VỆT NẮNG CUỐI CHIỀU – Phạm Tín An Ninh

VỆT NẮNG CUỐI CHIỀU                                                                                                 Phạm Tín An Ninh

  (Quí mến tặng vợ chồng em Trần H – Florida)

Tháng 7/75, khi mọi người vẫn còn đang ngơ ngác, chưa kịp hoàn hồn trước bao thù hận, mất mát chia lìa, thì ở khu làng biển nghèo Bá Hà, một cậu bé 15 tuổi lại ngỡ ngàng trước một tin vui – có mẹ. Khi bà ngoại dắt Hưng vào nhà và chỉ một người đàn bà xa lạ, bảo đó là mẹ mình. Hưng bất ngờ đến sững sờ, cứ ngỡ như bà mẹ này vừa mới từ trên trời rơi xuống.

Từ khi sinh ra, rồi cả một thời tuổi thơ Hưng chỉ sống với bà ngoại. Ngoại nghèo khổ, một thân một mình vất vả làm thuê, gánh mướn, chắt chiu nuôi đứa cháu duy nhất của mình. Hưng lớn lên bằng tấm lòng bao la của ngoại và sóng gió của biển khơi mênh mông. Trò chơi chỉ là rượt theo các chú dã tràng trên bờ biển vắng hoặc nhặt những chiếc vỏ ốc, vỏ sò sau mỗi lần thủy triều lên xuống. Càng lớn Hưng càng khôi ngô, khỏe mạnh. Có lẽ nhờ tiếng hát ru hời của ngoại cùng âm thanh rạt rào của biển luôn an ủi vỗ về mà Hưng gần như quên hẳn nỗi bất hạnh mồ côi và hun đúc Hưng thành một đứa bé khôn ngoan, thánh thiện, sớm biết nhìn bầu trời xanh bao la mà khát khao bao điều ước vọng.

Năm mới lên tám tuổi, vừa hết lớp ba, dù rất say mê học hành nhưng không đành nhìn ngoại ngày một còng lưng, Hưng phải xin nghỉ học để đi làm phụ ngoại. Theo ghe lưới cá của mấy người hàng xóm. Thời gian nghỉ ngơi, ở nhà tự học, đọc sách vở mà Hưng mượn được hoặc mua lại từ những bạn bè hay các anh chị học sinh lớn tuổi trong làng. Hưng ít khi hỏi ngoại về cha mẹ mình, vì Hưng không hề biết mặt họ, và trong ký ức non nớt cũng như trong cả những giấc mơ của Hưng cũng không bao giờ có hình ảnh cha mẹ. Chỉ nghe bà ngoại kể là cả hai người đều bị bạo bệnh qua đời lúc Hưng mới sinh ra. Có lẽ thấy tội nghiệp đứa cháu côi cút của mình, bà không muốn Hưng phải suy nghĩ hay nhớ đến chuyện buồn này, nên chỉ kể vội một đôi lần, lúc Hưng mới lớn lên và bắt đầu nhận hiểu đôi điều ở quanh mình. Rồi không bao giờ bà nhắc lại nữa.

Hưng có hai ông cậu, em của mẹ, nhưng ít khi gặp mặt. Ông cậu nhỏ đi làm xa ở đâu đó, còn ông cậu lớn thì đi lính quân dịch, một năm chỉ về phép đôi ba lần. Ông có vợ, nhưng gởi vợ lại cho ngoại. Bà mợ thì hiền lành, nhưng ông cậu lần nào về cũng ghen tương, gây gổ với mợ, với ngoại, mặc dù ông rất thương và lo lắng cho ngoại. Có lần ngoại buồn, hờn cậu, dắt Hưng theo ra tận vùng quê Xuân Tự, ngoài Vạn Giã ở với gia đình người em của ngoại. Sau hơn nửa tháng, nguôi ngoai và nhớ nhà, nhớ biển, nhớ cả đôi gánh tần tảo của mình, bà cháu lại dắt díu trở về làng cũ. Đó là kỷ niệm một lần đi xa độc nhất trong tuổi thơ của Hưng.

Mười lăm năm sống bên cạnh ngoại, trừ chuyến đi xa duy nhất ấy, Hưng chỉ quanh quẩn ở làng quê Bá Hà hay trong khu vực Hòn Khói. Một khu làng nghèo thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nằm bên bờ một cái vịnh nhỏ xa xôi, cách biệt thị tứ. Thời Pháp thuộc, chưa có nhiều phương tiện giao thông, nơi này chẳng khác nào một ốc đảo. Muốn đến nơi khác phải di chuyển bằng ghe thuyền. Dân chúng đa số sống bằng nghề đánh cá, làm muối, một ít làm ruộng. Nghèo, nhưng để bù lại, ông trời đã ban cho họ sự kiên nhẫn, trí thông minh, lòng hiếu học, cùng những cô con gái mặn mà nhan sắc.

Đầu thập niên 60, Bá Hà, Hòn Khói có khá nhiều người trẻ vươn lên, thành đạt bằng con đường chữ nghĩa, tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, đã tạo một làn sóng đưa con cái vào các thành phố lớn Nha Trang, Sài Gòn theo học. Nhà nào cũng hy vọng con cháu mình sẽ bước ra khỏi cái nghiệp nghèo khổ, ít học, quanh năm chỉ soi mặt dưới biển, trên đồng từ mấy đời của dòng họ, cha ông. Điều đáng buồn là cùng với cái đà vươn lên ấy cũng là lúc xảy ra nhiều biến động đau thương của đất nước. Bá Hà, Hòn Khói lại là nơi có nhiều anh em ruột thịt và bạn bè thân thiết, kẻ đứng bên này, người đứng bên kia, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Chủ nghĩa Mác-Lê một thời đã hấp dẫn một số người trí thức trẻ, vươn lên từ những tầng lớp nghèo khổ, khi “đấu tranh giai cấp” trở thành mục tiêu và lý tưởng của họ. Họ không hiểu là người ta đã lợi dụng điều này, dẫn dắt họ vào con đường lầm lạc để cuối cùng chỉ phục vụ cho một nhóm người ác độc, chẳng hề có lý tưởng mà chỉ khát khao quyền lực, bạc tiền.

Hương là một trong số những người đi theo con đường cam go đầy bất trắc ấy. Có điều không nổi đình, nổi đám như nhà họ Đỗ cùng xóm. Một anh giáo sư có vợ bác sĩ và mấy người cháu ruột đều có bằng cấp cao, kẻ vào bưng, người hoạt động nội thành, sau 75 làm nhiều chức rất lớn trong đảng. (Nhưng cũng chỉ vài năm sau thì giật mình thấy “lạc đường” nên quay lại chống đảng để bị tù tội và mất hết bổng lộc) (*). Việc ra đi của cô gái tên Hương này kín đáo, thầm lặng và từ một lý do đặc biệt hơn, không ai biết được.

Hưởng ứng phong trào cho con cái tiến thân theo con đường sách vở, cha mẹ Hương chắt chiu tiền bạc cho cô con gái của mình vào Sài Gòn học. Thương cha mẹ nghèo mà phải vất vả lo lắng cho mình, sau khi vào Sài Gòn một thời gian, Hương kiếm việc làm thêm; vừa làm vừa học. Công việc chỉ là phụ giúp trong một nhà máy dệt, nhưng sau một tháng, ông chủ thấy Hương vừa hiền lành thật thà, vừa có chí học hành nên cho Hương làm sổ sách, kế toán. Biết Hương thuê phòng trọ trong khu lao động nghèo, sống một mình giữa Sài Gòn ồn ào đầy bất trắc, ông chủ tốt bụng động lòng thương cho về ở chung với đám con cái trong ngôi nhà rộng lớn của mình. Vừa làm cho xưởng dệt vừa phụ giúp những chuyện lặt vặt trong nhà.

Ông Bùi Văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà là một kiến trúc sư tài ba, từng thiết kế nhiều khu đô thị và nhận lãnh công trình xây cất khu chợ Hòa Bình Đà Lạt. Gia đình trước ở Hà Nội và đã mấy đời làm chủ nhiều xưởng dệt. Năm 1954, cả nhà di cư vào Nam, sống ở khu Phùng Hưng, Chợ Lớn. Sau khi tạm ổn định đời sống và việc học hành cho con cái, ông gầy dựng lại Xưởng dệt Bắc Hà này. Được sự giúp đỡ của chính quyền trong bước đầu, nhưng chính yếu là nhờ vốn liếng và nhiều kinh nghiệm của ông, xưởng dệt ngày càng phát triển, không bị thất thế giữa những xưởng dệt lớn khác ở chung quanh mà hầu hết do Hoa kiều làm chủ.

Biết ông Trụ là người có khả năng và tâm huyết, chính phủ Ngô Đình Diệm đã yêu cầu ông cộng tác trong chương trình tái định cư và kiếm công ăn việc làm cho hơn một triệu người đồng cảnh với ông. Xưởng dệt Bắc Hà cũng là nơi quy tụ nhiều người di cư có kinh nghiệm trong nghề dệt.

Vợ mất, để lại cho ông bốn người con, ba trai một gái. Ông tục huyền với bà vợ mới, là bạn thân của vợ ông và cũng chính là người quản lý mấy xưởng dệt của ông ngoài Hà Nội. Khi di cư vào Nam, gia đình ông, ngoài vợ chồng và cậu con trai nhỏ của bà vợ sau, còn có cả bốn đứa con của bà vợ trước. Vào Sài Gòn ông bà có thêm một cô con gái út. Các con đều theo học các trường Tây: Jean Jacques Rousseau hay Marie Curie. Ông Trụ rất cưng con, nhưng thường bận đi xa trong nghề kiến trúc, hay giúp việc định cư cho những bà con khác, nên giao cho vợ chăm sóc, dạy dỗ đàn con, ngoài việc quản lý xưởng dệt Bắc Hà. Có lẽ một phần do ảnh hưởng nghề nghiệp, nhiều năm với cương vị quản lý mấy xưởng dệt lớn, nhân viên lên đến mấy trăm người, nên bà khá nghiêm khắc với con cái.

Trong mấy cậu con trai có Hoành, con út của đời vợ trước, rất giống bố, khá đẹp trai, hiền lành, học hành chăm chỉ và luôn vâng lời cha mẹ. Hoành không những giống bố về khuôn mặt, dáng đi mà còn ở đức tính rộng lượng, thương người. Thấy Hương con nhà nghèo, nhưng xinh xắn, nhu mì và hiếu học, Hoành rất quí mến, thương yêu lo lắng cho Hương như cô em gái. Hoành thường dạy kèm thêm cho Hương. Những ngày nghỉ, khi đưa các em gái đi chơi, Hoành luôn rủ Hương cùng đi. Thường chỉ đi dạo trong Sở Thú, ăn kem hoặc xem ciné. Sự gần gũi, thân tình và hợp tính nhau dần dần đã làm tình yêu nẩy nở.

Cuộc tình đẹp nhưng thầm lặng kéo dài gần hai năm, càng lúc càng say đắm, nồng nàn với kết quả là Hương mang thai. Hoành đem sự việc thưa cùng cha mẹ và xin được cưới Hương làm vợ. Lúc ấy Hoành đang học năm cuối trường Jean Jacques Rousseau và chuẩn bị thi BAC II. Cha của Hoành, sau khi la rầy rồi cũng đồng ý. Ông bảo Hương là đứa con gái hiền hậu dễ thương, lỗi là ở con trai mình. Cha mẹ phải có trách nhiệm, nhất là trong bụng Hương đang có giọt máu của họ Bùi. Nhưng bà kế mẫu của Hoành thì vừa nghiêm khắc, vừa bảo vệ nếp nhà ”môn đăng hộ đối”, quyết liệt khước từ. Sau nhiều lần bàn cãi, cha của Hoành phải tạm thời nhượng bộ để giữ hòa khí gia đình. Cuối cùng ông bà đi tới quyết định : Thuê chỗ ở khác cho Hương sống để chờ sinh đẻ. Sau khi sinh xong, ông bà sẽ bắt đứa con và chu cấp tiền bạc như một đền bù để Hương về quê sinh sống, cắt đứt mọi liên lạc với gia đình cũng như với Hoành. Thực ra, trong thâm tâm ông Trụ, cha Hoành, đây chỉ là kế hoãn binh với bà vợ kế, chờ sau này, mọi việc lắng xuống, ông sẽ mua nhà riêng cho Hoành và tìm cách đưa Hương trở về sống với Hoành và con. Tiếc là ông không nói sớm điều ấy với Hoành. Hoành quá thật thà đem hết mọi việc kể cho Hương nghe, và khuyên Hương cứ ở lại sinh đẻ rồi sau này sẽ tính. Vừa bất bình trước sự khinh miệt giai cấp của gia đình Hoành, vừa giận thái độ khiếp nhược của Hoành, và nhất là sợ bị mất đứa con, hôm sau Hương viết để lại cho Hoành một lá thư từ biệt, trút bao đớn đau trách móc, rồi lặng lẽ ra đi. Để đánh lạc hướng gia đình Hoành, ngừa việc sau này họ đi tìm để bắt đứa con, Hương bảo sẽ về quê ở Diên Khánh (Thành) thay vì về Hòn Khói. Vì xưa nay, mọi người chỉ biết Hương là người từ Nha Trang vào học, thế thôi.

***

Mười lăm năm chưa biết mặt mẹ, chưa hề biết cảm giác của một đứa con có mẹ. Bây giờ bỗng dưng gặp một người bảo là mẹ mình, Hưng không có cảm xúc. Ngồi nghe mẹ kể lại cuộc đời bà và nguyên nhân sự có mặt của mình trên thế gian này, Hưng ngậm ngùi nhưng vẫn không hiểu hết được những điều đã xảy ra. Sao giống chuyện trong mấy cuốn tiểu thuyết mà mình đã đọc. Hưng thầm nghĩ như thế rồi hỏi mẹ :

      – Vậy tại sao mẹ lại bỏ con lại cho bà ngoại khi con chỉ mới lên ba ?

     – Đó là điều đau xót và ân hận nhất của mẹ, đã dằn vặt mẹ bao nhiêu năm nay. Nhưng xin con hãy hiểu và tha thứ cho mẹ. Lúc ấy mẹ không có con đường nào khác. Phụ lòng bà ngoại, xấu hổ với bà con láng giềng vốn còn rất đậm nề nếp cũ, con gái không chồng mà có con là cái tội xấu xa, cái án vô hình nhưng nặng nề lắm, con ạ.

     – Đã bao nhiêu năm, sao mẹ không tìm cách liên lạc với bà ngoại và với con, để bà ngoại vừa một mình khốn khổ nuôi con vừa buồn vì tưởng mẹ đã chết thật rồi.

    – Thực ra thì lúc ấy mẹ cũng muốn chết lắm. Viết lá thư để lại cho ngoại, bảo là mẹ xuống biển tự tử. Khuya hôm ấy mẹ có ra biển, nhưng khi lội xuống biển, nhìn thấy biển mênh mông, đen sẫm, nghe tiếng sóng thét gào, mẹ bỗng giật mình sợ hãi, không còn một chút can đảm. Mẹ bước lên bờ với ý nghĩ bỏ đi, nhưng chưa biết đi đâu, mẹ ra trốn ngoài ghềnh đá bên động cát, thì bất ngờ gặp mấy người du kích trong xã, trong đó có cô Tám, bạn học của mẹ lúc nhỏ, rủ vào bưng theo kháng chiến. Mẹ đi theo cô ấy.

     – Sao mẹ không ở trong đội du kích cho gần nhà mà lại đi ra tận ngoài Bắc ?

    – Mẹ được cô Tám dắt lên núi để học tập. Nghe nói cách mạng là thực hiện triệt để cuộc đấu tranh giai cấp, mẹ thấy rất hợp với ước nguyện của mẹ nên đã xin tình nguyện để được kết nạp vào đảng. Hơn nữa, mẹ cũng muốn rời xa quê hương, để không ai còn biết đến mình. Mẹ được đưa ra Liên Khu 5, ba năm sau chuyển ra Bắc. Và cũng ở tại Liên Khu 5 này mẹ đã gặp cha của con bây giờ.

Đưa tay chỉ người đàn ông cao lớn, mặc bộ áo quần bằng vải kaki Nam Định, vai mang xắc-cốt, nãy giờ ngồi yên lặng trên bộ phản, bên cạnh bà ngoại, và hai đứa trẻ lạ, mẹ Hưng tiếp tục :

      – Chú Ba đây là chồng của mẹ. Và con Hồng, thằng Hà đây là em của con. Trước khi vào Nam, chú Ba nhất quyết bảo mẹ phải nói với con, chính chú ấy là cha ruột để cho con vui, nhưng mẹ không chịu. Mẹ muốn con biết rõ sự thật, vì chuyện cha con là chuyện máu mủ thiêng liêng. Con có nghĩ về mẹ thế nào cũng được, nhưng mẹ muốn con biết rõ lai lịch của mình.

Ông Ba đứng dậy, bước lại ôm vai Hưng thân mật :

      – Mặc dù trước đây chưa được gặp con, nhưng mẹ con đã kể cho chú nghe về con từ khi mẹ và chú mới quen nhau. Chú rất thương con, và mong là con luôn xem chú như là ba của con. Nếu được, xin con cho chú cái vinh dự làm cha của con trong giấy khai sinh. Chú thực lòng không muốn trong khai sanh của con đề cha là vô danh, như mẹ đã kể cho chú nghe.

Nói xong ông Ba gọi hai đứa con lại, bảo anh Hưng đây là anh hai của hai đứa con. Từ nay phải gọi là anh hai và thương yêu, vâng lời anh ấy. Hai đứa nhỏ bước đến vòng tay, bẽn lẽn chào Hưng.

Cái giọng Bình Định lai Bắc kỳ của ông Ba hơi khó nghe. Nhưng Hưng hiểu được những điều ông muốn nói và tin những tình cảm ấy là chân thật. Mặc dù sau tháng 4/75, Hưng nghe người trong làng kháo nhau: Đừng nghe những gì Cộng Sản nói.

Sum họp được hai ngày, thời gian chưa đủ để Hưng cảm giác có mẹ, có em, thì mẹ Hưng cùng chồng và hai con phải vào Cam Ranh để nhận nhiệm sở mới. Nghe nói ông Ba làm ở Phòng Địa Chính còn mẹ Hưng thì làm hiệu trưởng một trường phổ thông cấp 1. Trước khi đi ông bà để lại cho bà cháu Hưng mấy bao gạo, một số tiền và ít áo quần.

Sự thay đổi qua bất ngờ và khá lớn lao đó vẫn chưa đủ làm cho Hưng mất đi cái cảm giác mồ côi. Mười lăm năm, đã quen và yêu cuộc sống tuy vất vả nhưng rất yên ả với ngoại, với biển cùng đám bạn bè ở cái làng nghèo Bá Hà này nên Hưng không muốn có một sự đổi thay nào nữa. Từ ngày người mẹ xuất hiện, với một lai lịch khá mơ hồ về cha, cùng với sự xáo trộn từ đầu tháng Tư, kéo theo bao âu lo của bà con trong xóm, đầu óc Hưng lúc nào cũng căng thẳng, chẳng khác nào những đêm biển lặng, theo thuyền đi lưới cá ngoải khơi, đột nhiên bị dông tố bất ngờ. Bao nhiêu năm sống với ngoại, Hưng ví ngoại như cây cổ thụ đầu làng, quanh năm phủ bóng che mưa, che nắng cho mình. Hưng không muốn có ngày bị người ta kéo ra khỏi cái bóng thần tiên ấy, cho dù người ấy là ai. Bỗng dưng Hưng thấy thương ngoại hơn. Tối tối, Hưng chui vào nằm bên ngoại, ôm ngoại thật chặt như sợ bà sắp tuột mất khỏi vòng tay bé nhỏ của mình. Còn ngoại thì khác, bà tỏ ra phấn chấn, vui mừng, thường nắm tay Hưng bảo nhỏ :

       – Hãy vui lên nghe con, bây giờ thì con đã có mẹ. Trước đây ngoại rất lo sợ, vì ngoại đã già rồi, nếu có bề gì biết có ai lo lắng cho con. Bây giờ con có mẹ, ngoại yên lòng.

Ngoại nói là ngoại mừng, nhưng nhìn vào mắt ngoại, Hưng thấy ngoại đang khóc.

Hơn một tháng sau, mẹ và chú Ba đưa xe con về đón ngoại và Hưng vào Cam Ranh. Gia đình ông bà được cấp ngôi nhà khá rộng trong khu cư xá, nghe nói của một công chức VNCH bị tịch thu. Mới làm việc chỉ hơn một tháng, nhưng ông bà tỏ ra chán ngán. Ông bảo làm trong ngành địa chính nên biết rõ nhiều điều bất công, khuất tất. Từ việc tịch thu tài sản của nhiều người dân vô tội đến việc giành giật chia chác từ chức tước đến nhà cửa, đất đai giữa những cán bộ trong các ban quân quản và guồng máy chính quyền mới vừa “biên chế”. Mẹ Hưng thì dễ dàng nhận ra hệ thống giáo dục và trình độ của các giáo chức miền Nam, hơn hẳn bây giờ và cả ngoài Bắc. Tuy phải chấp hành cấp trên, nhưng với chức vụ hiệu trưởng, bà cảm thấy e thẹn, nhất là những khi phải họp hành   với các giáo chức cũ. Hưng nghe mẹ thường buồn bã tâm sự với ngoại :

      – Điều buồn nhất sau bao nhiêu năm trở lại quê nhà là con cảm thấy thật cô đơn. Láng giềng, bạn bè cùng lớp cùng trường ngày xưa dường như đều muốn xa lánh con. Có ai bất ngờ gặp con giữa đường, họ giả vờ vồn vã nhưng con nhìn thấy rõ sự dè dặt trong mắt họ.

Ông bà luôn chăm sóc ngoại, vỗ về an ủi Hưng. Nhiều đêm bà ngủ cùng phòng với Hưng để mẹ con tâm sự. Nước mắt của mẹ dần dà đã thấm đẫm trong lòng Hưng, làm Hưng xúc động. Nằm trong vòng tay, với những cái nhìn âu yếm, cùng những giọt nước mắt ấy của mẹ đã làm Hưng thấy gần gũi, thấu hiểu được nỗi lòng và ước mơ của mẹ. Nhiều lúc, thấy mẹ ngồi thẫn thờ nhìn xa xăm, Hưng biết là cả một quá khứ đau buồn đang trở về với mẹ, nhưng không hiểu là hình bóng của cha Hưng đã hiện lên như thế nào trước mắt mẹ. Mẹ có còn thương cha, có dành một ngăn nhỏ nào trong trái tim của bà cho người tình xưa, hay chỉ có oán trách, hận thù ? Còn chú Ba, chồng của mẹ bây giờ, thực ra cũng là một người tốt, chân chất hiền lành, thường tâm tình khuyên bảo, năn nỉ Hưng ở lại với ông bà và hai em. Ông sẽ lo cho Hưng đi học trở lại, có mẹ kèm thêm để Hưng học nhanh hơn. Ông cũng tỏ ý muốn thay mặt cho cha Hưng để bù đắp những gì mà hơn 15 năm qua Hưng bị mất mát quá nhiều. Ông tha thiết mong được Hưng gọi mình là ba như hai đứa em của Hưng.

Hai tuần ở đây, tình cảm trong Hưng có nhiều biến chuyển. Hưng bắt đầu gọi ông Ba bằng cha, và cũng là lần đầu tiên Hưng cảm giác mình có mẹ. Hưng thấy hạnh phúc và cũng có chút hãnh diện về mẹ, một người đàn bà lớn tuổi nhưng còn nhan sắc và hiểu biết. Có một điều Hưng vẫn mơ hồ, không biết con đường gai góc mà mẹ đã đi trong gần mười lăm năm, bỏ Hưng côi cút với ngoại, có phải mẹ đã thực sự tìm đúng lý tưởng của mẹ ? Hưng thấy cái làng Bá Hà này vốn cũng đã nghèo, giờ lại càng nghèo khổ xơ xác hơn. Các chủ ghe mà Hưng đã từng đi theo phụ lưới, giờ phải đem ghe thuyền giao nộp hết cho hợp tác xã. Các anh chị từng vươn lên trong học hành, có cả ông thầy trẻ từng dạy Hưng, một thời làm hãnh diện cho Bá Hà, giờ một số bị tù đày, số còn lại thì quay về nghiệp cũ; đánh cá, làm muối, làm ruộng. Chẳng lẽ học hành, giỏi giang chữ nghĩa lại có tội ? Mọi người ai cũng ngờ vực, sợ sệt lo âu.

***

Tháng 5/78, một chiếc thuyền nhỏ vượt biển tắp vào một hoang đảo ở Nam Dương. Trên thuyền gồm có 18 người, đa số là thanh, thiếu niên. Tất cả được Cơ Quan Cao Ủy Tị Nạn LHQ đón nhận đưa về tạm trú tại trại tị nạn Tandungpinang. Trong số 18 người này có Hưng, cậu bé đánh cá vùng biển Hòn Khói năm nào, bây giờ đã 18 tuổi. Được phái đoàn Mỹ nhận, Hưng đến định cư tại Tiểu bang Florida vào đầu tháng 10/79 với sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ tốt bụng.

Nhờ có sẵn đức tính cần cù chăm chỉ, từng trải qua cả một thời tuổi thơ cơ cực, và cũng nhờ vào trí thông minh của ông trời ban cho người dân nghèo Hòn Khói, Hưng vừa đi làm giúp đỡ gia đình, nhất là bà ngoại ở Việt Nam, vừa theo học tại một trường Cộng Đồng dành cho người lớn tuổi. Hưng học rất nhanh và luôn đạt điểm cao, được khích lệ của các thầy cô giáo. Hưng theo gương Nguyễn Xuân Nam, một người bạn nghèo cùng làng Bá Hà, sang Mỹ trước Hưng một năm, nổi danh hiếu học (**). Trong chuyến đi của Hưng có cậu em ruột của Nguyễn Xuân Nam.

