Một câu chuyện về lòng kiên trì 

Một câu chuyện về lòng kiên trì 

Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng “cần nâng đỡ” mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là “trơ nhạc”. Một trong những học sinh đó là Robby.

Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu cất cả các học sinh của mình đều phải học. Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: “Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn”. Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu.

Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. “Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…”, cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng. 

Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể “chữa cháy” cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục “hạ màn” của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. A? quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

“Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ “Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ?” 

Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: “Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó?”. Robby giải thích qua chiếc micro “Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt”.

Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào “cần nâng đỡ”, nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn.

( Từ Reader’s Digest)

From: Tu-Phung

Tôi cay đắng vì không thể tha thứ cho mình

Le Tu Ngoc

Dưới đây là tâm sự của 1 vị giáo sư già kể về mối tình ngoài luồng của mình lúc còn trẻ, đăng trên trang Chuyện Khó tin nhưng có thật

Tôi cay đắng vì không thể tha thứ cho mình

Phải giấu đi một sự thật điều đó đã là quá sức đối với con người. Mang mặc cảm tội lỗi mà mình dù đã tìm mọi cách để tha thứ cho mình rồi mà không thể được, điều đó còn kinh khủng hơn. Thực sự tôi vô cùng cay đắng vì tôi không thể tha thứ cho mình…

Điều cay đắng nhất của tôi là không thể tha thứ cho chính bản thân mình.

Mặc dù chuyện của tôi rất ít ai biết, nếu không nói rằng chỉ tôi mới biết tội lỗi của tôi. Nếu ai đó cho rằng, thời gian có thể tha thứ cho tất cả, sự sám hối bản thân có thể gột rửa đi tất cả, than ôi đó chỉ là sự ngụy biện, sự lừa dối chính mình thêm một lần nữa.

Tôi đã giấu mình trong bóng tối quá lâu, và tôi bất lực, tôi cay đắng nhận ra rằng không có cách gì cứu chữa lành được vết thương trong tâm hồn tôi.

Tôi năm nay đã ngoài 60, là một vị giáo sư khả kính, sống ở một thành phố lớn.

Cách đây vài chục năm, xảy ra một chuyện hết sức đau khổ.

Tôi công tác ở một viện nghiên cứu, tôi đã có vợ và con ở quê. Tôi phải lòng một nhân viên cấp dưới của tôi ở viện. Phải nói một cách trung thực là cô gái đó rất mê tôi, tôn thờ tôi như một thần tượng. Chính cô đã chủ động bày tỏ tình cảm với tôi và dâng hiến cuộc đời trong trắng của cô ấy cho tôi mà không một đòi hỏi.

Đó là một mối tình đau khổ và ngang trái, vì thật lòng trước tình yêu si mê và cuồng nhiệt của một thiếu nữ trong trắng và ngây thơ, tôi không thể không đắm mình ngây ngất, nhưng tôi luôn cảm thấy đau khổ vì tôi không còn cơ hội để tiến tới hôn nhân với cô ấy được.

Cô gái ấy là một người rất thông minh, lòng tự trọng cao. Biết tôi dằn vặt và đau khổ vì yêu, cô luôn an ủi động viên tôi rằng cô ấy chỉ yêu tôi chứ không có ý định cưới tôi, không có ý định lấy tôi làm chồng.

Tôi và cô gái yêu nhau lén lút được 5 tháng thì tôi có giấy mời đi học nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Tôi thở phào vì có lẽ cuộc chia tay khá dài trong năm tới có thể sẽ giúp cả tôi và cô gái chấm dứt được mối tình tội lỗi không có đoạn kết.

Nhưng nghĩ đến chuyện phải xa người mình yêu, lòng tôi đứt đoạn.

Tôi đã đi âm thầm một mình trong đêm trên những con phố vắng, nước mắt chảy đầm đìa vì bất lực, vì tất cả dường như đắm chìm trong ngõ cụt. Đúng vào lúc tôi đang làm thủ tục để đi học thì cả cơ quan choáng váng vì phát hiện ra người yêu tôi đã lùm lùm một cái bụng chửa.

Không chồng mà chửa ở thời bao cấp năm xưa thì khủng khiếp đến chừng nào. Dư luận rủa nguyền, đồng nghiệp khinh bỉ, xóm giềng miệt thị.

Đau đớn cho tôi là lúc đấy tôi vừa được quy hoạch từ trưởng ban lên viện phó (mới quy hoạch chứ chưa bổ nhiệm) tương lai đang vô cùng sáng sủa, con đường thăng tiến đang rộng mở ở phía trước, lại là ủy viên ban chấp hành Đảng ủy cơ quan và vì vụ việc xảy ra trong ban của tôi nên tôi phải trực tiếp đứng ra xử lý kỷ luật cô gái nhân viên cấp dưới của tôi vì cô ta phạm tội sinh hoạt không lành mạnh, xấu xa dẫn đến chửa hoang.

Khốn thay, trong quá trình yêu đương, tôi không hề phát hiện ra cô ấy có thai. Cô ấy cũng không hề nói gì, không đả động tới việc có thai với tôi. Cô ấy không bao giờ biểu hiện sẽ làm một cái gì đó để bó buộc tôi với cô ấy.

Tóm lại là tôi hết sức bất ngờ, choáng váng và bản thân cũng không hiểu tại sao lại xảy ra như vậy. Việc có thai là do Hội Phụ nữ cơ quan phát hiện ra và làm đơn tố cáo gửi lên Đảng ủy cơ quan và Viện trưởng.

Chao ôi, khó có thể mô tả được tâm trạng của tôi lúc đó. Hoang mang cực độ, sợ hãi đến cực độ, lo lắng đến cực độ. Ngay sau khi cả cơ quan phát giác chuyện cô ấy có mang, tối hôm đó, một cuộc họp cơ quan bất thường xảy ra.

Tôi như người mất hồn với bản án tử hình lơ lửng trước mặt. Thú nhận hay không thú nhận, nếu thú nhận tôi có tình yêu nhưng mất hết tất cả, đạo đức, danh vọng và sự nghiệp. Không thú nhận, tôi thành kẻ đê hèn trong mắt người tôi yêu.

Thực ra mọi chuyện diễn biến quá nhanh, tôi không còn đủ thời gian, sức lực và sự tỉnh táo để mà suy nghĩ.

Cuộc họp hôm đó, dưới sự chủ trì của Viện trưởng, Hoa, cô gái tôi yêu sẽ phải khai nhận tác giả của cái bào thai trong bụng cô và chấp nhận án kỷ luật của cơ quan, bị khai trừ khỏi Đảng và nguy cơ bị đuổi việc là chắc chắn, ngoại trừ người yêu của cô đứng ra nhận và xin cưới cô.

Cuộc họp diễn ra trong căng thẳng tột cùng.

Hoa tuyệt đối tránh mặt tôi. Không nhìn tôi dù chỉ một ánh mắt. Tôi nhớ năm đó là mùa đông, giữa tiết đông hàn mà mồ hôi tôi vã ra như tắm. Mặc cho ông Viện trưởng và bà Hội trưởng Hội Phụ nữ cơ quan kiên quyết tra khảo, Hoa vẫn một mực cúi đầu im lặng.

Sau hơn một tiếng nghe lời thóa mạ và chỉ trích về mặt đạo đức của bà Hội trưởng Hội Phụ nữ cơ quan và của Viện trưởng, đến cuối cuộc họp, bất ngờ Hoàng, một nhân viên cấp dưới của tôi lúc này mới vụt đứng lên nói: “Tôi xin nhận hết mọi tội lỗi. Cái thai trong bụng cô ấy là của tôi. Tôi xin phép được cưới cô ấy làm vợ”.

Cả căn phòng lặng đi. Tất cả ai có mặt lúc đấy đều quay lại đổ dồn ánh mắt vào Hoàng. Hoàng đứng đầu hơi cúi, gương mặt tái đi vì căng thẳng.

Chuyện là thế. Sau cuộc họp khủng khiếp ấy, tôi khăn gói sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh đúng như lịch trình. Thực lòng, tôi rất sợ hãi khi phải đối diện với Hoa, với Hoàng, đều là nhân viên cấp dưới của tôi.

Trước khi bay, tôi có tranh thủ gặp Hoa để xin lỗi cô ấy và mong cô ấy tha thứ.

Thật bất ngờ, Hoa đã bình thản thú nhận với tôi một tin sét đánh: “Anh hãy yên tâm đi học và phấn đấu cho sự nghiệp. Em không dám nói cho anh biết. Đứa con trong bụng chính là con của Hoàng. Em không thể làm gì được, em không biết nói với anh thế nào để anh hiểu, em không có lý do gì để cho anh biết sự thật này. Chính em mới là người có lỗi với anh. Chính em mới là người mong được anh tha thứ”.

Năm đó là một mùa đông buồn thê lương nhưng trong lòng tôi hết sức nhẹ nhõm. Tôi đau đớn và buồn đến tê người, nhưng đó là một nỗi buồn thanh khiết, nó làm cho tôi thanh thản hơn. Tôi đã bay sang Nga và bỏ lại phía sau những dông gió cuộc đời.

Thời gian tôi học tập ở Liên Xô tất cả tổng cộng gần chục năm. Tôi đón vợ và các con sang Liên Xô để gia đình được gần gũi bên nhau. Thú thực tôi đã hoàn toàn quên được Hoa và mối tình ngang trái ấy.

Thế nhưng, 10 năm sau, khi về nước, tôi đã xin chuyển công tác sang một viện khác để tránh những ký ức đau buồn. Tôi không hề biết rằng cả Hoa và Hoàng đều không công tác ở viện cũ nữa. Oái oăm thay, khi trở về nước, những ký ức về mối tình và cuộc họp kỷ luật người tôi yêu lại hiện lên rõ mồn một.

Trong thi thoảng những lần trở về của ký ức đau nhói, tôi đã thoáng nghĩ Hoa và Hoàng nói dối tôi. Tôi đã nghĩ cái thai trong bụng Hoa là của tôi chứ không thể là của ai khác. Và thế là tôi đã bí mật đi tìm kiếm Hoa.

Sau một thời gian kiếm tìm, cuối cùng tôi cũng gặp được Hoa. Gia đình Hoa bây giờ sinh sống ở Sài Gòn. Chồng của Hoa là Hoàng. Sau khi bỏ việc ở viện, Hoa và Hoàng dắt díu nhau vào Sài Gòn lập nghiệp và khá thành công trong kinh doanh.

Gặp lại Hoa sau 20 năm xa cách, Hoa không thay đổi là bao, vẫn đôi mắt ấy, nụ cười ấy, chỉ có điều là tất cả trở nên đằm thắm hơn xưa. Từ xa tôi đã nhận ra Hoa, còn cô ấy có vẻ như không nhận ra tôi là ai.

Sau khi tôi giới thiệu và khơi gợi lại những kỷ niệm, Hoa mới vỗ trán ồ lên ra chiều kinh ngạc vì nhớ ra chuyện cũ. Tối hôm đó, vợ chồng Hoa mời tôi đi ăn tối cùng với gia đình cô trên danh nghĩa tôi là sếp cũ của hai người.

Một bữa tối lòng tôi quặn thắt khi xuất hiện bên cạnh vợ chồng Hoa là hai cậu con trai và một cô con gái nhỏ. Cậu cả, đứa con mà tôi khắc khoải nhớ, khắc khoải nghi ngờ giờ đã tròn 20, đang là sinh viên năm thứ 3 của một trường đại học.

Cậu mang một vóc dáng khác, một gương mặt khác biệt hoàn toàn so với bố và hai em, nếu không nói rằng đó là nguyên bản thời trẻ của tôi. Suốt cả bữa cơm, tôi như người không hồn vía. Hoa lặng lẽ cười nói bên Hoàng, còn Hoàng thì tự hào kể cho tôi nghe về cậu con trai cả, về những thành tích học tập của con.

Hoàng còn vỗ vai con và nhắc lại chuyện cũ một cách âu yếm: “Con biết không, ngày trước bố mẹ yêu nhau, lỡ ăn cơm trước kẻng, mẹ con có con nhưng bố mẹ chưa kịp cưới nhau. Cả cơ quan bố và mẹ họp lại để kỷ luật mẹ. Có bác đây chứng kiến. Suýt nữa bố không nhanh mồm thú tội là cả hai bố mẹ đi đứt đấy”.

Hoa âu yếm ngả đầu lên vai chồng cười. Tôi nghe những lời Hoàng nói mà chết lặng, trong lòng tê tái.

Vợ chồng Hoàng và các con của họ tiễn tôi về Bắc trong quyến luyến. Đứng trên máy bay, đôi mắt tôi nhòa lệ. Còn Hoa, cô ấy mỉm cười rất tươi và thanh thản bên chồng.

Khó có thể nói hết tâm trạng của tôi ngày ấy. Tôi đã vô cùng xấu hổ với lương tâm, xấu hổ với Hoa, Hoàng và tất cả mọi người.

Có lẽ không một ai biết tôi và Hoa từng yêu nhau ngoài tôi và cô ấy. Không ai biết để mà phán xét tôi, mà khinh bỉ tôi. Thế nhưng kể từ ngày đó, tôi cảm thấy danh vị giáo sư mà tôi khoác lên mình đêm ngày trở thành một tấm áo giáp nặng trĩu.

Tất cả những sự tôn kính của đồng nghiệp, bạn bè, con cháu gia tộc đối với tôi trở thành một gánh nặng đáng sợ.

Phải giấu đi một sự thật điều đó đã là quá sức đối với con người. Mang mặc cảm tội lỗi mà mình dù đã tìm mọi cách để tha thứ cho mình rồi mà không thể được, điều đó còn kinh khủng hơn. Thực sự tôi vô cùng cay đắng vì tôi không thể tha thứ cho mình.

***

Ps: anh chị có điều gì u uất mà muốn giãi bày cho nhẹ lòng, gửi cho em, em đăng lên fb; em hứa giữ bí mật danh tính, sống để bụng chết mang đi …

Thiên Đường Cũng Lầm Lỗi

Van Pham

NƠI NÀO CHÚNG TA CẢM THẤY YÊU THÍCH VÀ HẠNH PHÚC VỚI NÓ THÌ ĐÓ LÀ THIÊN ĐÀNG MÀ CHÚNG TA ĐANG TÌM KIẾM….

CHUYỆN PHIẾM ThaiNC…

***

Thiên Đường Cũng Lầm Lỗi

Josh Smith. là một sinh viên đẹp trai, cầu thủ chơi Baseball cho một trường đại học nổi tiếng tại California, tương lai sáng ngời, bỗng nhiên một hôm ra đường bị tai nạn xe hơi đụng chết…

Khi hồn Josh Smith lên tới thiên đường mới biết có sự lầm lẫn. Thiên đường làm lỗi lộn tên anh với một Josh Smith khác, nhưng đã trễ, không thể trở lại trần gian vì thân xác của Josh đã được hiến tặng mọi bộ phận cho y khoa Hoa Kỳ nên tất cả đã không còn gì.

Josh giận quá đòi kiện lên Thượng Đế. May sao Thánh Phê-Rô đã tìm được phương pháp đền bù cho anh.

Thánh Phê-Rô tìm ra một người Josh Smith khác 35 tuổi, thô lỗ, say sưa, đáng lẽ phải chết do say rượu đi bộ hôm nay sẽ bị đụng xe nên sắp đặt cho anh sống lại vói thể xác của Josh Smith này. Không còn đường nào khác hơn anh đồng ý chịu.

Khi Josh tỉnh lại và hỡi ơi với cái thân xác xấu xí, ù lì, và đặc biệt là một ngưòi Mỹ da mầu, hoàn toàn khác với anh. Thiên đường cho anh một đặc ân là vẫn còn nhớ một số quá khứ kiếp trước, để anh đủ nhận thức nàng Sue và thằng con Michael, là vợ và con của người tên Josh Smith kia đã chết. Anh chỉ mượn thân xác của ông ta để tạm thời sống lại mà thôi. Họ không phải là vợ và con của mình.

Nhưng dù anh nói cách nào đi nữa vẫn không ai tin. Mọi người cho rằng sau tai nạn đầu óc anh có vấn đê phải đưa đi bác sĩ tâm thần, và dĩ nhiên là không có kết quả gì.

Dù muốn hay không Josh Smith cũng phải ở lại đây với ngôi nhà của Josh Smith kia, với nàng Sue luôn luôn hiền dịu, chiều chuộng chồng, và với thằng con tên Michael 12 tuổi sợ bố nó như sợ cọp.

Thời gian mấy tháng nữa trôi qua, Josh Smith sống trong sự thưong yêu của Sue. Anh cảm động khám phá ra rằng người đàn ông trước mang hình hài của anh đang mang vốn là một thằng hay say sưa, vô tài, không nghề ngỗng gì chắc chắn, và chỉ sống chủ yếu vào đồng lương cần cù của vợ là nàng Sue. Nhưng nàng Sue thì vẫn luôn một mực thương yêu chồng và con vô cùng.

Một hôm anh ở nhà thấy thằng con Michael đang treo một cái bánh xe cũ ngoài sân và chăm chỉ đứng từ xa cố liệng trái banh vào lỗ hổng ở giữa cái bánh. Té ra thằng con Michael đang tập luyện để thành một pitcher cho đội Baseball của trường nó. Josh Smith bỗng thấy cánh tay mình rung động. Tâm thức của một Josh Smith của kiếp trước, tay ném pitcher số một của đội Baseball trường UCLA bỗng nhiên cuồn cuồn trở về trên cánh tay. Anh lấy trái banh từ thằng Michael, và chỉ một cái vung tay là trái banh đi vào tâm điểm cái bánh xe trước cặp mắt kinh ngạc của thằng bé.

Để chứng minh không phải là may mắn, Josh Smith lần lượt đứng thật xa, dưới bất kỳ góc độ nào trái banh cũng dễ dàng trúng tâm điểm …Lần lượt những đường banh nổi tiếng của Josh Smith ngày nào, nào là “fast ball” “curved ball” “Breakng ball”, “Change up”…tất cả những đường banh tuyệt kỷ đó lần lượt trở về thể hiện trong những cú ném thần sầu của anh trước cặp mắt tròn xoe không thể nào tin nỗi đây là sự thật của thằng bé Michael.

Josh Smith reo lên sung sướng. Thiên đường đã vô tình hay cố ý để lại một tài nghệ, khả năng chơi bóng tuyệt vời ngày trước của anh lại cho anh không suy suyển mảy may.

Một tháng sau, anh ra sức huấn luyện, truyền dạy cho thằng con Michael những đường ném bóng tuyệt vời của anh. Tài nghệ chơi baseball của thằng Michael tiến bộ cực kỳ đến nỗi nhà trường chú ý, dọ hỏi và biết bố nó là Josh Smith đã dạy nó làm cả trường ngạc nhiên.

Tuy vậy, sự thật vẫn là sự thật. Nhà trường của Michael mời Josh Smith về làm huấn luyện viên cho đội baseball của trường chuẩn bị tham dự giải vô địch hằng năm của các trường trung học.

Từ ngày tìm lại được khả năng chơi baseball của mình, Josh Smith đã có được niềm vui trở lại. Anh cảm thấy cuộc sống hiện tại của mình thật ra cũng…not bad. Một mặt anh mang hết tài nghệ ra sức truyền dạy cho thằng đệ tử ruột là Michael Smith trở thành một picher có triển vọng và tương lai, mặt kia ra sức huấn luyện cho đội baseball trường Michael chuẩn bị cho giải State Championship.

Sáu tháng trôi qua. Josh Smith ngoài những lúc chơi Baseball, anh dần dần sống hài hòa trong thân xác của Josh Smith kia. Anh là một người chồng, người cha gương mẫu, không hề say sưa thô lỗ đánh đập vợ con như Josh Smith kia đã từng làm, lại có công ăn việc làm vững vàng và được dân cư thành phố kính trọng.

