôi lên vừa la lớn cho đồng bọn: “Bốc lên! Bốc nhanh lên! Đầy ứ rồi!”. Chân tôi vừa chạm sàn trực thăng thì vợ tôi làm rớt cái xắc da xuống đám người đang xô đẩy nhau phía dưới. Như cái máy, tôi phóng xuống theo ! Khi tôi giành giực lại được cái xắc thì chiếc trực thăng đã bay đi xa. Tôi ôm cứng cái xắc trước ngực, hổn hển nhìn theo mà nghe chết điếng trong lòng…

Nhờ bị rớt lại như vậy mà tôi còn giữ được nhà cửa xe cộ. Bởi vì những nhà khác – nhà những người đã di tản- đều bị đồng bào hôi của, rồi sau đó là bị nhà nước cách mạng tiếp thu. Cũng là một hình thức hôi của, nhưng… cao cấp hơn !

Rồi nhờ cái xắc của vợ tôi với mớ nữ trang và đô la mà tôi làm lại cuộc đời chẳng khó khăn gì mấy.

Hồi thời trước, tôi làm chuyên viên điện toán cho một hãng xuất nhập cảng lớn ở chợ cũ. Bây giờ, sau thời gian đi hội họp học tập để nghe cán bộ phát biểu dong dài với những từ ngữ lạ hoắc, nghe… ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, vậy mà tôi cũng hiểu trắng được rằng cách mạng là đổi đời và hiểu ngầm rằng: mMốn sống trong chế độ mới mình phải lột cái xác cũ ra chôn giấu đi, và muốn sống yên ổn trong thời buổi này, mình phải biết làm… thợ lặn, nghĩa là đừng có trồi đầu ra cho thiên hạ để ý, nhứt là chánh quyền. Vậy là tôi quyết định đổi nghề: Tôi đem gia đình thằng Sáu, đứa cháu kêu tôi bằng bác, về cư ngụ với tôi, rồi chúng tôi lập Tổ May Thêu. Chạy vòng ngoài là thằng Sáu với chức tổ phó; tổ viên là vợ và hai đứa con gái của nó, cộng thêm hai người chị vợ nó ; còn tôi thì làm tổ trưởng, nghĩa là ngồi không uống trà, hút thuốc, ký tên, đi họp…

Sau tháng Tư năm 1975, không phải chỉ có mình tôi đổi nghề. Phần đông người dân miền Nam đều đổi nghề, nhứt là ở các đô thị. Chẳng ai bảo ai, cũng chẳng thấy ai khuyên ai, họ tự động đổi nghề một cách tự nhiên và đều khắp, giống như theo một thời trang đổi kiểu áo quần! Và cũng chẵng có một mải mai mặc cảm. Cho nên thấy giáo sư đi đạp xích lô, thấy thầy giáo đi làm thợ hồ, thấy lơ xe đò là thợ bạc hồi thời trước, thấy chị bán nước mía là cựu nhân viên ngân hàng… v. v. Kể không hết. Và cái nghề được nhiều người chọn nhứt là nghề mở quán cà-phê vỉa hè ! Dễ quá ! Chỉ cần đặt trước nhà mấy cái bàn mấy cái ghế… vậy là thành quán ! Cho nên thấy đường nào cũng có, xóm nào cũng có, xó xỉnh nào cũng có. Nhiều khi hàng quán nằm khích nhau một dọc, vậy mà chẳng thấy ai phàn nàn ai ! Làm như trong cuộc đổi đời vĩ đại này, người dân miền Nam dễ thông cảm với nhau hơn hồi trước!

Sau cách mạng, có những nghề bỗng nhiên biến mất trong sanh hoạt hằng ngày. Điển hình nhứt là nghề coi tay coi tướng và nghề đấm bóp (cũng gọi là tẩm quất). Có người… ác ý nói rằng cách mạng rất sợ bị lộ chân tướng nên mấy thầy tướng số đều bị “đì” hết, còn tẩm quất là nghề… chuyên chính của Đảng và Nhà Nước, họ giữ độc quyền dùng nó để đần những phần tử xét lại hay phản động đã bị họ bắt nhốt… thì sức mấy mà người dân được hành nghề này!

Một tối đó, trong khi tòn ten trên võng hút thuốc sau bữa cơm, tôi bỗng nghe tiếng rẹt rẹt rẹt từ đằng xa. Đó là tiếng của những nút khoén đập dẹp xõ xâu mà mấy ông tẩm quất vừa đi vừa lắc để… rao hàng. Ngạc nhiên, tôi nhỏm dậy lắng tai nghe. Đúng rồi !Đúng là tiếng lắc nút khoén của ông tẩm quất. Hồi thời trước, ông tẩm quất xóm tôi thường đi lắc như vậy đêm đêm. Và ổng đấm lưng tôi đều đặn mỗi tháng hai lần. Sau giải phóng, không nghe ổng lắc rẹt rẹt nữa. Tôi nghĩ chắc ổng cũng đã đổi nghề như thiên hạ. Nào dè…

Tôi vui mừng bước nhanh ra cổng, gọi: “Đấm bóp! Đấm bóp!”. Có tiếng dạ từ đàng xa, rồi một người đạp xe lại. Thì ra không phải ông tẩm quất mà tôi quen. Người này cũng trộng tuổi như ông kia, cũng gầy gầy như ông kia, nhưng cao lớn hơn nhiều. Ổng mặc sơ-mi ngắn tay và quần sọt, đeo ngang hông một túi vải nhỏ. Lỡ gọi rồi, tôi đành mở cổng cho ổng vào mà phân vân tự hỏi: “Không biết ông này ở đâu ra ? Nhứt là trong thời buổi mà thiên hạ chạy ăn hằng bữa, ai đâu mà đưa lưng cho ổng đấm ? Với lại không biết ổng thiệt có nghề đấm bóp hay là thứ… ba trợn để kiếm cơm? Bởi vì bây giờ cái thứ đó cũng đông lắm!”.

Vào nhà, tôi gọi mấy đứa nhỏ trải một chiếc chiếu ở hàng ba rồi tôi tự động nằm xuống đó sau khi cởi quần áo ngoài chỉ còn mặc cái quần đùi. Ông đấm bóp bỏ đôi giép nhựt ở tam cấp, bước vào nhà nhìn quanh rồi nói: “Xin phép cho tôi cởi áo”. Không đợi trả lời, ông cởi áo sơ-mi máng lên đầu võng, để lộ trên người chiếc áo thung ba lỗ đã ngã màu vàng và lủng rách nhiều nơi. Ông ngồi xuống cạnh tôi, lấy trong túi vải chai dầu mở nút trút vào lòng tay, nhìn tôi mỉm cười:’ “Ông nằm sắp xuống “. Tôi làm theo như cái máy. Tôi nghe hai bàn tay vừa to vừa ấm của ông thoa dầu từ trên ót trên cổ tôi xuống lần hai vai, rồi lưng, để cuối cùng vuốt dài theo hai cánh tay nằm dọc theo hông… mà tưởng chừng như vừa được trùm lên người một làn hơi nóng vừa êm vừa mõng!