Khi được Cao Ủy Tị Nạn và Phái Đoàn Mỹ phỏng vấn, hỏi do động cơ nào mà Hưng vượt biển ra đi. Hưng trả lời là chính bà ngoại đã khuyên và giúp Hưng tìm mọi cách, bà bảo :

      – Chỉ mới sau mấy năm “giải phóng” mà coi bộ dân chúng khốn khổ quá chừng. Ai cũng lo sợ, oán than cách mạng. Ngoại già rồi, nhưng con còn trẻ phải tìm mọi cách ra đi. Ở lại coi bộ khó sống lắm con ạ.

Đó là lời khai hoàn toàn thành thật, vì xưa nay Hưng không hề biết nói dối. Có điều Hưng hơi ngạc nhiên khi nghe ngoại bất ngờ nói ra điều này, mà trước đó Hưng chưa bao giờ nghe bà nói tới. Sau này, Hưng mới biết đó là quyết định của mẹ và ông cha kế. Cả số tiền để Hưng trả cho chủ ghe cũng do ông bà đưa cho ngoại.

Lá thư đầu tiên nhận được của mẹ, có cả ông Ba, người cha kế viết chung trong đó, Ông bà chúc mừng Hưng đã đến xứ tự do, nơi bảo đảm tìm thấy tương lai, nếu ở lại, giờ này Hưng đã bị đi nghĩa vụ quân sự và có thể bỏ xác oan uổng ở chiến trường Campuchia trong cuộc tranh giành quyền lực giữa những người Cộng Sản. Hai năm sau, tháng 12/81, Hưng được tin ông xin phục viên, viện cớ chứng đau nhức đến buốt óc do một mảnh đạn còn nằm trong đầu, bị thương trong trận tấn công Quảng Trị 1972, không thể giải phẫu lấy ra được. Mẹ Hưng còn dạy học thêm vài năm nữa, sau này xin nghỉ vào Bình Dương làm nghề trồng cây ăn trái.

Năm 1992, sau khi tốt nghiệp đại học và đã có công việc làm ổn định, được tin ngoại ốm nặng, Hưng vội vã về Việt nam thăm ngoại. Xin bảo lãnh ngoại sang Mỹ để chữa bệnh và sống với Hưng, nhưng ngoại nhất quyết chối từ, bảo là bà đã sống ở làng quê Bá Hà cả một đời người, như cây đa mọc rễ không dễ gì mà bứt ra được. Không ngờ đó là lần cuối cùng Hưng gặp ngoại. Bà qua đời vào năm 1998. Nhận tin ngoại mất, Hưng có cảm giác như cả bầu trời sập xuống. Hưng tưởng tượng cái cây cổ thụ xum xuê to lớn ở đầu làng Bá Hà vừa bị bật gốc. Dù bây giờ Hưng đã thực sự trưởng thành, có một gia đình hạnh phúc với vợ con, công ăn việc làm ổn định, nhưng Hưng vẫn cảm thấy như vừa mất đi cái bóng mát vĩ đại để tâm hồn mình trú ẩn. Bởi mỗi khi buồn, cảm thấy cô đơn lạc lõng trên xứ lạ quê người, nghĩ tới ngoại là tinh thần Hưng phấn chấn. Nhớ những ngày mình còn bé, ngoại thường dắt lên chùa lễ Phật. Hưng chấp tay trước ngực, đứng nép bên ngoại trước tượng Phật, nghe ngoại chỉ cầu xin bao điều may mắn tốt đẹp cho đứa cháu côi cút của mình. Có lẽ nhớ những lời cầu xin này của ngoại mà cuộc đời mình mới được như hôm nay. Bây giờ trang sách cuộc đời như vừa bị ai đó xé đi mất nửa trang đầu, để nửa sau không còn ý nghĩa gì nữa. Hưng khóc hết nước mắt và hụt hẫng đến suy sụp cả tinh thần.

Ông Ba, người chồng sau của mẹ cũng qua đời mấy năm sau đó. Hưng dắt vợ con về Việt Nam để chịu tang ông như người cha ruột của mình. Hưng xin xây mộ phần cho ông, an ủi mẹ và hai em. Trước khi rời Việt Nam, Hưng gởi lại cho mẹ một số tiền và hứa mỗi tháng sẽ gởi thêm về để phụ cho hai em ăn học đến nơi đến chốn.

Trong lần về Việt Nam lo đám tang cho ngoại, Hưng có dịp tâm tình riêng với mẹ. Mấy ngày hai mẹ con nằm trong khách sạn Hải Yến ở Nha Trang, khi ngoài trời gió mưa tầm tã, mẹ đã kể lại tỉ mỉ hơn về cha ruột của Hưng, về cuộc tình thật đẹp, thật lãng mạn nhưng kết cục quá đau đớn của ông bà. Mẹ cũng không còn trách cha. Bảo ông ấy là người tốt, hiểu biết, thương người, nhưng lúc ấy còn đang đi học, lệ thuộc nhiều vào gia đình, hơn nữa lại là đứa con luôn vâng lời cha mẹ. Hôm ấy, lần đầu tiên mẹ ngỏ ý muốn Hưng đi tìm cha, dù điều ấy bây giờ rất nhiêu khê, nhất là sau tháng 4/75, những người giàu có đã phải bỏ nhà cửa, bỏ Sài gòn ra nước ngoài hay đến một vùng quê xa xôi nào đó để mong còn giữ được cái thân.

Nghe lời mẹ, trước khi trở lại Mỹ, Hưng thuê xe đến khu Phùng Hưng trong Chợ Lớn. Đúng như lời mẹ nói, tất cả đã đổi thay, không ai biết gì về gia đình ông chủ xưởng dệt Bắc Hà ngày trước. Vừa thất vọng, vừa nghĩ là nếu có tìm được ai đó trong gia đình cha, chắc gì họ đã đón nhận mình. Bởi trong mười lăm năm Hưng sống côi cút khổ cực, cũng không hề thấy có ai đi tìm đứa con, đứa cháu lạc loài bất hạnh. Hưng quyết định bỏ hết, cố quên đi cái quá khứ đau buồn và phiền muộn ấy để cho lòng thanh thản. Hưng nhủ thầm “không ai thay đổi được quá khứ, mình nên dồn hết trí óc và thời gian còn lại để xây dựng tương lai”. Hôm ấy, khi máy bay lấy cao độ để rời khỏi không phận Sài gòn, Hưng nhìn xuống, qua khung cửa kiến nhỏ, nhận ra khu vực Chợ Lớn nằm xa xa phía dưới, bất giác Hưng đưa tay lên chào. Hưng nghĩ đó không chỉ là cái vẫy tay từ biệt khu phố Phùng Hưng, mà còn từ biệt luôn một quá khứ mơ hồ. bất hạnh với một người cha chỉ nghe như huyền thoại.

***

Cách đây hai tuần, khi đang say ngủ Hưng giật mình bởi chuông điện thoại reo. Xem đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng. Giờ này mà ai gọi chắc là có điều khẩn cấp lắm. Hưng bốc ống nghe. Bên kia đầu dây là Hà, đứa em trai cùng mẹ khác cha đang gọi từ Sài gòn. Hà gọi từ một trạm internet, nên hiện lên trên khung điện thoại của Hưng một dãy số lạ hoắc. Hà báo tin đã tìm được một người biết gia đình ông bà Bùi văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà. Việc đi tìm tin tức về người cha ruột của Hưng hy vọng có nhiều manh mối. Cái tin bất ngờ đó làm cho Hưng lo lắng hơn là vui mừng. Không biết khi tìm được rồi họ có nhận mình không?

Cái vẫy tay từ biệt hôm nào trên máy bay, Hưng tưởng đã bỏ lại cho khu phố Phùng Hưng tất cả quá khứ buồn thảm. Hưng muốn xóa sạch hết tất cả, như cái xưởng dệt Bắc Hà giờ cũng chẳng còn một dấu tích nào. Nhưng rồi một giấc mơ đã làm Hưng thay đổi. Một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, có tiếng điện thoại reo, Hưng bốc máy lên nghe. Giọng một người đàn ông :

     – Có phải Hưng đó không con ? Ba là Hoành, cha của con đây. Bao nhiêu năm đi tìm con khắp nơi mà không gặp. Ba rất thương nhớ con. Hãy tha thứ cho ba nghe Hưng !

Hưng giật mình tỉnh giấc, trong tai vẫn còn văng vẳng tiếng người vừa nhận là cha mình. Giọng nói trầm ấm, hiền lành, xúc động. Giấc mơ đã làm Hưng nhớ lại câu nói “cha con là máu mủ thiêng liêng” của mẹ trong ngày đầu tiên khi hai mẹ con gặp nhau tại căn nhà tranh của ngoại ở làng quê Bá Hà hơn 36 năm trước. Chính giấc mơ đã thôi thúc Hưng đi tìm lại cha mình

Hưng nghĩ ngay tới Hà, đứa em trai một mẹ khác cha, nhưng rất giống Hưng và luôn kính trọng, thương yêu, giữ tình nghĩa với Hưng chẳng khác nào anh em ruột. Từ hơn mười năm nay, Hà làm việc cho một công ty xuất nhập cảng lớn tại Sài Gòn, chắc chắn quen biết nhiều người. Hưng liền gọi điện thoại về Việt Nam, bảo Hà hỏi mẹ rõ ràng chi tiết về gia đình ông bà chủ xưởng dệt Bắc Hà để tìm ra tông tích của cha Hưng. Hà hết lòng ủng hộ mẹ và Hưng về việc này. Ngày nào, sau khi đi làm về, Hà cũng chạy ngay xuống khu phố Phùng Hưng.

Qua bao biến cố, thăng trầm, Sài Gòn – Chợ Lớn bây giờ đổi thay nhiều quá. Cả khu xưởng dệt Bắc Hà không còn lại một dấu tích gì. Người ta đã phá hết để xây khu chung cư mới. Hầu hết dân chúng ở khu vực này từ ngoài Bắc mới vào sau 75. Dường như chẳng còn ai biết có một xưởng dệt tên Bắc Hà từng hiện diện ở nơi này. Hơn nữa, mọi người đang tất bật rượt đuổi theo thời gian để tìm cơ may trong cơn sốt đổi đời, thì còn đầu óc và thời giờ đâu mà nhớ tới ngày xưa, ngay cả cái thời đẹp đẽ hạnh phúc mà họ đã mất. Sau mấy ngày, Hà may mắn gặp được một ông già tốt bụng. Ông thuê lại căn nhà của một người Bắc 54 đã ở đây hơn 30 năm kể từ ngày di cư vào Nam. Hy vọng ông ấy biết nhiều về gia đình chủ nhân xưởng dệt Bắc Hà. Ông tìm địa chỉ đưa cho Hà. Hà chạy ngay lên tận Biên Hòa và gặp được người chủ nhà gốc Bắc 54 ấy. Ông cụ đã trên 85 tuổi, nhưng trí nhớ còn rất tốt. Ông biết rất rõ về gia đình ông bà kiến trúc sư Bùi văn Trụ và xưởng dệt Bắc Hà nhưng ông bảo sau 75, cả nhà cửa và xưởng dệt đều bị tịch thu. Có lẽ tất cả đã ra nước ngoài. Vì từ ngày ấy ông không còn gặp và cũng chẳng nghe ai nói tới gia đình ấy nữa. Tuy nhiên, ông có biết một bà bác sĩ hiện ở bên Pháp, là bà con với gia đình ông bà chủ Bắc Hà. Bà có về Việt Nam thăm thân nhân và bạn bè một đôi lần. Ông hứa sẽ tìm một người quen, là bạn thân của bà bác sĩ ấy, để hỏi giùm tin tức. Hà mừng quá, xin số điện thoại của ông cụ rồi chạy ngay đến một trạm internet ở gần đó để gọi cho Hưng, mặc dù biết ông anh của mình giờ này đang ngủ say. Hà bảo :

– Em báo tin để cho anh “phấn khởi” và tốt nhất là em cho anh số phôn của ông cụ, để anh gọi về trực tiếp nói chuyện. Sẽ hấp dẫn, hồi hộp và chính xác hơn là em.

Sáng hôm sau, Hưng gọi về và gặp được ông già Bắc Kỳ 54 khả kính. Nhưng ông bảo phải chờ ông hỏi thăm, vì chưa gặp được người ấy. Ông hẹn Hưng tuần sau gọi lại. Trong một tuần ấy, lòng Hưng rối như tơ vò. Không biết người cha ấy như thế nào, vợ con ra sao. Nhà giàu và học hành như thế đối với mẹ con Hưng họ là giai cấp thượng lưu. Hơn nữa còn bà vợ. Liệu bà có cho chồng nhận Hưng là con, khi sợ bị chia mất một phần gia tài, và nhất là tình cảm của mẹ con bà? Hưng tâm tình với vợ. Là một người hiểu rõ tính tình, suy nghĩ và cả một quá khứ bất hạnh buồn thảm của chồng, vợ Hưng luôn an ủi, khích lệ và chia sẻ cùng chồng mọi tâm sự, nỗi niềm :

     – Em nghĩ anh nên vui và nắm lấy cơ hội này để tìm gặp lại cha. Vì hoàn cảnh của anh, của chúng mình hiện nay, em không sợ gia đình cha sẽ hiểu lầm. Mình không cần bất cứ tài sản gì nữa, còn tình cảm, đó là sự thiêng liêng như mẹ đã nói, không ai có thể nhẫn tâm chia cách được. Hơn nữa nếu còn sống, cha cũng đã già rồi. Em tin là dù trước kia có thế nào, bây giờ bất ngờ gặp được anh, chắc là cha sẽ vui mừng ghê lắm. Hơn nữa, đó chính là điều ước mong của mẹ.

Những lời nói của vợ làm cho Hưng bớt căng thẳng và vui vẻ hơn, nhưng chưa hết hẳn lo âu. Sau một tuần lễ dài nhất trong đời, Hưng gọi điện thoại về Biên Hòa gặp ông cụ Bắc Kỳ 54. Rất may mắn ông đã có số điện thoại của bà bác sĩ ở bên Pháp. Đó là bà bác sĩ Tuyết, trước kia là học trò của ông bác sĩ Bùi Huy Lâm hiện ở bên Mỹ. Hưng rụt rè gọi cho bà Tuyết. Một người đàn ông bốc phôn. Nhưng mới nói vài câu, Hưng nghe bên kia đầu dây im lặng, rồi cúp máy. Hưng đoán có lẽ ông là chồng của bác sĩ Tuyết, tưởng ai gọi nhầm số. Cũng có thể ông không muốn nghe, ngại dính vào câu chuyện phiền toái của Hưng. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Hưng hỏi vài người quen ở Cali, xin số phôn của bác sĩ Bùi Huy Lâm. Ông này khá nổi tiếng ở đây. Ông Lâm thật nhân từ, tốt bụng, vui vẻ và chịu khó nghe Hưng trình bày một câu chuyện khá dài. Ông tỏ ra xúc động. Khi đang khóc trong điện thoại, Hưng nghe bên kia đầu dây có tiếng sụt sùi. Ông hứa sẽ liên lạc ngay với bà Tuyết để kể lại đầy đủ sự việc và bảo đảm bà sẽ sốt sắng trong việc này. Ông còn an ủi Hưng:

– Cháu yên tâm. Bây giờ không phải chỉ có cháu, mà còn có cả bác nữa, chúng ta nhất định sẽ tìm ra bố của con.

Tấm lòng của bác sĩ Lâm làm Hưng thực sự cảm kích. Hưng nghĩ mình đã may mắn gặp một người nhân từ, nên hy vọng mọi điều sẽ tốt đẹp.

Cuối cùng thì Hưng cũng gặp được bà bác sĩ Tuyết. Lần này bà lắng tai, thăm hỏi an ủi và cho Hưng số điện thoại của người cô út, em cùng cha khác mẹ với cha Hưng. Bà sống ở Thụy Sĩ.

Hôm nói chuyện với cô, tự dưng Hưng xúc động đến nghẹn ngào. Bà chỉ lớn hơn Hưng có bốn tuổi. Tuy hoàn toàn không biết gì về Hưng, không hề được nghe người anh tên Bùi văn Hoành của bà đã từng có một đứa con như thế, nhưng bà rất vui vẻ, thân thiện và dành cho Hưng những lời thương yêu, quí mến. Chính tấm lòng và giọng nói của bà đã làm cho Hưng có cảm giác người này thực sự có liên hệ máu thịt với mình.

Hưng gởi ngay cho bà vài tấm ảnh của Hưng qua email và ngược lại bà cũng gởi cho Hưng tấm ảnh của người anh, mà Hưng bảo là cha. Xem ảnh xong, bà bảo là Hưng giống cha Hoành như đúc. Còn Hưng, khi nhận tấm ảnh của cha, tấm ảnh lúc ông còn trẻ, nên cả vợ chồng Hưng đều giật mình tưởng người trong ảnh chính là Hưng bây giờ. Bà cũng báo tin cho người chị cả của bố, bác Hương, hiện định cư ở Canada gọi sang Mỹ thăm và vui mừng đón nhận Hưng. Tối hôm ấy, Hưng rất xúc động nhận được một email ngắn của cô út :

      – Hưng đã quậy trời, quậy đất đi tìm bố, từ bác sĩ Lâm ở Cali, đến cô Tuyết, bác Túc ở Pháp. Tất cả đã biết và cùng chia sẻ niềm hạnh phúc. Cô ở Suisse và bác Hương ở Toronto đã mở rộng vòng tay đón Hưng vào gia đình họ Bùi. Cô rất vui vì Hưng tìm được dòng suối trong, và Hưng sẽ như dòng thác đổ, như sông Cửu Long chẩy về ôm hết những người Hưng muốn thương yêu

Có một điều không phải như Hưng nghe mẹ và ông cụ Bắc Kỳ 54 ở Phùng Hưng ước đoán trước đây, cha của Hưng không định cư ở Pháp sau 75, mà vẫn còn ở Sài Gòn. Điều ngạc nhiên hơn ông từng là đại úy phi công VNCH. Bị tù 7 năm sau tháng 4/75. Ông đủ điều kiện đi Mỹ theo diện HO, nhưng bà vợ, nhờ chôn giấu được một số vàng của cha mẹ để lại sau 75, nên còn vốn để buôn bán làm ăn, điều quan trọng hơn là cả cha mẹ bà đều bị bệnh nặng nằm một chỗ cần đến sự săn sóc của bà, nên bà không thể bỏ đi. Cuối cùng bố Hưng phải đành ở lại. Bà cô út rất tế nhị, vừa muốn tránh việc phiền muộn có thể ảnh hưởng tới cuộc kỳ ngộ, và cũng muốn dành trọn cảm giác ngạc nhiên cho ông anh, nên bà bảo sẽ không trực tiếp cho cha Hưng biết, mà chỉ cho Hưng số điện thoại và địa chỉ của ông, đề nghị Hưng nhờ đứa em ở Sài gòn tìm cách hẹn ông ra ngoài, kể chuyện về Hưng, rồi sau đó gọi điện thoại để hai cha con nói chuyện.

Hưng nghe theo lời cô, nhờ Hà giúp mình mọi việc. Chiều hôm sau, từ một quán cà phê trong giờ vắng khách, ông Hoành lần đầu tiên nghe tiếng nói của đứa con hơn 51 năm chưa hề biết mặt.

Giọng nói đôn hậu pha lẫn chút đùa cợt, có lúc lại nghẹn ngào đứt đoạn của ông đã gây cho Hưng cảm giác gần gũi, thân thiết ngay từ phút ban đầu. Ông kể chuyện về bố ông và ông, đau buồn thế nào khi biết mẹ Hưng bỏ đi, vã đã vất vả kiên nhẫn đi khắp nơi tìm mẹ con Hưng mà không gặp. Khi nghĩ là mẹ Hưng đã tự tử mang theo dòng máu của mình, cha con ông đã ân hận đau đớn như thế nào. Trong phòng riêng ông có để tấm ảnh nhỏ của mẹ Hưng trên kệ thờ. Thấy ông đau buồn tiều tụy, bố ông xin giấy tờ cho ông sang Pháp du học. Nhưng khi ông chuẩn bị lên đường thì bố ông đột ngột qua đời do một tai nạn ở Lâm Đồng. Ông phải ở lại, phụ bà kế mẫu lo cho xưởng dệt và mấy đứa em. Khi đến tuổi động viên, xin vào trường Không Quân ở Nha Trang và làm phi công quan sát (L19) cho đến ngày mất nước. Thời gian biệt phái công tác ở Trà Nóc, ông quen cô con gái của một thương gia ở thành phố Cần Thơ. Sau này trở thành vợ của ông. Bây giờ ông bà có bốn người con, hai trai hai gái. Tất cả đều đã trưởng thành và có gia đình riêng. Những điều ông kể, nhiều lần bị gián đoạn. Không phải ông quên, hay ái ngại, mà vì phải dừng lại để lau nước mắt. Bên kia đầu dây, Hưng cũng sụt sùi.

Ông nhờ Hà về thưa lại với mẹ xin cho ông được đến thăm mẹ. Được bà đồng ý, sáng hôm sau ông lái xe lên Bình Dương. Vợ chồng Hà giúp trang điểm, thay áo quần mới cho mẹ. Vừa vui mừng, vừa xúc động khi nép vào cánh cửa nhà sau, nhìn lén cuộc trùng phùng kỳ diệu của mẹ mình với người tình xưa, Cả hai đều bạc tóc. Ông nắm tay bà :

      – Bà còn giận tôi không ?

Mẹ Hưng không trả lời mà bật khóc. Đôi mắt của bà đã bị mờ từ hơn bốn năm nay, bây giờ càng mờ hơn qua làn nước mắt. Nhưng dường như bà đã nhận ra ông, nhìn thấy ông rất rõ qua ký ức và cả tâm hồn bà. Ông ôm lưng, dìu bà ngồi vào chiếc ghế bành bên cửa sổ. Khi thấy bà ngồi bỏ hai chân trên ghế, ông đùa :

      – Bà ngồi cái kiểu này, hèn gì Thái Lan đang bị một trận lụt kinh hoàng bên ấy.

Bà hiểu ý, vội bỏ thòng hai chân xuống, đưa tay lau nước mắt rồi nhoẻn miệng cười. Vợ Hà véo nhẹ tay chồng khi thấy mẹ đã trên 70 nhưng vẫn còn giữ chút thẹn thùng của thời con gái.

Ông nói tiếp :

     – Chắc bà thương tôi lắm hay sao mà đặt tên cho mấy đứa con sau này cũng bằng vần H, và cháu Hà trông cũng giống tôi lắm?

Bà lảng sang chuyện khác:

      – Nghe nói ông là sĩ quan Cộng Hòa, khi biết tôi theo Việt Cộng ông có thù ghét tôi không?

Ông cười thật to :

      – Nhiều lần bay trên trời, tôi phát hiện mấy cô du kích tắm truồng dưới suối. Tôi sà xuống thật thấp định phóng mấy trái hỏa tiễn, nhưng bỗng nhận ra có bà dưới đó, nên tôi vội vã bay đi. Chứ hồi đó tôi bắn một phát thì làm sao bây giờ hai đứa còn gặp nhau đây.

Không biết vì giọng bông đùa rất tự nhiên hay vì chữ “hai đứa” của ông vừa nói, bà bỗng im lặng, đưa đôi mắt đục mờ nhìn xa xăm. Trong ký ức của bà, hình ảnh anh học trò Hoành 19, 20 tuổi tuấn tú ngày xưa vừa sống dậy, tạo cảm giác trẻ trung, cùng một chút lãng mạn trong lòng bà.

Dường như ông đã đoán trước và chờ đợi thời điểm kỳ diệu này, bước ra xe lấy bó hoa vào trao cho bà :

     – Xin bà nhận cho tôi vui. Đây là bó hoa đáng lẽ tôi trao cho bà trong ngày đám cưới, giờ lại trở thành bó hoa xin tạ tội, dù rất muộn màng. Cái lỗi lớn nhất của tôi là đã đẩy bà đi lạc vào một con đường, để đến cuối đời bà vẫn mãi ăn năn.

Khi thấy bà ôm chặt bó hoa vào lòng, rưng rưng nước mắt, ông bỗng trầm xuống :

      – Tôi xin cám ơn bà. Dù bà không nói ra, nhưng tôi biết là bà đã tha thứ cho tôi. Thằng Hưng, đứa con bất hạnh của chúng ta, dù ở thật xa, nhưng tôi đang nhìn thấy nó mỉm cười. Tôi mong chờ để đón vợ chồng nó và hai đứa cháu nội của mình. Nay mai tụi nó sẽ về đây để cùng với bà và tôi ôm nhau mừng cho cuộc trùng phùng kỳ diệu này.

Trước khi chia tay, ông xin phép bà được thắp một nén hương trên bàn thờ ông Ba, chồng của bà.

Khi tôi ngồi viết lại câu chuyện này theo lời kể của Hưng, thì Hưng cùng vợ và hai cô con gái đang có mặt tai phi trường Tampa, bắt đầu cuộc hành trình về Việt Nam để tìm lại nguồn cội và quá khứ của mình. Cầu mong cuộc trùng phùng sẽ làm lành được những vết thương trong lòng mỗi người, trải qua bao đổi thay, tan thương dâu bể.