Có hai người hạnh phúc sung sướng nhất trên đời là nàng Sue và thằng Michael. Họ hoàn toàn không biết gì về chuyện cải xác hoàn hồn của hai người đàn ông cùng mang tên Josh Smith này. Họ chỉ tin rằng Thượng Đế đã nghe thấy những lời cầu nguyện của họ và đã cho chồng và cha của hai người thay đổi hoàn toàn.

******

Đội bóng trường Michael Smith vào chung kết giải State Championship tiểu bang Alabama.

Michale Smith ném trái banh cuối cùng kết thúc trận đấu. Thắng hay thua quyết định ở đường banh này. Đường “Breaking Ball” tuyệt kỷ của Josh Smith truyền dạy cho Michael loại được đấu thủ bên kia mang về chiến thắng đầy vẻ vang cho Winslow Middle High School ngôi vị State Championship đầu tiên của trường.

Sau khi trọng tài vung tay ra hiệu là Michael Smith chiến thắng, khán giả ùa ra sân, và không ai nhanh bằng chính ông huấn luyện viên Josh Smith cùng bà vợ là nàng Sue. Hai người cùng ôm choàng lấy Michael mừng rỡ. Thằng Michael bật khóc. Sue bật khóc. Và lạ thay, Josh Smith cũng bật khóc.

Giữa lúc đó Thánh Phê-Rô từ Thiên Đường hiện ra. Thánh cho Josh hay đã đúng thời hạn một năm giao ước giữa hai người. Ông đã tìm ra một hình hài khác đúng y như Josh Smith ngày trước để anh có thể hoàn toàn phục sinh vĩnh viễn trong thể xác đó, không cần phải sống tạm bợ trong thân xác xấu xí hiện thời của anh. Anh cần phải …ra đi!

Nhưng Josh đã nói với thánh Phê Rô, anh đang thoả mãn với hoàn cảnh hiện tại, hạnh phúc với tình yêu chân thành của Sue cùng thằng bé Michael, và cảm thấy không cần phải thay đổi gì khác hơn. Anh không còn luyến tiếc kiếp sống trước nữa, đồng ý hủy bỏ lời giao ước với thánh Phê-Rô và tình nguyện ở lại trong thể xác này vĩnh viễn.

Thánh Phê Rô chấp thuận, chúc lành cho gia đình Smiths, và từ giã.

Josh và Sue hôn nhau thắm thiết như chưa bao giờ họ được hôn nhau đắm say như vậy.

May be an image of one or more people, people playing sports and text

Một Người Quen – Đỗ Duy Ngọc

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

Một Người Quen –

Đỗ Duy Ngọc

Tui biết anh ta khi tham gia vào chiến dịch X1, chiến dịch đánh tư sản đầu tiên của chính quyền Cộng Sản tại miền Nam sau 1975. Tui hồi đó thất nghiệp dài cồ, chẳng làm chi ra tiền, đói nhăn răng, cơm chẳng có mà ăn, bán hết áo quần, giày dép rồi tới sách báo, đến lúc chẳng còn gì để bán, nên khi được gợi ý tham gia có cơm ăn là ghi tên ngay.

Bọn tui bị tập trung vào tối 9.9.1975, xe đưa đến trường Pétrus Ký. Ngồi chờ dài cổ mà không biết tập trung để làm gì? Đến nửa đêm thì được chia thành từng nhóm nhỏ, có xe chở đi.

Nhóm của tui có tui với Lượng là gốc sinh viên Đại học Vạn Hạnh, bổ sung thêm một tên ở Đại Học Khoa Học tên Trung, thêm hai người nữa đến giờ chẳng nhớ tên. Tổ trưởng của toán là anh ta, một sĩ quan quân đội Bắc Việt. Anh ta nói tiếng Bắc giọng nhà quê, tụi tui nghe tiếng được tiếng mất. Lại thêm có nhiều từ nghe hơi lạ tai như khắc phục, tranh thủ, phấn đấu…nên nhiều khi tụi tui đoán ra yêu cầu của anh ta mà thực hiện.

Tổ của tụi tui đóng quân ở trên lầu của một khách sạn của người Hoa ở đường Đồng Khánh, nhiệm vụ giữ một điện đài liên lạc, nhưng cũng ít khi thấy có ai gọi hoặc nhắn nhủ chi.

Công việc chẳng có gì, chỉ quanh quẩn trong phòng, rồi chia nhau đi lang thang mấy căn phố đìu hiu, những hàng quán chắc hẳn ngày xưa rất nhộn nhịp. Anh bộ đội chỉ huy của tụi tui thấy cái gì cũng lạ, nhìn cái gì cũng thắc mắc.

Nhiều hôm anh đứng ở balcon, mắt cứ ngước nhìn những toà nhà cao tầng và bảo với tụi tui, sao họ có thể xây được những cái nhà cao và to thế. Có lần tui đi ra phố Lê Lợi, mua về mấy ổ bánh mì thịt với paté, mời anh ta ăn, anh ăn mà miệng cứ xuýt xoa họ làm bằng thứ gì sao nó ngon quá vậy!

Thật ra bánh mì lúc đó chẳng còn ngon như bánh hồi trước 75 vì thực phẩm đã bắt đầu khan hiếm rồi, dù bộ đội mới chiếm Sài Gòn hơn bốn tháng. Nói tóm lại là anh ta hoàn toàn xa lạ với những sản phẩm và cuộc sống văn minh của Sài Gòn.

Anh bảo từ bé đến ngày đi bộ đội vào Nam, anh chỉ ở quê, mò cua bắt ốc, nhiều khi không đủ gạo mà ăn, độn khoai sắn, có lúc độn rau, sống rất thiếu thốn. Thịt bò, thịt heo là những món ăn mơ ước chỉ có ngày Tết hay ngày kỵ giỗ mới có một miếng trơn mồm.

Anh chỉ mong đủ lớn để được vào bộ đội, có cơm ăn. Chiều chiều anh hay rủ tui đi ngắm hàng hóa, anh nhìn những món hàng với ánh mắt khát khao, thèm thuồng. Anh nói với tui là anh mê nhất đồng hồ không người lái có hai cừa sổ và cái đài có band hát nhạc.

Anh thổ lộ là muốn mua quà gởi về cho bố mẹ và các em ngoài ấy mà chẳng có tiền. Anh ta thật thà, không có bệnh nổ như những anh bộ đội miền Bắc khác, nên tụi tui cũng có chút cảm tình. Tình cảm này xuất phát từ lòng thương hại nhiều hơn, dù anh đang là kẻ chiến thắng và đang là người chỉ huy tụi tui.

Một hôm phòng chúng tôi xuất hiện một tù nhân. Ông ta người Hoa, dáng to lớn, bị trói thúc ké vào một chiếc ghế. Nghe thoang thoáng ông ta là một tay tư sản giàu lắm ở Chợ Lớn, khai báo tài sản chưa đầy đủ nên bị bắt tạm giam để điều tra tiếp.

Thế là tụi tui trở thành những tên lính canh, thay phiên nhau canh gác với khẩu súng carbine của nhân dân tự vệ. Đêm đó, tui được phân công gác từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng, tui ngồi canh mà mắt cứ díu lại, chập chờn.

Bỗng có tiếng gọi khẽ: Nị à, nị à…. Tui choàng ngay dậy, ông Tàu gật gật đầu, có vẻ muốn nói gì với tui. Tui ngần ngừ đi lại, ông ta nói nhỏ: “Nị cởi trói cho ngộ, rồi mở cửa sổ. Ngộ thoát được sẽ gởi cho nị 5 lượng vàng, bảo đảm sẽ có người đưa tận tay nị.”

Thấy tui có vẻ không tin, ông ta nói tiếp, giọng cầu khẩn: “Tin ngộ đi, ở Chợ Lớn này ai cũng biết tên ngộ, ngộ không nói láo đâu, mở trói cho ngộ, ngày mai sẽ có người mang vàng trao tận tay nị”

Thời điểm đó, đối với tui, vàng chẳng có giá trị gì, mà thật ra tui cũng chẳng biết trị giá của nó thì đúng hơn. Hơn nữa, tui vốn nhát gan, nên sợ nếu tên này trốn, chắc tui phải lãnh đủ.

Nghe nói mấy ông cộng sản này kỉ luật nghiêm lắm, nên tui càng sợ. Tui lắc đầu, đưa tay ngang cổ, ra dấu cắt đầu, sợ lắm. Ông nhìn tui, thất vọng…

Người gác kế tui là anh ta, anh sĩ quan Việt cộng. Tui về giường nằm mà cứ nghĩ về ông Tàu, tự hỏi từ lầu ba này mà ông ta nhảy xuống thì không chết cũng què, sao ông ta tính chuyện gan trời vậy. Lan man nghĩ thế thôi, tui đi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết.

Đang say ngủ thì bỗng tui nghe một tiếng rầm như vật gì bị rớt, hốt hoảng choàng dậy, tui thấy cửa sổ mở toang, ông Tàu biến đâu mất, anh ta thì đang loay hoay với cây súng, lên đạn lốp cốp rồi mới hô lớn: Đứng lại, đứng lại không tao bắn…

Thế rồi anh chìa súng ra cửa sổ, chĩa súng lên trời bắn một tràng, rồi mới chạy xuống cầu thang. Tụi tui tỉnh ngủ hẳn, lật đật chạy theo anh. Xuống đến sân, thấy một chiếc xe hơi rồ máy chạy như bay ra đường….

Tui không biết anh ta có bị cấp trên kỉ luật gì không, hôm sau vẫn thấy anh ta sinh hoạt bình thường, cũng chẳng nhắc gì tới vụ ông Tàu trốn thoát. Thế nhưng trong lòng tôi vẫn dấy lên một nỗi nghi ngờ, tui tin chính anh là kẻ cởi trói và mở cửa cho tù nhân trốn thoát. Nghi vậy thôi, nhưng tui chẳng kể với ai.

Mấy bữa sau, vào buổi chiều, anh ta ôm về một cái máy radio cassette, tay đeo một chiếc đồng hồ Seiko. Nhìn những vật này, tui càng tin chắc anh ta chính là người giúp ông Tàu trốn chạy.

Suốt ngày anh ra cứ loay hoay với chiếc máy và cái đồng hồ. Mấy thằng tui hướng dẫn cách sử dụng máy cassette, dạy anh ta cách lấy giờ, cách chuyển lịch cho đồng hồ. Bày đủ cách mà anh ta chẳng nhở gì, chỉ có nút tắt mở, bấm play, bấm chuyển band qua lại, từng đó thôi mà anh ta cứ mãi quên, không nhớ.

Cứ mỗi lần mở máy là một lần hỏi. Bực mình quá, tụi tui bảo trong đầu anh chứa gì mà sao anh ngu thế. Anh ta chỉ cười, phô hết hàm răng hô rồi bẽn lẽn: “Thì tại tớ vốn nhà quê mà…” Thấy tội nghiệp, tụi tui lại bày cho anh.

Hơn tháng sau thì tổ chúng tôi giải tán, ai về nhà nấy. Ở chung nhau gần hai tháng, nhưng thật sự chẳng gắn bó gì với nhau lắm, vì trong mỗi người đều mang mỗi tâm trạng khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, toan tính khác nhau, nên cũng chẳng có tiễn đưa, tan hàng trong lặng lẽ.

****

Năm 1998, công ty tui mở thêm một nhà máy in và một xưởng chế bản điện tử, xin giấy phép khó khăn, phải ra tận Hà Nội. Tui là giám đốc nên lãnh trách nhiệm ra ngoài đó để vận động kiếm cho được tờ giấy phép.

Người phụ trách ký giấy cho tui là một cán bộ cấp cục trưởng của Bộ Văn Hoá. Tay này rất quan cách, ăn nói, đi đứng rất bệ vệ, ra dáng lãnh đạo lắm. Dù đã có thư gởi gắm, có ngay phong bì lần gặp đầu tiên nhưng y cứ chần chừ, chưa chịu ký. Mời đi ăn mấy lần mà ông quan này vẫn chưa nhận lời, sau phải nhờ qua một quan lớn khác, y mới chịu đi.

Vào tiệc, y gọi món rất sành sỏi, gọi rượu toàn thứ cao cấp, chứng tỏ y là dân chơi thứ thiệt. Khi ăn, y còn dạy cho cả bàn là ăn bào ngư phải ăn như thế này, rùa vàng, vi cá phải ăn như thế kia, ăn món nào với rượu nào, y biểu diễn khui rượu, rót rượu rất nhuần nhuyễn, cả bàn há mỏ ra nghe, tui chỉ cười nhạt.

Y nói nhiều, nhưng chẳng ăn gì, mời mãi cũng chỉ động đũa đôi ba miếng gọi là, y bảo nhà hàng này làm món ăn chưa đúng điệu, mặc dù bữa tiệc đó tui phải thanh toán cả đống tiền.

Vì tờ giấy phép đó, tui phải bám ở Hà Nội suốt gần ba tuần lễ. Và ngày nào cũng nhậu nhẹt, ăn chơi. Càng tiếp cận ông quan này, tui cứ ngờ ngợ, thấy có nét hao hao một người nào đó mà mình đã gặp trong đời. Nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra. Cuối cùng thì tôi cũng nhận được tờ giấy phép, đổi lại, tui cũng hao khá bộn.

Ngày cuối trước khi về lại Sài Gòn, tui được y chiếu cố mời về nhà nhậu như để trả lễ, vì theo y, không đâu nhậu ngon bằng ở nhà y, có đầu bếp riêng, thức ăn nhập khẩu tươi ngon, có rượu xịn, và hơn hết, theo lời y khoe, ở Hà Nội này, không có nhà hàng nào có dàn máy nghe nhạc so sánh được với dàn máy của y.

Nhà y không lớn lắm, nhưng nằm trên con đường đẹp với những hàng cây. Nhà nhỏ, nhưng trang trí toàn những vật đắt tiền. Sập gụ, tủ chè, tượng đứng, tượng ngồi, đồ sứ, ngà voi, ngọc xanh, ngọc đỏ lủ khủ. Tui choáng với tủ đồng hồ đeo tay của y, toàn thứ dữ: Patek Philippe, Omega Constellation, Jaeger Lecoultre, Constantin, Piguet, Longines…nhưng đúng như y nói, dàn máy nghe nhạc của y mới sợ, to đùng, sáng lóa, chắc phải vài trăm ngàn đô.

Làm quan giàu thật. Dàn máy khủng đặt trên chiếc tủ bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi, đánh verni màu nâu nhạt trông rất đẹp. Trên chiếc loa lớn đen tuyền có một khung ảnh bằng vàng cũng chạm trổ khá cầu kỳ. Trong ảnh là hình của một anh bộ đội, đàng sau lưng là chợ Bến Thành, tấm hình đã úa màu thời gian, nhìn không hợp lắm với cái khung.

Thoáng nhìn hình, tôi nhận ra ngay khuôn mặt của người sĩ quan chỉ huy tụi tui hồi đi chiến dịch X1. Hàm răng hô, khuôn mặt hiền hiền, ngu ngu. Tui buột miệng: Hình ai đây anh? Y cười rổn rảng: “Tớ đấy, chụp hồi mới giải phóng Sài Gòn, nhìn khác quá, phải không? Hồi đấy chẳng còn giữ được tấm hình nào, chỉ còn duy nhất tấm này. Kỷ niệm đấy, quý lắm đấy!”

Tui suýt kêu lên, nhận người quen cũ, nhưng kịp dừng lại. Thời gian đã đổi thay, cuộc đời đã đổi thay, vị trí cũng đổi thay, liệu y còn nhớ thời kỳ đó không? Hay y cố tình quên đi rồi, nhắc lại thật tình là không có lợi.

Nhưng tui cứ băn khoăn mãi là y làm cách nào mà có được sự thay đổi lạ lùng quá xá vậy. Tui hình dung lại khuôn mặt của anh ta, nhớ lại ánh mắt thèm thuồng của anh ta trước những hàng hoá của Sài Gòn, sự nhẫn nhịn của anh ta khi tụi tui bảo anh ngu vì dạy mãi mà vẫn không sử dụng được cái máy cassette.

Cuộc đời chuyển biến kinh thật, đúng là đổi đời. Thấy tui đứng ngẩn ngơ trước dàn máy, anh nói lớn:” Sao? Dàn máy ngon chứ? Âm thanh tuyệt hảo. Mở ra nghe đi rồi sẽ thấy. Ông nhấn nút đi, nút trắng đấy”.

Tui nhìn hàng nút, thấy nút nào cũng lấp lánh, nút nào cũng một màu nên lưỡng lự chưa biết phải nhấn nút nào thì lại nghe y với một giọng đầy quyền lực pha chút chế giễu: “Thôi vào ngồi nhậu đi ông nội, sao mà nhà quê thế, đến cái nút mà cũng không biết bấm”

Tui tự nhủ, hoá ra cuộc đời là một vòng tròn, luân chuyển thế vai nhau.

DODUYNGOC

May be an image of 3 people, people standing, outdoors and text

Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Ở trong trường người ta thường đem những câu chuyện như lão Hạc, chị Dậu, chí Phèo để phê phán chế độ tàn ác của thực dân phong kiến. Nhưng những câu chuyện đó so với hiện thực XHCN thì còn thua xa lắm. Tình cờ đọc được câu chuyện trên trang nhà của anh @Khiem Nguyenanh, xin chia sẻ với các bạn.

Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Nhân lần đi thăm miền Bắc, trong một buổi sáng lang thang không có việc gì làm, tôi đã có dịp tham dự một phiên toà Đại hình tại Thị xã Lạng Sơn.

Lạng Sơn lúc đó còn nghèo lắm, dấu vết chiến tranh trong cuộc chiến năm 1979 với Trung cộng vẫn còn y nguyên. Sau mấy năm mất mùa, mức sống người dân lại càng thê thảm hơn.

Thị xã nhỏ “đi dăm buớc, đã về chốn cũ” nhưng lại khó mà kiếm được thứ gì để ăn sáng ngoài vài củ khoai luộc và ấm nước chè tươi.

Trong một bối cảnh như thế mà lại có vụ xử một can phạm với tội danh: “cố sát và cực kỳ ngoan cố, không thành khẩn khai báo” khiến tôi cảm thấy rờn rợn nhưng lại hết sức tò mò !

Pháp đình là một ngôi chòi lá và “toà án” vẫn còn dùng trống và chiêng để kêu gọi dân chúng tụ tập tham gia phiên xử công khai, đúng với “pháp chế” cuả nhà nước.

Phạm nhân bị truy tố với tội danh: ” cố tình đầu độc người em gái ruột, cũng vừa là hàng xóm” đã bị giam giữ từ hơn một năm trước, nhưng trông lại là một người có vẻ mặt hiền lành, nhẫn nhục, trên mặt và thân thể còn nguyên dấu vết cuả nhục hình từ những trận tra tấn, do công an “tức quá” vì:

– “tội đã rành rành như thế mà đánh mãi … nó vẫn nhất định không chịu khai !”

Phiên toà kết thúc khá nhanh chóng, sau khi chủ tịch hội đồng xử án nêu câu hỏi:

– Tội giết người của anh rõ ràng như ban ngày! tại sao anh không chịu khai, mà lại còn tìm cách “giả vờ” tự tử để trốn tránh pháp luật.

