Chuyện diệu kỳ về con khỉ đột có lòng biết ơn…Truyện ngắn có thật

Vanhoa Nguyen – Những Câu Chuyện Ý Nghĩa Thú Vị

Nuôi 1 con khỉ đột rồi thả về tự nhiên, 5 năm sau người đàn ông bất chấp đi tìm lại và cái kết ngoài tưởng tượng.

Liệu con vật có nhận ra người đàn ông đã từng nuôi dưỡng nó những năm đầu đời không? Hay nó sẽ coi người đàn ông là 1 kẻ xâm phạm lãnh thổ và tấn công anh ta.

Những sự thật đáng yêu về các loài động vật có thể bạn chưa biết / Khám phá loài động vật có ‘cú đấm mạnh nhất thế giới’ .

Damian Aspinall là một doanh nhân kiêm nhà bảo tồn động vật học người Anh, người đã có công nuôi dưỡng và thả về tự nhiên khoảng 50 con khỉ đột ở Gabon – 1 quốc gia ở Trung Phi. Trong số những con khỉ đột được lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của Damian, có 1 con tên là Kwibi.

Mặc dù Damian và Kwibi vô cùng thân thiết, nhưng anh biết, anh không thể giữ nó mãi bên mình, Kwibi phải trở về với thế giới tự nhiên và cuộc sống theo bản năng của nó. Vì thế, khi Damian biết Kwibi có thể tự chăm lo cho bản thân mình, anh đã thả nó về với rừng xanh.

Damian đã chăm sóc cho nhiều con khỉ đột, trong đó có Kwibi từ khi chúng còn nhỏ xíu.

Năm năm sau, Damian muốn đến 1 khu rừng ở Goban, nơi Kwibi, lúc này đã là 1 chàng khỉ đột trưởng thành 10 năm tuổi, sống cùng gia đình riêng của mình để gặp lại nó.

Tuy nhiên, trước chuyến đi, nhiều người cảnh báo anh không nên đến, vì 5 năm trôi qua, giờ Kwibi đã là 1 con khỉ đột hoang dã, rất có thể nó sẽ không nhận ra anh, thậm chí sẽ tấn công vì coi anh là kẻ xâm phạm lãnh địa của nó. Với kích thước và sức mạnh của mình, nó có thể gây nên những vết thương khủng khiếp cho Damian, thậm chí lấy mạng của anh.

Ngoài ra, 2 người gần nhất từng vào rừng gặp Kwibi đã bị nó tấn công. Đây cũng là 1 thông tin đáng lo ngại.

Giờ đây, Kwibi đã là 1 con khỉ đột trưởng thành, to lớn và có thể gây nguy hiểm cho con người.

Song bỏ ngoài tai những lời can ngăn, Damian vẫn quyết định lên đường, tiến sâu vào 1 khu rừng ở Gabon để gặp lại Kwibi. Anh ngồi trên thuyền, nôn nóng muốn gặp lại Kwibi, vừa giống như 1 người bạn cũ, vừa giống như 1 đứa con mà lâu rồi anh chưa được thấy mặt.

Ngồi trên thuyền, anh lớn tiếng gọi Kwibi, hy vọng nó sẽ nhận ra giọng nói của anh. Nhưng nhiều giờ trôi qua, vẫn chưa có dấu hiệu gì của con vật. Rồi đột nhiên, 1 bóng đen xuất hiện từ trong rừng. Đó chính là Kwibi, con khỉ đột đã không gặp Damian trong 5 năm trời.

Nghe thấy tiếng gọi của Damian, nó tiến gần hơn tới mép nước.

Damian nhảy lên bờ, dù cũng không dám chắc Kwibi sẽ phản ứng như thế nào. Dĩ nhiên, một vài người đàn ông cầm dao phát quang bụi rậm cũng đứng cạnh đó, đề phòng việc con vật bất ngờ trở nên hung hãn.

Bất chấp tất cả, Damian đến ngồi cạnh Kwibi, giao tiếp với nó theo cách riêng của anh.

Nhưng Damian, không có chút sợ hãi nào, quyết định đến ngồi cạnh nó. Rồi anh vặt 1 cái lá cây, nhai nhai rồi bỏ vào mồm Kwibi. Dường như đó là cách giao tiếp quen thuộc mà chỉ có anh và nó mới hiểu. Rồi đột nhiên, Kwibi nhìn chăm chú vào mắt Damian với sự trìu mến. Dường như nó đã nhớ ra anh là ai. Dù nhiều năm qua đi, nó vẫn chưa quên anh và không ngừng yêu thương anh. Đến lúc này, Damian mới biết chắc rằng mọi chuyện đã ổn.

Phản ứng và cái ôm đầy yêu thương của Kwibi khiến Damian mỉm cười vì quá hạnh phúc.

Kwibi bắt đầu hành xử không giống cách của 1 con khỉ đột đầu đàn, mà như 1 đứa con nũng nịu cha nó. Nó vòng tay ôm ấp Damian như ngày còn thơ bé, lúc nó được Damian chăm sóc. Người đàn ông không giấu được nụ cười hạnh phúc. Con khỉ đột còn như muốn “giới thiệu” Damian với những con khỉ đột cái trong đàn, “vợ” của nó.

Cả hai cứ thế ngồi đến khi mặt trời lặn, Kwibi cứ ôm ghì lấy Damian, không muốn cho anh rời đi. Nhưng cuối cùng, anh vẫn phải trở về chỗ cắm trại trước khi trời tối. Và một cảnh tượng không thể tin nổi đã xảy ra, khiến nhiều người rơi nước mắt.

Kwibi đã đuổi theo thuyền của Damian. Nó cứ đi bộ dọc bờ sông cho đến tận chỗ cắm trại của Damian, không để anh biến khỏi tầm mắt. Rồi cứ thế, Kwbi cùng gia đình của nó dừng lại đúng ở vị trí đối diện nơi Damian ngủ qua đêm.

Kwibi đã ngồi cả đêm ở bờ sông, chờ để gặp lại Damian vào sáng hôm sau.

Sáng hôm sau, khi Damian xuống sông để tắm, anh đã thấy Kwibi ngồi ở bờ sông đối diện, hóa ra nó đã ở đây suốt đêm không rời đi, chỉ để chờ anh thức dậy, như để nói lời chào tạm biệt và cảm ơn với người đàn ông đã hết lòng chăm sóc cho nó suốt thời thơ ấu.

Cuộc gặp gỡ xúc động sau 5 năm giữa khỉ đột Kwibi và “bố Damian” – người đã yêu thương và cưu mang nó khi còn nhỏ đã khiến cộng đồng mạng tuôn trào cảm xúc. Riêng đoạn clip về cuộc gặp gỡ do We Love Animals đăng tải cũng đã thu về gần 25 triệu lượt xem. Nhiều người thừa nhận họ đã không thể không bật khóc và đoạn phim tài liệu là 1 trong những điều tuyệt vời nhất về thế giới tự nhiên mà họ đã từng xem, chân thật và sống động hơn bất cứ 1 tác phẩm nào của Hollywood mô tả sợi dây gắn kết giữa con người và động vật.

Nó cũng là bằng chứng cho chúng ta thấy, không chỉ con người, mà động vật cũng hiểu thế nào là tình yêu và lòng biết ơn. Dù thời gian có trôi qua, những tình cảm tốt đẹp ấy vẫn không mất đi và cũng là điều khiến cho thế giới này trở nên đáng sống hơn.

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

Tấm lòng của người đàn bà bán ve chai-Truyen ngan

Kim Dao Lam

Fb Hương Nguyễn

Một người đàn bà bán ve chai bước vào quán với bao gạo và chai dầu ăn. Chị mang ơn quán cơm này vì đã cứu chị rất nhiều bữa đói. Chị nghèo khó nhưng không quên ơn, gom góp từng đồng, cuối năm, chị dành mua 1 bao gạo và 1 chai dầu tặng lại quán để có thể giúp thêm những người khốn khó khác”.

Có lẽ đó là một trong những bức ảnh đẹp nhất về chân dung con người, trong hoàn cảnh đảo điên nhuộm nhoạm của xã hội ngày nay. Tôi cứ ngắm mãi khuôn mặt chị, đó là một người đàn bà chắc chắn đã trải qua rất nhiều khó khăn, đói khát. Một khuôn mặt điển hình của những người lao động vất vả ngoài đường.

Vậy mà trong khoảnh khắc ấy, chị thật đẹp. Vẻ đẹp tỏa ra từ bên trong, từ hành động cao cả, nghĩ đến người khác, những người khó khăn hơn mình, nên dù nghèo, chị vẫn gom nhặt từng đồng tiền lẻ để mua bằng được một bao gạo con con, một chai dầu ăn mang đến quán.

Trong cái thời buổi đồng tiền lên ngôi, tình người lạnh lẽo, lối sống ích kỷ lan tràn thì tấm lòng của người đàn bà bán ve chai lại càng đẹp hơn bao giờ hết. Nó cho thấy dù chị nghèo khó thật đấy, nhưng chị giàu có hơn vạn lần người khác, những người chưa một lần chìa tay ra san sẻ cho đồng loại.

Vinh Phan


 

NGƯỜI CHA- DieuLe Sưu tầm-Truyện ngắn

Kimtrong Lam  LƯƠNG VĂN CAN K 76. 

DieuLe Sưu tầm

Vợ ông mất từ khi đứa con gái thứ 2 được 2 tháng vì bệnh tim.

Ông một mình nuôi 2 con khôn lớn. Với đồng lương hạn hẹp của một giáo sư đại học lúc bấy giờ, ông thật vất vả để cho hai cô con gái một cuộc sống no đủ. Rất nhiều cô gái thanh tân, phần vì thương, phần vì ngưỡng mộ tài học, phần vì kính trọng nhân cách của ông, sẵn lòng về làm vợ ông để chia sẻ với ông, cùng nuôi dạy hai con. Ông cũng có ý muốn đi bước nữa khi hai con đã hết cấp 3.

Nhưng sự đời khó đoán, khi ông mới dẫn vợ chưa cưới về nhà, hai cô con gái phản ứng quyết liệt. Có thể do ích kỷ không muốn chia sẻ ông với ai, có thể sợ sẽ bị dì ghẻ đày đọa, một cô bỏ nhà đi, một cô đi nhảy sông tự tử, mà không chết. Ông bị choáng nặng.

Ông không ngờ, hai cô con gái ngoan hiền ngày nào lại đối xử với mình như thế. Vừa thương vừa giận, có lẽ thương con sợ hai con gặp bất trắc, ông lần lượt bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội của cuộc đời. Lặng lẽ nuôi và nhìn con trưởng thành, ông ít nói ít cười hẳn, chỉ khi lên giảng đường, ông mới được là chính ông.

Các cô con gái lần lượt lấy chồng, sinh con và hay tụ tập ở nhà ông vào tối thứ bảy và chủ nhật. Ông vẫn một mình cơm niêu nước lọ. Chăm chăm chờ đến ngày được gặp con cháu. Ít lâu sau, ông phát hiện mình bị parkinson, tay chân run, không tự làm được gì. Hai cô con gái hớt hải chạy tới. Ai cũng phải lo cho gia đình riêng, ai cũng phải đi làm, ai đâu mà chăm cha. Họ rụt rè nói với ông, hay bố cưới cô nào về làm vợ để phục vụ bố lúc tuổi già đi.

Ông giận run người, lắp bắp. Các con thật ích kỷ, bây giờ bố 65 rồi, lấy ai, người ta vì chờ bố đến giờ này vẫn ở vậy, mấy chục năm cấm cản bố, xỉ vả người ta chẳng ra gì, bây giờ bố bệnh thế này mặt mũi nào hỏi cưới người ta. Hai cô gục đầu xuống khóc, khi cơn giận khiến ông bị tai biến phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện.

Ông được ra viện, ánh mắt ông thật buồn, thật xa vắng. Hai cô nhờ người thuê được một người đàn bà lỡ thì rất xinh đẹp tới chăm ông. Lúc đầu bà chăm ông bằng nghĩa vụ, lâu dần bà chăm ông như chăm một người bạn già. Hằng ngày, khi đã xong hết việc, ông ra hiệu cho bà lại gần, ông viết tên các cuốn sách hay trên giá và khuyên bà đọc. Rồi ông bập bẹ phân tích cốt truyện cho bà nghe, cho bà biết cái hay cái dở của cuộc sống trong đó. Ông dần bình phục sau tai biến. Sau 5 năm bè bạn cùng ông, từ một người đàn bà ít học, sống trong gia đình nông dân nghèo, bà đã có thể đàm đạo với ông, một giáo sư nổi tiếng về rất nhiều lĩnh vực.

Ông dạy bà cắm hoa, nghe nhạc, làm thơ và vẽ tranh.