                Đồi Hacienda Heights, Mùa Thanksgiving 2011

               Phạm Tín An Ninh

(*) Gs Đỗ Trung Hiếu, sau 75 làm Ủy Viên Liên Lạc Các Tôn Giáo của Trung Ương Đảng CSVN, vợ là bác sĩ Văn và cháu là Đỗ Hữu Ưng. Cả ba đều là đảng viên Cộng sản. Riêng Hiếu gia nhập đảng CS (1956) trước khi hoạt động trong phong trào sinh viên Phật Tử Sài Gòn. Sau này (1986) phản tỉnh, cùng với Nguyễn Hộ và các đảng viên kỳ cựu trong Câu Lạc Bộ Kháng Chiến Cũ, chống lại đảng nên (1992) đã bị tù và tước hết đảng tịch cùng các chức vụ.

(**) Nguyễn Xuân Nam, vượt biên trước Hưng một năm, lúc 19 tuổi. Ở Việt nam, Nam mồ côi mẹ, cha bị thương tật, chỉ học đến lớp ba, rồi nghỉ, theo cha làm nghề đánh cá. Vậy mà sau hơn mười năm sang Mỹ đã trở thành một bác sĩ nổi danh, được Hội Đồng Giáo dục Y Khoa trường đại học Harvard bình chọn là một trong những bác sĩ giỏi nhất nước Mỹ (2010), hiện là Trưởng Khoa Nhi Đồng bệnh viện Los Angeles, California và cũng là giáo sư tại một số trường Đại Học của Hoa Kỳ.

NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI.

Lương Văn Can 75.  Kimtrong Lam   

NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI.

Thùy Nhiên.

Đôi Lời Vào Truyện:

Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện H.O.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại Rếda, Califonia. Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa. Năm 1975 mất nước con gái tôi mới có tám tuổi, khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại “Nỗi bất hạnh của đời tôi” một cách trung thực. Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văm phạm, chính tả. Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc.

***

* Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, Ông ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài, Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân, Nguyễn Minh Toàn, và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con với cha Liêm mà tôi không nhớ tên.

* Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang, ba và con cùng NỔI BẤT HẠNH trên cuộc đời này.

***

Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v. V…mọt cách bí mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.

Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.

Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đấu đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giớ tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.

Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạn đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao công an địa phương “xử lý”. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: “ Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi.” Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.

Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chạm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.

Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm những bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.

Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi ) Nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.

Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.

Ngồi trong hầm tầu tối đen mà lòng tan nát, tôi trấn tĩnh mình bằng lới cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Ba mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giớ tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.

Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tầu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tầu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.

Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứ giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.

Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng vợi hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước ( ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giởi. Trên biển giữa đêm đen, có gì ghe rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may đâu có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.

Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và đến trại Sikiw.

Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa em mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.

“Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đánh thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.

Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đựng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền cón lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.

Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu khong thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.

Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng.

Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì, Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: “ Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi” nó định bước xuống nước để đi Dì cầm tay nó kéo lại: “ Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với với dì xin ngài ban phước”. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động, người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi.

Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Land. Theo táu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.

Ôi ! Những biến cố đó trong đời tôi làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.

Mẹ ơi ! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi ! Các em ơi ! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao, “Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi”.

Thùy Nhiên 

Như chỉ mới hôm qua – ký ức 30 tháng Tư 

Như một lớp áo mỏng che những vết thương vĩnh viễn không lành…

Như chỉ mới hôm qua – ký ức 30 tháng Tư 

Đan Viên

Những gì được kể trong bài viết này không chỉ là thảm kịch sau ngày “giải phóng”, mà phải nói đó là sự thảm khốc của BI KỊCH HẬU CHIẾN, khi mà dù tiếng súng đã ngưng nhưng những viên đạn vô hình vẫn “bắn giết” và “tử hình” không biết bao nhiêu nạn nhân. Các cuộc “thảm sát” sau 1975, không đầy xác người như những trận giao tranh ác liệt thời chiến, nhưng đã gieo rắc nỗi thống khổ cho hàng triệu gia đình và làm mất đi tuổi thơ của vô số đứa trẻ, như tác giả trong bài viết. Ký ức đối với những tâm hồn non nớt trước những gì chứng kiến sau ngày 30 Tháng Tư không chỉ là quá khứ. Nó là những vết thương vĩnh viễn không lành…

Bài viết này đã đoạt giải ba cuộc thi Như chỉ mới hôm qua – Ký ức 30-4 do Saigon Nhỏ tổ chức vào năm 2021. Xin mời đọc lại…

_________

Trong suốt nhiều năm tôi luôn nhớ về dĩa cơm gạo trắng ở chợ Ái Nghĩa hồi tôi 10 tuổi khi má dẫn đi thăm ba ở trại An Điềm. Trên tôi còn có bốn ông anh chẳng hiểu sao năm đó má lại dẫn mình tôi đi thăm ba. Tôi cũng là đứa con duy nhất trong bảy đứa được đi thăm ba trong suốt thời gian ba ở trại.

Đây là ba của tôi sao?

Trong trí nhớ của tôi, từ làng tôi phải đi bộ xuống Túy Loan rồi bắt xe đò lên Ái Nghĩa. Ở Ái Nghĩa đi qua sông bằng cano rồi mới đi tiếp bằng đường bộ. Ngủ lại đêm trên mấy sạp chợ Hà Nha. Sáng hôm sau tiếp tục đi bộ lên trại. Khi lên tới trại dưới má tôi cùng những gia đình thăm nuôi khác ngồi đợi được gọi tên, rồi lại đi bộ tiếp lên một khu trại khác, rồi lại đợi. Tôi chưa hết say xe, căng thẳng, sợ hãi. Mọi thứ đều có vẻ đe dọa. Rồi cũng tới lượt má tôi được gọi tên. Má dẫn tôi vô một dãy nhà dài.

Một dãy bàn bằng tre dài ngoằng theo gian nhà. Một tấm phên dựng chắn giữa bàn cao quá đầu người ngồi, cứ khoảng một mét lại chừa một ô nhỏ đủ nhìn thấy mặt người đối diện. Ở đó tôi thấy những người đàn bà ngồi vào trước những ô được chỉ. Phía bên kia cũng là người ngồi nhưng tôi không thấy hết được. Má cũng có một ô, giữ tôi đứng kế bên. Tôi nghe tiếng khóc nghẹn của đàn ông đàn bà… Tôi từng biết kiểu khóc này. Những đêm khuya tôi thường nghe má khóc vậy khi chợt tỉnh ngủ. Má biểu tôi nhìn vô ô vuông đó. Bên kia là gương mặt một người đàn ông lạ hoắc, ốm yếu, răng rụng rất nhiều. Tôi hoảng sợ.

Má biểu tôi, thưa ba đi. Tôi làm theo như cái máy. Sao người này lại là ba tôi? Chỗ ngồi của má là đầu dãy. Một cán bộ đang đứng ở đó quan sát mọi người. Có tiếng má tôi năn nỉ xin cho tôi được bước qua phía bên kia cho ba ôm tôi. Người cán bộ hơi chần chừ rồi cũng cho. Nhưng lúc đó tôi sợ, má giục mấy lần tôi mới rụt rè bước qua. Ba ôm tôi khóc không thành tiếng. Tôi sợ, không thấy quen thuộc với người mình vừa gọi ba. Người ba gầy xơ xác, bộ quần áo gần giống như kiểu pijama nhưng dày cộm, màu xám xám hay xanh gì đó. Một thứ mùi không chút thân thuộc, một nhân dáng xa lạ. Tôi gồng cứng người, sợ hãi.

Nhưng rồi tôi bắt đầu khóc khi hết cuộc thăm nuôi. Tôi khóc tức tưởi. Má chắc bận để tâm đâu đó nên chẳng thèm dỗ, chẳng thèm hỏi. Tôi tự khóc, tự nín. Khóc tức tưởi rồi nấc ư ử, rồi thôi. Tôi không biết vì sao mình khóc. Nhóm người cùng đi với má cũng trở ra. Họ thì thầm trò chuyện với nhau. Trẻ con im thin thít. Đi bộ xuống lại con đường cũ. Đến chợ Hà Nha, trời vẫn chưa tối hẳn nhưng về giờ này hết chuyến sang sông, người lớn quyết định ở lại sạp chợ một đêm nữa, sáng mai mới bắt xe về. Những người đàn bà chọn cái sạp lớn nhất để ngồi cùng và trò chuyện. Họ vẫn tiếp tục với giọng điệu cà rì cà rầm.

Những câu chuyện nghe như ác mộng

Trong số họ có người đã quen nhau từ lần thăm nuôi trước. Có người mới đi lần đầu. Có ba bốn đứa nhỏ cỡ tôi và lớn hơn. Má chỉ tôi leo lên cái sạp nhỏ kế bên. Đêm đó, trong giấc ngủ bị ngắt quãng mấy lần, tôi thấy một giấc mơ kinh hoàng. Giật mình mở mắt thấy vẫn đang ở trong câu chuyện của người lớn. Thì ra không phải mơ. Tôi nằm kế bên nghe người lớn kể chuyện rồi buồn ngủ thiếp đi, tỉnh dậy vẫn những người đàn bà ngồi đó kể chuyện. Họ không ngủ. Mấy lần như vậy cho tới khi trời sáng.

Đọng lại trong tôi là hình ảnh bà vợ ông tá nào đó bị cọp ăn khi đi thăm chồng mà đi lạc qua đường mòn trong núi, chỉ còn lại cái đầu rũ rượi tóc lăn bên vệ đường. Vùng Ba Khe nổi tiếng có cọp dữ. Họ còn kể có gia đình bản địa phước đức khi cọp vô tới tận sân nhà, cha mẹ đi làm chỉ có ba đứa trẻ ở nhà, chúng sợ quá trùm cái mền lại rồi vì sợ mà cứ kéo qua kéo lại cái mền. Con cọp đứng nhìn một hồi rồi bỏ đi. Những chuyện khác tôi chẳng hiểu gì nên cũng không nhớ rõ được.

Sáng hôm sau, má đón xe đò về lại Ái Nghĩa. Cả buổi không được ăn gì. Đêm hôm trước cũng chỉ có cái bánh sắn nhỏ (bột sắn khô nhồi rồi làm thành những cái bánh, luộc trong nước sôi cho đến khi bánh nổi là chín; món ăn thường trực của nhà tôi những năm sau 1975). Tôi đói quay quắt mà không dám kêu. Má dẫn tôi vô chợ Ái Nghĩa.

Tới trước hàng cơm trong chợ, má mua một dĩa cơm trắng, xin chan chút nước thịt, hai mẹ con cùng ăn. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết được trong chợ có hàng bán cơm. Dĩa cơm trắng trưa hôm đó cho đến tận bây giờ, với tôi, vẫn là cực phẩm nhân gian. Tôi chưa được ăn cơm trắng suốt mấy tháng rồi, toàn sắn với khoai. Hạt gạo Ái Nghĩa trắng muốt, thơm lừng, cũng không giống cơm tôi nấu khi nhà có gạo. Không còn sợ hãi, không có con cọp núi ăn thịt người, chỉ có dĩa cơm trắng và tôi.

Năm đó ba ở trại An Điềm được gần ba năm…

Những mộng mị kinh hoàng thỉnh thoảng vẫn trở lại với tôi. Cũng từ lần đi thăm ba về, tôi mắc chứng bị bóng đè. Nhiều lần ngộp trong những giấc mơ kỳ lạ khác. Và kể từ chuyến đi đó, mọi ký ức của tôi về ba, về gia đình mình trong bảy năm đầu đời bị xóa sạch, cho đến tận bây giờ. Không chỉ về ba, mà tất cả những gì của bảy năm đã bị khóa chặt, chôn vùi đâu đó, trừ một chuyện – chuyện duy nhất mà tôi nhớ, nhưng thật ra cái tôi còn nhớ cũng chỉ là cảm giác, không một nhân dáng rõ ràng nào.

Làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư?

Trước khi Đà Nẵng thất thủ, má may cho tụi tôi những cái quần bằng vải gì dày như nhung, có hai lớp; mấy cái túi ở giữa hai lớp quần, má may cả nắp túi có nút gài. Má chuẩn bị cho mỗi cái quần một ít vàng, là tư trang của má, cùng với mảnh giấy ghi rõ tên cha mẹ, địa chỉ. Một đêm, ba đã dẫn cả nhà chạy ra biển. Má mặc cho tôi cái quần hai lớp má may vội đó. Tôi nhớ cảm giác nặng nề, nhột nhạt của cái quần kỳ cục. Tôi nhớ mùi biển đặc quánh đêm đó. Nhớ nỗi sợ hãi của tôi giữa những lời thì thầm của ba má. Nhưng rồi ba dẫn cả nhà về lại, cho tới cái đêm người ta đập cửa nhà lúc rạng sáng bắt ba dẫn đi…

Một ký ức duy nhất cho bảy năm. Bây giờ ở tuổi ngoài 50, không biết tôi có cơ hội nào lấy lại bảy năm thơ dại của mình, để biết mình đã từng có gì, để khớp được tâm trí tôi với lời kể của ba má, anh em. Tôi cũng muốn một lần đi lại con đường ngày ấy mà không có nỗi sợ hãi nào… Từ lúc đi thăm ba về tôi thường lấy mấy tấm hình còn sót lại của gia đình so sánh người đàn ông trung niên đẹp đẽ với ông già tôi gặp ở trại An Điềm. Làm gì có chuyện chỉ mấy năm mà có thể biến đổi một con người thành như vậy? Tôi hoài nghi, tôi cố lôi trong ký ức của mình ra hình hài người đàn ông trong bức ảnh. Nhưng hoàn toàn trống rỗng…

… Thêm mấy năm nữa ba được ra trại. Má tôi làm ở đồng sau, nghe có người bà con chạy vô kêu hình như là ba tôi về. Má quýnh quáng lao ra con đường cái xuyên qua làng. Ba tôi. Đúng là ba tôi. Nhiều người đã như tôi, không nhận ra ba. Con Út khóc thét khi ba đưa tay về phía nó. Ngày ba đi, nó chưa đầy ba tuổi. Đứa em kế tôi cũng sợ hãi nép vào người má. Nhiều tiếng khóc khác, của người lớn, sửng sốt và thương cảm. Ai đó đã chạy vội về nhà đong cho má tôi mấy lon gạo. Ai đó đã chạy ra vườn hái bông đu đủ đực và mấy trái non xuống cắt sẵn cho má (thứ mà má sau đó đã nấu để ba ăn giải rừng thiêng nước độc). Mọi người cứ hỗn loạn như vậy. Chỉ có tôi là… bình thường. Thậm chí ngay lúc đó tôi còn thấy mình vênh mặt lên vì không sợ ba – người ba duy nhất mà tôi nhớ được.

Sau này, từ trong những câu chuyện của gia đình tôi, câu chuyện của những gia đình khác đồng cảnh ngộ mà tôi đọc được, nỗi thống khổ sau 1975 có rất nhiều điểm chung, có rất nhiều thấu hiểu. Trong khi ông bà, cha mẹ chúng tôi trải qua những hỗn loạn đau thương của nước mất nhà tan thì chúng tôi – những đứa con của “ngụy quân-ngụy quyền” – trải qua những đau thương kiểu khác. Đà Nẵng, Kho Đạn, An Điềm, trại cải tạo, phóng thích, trình diện, lý lịch, đại học, hợp tác xã…, với tôi, những từ ngữ này mang một thứ âm thanh khác.

Mấy chục năm rồi, trời Tháng Tư vẫn nhuốm màu ký ức thê lương. Thời gian và cuộc sống thường nhật, đôi khi chỉ như một lớp áo mỏng che đậy những vết thương vĩnh viễn không lành. Quá nhiều thứ đã mất. Quá nhiều tổn thương tiếp nối cho đến tận bây giờ. Có thứ vẫn còn phong kín thì làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư…

WA, 4-2021

  NHÌN BẰNG TRÁI TIM- TRUYỆN SUY NGẪM

  NHÌN BẰNG TRÁI TIM- TRUYỆN SUY NGẪM

Gần nhà ngoại tôi có một đôi vợ chồng già bị mù. Họ đã có với nhau một đàn con cháu đông đúc. Nghe ngoại nói, năm nay hai cụ đã ngót nghét tám mươi tuổi.

Ngoại kể, ngày xưa, khi lấy nhau, người chồng ngồi xe bò đi đón vợ. Tuy cô dâu và chú rể đều không nhìn thấy gì, nhưng chú rể vẫn nhờ người cuốn đầy lụa điều lên chiếc xe và đầu con bò, như vậy cho giống đám cưới.

Khi cô dâu vừa về nhà chồng, chú rể dắt tay vợ rà mò từ nhà trên xuống nhà bếp, khắp lượt các ngóc ngách trong gia đình. Rồi cũng từ đó, suốt hơn nửa thế kỷ, trong cái thôn nghèo chẳng mấy ai biết đến ấy, dù trời mưa hay nắng, người ta luôn nhìn thấy họ tay trong tay, lẳng lặng cùng nhau làm mọi việc.

Có lẽ trong tất cả công việc thì khó nhất vẫn là múc nước từ giếng lên. Lần nào cũng thế, hai người họ đều dắt nhau đi. Người vợ sờ thấy cây gỗ ở cạnh giếng, một tay ôm chặt cây, còn tay kia níu chặt bàn tay chồng. Người chồng quỳ trên sàn giếng thả gầu xuống múc, kéo nước lên.

Có người nhìn thấy họ múc nước khó khăn ngỏ ý muốn giúp nhưng hai vợ chồng đều cảm ơn rồi từ chối. Họ bảo:

– “Các ông bà giúp được chúng tôi một lần, nhưng không giúp được chúng tôi một đời”.

Cứ như thế, hai vợ chồng luôn tay dắt tay nhau đi lấy nước cho đến khi đứa con đầu lòng có thể gánh được một gánh nước.

Dân làng đều cảm thấy lạ lùng. Trong thôn cũng có nhiều trai gái trẻ từng vì đất trơn mà trượt chân ngã xuống giếng, nhưng đôi vợ chồng mù chưa lần nào té ngã. Càng lạ lùng hơn, dù không thể nhìn thấy nhưng vợ chồng họ vẫn có thể tìm ra nhau trong đám đông đang nói chuyện ồn ào.

Người chồng là một người thổi kèn trong ban nhạc ở thôn quê. Ông thường đến các đám cưới thổi những bài: “Trăm con chim phượng hoàng”, “niềm vui đầy nhà”… Dù đi thổi kèn ở đâu, ông cũng có một yêu cầu, để người vợ mù của ông đi cùng. Ông nói, để vợ ở nhà một mình, ông không an tâm.

Mỗi khi tiếng kèn của người chồng cất lên, người vợ ngồi bên rất chăm chú nghe. Dường như những giai điệu ấy đều là ông thổi riêng cho bà. Người ta bảo, những lúc ấy, khuôn mặt người vợ mù thường đỏ ửng lên, khiến ai nấy đều cảm thấy người phụ nữ đang ngồi lặng lẽ kia xinh đẹp biết nhường nào.

Sau này, khi hai vợ chồng đều đã già và không cần đi ra ngoài nữa, họ bắt đầu trồng hoa trong sân nhà. Dù chẳng thể nhìn thấy được những đoá hoa tươi rực rỡ mình trồng lên, nhưng ông bà đều rất hạnh phúc mỗi khi đến mùa hoa nở.

Những người con của ông bà từng hỏi bố mẹ:

– “Nếu ông trời dành cho bố mẹ một cơ hội, liệu bố mẹ có muốn nhìn nhau bằng mắt không?”

Ông tự hào nói:

– “Dắt tay nhau một đời, có bao nhiêu đường vân trong lòng bàn tay mẹ con, đều đã in trong trái tim bố. Bố chưa từng trông thấy người đẹp nhất. Trong trái tim bố thì mẹ con là người đẹp hơn cả. Cần mắt để làm gì? Mắt là thứ tham lam nhất trần đời, nhìn cái gì cũng đánh giá tốt hay xấu, xinh hay không xinh; nhìn cái gì hay là muốn có cái đó. Trên mặt người ta có một vết sẹo cũng có thể để trong tim suốt đời.”

Tim sáng hơn mắt. Nó là sáng nhất, thật nhất!

Còn bà thì trả lời:

– “Người ta nhìn người bằng mắt, bố mẹ nhìn người bằng trái tim. Tim sáng hơn mắt – thật.”

Sưu tầm

            From: TU-PHUNG

Chiếc Ba Lô Để Lại – Truyện Ngắn – Nguyễn Văn Sâm

Van Pham

Truyện Ngắn – Nguyễn Văn Sâm

***

Chiếc Ba Lô Để Lại

1.

Sau cơn mưa, đường ngập linh láng như biển. Chiếc xe 14 chỗ ngồi của chúng tôi vừa lội vừa thở phì phò, xém tắt thở nhiều lần mới thoát được vùng ‘biển hồ’ Minh Phụng để quẹo vô đường 3 Tháng Hai. Khúc nầy tương đối ít ngập, chỉ tới nửa bánh, xe cộ vì vậy cũng nhiều hơn. Nước không còn tạt vũ bão ra hai bên hông như trước mà phóng ra với vẻ hiền thục dễ thương.

Sau thời gian đụt mưa thiên hạ gấp về, nhiều anh vọt lẹ, lắm khi xẹt qua đầu xe lớn đương ngon trớn mà coi như không, khiến anh tài xế lâu lâu lại chắt lưỡi lắc đầu. Bỗng nhiên có tiếng thắng mạnh. Mọi người bị giựt ngược, tỉnh ngủ. Tài xế mím môi, la lớn:

‘Khiến!’

Rồi anh xuống giọng như nói với mình:

– ‘Không mau chưn mau cẳng thì bà hú nó rồi!’

Hành khách trong xe nhớn nhác ngó nhau. Hai ba người đàn bà đưa tay vuốt ngực. Chiếc xe gia tốc, chồm tới, cố gắng bắt kịp người thanh niên phóng bạt mạng kia. Đèn đường bật lên đỏ. Cả hai đậu song song chờ. Tài xế quay cửa kiếng xuống, chồm đầu ra ngoài, phun nước miếng cái phẹt xuống đường, nói lớn với kẻ làm anh giựt mình hồi nãy:

– ‘Mầy đứng lại cho tao lạy mầy mấy cái chớ mầy chạy kiểu đó chắc tao chết vì đứng tim. Mầy tội nghiệp tao với chớ! Tao đâu có muốn vô tù đâu!’

Người thanh niên nhăn răng cười rồi chỉ chờ đèn đường bên kia vừa bật qua màu vàng là phóng thẳng bất kể những chiếc chót của làn lưu thông ngược chiều chưa qua hết khoảng đường trước mặt.

Tôi cười thầm. Anh tài xế nầy nói chuyện có văn hóa giao thông ghê. Chẳng bù với tháng trước tôi ngồi trên xe buýt, cũng trường hợp tương tợ, tên nhóc tì phụ xế kiêm bán vé đã ló đầu ra ĐM lia chia rồi tuyên bố một câu xanh dờn:

– ‘Mầy muốn tự tử thì về nhà mà tự tử, ngon thì vô đồn công an mà tự tử. Mầy nên nhớ mạng mầy chỉ có ba chục triệu thôi không hơn đâu.’

Không khí im lặng nãy giờ trở nên sôi động bằng những lời bàn tán chung quanh chuyện chạy ẩu của xe nầy xe kia. Anh tài xế nói lớn:

– ‘Làm nghề nầy thấy cái chết của thiên hạ quá thường nên nhàm luôn, trở thành vô cảm trước máu me. Chết vì chạy ẩu xị, chết vì do xe lớn lấn đường, do tài xế mệt mỏi, xỉn xay, ngáo đá, hay do đường xá xấu hư làm lạc tay lái… Muôn ngàn lý do, kề tới mai chưa hết!.’

Tôi lên tiếng cho vui:

– ‘Chết vì tài xế mua bằng nữa đó cha nội. Học ba xí ba tú, lái chưa rành, mót tiền quá chạy đi mua bằng, lên xe ngồi điều khiển mà không hiểu luật lại vụng về nên thường làm chết thiên hạ rồi bỏ xe lẫn trốn… chuyện nầy xảy ra hà rầm.’

Anh tài xế dễ thương tuy nghe nói đụng chạm tới giới của mình nhưng vẫn làm thinh. Tiếng ai đó, giọng của người đứng tuổi:

– ‘Thét rồi hết muốn ra đường. Sợ quá! Những cái chết nát thây không báo trước. Còn hơn là ngày xưa đi hành quân hay nhảy toán. Đời sống bây giờ thiệt là bất an!’

Không khí trong xe tới đây thì lắng xuống, ai nấy theo đuổi tư tưởng mình. Khi xe quẹo vô đường Nguyễn Kim thì người bạn tôi nói vọng ra sau:

‘Nếu chừng mờ mờ sáng đi tới đây, góc Nhật Tảo và Nguyễn Kim nầy, dưới gốc cây dầu bự chảng bên tay trái, thì sẽ gặp một người đàn ông còm cõi đứng phụ vợ bán bánh giò. Đó là người bạn lính trước đây cùng đơn vị của tôi ở Pleiku. Anh ta tên Thanh, bị lựu nổ mất nửa bàn tay mặt, đương chờ giải ngũ thì đứt phim. Lãnh lịch hết gần chục có đầu. Nay gặp lại bạn bè xưa nhiều khi anh làm lơ hay ngồi cho có mặt, thường ngó mông lung. Lạ lắm!’

Tôi ngạc nhiên hỏi lại vì cái chép miệng sau khi xuống giọng của bạn:

– ‘Chục có đầu sao không đi H.O. mà ở lại cho cực thân.’

– ‘Vậy đó!’