Lối đấm của ông ta không giống lối đấm của ông mà tôi quen. Kỹ thuật của ông hồi đó đúng là đấm, nghĩa là hai bàn tay cứ đều đặn xuống lên, khi nắm lại thì có tiếng bóc bóc, khi xòe ra thì có tiếng bụp bụp. Và cứ như vậy, hết lưng là đến chân đến tay. Còn ông mới này thì khác hẳn. Ổng… âm thầm hơn và đi sâu hơn. Ổng mằn từng khớp xương, từng thớ thịt, ổng mò dài theo các đường gân tay gân chân. Mấy đầu ngón tay của ổng đi tới đâu là mình nghe… rã rời tới đó ! Thật là kỳ diệu ! Tôi phục ổng quá !

Sau khi làm xong, ổng xin một ly nước, uống, lảnh tiền, cám ơn, rồi lẳng lặng dẫn xe đạp đi ra. Tôi hỏi với theo: “Tuần sau, cũng vào giờ này, ông lại đấm tôi được không ?”. Ổng nói ‘dạ được‘ rồi đi thẳng. Tiếng rẹt rẹt của xâu nút khoén lại vang lên xa xa… Tôi nằm tơ lơ mơ, nghe âm thanh rẹt rẹt mà tưởng chừng như thời cũ vẫn còn nguyên đây đó, cái thời mà cuộc sống còn mang nhiều thi vị, kể cả những thi vị thật nhỏ nhoi tầm thường.

Tuần sau, ông đấm bóp trở lại. Ổng không bấm chuông. Ổng đứng ngoài cổng lắc xâu nút khoén rẹt rẹt, rẹt rẹt, giống như một… ám hiệu! Đã được dặn trước nên người nhà chạy ra mở cổng. Ổng vào nhà, gật đầu chào tôi rồi tuần tự làm y như tuần rồi. Thấy ổng có tay nghề “cao cấp” -nói theo từ ngữ bây giờ – mà không bô bô vừa làm vừa nói như ông cũ, tôi càng có cảm tình với con người trầm lặng đó. Nên tôi mở lời :

– Ông làm nghề này lâu chưa?

– Dạ… sau giải phóng.

– Sao tôi không nghe ông lắc ở xóm này vậy ?

– Dạ… tôi ít đi lắc lắm. Tôi làm cho khách quen không hà. Hôm rồi nhơn làm cho ông khách ở gần đây, tôi lắc cầu may nên mới gặp ông đó chớ.

– Hồi thời trước, ông làm nghề gì ?

Ổng ‘ dạ ‘ rồi nín thinh. Tôi biết ổng không muốn nói, nên cũng không hỏi tiếp.

Lần này, sau khi trả tiền, tôi hỏi, giọng thân mật:

– Ông thứ mấy ?

– Dạ… thứ Sáu.

– Ông chắc lớn hơn tôi cở bảy tám tuổi. Vậy cho tôi gọi ông bằng anh Sáu được không?

Ổng nhìn tôi, chớp chớp mắt:

– Dạ được chớ.

– Vậy tuần sau, cũng ngày này giờ này, nghe anh Sáu.

Ổng “Dạ”, gật đầu chào tôi rồi dẫn xe đạp đi ra.

Tuần sau, ổng lại đến. Lần này, chính tôi niềm nở mở cổng. Tôi bắt tay ổng:

– Mạnh hả anh Sáu?

– Dạ mạnh.

Vào nhà, lại tuần tự “xin phép, cởi áo, ngồi xuống, xoa dầu”… Nhưng lần này, sau khi rờ lưng tôi, ổng nói:

– Hơi cảm hả thầy Hai?

Tôi ngạc nhiên, vì hai tiếng “thầy Hai” thì ít mà vì chỗ ông Sáu biết tôi đang cảm thì nhiều:

– Sao anh biết?

– Nghề mà thầy Hai. Lưng thầy lạnh ngắt đây nè!

Rồi ổng tiếp, giọng đầy tự tin:

– Nhưng không sao đâu, thầy Hai yên tâm. Tôi làm một chút là thầy thấy khoẻ hà.

Thấy lần này ổng cởi mở hơn, nên tôi tiếp tục… đẩy đưa:

– Anh học nghề này ở đâu vậy, anh Sáu?

– Tôi học với một ông thầy Tàu ở Bình Hòa.

Ngừng một chút như để suy nghĩ, rồi ổng nói tiếp, trong lúc hai bàn tay vẫn đều đặn làm việc:

– Thiệt ra ông thầy tôi chuyên dạy võ.

– Ủa ? Rồi sao có vụ dạy tẩm quất ?

Im lặng một chút rồi ổng mới nói, sau khi cười nghe cái khịt:

– Hồi đó, lâu rồi, tôi tới thọ giáo với ổng, ổng nắn tay nắn chân tôi rồi mới nói: “Tao dạy võ cho mày không lấy tiền với điều kiện là mày đấm lưng cho tao mỗi tuần một lần, mày chịu hông ?“. Tôi trả lời chịu nhưng tôi không biết đấm lưng. Vậy là ổng dạy tôi đấm lưng
!
Nói xong, ông Sáu cười nhè nhẹ mấy tiếng. Tôi biết ổng đang sống lại với những kỹ niệm nên tôi “khơi“ luôn:

– Mà tại sao anh Sáu phải đi học võ vậy?

Ổng ngập ngừng một chút rồi mới nói:

– Tại hồi đó tôi muốn đóng vai Tiết Nhơn Quý!

Ba tiếng “Tiết Nhơn Quý“ làm tôi nhớ lại bà già vợ tôi hồi thời trước hay đi coi hát bội và bà thích nhứt nhân vật Tiết Nhơn Quý. Bà thường nói “Đóng vai Tiết Nhơn Quý, không ai hay bằng kép Sáu Thanh hết! Thằng đó múa thiên phương họa kích như thần. Còn khi nó gặp lại Dương Mậu Sanh, nó khóc như thiệt vậy, hay không chỗ nói!“. Tiết Nhơn Quý… Cây Thiên Phương Họa Kích… Kép Sáu Thanh… Ông già đấm bóp thứ Sáu… Tôi xoay người lại hỏi:

– Vậy anh Sáu là kép Sáu Thanh phải không ?

Gương mặt già nua đó bỗng nhăn lại vì xúc động. Ổng nuốt nước miếng mấy lần mới nói được:

– Dạ phải.

– Hồi đó bà già vợ tôi mê anh lắm. Bả cứ nhắc hoài lúc Tiết Nhơn Quý gặp lại nghĩa huynh Dương Mậu Sanh. Anh đóng hay đến nỗi khán giả ai cũng sụt sùi khóc hết.

Ông Sáu im lặng, chớp mắt thật nhanh rồi nhìn đi nơi khác. Ổng nhìn ra sân, ổng nhìn ra cổng. Ở đó, tôi không có vặn đèn khi đêm xuống như thời cũ -phải làm giống thiên hạ để đừng ai để ý- nên bóng tối dăng đầy. Tôi biết : trong vùng tối đó, ông Sáu đang nhìn thấy lại ánh sáng huy hoàng của thuở mà trong vai Tiết Nhơn Quí ông đã làm rung động biết bao nhiêu khán giả đêm đêm…

Một lúc sau, ông Sáu mới nói, giọng trầm tĩnh:

– Thầy Hai nằm xuống đi, để tôi làm tiếp.