Bà cảm phục và hết lòng yêu quý ông. Bà chủ động nhờ hai cô con gái nói giúp với ông cho phép bà được gá nghĩa trăm năm cùng ông. Hai cô đồng ý ngay, vì tình cảm của họ rất tốt. Bà thì thật thà, chân thành và dịu dàng. Từ lâu bà coi các con ông như con mình. Song, ông từ chối. Ông cười rất rất buồn và nói, cảm ơn cô đã có lòng với tôi, tôi già rồi và bệnh tật thế này còn mang lại hạnh phúc cho ai được đâu, cô còn trẻ và xinh đẹp, cô vẫn có thể xây dựng hạnh phúc với người khoẻ mạnh hơn tôi, hãy coi tôi như người bạn và đọc hết kho sách trong tôi đi, cô sẽ học thêm được nhiều điều có ích cho cuộc sống này.

Ngày ông trút hơi thở cuối cùng, bà khóc ngất đi. Bà quỳ xuống chân 2 cô con gái ông, xin các con cháu cho cô để tang ông ấy như để tang một người thầy, một người bạn tri kỷ và một người chồng duy nhất của cô. Hai cô con gái đỡ bà dậy, oà khóc, mẹ ơi…

Đưa đám ông xong, hai cô biếu bà căn nhà của bố, để con cháu có chỗ chạy đi chạy lại như khi ông còn tại thế. Hằng ngày,

bà vẫn bầu bạn cùng ông và vợ ông trên bàn thờ, chuyện trò cùng họ, bàn bạc về mọi tác phẩm bà đọc và chờ đến thứ bảy và chủ nhật được đón các con cháu ông về cùng bà ăn cơm gia đình.

DieuLe_Sưu tầm


 

Cô giáo Minh Tâm – Truyện ngắn

Chi NguyenNhững câu chuyện Nhân Văn

Sau 30 tháng 4 năm 1975, dòng đời gẫy khúc. Sài Gòn hσảпg ℓσạп. Xã hội tràn ngập bao cảnh đời ly tán. Cuốn trôi biết bao gia đình điêu linh theo mạch sống ngược xuôi. .. Đời sống cơ cực gây ra nhiều mảnh đời bất hạnh… Một trong những gia đình tan tác này, có cô giáo Minh Tâm là vợ sĩ quan. Chồng đang đi học tập cải tạo ở vùng trời xa xôi hẻo lánh. Sau khi chồng vắng nhà, chị bị chính quyền đuổi ra khỏi trại Gia Binh.

Chị và mấy đứa con nhỏ đành dọn ra ngoài, đến ở đậu nhà bà con ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Hoàn cảnh khó khăn quá, vài nguời bạn thân bày cho đi buôn bán…Chị gom gom hết tất cả tài sản mình dành dụm bấy lâu nay, bắt đầu tập tành tìm kế sinh nhai. Một ngày, chị mang số hàng giao cho người khách quen. Trên đường đi, một chiếc xe Honda trên đó có hai thanh niên rồ ga từ phía sau lưng, chạy lướt qua. Với vận tốc nhanh hơn chớp mắt, họ bất ngờ giựt cái túi ҳách. Chị điếng hồn thất sắc. Trong túi ҳách có sáu lượng vàng, ba cái đồng hồ, và sổ hộ khẩu. Chị Minh Tâm định, sau khi giao hàng xong, chị sẽ đến Hợp Tác Xã mua gạo và mắm muối. Xe Honda phóng như bay, vọt cái vù và mất dạng. Chỉ còn lại một mình lảo đảo, chị té ngã trên đường. Lồm cồm đứng dậy khi hoàn hồn, đầu óc quay cuồng. Những bước chân lê lết như đi trên mây, chị đành thất thểu quay trở về nhà, ôm mấy đứa con khóc.

– Con ơi, từ hôm nay, mẹ con mình chết đói rồi !

Mẹ của chị Minh Tâm nghe tin như sét đáпh ngang tai, hốt hoảng chạy tới hỏi thăm. Bà bàng hoàng trước cảnh buồn nát ruột tím gan này. Trong nỗi đau khổ tận cùng, tấm lòng bao la của người mẹ làm sao không thươпg xót. Nhất là, khi con gái mình cạn tiền, mất sạch sẽ nguồn sinh sống. Bà mẹ liền tháo đôi bông của chính mình đang đeo trên hai trái tai, đưa cho con gái.

– Con đừng buồn nữa, hãy bán đôi bông này, làm vốn nuôi con.

Nhưng chị Minh Tâm từ chối vì thươпg mẹ quá. Bà cũng nghèo như mình thôi.

Cùng một thời điểm chị Minh Tâm bị đuổi ra khỏi trại Gia Binh. Trớ trêu thay, chị bị mất việc ở trường học …Tinh thần sa sút, thân sơ thất sở, chị tuyệt vọng đến tận cùng kiếp nhân sinh. Người bạn thân, cô Bông đồng cảnh ngộ, cũng bị đuổi việc, và cũng là vợ sĩ quan đi học tập miền xa, đến thăm hỏi. Cô Bông nhanh tay xoay trở, thích nghi với cuộc sống mau lẹ hơn. Cô Bông đang cần cù, tất bật mưu sinh qua ngày với cái nghề mới mẻ – Bán bánh canh. Cô Bông an ủi và khuyên chị Minh Tâm nên học nghề bán bánh canh, kiếm chút tiền đắp đổi, sống lây lất qua ngày với hai bữa cơm canh đạm bạc.

“Măng chua nấu với ngạnh nguồn,

Sự đời đắp đổi khi buồn khi vui.”

Tất cả nguyên liệu, gia vị nêm nếm, cũng như cách thức nấu bánh canh, đều do cô Bông, người bạn thâm tình chỉ dẫn từng chi tiết nhỏ nhặt bằng cả tấm lòng thành. Có cùng hoạn пạп mới thấu hiểu đá vàng – giúp đỡ lẫn nhau trong buổi giao thời nghiệt ngã. Làm sao có thước nào đong đo lòng nhân ái ?

Dòng đời vẫn trôi…

Năm tháng cơm rau vẫn hoàn rau cơm..Đôi vai gầy guộc oằn gánh đi thăm nuôi chồng…Chưa ai biết được ngày nào mãn tù, sum họp..

*** ****

Đến một ngày, chị Minh Tâm bất ngờ nhận tờ giấy báo từ hải quan, đi lãnh thùng quà từ Mỹ gởi về ở phi trường Tân Sơn Nhất. Trên tờ giấy mỏng manh này ghi rõ ràng tên họ của chị. Chị Minh Tâm quá đỗi sững sờ, đến ngơ ngác !

Chị cứ ngỡ nhầm tên, hoặc là sai địa chỉ – vì mình hoàn toàn không có thân nhân hay bạn thân nào ở Mỹ. Chị rất lo lắng, không biết chuyện gì xảy ra và tự hỏi – Sao ai mà biết tên họ, địa chỉ rành mạch của mình như vậy ? Chị rối trí nên dọ hỏi ý kiến vài người bạn. Ai cũng khuyên chị nên đi nhận thùng quà.

Ngạc nhiên hơn nữa, trong thùng quà này có một phong bì với những hàng chữ trần tình – khiến chị hoa mắt:

Tôi là người giật túi ҳách của chị năm xưa. Với số vàng đó, tôi đã vượt biển đến Mỹ. Hiện tại tôi đi làm được vài tháng. Lòng tôi luôn ray rứt khi nghĩ đến chị, xin cho tôi nói lời hối hận và cám ơn chị rất nhiều. Nhờ chị, tôi được đổi đời. Nếu không có ngày định mệnh khắc nghiệt đó…

Đến định cư ở vùng trời tự do, tôi quyết tâm làm lại cuộc đời. Tôi nhanh chóng tìm việc làm, toàn tâm toàn ý cắc củm, dành dụm được số tiền ít ỏi này. Người đầu tiên tôi muốn đền ơn đáp nghĩa, đó là chị. Hy vọng chị tha lỗi cho lòng tôi nhẹ bớt mặc cảm tội lỗi. Mong chị nhận thùng quà đầu tiên với cả tấm lòng thành thật, ăn năn sám hối. Tôi biết, sau lần mất mát sáu lượng vàng, chị đau khổ ra sao rồi. Cũng may, trong túi ҳách có sổ hộ khẩu, sổ mua gạo nên tôi biết địa chỉ, và giữ cẩn thận cho đến hôm nay.Những ngày tiếp nối sau này, tôi hứa với lòng, sẽ tiếp tục gởi về chút quà thêm nữa, để đền bù cho chị đầy đủ.

“Tướng cướp buông đao xuống là thành Bồ Tát.”

Tôi nhớ hình ảnh này có trong kinh Phật.

Nhưng ngày nay lại hiện hữu giữa dòng đời, Một ngày đẹp trời, tâm hồn an nhiên lắng đọng, chị mơ màng ngoảnh nhìn về quá khứ bên kia bờ đại dương.

Hoài niệm buồn đẫm lệ ở góc phố Sài Gòn xa xăm thuở nào, bỗng dưng quay lại thước phim cổ tích chưa ngủ yên trong tiềm thức. Chị Minh Tâm khe khẽ kể lại quá khứ mờ phai. Ngàn giọt lệ khóc thầm đã lặng lẽ rơi dài trong nhiều đêm cô tịch, mà mình đã trằn trọc thao thức.

Nụ cười hiền hòa nở trên môi, như để thay lời tha thứ cho một kẻ cướp. Chàng thanh niên còn xanh tóc đã lầm lỡ, nông nổi làm khổ gia đình mình. Một người dưng hoàn toàn xa lạ, mà chị chưa bao giờ biết mặt.

Bài & ảnh sưu tầm


 

CÂU CHUYỆN THẦN KỲ!

 

Perez, một cựu phi công của không quân Cuba đã trở thành một chủ đề bàn tán sau chuyến bay đào tẩu và còn quay trở về nước để đón vợ và hai đứa con. Perez đã liều lĩnh mạng sống của mình nhưng cho rằng điều đó là xứng đáng để chạy theo giấc mơ của gia đình.

Khi còn hoạt động trong không quân, Perez được gửi sang liên bang Soviet 2 lần để học lái máy bay và sau đó cùng gia đình trở về Cuba.

Được tiếp xúc với bên ngoài, Perez và gia đình nhận ra họ đang sống dưới một chính quyền với áp bức và tuyên truyền những thông tin sai lệch. Họ cho rằng chỉ có một con đường duy nhất đó là trốn ra khỏi nước ngoài.

Ngày 30/3/1991, Perez từ biệt vợ con với lời hứa sẽ quay về đón vợ và hai đứa con. Họ phải giả vờ không hề biết gì về kế hoạch của Perez. Và trong buổi tập bay hôm đó, anh ta đã lái chiếc MiG-23 trốn thoát khỏi Cuba và bay thẳng tới Key West.

Vượt qua được radar của Mỹ, Perez bay tới được một căn cứ không quân, lượn 3 vòng phía trên và lắc cánh ra hiệu ý định hoà bình và hy vọng sẽ không bị bắn hạ.

Sau khi hạ cánh thành công. Do bất đồng ngôn ngữ nên Perez cố gắng dùng tiếng Tây Ban Nha để xin được tị nạn chính trị. Sau một hồi thì những người trên mặt đất cũng hiểu được và anh nhận được cái bắt tay kèm câu nói “Chào mừng đến với nước Mỹ.” Và được chuyển tới Washingon để làm giấy tờ tị nạn.

Sau khi được chấp nhận, Perez bắt đầu tìm cách đưa vợ con sang Mỹ. Gia đình anh bị chính quyền giám sát trong suốt khoảng thời gian 21 tháng khi anh đang tìm cách. Gia đình anh được cấp trước Visa nhưng chính quyền Cuba cương quyết ko cho họ ra đi. Tổng thống Mỹ G.W. Bush cũng có bài phát biểu kêu gọi Fidel Castro cho họ đi nhưng cũng bị từ chối. Thế là Perez phải tìm cách khác, và cách duy nhất là tự lái máy bay trở về.

Thông qua một tổ chức nhân quyền được lập ra bởi một tù binh chính trị người Cuba, Perez có được thông tin về một chiếc Cessna 310 đời 1961 đang được rao bán. Nhờ được vận động quyên góp, tổ chức đã giúp mua được chiếc máy bay với giá $30,000.

Đúng 5:07 chiều ngày 19/12/1992, Perez cất cánh rời nước Mỹ, bay thấp xuyên biển hướng về Cuba. Người vợ được chuyển một bức thư hẹn gặp ở một nơi cách nhà gần 300km.

Perez không có cách nào để biết là người vợ có nhận được tin hay không, cũng không chắc chắn có thể bay tới nơi mà không bị phát hiện được hay không, nhưng vẫn phải đặt cược tất cả vào chuyến bay này.

Bay với độ cao khoảng 30m dọc theo vách đá bờ biển, Perez nhìn thấy vợ con của mình mặc áo màu cam nổi bật đang chờ đúng như anh đã dặn. Anh hạ cánh gần đó và tất cả vội vã lên máy bay cất cánh đi ngay lập tức. Anh hạ cánh sau hai giờ bay tiếp theo tới Marathon.