Tôi không biết gì thêm từ hai tiếng trả lời gọn lỏn kiểu miền Tây của bạn nhưng biết chắc chắn rằng người đàn ông phụ vợ bán bánh kia là người đặc biệt. Và tôi thấy mình cần phải tìm hiểu anh ta.

Vậy mà sau gần cả tháng tôi mới làm thân được với Thanh. Cũng nên kể ra đây lần gặp gỡ của tôi với Thanh.

2.

Sáu giờ sáng trời còn lờ mờ nhưng thành phố đã thức. Những người lớn tuổi đi bán giấy số bắt đầu đổ xô ra đường. Mấy chiếc xe bán thức ăn nầy nọ đã được đẩy ra vị trí và đốt lò. Tôi thay quần sọt ra đi tới chỗ người bạn tôi chỉ hôm nọ và ngồi xuống một cái ghế nhỏ không thể nhỏ hơn để kế bên hai xửng bánh bao bánh giò của cặp vợ chồng nầy. Người vợ luôn tay lấy bánh bỏ vô bao xốp trao cho khách với nụ cười giao tế. Người chồng lãnh nhiệm vụ thâu tiền. Nụ cười cũng có trao đổi với khách nhưng hơi gượng gạo.

Tiếng cám ơn luôn luôn thốt ra mỗi khi anh hoàn thành một dịch vụ.

Ngồi câu giờ cố ăn hết một cái bánh bao và một cái bánh giò nóng, tôi liếc chừng chừng quan sát con người đặc biệt kia.

Hình như anh ta cũng bắt thóp được ý định của tôi nên thỉnh thoảng đưa mắt ngó. Tôi phóng ra con bài ngoại giao bằng nụ cười và cả cái nheo mắt nhưng anh cố tình làm lơ. Ăn xong ý chừng đã ngồi hơi lâu tôi mua thêm một cặp bánh nữa và đưa cho anh tờ giấy nửa triệu, với câu nói nhỏ:

– ‘Anh khỏi thối, mình xin phép được chia sẻ với anh.’

Tôi nhận được câu trả lời lạnh băng như là người đối thoại cố tình làm cho mình tức giận:

– ‘Chúng tôi buôn bán, không ăn xin! Anh cầm tiền thối.’

Tôi vớt vát:

– ‘Mình cùng cảnh ngộ ngày trước’, tôi thấy mình hay ho tận mạng khi đem ra xài mấy chữ nầy, vừa nói vừa ren rén ngó mau về bàn tay phân nửa của anh ám hiệu rằng cùng là cựu quân nhân. ‘Bây giờ khá hơn anh nên xin chia sẻ. Anh nhận để mua quà cho các cháu.’

Người bán hàng đẩy mạnh tay tôi ra với số tiền thối lại, quyết liệt:

– ‘Chúng tôi không có con. Xin lỗi anh. Anh cầm. Tôi còn phải thối tiền các khách khác.’

Thế mà tôi vẫn kiên nhẫn lập lại lời yêu cầu nầy hai lần tới sau đó nữa. Lần thứ ba thì anh chắt lưỡi, bỏ tiền thối vô xấp tiền anh cầm. Chắc là lần nầy nhờ tôi nhắc tên người bạn chung. Tôi ngồi nán lại để anh dãn khách, nói vài ba câu vô thưởng vô phạt rồi ra về. Hai bên nói chuyện tâm tình bên mấy ly trà nóng một cách tự nhiên những lần sau đó…

3.

Tôi ra trường với lon Thiếu Úy lúc 24 tuổi, tình nguyện vô binh chủng cọp ba đầu rằn. Thời chiến chinh, mỗi người làm hết bổn phận mình trong chức vụ mà xã hội phân công, cách nầy hay cách khác, đó là điều bắt buộc. Cam đảm hay hèn nhát gì cũng không bằng hên xui: bà độ hay bà xô vô chỗ tử. Phải giữ vững tinh thần, lương thiện và không nghĩ đến cái chết mới sống đúng nghĩa người trai. Hơn một năm sau khi ra trường tôi về tiểu đoàn sau khi lên Trung Úy.

Những lúc rảnh rỗi, ngó lại anh em dưới quyền trong đơn vị, so sánh với cuộc sống lạc điệu của hậu phương, tôi cũng văng tục thầm. Mẹ ơi, hậu phương làm mình giận muốn nổi cơn điên. Cho nên binh sĩ dưới quyền, tôi thương hết biết. Nhiều đứa đi phép về trễ vài ba ngày tôi cũng nạt nộ để tụi nó không lờn nhưng báo cáo hay làm gì đó nặng hơn thì không.

Cầm đầu phải làm gương, tôi xông vô nguy hiểm coi như đạn có bổn phận tránh mình. Cũng làm thơ hào hùng kiểu Hồ trường: Ta xông pha hề, trận mạc. Coi tử sinh hề, cỏ rác dưới chân. Thỉnh thoảng hớp ngụm rượu của đàn em rồi sảng khoái ngâm nga tử sinh hề, cỏ rác… vui đời lính, thương đồng đội, quên mình đương ở tuổi cần có bên mình một bóng hồng…

Trong trận Hạ Lào năm đó, Tiểu đoàn tụi tôi bị tụi nó cầm chưn. Được bỏ thêm để giải vây cho đồng đội, nhưng chúng tôi bị lún. Chúng pháo kích ngày đêm nhưng tấn công lần nào cũng bị tiêu diệt trọn. Bên mình cũng hao bộn do mỗi lần một ít. Tôi được lịnh là sáng mai lúc trời hơi tan sương mù thì trực thăng bốc, ưu tiên thương binh.

Vậy mà chuyện đau lòng xảy ra đêm đó.

Thằng Tánh trung sĩ thường trực, đệ tử ruột của tôi bị nạn. Cái thằng cũng trí thức lắm, nó rớt Tú Tài nên đi Trung sĩ. Khuya tôi đương thiu thiu ngủ sau ba ngày trắng dờ con mắt thì nghe báo cáo Tánh bị đạn nặng lắm. Tôi nói nó ngủ trong hầm mà bị đạn cái củ c. gì. Nãy giờ có trái nào nổ gần đâu.

Thiệt ra thì khuya thằng con bò ra ngoài đi tiểu. Miểng nhỏ pháo kích từ đâu bay ra cắt đứt mạch máu chủ ở háng.

Tôi tới thì anh em đương xúm bên nó, lo lắng. Quân y cố hết sức cầm máu. Thằng Tánh thấy tôi thì mắt sáng lên nói thiệt lẹ, rõ ràng:

‘Em không sao đâu Trung Úy. Chuyện nhỏ! Sẵn dịp lên trực thăng về thăm vợ luôn. Con vợ em đương có bầu ba tháng. Chắc nó cũng nhớ em.’

Tôi đuổi mấy đứa không có phận sự ra chỗ khác. An ủi nó. Nó cứ lập đi lập lại hoài điệp khúc ‘không sao đâu là không sao đâu’. Bác sĩ Quân Y ngó tôi với cặp mắt buồn, nói thiệt nhỏ trong khi thằng Tánh vẫn nói không sao đâu:

‘Không xong, máu ra nhiều quá, vết thương lớn không bịt được.’

Nó thấy mặt tôi buồn chắc là hiểu được điều chúng tôi trao đổi nên trở giọng:

‘Em lạnh quá Trung Úy! Có bề gì thì Trung Úy mang ba-lô em về cho bà xã em. Bả tên Trinh, địa chỉ ở trong đó. Tiền lương tháng nầy với phần còn lại từ trước cũng mấy ngàn. Nó cấn thai được ba tháng. Trung Úy giúp đỡ nó với con em giùm. Tụi em đồng ý đặt tên con là Trần Trinh Thảo Tánh. T tứ thừa đó Trung Úy. Cái tên tụi em nghĩ nát óc mới đặt được đó Trung Úy.’

Thằng Thạch Buôn, từ xa diễu dở bằng mấy tiếng ‘Nôm luôn! Hốt hụi chót!’ Tôi đứng rột dậy, lên cò súng quát lớn: ‘Mầy nói lại một lần nữa đi!’

Thạch Buôn lạy như tế sao rồi chuồn thẳng.

Tôi cởi áo trận đắp cho Tánh. Nó run lập cập than lạnh liên hồi. Hai tay tôi nắm hai bàn tay lạnh ngắt của nó nói: Không sao đâu để anh đem ba-lô về cho. Mà chắc không cần nữa, em lo được chuyện đó. Dễ mà! Nó nhắm mắt thì thào: ‘Coi tử sinh cỏ rác dưới chân…’ Tôi vuốt mắt nó, đứng dậy chùi nước mắt của mình. Chúng tôi ở kế nhau cũng hơn một năm. Mến tay mến chưn. Nó đoán biết ý của tôi, không bao giờ làm trái, cũng không sa đà trong chuyện cờ bạc, gái gú mỗi khi ra thị xã…

Đạn trung liên của địch bắn liên hồi nhưng chiếc trực thăng bốc quân điêu luyện luồn lách cũng hạ xuống an toàn. Chừng chục thương binh được di chuyển lên sàn phi cơ lẹ làng không thể tưởng. Viên Trung Úy trách nhiệm ra lịnh cho những ai lên trước lên sau sắp hàng thứ tự. Cuối cùng khi phi cơ vừa nhấc mình lên thì cũng là lúc ông chạy ra cố gắng cho phần mình.

Cái ba lô nặng làm ông chạy chậm, gió phần phật từ cánh quạt gần như đuổi ông ra xa. Cuối cùng trong lúc gần hụt thì hai tay giơ lên của ông được hai binh sĩ nào đó trên phi cơ chụp dính.

Phi cơ bốc lên cao, khỏi ngọn cây. Đạn bắn chéo chéo bên tai và gió thổi vù vù. Viên Trung Úy thấy mình càng lúc càng tuột ra khỏi tay người nắm. Cái chết đã cận kề. Bỗng nhiên ông thấy mình được nắm vững, thân mình ông với cái ba lô trên vai treo tòn teng song song với càng trực thăng. Một người thương binh nào đó đã cố nhoài mình ra nắm được hai cái quai đeo của ba lô. Chắc chắn.

Mọi người reo hò khi viên Trung Úy được kéo lọt vô sàn. Bên ngoài đạn vẫn vẽ những lằn đỏ cong cong. Tiếng người phi công nói:

‘Anh may mắn cùng mình, những trường hợp như vừa rồi một trăm phần trăm là rớt xuống.’

Viên Trung Úy lột ba lô ra, cúi xuống vỗ vỗ, nói trong sự ngạc nhiên của những người không biết chuyện Trung sĩ Tánh:

‘Cám ơn em đã cứu anh, anh sẽ làm tròn lời hứa… chắc chắn như đinh đóng cột.’

Tôi không thể nào chịu nổi cảnh người vợ khóc chồng. Cô ta ngã xuống như cái bị rách ai đó liệng xuống đất, đầu úp lên cái ba-lô, hai tay ôm choàng như ôm người tình.

Đau lòng như xé ruột tôi muốn bỏ đi nhưng nhà cô ta đơn chiếc quá, chỉ có một mẹ già, bà đương đứng xơ rớ với cặp mắt đỏ hoe, không biết thương cho số phần con cháu mình hay thương thằng rể vắn số. Chừng một giờ sau tôi kiếu, đi chập choạng như về từ đám tang người em ruột thịt của mình, không còn nhớ mình lang thang ngoài đường đã bao lâu.

4.

Tôi trở lại căn nhà đó chừng năm lần nữa mỗi khi về phép. Lần nào cũng vậy, tôi cố tình ngồi lại trong thời gian thiệt ngắn. Tôi sợ tình cảm trai gái nẩy nở. Mọi chuyện rồi không biết sẽ về đâu. Đúng hay sai. Con bé T tứ thừa học càng ngày càng giỏi. Mẹ bé cho biết cha bé ngày trước đùa là nếu anh hy sinh thì bất cứ giá nào em cũng xin cho bé vô trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Tôi có đến đó hỏi thì được biết phải chờ cho bé xong Tiểu Học mới được. Trường chỉ bắt đầu bằng lớp Sáu thôi.

Rồi tôi bị thương ở bàn tay nầy. Chưa kịp báo tin cho ai thì phải đi gỡ lịch. Trong thời gian dài tôi tập sinh tồn bằng cách quên hết mọi chuyện bên ngoài, nhắm mắt trước những bất công và vô lý, tập quên mình là ai.

Khi được thả ra thì biết bao nhiêu chuyện đổi thay đã ụp xuống vùng đất thua trận. Nhà cô ta đã đổi chủ hai ba lần. Không ai biết cái gia đình ba người đàn bà ba thế hệ đó trôi dạt về đâu. Ai cô thế mà ở yên được với chánh sách dãn dân vô lý trong thập niên đầu họ từ rừng chui ra?

Nhiều khi ngủ tôi chiêm bao thấy lại cảnh thằng Tánh nói ‘Em lạnh quá’ rồi i ỉ ngâm nga ‘Coi tử sanh hề, cỏ rác dưới chân… Cảnh nầy đan chéo với cảnh cái bàn thờ đơn sơ có tấm hình nó cười, dưới chưn bàn thờ là người đàn bà tóc tai rũ rượi ngồi khóc, kế bên bàn thờ là cái ghế cao cẳng có đặt đứng cái ba lô của nó. Cái ba lô đã cứu mạng tôi. Cái ba lô tượng trưng cho tình yêu của nó và gợi lên mặc cảm của tôi về sự không làm tròn lời hứa. Tôi thấy mình như có lỗi với Tánh và với con bé T tứ thừa.

Đó cũng là một lý do khiến tôi không góp đơn ra đi theo dạng H.O. Lý do khác là tôi muốn chứng kiến tận mắt coi người ta đọa đày đất nước nầy tới nước nào. Tôi không phải là người được đào tạo để làm theo cách thế của bất kỳ ai khác dầu cho họ là đám đông khôn khéo tới mức nào đi nữa, tôi có hệ thống giá trị của riêng mình. Và tôi theo nó tận cùng…

Tuổi Già Nghĩ Gì? Chuyện phiếm – PHẠM THÀNH CHÂU

Tuổi Già Nghĩ Gì? Chuyện phiếm

Tác giả: PHẠM THÀNH CHÂU

Mấy ông bạn già, gặp nhau là hỏi “Sao? Khỏe không?”. Có ông trả lời “Vẫn như tuổi đôi mươi!” – “Ồ! Sao ông hay quá vậy?” – “Cũng bình thường thôi. Ở tuổi hai mươi, tôi không nhấc nổi 20 kí lô. Bây giờ tôi cũng không nhấc nổi 20 kí lô”.

***

Bài này viết về những suy nghĩ của bọn già lẩm cẩm chúng tôi. Đa số trong chúng tôi, ở thời điểm này (2022) vốn là cựu quân nhân, công chức, qua Mỹ theo chương trình nhân đạo (HO) Đã một thời là (quan quyền) rường cột của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã trải qua hàng chục năm tù Cộng Sản nên đầu óc không giống ai. Các bạn trẻ và những vị lớn tuổi nhưng còn sáng suốt, thông thái, xin đừng để mắt đến bài này, vì sẽ bị bực mình mà thở dài “Quả thật, càng già suy nghĩ càng lung tung, toàn là sản phẩm của tưởng tượng, chuyện hồn ma bóng quế, chưa từng nghe ai nói. Thể chất và tâm trí của mấy ông già này đã rã rệu, “mơ màng” rồi, chỉ đáng cho vào nhà bảo tàng để chờ phế thải”.

Nhưng quí vị có biết. Ngày xưa, ở Việt Nam, nơi thôn quê, người cao tuổi rất được kính trọng. Họ là quyển tự điển sống, nhờ đã trải qua bao biến động của thời cuộc, tích lũy bao kinh nghiệm trong suốt một đời người. Ngày đó, mỗi thôn làng là một ốc đảo trong lũy tre xanh, như một quốc gia bị cô lập, không giao tiếp với bên ngoài nên khi có biến cố hay tranh chấp giữa các tổ chức hay cá nhân, ban hội tề (lãnh đạo của làng) đem “Hương ước” (lệ làng) ra áp dụng rồi nhờ những “Lão làng” (Các bộ tộc miền núi gọi là Già làng) phán quyết. Để ổn định chính trị, triều đình thường tôn trọng Hương ước khi phân xử nên mới có câu “Phép vua thua lệ làng”. Thời trước, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, con người thường chết sớm, cho nên ai sống đến năm mươi tuổi thì được xem là Lộc Trời ban cho tuổi thọ, gọi là “Thiên tước” (Tước lộc Trời ban. “Thưa cụ. Năm nay Thiên tước cụ được bao nhiêu?”). Khi được tôn lên “Lão làng” thì được ngồi “mâm trên”, là nơi tôn quí trong các buổi hội hè đình đám.

Các quan, ngày xưa, hưu trí về lại nơi bản quán, rất được trọng vọng vì là người lớn tuổi, trí thức, đã từng làm quan “Phụ mẫu chi dân”. Địa phương rất hãnh diện có được những vị hưu quan đó trong làng, cả đến dòng họ cũng được thơm lây. Người ta gọi đó là “Nhân tước” (tước lộc vua ban). Các vị hưu quan nầy thông hiểu luật lệ, thường là cố vấn của ban hội tề. Các vị còn đảm trách việc dạy chữ nghĩa, bồi đắp kiến thức, giáo dục cho tuổi trẻ hiểu đạo lý của thánh hiền. Chúng là thành phần tinh hoa sẽ ra ngoài xã hội, ganh đua với đời. “Tiến vi quan, thối vi sư”. Thôn quê rất quí trọng người đỗ đạt. Có những làng, dân trí thấp vì nghèo khó, ít được học hành, nên trong làng có người chỉ đậu tú tài (còn gọi là sinh đồ, trong kỳ thi hương) cũng được làng đem võng lọng, long trọng đón rước.

Thời nay, người già không còn được coi trọng. Các ông (tù cải tạo) thường yểu mệnh, chết trước quí bà cùng tuổi. Ở hải ngoại, trong gia đình, vợ chồng đều về hưu, con cái đã trưởng thành, có gia đình riêng, chỉ còn lại ông bà già, lại thêm Covid – 19, người già chết như rạ, không đi đâu được, mà cũng chẳng cần nhau như trước đây, nên chán nản, không muốn nhìn mặt nhau. Lũ con được ăn học nên người, làm nhiều lương, chê cha (đi HO, đem chúng qua) ngày trước không biết tiếng Mỹ, làm lương chết đói, (để nuôi chúng) nay đã lẩm cẩm, nên coi thường, mà người già rất dễ bị tổn thương. Đó là ở nhà của mình. Nếu ở chung với con thì thành cái gai trước mắt chúng, mong thời gian đến đem ông, bà đi cho sớm

Lớn tuổi, bà càng khó tính, xét nét, phê bình thì ông càng phớt lờ, vợ nói gì cũng chẳng để vào tai. (Hơn thua gì với vợ con!) Vợ thêm bực tức, xúc phạm, nặng lời. Chồng rút vào im lặng. Vợ cũng im lặng. Có hỏi thì trả lời nhát gừng, như sủa! Họ sống âm thầm, tự lo cho bản thân. Các ông thường nhiều bịnh. Khi bịnh nặng, nằm một chỗ, mọi sinh hoạt phải nhờ đến nhân viên xã hội, vợ có phụ tay vào thì mặt nặng như chì. Có ông, bực mình, bỏ nhà đi biệt. Nhiều ông bị ung thư, vợ con chẳng biết, bịnh nhân lặng lẽ chịu đựng, vào bịnh viện để rồi được đưa qua nhà xác. Dĩ nhiên, đây chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Nhưng vì sao nên nông nỗi này? Nguyên nhân sâu xa là, trước đây, một trong hai người, hoặc có thể cả hai đã vi phạm ‘Nghĩa vụ chung thủy’ trong cuộc sống vợ chồng, đó là tội ngoại tình. Lớn tuổi hay quên, nhưng chuyện xưa lại nhớ rất rõ, nhất là chuyện người kia đã có lần phản bội mình. Nó như cây đinh đã đóng vào vách, cây đinh có nhổ đi, lỗ đinh vẫn còn, như một ám ảnh suốt đời. (Người đàn bà tha thứ nhưng không hề quên, người đàn ông không tha thứ nhưng lại hay quên!). Nó âm ỷ như than hồng dưới đống tro tàn, không thể dập tắt được! Thỉnh thoảng, hễ có xích mích là bà đem chuyện xưa ra đay nghiến, ông thì nhắc lại để mỉa mai.

Có trường hợp, cả hai vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau dù dĩ vãng có thế nào đi nữa. Đó là những đôi “rỗ rá cạp lại”. Nghĩa là họ đã có cuộc tình hoặc gia đình tan vỡ trước khi đến với nhau. Làm sao trách được những gì đã xảy ra của người kia mà trong đó mình không hề can dự đến? Miễn là họ biết chôn những kỷ niệm đẹp đẽ hay đau thương vào nấm mồ dĩ vãng. Vĩnh viễn quên đi. Không nhắc đến bao giờ!

Cũng có trường hợp, vì sĩ diện, sợ dư luận, họ thỏa thuận ngầm là xem nhau như bạn, nên nhìn bề ngoài, họ rất hạnh phúc. Đã là bạn thì không nhắc lại, không thắc mắc chuyện quá khứ để làm phiền nhau.

Vợ chồng trẻ Việt ở hải ngoại không bao giờ chịu đựng nhau, gặp trục trặc là chia tay liền, nhất là khi chưa có con cái.

Cũng không phải tất cả những đôi vợ chồng già đều gặp khó khăn khi sống với nhau. Nếu vợ chồng đã chung thủy với nhau thì thương yêu nhau rất mực. Họ sống bằng kỷ niệm. Họ thường nhắc lại chuyện xưa cho bạn bè, con cháu nghe từ lúc họ gặp nhau, yêu nhau, cho đến khi về sống với nhau. Họ âu yếm, săn sóc người bạn đời từng chút một, không rời nhau nửa bước. Nhà chỉ có hai ông bà già, thỉnh thoảng, bà làm nũng, giận hờn như thời mới yêu nhau. Ông dỗ dành như với em bé, tìm cách cho bà cười. Người ngoài nhìn vào, rất xúc động với hạnh phúc cuối đời của họ. Khi một người ra đi, người kia bơ vơ, nhớ nhung, suy sụp. Điển hình như cặp nhạc sĩ Văn Phụng và ca sĩ Châu Hà. Khi Văn Phụng đi vào thiên thu, Châu Hà thương nhớ chồng đến nỗi bị khủng hoảng tinh thần hơn ba năm. Thường thì sau một thời gian ngắn, người còn lại cũng đi theo với người bạn đời vào cõi hư vô.

Trở lại chuyện mấy ông già. Nếu còn đi lại được, họ thường rủ nhau ra quán cà phê, khề khà tán dóc.

Bạn biết họ thường nói về chuyện gì không? Chuyện bịnh hoạn và lúc từ giả cõi đời. Đó là chuyện đáng sợ mà nhiều ông bà già không dám nghĩ đến.

Bịnh hoạn thì mỗi ông có sẵn năm, bảy bịnh trong người. Trong nhóm bạn già chúng tôi, có một ông tự xưng mình là “Cửu bịnh thành lương y” (Có chín bịnh trong người nên thành thầy thuốc giỏi). Ai có bịnh gì, ông ta có đủ. Ông ta nói vanh vách nguyên nhân, cách chữa trị, thuốc men của từng bịnh. Ông khuyến cáo “Trước 1975, ở Việt Nam ta, khi bị bịnh nhẹ như ho, cảm, nhức đầu, sổ mũi… cứ ra tiệm thuốc tậy, (Có cả “Nhà thuốc gác” mở cửa 24/7) nói bịnh là dược sĩ bán cho mấy viên thuốc về uống, năm ba ngày mà không khỏi mới đi bác sĩ. Ở Mỹ các pharmacy cũng có các loại thuốc bán tự do, bày sẵn trên các kệ, mình bị sổ mũi, nhức đầu, nhức mỏi chân tay thì chọn thuốc mua về uống, năm ba hôm, không hết mới đi bác sĩ. Khi đi khám bịnh, nên mở Google, gõ tên bịnh, sẽ biết rõ mà khai cho chính xác với bác sĩ. Chỉ có mình mới biết được nguyên nhân, triệu chứng, bịnh nền, thuốc men đang uống để trình bày, bác sĩ mới tìm phương cứu chữa. Được toa thuốc cũng mở Google xem cho kỹ công dụng, cách uống thuốc, chỉ định, chống chỉ định… Bịnh quỉ có thuốc tiên. Đừng hoảng sợ khi mắc phải một bịnh mới, như đau cột sống, chẳng hạn. Đau khủng khiếp, tưởng chết đến nơi, nhưng chỉ uống vài viên Tylenol hoặc ibuprofen sẽ bớt ngay. Điều cần lưu ý là đau ngực, đau đầu thình lình thì gọi cấp cứu ngay. Không uống Aspirin, vì có thể đã bị vỡ mạch máu não, uống nó, máu loãng, ra nhiều, càng mau chết. Tôi không là bác sĩ, nói tào lao cho vui, đừng để bụng”. Bọn già chúng tôi, nghe vậy cũng yên tâm phần nào. Rồi thì ai cũng tặc lưỡi “Giày dép còn có số! Có ai không chết đâu?”

Nhưng rồi mấy ông lại phân vân. “Sau cái chết. Còn gì nữa?”

Thời may, chúng tôi vừa kết bạn được với một ông “Trên thông thiên văn, dưới thông địa lý”. Ông ta rành nhất là những chuyện không thể thấy được. Đó là những chuyện ma, chuyện siêu hình nên được chúng tôi gọi là nhà “Tâm Linh Học”. Hỏi gì, ông ta cũng giải thích được, (Làm sao biết đúng, sai? Chuyện tâm linh mà!) ông nói rất lưu loát, trơn tru như miệng có bôi mỡ.