Bây giờ, mấy đầu ngón tay của ổng “đi“ thật chậm nhưng thật sâu. Làm như ổng đang tiếp tục mò mẫm để tìm lại những kỷ niệm vụn vặt mà cơn lốc cách mạng 1975 đã bất thần thổi tung đi mất. Tôi bỗng nghe thương hại ông Sáu vô cùng…

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để viết vài hàng về nhân vật Tiết Nhơn Quí. Tôi chỉ nhớ đại khái nhưng chắc cũng đủ để cảm thông sự xúc động của anh Kép tài danh Sáu Thanh, bây giờ là ông già đang ngồi đấm lưng tôi trong im lặng…

Tiết Nhơn Quý nhà nghèo, nhưng có sức mạnh hơn người. Một mình anh ta kéo khúc gỗ mà mười người kéo không nổi ! Và anh ta ăn uống cũng bạo lắm: Mỗi bữa cơm, anh ta ăn bằng mười người ăn ! Vì nhà nghèo nên thường xuyên Tiết Nhơn Quý ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.

Trong làng, có Dương Mậu Sanh là nhà có tiền và tánh tình rất hào phóng. Biết tình cảnh của Tiết Nhơn Quý, Dương Mậu Sanh bèn đem về nuôi và kết nghĩa anh em. Nhờ được ăn uống đầy đủ nên Tiết Nhơn Quý, ngoài việc giúp đỡ nghĩa huynh trong công tác nặng nhọc, hàng ngày luyện tập võ nghệ với cây thiên phương họa kích đến trình độ mà khi tung lên là “lá rụng cát bay“…

Tiết Nhơn Quý ăn đến… người nghĩa huynh bị sạt nghiệp!

Một hôm, nhân đánh đuổi Cáp Tô Văn và cứu được Lý Thế Vân nên được vị này thâu dụng dưới trướng. Rồi từ đó Tiết Nhơn Quí theo phò Lý Thế Vân đánh đông đánh tây bao nhiêu năm mới dựng nên cơ đồ cho ông này lên làm vua. Lúc đó Tiết Nhơn Quý đã trở thành một vị nguyên soái lừng danh thiên hạ.

Thời gian sau, nhân chuyến viễn chinh qua làng cũ, Tiết Nhơn Quý cho hạ trại ở đây rồi truyền lịnh tướng tá đi mời Dương Mậu Sanh. Ông này bây giờ nghèo xác xơ, nghe nguyên soái cho vời mình thì không biết làm sao, vì không tiền mua lễ vật để ra mắt nguyên soái. Cuối cùng ông đành làm liều: Ông lấy hai cái hũ đổ đầy nước, đóng nút rồi bịt lại bằng mấy lần vải đỏ, xong ông xin một ít rượu rưới lên đầu hũ cho có mùi. Như vậy, người ta sẽ nghĩ là hai hũ rượu, và như vậy khi tiếp vị nghĩa huynh, nguyên soái sẽ không bị mất mặt với những người dưới trướng.

Được thông báo, Tiết Nhơn Quý vội vã bước ra đón người anh kết nghĩa đã nuôi mình trong lúc cơ hàn mà bao nhiêu năm dài bận chuyện quân binh mình không về thăm được. Dương Mậu Sanh đặt hai hũ rượu giả lên bàn, vòng tay cố gắng lắm mới nói được mấy lời: “Thưa nguyên soái, tôi xin có chút lễ mọn để ra mắt nguyên soái…“. Nhìn bộ quần áo trên người Dương Mậu Sanh, Tiết Nhơn Quý hiểu ngay tình cảnh của người anh kết nghĩa. Ông ôm lấy nghĩa huynh, xúc động: “Dương huynh lúc nào cũng tốt với tiểu đệ. Ơn xưa biết bao giờ đệ trả cho xong mà bây giờ còn cho đệ rượu để mừng tái ngộ. Thì đệ xin uống cho huynh vui“. Nói xong, Tiết Nhơn Quý bưng lên một hũ, mở nút uống ực ực mà trào nước mắt. Xong, nói lớn cho mọi người trong trướng đều nghe: “Ngon ! Ngon quá ! Rượu của nghĩa huynh ta ngon quá! Cay quá! Làm ta chảy nước mắt“. Rồi truyền lịnh: “Rượu của nghĩa huynh ta tặng cho ta, vừa ngon vừa quý. Đứa nào rớ vào là ta chém đầu. Nghe chưa?“. Rồi tự tay xách hai hũ rượu một cách trịnh trọng đem vào trong cất kỹ.

…….

Ông Sáu im lặng làm lưng tôi một lúc, bỗng nói:

– Hồi đó, lúc nào diễn đến lớp Tiết Nhơn Quý uống rượu giả của Dương Mậu Sanh, tôi cũng xúc động nên khóc thiệt. Khán giả nghĩ rằng tôi khóc giả mà như thiệt nên khen quá chừng. Có nhiều người liệng tiền lên sân khấu cho nữa, thầy Hai à!

– Rồi tại sao anh Sáu không đi hát nữa vậy?

– Mấy ngày đầu tháng Tư 75, ông bầu rã gánh, vì đâu còn hát hò gì nữa. Lúc đó tụi này vẫn “trụ“ ở đình Thanh Nguơn là nơi mà tụi này hát thường xuyên. Đào kép nhạc công bỏ đi tứ tán. Còn lại ở đình có anh Ba thợ đèn, anh Tư Rưa người thủ vai Dương Mậu Sanh và tôi. Tụi này ở chùm nhum với nhau như vậy tới ngày giải phóng.

Ngừng một chút, rồi không đợi tôi hỏi, ông nói tiếp, giống như ổng đang quây lại một cuốn phim:

– Rồi họ đến đuổi tụi tôi ra, lấy đình làm hội trường. Anh Ba và anh Tư đưa vợ con về quê. Còn lại mình tôi không vợ không con nên cũng dễ. Tôi đổ lì, “bám trụ“. Cuối cùng họ để tôi ở cái nhà xép phía sau đình nhưng bắt tôi làm gác dan cho họ luôn ! Rồi bởi vì họ không trả lương nên tôi phải đi đấm bóp để sống.

– Bộ bây giờ người ta cũng kêu đấm bóp như hồi xưa, hả anh Sáu?

– Đâu có ! Người như thầy Hai đây hiếm lắm. Chỉ có cán bộ là thích ba cái vụ này thôi. Bây giờ bọn đó mới có tiền. Tiền… “ chùa” mà thầy Hai! Tôi nói bao nhiêu là họ đưa bấy nhiêu, không thắc mắc gì hết. Cho nên khách của tôi phần đông là cán bộ…

Tôi bật cười:

– Vậy là anh phục vụ tốt chế độ rồi anh Sáu!

– Đâu có thầy Hai! Thầy không biết chớ khi tôi làm lưng cho họ tôi đâu có làm theo bài bản như tôi làm cho thầy Hai đây. Tôi dằn vật họ như một con thú. Tôi làm cho đã nư mà. Tôi làm lưng họ mà nghĩ như tôi đang rửa nhục vậy. Cho nên tôi cứ bẻ tay bẻ chân, rồi tôi vặn đầu vặn cổ. Tôi dẵm lên lưng dẵm lên đầu. Càng làm, tôi càng nghe hả dạ. Vậy mà họ khen ngón nghề của tôi có “trình độ cao“! Cái thứ dốt mà thầy Hai!