Và đây là lần đầu tiên sau hơn một năm trời không nói một lời nào, phạm nhân đã mở miệng tự “biện hộ”:

– Thưa quan toà, tôi sống với một đứa con trai 3 tuổi, mẹ nó đã chết vì … đói và bệnh sau khi sanh nó, vì đói khổ quá, không có gì cho con ăn nên tôi không muốn sống nữa và đã đánh cắp con gà duy nhất cuả em tôi để nấu một nồi cháo trộn với thuốc độc, dự định sáng dậy hai bố con sẽ ăn để được chết theo mẹ nó.

Nhưng chẳng may tôi lại ngủ quên đi nên em rể tôi đã sang “trộm” lại nồi cháo để ăn nên mới ra nông nỗi, chết hết cả nhà, chứ tôi giết chúng nó làm gì !

– Đúng ra là họ đã ” ăn cắp” cái chết cuả hai bố con tôi !

Được bà mẹ và láng giềng đều bênh vực nên toà đã xử tha bổng, và nạn nhân được nói lời cuối cùng trước khi được phóng thích.

– Xin toà xét cho tôi được ở lại luôn trong tù, vì dù sao cũng còn chút khoai sắn để ăn, chứ bây giờ ra ngoài, tôi cũng sẽ tự tử nữa thì ai chôn tôi ?

Đời này đâu còn cái gì gọi là “đáng buồn” nữa phải không ?

Vàng- truyện ngắn: nguyễn đại thuật

Vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

 Mỗi ngày hai buổi đi về sở làm, Quốc phải đi qua ga xe điện ngầm Montparnasse làm trạm trung chuyển.

Có một ngày, đường xe điện ngầm về nhà Quốc tạm ngừng hoạt động để sửa chữa, Quốc phải xử dụng đường xe điện ngầm khác trên cùng một ga trung chuyển, nhưng phải mượn lối đi qua hai thảm thang máy khá dài…

Khi vừa qua khỏi thảm thang máy thứ hai vài bước, Quốc thoáng thấy có một người phụ nữ ngồi xin tiền. Một chân bà bị teo nhỏ co quặp lại, ngắn hơn chân kia, một cặp nạng bằng kim loại sáng bóng sạch sẽ nằm hai bên. Bà có vóc dáng của một người Á châu và ánh mắt của bà khiến Quốc cảm nhận như đã nhìn thấy ánh mắt nầy ở một nơi nào đó rất mơ hồ…

Dòng người phía sau Quốc thúc đẩy Quốc tiến về phía trước. Quốc vẫn đi, lòng tự hỏi, tại sao giữa Paris của nước Pháp lúc nầy lại có người khuyết tật ăn xin ?

Chính sách an sinh xã hội của Pháp không thể để sự việc như thế nầy xẩy ra, trừ trường hợp người nhập cư bất hợp pháp chưa được chính quyền chấp thuận cho cư trú dài hay ngắn hạn. Người khuyết tật là ưu tiên của chính sách an sinh xã hội Pháp.

Những ngày sau đó, buổi chiều đi làm về, khi bước ra khỏi thảm thang máy thứ hai Quốc vẫn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi ngay tại một địa điểm như những ngày hôm trước, dưới đất, trước mặt là một hộp giấy nhỏ để người hảo tâm bỏ tiền vào. Bà ngồi im lặng, không một lời hỏi xin khách đi ngang qua. Có lúc Quốc nhìn bà, mỉm cười. Quốc định ngừng lại bỏ tiền vào hôp giấy, nhưng một ý nghĩ chợt dến, Quốc tiếp tục đi. Quốc tự nhủ: “Những người như bà nầy được xã hội ưu tiên giúp đỡ, không đến nỗi nào phải xin ăn… làm ê mặt nước Pháp quá !“.

Một ngày giữa tuần, sở làm có công việc cần giải quyết gấp, tám giờ tối Quốc mới ra khỏi sở làm. Khi đến cuối thảm thang máy thứ hai Quốc không nhìn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi nơi chỗ cũ. Sau giờ cao điểm trong hành lang ga rất thưa người, Quốc có thể nhìn thấy bà nếu bà đang di chuyển một nơi nào gần đó. …

Nhưng khi đến bến xe điện, Quốc thấy người đàn bà khuyết tật đang đứng chờ chuyến xe đến, trên cùng hướng của tuyến đường Quốc xử dụng. Quốc đến bên cạnh bà, cũng vừa lúc xe đến. Quốc đưa tay đẩy nhẹ sau lưng bà bước lên tàu. Một hành động tự phát nhân cách của một nguời trước một đồng loại khuyết tật dù không được yêu cầu. Xe thưa thớt khách. Vừa ngồi xuống ghế, người đàn bà khuyết tật xếp hai nạng chung với nhau để qua phiá bên chân bị tật. Quốc ngồi vào ghế đối diện. Bà mỉm cười nhìn Quôc, nói bằng tiếng Pháp:

– Cám ơn ông.

– Thưa bà không có gì. Quốc trả lời.

Bà nhìn Quốc, hai mắt mở lớn, Quốc vẫn thấy ánh mắt nầy mình đã gặp ở một nơi nào đó. Bà hỏi:

– Nhìn ông, nhận ra ông là người Châu-Á, nhưng không biết ông là người nước nào ?.

– Tôi là người Việt-nam.

Bà cười, giọng cười đầy thiện cảm :

– Tôi cũng là người Việt-nam như ông, tiếc rằng tôi không nói được tiếng Việt, còn ông, ông nói được tiếng Việt không ?

Quốc gật đầu:

– Tôi qua đây không lâu lắm nên còn nói được tiếng Việt như người trong nước. Vẻ mặt bà thoáng suy tư :

– Mình người Việt, không nói được tiếng Việt, cũng thiệt thòi phải không ông ?

Quốc chưa kip trả lời câu hỏi thì loa phát thanh trên tàu điện ngầm thông báo trạm đến để Quốc đổi tàu.

Quốc hỏi:

– Bà xuống trạm nào ?

– Tôi sẽ xuống trạm cuối của đường tàu nầy, nhà tôi gần đó.

Đúng lúc, cửa tàu tự động mở, Quốc xuống xe. Khách xuống xe và khách lên xe che khuất tầm nhìn của Quốc đang quay người lại để chào bà.

Ngày hôm sau, đường xe điện ngầm tạm ngừng lưu thông để sửa chữa hoạt động trở lại, Quốc xử dụng đường xe điện ngầm cũ nên không còn gặp, nhìn lại người đàn bà khuyết tật, tuy nhiên lòng Quốc vẫn phân vân: “Bà ta, người gốc Viêt-nam, không biết nói tiếng Việt, chỉ nói được tiếng Pháp, đi xin tiền giữa thủ đô nước Pháp, không bị người Pháp có lòng tự ái dân tộc pha lẫn bản chất kỳ thị màu da xua đuổi ! Ngay chính bản thân, khi nhìn thấy người đàn bà khuyết tật nầy xin tiền Quốc cũng cảm thấy khó chịu… bà làm tổn thương đến chính sách an sinh xã hội nước Pháp.!“. Quốc nghĩ, không biết có cần thiết gặp lại người đàn bà nầy không ? Vì bà là đồng hương cơ cực ? Vì sao bà bị tật nguyền như vậy ?

* * *

Thời gian trôi qua, Quốc đã không còn nhớ gì đến người đàn bà khuyết tật. Khoảng sáu tháng sau, buổi tối ngồi xem tin tức thời sự của đài truyền hình France 3, một đài địa phương của thủ đô Paris và vùng phụ cận, một bản tin được phát ra với hình ảnh người đàn bà khuyết tật xin tiền trong hầm xe điện ngầm đang trao một phong bì cho cho một người, cùng lời của người phát tin: “Hôm nay là năm thứ sáu, bà Thérèse Tran một người tàn tật, đã trao tặng cho hội Chữ Thập Đỏ nước Pháp 5.000 francs, số tiền nầy do bà quyên được hàng ngày của khách lai vãng trong những hầm xe điện ngầm của thành phố Paris. Quý khán thính giả của đài đã từng được xem bảng tường trình bằng hình ảnh công việc của bà trong một chương trình ĐÓNG GÓP CHO TỔ CHỨC NHÂN ĐẠO trước đây trên đài truyền hình của chúng tôi. Bác sĩ đại diện hội Chữ Thập Đỏ Pháp đang nhận số tiền nầy từ tay bà”.

Bản tin tức khích-động trí tò mò của Quốc. Ngày hôm sau trên dường từ sở làm trở về nhà, Quốc chọn tuyến đường xe điện ngầm thời gian trước đây đã cùng bà xử dụng chung một chuyến. Khi đi qua khỏi thảm thang máy thứ hai, Quốc nhìn thấy bà vẫn còn ngồi tại chỗ. Quốc tiến thẳng vào hành lang đường hầm, đến tuyến đường xe điện, cố ý ngồi chờ gặp bà. Gần mười chuyến tàu ngừng cho khách lên xuống rồi tiếp tục chạy…. Quốc nhìn thấy bà đang chống nạng xuất hiện đầu đường hầm, Quốc đi nhanh về phía bà ngỏ lời chào. Bà chào lại và đưa tay bắt tay Quốc. Bà cười rất tươi, nói với Quốc:

– Lần đầu tiên gặp ông cùng trên tuyến xe nầy cũng khá lâu, tưởng là không còn gặp lại ông nữa, Paris có hơn mười tuyến đường xe điện ngầm và hàng vài chục ga trung chuyển… gặp nhau lại trên cùng tuyến xe rất hiếm. Gặp ông lúc đó, thấy ông lạnh lùng đối diện với một người ăn xin vì đói ăn và tàn tật như tôi. Hôm nay có khác, thấy nét mặt ông tươi vui và còn chờ tôi để trể mấy chuyến xe ? Nếu tôi đoán không sai, ông muốn gặp tôi hôm nay vì đêm qua ông đã nhìn và nghe được mẫu tin tức về tôi trên đài truyền hình France 3, một người đàn bà Pháp gốc Việt, tật nguyền ăn xin để làm việc thiện ? Và rất tiếc phải để ông chờ… vì tôi có thấy ông đi qua chỗ tôi vừa rồi…giờ nầy ông vẫn còn ở đây ?

Quốc cảm thấy bối rối trước những lời khẳng định và nhạy bén của bà, Quốc chưa kịp đáp lời thì chiếc tàu điện ngừng, cửa mở, hành khách lên tàu. Một hành khách lịch sự nhường chỗ cho bà. Quốc đứng bên cạnh và có dịp quan sát khuôn mặt thanh tú của bà, mái tóc đen chen lẫn vài sợi trắng hai bên thái dương.

Cặp mắt của bà có một sức lôi cuốn kỳ lạ, người nhìn cảm thấy như bản thân mình bị thâu nhỏ lại như bị hút vào bên trong… Cặp mắt mà Quốc đã nhìn thấy một nơi nào đó vào một thời kỳ rất xa, và rất xa. Xe ngừng. Khách xuống, không có khách lên. Quốc ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Hai người không nói gì với nhau cho đến lúc loa tàu báo tên trạm ngừng sắp tới, bà hỏi Quốc:

– Chắc ông xuống trạm này vì kỳ trước ông đã xuống đây ?

Quốc cười, lắc đầu:

– Hôm nay tôi không xuống đây, xin được theo bà để được nghe bà cho nghe chuyện bà đi quyên xin tiền làm từ thiện.

Bà cười, hai tay ôm hai chiếc nạng vào người, nói:

– Ông thấy đó, vừa rồi tôi nói có sai đâu, hôm nay ông đón gặp tôi chỉ vì tin túc về tôi trên đài truyền hình tối hôm qua. Có lẽ trước đây ông không theo dõi tin tức trên truyền hình France 3 nên không biết. Tàu chạy ồn quá, vậy hãy đợi đến trạm cuối, bên ngoài ga có quán nước, chúng ta đến đó nói chuyện thoải mái hơn, và đây cũng là người Việt Nam đầu tiên trực tiếp muốn biết chuyện nầy. Mong rằng ông không phải là người của tòa Đại sứ Việt nam, phỏng vấn, ghi âm lén rồi tráo trở chỉnh sửa, viết lại … trái với trung thực rồi họ cho là đài France 3 tuyên truyền, hư cấu, giàn dựng… Chuyện của tôi là chuyện của tôi, chỉ vậy thôi.

Hai người đi vào một quán nước gần kế lối ra của hầm xe điện ngầm. Thời tiết đang vào cuối tháng tư nhưng vẫn còn se lạnh, bà chọn một bàn bên ngoài quán và nói với Quốc:

– Chắc là hôm nay tôi sẽ về nhà trễ, mẹ tôi sẽ phải đi tìm đón về, ngồi bên ngoài để bà dễ tìm thấy, trời còn lạnh, nếu ngồi bên trong thì ấm hơn. Tôi vẫn có thói quen, những chiều tối không việc gì làm, ở nhà buồn lắm hay ra ngồi đây uống cà phê nhìn người qua lại, về nhà trễ, bà cụ đi tìm đón về…. lại nghe những lời trách hàm chứa yêu thương.. đã trở thành thói quen không bỏ được. Nhà cũng gần đây nhưng cũng tội cho bà cụ, vào mùa đông, khi có tuyết rơi, bà cũng đội tuyết đi tìm đứa con tàn tật nầy !

Hai tách cà phê được mang đến, bà đưa tay phải lấy viên đường. Quốc nhìn thấy bàn tay của bà bị co quắp trừ ngón cái và ngón trỏ còn cử động được, ba ngón còn lại áp chặt vào lòng bàn tay. Bà cầm muỗng khuấy tách cà phê nhẹ nhàng và rất bình thường, không vướng víu…. Quốc thấy lòng dâng lên nỗi ái ngại khi vừa khám phá thêm bàn tay của bà, Quốc quên đi ly cà-phê của mình…. đến khi cà phê được nhấm nháp rồi để xuống bàn, Quốc đang tìm lời đề vào câu chuyện thì bà nói như để nhắc Quốc:

– Không biết tôi phải gọi ông là gì đây ? Còn tên tôi thì ông đã biết rồi, trên đài truyền hình France 3, nay giới thiệu thì quá trễ. Khỏi cần lặp lại phải không ông ?

Bà cười vui vẻ, tự nhiên. Quốc nhận ra sự vụng về của mình, ấp úng trả lời:

– Được gặp bà hôm nay, lòng tôi phấn khởi vô cùng, nên quên giới thiệu tên, mong bà thông cảm. Xin bà gọi tôi là Nguyễn… Nguyễn Minh Quốc.

– Việt nam mình sao nhiều Nguyễn thế ! Đi đâu trên xứ Tây nầy cũng gặp Nguyễn.

Bà cười, hai mắt nhíu lại nhìn Quốc, tay bị tật cầm chiếc muỗng gõ nhẹ vào thành miệng tách cà phê. Quốc vui theo cái vui của bà, đề cập thẳng vào chuyện:

– Bà Trần có thể kể cho tôi câu chuyện về trường hợp nào đưa bà vào việc làm ăn xin để có tiền giúp cho Hội Từ Thiện ?

Bà trầm ngâm một chốc rồi bắt đầu câu chuyện:

– Tôi rời Việt nam vào năm tôi được sáu tuổi vì lý do thương tật của tôi. Vào thời đó Việt Nam đang có chiến tranh và tôi cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Tôi là nạn nhân của chiến tranh, nhưng bị thương tật do bị tra tấn, không phải do bom đạn. Lúc đó ba tôi lái xe cho bịnh viện Grall của Pháp ở Sài gòn, trong khi mẹ tôi và tôi sống ở quê nhà, thị trấn Vĩnh điện, miền trung Việt nam, chỉ cách xa thành phố cổ Hội An không tới mười cây số. Mẹ tôi có một tủ kính nhỏ buôn bán vòng vàng trong chợ. Buổi sáng tôi theo mẹ ra chợ, buổi chiều tan chợ, theo mẹ về nhà. Buổi tối, thỉnh thoảng mẹ tôi dạy tôi đọc và tập viết chữ a, b, c, đ. Tôi chưa đến trường, mẹ nói tôi còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi đến trường. Đêm nằm ngủ với mẹ, tôi nghe có tiếng ì ầm từ xa xa vọng vào nhà, tôi hỏi mẹ đó là tiếng gì thì nghe mẹ thở dài, giọng buồn buồn trả lời:

– Đó là tiếng súng đại bác, chắc là hai bên đang đánh nhau một nơi nào đó, chiến tranh ngày một rộng ra, dân ở quê bắt đầu khổ rồi, buôn bán ế ẩm.

Nói xong, mẹ ôm tôi vào lòng, im lặng, tôi nghe tiếng đập của tim mẹ. Rồi một đêm đang ngủ, tôi giật mình thức dậy vì nghe tiếng súng nổ “cắc bùm”…”tạch… tạch”, tiếng “chéo chéo“ của đạn bay…. tiêng gà kêu “cục tác” “cục cục”, tiếng heo kêu “ụt..ụt”, có tiếng trẻ con khóc ré lên có lẽ vì sợ… rồi có tiếng ai đó nói to: “Chắc mấy Ổng đang đánh úp quận. Ở đâu mà mấy Ổng về tứ bề, đông thiệt là đông ?”.

Mẹ lôi tôi ra khỏi giường, đẩy tôi xuống bên dưới giường, mẹ nằm bên cạnh. Người mẹ tôi run rẩy, tôi cũng run như mẹ.

Trước đấy không lâu, nghe lời khuyên của bạn bè trong chợ, mẹ đã nhờ người ta mua bao cát nhỏ chất quanh giường ngủ thay vì đào hầm để tránh đạn….nay hai mẹ con tôi có chổ nằm để tránh đạn. Rồi tiếng súng im bặt. Tiếng chân người chạy vội vã, tiếng đập cửa liên hồi, tiếng gọi tên người nầy rồi người khác… tiếng năn nỉ, ấm ức khóc … Lại một tiếng la to: “Bắn“… một tiếng súng nổ…. tiếng đàn bà con nít khóc ré lên nghe thảm thiết. Mẹ ôm chặt tôi rồi. Mẹ kéo nhẹ tôi ra khỏi gầm giường vừa lúc có tiếng đập cửa ầm ầm, tiếng chân đá vào cửa rầm rầm… Có tiếng ra lệnh: “Mở cửa ! mở cửa ! Nếu không tuân lệnh, quân Giải phóng sẽ phá cửa… nếu không mở, chống đối, quân Giải phóng sẽ bắn tại chỗ! “. Mẹ khóc, run lẩy bẩy tiến về phía cửa, trả lời lập cập :

– Tôi mở…tôi mở…nhà không có đàn ông, con trai, chỉ có hai mẹ con tôi là đàn bà con gái! Cửa mở, ánh sáng tràn vào. Tôi nhìn thấy có mấy người ùa vào nhà. Mẹ tôi co rúm người lại. Những người nầy có mang súng chạy tìm kiếm, lục lạo khắp nơi trong nhà, họ nhìn xuống hầm giường mẹ con tôi ngủ và hét lên: “Có còn ai trốn trong đó không thì ra ngay, bắt được quân Giải phóng sẽ không tha!“

Áo quần họ mặc không giống như áo quần quân lính Quốc gia ở quận. Người mặc quần ngắn, kẻ mặc quần dài, áo tay ngắn, tay dài. Người đi chân không, người mang dép vỏ lốp xe. Đàn ông mang súng, con gái có nguời cầm gậy, có người tay không.

Sau khi lục soát nhà xong, một người trong toán lục soát tiến ra cửa nói lớn:

– Báo cáo đồng chí, đã lục soát xong, không có gì khả nghi.