Sau đây là mấy câu đối đáp giữa ông ta với mấy lão già chúng tôi.

Một buổi sáng mùa xuân, trong sân sau nhà, với ly cà phê, với hoa cỏ xanh tươi, chim hót véo von, người nào cũng vui vẻ, yêu đời, một ông bạn cao hứng hỏi nhà Tâm Linh Học.

– Tôi đọc trong Bồ Tùng Linh, có kể những chuyện về hồn ma của cây cỏ, của chồn, cáo và cả chuyện người chết hiện về với người sống. Ông có tin chuyện đó là thật không?

– Đó là những chuyện bịa đặt. Nhưng cách nay mấy trăm năm, dân trí chưa mở mang nên tin là thật. Ngày nay, nhờ khoa học, người ta có thể suy đoán rằng, từ cây cỏ cho đến súc vật đều có cái hồn của nó. Cây có sinh hồn. Thú vật có giác hồn. Con người có linh hồn.

– Sinh hồn là gì? Cây có sinh hồn là như thế nào? Tôi chưa từng nghe bao giờ.

– Nhà bác học Cleve Backster, là người phát minh ra máy dò nói dối (Lie Detector), kể rằng. Một hôm, ông cắm hai đầu dây của một điện kế (galvanometer) cực nhậy vào một cái lá to và dày của một cây cảnh, rồi ông làm như có ý định quẹt diêm để đốt chiếc lá đó. Đột nhiên, kim điện kế nhảy vọt lên. Lần khác, ông cũng gắn hai cực của máy đo vào lá nhưng chỉ nghĩ đến tưới nước cho cây, điện kế đứng yên. Như thế thực vật đã cảm nhận được ý nghĩ của người. Nó phản ứng vì sự sống của nó, có thể xem như nó có “Sinh hồn”.

Tôi hỏi.

– Tôi trồng hoa. Cả một vườn hoa rực rỡ. Sao có người cũng trồng hoa nhưng ít lâu là héo chết?

– Vì ông yêu thương hoa, để ý, chăm sóc, tưới bón, xem như con nên có giao cảm giữa người và hoa. Người yêu hoa, hoa yêu người. Nhiều người, có tâm sự buồn, thường chỉ thổ lộ với hoa. Phải “Yêu hoa”, chứ không chỉ “Thích hoa”. Thấy người ta trồng hoa đẹp, cũng mua về, săn sóc, ngắm nghía ít bữa rồi quên bẵng, chúng bơ vơ, tàn tạ, héo úa.

Ngày xưa, ở Việt Nam, khi chủ nhà chết, phải cột một giải khăn trắng như để tang cho cây cối trong vườn, cũng là cách báo tin cho chúng biết rằng chủ đã chết, đừng buồn! Cây sẽ hiểu, vì nếu không thấy chủ, cây sẽ khô héo rồi chết.

– Còn về súc vật thì sao? Giác hồn nó như thế nào?

– Người chủ nuôi con chó, người giúp việc cho ăn hằng ngày, xem là bổn phận chứ chẳng thương yêu gì nó. Người chủ không cho ăn nhưng khi đi làm về, con chó vui mừng đón chủ mà không thân thiện với người cho nó ăn. Nó biết chủ yêu thương nên quấn quýt với chủ.

Báo đăng, lúc 22 giờ ngày 3 tháng 1 năm 2022, trên xa lộ liên bang 89 ở Lebanon, thành phố New Hampshire, Mỹ, cảnh sát thấy một con chó, tưởng nó đi lạc, định đến bắt nhưng con chó chạy trước rồi dừng lại chờ. Nghĩ có chuyện gì xảy ra nên cảnh sát đi theo. Được một quãng xa, nó dẫn đến một hàng rào bị hư hại và một xe bán tải nát bét, nằm lật ngửa, có hai người bị thương nặng. Trực thăng đến chở vô bịnh viện, cứu sống. Con chó, tên Tinsley, đã cứu chủ nó. Súc vật cũng có hiểu biết (Giác hồn) nhưng kém hơn con người.

Tôi hỏi ông.

– Con người có số mệnh không?

– Khổng Tử bảo “Con người có số mệnh nhưng không nên đứng dưới bức tường sắp đổ”. Có câu chuyện về một người chưa đến số chết. Sáng ngày 15 tháng 11 năm 1884, bà Keyse bị phát hiện chết trên sàn phòng nhà bếp vì bị dao đâm. John Lee bị bắt và bị buộc tội giết người, bị kêu án treo cổ. Tháng giêng năm 1885, Lee được đưa vô phòng treo cổ. Khi cần gạt được kéo lên, cửa sập dưới chân tử tù không hoạt động. Lee được đưa qua phòng chờ. Chuyên viên đến sửa chửa, thử đạp, cửa sập vẫn mở. Lee lại được đưa vô phòng treo cổ, cần gạt được kéo, cửa sập vẫn không mở. Lee lại ra chờ. Chuyên viên lại tìm hiểu, thử kéo cần gạt, cửa sập vẫn mở. Lần thứ ba, Lee lại bước vào. Cửa sập lại không mở. Việc thi hành án bị ngưng lại. Cuối cùng, William Harcourt, bộ trưởng nội vụ Anh ra quyết định, đổi án tử hình thành chung thân.

22 năm sau, Lee được trả tự do.

Tôi lại hỏi.

– Vậy thì con người chết là do số trời đã định, phải không? Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki (năm 1945), hàng trăm nghìn người chết cũng là do số trời?

– Có một bài báo viết rằng, trước năm 1945, một ông thầy tướng bên Tàu, đi ngang qua hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, thấy khí sắc người dân nào cũng u ám, thành phố đầy sát khí. Ông về nước đăng báo với lời khuyên dân Tàu không nên đến hai thành phố đó. Có lẽ họ bị nạn “bất đắc kỳ tử”, giống như người bị tai nạn xe cộ, rơi máy bay, bị mìn bẩy, pháo kích… chết thình lình. Linh hồn họ không biết rằng mình đã chết nên không chịu rời khỏi xác (để siêu thoát vào cõi âm), mà thành ma, quỉ, lang thang, lẫn lộn trong cõi đời của người sống, kiếm ăn vào các dịp cúng kiếng, giỗ tết. Người ta bảo “Chó sủa ma”. Chó thấy được ma? Có thể lắm.

Tại sao có người mạnh khỏe lại chết sớm? Có người bịnh, nằm liệt cả chục năm mà vẫn sống?

– Là do di truyền (gene). Cha mẹ, ông bà bị bịnh gì thì con cháu có bịnh đó, cha mẹ mù, các con có thể mù. Họ sống đến bao nhiêu tuổi thì con cháu sống cỡ đó. Nếu dinh dưỡng đầy đủ, y tế tốt thì cộng thêm vài chục năm nữa mới chết. Vì thế, có những người trẻ, khỏe mạnh lại chết sớm, ngược lại, có người bị ung thư mấy mươi năm vẫn cứ sống bình thường, nhờ cái tuổi thọ di truyền của cha mẹ.

– Có nguyên nhân nào khác nữa không?

– Người mình thường nói “Hồn lìa khỏi xác” là chết. Trong kiếm hiệp Tàu, khi bị tung đòn “điểm huyệt” là đối phương chịu thua. Cơ thể con người, ngoài cấu trúc vật chất, còn có một cấu trúc tâm linh vô hình có thật, qua hệ thống huyệt đạo. Khi châm kim hoặc kích thích một huyệt đạo thì nó tác động lên cơ thể. Ví dụ Tây y dùng thuốc tê làm tê liệt các dây thần kinh rồi mới mổ xẻ. Đông y chỉ cần châm vào một số huyệt đạo là đủ. Tây y thử mổ chỗ huyệt đạo, vẫn không thấy gì khác lạ. Họ tin rằng, có một đời sống vô hình ẩn nấp đâu đó trong con người.

Khi ta nói “Tâm hồn” là nói. Trong “Quả tim” (tâm) mỗi người đều có một cái “Hồn” ẩn tàng trong đó. Khi cắt rời quả tim khỏi thân, tim và hồn vẫn sống tự lập được một thời gian. Trong quả tim có một định vị (cơ quan) tự điều hành nhịp đập của chính nó, gọi là “Tùng”. Nó như bình điện của hồn. “Tùng” hết điện, tim ngừng đập, và hồn rời khỏi xác, dù người đó vẫn mạnh khỏe, không cao áp huyết, cao mở hay tiểu đường. Nhiều người đang ngồi, gục chết, có người ngủ không thức dậy. Tây y gọi là “heart attack” (trụy tim). Ngược lại, có người bịnh nặng trong thời gian dài mà vẫn lây lất sống vì tim còn đập. Có một tài liệu y khoa nghiên cứu về trường hợp tim tự đập như sau “Cứ sau một khoảng thời gian nhất định, nút xoang nhĩ lại tự phát xung điện. Xung điện lan ra khắp cơ tâm nhĩ làm tâm nhĩ co, sau đó lan đến nhĩ thất, đến bó His rồi theo mạng Puôckin lan ra khắp cơ tâm thất làm tâm thất co…”. Nghĩa là quả tim tự nó có năng lượng cung cấp cho hệ thống kinh mạch (Kinh mạch không phải thần kinh và mạch máu!). Người sống có hồn và vía (phách). Linh hồn là sự sống của mỗi người. Tim ngừng đập, con người chết, hồn rời khỏi xác, đi vào cõi âm. Vía (Phách) tan theo với thân xác. Ông bà xưa chúng ta tin rằng. Xác chết chưa tan rã thì vía vẫn còn quanh quẩn bên xác. Trường hợp có người đi đường đứng lại xem một tai nạn hoặc đi viếng đám ma, nếu vía người chết hợp với vía người nào thì nó sẽ theo về nhà người đó. Vía ám vào người thành hai nhân cách, chuyện trò với nhau (ma nhập, lầm bầm với ma), lúc đầu hoang tưởng, sau đâm ra thù ghét người khác (Y học gọi là Tâm thần phân liệt). Dĩ nhiên, chỉ cần uống thuốc (củng cố hệ thần kinh) hoặc khi nào xác chết dưới mồ tan rã thì cái vía cũng tan theo. Cho nên người xưa nhắc chừng rằng. Khi đi viếng đám ma về, nhớ ghé vào nhà ai hoặc quán hàng, uống miếng nước hay mua món gì đó, vía người chết tưởng đã đến nhà, nó ở lại trong nhà đó mà không ám theo người kia nữa.

– Còn chuyện người chết sống lại, kể rằng hồn của họ bị người cõi âm đuổi về dương thế, có thật không?

– Tôi chưa chết đi sống lại nên không quả quyết điều gì. Nhưng có tờ báo thuật lại chuyện một người mù bẩm sinh sống lại, diễn tả sự việc theo cách riêng của anh ta, nhưng người nghe hiểu được, về những gì xảy ra lúc đó, như chuyện anh ta “thấy” bác sĩ, y tá đang cấp cứu xác anh ta, thấy người thân ngồi khóc trong phòng bên cạnh ra sao.

Bây giờ qua chuyện mấy ông bà già thường tự hỏi “Khi mình chết rồi, chuyện gì sẽ xảy ra?”

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

(Đến như nước chảy, như gió thoảng.

Không biết ta từ đâu đến, rồi về đâu?)

Hỏi nhà Tâm Linh Học.

– Như vậy, ông tin có linh hồn?

– Đa số các dân tộc tin rằng, con người có linh hồn. Việc mai táng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc ra đi của linh hồn. Thế nên mỗi quốc gia, mỗi tôn giáo, có những cách mai táng khác nhau. Người Ấn Độ đốt (hỏa táng) hoặc vất xác chết xuống sông Hằng (thủy táng), người Tây Tạng bằm xác chết cho chim kênh kênh ăn (thiên táng). Theo Hồi giáo. “Người chết không có quan tài, xác được bó vải, đặt nằm nghiêng về phía bên phải, đối mặt với Qibla (thánh địa Mecca)”. Người mình thì chôn hoặc thiêu.

– Người Việt mình chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Họ nghĩ về cái chết như thế nào?

– Nhìn chung, quan niệm về cuộc đời, sống, chết, người Trung Hoa, và cả người Việt nữa, chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo nhất là Phật giáo.

Về Đạo giáo (Lão giáo). Lão Tử không bàn đến Thượng Đế, linh hồn, thiên đàng hay địa ngục mà chỉ nói tổng quát rằng. Con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, cuối cùng lại trở về Đạo, hòa với Đạo “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được, không phải là đạo thường hằng vĩnh cửu. Tên mà có thể gọi ra được không phải là tên thường hằng bất biến). Nguồn gốc con người và vạn vật từ Đạo mà ra, và cuối cùng về với Đạo, hòa với Đạo. “Sống, chết là do khí tụ lại hay tan mà thôi” (Trang Tử).

Theo Nho giáo thì chết chỉ là hình hài, còn cái khí tinh anh lại về với chỗ sáng tỏ của vũ trụ. Đạo Nho chỉ quan tâm về những vấn đề nhân sinh, xiển dương phương châm “Kính nhi viễn chi” (kính trọng quỉ thần nhưng nên tránh xa), dụng đạo thần minh làm phương tiện giáo hóa mà không bàn về khía cạnh siêu hình. (Chưa biết rõ chuyện sống, sao biết được chuyện chết?)

Tôi giễu cợt.

– Ông tin rằng, người có linh hồn. Vậy theo ông, khi con người chết đi, linh hồn về đâu?

– Về cõi âm. Cõi của bóng tối. Khoa học khám phá ra rằng. Vũ trụ có hai thế giới. Thế giới của ánh sáng, là những gì chúng ta thấy được như các vì sao, các hành tinh, tinh vân… nửa kia là thế giới của bóng tối. Các “sinh vật linh hồn” này không còn là cơ thể vật chất nên sinh hoạt không cần ánh sáng. Họ vẫn thấy nhau, giao tiếp nhau bình thường trong xã hội cõi âm (âm phủ). Giống như khi ta ngủ, nhắm mắt mà vẫn mơ thầy rõ mọi sự vật. Khoa học đã tìm thấy “Lỗ Đen”. Nó hút (whirl) vật chất sáng vào bóng tối. Hiện nay Trung Cộng phóng vệ tinh nghiên cứu bề tối của mặt trăng, cũng có thể để tìm cái gì đó trong bóng tối?

Tôi lại hỏi.

– Tôn giáo có ảnh hưởng gì đối với linh hồn người chết?

– Lấy ví dụ thế nầy để phân biệt người theo một tôn giáo nào đó với những người thờ cúng ông bà. Sau 1975, có hai chương trình đi Mỹ. Người đi theo chương trình ODP thì có thân nhân bảo lãnh, ra phi trường đón về. Người đi HO không có thân nhân thì có các hội đoàn tôn giáo rước về. Tương tự như vậy. Người chết, (như đi HO) thì có đạo hữu (của tôn giáo mình) đón về. Còn người theo “Đạo ông bà” thì khi chết đã có thân nhân (quá cố) đến đón (như đi ODP). Nhiều người bịnh nặng, ngay ban ngày, cũng thấy cha mẹ, anh em (những người đã khuất) đứng chờ sẵn trước cửa.

Đừng bận tâm, khi nhắm mắt, ta về đâu? Một thế giới an bình vĩnh cửu, hạnh phúc vĩnh cửu, đầy yêu thương đang chờ đón. Không còn hận thù, khủng bố, chém giết, lừa lọc… Chỉ có tình yêu bao la.

Thời còn trẻ, chúng ta thường đi cắm trại. Tối đến, có lửa trại. Ngồi quanh đống lửa giữa trời đêm, cùng hát hò rồi bày trò diễn kịch, kể chuyện. Khi vở kịch hoặc chuyện kể vừa dứt, cả bọn vừa vỗ tay vừa hát “Hay hay quá là hay! Xin thưởng cho tràng pháo tay. (vỗ tay 3 cái, rồi hát tiếp) Hay hay quá là hay! Xin thưởng cho một nụ cười” (Ha, ha, ha!)

Đọc xong bài này, cũng xin bạn một tràng pháo tay và hát “Hay hay quá là hay!…”

Xin cám ơn nụ cười của bạn.

Phạm thành Châu

LỜI CUỐI CHO CUỘC TÌNH !

LỜI CUỐI CHO CUỘC TÌNH !

Chuyến xe cuối cùng sắp rời bến mà hai người già tóc bạc trắng vẫn dùng dằng bên nhau. Giọng bà nghẹn ngào.

– Anh vào trong đó nhớ giữ gìn sức khỏe, đừng làm việc cố sức nhé!

Ông buồn bã nắm bàn tay chai sần của bà.

– Em nhớ điều trị dứt bệnh ho, để lâu ngày phổi bị hỏng đó.

Hành khách ngồi trên xe nhìn xuống ai cũng nghĩ “vợ chồng già mà thương nhau quá, thật là hiếm có”

Nhưng thật ra họ không phải là vợ chồng.

30 năm về trước bà là cô giáo dạy trẻ góa bụa, một nách hai con thơ phải thuê quán để bán nước nuôi con, còn ông thì bị vợ chê nghèo bỏ đi theo người khác, để lại ba đứa con lít nhít cách nhau năm một. Ông thuê cái chòi cạnh quán nước của bà để sửa xe. Cùng khổ như nhau nên hôm nào nấu món ngon bà nói con gái lớn đưa qua cho mấy bố con, còn nhà bà có gì hỏng hóc là ông lại xắn tay áo lên sửa giùm. Vì quá hận người vợ cũ nên ông không thể mở lòng với bất cứ ai, nhưng dần dần lòng tốt của bà, sự chăm chỉ chịu khó của bà đã làm ông dịu lại. Thỉnh thoảng trong những giấc mơ của ông thấp thoáng bóng dáng duyên dáng, mặn mà của bà. Ngặt một nỗi họ nghèo quá và ai cũng mang gánh nặng to tướng trên vai với bao nhiêu nỗi niềm nên đành nhủ lòng chờ con lớn rồi tính. Sau khi đứa con gái lớn đi lấy chồng thì thằng út lấy được vợ giàu nó đưa bà đi mất. Cùng ở trong thành phố nhưng có khi vài tháng bà mới về lại chốn xưa thăm ông được. Con dâu bà đẻ dày, mới chục năm đã ba đứa. Mỗi lần ông ghé thăm thấy bà tất bật cơm nước, giặt giũ, chạy đuổi theo cháu đút từng muỗng cơm ông đau lòng lắm. Con dâu bà mỗi lần thấy ông đến thì đá thúng, đụng nia, khua bát đĩa loảng xoảng. Có lần ông nghe thấy nó vừa cười mỉa vừa hỏi bà:

Mẹ già rồi còn ham hố gì nữa?

Bà đứng cúi đầu như trẻ con phạm lỗi, nước mắt dân dấn. Ông muốn gào lên là ông bà đâu có ham hố gì, nhưng nếu có ông bên cạnh thì những khi bà ho như xé ruột, ông sẽ vỗ lưng cho bà bớt ho chứ không phải nằm vò võ một mình ho suốt đêm rồi sáng phải lo dậy sớm hầu hạ gia đình nó.

Ông thương bà lắm, thương người phụ nữ sống với ai cũng chân tình, có trước có sau như bát nước đầy. Biết bao lần ông rủ bà về sống với ông mà bà không đành bỏ mấy đứa cháu, rồi lại sợ thằng con đay nghiến. Nó bóng gió xa xôi rằng nếu bà đi với ông về già có đau ốm gì thì đừng trông chờ vào nó. Còn đứa con gái thì nói với bà, nhà chồng nó khó khăn, ưa soi mói lắm nên bà cứ ở với vợ chồng thằng em, cho chị em nó được yên thân.

Lần này ông đến báo với bà chỗ ở của ông bị giải tỏa, con gái ông lấy chồng trong Nam có mảnh vườn to lắm, biết bà thích trồng trọt, chăn nuôi nó nói ông đưa bà vào hai người già hủ hỉ với nhau.

Bà đau lắm, buồn lắm, 70 tuổi rồi chả còn biết sống được bao nhiêu năm nữa, nhưng bà không dám bước chân theo ông. Lần gặp này là lần cuối vì sau này Nam Bắc nghìn trùng xa cách.

Xe chạy rồi chỉ còn mình bà ôm gối ngồi trong sân, nước mắt giàn giụa. Ba mươi năm trước khi chồng bà mất sớm bà đã nghĩ rằng cuộc đời mình thế là hết. Nếu không có ông âm thầm giúp đỡ, chăm sóc, che chở cho bà suốt bao năm qua thì bà làm sao có thể lo cho các con chu đáo được.

Đời này, kiếp này bà thương ông nhiều lắm!

Đời này, kiếp này bà đành lỗi hẹn với ông!…

Chu Thị Hồng Hạnh

Cái Muỗng // Văn Quang

Cái Muỗng // Văn Quang

Nhà văn Văn Quang, cựu Trung Tá VNCH, từng là  Đài Phát Thanh Quân Đôi, mất sáng thứ ba, 3/15/2022, tại Saigon, thọ 89 tuổi.

Ông dân Quỳnh Côi, Thái Bình.  1954, vào Nam, thân lập thân.  Sau 4/1975, ông bị tù hơn 12 năm trong nhiều trại giam ngoài Bắc.  Bạn rất thân với nhà văn Hoàng Hải Thủy, được HHT yêu thương gọi là “Thuyền Trưởng Hai Tầu,” vì ông có hai vợ.  Ông từ chối không sang Mỹ theo diện HO, vì lý do gia đình.

Chúng ta thường nhớ về nhà văn Phan Lạc Phúc với một bút ký ngắn cuả ông. Đó là đoản văn “Người Tù Kiệt Xuất,” ca ngợi phong cách khẳng khái cuả Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện khi còn trong tù. Sau 1975, Văn Quang viết nhiều loạt phóng sự trong “Lẩm Cẩm Saigon Thiên Hạ Sự,” đăng trên nhiều báo hải ngoại.  Nhưng có một đoản văn rất cảm động mà ông viết cách đây khoảng 10-15 năm.  Hôm nay, để tưởng nhớ ông, xin kính mời các anh chị đọc đoạn truyện này – “Cái Muỗng.”

Thân kính

Nam Hà

***

Cái Muỗng // Văn Quang

Ảnh VĂN QUANG tại Sài Gòn năm 2011.

Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng khi ấy trong chúng tôi đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u miền Bắc. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, trên những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.

 

Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được vài cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra đóng vào.

Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả người tù đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ síu cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– hay bị đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.

Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.

Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chờ gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào những phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.

Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” mà trại đã quy định tù không được dùng.

Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự thô bạo của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.

Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được vài anh tù nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó lòi ra một vài cái “tội”. Ðội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Ði làm suốt ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.

Thời điểm “căng” thì vào tù phạm tội vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những vụ tù kết hợp thành tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.

Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người tù “chẳng còn có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.

Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng còn có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Ðôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “Tù Caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người tù chẳng có ai thăm nuôi.

Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người tù còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó và đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.

Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Ðó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Ðây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ Tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng tôi chẳng có gì để mất, hay cái vật tôi mất chẳng có gì quan trọng.

Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất với người tù chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu mới được ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.

Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tên người tôi đã gặp ở tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.

Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng bo bo ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.

Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, múc nước tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.

Ðây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.

Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, anh “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh, phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.

Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “Cậu Huyện Nhụ nằm ở đó”.

Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói anh là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.

Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở Tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ Huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ Huyện Nhụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.

Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ dãi hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…

Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi mới gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.

Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:

“Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”

Tôi nằn nì:

“Ðấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển. Nhưng tôi không cần, tôi chỉ cần cái muỗng thôi.”

Dực nhìn tôi nghi ngại:

“Mày giấu cái gì trong đó?”

Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó hắn gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.

“Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu cái gì trong nó được?”

Dực nửa đùa nửa thật:

“Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”

“Ðúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”

“Vậy sao mày chỉ đòi lấy lại cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”

Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn Tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng tôi sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng giam và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.

Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó, hay tôi cần cái muỗng để làm việc gì đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:

“Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng cho vào túi xách để tôi mang đi. Ðứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “Con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.

Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả con. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!

Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái tôi, bên những người thân yêu của tôi. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.

Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:

“Thôi được, nếu là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi cậu ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa kho vào mà tìm, nhưng có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.

Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.

Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải làm thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “Con có ở xa bố hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.

Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi vài ngày rồi bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng, khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn!

Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.

Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Ðó chính là mùa xuân của tôi.

Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.

Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò.

Anh bạn nhảy dù, la lên:

“Bộ ông điên sao?”

Tôi điên thật, tôi muốn mò tìm cái muỗng của tôi. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút, anh khom người xuống, thò một tay vào cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi cái muỗng. Ðôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:

“Tôi biết ông mất cái gì rồi. Tôi tìm được nó cho ông nè.”

Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi trở về, nhưng tôi chưa trả lại cái muỗng cho con gái tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, đã định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa một lần được gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu lập gia đình ở Miami, Florida.

Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới nó. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sài Gòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái tôi. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sài Gòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.

Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái Tình. Cái Tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi mạnh và sâu hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật  trên đời không gì có thể so sánh được.

Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 khi tôi được tin cháu lập gia đình. Nhưng nhiều lần muốn viết tôi cứ ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Ðúng là chuyện của người thì làm xong nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.