Ngừng một chút rồi tiếp:

– Thầy Hai biết không, nói nghe khùng chớ nhiều khi tôi ao ước được biến thành Tiết Nhơn Quý thiệt, với trùng trùng binh mã trong tay như thuở đi chinh Đông, để tôi quét sạch bọn vô thần này một phát!

Ổng nói mà hai tay ổng vẫn mằn mò đầu gân thớ thịt của hai chân tôi. Theo tuần tự lớp lang thì ổng đang ở phần cuối của cữ đấm. Bỗng ông Sáu thở dài:

– Coi vậy chớ lâu lâu tôi vẫn nhớ sân khấu, nhớ tuồng nhớ tích. Tôi thủ vai Tiết Nhơn Quý gần hai mươi năm mà thầy Hai. Nó thấm trong xương trong máu lận. Dễ gì quên?

Rồi ổng chép miệng, cay đắng:

– Hồi đó, có bao giờ tôi nghĩ rằng tôi sẽ tuột xuống đi đấm bóp như bây giờ đâu, thầy Hai.

– Đổi đời mà anh Sáu. Đều trời hết chớ bộ!

Tôi nghe ổng khịt mũi rồi lầm bầm: “Hừ! Đổi đời! Đổi đời! Mẹ bà nó!“. Tôi biết đã đến lúc tôi nên làm thinh để đừng khơi lại một vết thương nào khác nữa…

… Ông Sáu trở lại đấm cho tôi được hai lần. Đến kỳ hẹn sau, ổng không tới. Tôi nghĩ có lẽ ổng bịnh. Tôi đợi thêm một tuần. Cũng không thấy ổng tới. Thắc mắc, tôi đạp xe lại xóm đình Thanh Nguơn hỏi thăm mới biết là ông Sáu đã bị bắt. Người ta nói chánh quyền nghi ổng có ý đồ gì đó bởi vì theo dõi thì “phát hiện“ đêm nào ổng cũng “lê la“ ở nhà các cán bộ!

Trên đường về nhà, tôi miên man nghĩ: “Tiết Nhơn Quý trước sau như một, có ở tù, có bị chúng nó tẩm quất… chắc con người đó không bao giờ thay đổi. Và tôi lại nghĩ: Bọn… ’đỉnh cao trí tuệ’ này không tình không nghĩa, hữu thủy vô chung, tiền hậu bất nhứt… thì làm gì biết được Tiết Nhơn Quý là ai?“.

Tiểu Tử

Nỗi Ân Hận Muộn Màng-TRUYỆN NGẮN – TƯỜNG GIANG

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – TƯỜNG GIANG

Nỗi Ân Hận Muộn Màng

Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.

Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.

Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.

Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.

Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?

Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.

Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.

Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.

Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.

Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.

Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?

Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.

Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc:

– “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thầy?”,

anh Hai trả lời:

– “Tại các em làm cô buồn”.

Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.

Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.

Rồ một ngày, tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai. Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!

Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.

Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hàng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào:

– “Con dâu của dì là cô giáo hả?”.

Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa.

Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói:

– “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.

Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ năm của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình…

CHỮ “TÍN”

 

CHỮ “TÍN”

Mũ Đỏ Trương Văn Út, danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan.

LTSCựu Đại Úy Trương Văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt.

Sau ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND, được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”. Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai. Ông hiện định cư tại Houston, Texas.

***

Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất. Chị kết hôn với người anh thứ ba của chúng tôi nên tôi gọi là Chị Ba. Tên của chị là Trần Sâu Lầy. Nghe qua cái tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa. Chị sinh quán ở xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân Sư Phạm Sài Gòn, làm cô giáo ngay tại nơi sinh trưởng của mình.

Anh của tôi là Trương văn Nhì (Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt (VBĐL) phục vụ tại Trung Đoàn 12/ SĐ 7 Bộ Binh…

Theo lời kể, gia đình ông sở ông sơ của chị, thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu, chạy tỵ nạn nhà Thanh sang lập nghiệp ở Cà Mau cùng thời với Mạc Thiên Tứ, Mạc Cữu….Cho đến đời Ông Cố, ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng “Phản Thanh Phục Minh”…và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa, tỉnh Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây…

-Năm 1975… Anh của tôi đi tù caỉ tạo CS. Chị bị cho nghĩ việc vì vợ sĩ quan “Ngụy”… Chị chuyển sang nghề may vá, tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.

Khi tôi trốn ra khỏi trại tù CS ở Long Giao (1976), thỉnh thỏang lén lút ghé thăm Chị. Chị lúc ấy gầy rọp thân thể, lưng còm xuống, già lão trông giống như người đàn bà năm sáu mươi tuổi, mặc dù lúc ấy chị mới khoảng 26, 27 tuổi.

Ấy, vậy mà cứ sáu tháng một lần Chị phải gánh hai bao bố thức ăn khô, thuốc men, từ Sài Gòn ra đến trại Vỉnh Phú (miền Bắc) thăm nuôi Anh tôi trong tù.

-Năm 1987… Mười hai năm sau, anh được thả ra. Chị đã chuẩn bị sẵn cho Anh để vượt biên bằng đường biển, qua sự trung gian của gia đình người Hoa mà chị thân thích. Không may, Anh lại bị bắt và bị giam ở Mõ Cày (Bến Tre) chịu đựng ba năm khổ sai…

Sau đó, được tạm tha, trở về gia đình, sống trong bàn tay buôn tần bán tảo của Chị. Vợ chồng đạm bạc bên nhau, cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO-5…

Ngày nay, gia đình anh chị tôi, đã ổn định. Con cái đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội ngọai đề huề…Có lần tôi hỏi Chị

-Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay?

Chị cười và nói:

-Có gì đâu! Chị có 9 đồng, chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng, rồi Chị dấu đi để phòng khi hữu sự. Còn tụi Em có 9 đồng, đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè. Tiền vất qua cửa sổ, chẳng bao giờ chạy ngược trở vào....

Đó là triết lý sống của người chị dâu gốc Hoa của tôi..

Năm 1979… Ngược giòng thời gian

Tôi ghé thăm Chị, khi anh tôi còn đang ở trại tù ngoài Yên Bái. Tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật, vì đã trốn ra khỏi tù. Nhờ chị giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn và tôi có việc làm chui “…

Mỗi sáng lúc 5 giờ, đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải sa-ten đen, chở lên Cầu Tre ( Phú Lâm) giao cho người nhận là một xưởng nhuộm lậu. Sa-ten là một lọai lụa, dùng để may quần cho đàn bà.

Buổi chiều lúc 3 giờ, trở lại nhận 3 cây sa-ten trắng đem về giao lại cho Chủ. Cứ mỗi chuyến ” giao hàng ” như vậy, Chủ trả cho 25 đồng tiền mới (tiền cụ Hồ – mỗi 500 đồng của VNCH đổi ra 1 đồng tiền Hồ).Thôi, cũng độ nhật qua ngày…

Ông Chủ trạc 60 tuổi, Tôi gọi là chú Quảnh , người Em của ông, là chú Xồi…Tôi không biết gia đình này có bao nhiêu người, nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn. Căn phố cũ kỹ, đơn sơ, không một chút gì sang trọng như những căn phố gần đó.