Một người đi vào. Lưng có đeo một súng ngắn. Tôi nhận ra ngay là anh Kéo vì anh mặc cái quần kaki đen có cái lỗ bị cháy nơi đầu gối. Cái quần kaki đen nầy ba tôi mua ở Sài gòn tặng anh Kéo nhân dịp về ăn Tết với gia đình hơn một năm trước đây, mặc dầu anh đội cái mũ tai bèo che phủ hơn nửa phần mặt. Cái lỗ bị rách của cái quần nơi đầu gối là do anh Kéo tạo ra một phần, một phần do tôi. Ngày hôm đó mồng bốn tết mẹ mở cửa hàng, sau tết nên có không ít người đến mua bán. Anh Kéo làm việc cho tiệm vàng của mẹ. Anh thử vàng thật hay giả, anh làm nhẫn, làm giây chuyền. Hôm đó khách hơi đông, anh Kéo quên tắt lửa ống hàn xì khi anh đang trao đổi chuyện với khách hàng, vô ý, mỏ hàn xì làm quần anh bị cháy thủng một lỗ nơi đầu gối, cái quần kaki đen ba tôi mua tặng mặc dịp tết. Khi không còn khách hàng, tôi tinh-nghịch cho ngón tay trỏ vào cái lỗ bị cháy của ống quần kéo mạnh tay, cái lỗ bị cháy rách rộng ra, anh Kéo không nói gì, chỉ cúi xuống vuốt vuốt chỗ bị thủng rách. Nhưng tôi bị mẹ phát cho mấy bàn tay vào mông vì cái tội tinh nghịch.

Mặt trời đã mọc. Anh Kéo lôi mẹ vào góc nhà, anh rút khẩu súng đeo bên hông dí vào trán mẹ. Mẹ tựa lưng vào tường, người khụy xuống nhưng đứng vững bằng hai tay chống trên hai đầu gối. Miệng mẹ hả ra, hai mắt mở to, đầy nước mắt. Anh Kéo hỏi lớn:

– Vàng để đâu, đem hết ra đây đóng góp cho Mặt Trận. Mẹ ngồi bệt xuống đất, hai tay chấp lại, vừa vái anh Kéo liên hồi vừa chỉ cái bình hoa cắm hoa giấy trên bàn thờ, nói không thành tiếng:

– Có bao nhiêu tôi giấu hết trong cái bình hoa đó, lạy ông, ông lấy hết đi và tha cho hai mẹ con tôi.

Lúc anh Kéo đi đến bàn thờ cầm cái bình hoa lên, vứt những bông hoa giấy rồi trút hết những vòng vàng trong bình xuống mặt bàn thờ, tôi thấy hai mắt anh sáng lên, mặt mất dần vẻ hung ác. Trong lúc anh Kéo đang lấy những chiếc nhẫn vàng đeo vào những ngón tay, tôi bò đến ngồi bên cạnh mẹ, khóc ấm ức. Khi anh Kéo lấy hết vàng trên bàn, anh quay lại đứng trước mẹ, lúc nầy mặt anh trở lại hung dữ như trước. Anh dí mũi súng vào trán mẹ hét lên:

– Vàng còn dấu nơi nào nữa hãy chỉ mau, nếu còn dấu diếm Cách mạng sẽ không tha chết đâu!

Mẹ lại khóc, lại chấp tay vái lạy anh Kéo. Lần nầy mẹ quỳ hai gối, đầu rạp xuống trước chân anh Kéo, mẹ nói đứt từng hơi một:

– Ông biết rồi mà, trước đây ông làm việc với tôi, ông biết tôi chỉ có vốn liếng ba lượng vàng, làm thành mẫu mà bày trong tủ kiếng. Khi bán gần hết tôi phải vào Hội An mua thêm vàng cho đủ số vốn ba lượng. Nay còn bấy nhiêu đã chỉ cho ông rồi đó, ông đã lấy hết rồi, đâu còn mô nữa mà giấu.

Anh Kéo ra dấu tay kêu hai người cùng trong nhóm rồi ra lệnh:

– Hãy trói con mẹ nầy lại hỏi còn vàng giấu đâu, nó ngoan cố, thay mặt chính quyền Cách mạng bắn bỏ.

Tôi nghe nói bắn chết mẹ, tôi vùng đứng lên chạy đến ôm cánh tay anh Kéo, nước mắt chan hòa, tôi xin anh Kéo tha cho mẹ, đừng bắn mẹ. Anh Kéo vung tay thật mạnh làm tôi té nhào xuống đất. Anh ra lệnh:

– Các đồng chí cột chân con nhỏ nầy lại treo lên xà nhà để xem mẹ nó còn ngoan cố tới đâu, còn giấu vàng mà không chịu khai báo.

Tôi bị hai người đè xuống nền đất, họ cột một chân của tôi rồi kéo lên treo lơ lững giữa nhà. Tôi vùng vẫy, kêu la trong sự đau đớn. Mẹ nằm co rúm trên nền nhà, dường như sự sợ hãi chen lẫn đau đớn tột cùng làm mẹ mất trí, mẹ lảm nhảm:

– Anh làm cho tôi, anh biết mà, vốn liếng của tôi chỉ có ba lượng làm mẫu cho khách lựa chọn… khi gần hết hàng… phải vào Hội an mua thêm vàng cho đủ ba lượng… nay anh làm Cách mạng, anh lấy hết rồi… còn đâu nữa mà giấu! Anh tha cho con tôi, nó còn nhỏ, nó có biết gì đâu!

Tôi nghe có tiếng họ nói với nhau:

– Con mẹ nầy còn ngoan cố, không nên tha cho nó, các đồng chí đồng ý không?

– Đồng ý…đồng ý!

Cái chân bị cột của tôi càng lúc càng làm tôi đau thêm. Tiếng đồng ý, đồng ý làm tôi khiếp người. Đến một lúc tôi nghe từ cái chân bị cột căng đến tột cùng, tôi nghe từ khớp xương mông phát ra một âm thanh nhu một cành cây khô có ai dẫm lên làm gãy, tôi hét lên và không còn nghe biết gì quanh tôi.

Rồi tôi nghe có tiếng gọi nhau, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng súng nổ thưa thớt, tiếng trẻ con gọi cha, gọi mẹ, gọi anh, gọi chị. Tiếng khóc rưng rức âm độ khác nhau trong cả khu xóm. Tôi mở mắt nhìn quanh nhà, duy nhất chỉ còn mẹ đang đứng trên ghế, nâng người tôi lên, với tư thế nầy tôi cảm thấy chân bị trói của tôi bớt đau một chút. Mẹ tìm cách mở giây đỡ tôi xuống đất không được, mẹ đứng như vậy vừa nâng người tôi vừa ôm tôi vào ngực, áp mặt vào thân tôi. Hơi thở của mẹ dồn dập, nóng hổi, thổn thức. Toàn thân tôi, tay chân tê lạnh, chỉ có đầu và mặt tôi nóng hừng hực, hai mắt tôi như có những ngôi sao nằm bên trong.

Cả khu xóm lại yên lặng…. Tiếng một ai đó nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:

– Chúng nó rút đi rồi. Lính Quốc gia từ Đà nẵng kéo vô, từ Hội an đổ xuống đông lắm. Có tiếng vỗ tay rời rạc, có tiếng nói với nhau mang âm hưởng vui mừng và bình tĩnh hơn.

Mẹ thở ra một hơi dài thật mạnh, rồi kêu lớn:

– Bà con ơi, có ai đó cứu con tôi với… không thì nó chết mất. Bà con ơi, xin cứu con tôi…

Tiếng kêu cứu của mẹ như muốn làm vỡ tung ngôi nhà mái tôn. Nhiều người chạy đến, những ông bà lớn tuổi và con nít. Mấy ông mấy bà tìm cách tháo giây trói không được. Họ dùng dao cắt đứt giây, tôi rơi xuống. Mẹ và mấy ông mấy bà cố đỡ tôi cho khỏi rơi xuống đất, nhưng đà rơi và sức nặng của cơ thể tôi đã không giữ lại được giữa những bàn tay. Tôi rơi xuống nền đất, mẹ ngã trên người tôi vì cố giữ tôi trên tay.

Tôi hét lên…và không còn biết gì nữa.

Chị Thérèse nói tiếp, giọng nhẫn nhục:

– Khi tôi tỉnh lại, mẹ đang ngồi bên tôi, mệt mỏi và buồn rầu. Mẹ cười, hai môi như bị méo, để bàn tay lên trán tôi, mẹ hỏi giọng nghẹn ngào:

– Con tỉnh lại rồi, con còn bị đau nhiều không ? Con ráng chịu đựng rồi sẽ khỏi, con của mẹ !

Tôi cảm thấy một nửa thân tôi và toàn chân bên trái bị bó cứng, bàn tay bên phải cũng bị bó cứng, tôi không cựa quậy được. Toàn thân tôi còn đau đớn nhưng tôi cảm thấy chịu đựng được nên gật đầu như trả lời cho mẹ tôi rằng không còn đau nhiều, tôi muốn nhìn thấy mẹ an tâm. Tôi được điều trị thương tật ở bịnh viện Hội an. Chân phải của tôi bị trật xương khớp háng, các mạch máu không dẫn máu đến được nên toàn chân phải bị chết. Bàn tay phải của tôi bị gãy mấy ngón tay, vì khi được cắt giây bị treo trên sà nhà rơi xuống, bàn tay tôi chống đất trước. Hội đồng bác sĩ của bịnh viện không chấp thuận đề nghị của bác sĩ điều trị cắt một phần chân của tôi vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Ba tháng sau tôi được xuất viện, chân tôi không duỗi thẳng được, vẫn cong, nên tôi phải dùng nạng. Ba ngón tay của bàn tay phải bị gãy, khép vào lòng bàn tay không cử động được. Mẹ bán nhà, hai mẹ con vào Sài gòn sống với ba. Biết được tình trạng thương tật của tôi, bác sĩ người Pháp giám đốc bịnh viện Grall cũng là hội trưởng hội Chữ Thập Đỏ của Pháp tại Việt nam đã làm thủ tục đưa tôi qua Pháp để được tiếp tục chữa trị. Một gia đình người Pháp không con nhận bảo trợ cho tôi. Tôi rời Việt nam năm 1967, vừa đúng sáu tuổi. Gia đình người Pháp bảo trợ cho tôi gốc Bồ đào Nha rất sùng đạo Thiên chúa. Chồng làm việc cho một hãng bào chế thuốc. Vợ là y tá điều dưỡng của một bịnh viện. Gia đình cư ngụ vùng Bắc thành phố Paris.

Một tuần có hai ngày tôi được xe bịnh viện đón đưa đến trung tâm Phục hồi Chức năng để được săn sóc thương tật. Những ngày còn lại trong tuần tôi cũng đươc xe đưa đón đi học tại một trường dành cho trẻ em khuyết tật.

Mặc dầu được chữa trị bằng phương tiện y khoa tân tiến vào thời đó, thương tật của tôi không trở lại bình thường… và tôi trở thành khuyết tật vĩnh viễn. Gia đình bảo trợ tôi không muốn tôi trở lại Viêt nam, làm thủ tục xin nhận tôi làm con với sự đồng ý của ba mẹ tôi. Tôi tiếp tục được đi học chữ tại trường cho người khuyết tật đến hết chương trình trung học. Cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ, tôi phụ giúp cho chi hội Chữ Thập Đỏ địa phương, làm nhiệm vụ tiếp nhận tặng phẩm và tiền bạc của những người hảo tâm đem đến ủng hộ cho hội hoặc đôi khi lập thành nhóm đi lạc quyên ngoài đường phố hay tại các trung tâm thương mại lớn.

Năm 1975, tôi đang chuẩn bị vào trung học đệ nhị cấp thì tại Việt nam chính quyền Cộng sản Miền Bắc đánh chiếm và cai trị Miền Nam. Ba mẹ tôi được sứ quán Pháp cho phép theo nhân viên người Pháp phục vụ tại bịnh viện Grall qua Pháp tị nạn vì sợ chính quyền mới qui tội làm việc cho ngoại bang. Tôi tiếp tục học hết trung học, vào đại học, rồi ra trường đi dạy. Hai người bảo trợ cũng là cha mẹ nuôi tôi sau nầy lần lượt theo hầu Đức chúa trời vì cao tuổi. Ba tôi cũng rời bỏ hai mẹ con tôi sau một cơn bệnh đột ngột vì tim. Năm đó, tôi ba mươi bảy tuổi. Me rời bỏ tỉnh, lên Paris sống chung với tôi. Theo lời trăn trối của ba muốn đem tro cốt về quê nhà, mẹ và tôi quyết định đi về thăm Việt nam. Sau khi tro cốt của ba được được gởi trong chùa ở Hội an và vài ngày thăm viếng bạn bè quen biết, mẹ và tôi trở ra Vĩnh Điện thăm làng xóm cũ. Tôi không còn ghi nhớ gì nhiều khung cảnh ở đây vì đã rời gần ba mươi năm trước. Chỉ nghe người thân quen của mẹ nhắc lại chuyện giặc giã ba mươi năm trước tấn công và chiếm đóng thị xã và tôi là một phần nhỏ trong những tai ương ở xóm cũ. Chúng tôi lên đường vào Sai gòn để trở lại Pháp, trước khi đi mẹ mời vài người thân quen ngày trước cùng buôn bán trong chợ cạnh tủ vàng của mẹ, tham dự một bữa cơm thân mật tại một nhà hàng nhỏ. Đang lúc ăn và chuyện trò vui vẻ thì bỗng dưng mọi người ngừng nói. Một ông bác hỏi mẹ:

– Thím Ba có nhận người nầy là ai không?

Ông nhìn về hướng cửa vào nhà hàng ăn. Tôi và mẹ nhìn theo hướng nhìn của ông….

Một ông già chống nạng cụt một chân, hai mắt bị mù, được một cô gái có cổ nghiêng qua một bên, mặt hướng lên trời dẫn đi. Hai người tiến gần đến bàn ăn của chúng tôi. Họ đang đi xin ăn.

Mẹ tôi lắc đầu trả lời bác, nói “không biết”.

– Thằng Kéo mà thím không nhận ra sao, ngày trước nó là thợ làm vàng cho thím đó ? Ông bác nói với mẹ.

Mẹ mở to mắt, miệng hả ra, rồi nhắm mắt lại thở ra, khi nhận ra tên nguời làm hồi truớc. Tôi thấy toàn thân cứng lạnh, sợ hãi khi nhìn lại kẻ đã cột treo mình lên sà nhà để tra khảo mẹ nơi dấu vàng mấy chục năm trước. Ông bác kể:

– Sau cái năm nó kéo du kích về đánh chiếm Vĩnh Điện mình một đêm, một ngày, thì thị xã được lính Quốc gia chiếm lại bọn nó rút về Gò nổi, bị máy bay Quốc gia dập bom banh càng, nó mất một chân…Sau chiến tranh, chính-quyền mới cho làm khóm trưởng đâu bên Gò nổi, một đêm tối, sau khi đi vận động nông dân vào hợp tác xã nông nghiêp, trên đường về, nó bị mấy người lạ mặt chận lại đánh bị thuơng nặng, làm mù hai mắt, rồi trói lại bỏ trong ruộng dâu. Đứa con gái dẫn nó đi ăn xin là con của nó, khi sinh ra đã bị tật như vậy.“

Tôi nhìn cô gái, mặt cứ ngữa nhìn lên trời. Tôi chợt nhớ đến cái đêm tôi bị trói, treo lên sà nhà, mặt mẹ lúc nào cũng ngước lên nhìn tôi, đau đớn, sợ hãi và chan hòa nước mắt. Còn cô gái nầy suốt đời phải ngước mặt nhìn trời là tại làm sao vậy ? Trần gian nầy đang quá khổ đau nên không dám nhìn xuống ? Cầu xin ơn trên tha lỗi cho cha mình đã một thời gieo rắc tang thương cho đồng bào mình ? Nếu đúng vậy thì tội tình nầy đã đến với cô một cách bất công và cay nghiệt ! Lòng tôi ái ngại khi nhìn thấy cô.

Ông bác kể tiếp:

– Chính quyền địa phương xếp nó vào diện thương binh liệt sĩ, được trợ cấp, nhưng không đủ sống, dân địa phương xa lánh vì sự tàn bạo nó đã gây ra trước đây, rồi vợ bỏ, để lại đứa con rồi đi biệt xứ. Hàng ngày hai cha con rời làng vào đây xin ăn. Khi hai người ăn xin đến gần bàn ăn, mẹ tự nhiên đứng lên vội vàng đi vào nhà vệ sinh. Tôi cũng đứng lên, đi “lọc cọc” theo mẹ . Hai mẹ con đứng yên lặng trong nhà vệ sinh, không trao đổi với nhau một lời, chỉ nhìn nhau…..

Khi hai mẹ con trở ra lại bàn ăn, hai người ăn xin đã đi qua những bàn thực khách khác.

Bữa cơm thân mật chấm dứt, mọi người chia tay với những chúc lành đẹp nhất. Dưới ánh sáng vàng vọt của những cột điện ven đường, hai người ăn xin đang đi phía trước, dưới những hàng cây khẳng khiu, thưa lá. Khi vượt qua hai người ăn xin, tôi dừng lại, cho tay vào túi xách lấy ra mấy tờ bạc dúi vào tay cô gái rồi theo mẹ băng qua đường một cách vội vàng. Trong đêm tối yên tĩnh, tôi nghe rõ tiếng nạng “cộp…cộp “của anh Kéo vang lên chen cùng tiêng nạng “cộp…cộp” của tôi nghe buồn da diết.

Trong những ngay chờ đợi chuyến bay về lại Pháp tại Sài gòn, một buổi sáng, mẹ và tôi dùng điểm tâm tại một tiệm phở. Khi hai mẹ con tôi vừa ăn xong thì một người đàn ông không còn chân lết đến bên cạnh nhìn thẳng vào hai mẹ con tôi, đưa một một túi nhựa ra trước mặt, hỏi:

– Hai bà ăn xong rồi, phần dư còn lại không ăn hết, xin cho vào túi nhựa của tôi.

Mẹ e ngại trút phần ăn còn lại của hai tô phở vào túi nhựa với nét mặt đầy xúc động, rồi lặng lẽ lấy mấy tờ bạc để vào tay ông, mẹ nói:

– Chú giữ lấy tiền nầy để mua thêm thứ gì để ăn. Người đàn ông cầm tiền, cứ chăm chăm nhìn mặt mẹ rồi lết ra bên ngoài tiệm phở. Bên ngoài có một đám con nít, tay xách thùng đánh giày, tay cầm vé số, tay cầm lon xin tiền, tay cầm túi nhựa xin thức ăn thừa, muốn vào tiệm nhưng bị người quản lý ngăn chận. Khi mẹ và tôi bước ra khỏi tiệm phở, lũ con nít ùa tới vây quanh, mỗi đứa nói một câu lao nhao, mẹ đưa tay nhẹ nhàng gạt chúng qua một bên để có lối đi cho hai mẹ con. Giữa lúc đó, từ trong một góc, người ăn xin cụt hai chân lết lần về phía chúng tôi, hỏi lớn:

– Có phải bà là thím Ba ngày xưa có tủ vàng trong chợ Vĩnh Điện không ? Cháu nhìn không sai đâu. Hồi đó thím nổi tiếng khu Vĩnh điện, mọi người đều nói như vậy. Mắt thím đẹp, ai cũng biết. Con Chút, con gái của thím cũng có cặp mắt giống thím như vậy. Cô nầy chắc là con Chút ngày xưa, bị mấy thằng trong rừng ra quậy phá phố Vĩnh Điện bắt treo lên khảo vàng nhà thím, làm nó bị thương, phải không thím ?

Ông vừa nói vừa chỉ tay vào tôi. Tôi ngạc nhiên, cố tìm trong trí nhớ người nầy là ai….Thấy mẹ do dự một lúc rồi gật đầu xác nhận. Mẹ lại hỏi:

– Tôi nay lớn tuổi rồi, trí nhớ không còn như trước, không nhớ chú là ai vậy?