Văn Quang

Tuổi Già Mất Người Phối Ngẫu-Nguyễn Thị Phi Phượng (Việt Báo)

Tuổi Già Mất Người Phối Ngẫu

18/03/2022

 

Chương trình Việt Báo Viết Về Nước Mỹ khởi sự từ Tháng Năm năm 2000. Ngay trong những ngày đầu tiên đã có bài “Gia Đình Tôi Tới Mỹ” của Nguyễn Thị Phi Phượng. Tác giả ngày ấy vừa định cư Mỹ 4 tháng. Bài viết có in trong sách Viết Về Nước Mỹ, tuyển tập I, ấn hành lần thứ nhất tại California, tháng 11 năm 2000. Tác giả thắng giải đặc biệt 2017 và giải danh dự 2018. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.

 ***

Tôi biết:

Đất trời có bốn mùa: hết Xuân thì tới Hạ , rồi Thu và tới Đông …

Con người: có Sinh thì ắt có Tử…

Biết là một chuyện, chấp nhận và bằng lòng với quy luật đó là một chuyện khác.

Cho dù thế nào thì tôi cũng phải làm quen và tập sống với thực tế: cuộc đời của tôi đã thay đổi từ khi người chồng đáng kính của tôi đi xa. Anh đã sang qua một thế giới khác.

Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời…

Nhờ duyên lành, tôi được học Phật khi tôi còn ở bậc trung học đệ nhất cấp. Tôi rất lí thú nghe Pháp và thực tập theo cách sống Bi – Trí – Dũng của Phật từ lúc còn rất trẻ đó. Tôi biết, thông hiểu và chấp nhận sự vô thường của muôn loài.

Nhưng, khi chồng tôi nằm xuống vĩnh viễn, người bạn đời của tôi đã bỏ tôi, tôi mới chợt nhận ra bấy lâu nay tôi như con vẹt,  lập lại và nhìn mọi vật, có đó rồì mất đó – trong cái vô thường của đất trời – nó tự nhiên, nó nhẹ nhàng như tôi đang thở, nay, không phải như thế nữa. Với chính thực tế mất mát của bản thân, mọi suy nghĩ trước đây của tôi về sự vô thường của một kiếp nhân sinh đã bị đảo lộn, rồi quay cuồng…. Đây có phải là một tổn thất quá lớn trong cuộc đời mà từ trẻ cho tới bây giờ tôi chưa hề trải qua, tôi chưa hề có kinh nghiệm? Tôi hụt hẵng, tôi níu kéo và cố bám vào ảo tưởng: “Ông nhà tôi đi đâu đó rồi Anh sẽ về thôi mà…”

Tôi đợi Anh trở về, hết ngày rồi tới đêm… Một tuần, rồi hai tuần …và tôi thất vọng…

Tôi không chấp nhận sự thật.

Tôi đang sống thời gian khó khăn nhất.

Nguyễn Thị Phi Phượng và cố tác giả giám khảo VVNM Bồ Tùng Ma

Thế rồi, tôi cũng phải ráng tập lối sống mới: một mình , tự lo thân, tự quyết định mọi việc… Mà sao khó quá, tôi không cảm thấy dễ chịu chút nào… Bất chợt , trong tiềm thức của tôi, hiện lên qui luật mới: học nhớ dễ hơn học quên vạn lần!… Với tôi, không nỗi đau nào hơn nỗi đau của tuổi già bị mất người phối ngẫu. Không có sự trống vắng nào hơn ở tuổi xế bóng bị mất người chồng( hoặc người vợ), người đã đồng hành, đã cùng mình vượt qua bao khổ nhọc của cả một đời. Tôi không còn ai để nói hết, nói thật… nói tất cả… những lo toan, những vui buồn tôi đang gặp phải. Không còn ai để tôi “cằn nhằn”! Tôi vẫn thường nghe câu nói đầu môi từ vài người bạn: “Vợ chồng tôi không cải nhau bao giờ”. Tôi không bao giờ tin những lời nói này. Với tôi,  chuyện vợ chồng tranh cải vì khác ý kiến trong một vấn đề, đó cũng là bình thường. Ông bà mình vẫn luôn nói: chén dĩa trong sóng còn khua thay.

Hai năm cuối đời, ước lượng được sức khoẻ của mình, Anh đã nói với thằng cháu lớn nhất 17 tuổi: “ Ông Nội ráng đợi ngày Con tốt nghiệp đại học, Ông sẽ có mặt trong ngày Con ra trường. Con nhớ dẫn Ông đi ăn một bữa thịnh soạn rồi Ông Nội sẽ đi xa.” Tội nghiệp thằng cháu không rành tiếng Việt và cũng không hiểu “đi xa” là Ông Nội sẽ đi đâu thế mà ngày Ông Nội nằm xuống, Cháu cũng biết tại sao Ông không thể giử lời hứa với Cháu. Và bữa ăn thịnh soạn ngày Cháu tốt nghiệp sẽ mãi mãi không bao giờ có mặt Ông Nội nữa…

Năm nay, mùa đông California rét buốt hơn mọi năm. Trời lạnh, cái nhà của tôi càng lạnh hơn vì chỉ một mình tôi lẻ loi…

Nhớ lời dặn: “Anh chết rồi, buồn lắm, em ơi. Hãy về một đứa con mà ở.”

Tôi tới nhà con trai út ở thành phố San Francísco – đứa con gần tôi nhất – ở chơi vài hôm. Ở đó, có con cháu vây quanh, tôi nguôi ngoai phần nào mà sao tôi vẫn nhớ, vẫn thích trở về cái nhà nhỏ quen thuộc của tôi. Trong ngôi nhà xưa thân quen, hằng ngày,  tôi “nói chuyện” với Anh như Anh vẫn còn đó. Tôi cảm thấy Anh vẫn loanh quanh đâu đây, bảo vệ và mang về sự bình yên cho tôi. Tôi tự do khóc, tự do ăn, tự do ngủ… bất cứ khi nào… theo “thời dụng biểu bất thường”  trong lúc này của tôi. Và điều quan trọng mà vợ chồng tôi đã nhận thấy từ lâu, nay, càng rõ ràng hơn, đó là: các con – các cháu của tôi, chúng có suy nghĩ của chúng. Chúng nó trẻ. Chúng say mê công việc và theo đuổi sự nghiệp. Chúng lo làm việc để trả nợ nhà, nợ xe… và nhất là lo việc nuôi dạy con cái. Chúng không có cùng cách giải quyết vấn đề như thế hệ già của chúng tôi. Làm sao tôi có thể bộc bạch hết những tâm tư sâu kín của tôi với chúng nữa.

Chồng tôi đã có chỗ ở mới, chắc chắn rất an vui. Còn lại tôi, bơ vơ, chới với. Người đi trước sao mà ấm áp, được mọi người lo cho đầy đủ, chu toàn.

Tôi bắt đầu ganh tỵ với chồng tôi.

Hồi tưởng lại vài năm sau này, khi hai chúng tôi đã về hưu và nhờ có con vi rút covid , chúng tôi có nhiều thì giờ ngồi bên nhau. Không biết tìm đâu ra, chồng tôi thường đọc cho tôi nghe bài thơ xưa ( không biết tên tác giả) của người chồng già viết tặng vợ:

…Mất gì thì mất Bà ơi,

Xin Trời để lại còn Tôi, còn Bà

Nếu mà có phải đi xa

Để Tôi đi trước còn Bà đi sau

Mong Bà đừng ốm đừng đau

Để Tôi có bát cơm rau sáng chiều

Càng già, càng quí, càng yêu

Bâng khuâng lại nhớ ít nhiều ngày xưa ….

Mất gì thì mất Bà ơi,

Xin Trời để lại còn Tôi, còn Bà

Tôi – Bà nay tuổi đã già

Mà Tôi vẫn sợ còn Tôi, mất Bà…

Thế là ước muốn “ xin được đi trước” của chồng tôi đã được thỏa theo ý nguyện.

Chồng tôi, cả đời là một nhà giáo đạo hạnh. Anh có chánh nghiệp. Anh có một đời sống viên mãn. Nay, nghiệp đã trả xong, Anh ra đi nhẹ nhàng. Anh được thay cái xác mới. Tôi tin: nhất định Anh đã đến được cõi an lành.

Rồi thì ai cũng sẽ phải theo con đường của Anh thôi mà. Tôi cũng sẽ như thế.

Hai tháng, … rồi ba tháng, …

Tôi không thể nào khoẻ mạnh trong tình trạng sống đau buồn mãi được.

Tôi bắt đầu đọc sách nhiều hơn, nghe giảng Pháp nhiều hơn. Tôi thiền định lâu hơn. Tôi làm vườn, công việc này chồng tôi phụ trách trước đây, tôi nào biết tới. Và tôi tiếp tục lại các việc đang dang dở mà thời gian qua vì phải chăm sóc Anh bịnh tôi đã xin tạm nghỉ. Tôi có Chùa Phổ Từ ở Hayward, gần nhà. Tôi có Camp Metta ở Los Gatos. Tôi có nhiều bạn đạo rất thành thật ở hai nơi đó. Tôi có những bạn thiện tri thức của hai nhóm Gia Đình Phật Tử Chánh Tâm và Chánh Hòa, nơi tôi đang dạy thiện nguyện Tiếng Việt cho các em đoàn sinh và nhất là hằng ngày tôi được tu tập qua những câu viết ngắn dưới đề mục  “Morning Coffee” của Sư Bhante . Dần dà, tôi đã lấy lại sự quân bình trong suy nghĩ. Niềm vui và sự tin tưởng vào Chánh Pháp đã vực tôi đứng lên . Tôi nhận ra thế nào là Chơn Thường trong Vô Thường của sự vậ , của cuộc sống. Đã có sẵn Chánh niệm và Chánh Tư Duy, tôi cảm nhận được sự sống đang có mặt trong từng giây phút của hiện tại. Sự tiếc nuối và suy nghĩ về mất mát trở về lại với tôi nhẹ nhàng như tôi đang thở.

Tôi đăng ký học vẽ ở Chabot College – Hayward. Tôi tập vẽ trên giấy canvas để áp dụng vẽ trên áo dài, niềm say mê nhất của tôi từ khi còn trẻ nhưng vì quá bận rộn phải xếp qua một bên.

Tôi đang suy nghĩ để xem tôi có còn thích hợp để học khiêu vũ không. Đây là môn thể dục lý thú của tuổi già.

Tôi sẽ tiếp tục gặp lại học trò qua hai lớp dạy thiện nguyện Tiếng Việt của tôi sau thời gian dài dạy chúng qua zoom.

Tôi sẽ tiếp tục dịch sách chương trình “Early Childhood Education” ( Ngành Mẫu Giáo Nhà Trẻ). Sách tôi dịch, in ra, đã và sẽ giúp các cô giáo dạy chương trình này ở Việt Nam làm giàu thêm kiến thức nghề nghiệp của họ.

Cám ơn Phật pháp đã giúp Con sáng ra và chấp nhận thực tế đúng như tính chất vô thường nó đang là.

Cám ơn Anh đã cùng Em đi hơn nửa cuộc đời. Anh đã giúp Em hiểu được sự chịu thương chịu khó, sự hy sinh cho một tình yêu đích thực. Anh đã để lại cho Em quá nhiều kỷ niệm, Em chẳng thể nào quên. Em sẽ chuyển nỗi đau thành niềm thương nhớ. Anh ơi, hãy chờ Em bên kia sông, vài năm nữa mình sẽ gặp lại, nhé Anh.

Mẹ cám ơn hai Con Trai của Mẹ. Các Con đã giúp Mẹ tiếp tục giữ cuộc sống an nhàn như khi Ba Mẹ có nhau.

Bà Nội cám ơn ba Cháu yêu. Các Cháu rất ngoan, nghe lời dạy bảo của cha mẹ, học giỏi. Cám ơn các Cháu luôn báo tin vui về việc học của các Cháu cho Bà nghe.

DT – Th H ơi , Nh – Ng ơi ! Các Em đang đủ đôi . Đó là hạnh phúc quý báu nhất Thượng Đế ban tặng cho riêng các Em và cho cả loài người. Các Em hãy yêu thương – chăm sóc nhau với tất cả những gì có thể để rồi mai kia, khi một người đi xa trước, người ở lại không có gì để hối hận…

Tôi cũng vậy.

Tôi đã là người vợ tốt.

Tôi đã là người mẹ tốt.

Tôi đã hết lòng chăm sóc chồng tôi khi Anh bịnh hoạn.

Tôi không có gì để hối hận.

Tôi phải vui lên để được sống khỏe mạnh. Cầu mong tôi giử được sức khoẻ này lâu dài cho tới khi nào quá yếu. Khi đó, tôi sẽ về sống cùng với con cháu.

Tôi đang bước vào khúc quanh mới của đoạn cuối con đường và tôi sẽ thanh thản đón hoàng hôn./.

Hayward – California

Tháng Hai, 2022.

Nguyễn Thị Phi Phượng 

 Cây Huê Xà – Sơn Nam

 Cây Huê Xà

 Sơn Nam

Cây Huê Xà là thứ cây gì? Hình dáng ra sao? Có thiệt hay là bịa đặt? Nó có lợi hay là có hại cho loài người? Bao nhiêu câu hỏi ấy dồn dập, lẩn quẩn trong trí thằng Lợi hằng năm nay mà nó không tài nào trả lời nổi.

Cây huê xà vốn là vị thuốc chánh trong toa thuốc trị rắn cắn của ba nó. Nhờ đó mà đi đến đâu người ta đều khâm phục; ba nó nổi danh là thầy Hai Rắn. Ðược nổi danh là một chuyện khó vì lẽ ở vùng U Minh (Rạch Giá, Cà Mau), thầy thuốc rắn xưa nay cũng nhiều người tài. Họ có thể cứu sống nạn nhơn, bảo đảm trăm phần trăm, nếu người bị cắn không để lâu quá hai giờ đồng hồ. Họ dùng toàn thuốc Nam dễ kiếm như gừng, cỏ ống, vôi, trầu, nhựa ống điếu, trứng rệp… Họ lại còn dám nuôi trong nhà vài con rắn để bắt chuột. Lúc họ uống nước trà, rắn nằm vắt vẻo trên đòn dông nhà, nhìn xuống gục gặc đầu. Ðêm nào có trăng thì rắn đi ngao du, lên tận trên đọt lá dừa để bắt chim trong ổ hoặc rình mổ mấy con dơi rượt muỗi bay qua chớp nhoáng.

Ba thằng Lợi nổi danh hơn các thầy thuốc rắn vừa nói trên. Thuốc của ba nó vò viên sẵn, khỏi tốn thời giờ tìm kiếm. Thuốc ấy mạnh lắm, trừ tuyệt nọc, nghĩa là một hai năm sau đi nữa bịnh nhơn không cảm thấy nhức xương sống mỗi khi lập đông trở về. Phi thường nhứt là có toa thuốc khi thoa vào tay, rắn không bao giờ dám mổ.

Hồi mới xuống rạch Thuồng Luồng này, ba nó đã có lần thí nghiệm cho các thầy thuốc rắn trong xóm coi thử.
Ba nó – thầy Hai Rắn – loan tin:

-Tôi có bùa bắt rắn. Bùa này của Phật Thầy Tây An đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở núi Sam, Châu Đốc truyền lại.

Ai nấy phản đối:

-Nói dóc! Chân ướt chân ráo mới tới xứ này mà không để cho người ta thương! Đức Phật Thầy Tây An xưa kia bao giờ làm bùa bắt rắn. Ngài lo giữ mối giềng đạo lý, sao cho ai nấy ăn ngay ở phải, đừng vì tiền tài mà nói dóc với chúng sinh.

Mỉm cười, thầy Hai Rắn mời bà con đúng giờ Thìn sáng mai đến cây thị, trước Miễu Ông Tà. Cây thị này hồi năm ngoái bị trời đánh tét làm hai. Thiên hạ đồn rằng: Có điềm trời! không vậy sao trong ruột cây có cái bộng đen ngòm. Dưới đáy bộng, một đống đất khô… Ngạc nhiên làm sao! Ðất nhút nhích từng cục, một con rắn hổ ốm nhom vùng ngóc đầu lên cao, phùng mang chồm tới, giống hình cái bàn nạo. Rắn nhìn người chung quanh, hút gió rồi rúc xuống đất vụn để ẩn mình.

Sáng hôm đó, đúng giờ Thìn, thầy Hai Rắn lại gốc cây thị với mọi người. Lấy tay vỗ mạnh vào gốc cây, thầy nói:

-Ông xà ơi! Ra đây nói chuyện chơi.

Ai nấy trố mắt, ngạc nhiên. Có tiếng hút gió như đáp lại rồi từ miệng bộng cây, cái bàn nạo lần lần nhô lên.

Thầy Hai lấy tay vạch vòng tròn dưới đất, vỗ xuống mạnh:

-Tôi muốn mời ông xà lại đây, ngồi trong vòng này với tôi.

Rắn nọ bò xuống, men vào vòng đã vẽ. Thầy xòe tay ra, để cách miệng rắn chừng một tấc mà thét:

-Cắn thử coi!

Rắn không nhúc nhích.

Thầy thét lớn hơn:

-Áp khẩu tay tôi nè! Cắn ngay đó thì tôi chết liền. Tôi đố ông dám cắn!

Ai nấy phập phồng chờ đợi. Rắn cục cựa, thối lui, ngóng mỏ lên cao, day qua day lại. Thầy Hai trợn mắt, đưa tay xít lại gần hơn nữa. Bỗng nhiên, rắn hút gió một tiếng rồi quay mình phóng vào bộng cây, mất dạng.

Thầy đứng dậy, vấn điếu thuốc. Vừa hút phì phà, thầy giảng rằng:

-Chém ruồi ai dụng gươm vàng làm chi! Nói thiệt cho bà con thương, tôi đây cực chẳng đã mới ra nghề. Tôi biết trong số bà con đây có người tài giỏi hơn tôi nhưng giỏi về môn khác. Thứ bùa này ít ai biết… Lúc ban sơ, tôi dùng nhân lực để kêu rắn ra khỏi bộng cây. Kế đó vẽ vòng tròn tức là tôi dùng thần lực. Ðến khi chuyển qua thiên lực, rắn nọ phải chạy trối chết… Nhân lực, thần lực, thiên lực, đó là ba chặng đường mà tôi đã trải qua. Phần đông, bà con mình xưng là thầy nhưng chỉ mới bước tới nhơn lực.

Tài của thầy Hai Rắn, ai lại chẳng phục. Ngặt thầy kiêu hãnh quá nên hôm đó không ai muốn thụ giáo, họ bực tức ra về. Trong số đó có Năm Ðiền là thầy rắn bấy lâu lừng danh ở xóm Thuồng Luống này. Năm Ðiền cảm thấy bị sỉ nhục. Về nhà chú nằm suốt đêm không ngủ được, tâm trí bận rộn, cố nhớ lại mấy toa thuốc. Chú biết đây là một mưu mô của thầy Hai Rắn. Nhứt định thầy Hai có thoa vào tay một thứ thuốc đặc biệt. Ngửi nhằm mùi đó, rắn chịu không nổi, phải mờ mắt hoặc ê răng mà chạy trốn. Ăn cắp cái toa đó là diệu kế nhứt. Nghĩ vậy, chú sực nhớ tới con Lài, đứa con gái khá nhan sắc của chú.

Bấy lâu nay, chú thường để ý: Thằng Lợi, con thầy Hai Rắn, thường bén mảng lại đây để trò chuyện với con Lài.

Năm Ðiền bèn kêu đứa con gái vào:

-Lài à!

-Dạ.

Nhìn trước cửa thấy không có ai, chú nói nhỏ với con:

-Bấy lâu cha sống ở rạch rày cũng là nhờ nghề trị rắn. Bây giờ, thầy Hai Rắn tính đập bể nồi cơm của cha con mình!

Con Lài hỏi, ngây thơ:

-Sao vậy ba, người ta lạ, mới tới…

-Bởi vì nếu trời đã sanh Châu Do thì không có Gia Cát Lượng.

-Gia Cát Lượng là ai vậy ba?

Năm Ðiền đổ quạu:

-Không biết gì hết. Ngu quá! Mày biết thầy Hai Rắn là cha của ai không?

-Dạ… của anh Lợi.

-Thằng Lợi tới lui đây hoài. Ðiều đó ba biết hết. Ba nào cấm cản. Nó nói gì với con…

Con Lài bẽn lẽn:

-Ảnh nói muốn làm quen.

-Ừ! Ba nói thiệt với con, làm thân con gái phải giữ gìn thân thể. Không khéo, lỡ bề gì nhơ nhuốc danh giá dòng họ. Con thương nó thì phải cho ba hay để bắt buộc nó thương con…

Con Lài buột miệng:

-Ðừng… Tội nghiệp người ta.

-Không sao đâu. Chiều mai, con rủ nó lại ăn cơm… Sẵn dịp ba mời nó uống rượu, thứ rượu “rắn giao đầu”.

Nghe đến rượu “rắn giao đầu”, con Lài liếc nhìn chai rượu thuốc để trên bàn thờ. Trong chai, ngâm hai con rắn mà ba nó lượm được hồi năm ngoái! Con rắn nước nuốt con rắn trun, có lẽ nuốt không vô nên hai con đều chết. Ba nó lượm đem về ngâm rượu.

Nó hỏi:

-Uống chết không ba? Con sợ quá.

-Gì mà sợ. Rượu đó làm cho trai với gái thương nhau như rắn. Uống vô, thằng Lợi không bao giờ bỏ con được. Trăm sự, nó đều thiệt tình. Con nhớ gạn hỏi nó một điều này mà thôi…

-Ðiều gì ba?

-Cái toa thuốc thoa vô tay mà rắn không cắn của ba nó xài hôm trước, đằng cây thị trước Miễu Ông Tà: Nhớ hỏi cho kỳ được. Bằng không, ba giết chết cả hai đứa như giết rắn. Từ nay hai đứa bây là hai con rắn… Vì chất rượu này…

oOo

Lá rụng ơi lá rụng!

Từng chiếc lá tràm bay lả tả như bươm bướm mỏi cánh, đáp nhẹ xuống mặt nước từ trong ngọn rạch trôi dài ra.

Con Lài nhìn dòng nước uốn khúc qua doi, qua vịnh như con rắn bò, thứ rắn có khoang màu vàng, con rắn hổ sơn. Nó vụm mặt lại để che cái hình ảnh đó. Nhưng nào được! Kìa chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt nước lốm đốm trắng như con bạch hoa xà… Lập tức nó xuống bến, bơi theo, mãi đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đìa, kế gốc cây bình bát.

Thằng Lợi day lại cười:

-Ði đâu vậy cô Hai… Rắn bông súng?

Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc.

Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:

-Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.

-Rắn đâu dám cười rắn. Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.

Con Lài rút tay ra cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngã vào lòng thằng Lợi.

-Anh à!

-Cái gì đó, hở rắn!

-Thiên hạ thấy, họ cười chết.

-Ai thấy mà cười? Chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia…

Con Lài gật đầu:

-Phải, dây choại, dây bòng bong giống như rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám cỏ bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá… Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không anh Lợi?

-Nó là con rắn nẹp nia, da nó xù xì…

-Em suy nghĩ thấy sao kỳ quá, anh à. Rắn có thù oán gì với loài người, cớ sao loài người thù oán rắn. Như dây choại, cỏ bồn bồn, nhánh củi khô rất ích lợi cho con người.

Thằng Lợi vuốt mái tòc con Lài:

-Vậy nên rắn mới buồn bực trong lòng, tụ họp lại. Con rắn này tìm con rắn kia làm bạn với mình cho vui. Rắn với rắn thương nhau lắm.

-Nó có cắn nhau không anh?

-Ðâu có. Mà nó cũng không muốn cắn loài người. Người nào biết điều thì rắn không cắn.

-Biết điều là sao?

-Là biết nói chuyện với rắn. Nói chuyện bằng hơi tay, thí dụ như ba của anh…

Con Lài cố giữ trầm tĩnh, biết rằng nãy giờ nó đã nói chuyện nhảm vì uống rượu rắn giao đầu, nhưng nó nhớ lời ba nó căn dặn…

-Hơi tay của ba anh có gì mà nói chuyện được. Anh có cái hơi đó không? Tay anh đâu rồi.

Thằng Lợi xoa tay rồi đưa trước mặt con Lài?

-Phải có “ngải mọi”. Em biết thứ ngải đó không? Múc bột nó làm bánh ăn ngon lắm. Ăn bánh ngải rồi uống nước chanh. xong xuôi, nằm xuống hút một điếu á phiện với cái dọc tẩu làm bằng sừng “con dinh”.

Con Lài lắng nghe từng tiếng rồi hỏi tiếp:

-Hút á phiện rồi làm gì nữa?

-Rồi thì vợ chồng dắt tay nhau dạo kiểng, ngắm cái bông huê xà…

-Bông huê xà là thứ gì?

-Huê xà là huê xà. Ba của anh nói lại sau rốt.

Con Lài lẩm bẩm:

-Ngải mọi, nước chanh, á phiện, sừng dinh, huê xà. Toa này năm vị. Mình nhớ đủ hết.

oOo

Năm Ðiền với đứa con gái bỗng nhiên chết ngã lăn tại nhà.

Tin đó truyền ra nhanh chóng. Cả rạch Thuồng Luồng, ai nấy chưng hửng. Mấy ông thầy rắn xúm lại khám nghiệm rồi quả quyết:

-Chết vì rắn. Dấu răng rắn hổ. Chắc chắn có rắn hổ nuôi trong nhà, nó phản lại chủ.

Chờ cho thưa khách, thầy Hai Rắn tới, cầm bàn tay của hai nạn nhân nọ mà ngửi. Nước mắt của thầy bỗng dưng tuôn xuống. Chợt nhìn chai rượu thuốc “rắn giao đầu” trên bàn thờ, thầy lắc đầu, thở dài.