Một hôm sau khi giao hàng, như thường lệ Chú Xồi trả công cho tôi 25 đồng. Tôi cám ơn, vội vã đạp xe đạp, giông tuốt rồi ghé quán càphê . Tôi móc tiền đếm lại thì tới 50 đồng, chứ không phải 25 đồng…

Trong hoàn cảnh khốn cùng này được đồng nào hay đồng nấy. Hớp vài ngụm cà phê, Tôi chợt giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi dặn:

– Em phải nhớ làm ăn với người Tàu, một cắc là một cắc , một đồng là một đồng, ăn gian nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được…Họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản với một chữ TÍN “…

Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút trở lại gặp Chú Xồi và trả lại 25 đồng mà Chú đã đưa dư…Chú cười và nhận lại tiền dư.

Tôi không biết chị dâu của tôi có nói gì với Họ về tôi hay không, nhưng một hôm, khi Tôi giao hàng, Chú Quảnh bảo Tôi:

Nị dào chong dữa mặt , zồi za ăn cơm dới Ngộ há ..

Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình…Họ xí xô xí xào. Tôi không hiểu họ nói với nhau điều gì. Khi từ giã ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và Chú hỏi nhỏ:

-Nị có phải là sĩ quan “ngụy” chốn học tập không hả ???.. Đừng sợ… Ngộ biết hết dồi lớ…từ từ mình sẽ tính…

Tôi bàng hoàng rời nhà chú Quảnh với nỗi cực kỳ lo sợ. Ngày mai có nên trở lại nơi này không ??? Không !!! chắc chắn là không…

Tôi chuyển hướng, thay vì đi thẳng đến bến xe An Đông tìm chỗ ngủ đêm như thông lệ, Tôi đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi

Chị Ba! Chị có nói gì mà Họ biết Em là sĩ quan ngụy trốn trại cải tạo?

Với nụ cười hiền hậu Chị trả lời:

-Không có sao đâu, họ đang giúp Em đó…

Hai tuần sau, tôi có cái giấy Khai sinh giả mang tên Trần Chỉnh, sanh năm 1942…người Việt gốc Hoa …

Tôi (chỉ một mình tôi) cùng gia đình Họ , hơn 60 người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, rời bến ở kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi trên chiếc ghe đánh cá, ba block đầu bạc, đi tìm tự do.

***

Tàu ra khơi, nhưng không may, xế trưa ngày hôm saubị gảy bánh lái cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông. Tàu bỏ neo để thay bánh lái phụ. Một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần. Tất cả chúng tôi vội vàng chui xuống dưới khoang ghe, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như đang đi đánh cá.

Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại. Ngang ghe chúng tôi vài chục mét, chúng vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc.

Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi anh Lợi, người tài công có mười năm kinh nghiệm đánh cá. Anh nói với chút lo âu:

Mình phải đi ngay, càng nhanh càng tốt, tôi đoán thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi Công an Biên Phòng…

15 phút sau ghe nhổ neo, vội vã lái về hướng Nam … Nhưng quá trễ. Hai chiếc PCF duyên tốc đỉnh phất phới ngọn cờ máu phiá sau chúng tôi với hằng tràng đại liên chỉ thiên đe dọa. Thế là chúng tôi bị bắt. Ghe được kéo về đồn Công An Biên Phòng ở Cây Gáo, sau đó bị tống vào trại giam của Ty CA Hình Sự Cà Mau, nằm phía bên kia cầu sắt. Bên này là chợ Cà Mau .

Thời gian này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đãi như khách du lịch có passport (thông hành) chờ xuất ngọai. Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ thời điểm này, mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ. Bọn CA chỉ lo vơ vét vàng… 5 cây, 10 cây… tùy số lượng để giải quyết vấn đề.

Tôi không biết gia đình Chú Quảnh hay Chú Xồi làm việc với bọn chúng bằng cách nào, vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng của chúng, khi trở về phòng giam, anh em họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu.

Hai ngày sau đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò cho xe chở về SàiGòn… Đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau ..

Trong thời gian chờ đợi, Chú Quảnh dặn Tôi:

-Nị nhớ khai đúng tên tuổi trong khai sinh mà Ngộ đã đưa cho Nị … Nị là Em dợ của Ngộ, là Em duột của dợ Ngộ…Nhớ nói giọng lơ lớ…đừng nói nhiều hớ ….”

Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một 18 anh em “người Hoa chúng tôi” được ra ngòai lao động: vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh Cầu Sắt.

Bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi ban đầu dần dần vơi đi, Tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát, vì rằng trong trạng huống này Tôi nghĩ sớm hay muộn, không bao lâu, chúng nó cũng thả chúng tôi ra.

Thêm vào đó tình cảm với anh em Chú Quảnh càng ngày càng khắn khít qua những liên hệ của những người tù cùng chung một trại giam “ngọt cùng chia, bùi cùng xẻ”. Họ đối với Tôi như chính anh em của họ.

Sau hơn ba tháng lao động chúng tôi được cấp giấy “tạm tha trở về nguyên quán “…Điều này đối với tôi, tôi nghĩ như đang nằm mơ, vì mang tội vượt biên thì ít nhất ba năm lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời, bằng gịong người Tàu nói tiếng Việt.

-Mấy Bả dề trước, mấy Bả lo cho tụi mình…

Về đến xa cảng miền Tây, chúng tôi chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò:

-Nị nghỉ ngơi vài ngày rồi trở lại gặp chúng tôi ..

Chú nhét vào túi quần tôi 50 đồng. Tôi quay lưng, niềm suy nghĩ bay cao..

Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu? Mấy năm nay, nhà của tôi là đầu đường xó chợ, là ga xe lửa, bến xe đò! Nhớ vợ con lắm thì nhắn chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố Yến (vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi kiếm cách lén lút gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ, khi những người thân yêu này giả vờ đi chơi lang thang trong Sở Thú…

Một tuần sau, tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh. Đứa con gái Chú Xồi chỉ ra quán cà phê góc đường Triệu Đà – Hùng Vương. Nơi đây tôi gặp lại họ.

Chú Quảnh vừa thấy tôi, Chú mừng lắm. Chú chạy ra, nắm tay tôi kéo đi một khoảng khá xa và nói:

-Nị đi ngay đi … đừng vào trong đó… Ngày mai lúc 6 giờ chiều gặp ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm… Nị biết chớ?

Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp, cứ đạp miết. Vô ngã hẻm này, ra ngã hẻm khác, len lỏi vào giòng xe đạp trên các lộ chính, rồi bất ngờ quẹo vào một con hẻm nào đó, mục đích “cắt đuôi” nếu bị theo dõi.

Tôi tin tưởng nơi gia đình chú Quảnh. Tôi chỉ còn một nơi bám víu chỉ với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi này để đến bến bờ Tự Do.

Nhưng nay, qua sự gặp gỡ vừa rồi, Tôi hiểu gia đình của Chú cũng đang bị theo dõi gắt gao.