Perez và gia đình anh đã trở thành công dân Mỹ. Chiếc MiG-23 được gửi trả lại Cuba, còn chiếc Cessna bị hư hại trong một cơn bão.

– (Ly Trần)

(Share from Pham My Lan).


 

Xã hội bây giờ – Đi xe đò, Đi xe ôm – TIỂU TỬ-Truyen ngan

TIỂU TỬ

Năm đó, tôi về Việt Nam ăn Tết và cũng để mừng má tôi tròn một trăm tuổi. Đó là lần thứ hai tôi về Việt Nam. Kỳ trước về với vợ con nên đi đâu chúng tôi cũng dùng xe nhà của thằng em bà con cho mượn với tài xế ( Thằng em này ” biết làm ăn ” nên bây giờ nó khá lắm ) Kỳ này về một mình, tôi định nếu có dịp sẽ dùng xe công cộng một lần cho biết.

Sau một tuần ở Gò Dầu với má tôi ( Gò Dầu quê tôi thuộc tỉnh Tây Ninh, nằm cách thành phố 63km ) thấy còn năm hôm nữa mới tới Tết, tôi bèn sửa soạn xuống Sài Gòn để đi thăm vài người bạn.

Lần này, tôi muốn đi bằng xe đò ( bây giờ người ta gọi là ” xe khách ” – trong bài viết này tôi vẫn dùng từ ” xe đò ” cho?dễ hiểu ! ) Một thằng cháu – hồi trước làm thầy giáo, bây giờ sửa xe đạp và bán sách vở học trò – nói :

– Để cháu lấy Honda chở chú Hai lên bến xe kiếm xe gởi chú đi.

– Khỏi cần, chú đi một mình được.

Nó phì cười :

– Cái tướng Việt Kiều của chú lên đứng lớ ngớ trên đó, tụi nó dám chém nhẹ vài chục ngàn cái vé đi thành phố thay vì chỉ có tám ngàn thôi. Tụi nó bây giờ “mánh” lắm chú ơi !

Vậy là nó chở tôi lên bến xe đò ( Ở quê tôi, vì có con sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang, nên dân chúng thường nói ” trên ” và ” lên ” để chỉ những nơi nào nằm về phía thượng lưu con sông – đối với khu chợ nằm ở giữa – và ” dưới ” hay ” xuống ” để chỉ những xóm nằm về phía hạ lưu ).

Ở bến xe, thằng cháu nói :

– Chú đứng đây giữ dùm cháu cái Honda. Để cháu ” thả ” một vòng coi.

Trong lúc nó ” thả một vòng “, tụi bắt mối hai ba đứa rà rà lại :

– Đi thành phố hả chú ? Chạy liền giờ nè !

– Thằng xạo đó chú ! Xe nó chưa tới ” tài “. Xe cháu kìa, xe đầu vàng đang rồ máy đó chú. Đi chú ! Cháu xếp chỗ tốt đằng trước cho chú, nè !

Vừa nói, thằng nhỏ vừa nắm cái ba-lô của tôi kéo đi trong lúc thằng kia cũng lôi về phía nó. Tôi rị lại la lên :

– Tao không có đi xe đò ! Tao đợi thằng cháu. Bộ tụi bây không thấy xe Honda đây sao ?

Một thằng khác, có vẻ anh chị, ” xẹt ” vô can thiệp :

– Buông ra ! Tụi bây làm gì vậy ? ” Quậy ” hả ?

Trong lúc hai tên kia bỏ đi, nó hạ giọng thân mật :

– Chú Hai đi thành phố hả chú Hai ?

Tôi lắc đầu, lại chỉ cái Honda, nói :

– Tao đợi thằng cháu chở đi công chuyện.

Thằng nhỏ bỏ đi. Tôi nhìn theo nó mà nghe ngượng vô cùng. Mấy thằng nhỏ bắt mối cỡ tuổi hai thằng cháu nội tôi thôi, vậy mà tôi sợ gì lại phải nói trớ là không đi thành phố ? Có lẽ tại vì mấy chục năm nay ở xứ người, tôi đã sống quen với cái xã hội có tổ chức, có trật tự, nên tôi không biết cách ứng xử phù hợp với môi trường chụp giựt mánh mung này. Cho nên phản ứng của tôi là né ! Không biết phải làm sao, thôi thì né tránh đi cho nó xong chuyện ! Tự nhiên, tôi thở dài.

Thằng cháu tôi dẫn lại một người đàn ông còn trẻ gầy nhom, giới thiệu :

– Thằng Đực nè chú Hai. Nó lái xe cho cậu Năm Bộn. Nó là chồng con Hường, con của chị Ba Đầy ở xóm nhà máy đó chú nhớ hôn ?!!

Tôi mỉm cười gật gật đầu ” ờ ” cho lấy có. Thằng cháu nói tiếp :

– Còn đây là chú Hai con bà Tám, mầy kêu ổng bằng ông lận.

Thằng Đực chấp tay xá :

– Dạ, lâu nay con có nghe nói ông Hai ở bên Tây, bây giờ mới gặp. Về chơi hả ông Hai ?

Rồi không đợi tôi trả lời, nó vói tay xách cái ba lô :

– Ông Hai đi theo con. Xe con đằng nầy nè.

Thằng cháu tôi dặn vói :

– Xuống dưới nhớ kiếm xe ôm cho ổng, nghe mậy !

– Được rồi ! Cậu ba yên chí !

Thằng Đực dẫn tôi lại xe của nó, giới thiệu tôi cho hai thằng cỡ mười tám đôi mươi đang dứng hút thuốc ở đầu xe

– Đây là ông Hai, con bà cố ở đường đất đỏ, đó ! Còn đây là hai thằng em vợ con, tụi nó vừa là phụ xế vừa là lơ nữa.

Rồi nó đỡ tôi lên đưa lại ngồi phía tay trái cách chỗ tài xế hai hàng băng. Trên xe đã có nhiều người ngồi, chắc họ quen nhau nên nghe nói chuyện rân như họp chợ !

Chiếc xe đò là xe loại đầu bằng, có hai cửa lùa cho hành khách lên xuống. Chỗ ngồi hẹp té, tôi đo vừa đúng hai gang tay. Trên kiếng chắn gió trước mặt tài xế, về phía phải, có viết mấy hàng chữ bằng sơn đủ màu. Vì tôi ngồi trong xe nên phải đọc ngược, nhưng vẫn đọc được :

TP Hồ Chí Minh / Gò Dầu

Vidéo / Karaoké

Chính giữa xe, ngang ngang với đầu anh tài xế, có một cái lồng sắt hàn dính lên trần, trong đó có cái télé. Tôi tự hỏi :” Vidéo thì còn hiểu được, chớ Karaoké thì hành khách hát hí ra làm sao ?” Thật là mới mẻ quá ! Dưới chân tấm kiếng chắn gió, cũng ngay chính giữa, có gắn một kệ nhỏ, trên đó có một tượng Phật Bà, một bình bông, một bình cắm nhang và ba chung nước. Tất cả mấy món vừa kể đều được gắn xuống mặt kệ bằng băng keo chằng chịt ! Cho nó đừng nhúc nhích hay lật đổ khi xe chạy hay khi xe thắng gắp. Nhìn tượng Phật Bà chằng chịt băng keo, tôi nghĩ chắc Ngài cũng phải mỉm cười mà từ bi hỉ xả?

Thằng Đực lên ngồi, đề cho máy chạy, rồi cứ rồ máy từng chập giống như làm cho nóng máy. Hai thằng lơ đứng dưới đất la ó :

– Lên đi bà con ! Chạy à ! Chạy à !

Tài xế sang số cho xe nhúc nhích nhúc nhích, trong lúc hành khách cứ lần lượt trèo lên xe tỉnh bơ không thấy có chút gì hối hả. Không thấy ai bán vé, thiên hạ cứ lên xe thấy ghế trống là ngồi. Hàng hoá mang theo lỉnh kỉnh để đầy hành lang chính giữa. Những người lên sau phải bước choàng ngang để đi !

Một bé gái cỡ mười hai mười ba tuổi, lên xe với hai bao ni-long lớn đựng đầy dép, loại dép cao su Nhựt Bổn. Nó ngồi vào ghế trống cạnh tôi. Vừa đặt đít xuống nó vừa trao cho tôi một bao dép, nói :

– Ông ngoại giữ dùm con.

Nó làm một cách tự nhiên, chẳng thấy một chút ngượng nghịu gì hết. Còn tôi thì thật ngỡ ngàng bối rối không biết phải làm sao ? Vậy mà tôi cũng ôm bao dép vào lòng, ôm một cách máy móc ! Tôi biết nó ” đi ” hàng lậu ( Xưa nay, Gò Dầu được biết tiếng nhờ có chợ trời hàng lậu ở biên giới Cao Miên ) nhưng tôi không thể tưởng tượng được một bé gái mới mười hai mười ba tuổi mà đã đi buôn lậu và còn bắt người khác giữ hàng lậu giùm mình một cách tỉnh bơ coi như chuyện bình thường ! Xã hội bây giờ thật quá nhiều thay đổi, mà tôi thì quê trân, giống như ” một thằng mán ra chợ ” !

Thằng Đực rồ máy cho xe chạy tới trong lúc hai thằng lơ phóng lên xe – mỗi thằng một cửa – vừa phóng vừa la ” Bà con ơi ! Chạy à ! Chạy à !”. Xe chạy được mươi thước, ngừng lại, máy rồ từng chập một lúc rồi xe lui về vị trí cũ ! Hai thằng lơ nhảy xuống đất, miệng vẫn bô bô : ” Lên đi bà con. Chạy liền giờ nè !”. Hành khách vẫn lai rai từ tốn leo lên xe?

Mươi phút sau thì xe lại chạy. Lần này, nó ra khỏi bến xe, chạy rề rề. Đến ngả ba ( Chỗ này có đường xuống chợ, có đường vô xóm Mới, nhưng vẫn được gọi là “ngã ba” !) nó rước một vài người khách rồi chạy thẳng về hướng thành phố. Tưởng chạy luôn, té ra xuống khỏi Trâm Vàng – cách ngã ba lối ba cây số – nó quay đầu lại chạy về bến đậu. Lại nhúc nha nhúc nhích một lúc lâu đến khi có tiếng tu huýt thổi ( Chắc là hiệu lệnh của cán bộ điều hành bến xe ) xe lại rồ máy chạy. Lần này, đúng là nó chạy thiệt bởi vì nó không có rề rề như hồi nãy ! Tôi thở cái khì.?

Xe không có bán vé, nhưng có một chị đi thâu tiền. Cái hay của chị này là chị ta nhớ người nào đã thâu rồi người nào chưa. Cho nên trong suốt ” hành trình ” trèo qua trèo lại trên những kiện hàng nằm ngổn ngang dọc hành lang để thâu tiền, không thấy ai phàn nàn phản đối gì hết.

Xe đang chạy, bỗng thấy thằng lơ cửa trước đứng thẳng lên mở dây nịt, kéo phéc-mơ-tuya… cởi quần ! Hành khách tỉnh bơ. Có lẽ trên xe chỉ có một mình tôi là ngạc nhiên trố mắt nhìn. Một cô gái ngồi gần đó đưa cho nó mấy cây thuốc lá ” 555 ” và một nạm vòng thun, nó cầm lấy, xỏ vòng thun vào hai chân, cách khoảng nhau độ hơn một tấc, rồi nhét mấy cây thuốc vào đó, dài từ háng xuống mắc cá và ôm tròn chân từ mặt trong ra mặt ngoài. Trông nó giống Robocop của phim Mỹ ! Thì ra thằng lơ giấu hàng lậu dùm cô gái. Nó vừa mặc quần xong là đến lượt thằng lơ cửa sau. Nhưng thằng này quá gầy nên nó không cần cởi quần. Nó kéo ống quần đì-rét lên tới bẹn rồi làm y như thằng trước. Thằng này thì ” cao cấp ” hơn, vì nó còn ” chêm ” vòng theo thân mình tới năm cây thuốc lận ! Xong nó khệnh khạng đi về hướng cửa sau. Tôi nhìn theo, phục quá !

Xe vừa chạy vừa bóp kèn, đường trống vẫn bóp kèn. Làm như đã thành cái tật ! ( Ở Việt Nam bây giờ, chạy xe hơi, xe gắn máy trên đường – Nhà Nước gọi là ” tham gia lưu thông “, nghe thật là văn vẻ – ai ai cũng bóp kèn, chạy ngoài đồng hay chạy trong thành phố gì cũng vậy hết. Lạ lắm ! ) Còn hai thằng lơ thì hể thấy có người chạy lạng quạng phía trước thì lòn người ra ngoài, vừa la to ” Vô ! Vô !” vừa vỗ vào thùng xe đùng đùng. Làm như kèn xe không đủ cho người ta nghe vậy ! Thấy ai đứng lớ ngớ đàng xa bên lề đường như có vẻ đón xe thì lơ hét to cho tài xế ” Bà già đó ! Bà già đó !” hay ” Con mẹ cầm nón đó ! Con mẹ cầm nón đó !”. Nếu là hành khách đưa tay ngoắc thì xe chạy chậm lại, rề sát vào. Thằng lơ phía trước mở cửa rồi một tay nắm cây cột sắt nằm cạnh cửa lùa, lấy thế nghiêng người xuống hốt người khách đẩy vào trong xe trong lúc xe vẫn tiếp tục lăn bánh chớ không ngừng lại ( Sau này tôi mới biết rằng xe đò không được phép rước khách ngoài những nơi đã được ấn định bởi chánh quyền. Vì vậy xe không được ngừng dọc đường ngoại trừ khi xe ăn-banh !)