Người ăn xin cụt hai chân nói giọng vui mừng:

– Cháu là con ông Tư Cải cùng xóm với thím đó, cháu là thằng Lự đây. Hồi thằng Kéo đem du kích của nó đánh Vĩnh Điện, nó bắt ông già cháu đi theo vì ông không chịu đóng thuế nông hội cho chúng. Mấy tháng sau dân chúng vớt được xác ông già cháu nổi trên bến đò Hoa trà. Đêm đó thằng Kéo vào nhà thím treo con Chút lên kèo nhà để khảo vàng, chuyện ấy ai cũng biết.

Mẹ thừ người ra, mặt đượm nét sầu đau. Còn tôi, khi được nghe nhắc đến tên Chút, cái tên mà ba mươi năm nay không còn ai nhắc đến, đã vào trong quên lãng của mọi người, nay được nghe lại, tôi bồi hồi xúc động. Ký ức tuổi thơ của tôi chợt thức giấc: Thằng Lự đây sao ? Hồi đó hai đứa cùng lũ bạn trong xóm, suốt ngày lêu lỗng ngoài xóm, chơi lò cò, chơi nhảy dây, chơi u, chơi ném lon… thằng Lự khỏe mạnh, thường hay bênh vực tôi mỗi khi bị bọn trẻ khác hiếp đáp ! Tôi đang nghĩ đến ngày xa xưa, thì nghe tiếng mẹ :

– Tại sao cháu ra nông nổi tàn tật như thế nầy ?

– Năm 1979, cháu bị bắt vào lính, đưa ra Bắc đánh nhau vời Trung quốc, cháu bị thương cụt hai chân. Đời sống khổ lắm thím, nhà nước trợ cấp nhưng sống vẫn thiếu trước hụt sau… người ta quy kết trước đây ông già cháu có tội với cách mạng vì không nộp thuế nông hội, nay mặc dầu cháu hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, nhưng cháu phải tiếp tục trả cái nợ trước đây của ông già, vì vậy phần trợ cấp thương binh của cháu bị địa phương cắt giảm không đủ vào đâu nên cháu phải xin ăn.

Tôi nhìn thân thể tật nguyền và teo gầy của Lự, nước mắt ứa ra. Tôi bước lần đến bên Lự, buông nạng, quỳ một chân trước Lự, nhìn sững Lự rồi bật khóc như ngày nào bị chúng bạn hiếp đáp, khóc to lên để Lự chạy đến bênh vực, che chở. Tôi nghe từ phía Lự cũng có tiếng nấc lên, thổn thức. Trong làn nước mắt, tôi thấy tôi đang chạy trốn thật nhanh, đàng sau, Lự đứng giang hai tay như người hiệp sĩ ngăn cản lũ cướp là đám con nít đưổi theo sau trong khi hơn thua nhau trong một trò chơi giành giựt nhau của trẻ con.

Tôi im lặng. Lự im lặng. Mẹ nhẹ nhàng kéo tay tôi đứng dậy. Tôi đứng lên. Lự vẫn ngồi bất động. Chung quanh có nhiều người hiếu kỳ đứng lại nhìn chúng tôi. Mẹ gọi hai xe xích lô, mẹ một chiếc, tôi ngồi chung xe với Lự. Trên đường dẫn về nhà Lự, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài những hình ảnh một thời thơ ấu của tôi cuộn chảy về như một dòng sông ký ức. Tôi nhìn thấy một con bé lúc nào cũng được che chở, được binh vực dù con bé sai quấy, ngay cả khi con bé đó tham lam lấy đồ chơi của người khác làm của mình. Nhưng rồi cũng có lúc con bé trở nên hung dữ, ném dép và đá sỏi vào Lự vì con bé bị ngăn chận không cho leo lên cây hái mấy trái ổi, sợ bị té. Một viên đá đă làm trán Lự chảy máu, Lự kéo áo lau máu, chạy về nhà. Con bé chạy theo, Lự khép cửa không cho nó vào nhà, Lự giận, con bé ngồi bên ngoài lo sợ cho vết thương của Lự, khóc ấm ức… Kỷ niệm đang trở về, trong vô thức, tôi đưa bàn tay thương tật sờ lên trán Lự, nơi vết thương của ngày nào… Bỗng nhiên Lự cũng đưa một tay lên vỗ nhẹ vào tay tôi đang dặt trên trán Lự . Lự cười và nói như nói với tôi và như nói với chính mình:

– Sẹo của vết thương đã phai theo thời gian, nhưng kỷ niệm về vết thương vẫn nhớ mãi.

Lự nói, mắt vẫn nhìn về phía trước. Lự đã hiểu lòng tôi khi bàn tay tôi để lên trán Lự để nhớ về tháng năm thơ ấu thân yêu. Tôi nhìn Lự, ngầm nói lên lời cảm ơn tình bạn thân ái vẫn còn lại với tháng năm. Lự sống với gia đình em gái trong khu ngã tư Bảy Hiền, nơi dân Quảng nam, vùng Gò nổi, vốn tiếng tăm với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt Lụa, Thao, Đũi, bỏ xứ vào đây lập nghiệp, tránh chiến tranh ác liệt. Vợ chồng em gái Lự làm nghề vệ sinh, hốt rác trong khu phố, nuôi ba đứa con, thiếu trước hụt sau nên việc ăn uống cá nhân Lự tự giải quyêt. Lự cần một nơi tránh gió tránh mưa nắng nơi nhà em gái. Tôi rất đau lòng cho cuộc sống của Lự. Có lúc tôi vu vơ nghĩ quanh: “Cái đêm anh Kéo bắt treo tôi lên sà nhà… Lự lúc đó đang ở đâu mà không xuất hiện cứu tôi ? “. Rồi tôi tự cười mình… ba mươi bảy tuổi rồi… còn nghĩ đến ngày xưa còn bé ! Tiểu hiệp sĩ ngày xưa oai nghi như một thiên thần, nay thiên thần đã gãy cánh !

Mẹ đồng ý xin hoãn chuyến bay về lại Pháp ba ngày theo đề nghị của tôi. Tôi có thời gian giúp Lự khám sức khỏe toàn diện cũng như đi mua cho Lự một chiếc xe lăn. Mẹ tôi giúp Lự và gia đình em gái Lự một số tiền để xoay sở sinh sống. Có một điều Lự phàn nàn với tôi là tại sao không gọi Kéo là tên Kéo, thằng Kéo mà gọi là anh Kéo, nó là tên ác ôn mà. Tôi trả lời một cách thản nhiên:

– Đó chỉ là thói quen thôi, dù gọi tên Kéo, thằng Kéo hay là gì gì đi nữa thì Kéo vẫn là kẻ độc ác, đáng nguyền rủa…

Sau chuyến về Viêt nam rồi trở lại Paris, sức khỏe của mẹ bắt đầu sa sút. Cùng lúc trường học giảm tối đa giáo viên giảng dạy vì số lượng học sinh ngày một giảm vì người Pháp không muốn sinh con. Lợi dụng bị thuyên chuyển làm việc xa nhà, thân tàn tật di chuyển khó khăn, tôi xin nghỉ việc để có thời gian lo săn sóc mẹ. Thời gian rảnh rỗi, tôi vẫn tiếp tục làm việc thiện nguyện cho Hội Chữ Thập Đỏ. Rồi chiến tranh ở Bắc Phi, chiến tranh ở Trung đông liên tiếp xẩy ra, tôi có dịp theo hội cứu giúp trong các trại tỵ nạn nơi xẩy ra chiến cuộc. Sự tàn phá, chết chóc do chiến-tranh tạo ra gây cho tôi kiệt lực. Người ta nhân danh chiến tranh để giải phóng con người ra khỏi đói nghèo và áp bức, nhưng sau chiến tranh, đói nghèo và áp bức càng gia tăng do hậu quả cuộc chiến để lại và lòng tham muốn quyền lực chiếm đoạt và sự trả thù của bên thắng cuộc đối với kẻ thua cuộc. Cường độ của độc ác, bóc lột, đói nghèo gia tăng thì lòng nhân đạo giúp đỡ nhau đi xuống. Chiến tranh ở Việt nam có “Kéo” ác độc chủ động tham dự, “Lự” bị cưỡng bách, có “Chút” là tôi, một thường dân vô tội, thì các nạn nhân chiến tranh ở Trung đông, Bắc Phi cũng không khác. Tôi nói lòng nhân đạo đi xuống là muốn nói lòng nhân đạo tự nguyện đối với nạn nhân của mọi biến cố xa gần, trực tiếp hay gián tiếp đã trở nên cằn cỗi… nên một số anh chị em trong hội tự chọn cho mình một phương cách hữu hiệu, an toàn để tạo thêm nguồn tài chánh cho trung ương, và tôi đã chọn là mỗi tuần tôi để ra ba buổi chiều xin tiền trong hầm xe điện ngầm. Lúc đầu chuyện không đơn giản, vì anh chị em trong nhóm thấy quyết định của tôi có vẻ sẽ gây bất mãn và gây dị nghị cho tổ chức, nhưng tôi đã thuyết phục được họ vì tôi làm không nhân danh hội, chỉ có tính cách cá nhân. Những tuần lễ đầu tiên, khách qua lại trong đường hầm xe điện ngầm ném cho tôi những cái nhíu mày tỏ vẻ bực bội. Tôi biết, một người khuyết tật ở xứ Pháp nầy sẽ được xã hội bảo bọc chu toàn nên xin ăn là điều sỉ nhục cho đất nước. Tôi để hộp xin tiền trước mặt, ngồi im, hai mắt nhắm lại. Một ngày qua đi, ba ngày trong tuần qua đi, không có một xu nào được ném vào hộp. Qua tuần lễ thứ hai, lác đác tôi nghe có tiếng tiền kim loại được ném vào hộp…. Rồi một tuần sau đó, niềm vui và tin tưởng đến với tôi. Một nhóm học trò cũ của tôi được cô thầy giáo hướng dẫn du hành nghiên cứu thực tế bên ngoài xã hội để áp dụng cho một chương trình học trong lớp đi ngang qua chỗ tôi ngồi xin. Có lẽ do sự giải thích của cô thầy giáo đồng nghiệp cũ của tôi về việc làm của tôi nên các em vây quanh tôi vỗ tay reo hò, nhiều em bỏ tiền vào hộp. Có em giải thích việc làm của tôi với khách qua lại dừng chân vì hiếu kỳ, họ cũng bỏ tiền vào hộp. Hôm đó, lần đầu tiên trong những ngày bắt đầu xin tiền, tôi nhận được khá nhiều tiền, lòng thật vui, đầy phấn khởi. Cũng có lẽ sau ngày hôm đó, những cái nhìn của khách qua lại ném cho có nhiều thiện cảm hơn, có khách dừng chân, nhẹ nhàng bỏ những tờ giấy bạc hay những đồng tiền bằng kim loại vào hộp, không quên kèm thêm một nụ cười. Hạnh phúc nhất đến với tôi là sau một năm thực hiên việc xin tiền, đài truyền hình France 3 đưa tin tức công việc của tôi cho mọi người biết. Có một câu hỏi mà câu trả lời tôi thích nhất từ đó cho tới nay. Người ta hỏi:

– Bà là người Pháp, gốc Việt nam, có phải việc làm của bà nhằm mục đích có tiền góp cho hội Chữ Thập Đỏ dành riêng giúp cho những nhu cầu cần thiết hàn gắn những vết thương do thiên tai tạo ra bên Việt nam ?

– Thưa không phải là như vậy. Việc tôi làm là để đóng góp tài chánh cho hội Chữ Thập Đỏ. Sự đóng góp của tôi không bằng một hạt cát trong đại dương mênh mông. Việc phân phối giúp đỡ theo nhu cầu ở một nơi nào đó là do Hội nghiên cứu và quyết định. Hội Chữ Thập Đỏ làm việc cho toàn thế giới, không riêng cho một nước nào. Ngay tại nước Pháp của chúng ta, cũng có những lúc, có những nơi cần có sự góp sức của hội Chữ Thập Đỏ.

* * *

Tôi nhấp cạn phần còn lại của tách cà phê, lòng cảm thấy nhói vì câu chuyện.

vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

❤ ❤
May be an image of outdoors

NGƯỜI MẸ CỦA THIÊN TÀI

Le Tu Ngoc

NGƯỜI MẸ CỦA THIÊN TÀI

Đó là một ngày đẹp trời vào những năm 1854~1855, khi cậu bé Thomas mới khoảng 7 tuổi. Hôm ấy, Thomas chạy từ trường về nhà và nói với mẹ: “Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!”

Bà Nancy Elliott cẩn thận mở ra đọc, bên trong là lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Thomas. Bỗng nước mắt bà giàn giụa khiến cậu bé Thomas đứng ngẩn người ra vì kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?

Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình:

“Con trai của ông bà là một Thiên Tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi cũng không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình”.

Nhiều năm sau đó, mẹ của Thomas đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là “Thầy phù thủy ở Menlo Park” nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại. Một ngày khi Thomas xem lại những kỷ vật của gia đình, cậu vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Thomas tò mò đã mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trên đó viết:

“Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí (tâm thần). Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa”.

Thomas đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư ấy. Về sau, cậu viết trong nhật ký rằng:

“Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, mà, nhờ có một người mẹ anh hùng, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ”.

Câu chuyện trên là một giai thoại nổi tiếng về thiên tài sáng chế Thomas Edison. Việc thầy giáo gọi Edison là đứa trẻ “rối trí” là có thật, việc Edison bị đuổi học là có thật, và việc Edison được mẹ kèm cặp riêng tại nhà cũng là có thật.

Ngày nay chúng ta nhắc về Thomas Edison như một nhà phát minh lỗi lạc, một biểu tượng của trí tuệ và thành công. Thế nhưng tuổi thơ của ông lại gắn liền với một chuỗi những thất bại. Các giáo viên trong trường ruồng bỏ và coi Edison là đứa trẻ đần độn “không thể dạy dỗ được”; cha của ông thì cho rằng Edison có vấn đề về thần kinh và chậm phát triển, mãi tới 4 tuổi mới bắt đầu biết nói; bác sĩ gia đình thì e ngại rằng trí não của Edison bị tổn hại từ thuở lọt lòng; bản thân ông cũng là đứa trẻ yếu ớt và hay đau ốm, đến mức người ta lo sợ rằng Edison sẽ không thể sống tới tuổi trưởng thành…

Thế nhưng, khi tất cả mọi người đều quay lưng và nói rằng Edison là không có triển vọng, thì vẫn có một người luôn đặt trọn niềm tin vào ông. Đó chính là “người mẹ của Thiên tài” bà Nancy Elliott – người không bao giờ từ bỏ hy vọng vào con trai mình. Chính tình yêu và sự hy sinh vĩ đại ấy đã nâng đỡ và đánh thức tiềm năng trong ông, gieo vào ông những hạt giống của niềm tin để chúng nảy nở, đơm hoa, rồi kết trái. Và nếu không có một người mẹ như bà Nancy Elliott, có lẽ nhân loại chúng ta sẽ vắng bóng những chiếc bóng đèn điện, những chiếc máy quay đĩa, máy chiếu phim, máy ghi âm, và hàng ngàn phát minh ưu việt khác.

Trong cuốn tiểu sử cuộc đời mình cũng như rất nhiều bài phỏng vấn khác nhau, Edison luôn nhắc về mẹ với tấm lòng thành kính. Đối với ông, mẹ là người phụ nữ tuyệt vời, người đã khiến ông tự hứa với bản thân rằng cần phải làm điều gì đó để bà luôn tự hào về con trai mình. “Mẹ có sức ảnh hưởng sâu sắc trong suốt cuộc đời tôi. Tôi đã luôn là một đứa trẻ bất cẩn, và với một người mẹ có tính khí khác nhau thì đáng lẽ tôi đã trở nên hư hỏng. Nhưng chính sự kiên định, ngọt ngào, và dịu dàng của mẹ đã tạo nên sức mạnh to lớn để giữ tôi bước đi trên con đường ngay chính. Chính mẹ đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có điều gì đó để sống, một ai đó mà tôi không thể làm cho thất vọng.”

Dưới đây là bộ phim ngắn dựa trên giai thoại kể trên về Thomas Edison và mẹ ông, bà Nancy Elliott:

https://www.facebook.com/songdeptv1/videos/1500345386715528/?hc_location=ufi

Lời bàn:

Có rất nhiều giai thoại khác nhau về Edison, và mỗi câu chuyện trong số đó đều để lại dư âm khó phai mờ trong chúng ta. Nhưng riêng trong câu chuyện kể trên, tôi lại cảm nhận được giá trị to lớn của niềm tin và tình yêu thương.

Niềm tin không hình dáng, vậy mà có sức mạnh để giúp ta làm nên những điều lớn lao. Niềm tin cho ta thêm quyết tâm để theo đuổi giấc mơ, thêm nghị lực để vượt qua gian khó, và thêm động lực để biến những điều không thể thành có thể. Cũng như cậu bé Thomas năm nào, ai dám khẳng định đứa trẻ chậm nói và yếu ớt ấy lại là người mở đầu cho những phát minh khoa học sau này? Vậy nhưng đó lại là sự thật, để chúng ta tự nhìn lại bản thân: Bạn có dám tin tưởng vào chính mình hay không?

Bài học thứ hai là tình yêu thương. Ai đó nói tình yêu của người mẹ là vĩ đại nhất trên cuộc đời này, và đúng như vậy. Tình yêu ấy không chỉ nâng đỡ, mà còn có thể thay đổi một con người.

Và điều cuối cùng mà tôi muốn nhắc đến, đó là sức mạnh của những lời nói đẹp. Một lời nói có thể vùi dập tinh thần, nhưng cũng một lời nói lại có thể nâng đỡ và cổ vũ con người. Bởi vậy, hà cớ gì chúng ta cứ phải buông ra những lời than phiền, oán trách, hay chê bai một ai đó? Chỉ cần thay đổi một chút thôi, hãy nói về khuyết điểm bằng những lời khuyên nhủ, nói về ưu điểm bằng những lời động viên, và nói về thành tựu bằng những lời khích lệ, biết đâu bạn sẽ góp phần tạo ra một kỳ tích trong tương lai?

Hồng Liên.

Bức tượng Thomas Edison và mẹ tại quê nhà ở Milan, Ohio

#gota st

May be an image of 2 people, outdoors and monument

Thư Gửi Người Chồng Cũ – Truyện ngắn

Thư Gửi Người Chồng Cũ- Truyện ngắn

Hương Thủy

Mình biết nhau từ thời mới lớn, cùng đi trên một con đường đến trường, chỉ khác lớp. Gặp nhau có cười – cùng xóm mà – nhưng không thân. Tuổi dậy thì có nhiều rung động nhưng không cùng tần số. Bên ni biết bên tê “bồ” ai.

Anh nghèo – lạ thiệt, em quen ai cũng nghèo – Cha chết năm Mậu Thân 1968, tìm ra xác ở Thành Lồi sau ba tháng. Từ Huế, anh ra Quảng Trị nhờ ông chú nuôi dưỡng. Nhà ở trong xóm Hói, đi học trời lạnh chỉ có cái áo khoác mong manh.

Con nhà nghèo thường học chăm. Anh thuộc loại cần cù, chịu khó. Mặt xương, ngực lép do thiếu ăn. Em nhìn thấy tội. Nhưng phải công nhận anh có đôi mắt đẹp.