* * *

Sau bốn năm “giải phóng”, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rỡ như ngày nào. Tôi bước vào, lòng mang bao nhiêu nỗi ngậm ngùi, nhớ lại những tháng ngày của một thời oanh liệt. Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi, đảo mắt qua một vòng. Tôi yên tâm vì không có người lạ. Hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở Cà Mau khi bị giam về tội vượt biên…

Chú Xồi hỏi Tôi:

-Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không?

-Dạ nhớ.

Ai ngồi kế bên?

-Dạ, chú Chảnh…

-Nị ráng nhớ cho kỹ, một chút nữa qua đó ngồi nói chuyện với tụi nó và tụi nó nói cái gì thì nị cứ làm theo cái đó. Mấy thằng chó chết VC đang đánh tư sản mại bản. Tụi nó đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc chúng tôi đang có, và có thể sẽ tịch biên nhà cửa và đưa chúng tôi lên vùng kinh tế mới, không biết ở đâu…Cho nên chúng tôi không còn giúp cho Nị được gì nữa … Đây là Hộp trà Sâm, anh Chảnh biếu cho nị, có vậy thôi… Nhớ giữ hộp trà này bên mình.. Bây giờ qua nói chuyện với Xường và Chảnh.

Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mỉm cười. Buổi tiệc hôm nay là ngày sinh nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay chú Xồi siết thật chặt và thật lâu, trước khi chỉ biết nói hai chữ cám ơn rồì bước sang bàn chú Xường…

Xường và Chảnh chỉ lớn hơn tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú. Thời gian ở tù Cà Mau, trong cái láng dơ bẩn, ba chúng tôi cùng nằm một chiếc chiếu rách tả tơi … Khi ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Thủy Hử cho Họ nghe trước khi thiếp ngủ mỏi mệt sau một ngày vác lúa, vác gạo nhừ người.

Một cái ghế đã sắp sẵn cho tôi giữa Xường và Chảnh…Xường đi ngay vào đề:

Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không? ...

-Dạ biết

Nhớ kỹ lời tôi dặn đây. Hôm nay là ngày Thứ Bảy. Sáng ngày Thứ Hai tới, anh gặp Tôi và Chảnh ở Thanh ThếCứ đến đó vào lúc khỏang 10 giờ nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo đừng hớt… Đêm nay nhớ mở Hộp trà Sâm, mà anh Quảnh biếu cho Anh nhâm nhi cho đỡ buồn.

Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh nhẹ cuối đầu như một sự từ giã không lời, lặng lẽ ra về với bao nỗi bâng khuâng trong lòng. Vui buồn lẫn lộn… cùng với nhiêu thắc mắc. Họ là Ai? Tài phiệt Chợ Lớn cỡ như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng, hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hay thuộc xã hội Đen của Tàu Cộng, Đài Loan, Hồng Kông? Mặc kệ! Nghĩ chi cho mệt óc miễn sao mình còn thong dong đạp xe đạp tự do ngày nào hay ngày đó, dưới đường phố mưa sa mà không cần nhìn đến cờ đỏ sao vàng…

Đêm đó tôi mở Hộp trà Sâm…10 lượng Vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong đó, tôi chợt nhớ lời Chú Xường dặn “Thứ hai gặp Tôi ở nhà hàng Thanh Thế…”

Tôi ngủ một giấc ngủ chập chờn trên một căn gác cho thuê đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.

***

Lúc còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ Tôi thường cùng bạn bè la cà….sáng thì đi uống cà phê có pha chút bơ Bretain ở nhà hàng Thanh Thế cách phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa đi ăn Chateau Brillant ở tiệm Thanh Bạch, rồi Brodard. Ban đêm, đi vũ trường Văn Cảnh, hoặc Thanh Thanh ở xa lộ. Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai, Cao-P-Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh mắt Trừu… một hoặc hai thằng chia nhau một chầu. Chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nửa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con, chỉ có một đĩa rau muống luộc và hộp thịt ba-lác!

Theo lời dặn của chú Xường, Tôi đến nhà hành Thanh Thế khỏang 10 giờ. Giờ này, chỉ lác đác năm ba khách đến uống cà phê…Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn xuyên qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài. Nhâm nhi ly cà phê với mùi vị bơ Bretain, hút hết điếu Samit thứ hai thì Xường và Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tít xí xô xí xào như mọi khi. Tôi đứng dậy chào, Xường vội vàng ấn vai tôi…

-Ngồi xuống! Ngồi xuống…

Câu chuyện thật ra rất dài, Tôi tóm gọn những gì đã xảy ra trong phạm vi bài viết này…

Chú Xường mở lời:

-Đêm qua Anh uống trà Sâm có ngon không?

Tôi gật đầu.

-Anh có mang hộp trà theo không

-Dạ có …

-Anh đưa cho Tôi …

Tôi chỉ lẳng lặng làm theo và chỉ im lặng ngồi nghe.

Tôi lần mở cái túi vải ăn mày móc 10 cây được gói cẩn thận đêm qua trong cái quần xì-líp dơ bẩn vàng úa, giao cho chú Chảnh. Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi…

-Thời giá hiện nay, một cây là 2,850 đồng (tiền già Hồ)… Chúng tôi lấy lại 10 cây này, trả lại Anh bốn cái bánh tiêu Anh có puồn không?…

Nghe Chú Xường phát âm cái tiếng “puồng” không. Tôi không “Puồng” chút nào, nhưng cố nén nỗi kinh ngạc để không hiện lên ánh mắt của mình

-Dạ không…

Chú cười và nói tiếp:

-Ở dưới bốn cái bánh tiêu, là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó. Anh nhớ …lúc nào cũng cột thật chặt vào bên hông của Anh, chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh. Anh ấy là anh em chú bác với tụi tui. Anh Xế Phò sẽ cho Anh biết anh sẽ phải làm gì… Còn phần tôi (Chú Xường) Anh phải nhớ kỹ những điều dặn dò của tôi sau đây: anh Quảnh bảo chúng tôi gặp Anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh. Anh có biết tại sao không?

-Dạ không!

Vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, anh Xồi thử Anh đó, và đó cũng là lý do Anh Quảnh quyết định mang Anh theo trong chuyến vượt biên kỳ vừa rồi.

Anh Quảnh chỉ lo… nếu Anh bị lộ tông tích thì chỉ có chết… Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không?

-Dạ biết.

-Bây giờ là cửa Hàng IMEX, bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn…Thôi, uống cà phê đi…

Vừa lúc Chú Xế Phò bước vào. Chú Xế Phò, người dong dỏng cao, dáng dấp không có vẽ Tàu chút nào. Chú nói tiếng Quan Thoại, tiếng Pháp, tiếng Việt rất sành sõi rõ ràng.

Khi Chú Xường và Chảnh ra về, Xế Phò bắt đầu chất vấn:

-Anh tên Trần Chỉnh hả?

-Dạ vâng …

Chú mỉm cười… cái mỉm cười gọi là cái mỉm cười biết hết chi tiết.

-Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không?