Thằng Đực vừa lái xe, vừa bóp kèn, vừa lách tránh những xe khác – đủ loại : Honda, xe đạp, xe thùng, xe ba gác, xe bò, xe ngựa… – vừa?liếc dài theo lề đường để ” bắt ” khách. Xe đang chạy ngon lành ( 50 km/giờ, tốc độ tối đa ấn định bởi Nhà Nước ) bỗng nó ” nhả ga ” chạy bớt lại và la lên :” Giao thông nghen ! Giao thông nghen ! Lấy tay lấy đầu vô bà con !”. Hai thằng lơ cũng la theo :” Đừng ló đầu ra nghe bà con ! Giao thông đó !”. Xa xa về phía trái, thấy có hai ông công an giao thông ngồi chàng hảng trên xe mô-tô dưới tàn cây bên lề, hút thuốc. Khi xe chạy ngang qua, mấy ổng chỉ nhìn theo cười cười, chắc hài lòng với sự biết ” chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông ” của tài xế Đực !

Đường xuống thành phố, ngày xưa, hai bên là ruộng lúa ruộng mía và giồng rau cải. Bây giờ nhà cửa cất dài dài, đồng ruộng còn rất ít. Quán ăn, quán nhậu thì quá nhiều. Phần lớn mang bảng hiệu rất thơ mộng như : ” Hẹn hò “, ” Vườn Thúy “, ” Quán Trăng ” Làm như bây giờ người ta thèm được?” phiêu phiêu ” để quên đi một phần nào cuộc sống xơ cứng của hiện tại !

Bến xe Trảng Bàng nằm trước sân banh. Xe đò vừa vào bến thì một bầy trẻ con bán dạo ùa lên xe như ruồi, rao hàng ó trời ! Trong xe bỗng ồn ào như cái chợ. Nhiều đứa nhỏ mang hàng đầy hai vai. Hàng đựng trong những túi ni-long nhỏ bằng nắm tay, miệng cột túm lại bằng vòng thun. Mỗi loại được xỏ chung với nhau thành một đùm. Tụi nhỏ đeo nhiều đùm như vậy lên hai vai, nhiều đến nỗi không còn thấy cái cổ ! Chỉ còn thấy cái đầu nhỏ lòi ra trên đống túi ni-long tròn tròn.?

Tụi nhỏ bán loại này rao hàng có ca có kệ. Rồi vì muốn cho ” có ca có kệ ” nên nhiều tiếng để sai dấu, tôi nghe mà không hiểu hàng gì và hàng gì ! Phải nghe vài lần mới?” nắm bắt ” được : ” Sâm lạnh. Thuốc lá. Huynh gum. Trứng cút. Bánh tráng muối. Nem chay. Đây?” Nếu có người mua, đứa nhỏ cầm túi ni-long giật mạnh cho đứt sợi thun rồi trao cho khách, nhanh gọn lắm ! Ngoài ra, có những đứa bán ” chuyên ngành ” hơn, bán một thứ một, như chỉ bán giấy số hay thơm gọt sẵn, hay bánh tráng bánh phồng, hay thuốc lá..v.v… đủ thứ. Đứng đầy xe như vậy mà khi xe rồ máy lìa bến thì tụi nó đứa trước đứa sau phóng xuống như trò đu bay ! Thấy chết như không !

Xe chạy chậm chậm, rước vài người ở khúc cua Trảng Bàng. Đến Cầu Ông Chừa – cách Trảng Bàng độ năm ba cây số – xe quay đầu chạy về bến trước sân banh ! Rồi cứ nhúc nha nhúc nhích để lấy thêm hành khách. Mấy đứa nhỏ lại ùa lên rao hàng. Độ hai mươi phút sau, xe lại lăn bánh. Lần này chạy thiệt.

Trên đường lúc nào cũng có người. Xe đạp, xe Honda ( Bây giờ, ” Honda ” là tiếng gọi chung cho xe hai bánh có gắn máy ) chạy loạn. Hai bên đường, thỉnh thoảng có bảng đề ” Bia tươi ” đặt trên lề trước quán nhậu. Tôi đã nghe nói ” bia hơi “, ” bia ôm “, nhưng loại ” bia tươi ” này là lần đầu !

Khều thằng lơ, tôi hỏi :

– Bia tươi là gì vậy cháu ?

Nó bật cười :

– Là bia làm tại chỗ, làm ngày nào là nhậu ngày nấy. Để vài ba bữa mà đớp vô là đi luôn à ông Hai !

Tôi gật gật đầu nhưng trong lòng sao nghe buồn chi lạ : bây giờ, đến ” cái nhậu ” cũng?” không giống ai ” hết !

Bỗng thằng Đực vừa bớt ga rà thắng vừa la lên :

– Kinh tế ! Kinh tế ! Bà con.?

Trong xe, hành khách nhốn nháo. Kẻ thì đút giấu hàng dưới băng mặc dù ở đó đã đầy đồ, người thì chèn nhét hàng trong hốc trong kẹt, dưới đít mấy kiệng hàng rau cải gà vịt. Mấy bà mấy cô thì nhét trong áo trong quần chẳng thấy có chút gì xấu hổ hết !

Tôi nhìn con bé cạnh tôi, nó cười trấn an :

– Ông ngoại đừng lo. Mỗi người có quyền đi một bao dép. Con đi hoài hà !

Tôi ” ờ ” rồi hỏi một cách máy móc :

– Bộ con không có đi học hả ?

Nó cười rất tự nhiên :

– Đi học rồi lấy gì ăn, ông ngoại ?

Tôi xúc động, không dám nhìn gương mặt dễ thương đó nữa, tôi nhìn vội ra ngoài. Xe đã đậu lại.

Bên kia đường, có một xe hàng nằm sau một xe Jeep. Hai ông công an kinh tế mặc sắc phục ( họ kiểm soát hàng lậu ) đang ” làm việc ” dưới tàn cây vệ đường với mấy người mà tôi đoán là lơ và tài xế của xe hàng. Thằng Đực cầm một xấp giấy tờ xum xoe chạy qua đó, chen vào chỉ chõ nói năng. Một lúc sau, thấy nó khúm núm cúi chào mấy cái rồi vui vẻ chạy trở về trèo lên xe sang số chạy thẳng !

Xe chạy không bao nhiêu xa, hành khách chộn rộn móc kéo hàng giấu hồi nãy cho vào bao vào bị. Hai thằng lơ cũng cởi quần lấy cây thuốc vòng thun trả lại cô gái, vừa làm vừa trò chuyện nói cười. Con nhỏ ngồi cạnh tôi kéo cái bao dép tôi đang ôm về phía nó, chẳng nghe một lời cảm ơn. Mọi người đều hành động một cách tự nhiên, bình thường. Tôi bỗng thấy tôi không giống ai hết. Tôi là người ” bất bình thường “, ngay trong lòng quê hương mà sao thấy thật là lạc lõng !

Xe ngừng ở Suối Sâu, hai thằng lơ – đứa trên mui, đứa dưới đất – xuống hàng : bao, bị, giỏ tre, cần xé lổn ngổn ( Những món này chắc của bạn hàng quen gởi và đã chất lên đó trước khi xe vào bến Gò Dầu ) Vừa làm, thằng lơ trên mui vừa nói lớn cho mấy người đang bu lại nhận hàng :” Hai cái cần xé nầy của dì Ba. Cái giỏ bội này cũng của bả nữa. Mấy thứ tôi liệng xuống đây của cô Bảy nghen. Rồi ! Xong ! Bây giờ là đồ của chú tư Xáng “.

Cô gái ” đi ” thuốc 555 lấy hàng nằm dọc hành lang trao qua cửa sổ cho một bà sồn sồn đứng phía dưới, vừa làm vừa nói chuyện huyên thiên. Bà đó hỏi :

– Mầy có ghé thăm con Hoa hông ? Nó đẻ chưa ?

– Chưa. Má lên trển mà coi. Cái bụng của chỉ bây giờ chang bang như cái mả vậy !

Nói rồi, cô ta cười hắc hắc. Chắc cũng là chuyện bình thường thôi.

Xe chạy tiếp. Bon bon 50km/ giờ. Đến Củ Chi ngừng lại để xuống hàng lần nữa. Con nhỏ ngồi cạnh tôi xuống ở đây. Nó đứng lên, xách hai bao dép đi, không nói một lời, cũng không nhìn lại. Nó làm tự nhiên như tôi không có mặt trên xe !

Sau khi xuống hàng, xe chạy thẳng về thành phố, không ngừng ở trạm nào nữa hết. Tôi đoán :” Trên mui chắc không còn hàng “.

Bến xe Tây Ninh nằm ở Bà Quẹo. Bến này rộng lắm, vây quanh bởi một tường rào. Khi xe đò quẹo vào, thấy người ta chạy theo lố nhố. Chừng xe đậu rồi, nghe họ mời mọc tía lia mới biết họ là những người lái xe ôm, xe ba gác đang tranh nhau kiếm mối chở đi. Thằng Đực nói :

– Ông Hai ngồi đây, đừng đi đâu hết. Để con kiếm mấy thằng xe ôm quen cho ông Hai.

Tôi nhìn đồng hồ thấy 10 giờ 20. Hồi ở Gò Dầu, tôi lên ngồi trên xe lúc 8 giờ sáng. Tính ra, tôi đi 63km mất hết hai giờ hai mươi phút !

Một lúc sau nó dẫn đến một người đàn ông cỡ tuổi nó, vừa vỗ vai người đó vừa nói :

– Thằng này tên Chín, ở cùng đơn vị với con hồi trước. Nó đàng hoàng lắm, ông Hai. Mà ông Hai về đâu vậy ?

– Ông về nhà thằng cháu ở khu Đại học Phú Thọ.

Thằng Đực lại vỗ vai bạn :

– Tao giao ông Hai cho mày đó. Tính tiền cho có tư cách nghe mậy.

– Yên chí?

Vừa nói thằng Chín vừa cầm ba lô của tôi :

– Ông Hai đi theo con.

– Ủa ? Xe của cháu đâu ?

– Dạ để ngoài kia, chớ đâu được phép đem vô đây, ông Hai. Cấm mà !

Vậy là mấy phút sau, tôi ” ôm ” về nhà thằng cháu. Đó là lần đầu tiên tôi đi xe ôm.

* * *

Ở thành phố, người ta thường đi xe ôm, nếu chỉ đi có một mình. Xe ôm rẻ hơn xe taxi nhiều và nhanh hơn nhờ nó lòn lách dễ. Biết như vậy nên sáng hôm sau tôi ra đường đón xe ôm để đi thăm bạn bè.?

Nếu xích lô và taxi dễ ” nhận diện ” nhờ hình dáng và chữ ” taxi ” bên hông, thì xe ôm rất khó biết. Bởi vì trên đường lúc nào cũng đầy người chạy Honda, chạy xuôi chạy ngược, không có dấu hiệu đặc biệt gì hết thì biết ai ” ôm ” hay ai không ” ôm ” ? Nếu xe ôm được sơn một màu ấn định, hay người lái xe có gắn một cái gì trên ngực trên lưng, hay ít ra cũng đội nón kết có in hai chữ ” xe ôm ” thì dễ cho mình nhìn ra, để ngoắc cho đúng. Đằng này, ai cũng như ai.

Ngoắc đại mấy lần thấy ” trật chìa “, tôi bèn đổi ” chiến thuật “. Tôi bước ra đứng trên mép vỉa hè, mặt làm ra vẻ dáo dác nhìn xuôi nhìn ngược như đang tìm xe ôm trong luồng người chạy Honda. Thấy một người vừa chạy vừa nhìn dài dài theo phố, tôi mừng rỡ vẫy tay ra dấu. Anh ta chạy luôn. Vậy là anh ta đang tìm cái gì khác chớ không phải tìm khách hàng. Tôi lại làm bộ dáo dác cho người khác để ý. Lần này có một ông tấp vô, mỉm cười hỏi :

– Đi không ông Hai ?

Tôi gật đầu, nói địa chỉ, trả giá – căn cứ trên giá đi hôm qua – rồi ôm đi ( Gọi là ” ôm ” chở hành khách không có ôm người lái. Nhiều người không biết, cứ nghĩ rằng trèo lên xe là phải ôm ! Cho nên, khi trở về Paris thuật lại vụ đi xe ôm, vợ tôi hỏi :” Có đàn bà lái xe ôm hông ?” )

Trên đường, xe chạy như loạn. Hai luồng ngược chiều nhau lấn ép lòn lách, bóp kèn như điên ! Thấy tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào !

May quá, ông lái xe của tôi – khá trông tuổi – chạy từ tốn. Ổng cứ men theo lề mà chạy và đặc biệt là không nghe ổng bóp một tiếng kèn ! Ngạc nhiên, tôi hỏi :

– Sao ông không bóp kèn ?

– Bóp cho ai nghe ? Ai cũng bóp kèn hết, rền trời. Mình có bóp cũng vô ích !

Ngừng một chút rồi tiếp :

– Cứ làm thinh như vậy mà người ta để ý. Người ta nghe mình làm thinh !

Rồi ông ta cười ha hả. Tôi cũng bật cười theo. Khoái quá, tôi vỗ vai ổng :

– Hay ! Hay !

Rồi không kìm được, tôi hỏi thẳng :

– Hồi trước ông làm gì ?

Ngần ngừ một lúc, ổng mới nói :

– Dạ, làm giáo viên.

– Dạy trường nào vậy ?

– Dạ, trường trung học X.

– Dạy trung học sao gọi là giáo viên được ? Phải gọi là giáo sư chớ.

– Xin lỗi ông. Hồi nãy nhìn ông tôi đã đoán ra ông là Việt Kiều. Bây giờ, ông hỏi như vậy đúng là ông không phải người ở trong nước. Bây giờ, đi dạy học cao thấp gì cũng gọi là giáo viên ráo. Muốn được gọi ” giáo sư ” phải được ” Hội Đồng Chức Danh Giáo Sư Nhà Nước ” xét duyệt hồ sơ. Khi họ công nhận, họ cấp cho mình chức danh giáo sư. Chừng đó, mình mới được gọi là giáo sư. Ông hiểu không ?

Tôi nhớ lại tôi có một người bạn hồi đó cũng dạy trường trung học X. Tôi nói :

– Tôi có một người quen cũng dạy ở trường X nữa. Ông tên Nguyễn Văn Y.

Giọng ông xe ôm có vẻ như reo lên :

– Anh Y dạy lý hoá. Ảnh mộc mạc dễ thương lắm. Lúc nào cũng thắt cà vạt đen !

Ông xe ôm nói đúng. Như vậy ổng là giáo sư thiệt, không phải ổng ba xạo. Tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên ngực. Tôi đặt một tay lên vai ông ta, muốn nói gì đó thật nhiều. Nhưng sao tôi không tìm ra được lời, tiếng nói bị nghẹn ngang trong cổ. Tôi chỉ biết bóp nhẹ vai của ổng, cái vai bây giờ tôi mới thấy là gầy. Chắc ổng hiểu cử chỉ của tôi nên làm thinh. Tôi bóp vai ổng mà tưởng chừng như tôi đang bóp vai một người bạn cố tri, tưởng chừng như tôi đang mân mê một cái gì trân quý của thời cũ. Tôi như thấy lại được cái thời đã mất đó với những giá trị tinh thần của nó, cái thời mà nhà giáo dù nghèo cũng chưa đến nỗi phải chạy xe ôm như bây giờ.

Ông xe ôm im lặng lái xe. Tôi im lặng nhìn cảnh tượng xô bồ hỗn tạp trên lòng đường phố. Bàn tay tôi vẫn đặt trên vai ông ta như để giữ thăng bằng. Sự thật, tôi muốn giữ nguyên như vậy để ổng cảm nhận rằng giữa ổng và tôi không có một sự cách biệt nào hết. Không có người lái xe ôm, không có khách đi xe ôm. Mà chỉ có hai thằng bạn…

Bỗng ở phía ngược chiều, một người đàn ông lái Honda nhìn về phía bên này gọi to :” Thầy ! Thầy !”. Tôi thấy anh ta chật vật luồn lách quay đầu xe lại, chạy theo chúng tôi. Chừng đến ngang nhau, anh ta hớn hở :

– Thầy mạnh hả thầy ?

Giọng ông xe ôm cũng vui vẻ :

– Ờ ! Mạnh ! Cám ơn ! Em đi đâu vậy ?

– Dạ ! Em chạy áp-phe. Thấy thầy em nhìn ra được liền hà ! Tụi thằng A thằng C nói có gặp thầy nên em thường để ý kiếm, bây giờ mới gặp. Mừng quá, thầy !

– Ờ ! Cám ơn ! Hai mươi mấy năm mà tụi em còn nhớ tới thầy là thầy vui rồi.

– Làm sao quên được, thầy ? Hồi đó, thầy là thần tượng của tụi em mà !

Ông xe ôm làm thinh. Chắc cả một dĩ vãng đang được quay nhanh lại trong đầu. Tôi bóp nhẹ vai ông ta, chia xẻ.

Hai thầy trò vừa lái xe vừa nói chuyện với nhau một lúc rồi người đó xin phép ” đi làm ăn “. Chúng tôi im lặng, tiếp tục đoạn đường còn lại. Sự im lặng nào sao cũng nói thật nhiều…

Đến nhà anh bạn tôi, tôi trả tiền cuốc xe ôm mà không dám cho thêm như tôi đã làm hôm qua với thằng Chín. Tôi muốn ông ta thấy rằng tôi vẫn kính trọng ông ta, vẫn xem ông ta là một giáo sư. Ông ta nhìn tôi mỉm cười. Chúng tôi bắt tay nhau, cái bắt tay đó ngầm nói lên rằng, dù cuộc đổi đời có vĩ đại đến đâu, mình vẫn giữ được cái tình người trân quí của thời cũ.

Lần đi xe ôm đó tôi nhớ hoài đến bây giờ. Viết lại mà vẫn còn nghe xúc động.

Tiểu Tử

From: Tu-Phung


 

“CÔ ẤY LÀ TÌNH YÊU CỦA ĐỜI TÔI… !”-Truyện ngắn

Kimtrong Lam

Ông đã 85 tuổi vẫn nhất quyết nắm tay vợ đi bất cứ đâu.

Khi tôi hỏi tại sao vợ ông lại lơ đễnh như không nhìn thấy ai?

Ông trả lời: Cô ấy bị bệnh Alzheimer.

Vì vậy tôi hỏi: “Vợ ông có lo lắng nếu ông để bà đi một mình không?”

Ông trả lời: “Cô ấy không nhớ gì cả … Cô ấy không biết tôi là ai nữa, cô ấy đã không nhận ra tôi trong nhiều năm”

Ngạc nhiên, tôi hỏi: “Và ông vẫn tiếp tục hướng dẫn cô ấy hàng ngày mặc dù cô ấy không còn nhận ra ông sao? “.

Ông già mỉm cười và nhìn vào mắt tôi và nói, “Cô ấy không biết tôi là ai, nhưng tôi biết cô ấy là ai.”

”CÔ ẤY LÀ TÌNH YÊU CỦA ĐỜI TÔI”

DieuLe__Sưu tầm

Cậu bé vô gia cư và tấm bằng ĐH Harvard

 Cậu bé vô gia cư và tấm bằng ĐH Harvard.

Chỉ có một bàn tay với 2 ngón tay, Sơn đã bắt đầu hành trình của một đứa trẻ vô gia cư không biết đọc biết viết, rồi trở thành sinh viên trường đại học danh tiếng bậc nhất thế giới.

Sơn bên em trai hồi nhỏ ẢNH: NVCC

Lớn lên ở công viên

Năm 2006, lần đầu tiên tôi gặp Trần Tôn Trung Sơn khi cậu đang học lớp 7 Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM), để viết bài về một tấm gương nghị lực tuyệt vời. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Sơn là rất lễ phép, ít nói, nhưng đôi mắt thì ánh lên sự ấm áp và thông minh đặc biệt. Cậu còn có vẻ hài hước nữa. Tôi đã chảy nước mắt khi nghe anh Trần Sơn, ba của Sơn kể về những tháng ngày tối tăm của gia đình.

Năm 1992, Trần Tôn Trung Sơn sinh ra trong một gia đình nghèo ở bờ sông Bến Hải (Quảng Trị), mảnh đất hứng chịu chất độc da cam suốt những năm 1960 – 1970. Ba của Sơn là bộ đội từng chiến đấu trên mặt trận Lào. Ngày Sơn ra đời, cả nhà ai cũng buồn vì cánh tay trái ngắn tũn teo lại, không có bàn tay, còn tay phải thì cũng chỉ có 2 ngón. Vợ chồng anh Sơn đau đớn vì biết đây là di chứng của những năm chiến tranh. Càng đau đớn hơn khi dân làng bàn tán vì hình hài khác thường của Trung Sơn. Thương con, vợ chồng anh quyết định rời làng. Thế là giữa đêm khuya, ôm đứa con chỉ mới 20 ngày tuổi, vợ chồng anh Sơn nuốt nước mắt vào lòng, âm thầm lên tàu vào nam với hy vọng mảnh đất này sẽ có nhiều cơ hội để mở ra tương lai cho đứa con không lành lặn.

Điều kỳ diệu từ hai ngón tay

Cánh tay trái teo lại sát nách, cánh tay phải không còn nguyên vẹn, bàn tay chỉ có hai ngón. Nhưng, với hai ngón tay này, Trần Tôn Trung Sơn (Gio Linh, Quảng Trị) đã làm nên nhiều điều bất ngờ.

3 năm đầu tiên, “nhà” của Sơn là công viên Tao Đàn, “giường” chính là tấm chiếu trải xuống đất. Ba mẹ Sơn ban ngày gửi Sơn tại làng Hòa Bình (Bệnh viện Từ Dũ) để đi làm thuê, đi học nghề, đêm cả nhà lại về công viên ngủ. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, vợ chồng anh Trần Sơn vẫn ngày đêm không nguôi giấc mơ nuôi con ăn học nên người.

Khi Trung Sơn lên 7 tuổi, ba mẹ mới dành dụm đủ tiền để thuê một phòng trọ nhỏ. Hành trình đi xin học cho con lúc bấy giờ của anh Sơn khổ cực trăm bề. Không trường học nào chịu nhận một đứa trẻ tật nguyền. Nhưng sau đó, ánh mắt vừa hy vọng vừa đau đớn của anh Sơn đã làm cô Hiệu trưởng Trường tiểu học dân lập Vạn Hạnh xúc động, nhận Sơn vào học. Trường cách nhà trọ 20 km, anh Sơn phải xin làm ở một chỗ mới gần trường để giúp con. Hết giờ học ở trường, ba lại chở Sơn đến nhà một cô giáo dạy trẻ khuyết tật cách trường 15 km để học viết chữ. Hôm nào cũng vậy, 9 giờ đêm hai cha con mới về tới phòng trọ.

Điều kỳ diệu là càng lớn Sơn càng thông minh và nghị lực. Những tháng ngày nhìn con tập viết bằng 2 ngón tay vô cùng đau đớn, ba của Sơn đau nhói lòng nhưng vẫn thủ thỉ động viên con… Sơn nhận thức được tình yêu vĩ đại của cha mẹ, nên đã không phụ lòng. Năm lớp 5, Sơn là học sinh giỏi cấp thành phố môn toán và tiếng Việt, là một trong 5 học sinh giỏi nhất Q.Tân Bình, thủ khoa đầu vào Trường Nguyễn Gia Thiều, thủ khoa khi thi vào lớp chuyên Anh Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa. Lên THPT, Sơn đậu vào Trường phổ thông Năng khiếu (ĐH Quốc gia TP.HCM) và liên tục là học sinh xuất sắc của trường.

Người khiến các giáo sư Đại học Harvard bật khóc

Sau đúng 10 năm, năm 2016, tôi bất ngờ khi nhận được điện thoại của anh Trần Sơn. Anh nói như reo: “Trung Sơn đã tốt nghiệp ĐH Harvard và trở thành cố vấn của IBM rồi cô!”, khiến tôi nghẹn ngào.

Gặp lại tôi, anh Trần Sơn kể, sau khi học xong lớp 11 Trường phổ thông Năng khiếu TP.HCM, năm 2010, Sơn nhận được học bổng 2 năm lớp 11 và 12 tại Trường trung học Fairmont (Mỹ). Sơn cũng tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện tại châu Phi, dạy học cho trẻ em nghèo, gây quỹ giúp đỡ người vô gia cư…

Anh Trần Sơn đưa tôi xem rất nhiều thứ, trong đó có bức thư khen của Tổng thống Obama và những bài luận của Trung Sơn khi nộp đơn vào ĐH Harvard.