Năm 1972, mùa hè đỏ lửa, trường Nguyễn Hoàng tan tác. Nhà em chạy vào Đà Nẵng, ở trại tạm cư bên Non Nước một thời gian rồi chuyển về đường Đống Đa. Em thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Huế. Ba và anh chị thương con út, gởi vào Internat Jeanne D’Arc của các Soeur dòng Saint Paul, một cư xá thuộc loại quý tộc. Ăn có người dọn, giặt ủi có người lo, thậm chí buổi chiều có cả gouter. Em học thêm tiếng Pháp với Soeur Madelaine. Cuộc sống hồn nhiên, vô tư lự.

Em gặp lại anh ở Huế. Anh học trường Luật. Mặt mày sáng sủa nhưng vẫn phải sống nương nhờ vào bà dì đại lý gạo ở đường Quỳnh Lưu. Mạ và các em sống trong ngôi nhà tranh ở làng Đốc Sơ ngoài cửa An Hòa. Mình hỏi thăm nhau như những người bạn cùng xóm, cùng quê. Anh vẫn có một chút mặc cảm trước em. Mỗi mùa hè, em bay về Đà Lạt. Ở đó có anh chị của em, có người yêu em…

Có một lần, em tình cờ bắt gặp người yêu em đi cùng một cô gái trên chuyến xe đò An Cựu trong đợt công tác Chiến Tranh Chính Trị ở Quân Khu I. Lòng kiêu hãnh của em bị tổn thương. Anh ấy cũng không kịp giải thích. Em cắt thư từ. Em đi chơi với Kim Chi, Tường Vy, với nhóm quý tộc… Tất cả những nơi sang trọng ở Huế đều có dấu chân em.

Em lại gặp anh. Em biết anh có tình cảm với em. Anh tháp tùng em cùng Ma Soeur Chantal trên chiếc xe Jeep của Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc điều phái ra Quảng Trị theo lời xin của em với ông anh kết nghĩa. Chúng ta đã đến căn nhà xưa của em, đã ngậm ngùi nhìn đống gạch ngói đổ nát. Chúng ta nhắc tên những người hàng xóm cũ. Chúng ta xem trao trả tù binh trên sông Thạch Hãn. Em có đến thăm anh ở căn nhà của bạn anh trên đường Nguyễn Công Trứ nhưng sau đó chúng ta chia tay nhau.

Năm 1975, em bước xuống cuộc đời. Nhà em hai anh rể và hai anh trai đi cải tạo. Ba em đã già, mất tiền gởi ngân hàng, mất luôn tiền hưu trí công chức chưa kịp lãnh. Nội trú xưa trở thành doanh trại Quân Đội Nhân Dân. Từ giã cuộc sống phồn hoa, em ở cùng bạn thân Kim Chi trong một căn phòng trọ đường Trương Định. Hai đứa ăn một phần cơm, phần gạo tiêu chuẩn bán đi lấy tiền chi dụng. Người yêu em “nghìn trùng xa cách”. Còn anh, thỉnh thoảng em gặp đi với một cô bé cũng dễ thương, ở đâu trong Thành Nội.

Em ra trường đổi về tỉnh Lâm Đồng. Không phải ngẫu nhiên mà em chọn đây. Đà Lạt, thành phố tuổi nhỏ thân quen; Đà Lạt, nơi chị em đang sống; Đà Lạt, dấu ấn mối tình đầu của em với cái nắm tay trong một đêm tối có tiếng rì rào của rặng thông trước hiên nhà.

Một lần nữa chúng ta gặp nhau. Có phải bàn tay định mệnh? Trường Luật bãi bỏ, anh vào Sài Gòn sống nhờ bè bạn, chuyển sang trường Kinh Tế. Ra trường cũng đổi về Lâm Đồng.

“Tha hương ngộ cố tri”, một hạnh phúc mà bài thơ xưa đã nói. Mạ anh đã mất, các em anh ly tán. Em bùi ngùi. Chúng ta thân nhau hơn. Em xác xơ với cái ngành sư phạm, quần áo rộng thênh. Anh thi thoảng được mua hàng tiêu chuẩn đặc lợi của ngành nhưng cũng chỉ đủ tiền đóng cơm tập thể và hút thuốc..

Rồi chúng ta quyết định lấy nhau. Từ tình yêu ư? Không hẳn thế. Do thời cuộc thì đúng hơn. Chúng ta không có những cuộc hẹn hò thơ mộng.. Chúng ta cũng không có những bức thư tình ngọt ngào đằm thắm. Nhà cô người yêu cũ của anh chê anh “tứ cố vô thân”. Sau bao năm bặt tin, em cũng biết người yêu xưa của mình đã có vợ ở quê. Số mệnh! Thôi thì đành. Đám cưới của em không có xe hoa, không có pháo nổ, không có ảnh màu. Ba em thở dài, cho hai chỉ vàng làm vốn.

Chúng ta đã trải qua thời bao cấp khốn khó. Con chúng ta đặt tên Chou và Beurre. Nghe cứ như Tây nhưng thực sự đó là món ăn thường nhật của gia đình ta. Mãi đến bây giờ em còn phát sợ cái món su xào. Những lần về Sài Gòn thăm chị, em xách theo ba kí lô trà khô lèn chặt để kiếm thêm chi phí. Những lần cơ quan kiểm kê, anh nhặt nhạnh giấy vụn về bán kiếm cho con hộp sữa Ông Thọ vàng khè. Chúng ta sống bình thường, cũng có những giận hờn nhưng không trầm trọng. Tất cả đều cắm mặt vào mưu sinh, hơi đâu mà cãi cọ khi tiêu chuẩn hàng tháng là 7 kg gạo hẩm và 3 kg bo bo. Gia tài của chúng ta là những đứa con và hai chiếc xe đạp. Em không hề than thân trách phận khi biết hai cô bạn thân của mình đều có được những ông chồng giàu có. Em dặn mình nhìn xuống chớ nhìn lên. Dù rằng nếu không sự thay đổi thời cuộc, chúng ta khó lấy nhau.

Bắt đầu có những biến chuyển về chính trị, về kinh tế. Đời sống dễ thở hơn. Với khả năng của anh, đã có con mắt xanh nhìn đến. Anh bỏ ngân hàng với cái Phòng Kế Hoạch qua Kho Bạc Huyện với chức vụ giám đốc. Anh mừng, em vui. Con chúng ta có hộp sữa Liên Sô Simillac, rồi sữa Meiji của Nhật.

Nhưng từ đó anh cũng về khuya hơn, miệng nồng nặc hơi men. Ngôn ngữ, phong thái anh cũng dần thay đổi, thay đổi đến độ em ngạc nhiên nhưng nghĩ chắc nghề nghiệp tạo tính cách. Đàn ông Huế ai cũng có chút máu gia trưởng. Anh có lần bảo em, nếu có dịp về Huế sẽ cho gia đình người yêu cũ biết thế nào là thằng “tứ cố vô thân”. Em im lặng cảnh cáo anh “Kho Bạc Nhà Nước nhưng Tòa Án Nhân Dân”.

Không chỉ dừng ngang đó. Những cuộc giao tiếp kéo dài với những quan hệ phức tạp. Đàn ông ai cũng có máu chinh phục, thích được ngợi ca, thích nghe những lời ngon ngọt, thích được người khác tôn vinh. Em thì ngây thơ. Hơn nữa nghề giáo, cứ nghĩ ai cũng nghiêm túc. Anh có những chuyến đi giao lưu, những cô em kết nghĩa và kết luôn tình. Đã có những lời đồn đãi đến tai em. Em nhớ lời giảng của Père Nguyễn Thế Huynh dòng Sulpice trong giờ Tâm Lý Học Đường. Một người đàn ông nghèo khổ khi thành đạt, anh ta sẽ có hai khả năng. Một là anh ta sẽ vô cùng kỹ càng để chắt bóp; hai là anh ta sẽ tự tôn để giã từ dĩ vãng đời mình. Anh ở trạng thái nào đây?

Em không như những người phụ nữ khác. Hay là em chủ quan? Những người vợ thông thường chắc họ sẽ ghen tuông, khóc lóc, cấu xé, sẽ áp dụng các biện pháp thắt chặt. Đằng này, với cá tính kiêu hãnh em im lặng, tự ái, cười nhếch môi. Ôi chao! Cái complex supériorité hay do một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu???

Em không biết nhưng rõ ràng căn nhà gỗ chắp vá của chúng ta không còn là tổ ấm. Anh ít về nhà, có một căn phòng trên cơ quan và tuyệt đối em không hề bén mảng. Anh đã có điện thoại di động đem phô trương một cách buồn cười, tự hào biết hát Karaoke, nhậu rượu ngoại thay vì bia nặng bụng… Lâu rồi, chúng ta không còn ngủ chung. Anh có một chìa khóa riêng và em cũng không còn kiên nhẫn để chờ đợi thứ giờ giấc bất thường ấy.

Và cứ thế. Sợi dây càng lúc càng căng. Anh tự tôn, em tự ái. Em đã đọc được bức thư của cô em “kết nghĩa” Nha Trang. Cô ta còn gọi điện thoại đến nhà. Em dững dưng. Lòng nguội lạnh. Cô ta đòi happy ending; anh muốn làm quân tử cứu vớt đời hồng nhan. Em biết anh từ những ngày ốm đói hàn vi; cô ta biết anh khi chối bỏ quá khứ một cách phũ phàng. Muốn, em nhường!

Ba em đau, anh không hề quan tâm. Anh ở hẳn trên cơ quan. Ơn trời, anh chị ở nước ngoài gởi tiền về chu cấp, Ba không phải lệ thuộc vào ai. Có một lần Ba bảo với em “Hình như nhà con có tình nhân?”. Ôi, ba em vẫn giữ thứ ngôn ngữ lịch sự của một nhà giáo có nhân cách. Em tránh né trả lời. Anh xúc tiến việc lo cho cô em “kết nghĩa” nhỡ nhàng một chỗ làm.

Thái độ cao ngạo của em như chọc tức anh. Cả tỉnh lẻ biết anh có bồ. Em lặng lẽ đi về mặt nhìn đất hoặc nhìn trời. Không tâm sự, không than van.

Ngày ba em mất, anh không có mặt. Đám tang cử hành, anh không chít khăn tang. Thiên hạ đàm tiếu, anh giải thích sao đó, em không quan tâm. Bao uất hận em chôn kín trong lòng. Anh xử sự như một tên vô văn hóa và gia đình em không bao giờ chấp nhận. Tháng sau ta chính thức chia tay. May mắn là ba em đã không còn thấy để đau lòng. Cuộc ly hôn lặng lẽ. Do quen biết chúng ta chỉ ra tòa một lần. Các con ở với em như một sự tất nhiên và em cũng cay đắng mà hiểu rằng vì sao anh không giành giật. Ba tháng sau anh lấy vợ. Đám cưới ở Nha trang, chắc chắn là to hơn cái đám cưới nghèo nàn trong quá khứ mà anh đã không đủ tiền mua cho em một cái nhẫn. Anh cũng khá khôn ngoan khi không tổ chức trong cái thị xã này.

Em khô nước mắt, ghi một câu trên bàn làm việc: “Revenge by work, work and work“.

Ngành giáo dục cũng có những thay đổi. Cái mà người ta hô hào cải cách chính là cái mà em đã học, đã am tường thời cũ. Em viết những bài nghiên cứu về đổi mới sách giáo khoa, đổi mới chương trình. Em được chú ý với những bài tham luận phê phán cách học, cách dạy duy ý chí. Em được mời tham dự các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Và em nhận ra rằng mình phải có một cái học vị với đời và cũng để mưu sinh.

Biết bao nhiêu khổ cực mà em đã cắn răng chịu đựng. Sau những buổi học, em đón chuyến xe đêm đi về nhà, giặt đống áo quần lớn, kho cho con một nồi thức ăn rồi trở lại trường, vào thư viện nghiên cứu đề tài mình bảo vệ.

Và em đã đạt được điều em muốn. Luận án có điểm cao nhất.

Em, người đàn ông trong thân xác người đàn bà. Em, cây liễu không núp được bóng tùng quân đành tự mình trở thành cây thông trong gió bão.. Với mối quan hệ tốt em có thể về Sài Gòn dạy một trường đại học như có giáo sư đã đề nghị. Sau bao đêm suy nghĩ, em đã quyết định ở lại đây để ngạo nghễ nhìn anh và nhìn đời.

Cùng môt lúc em dạy bốn trường: Công lập, bán công, dân lập và trung tâm giáo dục. Em mở thêm ba cours luyện thi đại học. Ăn toàn cơm hộp và fast food cho qua bữa. Có những buổi từ trường về, em nằm xoài ra giường 15 phút để thở rồi trở dậy dạy, dạy và dạy… Bây giờ nghĩ lại em còn rùng mình, không hiểu mình tìm đâu ra sức lực. Hay nói cách khác em không dám đau. Em vắt kiệt sức mình để chứng minh không có anh, em vẫn sống tốt.

Trời thương. Em dạy nhiệt tình, có uy tín, ra đề trúng tủ, phụ huynh tin tưởng gởi gắm, học sinh càng lúc càng đông, chỗ ngồi chật kín. Có tiền em vẫn không dám tiêu vì dư âm những ngày cùng khổ đè nặng. Em mua miếng đất nhỏ hộ thân.

Rồi thời buổi kinh tế thị trường, đất lên giá. Em đổi miếng nhỏ mua miếng lớn, đổi miếng xấu qua miếng đẹp, từ một miếng lên hai miếng… “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ“ hay hương hồn ba mẹ phò trợ, em thoát cảnh “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”. Em mua căn nhà nhỏ ở Quận I thành phố cho hai con học đại học; em đập căn nhà chắp vá từng là tổ ấm của đôi ta để xây nhà mới. Và em là một trong những cô giáo đầu tiên mua xe hơi trong thành phố này.

Em hận anh vô cùng. Em làm là để trả hận. Mỗi lần cầm xấp tiền trong tay em nhớ lời anh nói với anh trai em “Không có tôi, bà ấy sẽ lê la đầu đường xó chợ”; em nhớ những lời anh đi thanh minh thanh nga sau cuộc ly hôn. Anh là đàn ông mà sao không có cái trượng phu khí phách; em nhớ đến món nợ em phải trả ngân hàng khi anh đi cầm cái sổ nhà để lập tổ uyên ương. Chồng cũ của em, anh còn nhớ chăng anh??? Ngày em biết mình trọng bệnh, em đã lập một cái di chúc có dòng chữ in đậm “Khi Mẹ chết tuyệt đối không cho Ba có mặt ở đám tang”.

Đám cưới con trai dù đau nhưng em rực rỡ với nụ cười mỹ mãn. Mọi chuyện đều do em thu xếp. Anh chỉ là nhân vật phụ. Trưởng nam của chúng ta đó. Cháu đích tôn của dòng họ anh đó nhưng anh không thể tổ chức ở nhà mình như em đề nghị. Em chủ động cầm tay anh đi lên khán phòng. Mọi người vỗ tay khen em lịch sự như quý bà mà không biết chân em đang run rẩy vì bệnh. Em cố đứng vững với những cơn thở dốc. Nhưng cái em muốn là anh phải thấy sự thành đạt của em. Em muốn anh thấy sự sai lầm của mình. Em muốn anh nhớ lại thứ ngôn ngữ cay nghiệt như của một poissonnier mà anh đã từng buông thả. Bao giờ em cũng vẫn lịch sự hơn anh.

Trong cái xã hội “Đảng làm chủ” thì cái lý lịch đen ngòm của anh là rào cản lớn. Ba lần thẩm định vẫn không giúp anh tồn tại trên ghế giám đốc. Anh chỉ là một trái chanh bị thải loại sau khi vắt cạn kiệt. Anh về hưu non, ngôn ngữ nhuộm màu bất đắc chí. Phải chăng theo thuyết nhà Phật gọi là “Quả báo nhãn tiền”?

Sỹ diện của một người đàn ông khiến anh không nói ra nhưng em biết chắc anh đã ân hận. Anh không còn chê bai em nữa. Anh đã khen em với người khác. Anh đã cười với em một nụ cười ngượng ngập. Nhưng tim em đã chết.

Gần hai mươi năm. Thời gian như nước trôi qua cầu, cái gì mà chẳng cũ. Cô vợ mới của anh chắc cũng cũ theo tháng năm. Đã có lúc em muốn hỏi cô ta “Có hạnh phúc không em?” nhưng nét mặt sầu thảm của cô ta đã là câu trả lời. Câu hỏi của em có thể trở thành sự mai mỉa.

Anh không có con với người vợ mới. Các con dù ở với em nhưng sợi dây huyết thống vẫn ràng buộc. Chưa bao giờ em ngăn cản hoặc phản đối chuyện các con chu cấp và trả cả nợ cho anh. Em vẫn tự hào chúng là những đứa con có hiếu.

Các con rồi sẽ bay xa. Chỉ còn lại em với nỗi ngậm ngùi. Em đã hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả cuộc hôn nhân có thể diễn ra với một gentleman luôn theo dõi cuộc đời em gần hai mươi năm. Anh đã làm em “Kinh cung chi điểu”. Em không dám mạo hiểm. Đêm đêm em chỉ có thể sống đẹp với mối tình đầu qua hồi ức.

Chúng ta đều đã già. Lục thập nhi nhĩ thuận. Em không hận anh nữa. Tout homme est sujet à l’erreur. Em cũng đã có những sai lầm.

Chồng cũ của em. Đêm qua em đã châm vào lửa bản di chúc cay nghiệt ấy. Em đã thật sự buông xả. Dù sao anh cũng là ba của những đứa con em. Dù sao em cũng cám ơn anh đã giúp em tự khẳng định mình./.

Hương Thủy

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen 

Hột Xoàn – TRUYỆN NGẮN – TRẦN THỊ DIỆU TÂM…

Van Pham

Hột Xoàn

TRUYỆN NGẮN – TRẦN THỊ DIỆU TÂM….

Trong đời sống đơn sơ tầm thường giản dị ở chốn bếp núc, người đàn bà như chị biết rất nhiều loại ngũ cốc, nôm na là biết nhiều loại hột. Kể sao cho xiết, nhưng thật tình mà nói, chị chỉ thích có mỗi một thứ, loại hột này không có khả năng nẩy mầm cho cây cho trái, nhưng có khả năng làm sảng khoái tâm hồn chị.

Đó là hột xoàn .

Hột xoàn là thứ hột cho ánh sáng lấp lánh, nhìn phát mỏi mắt, nhìn mà mê tơi. Không có ánh sáng nào đẹp bằng ánh sáng của hột xoàn. Đàn bà ai chả thích, đâu phải một mình chị. Trong lúc ngồi ăn cơm, chị đem chuyện yêu mến hột xoàn ra tâm sự cùng chồng.

Chồng chị gắt: Chồng không mê, lại đi mê hột xoàn! Đừng có dại.

Chị cụt hứng. Chị không dại, cũng không điên. Khi biết mình còn ham mê, nghĩa là mình còn ham sống, ham yêu cuộc đời này lắm. Niềm ham mê ấy một mình chị biết một mình mình hay. Chị dành dụm mỗi tháng một lần, số tiền mặt tiết kiệm rút ra từ ngân quỹ gia đình. Như con kiến dự trữ lương thực trong suốt hai năm liền.

Vì nhà không có tủ có khóa, chị đành giấu số tiền đó mỗi nơi một ít, không nên để chung một chỗ. Nhưng với thời gian hai năm sau, trí nhớ chị có đôi chút lãng đãng, nhất là những góc kín đáo. Thấy chị lục lọi tim kiếm, cô con gái sốt ruột hỏi mẹ: ” Mẹ tìm gì vậy ? Nói con tìm giúp cho “. Chị không trả lời. Chồng chị cũng thắc mắc: ” Em sao cứ thấy dọn dẹp đồ đạc suốt vậy? “

Cho biết làm gì chứ, con không tin, huống chi tin chồng, nhất là chuyện mình cất giấu tiền để tiêu riêng. Chị thấy nó không ổn chút nào, vì thấy không ổn , không đúng, chị càng náo nức thêm. Chờ lúc chồng con kẻ đi làm người đi học, chị lấy cớ xếp dọn tất cả đồ đạc trong nhà, áo quần lâu không mặc cho hội từ thiện. Và chị đã kiếm được những gói tiền cất dấu lâu nay, “thật mừng như tiền ai cho”.