-Dạ chút chút…

-Được tốt lắm…Tôi đang là Trưởng phòng Quản Trị Công Ty Imex thương xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm việc dưới quyền của Tôi làm chức Thủ kho. Chỉ có nhiệm mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi. Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất trong ngày. Khỏang 10 giờ, giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh. Ban đêm Anh ngủ lại cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào. Cứ như vậy đi, dần dần quen và biết hết mọi việc Anh sẽ có nhiều việc quan trọng hơn…

Trước khi chia tay, Chú Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận: “Trần Chỉnh” nhân viên Cửa Hàng Imex, phía dưới đóng dấu ký tên Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM , cùng một giấy nhỏ có ghi “Lý Kim Anh “Trưởng phòng Công An Chợ Bến Thành”.

***

Tôi đạp xe đạp loanh quanh với một tâm trạng lộn xộn xà ngầu… Hung hay Kiết?…Ngạc nhiên, lo âu lẫn lộn… nhưng không có nỗi lo sợ như khi Chú Quảnh hỏi “Có phải Anh là sĩ quan ngụy trốn học tập hay không”.

Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ được gì cứ vớ, không cần biết cái đó lành hay dữ. Đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao… không còn sự chọn lựa nào khác.

Giám đốc Imex là một tên “Cán Ngố”. Cả ban Quản Trị của hắn ngơ ngơ ngáo ngáo, cộng trừ nhân chia sổ sách cứ lộn tùng phèo, lại thêm lòng tham lam ăn được cái gì là ăn cái đó. Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh. Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an toàn, không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào. Cũng trong lúc này Tôi đã áp dụng “Nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy” của trường Võ Bị để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào, một cách dễ dàng. Chú Phò hài lòng và mừng lắm.

Một hôm Chú rũ tôi đi ăn tối. Trên chiếc Volwagen màu vàng củ kỹ Chú chở tôi một vòng chợ Bến Thành và trực chỉ bến Bạch Đằng. Một buổi cơm tối vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị trong đời tôi.

Trong nhà hàng nỗi Mỹ Cảnh… ba người đã ngồi sẵn. Tên Giám Đốc Imex Nguyễn Tạo, với cái mặt chành bạnh nhưng không che dấu được vẽ ngu si đần độn tham lam trên gương mặt của hắn. Tên Trung Úy Lý Kim Anh Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, Đặng Tư, Trưởng Phòng Tài Chánh Imex.

Trên bàn, chai Remy Martell vơi hơn phân nữa. Tôi khúm núm bước theo sau Chú Phò, chấp tay cuối đầu chào họ. Ngồi vào bàn Tôi cố giữ thái độ bình tỉnh, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc của họ cùng với những suy nghĩ mông lung. Quả thật chú Quảnh và gia đình của Chú đã giúp Tôi quá nhiều, ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người tôi có thể báo đáp được.

Sau buổi cơm gọi là thân mật đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Phò.

Một buổi sáng khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho chú Chảnh, hôm nay lại có mặt Chú Xường, Chú Xường bảo Tôi giao lại số tiền mặt tôi đang giữ. Chú Xường giao lại cho tôi một danh sách giá cả mua vô, bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo, Có thắc mắc thì cũng chẳng ích lợi gì, vì tin rằng họ đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.

Thời gian năm 1979, 1980, 1981… Thân nhân nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là “Phiếu Imex”.

Hàng Imex là hàng thứ thiệt, được tịch thu sau chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản … Nào là thuốc tây, radio, cassette, căm, sên, phụ tùng xe đạp…

Cả trăm mặt hàng khác, đều là hàng ngoại. Giới tiêu thụ hầu hết là con buôn từ Hà Nội, giá nào họ cũng mua, họ mua theo cái NGU của họ. Còn những người buôn bán phiếu Imex cò con thì đều qua tay mã thầu dậu là Chú Xường… Làm giá thì Chú Quảnh trong Chợ Lớn Khi Chú Quảnh cho biết giá cả sáng trưa chiều tối, thì Chú Phò cho lệnh xuất kho, bên cạnh có Tôi và Chú Chảnh đang chờ bên ngoài. Có gì trục trặc thì có Giám Đốc và tên Trung Úy Công An Lý Kim Anh.

Dù rằng tình hình an ninh có vẻ khả quan, nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tôi. Không biết bị phát hiện giờ nào và nếu bị chúng bắt thì sẽ ra sao. Cứ vài hôm chú Xường gặp tôi nhét vào túi Tôi một hai ngàn (tương đương 1 cây vàng). Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng “hùn vốn” của Tôi. Tôi nhờ Niên Trưởng Huỳnh Bá Long Khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ Chị Em Tôi…Thôi cứ thế rồi thời gian cũng qua, dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con.

***

Một ngày đẹp trời tháng Ba năm 1982… Tôi đang ngồi uống cà phê dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, một chiếc Honda hai người trờ tới. Một người xuống xe, vội vả nắm lấy tay và bảo Tôi:

-Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneckein.

Tôi có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần thì ra Nguyễn văn Định, (Khoá 24 Đà Lạt – TĐ 11 Nhảy Dù), đang chờ ngoài xe là Trần văn Hợp (Khoá 23 Võ Bị Đà Lạt)…

Chiếc Honda chở 3 người qua Chợ Cũ, làm đĩa cơm sườn, vài chai bia Con Cọp. Hợp móc trong túi xách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh, rồi chở tôi ra bến Thủ Thiêm “TỐNG” xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu…

Đêm đó Tôi lại ra khơi. Lần này là lần thứ bảy, không kịp một lời từ giã nào với Chú Phò, Chú Xường, Chú Chảnh, Chú Xồi, Chú Quảnh và vợ con gia đình.

Một tháng sau, đang chờ đợi để rời khỏi Đảo Pulau Bidong, Mã Lai, sang trại chuyển tiếp Galang II ở Nam Dương, Tôi nhận được thư của vợ tôi:

Anh yêu thương, Chị Ba (chị Dâu của Tôi) có đến thăm Em. Cùng đi với Chị có một người đàn ông, người này đã trao cho Em 10 lượng vàng và nói đây là tiền của anh Út gửi cho”.

Đó là Chú Xồi.

Quá Khứ và Hiện Tại

Trong ba tháng tội vượt biên, chúng tôi khom lưng đi vác lúa gạo ở Cà Mau , tình cảm của Tôi với gia đình chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, qua những bữa cơm sau một ngày vất vả lao động xã hội chủ nghĩa, những bữa cơm “lòng heo, phá lấu heo quay, vịt quay”… Có nhiều lúc Tôi bỗng chợt cười khan… Họ hỏi tôi sao lại cười, tôi nói:

Ở tù kiểu này sướng hơn trở về nhà

Chú Quảnh tiết lộ rằng, gia đình đã “chung” 150 cây cho thằng Trưởng Ty CA Hình Sự rồi, nay mai mình sẽ được về.