Đó là bài luận bằng tiếng Anh của cậu bé bị chất độc da cam cướp đi sự lành lặn của đôi tay, tựa đề Nhìn đời qua bàn tay, có đoạn: “Khi còn là đứa trẻ, bàn tay này đã víu chặt mặt đất để giúp tôi cân bằng. Nó đã nắm chặt lại để giúp tôi có những cú đấm mạnh nhất khi chơi võ. Nó bám chặt vào thành chiếc xe đạp đua 4 bánh của tôi. Khi lớn lên, bàn tay này đã chịu đau đớn viết nên những con số, những nét chữ cho đến khi tôi có thể viết nên bài luận đầu tiên của mình về mẹ. Sau này, nó đã cầm bút để diễn tả những ý nghĩ tôi có trong đầu và giúp tôi giải những bài toán khó. Bàn tay duy nhất này đã từng tháo rời chiếc xe đạp của bố tôi ra để xem nó hoạt động thế nào, giúp tôi xoay tròn chiếc thước lên không trung giống như các nhà sư Thiếu Lâm, hay thích thú vẽ nên những bức tranh người que. Nó đã cầm viên phấn khi tôi dạy toán cho trẻ em nghèo, gõ lên bàn phím khi tôi làm việc cho một công ty máy tính trong kỳ nghỉ hè, và nắm lấy tay của bất cứ ai tôi gặp”…

Đọc xong bài luận, các giáo sư của ĐH Harvard đã bật khóc trước chàng trai nhỏ bé có nghị lực phi thường. Cùng với thành tích học tập và các hoạt động đáng nể trong quá trình học trung học của Sơn, năm 2011, Trường ĐH Harvard đã đón Sơn bằng học bổng toàn phần ngành công nghệ thông tin.

Trong một bài luận khác có tựa Hành trình của tôi, Sơn viết: “Những chiếc ghế công viên đã trở thành ngôi nhà mới của chúng tôi, nơi hành trình của tôi bắt đầu. Bố tôi làm việc cả ngày trong nhà hàng, trên lưng vừa cõng tôi vừa rửa bát đĩa và lau chùi nhà vệ sinh. Đêm đến, hai cha con tôi ngủ trên bất kỳ chiếc ghế nào tìm thấy. Để giữ ấm cho tôi, bố tôi cởi áo trải lên ghế và ôm chặt lấy tôi… Trong 3 năm, bố tôi chưa một đêm ngủ yên. Trong 3 năm đó, ông đã không ngừng từ bỏ hy vọng sẽ tìm ra cuộc sống tốt hơn cho tôi”.

Trần Tôn Trung Sơn và mẹ tại trụ sở của IBM ở Mỹ

Trở thành cố vấn của IBM

Năm 2016, trước khi tốt nghiệp ĐH Harvard, Sơn nộp hồ sơ vào Tập đoàn IBM. Vượt qua hàng ngàn ứng viên, Sơn đã được chọn để thể hiện khả năng của mình. Trong 2 ngày, Sơn phải chứng minh thực tài trước 4 hội đồng qua các bài thuyết trình, kiểm tra trình độ chuyên môn và hoạt động khác với các yêu cầu khắt khe. Cuối cùng, Sơn là một trong 8 ứng viên được nhận vào Tập đoàn IBM với vai trò cố vấn.

Trong lần gặp lại anh Trần Sơn vào năm 2016, anh kết nối với con trai qua điện thoại. Sau khi được ba giới thiệu có tôi, người từng viết bài về Sơn cách đây hơn chục năm, đang ngồi cùng, Sơn lập tức lễ phép “con chào cô” và trò chuyện cùng tôi. Trong giây lát, hình ảnh cậu bé với đôi mắt thông minh và ấm áp vụt trở về. Và rồi chớp mắt một cái, cậu bé đã trở thành một Trần Tôn Trung Sơn chững chạc, trưởng thành đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ của ba mẹ dưới vòm trời công viên năm nào. Tất cả đều được làm nên từ một đôi bàn tay khuyết thiếu ấy!

Được thăng chức sau một năm làm việc

Mới đây nhất, trong tháng 12.2017, nhờ xuất sắc trong công việc, Sơn được Tập đoàn IBM thăng chức, trở thành quản lý vùng, làm việc tại Atlanta, bang Georgia (Mỹ).

Hầu như hằng ngày, Sơn đều gọi điện về thăm ba mẹ. Sơn cho biết cậu nhớ mãi những lời thủ thỉ của ba ngày xưa: “Bàn tay con có thể viết chữ, làm văn, giải toán, có thể ôm ba mẹ, có thể chơi võ và bơi… Nghĩa là con không có gì khác thường với bạn bè cả. Con hãy sống chân thành, vui vẻ, bạn bè sẽ hiểu và đón nhận con”. Sơn đã học tập, lớn khôn và được đón nhận bằng chính ý chí, niềm tin và nghị lực mà ba đã truyền cho Sơn, theo cái cách rất riêng đó của ba!

Thật vui mừng khi em trai của Sơn, Trần Tôn Đại Nghĩa cũng đang học lớp 11 tại Mỹ. Đại Nghĩa cũng thông minh, học giỏi và sắp tới có ý định nộp hồ sơ vào Đại học Harvard như anh trai mình.

Mỹ Quyên

Cánh tay trái teo lại sát nách, cánh tay phải không còn nguyên vẹn, bàn tay chỉ có hai ngón. Nhưng, với hai ngón tay này, Trần Tôn Trung Sơn (Gio Linh, Quảng Trị) đã làm nên nhiều điều bất ngờ.

Mới chào đời 20 ngày, Sơn đã phải theo người cha xuôi vào Nam. Cha ẵm Sơn đi gõ cửa khắp các cơ sở xã hội, các bệnh viện để tìm nơi điều trị di chứng chất độc da cam cho con. Cuối cùng, Sơn được Làng Hòa bình Từ Dũ (TP.HCM) nhận nuôi dưỡng. Suốt mấy năm liền, cha của Sơn sống ở Công viên Tao Đàn để tiện chăm sóc vệ sinh cá nhân cho con. Mỗi lần cùng cha ra công viên, Sơn cặm cụi tập viết bằng hai ngón tay. Từ năm lên 7, tuy vẫn thuộc “quân số” của Làng Hòa bình Từ Dũ nhưng Sơn bắt đầu theo cha ra ngoài trọ học.

Chỗ trọ không ổn định, những công việc thời vụ của người cha vô cùng bấp bênh, khoảng cách vô hình giữa Sơn và bạn bè đồng lứa…, bao nhiêu khó khăn tưởng sẽ làm “cậu học trò da cam” nản chí. Nhưng không, sức học của Sơn càng ngày khiến nhiều người nể phục. Năm lớp 5, cậu đã đoạt giải ba cấp thành phố môn Văn và Toán. Lên cấp 2, Sơn thi đậu vào trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (Q.1, TP.HCM). Tại ngôi trường này, Sơn thường đạt điểm trung bình từ 9,6 điểm trở lên (môn Toán, Hóa) và trên 8,5 điểm (môn Anh văn)… Hiện nay, Sơn là học sinh lớp 11D trường Phổ thông năng khiếu – ĐH Quốc gia TP.HCM.

Tối 10.1, chúng tôi có dịp trò chuyện với Sơn trước khi em vào giờ học tiếng Anh tại Trung tâm Anh ngữ ILA Việt Nam. Với kết quả dự tuyển tiếng Anh 90/100 điểm (kỹ năng nói) và 88/100 điểm (kỹ năng viết), Sơn đã giành được học bổng toàn phần chương trình trung – cao cấp tại ILA từ tháng 11.2008 đến tháng 9.2009. Thay vì phải trải qua 5 tháng để hoàn tất lớp học đầu tiên thì chỉ sau hơn 1 tháng, Sơn đã được giáo viên nước ngoài đề nghị nhà trường cho em vượt lớp!

Được biết, những năm qua, Sơn đã mấy lần đập ống heo, lấy những đồng tiền dành dụm được để giúp những trẻ em bất hạnh khác. Không chỉ mê học tiếng Anh, Sơn còn ham thích “voọc” máy tính. Từ năm học lớp 6, Sơn mày mò tự học lập trình phần mềm. Hè năm 2008, Sơn đăng ký làm thêm ở Công ty phần mềm SiGlaz. Sau 3 tháng thực hành, Tổng giám đốc SiGlaz tại Việt Nam hết lời khen ngợi khả năng làm việc, sự nhanh nhạy của Sơn. Sơn ao ước một ngày nào đó sẽ được những nhà hảo tâm tạo điều kiện phẫu thuật cánh tay phải thẳng lại; lắp tay giả (bên trái) và có thể vận hành bằng con chip. “Nếu giấc mơ này trở thành hiện thực, việc đầu tiên Sơn muốn làm là gì?” – tôi hỏi. Sơn nói ngay: “Đó là được sử dụng máy vi tính bằng cả hai tay!”.

Ít ai biết, Sơn đã có nhất đẳng taekwondo từ mấy năm trước. Ngoài thời gian học ở trường, học thêm Anh văn, tự viết phần mềm…, Sơn còn dành nhiều thời gian đọc các loại sách. Ông Trần Sơn, cha của Sơn tự hào nói: “Ngoài quê, tui chỉ học hết lớp 1. Nhờ cháu, tôi đã biết đọc, biết viết, được cập nhật tình hình thời sự trong và ngoài nước…”.

Như Lịch
https://thanhnien.vn/gioi-tre/dieu-ky-dieu-tu-hai-ngon-tay-369000.html


 

TẾT THA-HƯƠNG!-Truyện ngắn hay

“Chú ơi, đánh giày đi chú.”

Tôi quay lại. Trời ơi, chú bé ốm như con mèo ướt. “Trời mưa. Ai lại đánh giày?”

Chú bé nói giữa hai hàm răng run cầm cập: “Thế nên từ sáng đến giờ cháu chưa đánh được đôi nào cả.”

Tôi kéo chiếc ghế ra. Thân thiện nói: “Cháu ngồi xuống đây cho đỡ lạnh.”

Chú bé ôm hộp đánh giày khúm núm. Tôi giục hai ba lần chú mới dám khẽ kê mông, ngồi xuống. “Cháu uống sữa đậu nành nóng nghe?”

Chú bé sáng mắt lên. Nhưng chú lại lắc đầu. Tôi biết chú đang đói. Cố ép: “Cháu uống sữa đậu nành, ăn xong cái bánh pâté chaud là chú sẽ để cho cháu đánh giày.”

Chú bé mở đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như không tin, lắc đầu: “Cháu không dám đâu.”

Tôi cười: “Chú đãi cháu mà.”

Chú bé vẫn ngần ngại. Tôi vẫy tay kêu người hầu bàn. Chú bé khẽ dò hỏi: “Thế chú có cho cháu đánh giày không?”

Tôi đùa: “Cháu đánh xong, chú ra ngoài mưa, bùn bắn. Lại như không!”

Mặt chú bé lại tái đi. Nỗi thất vọng chực tràn những giọt nước mắt quanh khoé. Tôi vội trấn an: “Chú đùa thôi.”

Chú bé hăng hái ngồi thụp xuống đất cởi giày tôi ra. Tôi cản: “Từ từ. Chú không chạy đâu.”

Trong lúc đó, người hầu bàn bưng ly sữa đậu nành bốc khói cùng đĩa bánh đến. Tôi nghe chú bé nén nước bọt đánh ực trong cuống họng. Tôi kéo tay chú: “Cháu ngồi lên ghế, ăn đi.”

Chú bé tự nhiên ăn uống một cách ngon lành. Tôi châm thuốc nhìn ra bầu trời trước mặt.

Bên kia đường là chợ Đà- Lạt, người người co ro trong những chiếc áo mưa tơi. Những cô bán hoa ngồi héo mặt trong góc khuất chờ mưa tạnh. Những bà bán trái cây buồn rầu nhìn ông đi qua, bà đi lại; có bà tỉ mỉ lau bóng những trái táo nhập cảng như sợ nước mưa sẽ làm mẹt trái cây chóng thối. Bà bán bún ngồi ủ rũ khều mấy cục than trong lò ra, vì sợ lửa lớn sẽ chóng làm cạn nồi nước lèo. Những người bán rau tranh thủ ngồi nhặt những chiếc lá héo bên ngoài.

Trời Đà Lạt buồn rầu đón thêm một cái Tết lạnh lùng. Không khí như đặc lại bởi cơn mưa cứ nhỏ hạt lê thê. Chợ búa như khép kín với nỗi buồn muôn thuở. Tôi đã nghe những người chung quanh than vãn suốt hai ngày qua. Lạ, Tết đến rồi sao ông trời chẳng cười giùm cho một chút, ông khóc sụt sùi hoài thì dân chúng làm sao mà dám cười?

Tôi nhìn qua khu Hòa Bình. Xe cộ thưa thớt, đường phố đắm chìm trong mưa. Phố Đà Lạt nhỏ, trời mưa khiến những con đường chảy nước ràn rụa, làm tăng vẻ rét mướt. Tôi nhìn lại, chú bé đã uống cạn ly sữa nóng.

Gợi chuyện:

“Ba mẹ cháu đâu? Sao để cháu ra làm thế này?”

“Bố mẹ cháu ngoài Bắc.”

“Như vậy cháu ở với ai?”

“Cháu ở với chúng bạn.”

“Cháu không có bà con gì trong Nam sao?’

“Không. Ngoài Bắc đói lắm, chúng cháu mới rủ nhau vào đây kiếm ăn!”