May mắn trí nhớ của chị còn sáng lắm. Sau khi kiểm kê tài sản, chị xếp lại xấp tiền ngay ngắn, thứ tự mặt trước mặt sau. Đồng tiền ơ-rô cũng hơi lạ, mỗi loại đều có kích cỡ khác nhau, có lẽ người mù cũng có thể đếm tiền được, và màu sắc tươi tắn, tiền thì phải tươi đẹp chứ.

Chị đếm đi đếm lại, mĩm cười số tiền dành dụm cũng được vài ngàn (chị không nói rõ chính xác bao nhiêu, nên người viết không biết được). Tính vốn cẩn thận, chị cuộn xấp tiền lại với sợi dây thun gọn gàng cho vào một túi vải nhỏ. Cử chỉ này làm chị nhớ đến mẹ chị ngày xưa ở quê nhà thường hay cuộn tiền để dành cho gọn và dễ cất dấu.

Chị thực hiện điều ao ước bấy lâu nay, chị sẽ mua chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh ấy. Chiếc nhẫn nằm trong tủ kính của cửa hiệu có tên Éternelle, chị vốn không mấy giỏi tiếng bản xứ, nhưng lờ mờ hiểu rằng nó có ý nghĩa là mãi mãi. Ai mà không quý trọng những gì thuộc về mãi mãi bất diệt.

Biết bao nhiêu cặp tình nhân, đám cưới đều tặng vợ chiếc nhẫn hột xoàn kim cương lấp lánh, hy vọng chiếc nhẫn sáng ngời ấy giữ gìn hạnh phúc tình yêu của họ đến suôt đời. Nếu người ta bỏ nhau, không phải tại nó mà tại họ muốn bỏ nhau. Chứ nó là thứ thủy chung muôn năm, nó là thứ bất diệt .

Trước đây, mỗi lần lên phố vào trung tâm mua sắm, chị luôn đến trước của hàng Éternelle , ngắm nhìn mấy chiếc nhẫn hột xoàn, ước chi một chiếc sẽ đeo vào ngón tay chị một ngày nào đó. Chị không hề biết hột xoàn loại nào là tốt nhất, đẹp nhất, nước sáng xanh hay sáng tím. Tuy nhiên chiếc nhẫn sẽ kèm theo một hóa đơn giá trị.

Từ ao ước, đến chiếm hữu là một tiến trình tự nhiên của con người.

Nó phải ở trong bàn tay chị, chị là sở hữu chủ. Nếu mua được, chị sẽ ngắm nó thường xuyên, không cần phải đi qua mấy chuyến mê-trô mới gập nó yêu kiều trong tủ kính.

Chị tự tin đi vào Éternelle với số tiền trong túi, (mấy lần trước chị rất e dè). Cô gái bán hàng có vẻ thờ ơ với chị, có lẽ vì biết người đàn bà này đã nhiều lần đến xem nhưng rồi đi ra, hỏi gì cũng lắc đầu.

Nhưng lần này thì khác nhé. Chị chỉ chiêc nhẫn có giá tiền vừa đúng, nó được tôn vinh để riêng chờ đợi chị. Cô bán hàng vội vàng chạy đến gần, nhẹ nhàng mở tủ kính, chị rất hổi hộp.

-Bà muốn chiếc này ?

Chị cười gật đầu. Cô bán hàng ân cần mời chị đến ghế ngồi có đèn rọi sáng. Cô nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay chị và xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay giữa, thật là vừa vặn như chiếc nhẫn được tạo ra cho chính tay chị, không ai khác cả.

– Chiếc nhẫn thật thích hợp với bà !

Cô gái cười rất tươi chứng tỏ cho chị thấy đó là sự thật không chối cãi. Chị mãn nguyện khi trả tiền, cảm thấy mình được đối xử rất lịch sự trang trọng , chị trở thành một vị thượng đế trong giây phút ấy!

Thực hiện được điều mơ ước lâu nay, có ai vui hơn chị. Trong khoảng đường từ Eternelle về nhà, đó là khoảng thời gian hạnh phúc đời chị, chị mân mê chiếc nhẫn không rời mắt. Sau khi về nhà, chị vẫn còn đắm đuối với chiếc nhẫn kỳ diệu đó. Nhưng

thời gian đẹp

đẽ ấy tồn tại không được bao lâu.

Chiếc nhẫn sáng nhấp nhánh ấy bỗng dưng làm nổi bật bàn tay xương xẩu nhiều gân xanh nổi lên vì làm lụng lâu năm, bàn tay của tháng năm mòn mỏi của một người đàn bà chỉ biết bổn phận.

Chị co bàn tay lại, cảm thấy rung động toàn thân: Chị không có bàn tay đẹp để mang một chiếc nhẫn hột xoàn. Viên kim cương này không làm tăng thêm giá trị cho chị chút nào. Tuy nhiên để đánh tan mặc cảm, chị đeo nó thường xuyên, Mỗi lần ra phố, chị cố giữ một cảm giác tự tin, nhưng hình như chẳng ai trên đường phố biết rằng chị đang đeo trên ngón tay một chiếc nhẫn có giá trị vài ngàn bạc.

Vậy niềm mơ ước ấy , chiếc nhẫn quý giá ấy có thực không ? Chị nghi hoặc về giá trị của chiếc nhẫn và hoài nghi luôn chính mình ! Chị đã nhầm lẫn, nhầm lẫn gì, chị không giải thích được sự thất vọng ấy, chỉ thấy sao mà buồn. Chị có cảm tưởng bao nhiều kỳ vọng về một ước mơ , nay ước mơ được thực hiện bỗng dưng nó tầm thường thế nào ! Hay chính vì bàn tay chị không xứng đáng chăng ?

Buổi tối, chồng con đều ngủ, chị đem chiếc nhẫn ra ngắm nghía, trong bóng đêm, viên hột xoàn không còn chiếu sáng , nó chỉ nhấp nhánh rực rỡ chói lòa khi nhận được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, ánh nắng mặt trời hay ánh đèn điện .

Tự thân nó không có gì cả, nó phải nhờ, phải phụ thuộc vào ánh sáng khác để khoe khoang vẻ đẹp . Nó chỉ là một viên sỏi đá. Chị nắm chặt chiếc nhẫn trong tay khi nhận ra giá trị thật của nó, nó không có hào quang. Lúc chiếc nhẫn nằm trong tủ kính, trông nó sang trọng biết bao nhiêu , sao bây giờ lại thấy tầm thường thế !

Không gian nhà bếp là nơi chốn thân thương nhất của chị, hầu như chị sống nơi này nhiều nhất thời gian mỗi ngày, chị cho rằng cất nó nơi đây sẽ dễ dàng nhớ hơn bất cứ nơi khác trong nhà. Chị gói chiếc nhẫn trong túi ny-lông nhỏ, dấu trong một lọ bột làm bánh. Tụi trộm cắp sẽ không thế nào tìm thấy, chúng nó hay rình mò các gia đình Châu Á vì cất giấu tiền mặt và nữ trang trong nhà.

Một thời gian sau, nhân dịp phải đi dự đám cưới con nhà bạn, chị sửa soạn áo quần và chợt nhớ tới món nữ trang quý báu của mình, ít ra chị cũng có một cái gì để mình nhấp nháy với đời. Dạ tiệc đầy ánh sáng, chắc chắn chiếc nhẫn của chị sẽ chiếu rực rỡ hơn ngày thường trong bóng đêm.

Chị cảm thấy phấn khởi. Nhưng chị tìm mãi cũng không thấy lọ đựng bột làm bánh nơi đâu, chị dọn hết các tủ bếp suốt một buổi sáng tìm chiếc nhẫn, nhưng vẫn biệt tăm. Chị nghi ngờ về trí nhớ của mình lo sợ một triệu chứng bệnh hoạn đến quá sớm.

Buổi chiều khi cô con gái đi làm về, chị nói : “Mẹ định làm bánh, nhưng tìm mãi không thấy lọ bột nếp đâu cả “.

Cô con gái trả lời ” Hôm trước con thấy lon bột làm bánh của mẹ để lâu ngày quá, con gián bò vào con đem vất thùng rác hết. Mẹ cẩn thận, con mua thuốc diệt gián rồi.

Câu trả lời của con làm chị hoảng hốt bàng hoàng, nhưng chị không dám nói sự thật đau xót đó. Chị sẽ bị chồng con trách móc đủ. Chị nghẹn ngào muốn khóc, thấy mình thật vô duyên và không may mắn.

Nhưng suy đi nghĩ lại, cũng lỗi tại mình.

Chiếc nhẫn hột xoàn không thích hợp với số phần chị, chị tìm hiểu nó là kim, mạng chị là mộc. Theo dịch lý ngũ hành, kim khắc mộc, thôi thì của đi thay người. Lý ra chi không nên mơ tưởng nó, không nên mua nó với số tiền dành dụm của gia đình . Nó là gì ? chiếc nhẫn hột xoàn lóng lánh kia ?

Người ta nói mơ ước có khi đem lại niềm vui sống cho tâm hồn, nhưng giờ đây chị không còn dám mơ ước điều gì nữa. Một thử thách kinh nghiệm đau xót vừa mới trải qua, chi sợ hãi thấy mình đã nhầm lẫn tai hại. Thanh thản với hiện tại là điều quý giá nhất với chị từ đây.

Chị là người chủ thực sự với căn phòng bếp thân thương này, hằng ngày những mùi vị của hành tỏi, tiêu ớt, nước mắm, đó là nhũng gia vị nồng nàn ấm áp tâm hồn chị . Chính đó mới là sự thực cuộc sống của chị. Tai sao chị đi tìm đâu xa những bóng bẫy lấp lánh huyễn hoặc không thuộc đời sống chị ? Chị tự hỏi và cũng không biết câu trả lời.

May be an image of ring

Phi Công & Máy Bay Bà Già -Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

 May be an image of text that says '7 F-15'

Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

***

Phi Công & Máy Bay Bà Già

Lần đầu gặp mặt, Hân ngỡ ngàng khi “đối tượng” là một thanh niên mặt búng ra sữa. Thế nhưng, hắn luôn mồm xưng anh và gọi cô là em.

Hân quen Khương trên một trang web hò hẹn online. Tất cả khởi đầu từ một đoạn giới thiệu mang đầy tính khiêu khích: “Trần Lê Ngọc Hân, viết lách tự do, sinh năm 1974, tuổi Dần. Ai không sợ bị thịt thì cứ nhào vô”.

Ba ngày sau khi đăng hai câu giới thiệu ấy. Hân nhận được rất nhiều thư nhưng cô khá ấn tượng trước một lá thư khiêu khích không kém trong hộp mail: “Nguyễn Đăng Khương, thiết kế nội thất, tuổi Mèo. Mèo là chú của cọp nên không sợ bị thịt, sẵn sàng nhào vô”. Đọc e-mail, Hân khinh khỉnh: “Nhỏ hơn một tuổi à? Cũng không đến nỗi”. Thế nhưng, Khương chỉ mới 20 xuân xanh, thua Hân 13 tuổi, vẫn đang học đại học. Cũng là Mèo nhưng đi sau Hân hơn một con giáp.

Buổi hẹn hò offline đầu tiên ở Hands, quán cà phê yêu thích của Hân nhìn khuôn mặt búng ra sữa của Khương, Hân suýt té ghế. “Em trêu tôi đấy à?”, Hân gằn giọng. Khương tỉnh queo: “Ban đầu định là vậy nhưng bây giờ thì không. Chị đẹp hơn em nghĩ”, Hân xô ghế đứng dậy, quay đi không thèm ngó lại.

Thế nhưng Khương không dễ bảo như Hân nghĩ. Một tháng sau buổi hẹn hò thất bại ấy, Khương xuất hiện trước mặt Hân, cũng tại Hands, với dáng vẻ hoàn toàn khác. Tóc húi cua, hàm râu quai nón gọn gàng, vóc dáng cao ráo, săn chắc nổi bật trong chiếc áo pull màu đỏ vang và quần bò bạc thếch. Trước ánh mắt sững sờ của Hân, Hương nhe răng: “Sao? Bây giờ tôi xưng anh với Hân được chưa?”.

Hân tự rủa sả mình sao lại tiết lộ quán cà phê Hands và cả thói quen ngồi đồng ở đây để Khương biết đường mò đến. Cô đốp chát ngay: “Trừ khi em tẩy được cả giấy khai sinh”.

“Giấy tờ không quan trọng, một người làm việc tự do, chẳng bao giờ ký hợp đồng như em hẳn phải hiểu điều đấy chứ”, Khương đốp chát lại.

“Nhưng như vậy không có nghĩa em có thể lớn lên bằng tôi”, Hân phản bác.

Khương gân cổ cãi: “Cũng không có nghĩa là anh nhỏ hơn em, phải không? Thôi thì em cứ xem anh như là một con mèo, còn em là một con cọp, bỏ qua chuyện tuổi tác, được không?”. “Chị không rảnh để chơi với em, nhóc à!”. “Vậy có rảnh để yêu không?”. “Không, chỉ rảnh để cưới thôi”.

Khương im lặng. Hân vẫn giữ gương mặt điềm tĩnh nhưng trong bụng hò reo chiến thắng . Đàn ông nào cũng vậy, nghe đám cưới là rụt vòi, huống chi Khương chỉ mới 20 tuổi, còn thích bay nhảy. Thật tình, Hân cũng thấy tiếc cậu, chàng đẹp trai này nhưng giá 20 nhân thêm cho hai thì còn có cơ may…

Đột ngột, Khương lên tiếng: “Em hứa đấy nhé, rảnh để cưới, ghi cho anh địa chỉ nhà em, mai anh sang nhà hỏi cưới”.

Hân sa sầm nét mặt: “Đùa đủ rồi đấy, cậu làm tôi bực rồi đấy!”.

Khương vẫn kiên nhẫn: “Người ta bảo con gái tuổi Dần thường muộn chồng. Nếu lấy chồng sớm thế nào cũng goá bụa. Em bây giờ lấy chồng được rồi, anh cũng không sợ bị em khắc chết”.

Hân bật cười, không thể nghĩ ra thêm lý do để xua đuổi con mèo si tình từ trên trời rơi xuống này. Vậy là yêu nhau!

Một ngày mưa, Hân nằm cuộn tròn tấm chăn mỏng, gối đầu lên ngực Khương, thì thầm: “Em muốn sinh con”, Khương ngái ngủ: “Bao giờ?”. Ngay bây giờ, em muốn làm tình không dùng bao cao su”. Khương giật mình, tỉnh cả ngủ, mắt mở to: “Em đùa à?”.

“Không, em nói thật. Em đã hơn 30 tuổi rồi, cũng đã đến lúc sinh con”. Khương im lặng. Hân lại tiếp: “Anh không cần lo. Em tôn thờ chủ nghĩa độc thân nên chỉ muốn sinh con chứ chẳng ràng buộc trách nhiệm gì ở anh cả. Nếu thích, anh có thể đến thăm con, không thì thôi, em chẳng mang con đến mè nheo hay làm phiền anh đâu”.

Khương vẫn im lặng.

“Chắc lại sắp vùng ra khỏi chăn và bỏ chạy. Rồng hay mèo hay ngựa thì cũng nhát như nhau cả, ôi đàn ông”. Hân nghĩ một cách ca thán. Trải qua vài ba mối tình, Hân không còn ngạc nhiên hay đau lòng trước phản ứng hiện giờ của Khương. Những người tình trước của cô có say đắm đến mấy cũng bỏ chạy khi nghe đến chuyện sinh con.

Khương bước ra khỏi chăn thật nhưng không khoác áo và rời khỏi phòng như những anh chàng khác.

Anh lặng lẽ rít thuốc hồi lâu rồi bảo: “Mình cưới nhé!”. Hân tưởng mình nghe lầm: “Sao?”. Khương quay lại nhìn cô, cười dịu dàng: “Đám cưới, anh nói là mình làm đám cưới”. Đến lượt Hân im lặng, cô chưa lường trước tình huống này.

Nhìn vẻ mặt của Khương, Hân biết anh không đùa. Hân khinh khỉnh: “Anh không cần vì đứa con mà cưới cả con vợ già đâu. Em nói rồi, em tôn thờ chủ nghĩa độc thân”.

Khương bật cười, dụi đầu vào ngực Hân: “Anh không vì đứa con mà cưới em. Anh muốn dùng đám cưới để hợp thức hoá mong ước sinh con của em, không được sao? Bỏ quách cái chủ nghĩa độc thân của em đi, cũng đã đến lúc em cần một gia đình đúng nghĩa rồi đấy cưng” và anh hôn cô thật nồng nàn.

Khương nói là làm nên ngay tuần sau, anh đưa cô về ra mắt mẹ và xin cưới. Bố Khương mất từ khi anh còn nhỏ, nhà chỉ có hai mẹ con. Mẹ Khương đón Hân bằng ánh mắt sắc sảo pha chút lạnh lùng.

Khương chỉ mới hơn 21 tuổi, chưa đến lúc lập gia đình, bà tự hỏi ở cô gái này có điều gì khiến con trai mình say mê đến vậy. Hân rợn người khi mẹ Khương đưa mắt “chiếu tướng” cô từ đầu đến chân mình. Cô chưa từng biết sợ ai hay điều gì nhưng giờ đây, tim cô đang đập mạnh. Rõ ràng, mẹ Khương không như những trở ngại mà Hân từng đối đầu.

Sau mấy phút căng thẳng, bà tằng hắng hỏi: “Cháu là người ở đâu?”. “Dạ, cháu sinh ra ở Sài Gòn nhưng cả nhà cháu đã qua Mỹ định cư, chỉ còn mình cháu ở đây thôi ạ”.

“Sao cháu không đi theo họ?”.

“Dạ, tại vì cháu thích ở Việt Nam”, Hân đáp hơi khiên cưỡng, không lý nào lại nói với mẹ chồng tương lai rằng mình ở lại Việt Nam lúc ấy chẳng qua vì mối tình đầu với một anh chàng kiến trúc sư.

“Cháu bao tuổi rồi?”.

Hân lúng túng. Yêu Khương đã hơn năm nhưng cô vẫn ngại khi thú nhận với ai đó cô hơn anh 13 tuổi, dù sau khi Khương nỗ lực thay đổi ngoại hình, trông cô chẳng đến nỗi già hơn anh.

Ngay lập tức, Khương đỡ lời cho người yêu: “Dạ, cô ấy tuổi Dần ạ”.

Gương mặt mẹ Khương bỗng biến sắc, bà gằn giọng: “Tuổi Dần thì không được, không cưới xin gì cả”. Khương thảng thốt: “Sao vậy mẹ?”.

Sao trăng gì? Con gái tuổi Dần lấy chồng sớm có số sát phu, con thừa biết mà”.

Trời ơi, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Sao mẹ tin được”.

“Không vớ vẩn, nếu muốn, hai đứa chờ mười năm sau, bước qua tuổi 30 rồi cưới”. Mẹ Khương nói với giọng đắc thắng, bà thừa biết chẳng đứa con gái nào chịu điều kiện vô lý này.

Khương cũng đắc thắng đáp ngay mà quên mất điều mình đang cố giấu: “Cô ấy đã qua ba mươi rồi mẹ ơi”. Nhìn đôi mắt mở to của mẹ Khương lúc ấy, Hân rên thầm trong bụng: “Thôi rồi”.