Thời gian này tôi gần gũi với Chú Xưòng – Chảnh nhiều hơn. Xường và Chảnh nhỏ con ốm yếu lại cùng một tóan lao động với Tôi… Có lần vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ, bắt từ bờ sông xuống ghe bầu, Xường trợt chân té nhào xuống sông, tôi liệng bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cảm không làm khó dễ mà chỉ nói 

Không sao… không sao… xem như Tôi biếu bao gạo đó cho các Anh… Tội nghiệp!Tù Tội!.Tội Tù…

Từ đó Tôi, Xường, Chảnh như hình với bóng. Tôi thường kể họ nghe chuyện Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử. Họ khóai nghe nhất là bộ truyện Kim Dung kèm theo lời bàn phân tích của Lão Ngoan Đồng (biệt danh của tôi) về những nhân vật Ma Giáo và Chính Giáo. Cũng nhờ vậy mà ba tháng tù trôi qua như một giấc ngủ đêm với thịt quay phá lấu…

Viết theo lời kể của Xường và Chảnh:

Ông Cố Nội chúng tôi, lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khỏang năm 1860) với một cái gánh mua bán ve chai lông vịt, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà, vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn. Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái ” vựa ” ve chai lông vịt, sau đó trở thành cái “xưởng” chuyên làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải

Trong khi đó, người Em thứ Ba của Ông Cố chúng tôi – ông Cố Ba – làm nghề mổ heo, Bà Cố Ba giữ lại lòng heo nấu phá lấu theo kiểu Dương Châu, rồi cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo… Sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu… Đó là tiền thân của “Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt ” sau này.

Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối thế kỷ 19…1880-1900) thành phố Sài Gòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy ông Tây Bà Đầm, trong khi khu Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng, đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô … Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm… Huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn và ngược lại… do đó mới có Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho)

Cơ sở của Ông Nội chúng tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp gấm, sa-ten, vải lụa… cho các con buôn thực Dân Pháp… trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu. Quán ăn và quán trọ Bát Đạt. Gia đình giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã, hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên.

Đến đời thân phụ mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả. Sáu anh chị em chúng tôi khi lên ba bốn tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính (bàn toán) của người Tàu một cách rành rọt. Chúng tôi học trường Tinh Võ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây… Khi anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu, thì cha Tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho Anh, và Ba Tôi trở thành “Ông Trùm” của “Bang Hẹ “… Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế tóan, còn Tôi (Xường), Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ 3 hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, Phú Lâm.

Lời Kết

Qua những câu chuyện kể trên, Tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư, mà cơ duyên định số đưa đẩy Tôi gặp gia đình họ, làm ăn sinh sống với họ khoảng bốn năm trong hoàn cảnh lo sợ hồi hộp từng ngày cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương không định trước.

“HỌ”… Trong ngôn ngữ lịch sự của người VN chúng ta thì Họ là người Hoa Kiều Chợ Lớn, bình dân thì thường gọi mấy Ông cắt chú , được phiên âm trệch ra từ danh từ “Khách Trú”… từ đó mới có danh từ Chú… Chú Ba Tàu… Chú Chệt…

Dù gọi là gì chăng nữa, Họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay… dù đã trải qua Tứ Đại Triều Đình (Tống, Nguyên, Minh, Thanh)… cho đến Bát Quốc Liên Quân… rồi Ma Cao, Hồng Kông, Đài Loan và lục địa dưới bàn tay sắt của Cộng Sản… Họ lấy gia đình làm đơn vị căn bản, để từ đó vươn lên, trở thành “Bang”… nhỏ lớn tùy thời tùy thế. Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng, Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm đan bằng Mây, bán dạo lòng heo phá lấu một ngày trở thành những Đại Gia trong sinh hoạt các “Bang” của Họ… Chẳng qua chỉ có một chữ “TÍN”.

Họ khởi nghiệp từ Buôn Bán. Nhỏ lớn, sang hèn, nghèo giàu gì Họ cũng có thể làm, cần cù nhẫn nại, chắt chiu dành dụm, không khoe khoang, không xa hoa phung phí… cho đến một ngày “Puôn Pán Dạo… Puôn Pán Lẽ…” trở thành những Công Ty Xí Nghiệp kếch xù trong những lãnh vực rất đơn giản.

Gần như suốt thế kỷ 20, người Hoa Kiều Chợ Lớn Sài Gòn Gia Định không có một dịch vụ nào liên quan đến công nghiệp nặng chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình. Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại vĩ đại của các ” Bang ” …

Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm gì không có sự cạnh tranh dành giựt lẫn nhau, rất hiếm nhưng không phải là không có. Nếu có xảy ra thường thì Họ giải quyết nội bộ. Họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của Họ thương lượng để mọi việc trôi qua. Sau đó Họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì Bất Tín“, nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày.

Trung Hoa lục địa (Trung Cộng, Đài Loan, Hồng Kông , Ma Cao….) Họ đều có chính quyền riêng của Họ. Người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt, từng bước từng bước Họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của Tôi) như VN, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc… Họ không muốn tham gia vào chính quyền dù Họ có mãi lực đồng tiền, có thể mua tiên cũng được. Thí dụ như ở Indonesia, người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sản của đất nước này. Nhưng có điều tài tình chúng ta cần phải khâm phục… dùng mãi lực đồng tiền. Họ móc nối với chính quyền nơi Họ cư ngụ một cách kín đáo trơn tru… bên cạnh là những “Cái Bang”, giống như xã hội đen, mafia còn khủng khiếp hơn God Father của Italy rất nhiều.

Nhiều người cho rằng “Ba Tàu” hay bắt chước làm đồ giả, điều đó hẳn nhiên, giải thích chuyện này Tôi chỉ mượn câu “Cứu Cánh Biện Minh Cho Phương Tiện “…

Còn Người Việt – Nam mình?

Trải qua trăm năm dưới sự đô hộ thực dân Tây, 30 năm hiện diện của Mỹ (1954-1974) , nay dưới sự cai trị tàn độc của CS , còn gần 4 triệu người Việt đang sống rải rác năm châu hải ngoại, chúng ta hãy xét nghiệm và làm một bài toán…

Câu Hỏi : “Đã có bao nhiêu người vì Danh, vì Vị, Vì Lợi đã dùng những bước chân “Bất Nhân, Bất Lễ, Bất Nghiã, Bất Trí, Bất Tín” để leo lên lên những bật thang danh vọng hảo huyền ảo tưởng, khiến cho cả nước (quốc nội) lâm vào tình trạng nghèo đói trong danh sách những Quốc Gia nghèo đói nhất thế giới, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Nam nói chung và các Hội Đòan Tập Thể nói riêng ở hải ngoại lâm vào tình trạng ngày càng nghi kỵ, chia rẽ, phân hóa như ngày nay không bao giờ hàn gắn được, và cũng chẳng bao giờ có một vĩ nhân nào có thể xuất thế tế độ chúng sanh… ít ra cũng vài thế hệ sắp tới…

Họ là Ai?

Họ là những người tên Đỗ họ Thừa.

Họ đổ thừa cho Chế Độ Miền Nam VN sinh ra tham quan ô lại.

Họ đỗ thừa cho Chế Độ CS vơ vét mồ hôi nước mắt của dân lành cho tư lợi cá nhân

Họ đỗ thừa cho xã hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn.

Nhưng Họ không bao giờ dám Đỗ Thừa cho chính Họ …”Ta là kẻ đã VONG BẢN, VONG QUỐC, VONG THÂN”.

May quá, Lão Ngoan Đồng học được những bài học từ gia đình chú Quảnh nên không bị vướng vào Ba cái VONG trên, mà Lão Ngoan Đồng chỉ mang cái bệnh …VONG MẠNG!

 

Trương Út (Út Bạch Lan)