Ðêm đó, thầy kêu thằng Lợi ra sân mà nói:

-Mai này cha phải đi. Con ở lại một mình. Cha buồn lắm. Họ dụ dỗ con để khám phá bí mật, cha biết vậy. Nhưng trăm sự cũng vì toa thuốc nọ thiếu cây huê xà nên không linh nghiệm. Cây đó khó kiếm lắm. Cha con Năm Ðiền tưởng là cha nói gạt chớ sự thật nó có: dây đó tròn bằng mút đũa, vằn vện như da rắn. Phải tìm ở chót núi ông Cấm, tìm cả tháng mới gặp một cây. Con Lài chết, có lẽ vì Năm Ðiền không tin con gái nên cho rắn cắn nó trước. Chừng thấy con chết, y buồn quá nên tự tử theo, không muốn chuyện đổ bể ra e mất thể diện với bạn đồng nghề. Nghề rắn nó nghiệt như vậy đó!

Ðêm sau, thầy Hai Rắn trốn xóm riềng, trốn đứa con trai mà đi mất.

Còn thằng Lợi ở lại. Tội nghiệp biết chừng nào! Nó nào hiểu tại sao loài người bày đặt ra thuốc rượu “rắn giao đầu” để dụ dỗ lẫn nhau, trong khi cái tình yêu tự nhiên còn keo sơn hơn gấp mấy! Nó không hiểu sở dĩ ngày nay nó cô độc, vắng cha, vắng tình nhân như vậy chỉ vì mối ganh tị giữa hai người đồng nghề là cha nó với cha con Lài.

Nó thơ thẩn như mất hồn, khóc không ra nước mắt mỗi khi ra thăm nấm mộ của người tình xưa, thấy mấy dây rau muống bò lan bên cạnh.

Cây huê xà là gì? Có thiệt hay không? Lắm đêm, nó nằm chiêm bao thấy một thứ dây lốm đốm trắng mọc cheo leo ở chót núi ông Cấm, tiếp với trời xanh. Trên cảnh xa vời không nhơ bợn đó, dây huê xà nhởn nhơ uốn éo với gió núi. Giữa lòng từng chiếc lá, hiển hiện kia trăm ngàn gương mặt của con Lài, tươi tắn, cười riêng với nó, trẻ mãi không già…

Sơn Nam
Trích từ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”

From: TU-PHUNG

Nhật Ký Vượt Biên – Lê Minh

Van Pham

Gần đến ngày 10-03 khởi đầu từ TP. Banmêthuột cho đến ngày 30-4-1975 toàn bộ miền Nam bị cộng quân tấn chiếm. Kể từ ngày này bao tang tóc đau thương phủ trùm lên dân tộc, mà thảm cảnh “Vượt Biển” vẫn hằn sâu trong tâm khảm hàng triệu người Việt cả hải ngoại lẫn trong nước…

***

Nhật Ký Vượt Biên

Lê Minh

Gia đình tôi đông anh em và nghèo lắm! Muốn gom đủ 3 lượng vàng để lo cho một người vượt biển không phải là dễ. May sao nhờ nhà ở mé sông, nên có người tổ chức vượt biên họ cho tôi đi không với điều kiện ba mẹ tôi phải chứa chấp 8 người mà họ dắt mối từ Sài Gòn về chờ ngày ra tàu. Công việc nầy cũng rất nguy hiểm, lỡ mà công an biết được là đi tù cải tạo.

Nhà nội tôi kế bên nhà tôi nên ba má tôi gởi bên nội 6 người còn nhà tôi chỉ chứa 2 người. Người tổ chức sắp xếp là đến ngày đi họ sẽ có thuyền nhỏ đậu dưới bến sông nhà nội tôi để đưa người ra tàu lớn đã đậu sẵn ngoài khơi.

Vào một đêm 30 tối đen như đêm cả miền Nam lọt vào tay Cộng sản, một chiếc thuyền đánh cá nhỏ trên thuyền phủ đầy lưới tấp vào bờ sau hè nhà nội tôi, họ nói phải chuyển người thật nhanh, “cá lớn” – có nghĩa là tầu lớn- đang đợi.

Tiếng xì xào to nhỏ làm nội tôi tuy đã già, 2 mắt đã mờ cũng giật mình thức giấc, ông hỏi:

-Thằng Minh đâu rồi?

– Dạ con nè nội!

Trong bóng đêm, ông mò mẫm lấy tay rờ đầu tôi rồi nói nhỏ:

– Con ra đi lần nầy là chắc ông cháu mình sẽ không còn có dịp gặp nhau nữa đâu! Nơi đất khách quê người con ráng lo học hành và tự lo cho bản thân mình.

Ông nhét vào tay tôi 2 miếng gì hơi mỏng và cứng, rồi như không nén nổi sự xúc động, ông bỏ đi vào trong phòng. Sau đó tôi mới biết là ông đã gói ghém cho tôi 2 chỉ vàng, là gia tài dành dưỡng già của ông để tôi phòng thân.

Khi tôi ngồi viết bài nầy nhớ đến nội đã ra đi vĩnh viễn mà không có dịp nhìn mặt ông lần cuối cùng, là nước mắt tôi tuôn tràn…

Ngày Đầu Tiên: qua trạm biên phòng

Sau khi 9 người chúng tôi đều xuống khoang thuyền, người đưa khách lấy lưới phủ lên trên người chúng tôi để ngụy trang như là một ngư phủ sửa soạn ra khơi đánh cá.

Nằm dưới đống lưới cá còn ướt đẫm mùi tanh của cá, mùi nước biển, hơi thở khó khăn làm tôi muốn ói nhiều lần.

Gần tới trạm công an biên phòng, người đưa khách nói:

– Các anh chị ráng giữ bình tĩnh, đừng nhúc nhích và nói gì hết! Qua khỏi trạm nầy là kể như đã đi được nửa đường.

Chiếc thuyền bớt máy, chậm lại rồi ngừng hẳn. Tôi nghe có người nói:

– Giờ nầy còn đi đâu đó?

– Đi làm mẻ lưới sáng chớ anh! Nước triều đang lớn hy vọng sẽ trúng mánh.

– Có chở gì khác không?

– Trời! Anh biết tôi ngày nào cũng ra khơi đánh cá mà, đâu có chở gì! Anh muốn xuống coi không? Thôi lấy vài tờ uống cà phê nghe! Bữa nay trúng lưới, mai về bọn mình nhậu cho đã.

– Thôi, đi đi!

Tiếng máy nổ và thuyền lại rời bến. Người đưa khách cất tiếng:

Chúc mừng các anh chị đã qua khỏi cửa biên phòng. Bây giờ có thể bỏ lưới qua một bên cho dễ thở.

Tôi tung lưới ra, ngước mặt nhìn về những dãy dừa xanh, những cây mắm mọc sát bờ biển và xa xa những mái nhà nhỏ của xóm ngư phủ… Đó là hình ảnh quen thuộc của quê nhà tôi cố ghi nhớ để nhớ mãi mảnh đất quê hương lần cuối cùng trước khi đi không hẹn ngày trở về.

Ngày Thứ 2: đem trứng cho ác

Chiếc thuyền nhỏ ra khơi trong cơn mưa phùn đầu tháng Mười. Quần áo ướt át, thêm gió biển rồi từng đợt sóng biển đánh vào khoang thuyền làm tôi lạnh run người. Thuyền chạy gần một tiếng thì tôi nhìn thấy xa xa có một chiếc tàu khá lớn đang đậu gần một hòn đảo nhỏ, hình như là Hòn Tre thì phải.

Người đưa khách cho thuyền cặp vào chiếc tàu nầy rồi ra lệnh:

– Các anh chị leo lên tàu nầy. Lẹ lên!

Chiếc tàu cao quá so với thuyền nhỏ và những đợt sống làm lắc lư con tàu, khiến tôi nhảy mấy lần mà cũng chưa lên được. Cả hai chân bị rớm máu vì bị cắt bởi những con hà đóng quanh thành tàu. Rốt cuộc thì tất cả đều lên được tàu. Người đưa khách vẫy tay chào chúng tôi rồi quay thuyền chạy thẳng về đất liền.

Trên tàu đã có một số người đến trước. Họ nói phải chờ cho đủ số người và tài công ra rồi mới bắt đầu cuộc hành trình. Vậy là tiếp tục chờ đợi, căng thẳng. Thuyền nhỏ cứ lâu lâu lại chở thêm 9- 10 người lên tàu. Gần chật cả khoang dưới lẫn trên boong tàu mà sao vẫn chưa thấy người chủ tàu, tài công hoặc người tổ chức?

Trời gần sáng thì có một chiếc thuyền nhỏ chở chủ tàu, tài công và người tổ chức. Họ lên tàu, tiền trao cháo múc, thanh toán tiền mua tàu còn lại bằng những thỏi vàng óng ánh, nói vài lời chúc may mắn đến chúng tôi rồi trở về thuyền đi về, chỉ để lại người tài công.

Chiếc tàu với sức chứa 70 người giờ đây đã có tất cả là 139 người. Coi lại lương thực thì trời ơi! Chỉ có một khạp nước với một khạp gạo. Làm sao có thể đỡ cảnh đói khát cho suốt cuộc hành trình vượt biển?

Trên tầu có nhiều người chửi rủa là “đem trứng cho ác, lấy vàng của người ta rồi tổ chức như vậy đó!” Nhưng chửi rủa gì cũng đã muộn rồi, chỉ còn quyết định là có nên tiếp tục đi hay là quay trở lại để chịu cảnh tù đày!

Cuối cùng tất cả đành quyết định ra đi, hy vọng khi ra được hải phận quốc tế sẽ có tàu buôn hoặc chiến hạm của Mỹ cứu vớt.

Ngày Thứ 3: tài công không biết lái tàu

Người tài công nổ máy tàu và loay hoay với chiếc hải bàn. Ông tự giới thiệu là đại úy Hải Quân, cùng đi với người bạn gái. Thấy ông lây quây mãi với cái hải bàn, có người hỏi:

– Sao không bắt đầu chạy đi mà ở đó coi cái gì vậy?

– Nói thiệt nghe! Tôi đi hải quân nhưng hồi đó đâu có lái tàu, làm sao biết đường nào đến Thailand!

– Trời đất! Dzậy sao ông nhận làm tài công cho tàu?

– Thì phải nói là tài công họ mới cho đi không lấy tiền! Bây giờ tôi cũng không biết tọa độ nào để lái tàu đến bờ biển Thailand!

Cả tàu xôn xao. Thiệt là đem con bỏ chợ mà! Tính sao bây giờ?

– Để tôi lái cho!

Từ phía sau mũi tàu có anh thanh niên vóc dáng vạm vỡ, nước da ngâm đen lên tiếng và đi lại buồng lái.

– Có gì khó đâu! Tôi nghe người ta nói cứ giữ hải bàn ở tọa độ 260 là sẽ đến hải phận quốc tế và đến Thailand.

Cả tàu thở ra. Anh thanh niên cho máy nổ rồi cầm tay lái cứ hướng 260 độ mà cho tàu chạy! Con tàu băng băng. Mặt trời đã lên cao rọi những tia màu đỏ nhạt trên mặt nước biển.

Ngày Thứ 4: máy chết, tàu lủng

Con tàu chật ních người vẫn lướt trên biển cả mà chưa thấy bờ bến. Cơn nóng biển VN hòa lẫn với hơi người ngột ngạt. Bắt đầu đói khát lả người. Người ta nấu một nồi cơm lớn rồi chia phần cho mỗi người một muỗng cơm trắng với chút nước lã đo lường bằng cái nắp can để cầm cự, hy vọng sớm ra được hải phận quốc tế. Trời về chiều, ở cuối chân trời hiện lên một vầng mây đen như báo trước bão tố sẽ chụp lấy con tàu nhỏ bé. Biển mênh mông không bờ bến, biết đâu là hải phận quốc tế, đâu là bờ biển Việt Nam?

Mọi người chợt hướng mắt nhìn về phía trước, một chiếc tàu buôn ngoại quốc đang chạy song song cách thuyền rất xa. Gương mặt mọi người đều hiện lên vẻ mừng! Chỉ trong hải phận quốc tế mới có tàu buôn ngoại quốc thôi!

Nhiều người cởi áo trắng ra vẫy vẫy làm dấu SOS với hy vọng chiếc tàu kia sẽ thấy mà quay lại cứu giúp. Tất cả dán mắt theo dõi nhưng cái tàu buôn vẫn làm ngơ. Có người đề nghị đục tàu cho chìm để họ thấy emergency thì bắt buộc phải vớt.Một số người đồng ý, phần còn lại thì không. Rủi họ không thấy thiệt thì chết cả đám. Thôi thì hy vọng có chiến hạm Mỹ hay gặp dàn khoan dầu là hay nhất!

Trời đã về đêm, gió bắt đầu đẩy những ngọn sóng bạc đầu thật lớn đánh vào thành tàu. Cơn mưa lớn chợt nổi lên. Con tàu của chúng tôi như nhào lộn trong lòng biển, lúc thì sóng đưa lên thật cao, lúc thì như chìm vào biển cả.

Cạch… cạch… cạch…Tiếng máy tàu nổ thêm 3 tiếng rồi tắt hẳn!

– Chết rồi! Tàu phá nước ngập cả máy rồi, bà con ơi xúm lại tát nước!

– Trời ơi! Vậy là chắc chết hết!

Tôi nghe tiếng khóc la hòa lẫn tiếng cầu kinh, niệm Phật cộng với tiếng gió rú mưa rơi giữa biển khơi mịt mù đen tối! Đời người chỉ chết một lần! Tôi nhủ mình hãy cố bình thản trước cái chết gần kề.

Đọc xong kinh ăn năn tội thấy mình không sợ cái chết nữa, dù thấy nó sẽ xảy đến trong giây lát. Trong số 139 người trên tàu, có những cụ già từng trải, những thanh thiếu nữ tương lai đầy hứa hẹn và những mái đầu xanh vô tội chưa từng nếm mùi đời. Tất cả đã đem sinh mạng mình ra để đánh đổi 2 chữ “Tự Do”.

Ngày thứ 5: kề cái chết, thấy lòng người

Đêm giông bão tưởng như dài vô tận. Quá nửa khuya, đã sang ngày Thứ 5 nhưng trời vẫn chưa rạng. Con tàu nhỏ bé bắt đầu từ từ chìm xuống lòng đại dương.

– Trời ơi! Tàu sắp chìm rồi, thẩy bớt đồ trên tàu cho nhẹ bớt đi! Ai biết bơi lội thì nhảy xuống biển giùm!

Chúng tôi thẩy bỏ tất cả những gì có thể thẩy. Mấy cái can chứa đầy dầu, máy tàu không còn chạy nữa thì để nó làm gì! Chúng tôi đổ bỏ hết dầu rồi cắt thùng ra làm đôi để làm thùng tát nước.

Nhiều người nhảy xuống biển, nhưng đêm tối mịt mù, không thấy bờ bến biết bơi về đâu! Đành vịn vào thành tàu cho khỏi chết chìm.

– Kiếm được chỗ bể rồi bà con ơi! Cởi áo ra! Cởi áo ra để tôi nhét chỗ bể lại.

May mắn làm sao có một anh nhảy xuống biển, tay vịn vào thành tàu, cái chân chòi chòi lại thọt ngay vô chỗ bể mới biết mà la lên!

Mọi người giành nhau cởi áo đưa cho anh ta rồi xúm lại tát nước với hy vọng nhỏ bé là tàu đừng có chìm. Có anh chàng thanh niên quá hăng say tát nước, anh tát quá nhanh, hết sức mình đến nỗi ngã xỉu bên thành tàu mà 2 tay vẫn còn đưa ra như muốn tát thêm một thùng nữa. Có những cụ già, em bé lấy hai tay bụm từng bụm nước cố đem ra khỏi tàu nhưng khi đem ra khỏi tàu thì không còn được bao nhiêu!

Chúng tôi tát nước suốt đêm hôm đó dưới cơn mưa gió bão bùng. Tay chân bị vọp bẻ vì lạnh cóng nhưng vẫn cố gắng hết mình. Có cận kề cái chết mới thấy được lòng người! Chúng tôi là dân tứ xứ không hề quen biết nhau, giờ đây cùng chung chiếc thuyền định mệnh. Tất cả đều coi như anh em ruột thịt trong nhà, tất cả đều tận lực không phân bì ai làm nhiều làm ít! Sau cơn mưa trời bắt đầu rạng dần! Ở cuối chân trời vầng hồng thái dương chiếu sáng, biển lặng như tờ. Chúng tôi vẫn tát nước, con tàu càng lúc càng nổi lên và trôi theo dòng nước biển. Trôi về đâu… đành phó mặc cho số trời!

Ngày Thứ 6: hải tặc đợt một

Con tàu nhỏ cứ trôi lững lờ trên biển vắng. Trời đã vào trưa. Cơn nóng biển, sự mệt nhọc tát nước suốt đêm và cơn đói khát hoành hành làm cho mọi người rã rời! Trên tàu có khoảng 60 người là thanh niên trai tráng, phần còn lại là phụ nữ, trẻ em và người già. Chúng tôi bàn nhau chia những thanh niên thành 20 tổ, mỗi tổ 3 người để thay phiên nhau tát nước 24/24 hầu những người khác có thì giờ nghỉ ngơi.

Nguyên cả ngày không thấy bóng một chiếc tàu lạ nào và cũng không biết tàu của mình đã trôi về đâu! Trời đã gần chiều, hoàng hôn từ từ lặn ở phía chân trời xa! Một chấm đen hiện trên biển xa càng lúc càng lớn dần, mọi người đều mừng rỡ: “Có tàu đến gần, được cứu rồi!

Một chiếc tàu đánh cá Thailand cặp vào tàu tôi. Hai ngư phủ Thailand nhảy qua dùng dây cột tàu chúng tôi tôi vào tàu họ rồi kéo đi! Đâu có ai biết nói tiếng Thái. Chúng tôi chỉ xí xô, xí xào… Thailand, Thailand rồi ra tay làm dấu ý nói là muốn đi Thailand.

Hai người ngư phủ Thái không nói một lời nào. Chúng tôi bàn với nhau ai có tiền bạc, vàng vòng gì thì bỏ ra chút ít để gom góp lại đưa cho họ nhờ họ kéo đi Thailand.

Chết đi sống lại thì ai đâu còn để ý chút ít tiền bạc làm gì! Chúng tôi gom góp được khá nhiều đồng hồ, vàng bạc để vào cái nón rồi đưa cho 2 ngư phủ Thái. Họ cầm lấy rồi nói tiếng Thái với mấy người của họ còn ở trên tàu.

Tàu của họ kéo tàu của chúng tôi được đâu hơn 2 tiếng thì dừng hẳn, cặp sát vào tàu của chúng tôi, họ lấy dây cột tàu lại rồi nhảy qua thêm 5 người nữa. Trên tay có 2 người có súng, họ lục xét từng người để tìm vàng bạc, nữ trang.

Trời ơi! Chúng tôi gặp hải tặc mà ngỡ là người làm ơn!

Sau khi lục xét và gom thêm được chút vàng bạc, họ nhảy qua tàu của họ và thẩy sang mấy gói mì khô rồi chặt dây chạy mất tiêu. Trước khi đi chúng tôi có nghe là có thể gặp hải tặc, nhưng đâu có ngờ họ là dân đánh cá chuyên nghiệp và cũng là hải tặc! Thôi cũng là một kinh nghiệm cho những ngày kế tiếp…

Ngày Thứ 7: tang lễ giữa biển

Đêm mùng 7 tháng 9 âm lịch, biển lặng như tờ! Bầu trời đầy sao, xa xa ánh trăng lưỡi liềm chiếu ánh sáng mờ ảo xuống khoang tàu. Mọi người đang nằm sắp lớp, thiêm thiếp trong cơn nóng và đói khát cả ngày trời. Cảnh vật im lìm chỉ còn nghe tiếng xào xạc tát nước của 3 người thanh niên đến phiên trực.

Giờ nầy chắc ba mẹ tôi lo lắng lắm rồi! Người ta đi chỉ có 4- 5 ngày là có điện tín báo tin, còn tôi đã 7 ngày rồi mà vẫn nằm đây, trên chiếc tàu định mệnh không biết sống chết lúc nào! Mệt mỏi vì đói khát tôi gần thiếp đi trong giấc ngủ thì bổng nghe tiếng la thất thanh:

– Trời ơi! Con gái tôi chết rồi! Con ơi sao nở bỏ mẹ mà ra đi!

Mọi người đều giật mình mắt hướng về tiếng la. Một người đàn bà đang ôm đứa con gái 8 tuổi mà nước mắt lưng tròng. Chúng tôi xúm lại xem coi còn có thể cứu chữa em bé không! Hai môi em bé đã nứt nẻ chảy máu và đã chết cứng tự lúc nào! Mọi người dùng lời an ủi người mẹ và đề nghị: Con tàu không biết đến bao giờ cặp bến, chắc là không thể đem được em lên bờ để mà chôn cất. Thôi thì lấy đại dương làm nơi em yên nghỉ cuối cùng.

Tang lễ cho em bé diễn ra theo nghi thức của 2 tôn giáo. Không nhang, không đèn. Giữa biển khơi mịt mù tăm tối tiếng tụng kinh bằng Phạn ngữ của một vị sư đi cùng tàu sao thấy quá xót xa! Rồi bài kinh Vực Sâu thánh thót vang lên giữa tiếng khóc nức nở “Từ vực sâu u tối con cầu xin chúa, chúa ơi!….”

Một người thanh niên cởi chiếc áo khoác cuối cùng quấn vào thi thể em bé như muốn cho em thêm chút hơi ấm dưới lòng đại dương.

Chúng tôi thả thi hài em xuống biển, em nổi lên trôi lẩn quẩn bên thành tàu mấy phút như còn luyến tiếc những mối tình thâm, rồi chìm sâu vào lòng biển cả.

Em bé ơi! Nếu linh hồn em có linh thiêng xin hãy theo che chở cho chúng tôi, những người còn lại trên con tàu khốn khổ….

Ngày Thứ 8: cầu mưa

Tàu vẫn trôi bềnh bồng trên sóng biển. Đã mấy ngày không có giọt nước thấm giọng. Ở cuối chân trời vầng mây đen càng lúc càng lan rộng, cơn sóng biển càng lúc càng to báo hiệu thêm một cơn mưa. Nghĩ càng đau lòng. Người ta đi biển chỉ cầu mong biển lặng sóng yên. Còn chúng tôi trên tàu thì đang cầu có mưa. Mưa bão có thể làm chìm con tàu nhỏ bé, nhưng trước hết, có mưa mọi người thấy mình đỡ chết khát.

Mây đen phủ kín trời, con tàu nhấp nhô trên những đợt sóng bạc đầu khổng lồ. Rồi những giọt mưa nặng trĩu trút xuống khoang tàu. Tất cả há miệng ra để hứng từng giọt nước trời cho. Có người còn lo xa hơn, lấy những cái can đựng dầu mà chúng tôi cắt ra để hứng nước mưa phòng bị cho những ngày sắp tới.

Cơn lo chết khát đã qua đi! Cơn lạnh của đám mưa ướt đẫm cả người làm cho cơn đói càng thêm dữ dội hơn! Tôi thấy có người cạo rong xanh đóng vào thành tàu đưa vào miệng để ăn.

– Cái nầy có bổ dưỡng gì đâu mà ăn!

– Nó không bổ dưỡng nhưng để cho bao tử mình có cái gì làm việc. Đến khi được cứu, ăn đồ ăn vào sẽ không bị đứt ruột mà chết!

Nghe cũng có lý! Mọi người xúm lại cạo những vệt rong biển để ăn lót dạ. Chiếc tàu đóng đầy rêu xanh chỉ lát sau đã được mọi người cạo sạch như lau. Cơn đói cơn khát lại tiếp tục dầy vò, không biết đến bao giờ…

Ngày thứ 9-11: Ba ngày đêm bị hải tặc

Đây là ba ngày đen tối nhất trong hành trình vượt biển của chúng tôi! Ngày thứ 9: Thêm một tàu hải tặc xuất hiện. Hải tặc thay phiên nhau cướp bóc, hãm hiếp. Tôi không biết lấy lời gì để kể! Sang ngày thứ 10. Cùng vậy! Đoàn người trên tàu hoàn toàn kiệt lực rồi! Hải tặc muốn làm gì thì làm! Thêm ngày Thứ 11: Tôi chịu hết nổi!

Nhìn những em gái 14-15 tuổi quằn quại dưới bàn tay đen đúa của đám hải tặc Thailand. Những người vợ trẻ cặp mắt đau đớn nhìn chồng, và những người chồng ngoảnh mặt nhìn nơi khác mà đôi mắt lưng tròng! Tôi muốn lén đục bể chiếc tàu để cho mọi người cùng chìm sâu dưới lòng biển, để khỏi nhìn cảnh xót xa nầy! Nhưng mạng sống của hơn một trăm người còn lại, không cho phép tôi làm chuyện nầy!

Trời ơi! Chết không ra chết! Sống không ra sống! Biết bao lâu nữa chúng tôi mới tìm được bến bờ?

Ngày Thứ 12: Con rắn biển

Biển sao yên lặng quá! Không một bóng tàu. Lòng người thật mâu thuẫn. Cơn hãi hùng vì hải tặc cướp bóc, hãm hiếp mới đó, vậy mà bây giờ lại trông cho có bóng tàu.

Thấy tàu Thailand thì chúng tôi sợ, không thấy gì hết thì chúng tôi lo. Lo là không biết con tàu đã trôi vạt về đâu! Lỡ mà trôi ngược về hải phận VN thì thôi thà chịu cảnh cướp bóc, hãm hiếp trên biển Thái còn đỡ khổ và có chút hy vọng về tương lai hơn.