“Cháu bao nhiêu tuổi rồi hả?’

“Mười hai.”

“Mười hai? Nhìn cháu như mới lên bảy, tám là cùng.”

“Đói quá làm sao mà nhớn được chú?”

Chú bé cười sau câu nói, nhe hàm răng cáu vàng. À, thì ra chú bé cũng biết đùa.

Tôi hỏi tiếp:

“Cháu vào đây bao lâu rồi?”

“Hai năm.”

“Vậy cháu bỏ nhà vào Nam lúc cháu mới mười tuổi?”

Chú bé cãi: “Cháu không bỏ nhà đi. Bố mẹ cháu cho phép.”

Tôi cười thành tiếng: “Ừ, thì ba mẹ cháu cho phép. Cháu đi một mình?”

“Không. Cháu đi cùng chúng bạn.”

“Vậy mấy bạn đâu rồi?”

“Chúng cháu chia nhau đi làm. Đêm đến mới gặp.”

“Tối về cháu ở đâu?”

Đứa bé đưa tay chỉ. Tôi bật lên âm thanh hơi lớn, khiến một vài cái đầu trong quán quay lại nhìn: “Trong chợ?”

Đứa bé gật đầu. Tôi nghĩ, trời lạnh như thế này, rồi chặc lưỡi: “Tại sao ba mẹ cháu lại để cho tụi cháu đi như vậy?”

“Bố mẹ chúng cháu nuôi chúng cháu không nổi.” Chú bé thản nhiên trả lời.

Tôi bần thần nhìn đứa bé còi cọc trong chiếc áo “sida” bằng nỉ rộng thùng thình. Chiếc áo vượt không biết bao nhiêu đất trời, từ những người hảo tâm bên Tây, bên Mỹ, về Việt-Nam được hân hạnh khoe mình trên những sạp đồ cũ ngoài chợ trời, với cái tên đầy vẻ“thời thượng” – sida – Tôi biết nếu chủ nhân cũ của nó nghe được chắc chẳng bao giờ dám mang áo quần đi cho.

Lạ, đầu óc tôi khi không lại đảo một vòng quanh thế giới. Tôi nhìn lại mình, nhìn lại chú bé bên cạnh đang kín đáo thè chiếc lưỡi nhỏ liếm vành môi còn đọng lại chút sữa.

Tôi hỏi. Cháu uống thêm ly nữa nhé. Trong khi bàn tay như thói quen kêu người chạy bàn thêm một lần nữa, không để ý đến sự phản đối yếu ớt của chú bé.

Tôi bỗng buồn. Tại sao tôi lại trở về Việt-Nam để thấy lòng mình buồn hơn bao giờ hết? Tôi chợt nghĩ đến những đứa cháu tôi bên Mỹ. Những đứa con nít ở Mỹ mới sung sướng làm sao! Buổi sáng, mẹ chúng phải năn nỉ chúng uống từng hớp sữa trước khi đến trường. Chiều về, lại dán mắt vào TV, hoặc những chiếc máy vi tính. Những trò chơi điện tử, chúng chơi chưa qua một ngày, đã chán!!!

Chú bé rụt rè đặt ly sữa thứ hai xuống bàn. Xong, hăng hái ngồi xuống đất gỡ dây giày tôi ra. Tôi lại kéo chú ngồi dậy, cười: “Chú có một đề nghị.”

“Gì cơ?”

“Trời mưa, chú đi chơi không được. Cháu làm việc cũng không được. Bây giờ, cháu ngồi nói chuyện với chú, coi như là làm việc với chú. Được không?”

“Thế đôi giày của chú?”

“Chú không cần cháu đánh giày cho chú đâu.”

“Sao cơ?” Chú bé có vẻ hốt hoảng.

Tôi trấn an: “Chú trả tiền cho cháu đàng hoàng mà. Đừng lo!”

Tôi hỏi thăm về chú bé, về công việc mưu sinh hàng ngày. Chú bé nói mới thông thạo làm sao. Tôi yêu quá tiếng Việt được nói ra lưu loát từ cửa miệng của một em bé. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp nghe em bé Việt-Nam nói chuyện một cách mạch lạc. Ở Mỹ, tôi đã quen với những tràng tiếng Mỹ xen với những câu tiếng Việt ngô nghê của mấy đứa cháu khi bị ba mẹ lườm mắt, ý không được nói tiếng Mỹ ở nhà.

Chú bé quay qua hỏi tôi: “Chú về thăm gia đình hở?”

“Chú có đi đâu mà về?” Tôi nheo mắt trêu.

Chú bé cười, ra vẻ hiểu biết: “Nhìn chú, cháu biết chú là người nước ngoài rồi.”

“Sao biết?”

Chú bé thân thiện hơn: “Không sao cả. Biết là biết.”

“Chú cũng là người Việt mình mà?”

“Chú khác với những người Việt ở đây. Chú là Việt kiều!”

“Chú thấy có khác gì đâu?”

“Tại chú không thấy. Nhưng cháu thấy!”

Tôi đổi sang chuyện khác, nói vu vơ: “Tết năm nay hoa anh đào bị tàn hết vì mưa?”

“Vâng!” Chú bé vội vã nói tiếp: “Nhưng cháu thấy hoa đào ở ngoài cháu đẹp hơn nhiều.”

“Phải!”

Chú bé reo lên: “Chú cũng thấy nữa sao?”

“Chú chưa ra Bắc lần nào, nhưng chú thấy trên phim ảnh.”

“Ở ngoải cũng có phim ngoài Bắc nữa sao?”

Tôi bật cười vì khi không chú bé lại nói giọng Nam: “Phải, ở ngoải cũng có. Chú thấy những cành hoa đào thật đẹp ngoài Bắc.”

“Đẹp mà làm gì hở chú? Nhà cháu không bao giờ ăn Tết bằng hoa đào.”

“Ai lại ăn Tết bằng hoa đào?”

Chú bé không hiểu tôi đùa. Nghiêm giọng: “Thật đấy chú. Đắt lắm chú ạ. Có cành cả bạc triệu cơ đấy. Chỉ có nhà giàu mới sắm hoa đào ăn Tết!”

“Thế Tết cháu không về, ba mẹ có mong không?”

“Tiền đâu mà về chú. Cháu để dành tiền vé xe lửa gửi về cho bố mẹ còn hơn!”

“Cháu nhớ nhà không?”

“Cháu nhớ lắm chú. Cháu nhớ cái Hà nữa cơ. Cái Hà em cháu còn bé mà ngoan lắm, giúp được việc cho mẹ cháu lắm!”

Tôi cao giọng, vui lây với chú bé đôi mắt cứ nhấp nháy khi nhắc đến đứa em gái:

“Cái Hà giúp được việc gì nào?”

“Cái Hà giúp mẹ cháu đi nhặt lúa rơi.”

“Thế ba mẹ cháu làm gì?”

“Bố mẹ cháu làm nông. Nhưng bây giờ cũng ít ruộng để làm rồi.”

“Sao vậy?”

“Người ta lấy ruộng để xây nhà hết.”

“Thế hả?” Rồi tôi trầm ngâm.

Chú bé hỏi: “Chú cũng về quê ăn Tết à?”

Tôi thở dài: “Chú không có quê. Chú không còn ai thân ở Việt-Nam cả!”

“Thế chú về làm gì? Ở ngoải sướng hơn. Cháu nghe nói bển cũng có bánh tét, bánh chưng, có… đủ thứ. Đâu cần phải về!”

Tôi cười xòa: “Chú đâu thèm bánh tét, bánh chưng,… Thế cháu thèm bánh tét, bánh chưng lắm phải không?”

Tôi bật cười hồn nhiên. Khi không, nói chuyện với chú bé một hồi, chú bé lại giả giọng Nam, tôi lại lái qua giọng Bắc.

Chú bé le lưỡi: “Cháu thèm bánh chưng. Mà đắt lắm chú ơi. Nhưng cháu nhất định sẽ ăn nó vào Tết năm nay!”

Chú bé nói chữ “nhất định” nghe ra thật cương quyết. Tôi thấy bồi hồi. Ước mơ và mục tiêu của em bé nghèo Việt- Nam chỉ đơn giản như thế sao?”

Tôi khỏa lấp: “Tại sao lại nhất định?”

Chú bé cắt nghĩa: “Này nhé. Chúng cháu gửi tiền về nhà. Còn dư, chúng cháu góp lại mua được những hai chiếc bánh chưng lận!”

Tôi cười: “Mấy đứa mà những hai chiếc lận?”

“Lẽ ra là mười đứa. Nhưng hai đứa xuống Phan-Rang nhảy tàu về quê, còn lại tám đứa. Cháu tính rồi, mỗi đứa được một phần tư cái. Cháu mong cái Hà năm nay cũng được ăn bánh chưng như cháu!”

Tôi quay mặt nhìn xuống lòng đường. Nước cuồn cuộn dưới chân. Vài chiếc xe hơi đời mới chạy ngạo nghễ bắn bùn vào khách bên đường, để lại những tiếng chửi rủa tục tằn. Chú bé tò mò nhìn tôi. Chắc chú chẳng hiểu tại sao mắt tôi lại ngầu đục?

Trở về Đà Lạt lần này, tôi muốn ăn Tết với gia đình người bạn thân thời trung học một cách bất ngờ. Nhưng dự định của tôi tiêu tan! Bao nhiêu năm rồi, nếu lòng tôi không thay đổi, chưa chắc người khác đã không đổi thay như tôi. Bây giờ tôi mới biết, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau đã khiến con người ta khó thể gần gũi nhau được. Bạn bè ngày xưa từng mặc áo lẫn nhau, bây giờ nhìn lại mới thấy thời gian đã làm thay đổi nhiều quá! Không có gì tồn tại mãi!

Tôi lần mò đến con dốc cũ, chẳng buồn biết nó có bị thay tên hay chưa? Đà Lạt không có những thay đổi lớn lao, ngoài khí trời hình như không còn lạnh như năm nào.

Căn nhà cũng như xưa, không được sửa sang, trông già nua quá thể, giàn hoa giấy cũ đã bị chết khô tự bao giờ! Và, cánh cửa gỗ nứt nẻ không buồn sơn phết lại. Tôi gõ cửa. Người đàn ông yếu đuối, tóc lưa thưa bạc phếch, mở cửa nhìn tôi bằng đôi mắt mệt mỏi.

Tôi lễ phép: “Thưa bác có Thuần ở nhà không ạ?”

Người đàn ông ngạc nhiên, cau mày nhìn tôi một thoáng rồi bảo tôi vào nhà ngồi chờ.

Một lúc khá lâu, cũng người đàn ông ấy chậm rãi bước ra, vỗ vào vai tôi: “Thằng Thuần không có ở nhà con à.”

Chưa kịp che giấu nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt tôi, thì người đàn ông lại đánh đét vào đầu tôi, la lớn, giọng Huế đặc sệt: Tuân ‘tồ’!! ‘Mi không nhận ra tau hỉ?”

Bây giờ thì đến phiên tôi ngạc nhiên: “Sao bác lại biết tên tục của cháu?”

Người đàn ông đấm mạnh vào vai tôi: “Bác cái mả cha mi! Tau là Thuần đây, khỉ à!!!”

Tôi há hốc miệng: “Trời ơi! Mày… mày giống ba mày quá!”

“Mi lại nói móc tau đó hỉ? Con khỉ, nói tau già thì nói đại đi! Bày đặt!!!”

Tôi ngượng ngùng: “Mấy chục năm rồi mày à. Nói thật, tao không nhận ra mày! Chỉ thấy có nét giống ông cụ nên tao tưởng là bác trai chứ???”

Thuần cười móm mém: “Tau hiểu. Đời sống khó khăn. Mau già lắm!”

Tôi nheo mắt cười. Thuần đổi giọng: “Về hồi nào vậy?”

“Một tuần rồi. Tao mới lên Đà Lạt ngày hôm qua! Ở Mỹ hàng năm có tổ chức sinh hoạt cựu học sinh, anh em vẫn thường nhắc tới mày!!!”

Thuần lơ đãng: “Thế à!”

Tôi nhìn vào mắt Thuần, đục ngầu màu khói thuốc. Thuần già đến nỗi tôi không thể nào tưởng tượng ra được! Ngày còn đi học, Thuần chăm chút hình hài lắm! Sau một cuộc thất tình, Thuần bỏ ngang năm thứ hai Luật khoa, đi lính!!!

Sau đó chúng tôi ít gặp nhau, nhưng vẫn thường xuyên liên lạc. Năm 1979, tôi vượt biên, nghe đâu Thuần vẫn còn bị học tập cải tạo.

Thuần mang đầy mặc cảm, tự ái! Thuần ăn nói nhiều khi rất cay độc với người, và cả chính mình!

Tôi thân với Thuần vì học cùng lớp thời trung học, lớn lên trong một thành phố. Xong tú tài hai, chúng tôi cùng xuống Sài-Gòn ghi danh vào trường Luật, ở chung phòng trọ.