Sau ngày hôm ấy, sóng gió phủ chụp lên mối tình của họ. Mẹ Khương kiên quyết phản đối, thậm chí lấy cái chết để doạ con. Khương cố gắng thuyết phục mẹ nhưng vô ích. Sợ Hân buồn, anh khuyên cô kiên nhẫn cho anh thêm thời gian.

Trước mặt Khương, Hân luôn tỏ ra điềm tĩnh nhưng đêm về, cô ôm gối khóc. Đã lâu lắm rồi từ sau mối tình đầu tan vỡ cũng bởi định kiến tuổi Dần, Hân mới khóc vì một người đàn ông.

Nửa năm sau, mẹ Khương tìm gặp Hân. Cô hẹn bà ở Hands vào ngày 28 Tết, ngày làm việc cuối cùng trước Tết Nguyên Đán của Hands. Năm nào cũng vậy, Hands luôn đóng cửa vào 28 Tết và khai trương lại vào mùng Bốn. Hân vẫn còn nhớ ngày đầu tiên mình lồng tay vào tay Khương cũng là 28 Tết.

Hands nằm cuối một con hẻm nhỏ yên tĩnh giữa trung tâm thành phố sầm uất. Người không biết khó có thể tìm ra Hands giữa những con đường ngoằn ngoèo và chi chít như bàn cờ. Hands nhỏ, có chưa đến năm cái bàn nhưng nhờ vậy mà tuyệt đối yên tĩnh. Hân vẫn thường một mình đến Hands với chiếc laptop, ngồi vào chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng và gõ lóc cóc viết bài. Và giờ đây, cô cũng đang ngồi ở chiếc bàn ấy, đối diện với mẹ Khương.

Mẹ Khương mở đầu chuyện một cách nhẹ nhàng: “Cháu có thật sự muốn làm con dâu của bác không?”.

Hân im lặng, cân nhắc hồi lâu và khẽ đáp: “Cháu thật sự muốn làm vợ Khương và cháu mong bác đồng ý”.

Vẫn giữ vẻ tự nhiên, bà hỏi: “Cháu nghĩ Khương muốn cưới cháu vì điều gì?”. Hân im lặng, cô muốn trả lời vì tình yêu nhưng không hiểu sao không thể thốt nên lời. Mẹ Khương mỉm cười ý nhị: “Cháu không đủ can đảm để trả lời vì tình yêu, đúng không?”. Hân mím chặt môi: “Bác muốn nói gì?”.

Mẹ Khương vẫn điềm tĩnh: “Bác muốn cháu chủ động rời xa Khương trong một năm, không liên lạc và không giải thích bất kỳ điều gì cả. Nếu nó thật sự yêu cháu, nó sẽ vượt qua khoảng thời gian ấy và sẵn lòng chờ cháu quay về. Khi ấy, bác sẽ không phản đối chuyện đám cưới nữa. còn ngược lại, tình cảm hiện giờ nó dành cho cháu chỉ là đam mê nhất thời và hai đứa nên kết thúc. Bác cũng đang thắc mắc liệu cháu có thật sự tin là Khương yêu mình không hay chỉ đang say mê một phụ nữ từng trải và có chút nhan sắc. Sao? Cháu có tự tin để thử không?”.

Bằng những nhận xét tinh tế của mình, bà thừa hiểu Hân là cô gái ngang tàng và có lòng tự tôn rất cao. Bà biết mình đã đánh trúng đòn và chắc chắn Hân sẽ đồng ý. Một cách chậm chạp, Hân khẳng định lại điều bà đang nghĩ: “Quyết định như vậy, bác nhé!”.

Một năm trôi qua, Hân đang ngồi trên taxi đến Hands. Cây kim giờ trên tay của cô đang nhích dần đến số 11. Đêm đã khuya nhưng Sài Gòn vẫn chưa muốn ngủ. Hôm nay là 28 Tết. “Lại là ngày 28, không biết nên yêu thương hay nguyền rủa nó đây?”, Hân vừa nghĩ vừa nhìn mông lung.

Không khí hội hè phủ khắp nơi nhưng lòng Hân trống rỗng. Cô vừa mong gặp lại Khương vừa sợ mình sẽ thất vọng.

Một năm qua, giữ đúng lời hứa vời mẹ Khương, Hân bẻ sim điện thoại, thay đổi chỗ ở, đóng cửa Facebook, không đến Hands và bất cứ nơi nào khác mà Khương có thể tìm đến. Cô vác ba lô đi khắp nơi, từ Đà Lạt, Nha Trang đến Hà Nội, Sa Pa… Cô đi vừa để viết bài vừa để quên đi nỗi cô đơn đang giày vò mình.

Hân biết ở Sài Gòn, Khương đang điên cuồng tìm cô. Hân đau lòng khi nghĩ đến gương mặt hốc hác và đôi mắt trũng sâu của anh. Ngày nào, Khương cũng gửi e-mail cho Hân và giăng trên Facebook lời van xin tha thiết: “Hân, em đang ở đâu? Đừng tránh mặt anh nữa!”. Hân đọc hết, biết hết nhưng im lặng. Cô chỉ biết động viên chính mình và đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua.

Đã có lúc Hân tưởng mình bỏ cuộc khi những lá e-mail của Khương thưa dần rồi mất hẳn. Dòng chữ tha thiết trên Facebook đã được thay bằng những câu cập nhật cuộc sống thường ngày của anh.

Thỉnh thoảng, Khương lại khoe những tấm ảnh anh chụp khi đi du lịch đâu đó, vây quanh anh luôn có những cô gái xinh đẹp và trẻ trung. Hình ảnh đó làm Hân vừa ghen vừa có cảm tưởng mình như bị xóa sổ khỏi cuộc đời của Khương.

Những lúc ấy, Hân ngồi lặng câm trước laptop và nhếch mép: “Đàn ông…” nhưng nước mắt lại rơi trên má cô nóng hổi. Hân quệt đi ngay, dù gì, đây cũng không phải lần đầu tiên cô không được lựa chọn. Là con gái tuổi Dần, Hân đã khá quen với điều này. Người tình đầu của Hân cũng đã không thể vượt qua định kiến của gia đình và bỏ rơi cô chỉ vì hai chữ “tuổi Dần”. Với những người tình sau, Hân chẳng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào họ. Rồi cũng như nhau cả thôi!

Thế nhưng lần này khác, Hân biết mình yêu Khương, yêu thật sự kể từ sau mối tình đầu nên cô không thể dễ dàng bỏ cuộc. Máy bay bà già thì đã sao? Tuổi Dần thì đã sao? Chẳng lẽ cô không được quyền yêu như bao người phụ nữ khác? Và Hân vẫn ôm ấp một hy vọng nhỏ nhoi, vẫn đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. Cô chờ ngày được gặp lại Khương.

Chiếc taxi đỗ xịch trước con hẻm nhỏ cắt ngang những dòng suy nghĩ của Hân. Cô thanh toán cước phí rồi lặng lẽ gõ chân trên con đường lồi lõm quen thuộc. Bây giờ là 11 giờ rưỡi đêm 28 Tết và cô đang đến Hands. Nếu thật sự yêu và còn nhớ Hân, Khương chắc chắn đang đợi cô ở Hands, ít nhất là qua 12 giờ đêm nay.

Hands không khác một năm trước là mấy. Vẫn một mảng tường trắng in đầy những dấu tay bằng sơn đủ màu của các vị khách, vẫn những chiếc bàn gỗ mộc mạc được lau chùi sạch sẽ đến bóng loáng, vân những cây mai giả nhỏ xíu đặt trên bàn và những phong bao lì xì đỏ đính lục lạc đong đưa reo vui bên ô cửa sổ…

Hân đưa mắt tìm kiếm chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng. Tim cô như rơi tõm xuống. Chiếc bàn trống không. Hân đưa mắt nhìn quanh. Hands vẫn còn lác đác dăm vị khách nhưng tuyệt nhiên không có người cô muốn tìm.

Hân tưởng như mình không đứng vững. Một cơn khó thở dâng lên khiến tim Hân đau thắt. Cô ôm lấy lồng ngực, lê chân khó nhọc về phía chiếc bàn quen thuộc và gọi một ly cappuchino. Mọi vật trước mắt cô nhoè đi. Hân biết mình đang khóc. Cô quệt nước mắt và cố gượng cười với cô phục vụ, nhưng nụ cười của cô phản chiếu xuống vệt nước trên mặt bàn trông méo mó và thảm hại như nụ cười của anh hề vào ngày rạp xiếc vắng khách.

Cô phục vụ ái ngại hỏi: “Chị không sao chứ?”. Hân lắc đầu, cố pha trò: “Không, chỉ là tôi có hẹn một người quan trọng nhưng lại bị cho leo cây”.

Cô phục vụ cợt vỗ tay lên trán: “à, thì ra là chị” rồi quày quả đi về phía quầy bar. Cô gái trở lại với một chiếc máy MP3 và bảo: “Sáng nay, có một anh chàng cũng nói câu tương tự như chị vậy. Anh ấy nhờ tôi trao lại thứ này cho cô gái nào ngồi ở chiếc bàn kê sát cửa sổ và cũng bị người ta cho leo cây”.

Hân đón chiếc máy từ tay cô phục vụ, tim cô đập mạnh liên hồi. Tay run run, cô gắn tai nghe và nhấn nút play. Giọng Khương vang lên trầm ấm như đang ở thật gần: “Em đang khóc vì anh đã không đến, có phải không? Anh đã chờ em suốt một năm qua ở Hands và lần nào, anh cũng thất vọng ra về. Anh liên lạc với em bằng mọi cách nhưng vô ích. Anh biết em vẫn quan sát anh từng ngày, anh van xin em rồi khiêu khích em trên Facebook để em xuất hiện nhưng tất cả đều công cốc”.

“Anh tự hỏi mình đã làm gì sai để em phải xa lánh anh như vậy? Sáng nay, anh đến Hands từ rất sớm và chờ em đến tận trưa. Em vẫn mất hút. Anh thật sự không đủ kiên nhẫn nữa. Khi em nghe được những lời này, anh đã ngồi trên máy bay sang Pháp. Anh sẽ làm việc ở đó trong ba năm và có thể lâu hơn. Có lẽ chúng ta không còn gặp lại nhau. Chúc em mạnh khoẻ và hạnh phúc”.

Những lời cuối của Khương như nhoè đi. Hai tai Hân lùng bùng, cô ngồi phỗng như tượng rồi đột ngột đứng bật dậy. “Không thể như thế! Mình phải ra sân bay”, Hân hốt hoảng vùng chạy. Cô va mạnh vào chiếc bàn và đánh đổ ly cappuchino. Dòng cà phê nóng rẫy đổ trên tay cô nhức buốt nhưng Hân không quan tâm. Cô luýnh quýnh chạy đi nhưng vấp phải chiếc ghế và ngã sõng soài. “Mình và Khương không thể kết thúc như vậy, không thể”, Hân bật khóc ngon lành như một đứa trẻ.

Chợt một đôi tay mạnh mẽ nâng cô dậy và ôm siết cô vào lòng. Mùi da thịt quen thuộc khiến Hân như bừng tỉnh. Trước khi Hân kịp nhận biết điều gì đang xảy ra, một nụ hôn nồng nàn gắn chặt lên môi cô và giọng Khương thầm thì: “Em là cọp mà sao mít ướt thế? Anh mới trêu một tí đã khóc, vậy mà nỡ bỏ anh đi suốt một năm trời?”.

Hân lắp bắp:”Anh… anh… không phải là anh…”. Khương mỉm cười dịu dàng: “Anh chẳng đi đâu cả, có đi cũng phải tha con cọp này cùng đi. Anh chờ em ở đây suốt một năm qua. Em ác lắm, thoả thuận với mẹ mà chẳng nói với anh câu nào”.

“Anh biết hết rồi sao?”.

Sáng nay, mẹ đã kể hết cho anh nghe và dặn anh phải đến đây đón em. Mẹ biết chúng ta yêu thương nhau thật lòng nên không phản đối nữa. Về nhà thôi em, mẹ đã làm thức ăn khuya, chờ con dâu tương lai về đó”.

CHỊ HAI…!

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Đinh Trực  

CHỊ HAI…!

Hôm nay đám giỗ Cha. Chị Hai lọ mọ từ dưới quê lên thật sớm, tay xách nách mang nào là chuối nào là rau và con gà, nào là gạo nếp mới…, vừa bước tới cổng thì thấy vợ thằng Út đi ra. Chị Hai cất tiếng:

– Tui mới lên…., Mợ út khỏe không?

Không trả lời trả vốn, vợ thằng Út đi thẳng ra cổng, chị Hai tiu nghỉu đi thẳng vô trong nhà, thấy Má đang ngồi xếp giấy tiền vàng mã, chị Hai ôm sà lấy má:

– Thưa Má, con mới lên…!

Má xoa đầu chị Hai .

-Ừhm. . . Hai mới lên đó hả con….?

Mùa màng lúc rày sao rồi, cả tháng nay không thấy bây lên chơi, má nhớ quá chừng… Thôi con Hai đi rửa mặt rồi xuống phụ mọi người một tay….

Thằng Út nãy giờ đứng đó, không thèm nhìn lấy chị Hai một cái, lên tiếng.

– Hổng còn bộ đồ nào tươm tất nữa sao mà ăn bận lôi thôi lết thết vậy…? Cứ ở yên dưới đó, rảnh tui chở Má xuống thăm, chứ lên đây chi vậy….

Chị Hai lủi thủi đi thẳng xuống bếp, Má nhìn theo, thở dài….!

Đang loay hoay dọn bàn thờ, nghe tiếng còi xe bin bin, thằng Út nhìn ra thấy hai chiếc xe ô tô mới toanh đậu trước sân, liền hối hả mừng rỡ

– Wow! anh Ba, chị Tư qua kìa má…!

Thằng Út chạy ra sân niềm nở, phụ anh Ba, chị Tư bê đồ vô nhà.

Buổi trưa khách khứa đến rất đông, Thằng Út là một giám đốc công ty nước ngoài nên nó mời toàn quan chức, đại gia, người nào người nấy đều mập mạp, ăn mặc cực sang.

Buổi tiệc bắt đầu, chủ khách cụng ly rôm rả. Má nhìn quanh không thấy chị Hai đâu, vội vã lên tiếng:

– “Con Hai đâu rồi, làm cái gì mà lụm cụm mãi dưới bếp vậy, lên đây ngồi ăn với Má…”*

Chị Hai rón rén đi lên, thằng Út đứng phắt dậy đi tới chặn chị Hai lại .

– Chị ngồi ăn với sắp nhỏ dưới bếp đi…. Chứ trên này ngồi bàn, quan khách họ nhìn vào thì tui cất cái mặt đi đâu.

Chị Hai khựng lại, lau vội giọt nước mắt sém trào ra ngoài, lầm lủi đi xuống bếp. Má nghe thằng Út nói vậy, buông đũa đi vào phòng…

Tiệc tàn, Thằng Ba, con Tư vào phòng chào Má về, thấy đôi mắt Má đỏ hoe, hai đứa xúm vào hỏi lo lắng.

– Má sao vậy? Sao Má khóc? Má nhớ ba hay bịnh gì nói cho tụi con biết…

Má giọng khản đặc….

– Bây khoan hãy về, nán lại đây một chút…. Con Tư ra gọi thằng Út và con Hai vào đây Má có chuyện muốn nói….

Bốn đứa con ngồi bên, má chậm rải nói.

-Bây có biết không, từ khi Ba của bây mất, con Hai phải bỏ học nửa chừng đi ở đợ cho người ta để kiếm tiền phụ má lo cho bây ăn học, bao nhiêu tủi nhục, cực khổ con Hai nó gánh hết… !

Có lần, chủ nhà mất chỉ vàng nghi ngờ con Hai lấy, rồi họ xúm vào đánh con Hai tả tơi, nó chạy về nhà mặt tím bầm, tóc tai rối bời, quần áo rách tả tơi, nó khóc tức tưởi. Má ôm nó vào lòng mà cảm thấy đứt từng khúc ruột…!

Từ đó, nó nguyện với lòng là không để cho bây khổ cực nên nó cày thuê gánh mướn, ai thuê gì làm nấy, miễn đủ tiền lo cho tụi bây ăn học, quên cả tuổi thanh xuân để cho bây được như ngày hôm nay….

Thằng Ba bây giờ là giám đốc bệnh viện, con Tư là một doanh nhân thành đạt, thằng Út là giám đốc của một tập đoàn nước ngoài. Còn con Hai, nó hy sinh cả đời, không chồng, không con, vì lo cho em mình, bây giờ nó nhận được cái gì đây…?

Nó nhận được sự hắt hủi của mấy đứa em mình, nó nhận được sự khinh bỉ của chính mấy đứa em của nó…!

Thằng Ba, con Tư, thằng Út, tụi bây phải biết thương yêu con Hai, má thì gần đất xa trời, mà thấy cảnh như thế này, má có nhắm mắt xuôi tay cũng không yên lòng.. Má buồn lắm các con ơi…, nhìn thấy chị hai của bây như vầy, má không chịu được, cứ mỗi lần nhìn thấy nó là má không cầm được nước mắt…!

Nếu lúc xưa nó không lo cho bay thì bây giờ nó cũng có chồng có con có cái như người ta… Má còn nhớ hoài, lúc xưa có thằng đó yêu nó quá chừng chừng, cái hôm mà thằng đó đến xin hỏi cưới, con Hai nó mới nói:

“Tui theo anh về nhà anh, rồi ai lo cho tụi em tui…!”. Từ đó, thằng bồ nó bỏ đi biệt xứ, nửa đêm thức giấc thì lúc nào ta cũng thấy con hai cầm tấm hình thằng đó mà thở dài thở ngắn, nó thầm nuốt cái đau buồn vào tận trong lòng, âm thầm chịu đựng một mình mà lo cho bây đó…

Thằng Ba, con Tư thằng Út nghe má nói, chợt hiểu ra, đứa nào cũng mắt đỏ hoe, chúng đã hiểu ra là mình có lỗi với chị Hai quá nhiều, ba đứa tụi nó nhào tới ôm chặt lấy chị Hai, mà khóc…!

Bỗng dưng nhà bên cạnh vang lên bài hát “Chị tôi”, khiến mọi người càng khóc thêm, khóc vì không phải buồn mà khóc là để mừng vì mấy đứa em đã tìm được Chị Hai sau những năm trời bị ruồng bỏ…!

“… Nhà tôi trên bến sông có chiếc cầu nhỏ cong cong.

Hàng cau dưới nắng trong lá trầu không

Chị tôi trông dễ thương bán rau chợ cầu Ðông í a.

Chị tôi chưa lấy chồng.

Thời con gái lưng ong có bao người thầm mong theo.

Mẹ dục con gái yêu lấy chồng đi.

Chị thương hai đứa em thương mẹ già con đau í a.

Chị tôi chưa lấy chồng….!”.

(Đinh Trực sưu tầm)

 

 

 

MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

May be a black-and-white image of one or more people

Lê Văn Hòa

“MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH, đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình:

Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa. Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH. Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng. Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra: Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến …

“Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu. Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất. Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. Kính theo kế bên hông…

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống. Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu. Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương. Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! – Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì. Thằng Kính cũng có lý. Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong. Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– ĐM… Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ. Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc. Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy. Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy…

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói. Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi? Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông…

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương. Ông đừng giao tôi cho ai hết. Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời. Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng.

Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai: Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến. Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”. Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra…

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù. Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo… Nhưng em không thể nào quên anh. Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ gĩa ra đi không: Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng…

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!”

(ST)