Mấy giọt nước mưa hứng từ cơn mưa bão mấy hôm trước giờ cũng đã cạn khô. Chúng tôi đã ăn tất cả những gì có thể ăn được, những rong rêu trôi lềnh bềnh cạnh tàu, mấy con sứa biển sống mặn đắng hôi tanh.

Có con rắn biển bằng ngón chân cái lội ngoằn ngoèo cạnh thành tàu. Một anh thanh niên nhảy ùm xuống biển, nắm đuôi đập đầu rắn vào thành tàu rồi ngắt bỏ đầu ăn sống không chừa một giọt máu.

Trời đất! Nó là con đèn cườm rất độc, nó mà cắn thì cho dù có ở trên đất liền cũng chưa chắc gì có thuốc chữa huống chi trên chiếc tàu lênh đênh trôi dạt như vầy! Tôi nghe kể là trước đây có chuyến tàu lạc trên biển lâu ngày, quá đói khát, có người đã ăn thịt người chết để mà cầm hơi. Lạy trời! Đừng để con tàu của chúng con lâm vào cảnh nầy.

Có con cá nút nhớt to hơn bắp chuối chân đang lội quanh quẩn chiếc tàu để nút chất dơ. Kiếm được một lưỡi câu sét và sợi dây gân ở dưới hầm tàu, tôi tớm lưỡi câu rồi lấy cái đầu rắn biển của anh thanh niên bỏ móc vào hy vọng sẽ câu được con cá.

Cá ơi! Làm ơn cắn mồi. Cắn mồi mầy sẽ chết, nhưng chúng tôi sẽ có thêm chút sự sống để chờ đợi phép lạ!

Con cá nhào lại táp mồi, dính câu! Mọi người la lên:

– Hay quá!

– Để em làm cá rồi lượt lên chia cho mọi người nghe!

Trời ơi! Con cá có bao lớn làm sao chia đủ cho 138 người? Tôi nghĩ không còn bao lâu nữa mọi người sẽ ngã gục vì đói khát trên con tàu vô phước nầy rồi!

Ngày Thứ 13: Lại tàu Thái nữa

Nhiều người đã lả vì đói nằm sắp lớp trên khoang tàu! Đêm về, gió mát và sương đêm làm cho mọi người cảm thấy đỡ hơn lúc ban ngày.

Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái đèn đuốc sáng trưng cặp vào. Trên tàu đầy tôm cá còn nhảy tung tăng vì mới đổ một mẻ lưới cào. Hai người ngư phủ nhảy sang tàu và cột tàu của chúng tôi vào tàu họ! Thôi rồi! Lại bị cướp bóc hãm hiếp nữa! Nhiều người đói quá nhẩy sang tàu Thailand quơ những con tôm, con mực còn sống mà ăn. Đói quá rồi! Ăn trước cái đã rồi muốn sao thì sao.

Đùng! Đùng! Đùng! Ba tiếng súng nổ vang trời. Một anh thanh niên vừa đứng lên định nhẩy lên tàu Thái chợt ngã sấp xuống vĩnh biệt cõi đời!?

Trời! Ăn có mấy con tôm cá sống mà nỡ bắn chết người sao? Mọi người chết lặng không dám nhúc nhích.

Người thuyền trưởng một tay cầm cây súng shot gun bắn chỉ thiên, một tay ra dấu đừng có ăn mấy thứ đó và dùng tiếng Phổ Thông nói với mọi người hãy trở về tàu mình, ông đã kêu ngư phủ nấu cơm, chiên cá chút nữa sẽ phân phát cho tất cả mọi người!

Chúng tôi thiệt là hồ đồ: Kẻ cướp trước đây thì ngỡ là người ơn, kẻ làm ơn thì chút nữa đã đổ oan cho họ là kẻ cướp.

Chúng tôi vội trở về tàu của mình. Còn anh thanh niên hóa ra không phải chết vị súng bắn, mà chắc vì đói khát, sức lực chỉ còn đủ để đứng lên rồi ngã quỵ hoặc là quá sợ hãi vì tiếng súng rồi đứng tim mà chết!

Lại phải cử hành lễ an táng cho anh ta dưới lòng đại dương, nhưng lần nầy anh có được chút may mắn hơn em gái nhỏ đã ra đi là vì có người thuyền trưởng Thái tốt bụng thắp cho ba nén hương tàn!

Ngày thứ 14: Vị thuyền trưởng Thái

Bất cứ dân tộc nào cũng vậy! Có người tốt, người xấu, kẻ dữ, người hiền. Vị thuyền trưởng người Thái gốc Hoa sau khi kêu đám ngư phủ phân phát cơm nước cho chúng tôi ông ngồi nói chuyện, kể lại là trước đây có lần ông đi đánh cá, tàu bị hỏng trôi dạt vào hải phận Việt Nam, được những người lính Hải Quân VNCH giúp đỡ kéo tàu về đảo Phú Quốc để sửa dùm máy móc sau đó mới chỉ hướng cho ông ta lái tàu về hải phận Thailand. Ông ta nói từ đó lòng ông rất cảm động và biết ơn.

Sau khi nghe tin miền Nam VN thất thủ và có nhiều thuyền nhân vượt biển tìm tự do, tàu của ông thường luôn chuẩn bị thêm gạo, nước để có dịp gặp thuyền nhân là ông tiếp tế!

Ông không thể nào vớt người vượt biển được vì chính phủ Thailand có lệnh cấm nếu ông làm trái lệnh sẽ bị đi tù, nhưng ông có thể đợi đến gần sáng sẽ kéo tàu của chúng tôi vào vùng biển có nhiều tàu đánh cá qua lại hơn, hy vọng sẽ có những người ngư dân tốt bụng khác giúp đỡ hoặc là gặp tàu buôn, chiến hạm cứu giúp!

Nghe ông nói trong lòng chúng tôi gợi lên chút ánh sáng hy vọng… Người ngư phủ lấy giây cột mũi tàu của chúng tôi vào sau lái tàu đánh cá của họ. Vị thuyền trưởng mở máy chạy rồi kéo đi từ từ, ông không dám chạy nhanh vì thấy chiếc tàu của chúng tôi đã quá cũ kĩ và đang rỉ nước. Kéo nhanh lỡ nó chịu không nổi, phá nước thì nguy!

Đúng 10 ngày con tàu của tôi mới được rẽ sóng biển mà lướt đi mặc dù nó phải nhờ chiếc tàu khác kéo giúp! Nhìn con tàu rẽ sóng lướt đi mà lòng tôi chợt nao nao! Không biết lần nầy nó có rẽ đúng hướng để đi về một nơi có chút hy vọng hay là lại đưa chúng tôi vào cảnh khốn cùng như những ngày đã qua!

Kéo cả ngày trời, đến khi trời sắp tối vị thuyền trưởng mới ngừng lại tại một vùng biển mà ông cho là sẽ có nhiều tàu đánh cá hơn. Ông kêu 2 ngư phủ đem qua tàu của chúng tôi một thau lớn cơm nếp, cá muối chiên, một cái phi bằng plastic đổ nước đầy, một bao gạo 50 lbs.

Có người quá cảm động với tấm lòng tốt của ông, moi móc trong cái nón nỉ tờ $100 USD, số tiền mà cho dù đám cướp biển ghìm dao, chĩa súng trước đây ông cũng không chịu đem ra mà đưa cho vị thuyền trưởng để tỏ lòng cám ơn. Ông không chịu lấy và nói là “ráng cất giữ nó đi, nếu may mắn được đến bến bờ của trại tỵ nạn thì số tiền đó cũng rất cần cho đời sống của người tha hương”!

Trước khi từ giã, ông còn không quên đưa cho mấy cái diêm quẹt, nói lời chúc may mắn rồi mới tháo dây tiếp tục cho chuyến đánh lưới tôm cá ngoài biển khơi. Thì ra, bên cạnh những hải tặc Thailand độc ác không có tánh người cũng còn có những người ngư phủ, hiền hòa chất phác thi ân không cần đền đáp.

Đêm hôm đó chúng tôi ngủ rất ngon với niềm hy vọng là mình sẽ gặp được nhiều ngư phủ giống như vị thuyền trưởng mới quen và chắc cũng không bao giờ có dịp gặp lại lần thứ 2!

Ngày Thứ 15-23: bềnh bồng không người lái

Xin rút ngắn chuyện trong những ngày nầy vì bài đã quá dài! Dài như cuộc hành trình gian khổ của những người mất nước đi tìm tự do.

Con tàu không người lái chở sinh mạng của 137 người còn lại vẫn trôi bềnh bồng trên sống biển. Mặc dù chúng tôi có thêm được chút nước và gạo nhưng cũng không dám ăn uống nhiều vì không biết đến bao giờ mới được cứu giúp.

Thỉnh thoảng cũng thấy có một hai chiếc tàu đánh cá ghé ngang đưa mắt nhìn, có tàu đưa qua một thau cơm, mấy gói mì khô, một can nước rồi bỏ đi!

Có thêm chút thức ăn nước uống thì chúng tôi lại phải vất vả làm việc hơn! Chỗ bể của con tàu giờ đây rỉ nước nhiều hơn, phải 6 người thay phiên nhau tát nước suốt ngày đêm để cho mực nước trong tàu đừng dâng cao. Sự sống của chúng tôi sao chẳng khác gì những con kiến bám vào cành cây trên dòng nước lũ, không biết sẽ bị dòng nước cuốn đi lúc nào?

Ngày Thứ 24: kéo tàu đi núp bão

Vùng biển thỉnh thoảng có tàu đánh cá Thái hôm nay sao vắng lặng như tờ? Ở cuối chân trời mây đen che kín một vùng, lâu lâu một tia sét chớp sáng hiện lên như báo trước một cơn bão khủng khiếp sắp xảy ra.

Các tàu đánh cá chắc đã nghe tin tức khí tượng báo bão nên đã trở về đất liền hoặc là kiếm nơi ẩn núp. Chỉ còn con tàu vô định của chúng tôi giữa đại dương mênh mông. Chúng tôi thừa biết là con tàu chắc chắn sẽ chìm đắm trong cơn bão sắp tới nầy!

Từ đàng xa một chiếc tàu đánh cá Thái chạy thật nhanh đến bên tàu của chúng tôi. Trên tàu chỉ có 2 người, một tài công và một ngư phủ. Người ngư phủ nhảy sang tàu của chúng tôi, lấy 2 sợi dây thừng thật to cột chặt vào mũi tàu rồi nói xì xào gấp rút với chúng tôi bằng tiếng Thái. Cảm thấy chúng tôi không hiểu gì, anh móc trong túi áo ra miếng giấy và vẽ vào đó một hòn đảo nhỏ nằm chơi vơi giữa biển khơi rồi ra dấu là họ sẽ kéo dùm tàu của chúng tôi vào đó!

Anh nhảy sang tàu đánh cá, người tài công mở máy thật lớn kéo con tàu của chúng tôi đi! Hai sợi dây thừng căng thẳng, chiếc tàu kêu lên răng rắc, chỗ bể lòng tàu bị sức ép càng tràn nước vào nhiều hơn!

Chúng tôi xúm lại tát nước! Cơn mưa đã bắt đầu rơi hạt, gió thổi mạnh, những đợt sóng biển càng lúc càng to làm lắc lư cả hai con tàu. Mạng sống của 137 người như chỉ mành treo chuông. Chắc chắn con tàu sắp bể tan từng mảnh.

Trong mưa bão, bỗng thấy hiện lên một khối to đen. Hòn đảo nho đây rồi. Trong tàu chúng tôi nước càng dâng cao, sức người tát nước ta không kịp. Người tài công cho máy nổ thật lớn lấy trớn đưa con tàu chúng tôi đến gần đảo hơn, rồi chặt dây thừng quây tàu mình chạy ngược về đất liền.

Con tàu lảo đảo, nước tràn vào gần đầy, mọi người nhảy xuống biển. May quá bờ biển chỉ sâu ngập chưa tới đầu người. Chúng tôi dìu dắt, ôm nhau lội vào bờ. Con tàu vài phút sau đó thì an phận chôn sâu dưới lòng biển.

Người ngư phủ Thái vô danh ơi! Anh đã làm một việc thiện để rất nhiều ơn đức cho con cháu sau nầy! Anh đã cứu một lần 137 mạng người trong cơn thập tử nhứt sanh!

Chúng tôi ùa vào đảo tìm những hang đá, bụi cây để tránh cơn mưa như thác lũ. Gió rít nghe rợn người, ngoài khơi tiếng sóng vang rền. Không biết ngày mai sẽ ra sao trên hòn đảo hoang không một bóng người này. Cũng chưa ai trong chúng tôi biết đây chính là đảo Kra, một hòn đảo hoang cách tỉnh Songkhla khoảng một ngày tàu. Hải tặc Thailand thường dùng nơi nầy để tránh những cơn bão và lên đảo kiếm thuyền nhân lạc vào để cướp bóc và thỏa mãn thú vui xác thịt, từ đó nó có thêm cái nickname là Đảo Hải Tặc.

Do sự kể lại của các thuyền nhân đã đến nơi nầy trước đây nên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ thường cho máy bay ra đảo nầy để tìm kiếm người vượt biển. Con tàu của chúng tôi tới đảo vào những ngày mưa bão, sẽ phải gánh chịu bao cảnh hãi hùng nữa?! Đâu có máy bay nào dám bay trong thời tiết mưa bão cấp 5?!

Ngày thứ 25: Đảo Hải Tặc

Sau một đêm chui rúc trong những hang đá, bụi cây mình mẩy ướt như chuột lột, sáng hôm sau, dù cơn mưa vẫn như trút nước, chúng tôi vẫn đi ra khỏi hang đá, bụi cây coi trên đảo có những thứ gì.

Ngay khi vừa nhìn ra biển thì trời ơi! 15 chiếc tàu hải tặc đang bỏ neo song song với nhau! Hơn 30 chục tên hải tặc trên mình chỉ có chiếc quần lót giắt dao găm, mã tấu lội vào bờ. Bộ muốn giết chết hết chúng tôi hay sao? Sau 24 ngày đói khát chúng tôi chỉ còn da bọc xương, sức lực yếu sùi chỉ cần xô nhẹ cũng đủ ngã rồi, đâu cần phải dùng dao búa! Trong cơn mưa bão, bọn hải tặc tràn vào, bắt người đem đi chỗ khác cướp bóc hãm hiếp…

Cho phép tôi đừng kể những cảnh hãi hùng nầy!…

Đảo Hải Tặc, Ngày Thứ 2:

Cơn mưa bão quả nhiên dữ dội và kéo dài! Đã qua đến ngày thứ 2 rồi mà mưa vẫn to, sóng vẫn lớn. Đám hải tặc vẫn thay phiên nhau lội vào bờ bắt người đi vào những bụi cây cướp bóc hãm hiếp!

Trốn trong hang đá bên cạnh tôi có đứa em gái chưa đầy 14 tuổi, thân hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương, vậy mà hải tặc cũng xóc nách lên đòi đem đi. Tôi đưa tay cản lại, không phải là tôi muốn làm anh hùng rơm mà ý của tôi là em còn nhỏ quá, ốm yếu đâu có sức lực gì, thôi tha cho em bé đi!

Tên hải tặc tưởng tôi có ý chống đối, rút trên lưng quần lót ra chiếc mã tấu, nhá nhá vào tôi làm tôi cũng hết hồn. Thôi thì… Tên hải tặc xóc nách em bé, em giẫy giụa, la khóc! Rồi không hiểu sao hắn bỏ em xuống đi tìm người khác!

Em bé trong hang đá xưa bây giờ chắc đã thành một người vợ, người mẹ. Bao năm qua, tôi vẫn nhớ sự bất lực của mình và hằng cầu mong cho em được hạnh phúc.

Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 3: thêm 2 cô gái trẻ.

Những chiếc tàu hải tặc vẫn còn bỏ neo trên bờ biển! Cơn mưa bão vẫn tiếp tục nên chúng nó không cần phải sợ là có máy bay LHQ bắt gặp nên càng ra sức lộng hành! Từ ngoài khơi một chiếc tàu hải tặc khác chạy vào thả neo rồi bỏ 2 cô gái trẻ ôm phao lội vào bờ.

Hai cô nầy đã bị chiếc tàu hải tặc bắt đi cả tuần rồi! Bây giờ cũng không biết chiếc tàu và những người trên tàu của hai cô ra sao? Thì ra, đâu phải chỉ có riêng con tàu vượt biển của chúng tôi là gặp cảnh khốn đốn! Biết bao nhiêu ngàn người đã bỏ thây nơi biển cả mà không một ai biết tới.

Vậy là chuyến tàu của tôi trở thành con tàu không số KG139 (137 người còn sống sót trên tàu và 2 người bị hải tặc bắt đi rồi thả vào đảo)!

Đảo Hải Tặc, ngày Thứ 4: Máy bay!

Cơn giông bão đã qua. Mặt trời đã ló dạng ở chân trời. Ngoài bờ biển không còn một bóng tàu hải tặc nào. Chắc họ biết là cơn bão đã qua sợ máy bay LHQ nhìn thấy rồi chụp hình nên bỏ đi hết.

Chúng tôi kéo ra ngoài bờ biển để hít thở không khí trong lành của biển sau bao ngày trốn chui, trốn nhủi trong hang đá! Có người đói bụng quá thấy mấy cây đậu ma bẻ hạt ra ăn, trúng thực ói ra mật xanh, không chết là may!

Đến trưa thì chúng tôi nghe có tiếng máy bay vòng quanh hòn đảo nhỏ. Mọi người mừng rỡ chạy ra bờ biển, cởi áo ra quơ lên trên cốt ý cho viên phi công thấy. Chiếc máy bay đảo lại nhiều vòng rồi bay thật thấp như có ý nói là họ đã thấy chúng tôi, rồi cất cánh bay cao về đất liền. Mọi người hân hoan tay bắt mặt mừng. Cái giá quá đắt của 2 chữ Tự Do của chúng tôi sắp sửa được đền bù!

Ngày Cuối Cùng: Chết sau khi có ăn

Trời hừng sáng là chúng tôi đã thấy một chiến hạm thật lớn của hải quân Thailand do Cao Ủy Tỵ Nạn mướn đậu ở ngoài khơi! Họ thả hai chiếc ca nô xuống rồi chạy vào đảo nhỏ. Từng người dìu nhau ra ca nô mỗi lần 10 người, phụ nữ, trẻ em đi trước, sau đó thì mới tới đàn ông, thanh niên.

Trên tàu họ đã nấu cháo thật nhừ với cá muối chiên phân phát cho mỗi người chúng tôi. Họ biết chúng tôi đói khát lắm rồi nên không dám cho ăn nhiều chỉ phát cho mỗi người một chén cháo lỏng và nửa ly nước cam, bảo là nên ăn từ từ cho bao tử quen với cơn đói nhiều ngày.

Thật không may mắn cho một anh thanh niên, ăn uống xong anh ta ngã ra nằm thở hổn hển mặt mày nổi đen rồi trút hơi thở sau cùng!

Anh bạn ơi! 29 ngày gian nan, đói khát trên biển cả anh vẫn chịu đựng nổi, sao chỉ còn vài giờ để nhìn thấy bến bờ tự do thì anh lại vội bỏ ra đi! Người thủy thủ lấy tấm vải trắng che thân thể anh ta mà nước mắt lưng tròng!

Xa xa những hàng dừa xanh, những căn nhà hiện lên lờ mờ của bến cảng Songkhla! Từ đây, chúng tôi biết mình đã sống lại, như sang một kiếp khác.

* * *

Nhiều năm đã qua. Những người sống sót trên con tàu mỏng manh năm xưa không biết nay ra sao. Tại vùng Little Saigon, có lần trong một ngôi chợ VN rồi sau đó trong Home Depot, tôi được thấy lại một bóng hồng quen, đó là cô bạn gái của chàng Trung Uý Hải Quân đóng vai tài công trong chuyến tầu năm xưa. Nhớ lại 29 ngày đêm cùng chung một con tàu đầy sóng gió, khi gặp lại cô tôi có mở lời chào nhưng rồi cả hai lần đều cảm thấy cô nhìn đi chỗ khác. Có lẽ cô không còn nhớ, hoặc không muốn nhớ!…

Biết bao khổ nhục. Quên đi là phải. Gợi lại làm gì.

Tôi biết vậy mà vẫn viết lại những trang nhật ký này để tưởng nhớ đến 138 người bạn đã cùng tôi trải qua 29 ngày đêm lênh đênh trên biển cả, những người bạn đã may mắn đến được bến bờ tự do, và những người bạn đã gởi nắm xương tàn dưới lòng đại dương.

Chuyện của một tài xế taxi tại New York

Chuyện của một tài xế taxi tại New York

Một tài-xế taxi tại New York viết:

Tôi đến địa chỉ của khách hàng và nhấn kèn. Chờ vài phút sau, tôi lại nhấn kèn lần nữa. Vì đây là cuốc cuối cùng trong ngày, nên tôi định bỏ đi, nhưng rốt cuộc tôi đậu xe chờ, tôi bước tới cửa và gõ.

Một giọng nói của người lớn tuổi: “Một phút thôi.”

Tôi nghe vật gì đó kéo lê trên sàn nhà.

Khá lâu sau, cửa sịch mở. Một bà lão khoảng 90 tuổi, nhỏ con, đứng nhìn tôi. Bà mặc áo đầm in hoa, với chiếc mũ có rèm che, tựa như nhân vật trong những phim hồi thập niên 1940.

Bên cạnh bà là chiếc vali nhỏ bằng nylon. Căn hộ giống như chẳng có ai ở từ nhiều năm rồi. Tất cả đồ đạc đều được phủ bằng những tấm ‘ra’. Trên tường không có đồng hồ, trên các quầy không có những món đồ mỹ nghệ linh tinh hay dụng cụ nào. Trong góc có chiếc hộp đầy những hình chụp và vài món trang sức bằng thủy tinh.

“Ông có thể mang giúp hành lý ra xe được không?” bà hỏi, và tôi mang vali ra xe, xong trở lại giúp bà. Bà tựa vào tay tôi, chúng tôi đi chầm chậm tới phía lề đường. Bà không ngớt cảm ơn lòng tốt của tôi.

Tôi nói “Chẳng có gì đâu bà ạ, đơn giản là tôi cố gắng đối xử với hành khách giống như tôi muốn người khác đối xử với mẹ tôi vậy.”

“Ô, cháu là đứa trẻ tốt.”

Ra tới xe, bà cho tôi địa chỉ, rồi hỏi xem liệu tôi có thể băng qua trung tâm thành phố được không. Khi tôi bảo rằng lộ trình ấy không phải là ngắn nhất, bà nói “Không sao cả, bà không vội, bà tới trung tâm săn sóc tạm thời.”

Nhìn qua kiếng chiếu hậu, tôi thấy mắt bà long lanh. Bà nhẹ nhàng nói “Bà không có gia đình, bác sĩ bảo rằng bà chẳng còn bao lâu nữa.” Tôi lén thò tay tắt đồng hồ tính tiền, rồi hỏi “Bà muốn cháu đi đường nào?”

Suốt hai giờ đồng hồ sau đó, chúng tôi loanh quanh khắp thành phố, bà chỉ tôi tòa cao ốc, nơi trước đây bà làm người phục vụ trong thang máy. Chúng tôi đi qua khu phố, nơi mà xưa kia vợ chồng bà từng ở, khi họ mới kết hôn. Bà bảo tôi dừng xe trước một nhà kho đồ nội thất, mà nhiều năm về trước, là một phòng khiêu vũ, mà hồi con gái, bà từng đến. Đôi lúc, bà bảo tôi chạy chậm qua một tòa nhà, hoặc góc phố nào đó, trong khi bà ngồi im trong bóng tối, tia nhìn xa xăm.

Khi trời ngả về chiều tối, bà bảo là hơi mệt, và muốn tới nơi cần tới. Chúng tôi im lặng hướng tới địa chỉ ghi trên tờ giấy. Đó là tòa nhà nhỏ, giống như nhà phục hồi sức khoẻ, có hàng hiên dẫn vào lối đi nội bộ. Dường như biết trước bà sẽ tới, hai người điều dưỡng bước tới xe, ân cần giúp bà.

Tôi mở cốp xe và lấy vali mang tới cho bà, bà đã ngồi vào xe lăn.

Vừa mở túi xách, bà vừa hỏi “Bà gởi cháu bao nhiêu?”

– Không có gì đâu, bà ạ.

– Cháu phải sinh nhai mà.

– Vẫn còn khách khác, bà ạ.

Bỗng dưng tôi cúi xuống ôm hôn bà, bà xiết tôi thật chặt: “Cháu đã giúp cho một bà già có được những giây phút vui vẻ, bà cảm ơn cháu.”

Tôi xiết tay bà và quay đi. Sau lưng tôi, tiếng cánh cửa khép lại, đó là âm thanh của một cuộc đời đang chấm dứt.

Trên đường về, tôi không rước thêm khách nào nữa, miên man suy nghĩ, lái xe không định hướng, và chẳng mở miệng nói lời nào suốt buổi tối hôm ấy.

Liệu bà sẽ ra sao nếu trước đó đã gặp phải một tài-xế quạu quọ, hoặc đang vội vàng, không kiên nhẫn? Và nếu trước đó, tôi đã từ chối cuốc của bà, đã nhấn kèn nhiều lần rồi bỏ đi?

Sau khi suy nghĩ rất lâu, tôi cho rằng trong đời mình, cho tới buổi tối đó, tôi chưa bao giờ làm được điều gì quan trọng hơn nữa.

From: Phong Dương