Khi ra đi, tôi mang theo rất nhiều kỷ niệm thời thơ trẻ cùng Thuần. Trở về, tôi có rất nhiều điều muốn nói với anh, nhưng khuôn mặt Thuần lạnh căm, không bày tỏ một chút xúc cảm, làm tôi thấy thất lạc!

Thuần hất hàm:

“Ở khách sạn hả? Đúng rồi, Việt kiều phải vậy chứ? Ở nhà rách chắc không quen!”

Tôi nhăn nhó: “Mày nói nghe nhột quá!”

Thuần đổi đề tài: “Hai bác và mấy đứa em mi bên đó vẫn khỏe chứ?”

“Ba mẹ tao đã qua đời. Mấy đứa em vẫn khoẻ.”

Thuần chặc lưỡi: “Ba mạ tau cũng vậy. À! Ngôi nhà của gia đình mi nhà nước cấp cho cán bộ cao cấp, họ sửa lại thành biệt thự đẹp lắm. Mi tới đó chưa?”

“Tao định thăm mày xong tao qua đó coi cho biết.”

“Ừ ngôi biệt thự đó bây giờ không rẻ đâu. Phải rồi, nghe nói mi vừa ly dị?”

Tôi thở nhẹ: “Năm năm rồi.”

Thuần đùa: “Tin tức đi chậm, nhưng chính xác! Mấy cháu?”

“Một. Ở với mẹ nó.”

“Về đây kiếm vợ hả?”

“Mẹ. Mày đừng có đùa. Tao già rồi!”

“Mi còn “sữa” chán. Lúc xưa ai cũng kêu mi là “tồ” vì lớn con nhất đám. Không ngờ bây giờ trông mi “sữa” nhất đám!”

Tôi đùa: “Bộ mấy cô thích “sữa ông già” như tao lắm sao?”

“Sữa gì cũng thích. Sữa Hà-Lan, sữa Con Chim, sữa Ông Già, sữa quá đát (date)… miễn là hàng ngoại!”

Tôi cười lớn: “Ông cũng còn giễu như lúc xưa!”

Thuần cũng há miệng cười thành tiếng, không thèm che đậy chiếc răng cửa đã rụng: “Giễu để mà sống chứ!”

“Bộ liệt tao vào thứ hàng ngoại thiệt sao?”

Thuần nhìn tôi từ đầu đến chân: “Mi là hàng ngoại một trăm phần trăm!”

Tôi chưa kịp mở miệng. Thuần lại tiếp: “Áo da của Mỹ, áo thun của Mỹ quần bò của Mỹ. Cả đôi giày cũng Made in USA tuốt! Thế mà không phải là hàng ngoại một trăm phần trăm à???”

Tôi thấp giọng: “Đừng giễu nữa. Tao là người Việt-Nam một trăm phần trăm!”

“À! Điều này chỉ có mi biết! Ra đường ai nói mi là người Việt-Nam đâu. Họ bảo mi là Việt…. kiều!!!”

Tôi xua tay đổi đề tài: “Mày càng nói càng đi xa vấn đề. Bà xã đâu? Con mày ra sao?”

Thuần thở dài: “Tau cứ bịnh lên bịnh xuống, nên bả phải lo chạy gạo! Tụi con tau lớn hết trơn rồi. Chúng nó cũng sống trôi nổi lềnh bềnh như tau! Chỉ có đứa út là dính vào vợ chồng tau, trôi được khúc nào hay khúc đó.”

Tôi nén tiếng thở dài.

Tôi đứng dậy cáo từ. Thuận tay, tôi xoa đầu cậu bé đang khép nép bên khung cửa, tôi nghĩ là con út của Thuần. Tôi khéo léo nhét vào túi áo cháu ít tiền. Rồi đi!

Nhìn gia cảnh Thuần, tôi hiểu nó túng thiếu lắm! Năm cùng tháng tận!!! Không có một bình hoa trên bàn thờ. Ngay cả ly nước trà cháu mang cho tôi uống cũng rất loãng. Tôi hiểu bạn tôi lắm. Nhưng tôi không biết chia sẻ bằng cách nào. Bạn tôi tự ái rất cao!!!

Thành phố bắt đầu lên đèn. Cơn mưa còn chút bụi nước bay lất phất qua những ngọn đèn đường trên cao.

Chú bé níu áo tôi: “Chú thật không muốn đánh giày hả?”

Tôi giật mình nhìn chú bé, thương hại: “Chú không đánh. Hôm nay là bao nhiêu rồi nhỉ?”

“Hai chín Tết!”

“Sao không thấy chợ Tết hả cháu?”

“Mưa quá. Người ta nhóm chợ bên trong!!!”

“Thế làm sao cháu ngủ?”

“Đợi đêm đến chúng cháu mới lẻn vào!”

Tôi xoa đầu đứa bé: “Chúng ta kiếm cái gì ăn không?”

“Cháu không dám đâu!!!”

Tôi đùa: “Dám một chút đi mà!”

Đứa bé cương quyết: “Cháu thật không dám!”

Tôi móc tiền cho chú bé. Số tiền nhỏ lắm đối với tôi, nhưng có thể là cả ước mơ của chú bé! Cho chú bé và các bạn tha hồ ăn bánh chưng năm nay.

Chú bé tròn mắt nhìn tôi, ngần ngại. Tôi dúi tiền vào tay chú. Chú cầm lấy, miệng lí nhí cảm ơn – hình như hai tiếng cảm ơn rất khó nói đối với chú – rồi, chú vùng chạy. Hộp đồ nghề đánh giày lắc lư một bên. Cứ chạy dăm ba bước, là chú bé dừng lại, ngoái đầu nhìn tôi. Có thể chú đang sợ tôi đổi ý, đòi tiền lại chăng?

Tôi đưa bàn tay lên vẫy, bỗng thấy hụt hẫng vô cùng. Tôi nhìn theo cho đến khi chiếc bóng nhỏ bé kia lẫn trong màn sương.

Đêm hai chín Tết. Không biết đêm mai tôi đón giao thừa ở đâu? Ngay trong khách sạn, một mình? Không biết Tết năm nay đến với tôi là năm thứ mấy mươi tha hương? Riêng chú bé thì hẳn tôi đã biết mấy năm chú tha hương rồi!!!

VietH.

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

VẾT THƯƠNG KHÔNG BAO GIỜ LÀNH-Nguyễn Duy An-Truyện ngắn

 Kimtrong Lam

Tác gỉả : Nguyễn Duy An .

Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.

Bài viết của ông mang theo một thông tin đặc biệt: Truyền hình National Geographic chiếu phim ‘Inside the Vietnam War’ nhân kỷ niệm 40 năm trận chiến Mậu Thân.

  1. Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:

– Duy à… Có chuyện rồi! Ðại uý Morrow cần gặp riêng Duy. Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và buớc nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay đại uý Morrow vừa hỏi:

– Mời đại uý ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?

– Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 nguời ‘homeless’ cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng đuợc. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những người này có vẻ không đàng hoàng… nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.

– Ồ… Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm. Không sao đâu. Ðể tôi xuống gặp họ.

– Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ ‘ngầu’ lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và ‘càm ràm’ với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần… Anh tính sao?

– Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào ‘cafeteria’ uống ly nước, chắc không sao chứ?

– Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở ‘cafeteria’. Anh không ngại chứ?

– Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.

Trong lúc theo với đại uý Morrow xuống nhà gặp ‘khách’, tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.

  1. Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường sá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thường đi làm bằng xe ‘Metro’. Một buổi sáng Thứ Sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con truớc ngày tựu truờng. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang ‘rên rỉ’ bài Hạ Trắng:

Gọi nắng… trên vai em gầy đường xa áo bay

Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say

Lối em đi về… trời không có mây

Ðường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy…

Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ ‘homeless’ đang ‘ngất ngưởng’ thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh… Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:

– Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?

– Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.

– Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhưng khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.

– Ông…

– Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải nguời Việt tụi mày vẫn nói thế sao?

– Tôi không quen gọi nguời lạ như thế. Hay gọi nhau là ‘anh tôi’ được không?

– Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?

Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.

– Tôi sẽ trở lại truớc 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.

-Mày không sợ hả?

-Sợ gì?

-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.

– Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.

– Ði đi. Hẹn gặp lại.

  1. Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành ‘bạn’ từ dạo dó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.

Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở ‘hạch hỏi’. Ðã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial).

Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.

Vừa gặp mặt, Norman siết chặt tay tôi cuời lớn, rồi lên giọng:

– Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám ‘cớm dổm’ ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.

Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:

– Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là người Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân ‘homeless’ của tao.

Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:

– Mời các bạn xuống ‘cafeteria’ uống nuớc và nói chuyện.

– Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.

– Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu.

Norman cuời ha hả trả lời bằng tiếng Việt:

– Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt ‘một ông già Bắc kỳ’ thứ thiệt.

Chúng tôi vui vẻ buớc vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng truớc bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những nguời đang có mặt trong’cafeteria’ sáng hôm dó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:

– Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có ‘preview’ cuộn phim ‘Inside the Vietnam War’ truớc khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không?

– Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.

– Ðài của tụi mày chỉ có trên ‘Cable’ và ‘Direct-TV’. Dân ‘homeless’ tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé ‘preview’ mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Ðược không?

– Chắc được. Mấy lần truớc tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!

– Lần này khác… vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.

  1. Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người ‘bạn’ cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang ‘Explorer Hall’ cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội truờng chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé ‘preview’, tôi đã liên lạc nhờ mấy người trong nhóm ‘Audio & Video’ của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội truờng, tránh xa những vị ‘tai to mặt lớn’ trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.

Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng siết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi nguời.

Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội truờng. Ba người bạn của tôi vẫn ‘án binh bất động’ dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc… trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị ‘dân Mỹ’ và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài người chung quanh cùng khóc theo!

Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội truờng bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những nguời chung quanh rồi vội vàng ‘kéo’ ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót ‘khật khưỡng’ bước theo tôi như ba cái xác không hồn!

Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu ‘Inside the VietNam War’ nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh ‘homeless’ đã cùng tôi đi xem ‘preview’ hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.

Có lẽ đã tới lúc người Mỹ nhận thức được ‘món nợ phải trả’ cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.

Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?

Nguyễn Duy An

khoa1hocviencsqg.com/


NHƯ TRONG CỔ TÍCH – Nguyễn Kim Nguyệt- Truyện ngắn

Nguyen Kim Nguyet
Posted by GLN

Kể cả bạn bè thân thiết cũng ít người biết rằng tôi có 1 cô con gái nuôi, đơn giản là và tôi chưa nuôi Đào ngày nào nhưng Đào gọi tôi là mẹ – mẹ nuôi, và tôi hạnh phúc vì điều đó.

Tôi gặp Đào vào một ngày giữa năm 2008, em đến văn phòng gặp tôi để đăng ký phẫu thuật răng hàm mặt miễn phí với đoàn bàc sĩ Surgicorps đến từ Mỹ, một duyên hội ngộ khi tôi gửi thông điệp này lên mạng AIT Alumni VN (Hội Cựu Sinh Viên AIT tại VN), một người bạn nào đó bên Pháp báo tin cho người nhà tại VN là một người bạn của Đào để rồi đưa em đến gặp tôi. Tôi sửng sốt khi gặp Đào lần đầu với khuôn mặt bị cháy 1 nửa và 1 bàn tay không còn nữa, nhưng em không hề ngần ngại với khuôn mặt ấy mà rất tự tin, luôn nhìn thẳng vào tôi khi nói chuyện. Tôi hỏi chuyện Đào mà trong lòng tràn đầy thương cảm xót xa.

Đào sinh ra trong một gia đình nghèo đông con tại Bình Định. Vùng nông thôn Việt Nam thường có tục lệ đốt than hơ nóng cho các bà mẹ sau sinh mà họ tin rằng sẽ tốt cho sản phụ và trẻ sơ sinh, Đào cũng được hơ than bằng cách đó. Khi chưa đầy tháng, mẹ em cho em nằm võng bên dưới đốt 1 chậu than hồng, hôm đó chỉ trong 1 khoảng khắc mẹ em bỏ con ra ngoài sân lấy nước thì nghe tiếng kêu xé ruột trong nhà, bà không thể ngờ đứa con gái út bé bỏng của mình mới 28 ngày tuổi chưa hề biết lẫy lại có thể lật ra khỏi võng và nằm trên chậu than hồng như có một bàn tay siêu hình gây ra vì lúc đó trong nhà không có một ai cả. Đứa trẻ giãy giụa trong than, cháy hết 1 bên thân thể, cháy cụt hết các ngón tay trái và 1 bên mặt, em được đưa đến bệnh viện cấp cứu, do bị hoại tử nên phải cắt cánh tay trái đến gần khủy. Chỉ sau một thời gian chữa chạy, bệnh viện cũng bó tay, trả em về nhà nằm chờ chết.

Nhưng em không chết, em cứ thế lay lắt vượt qua cái chết để được sống.

Lớn lên với nỗi đau thể xác đã hóa thành sẹo khắp gương mặt và 1 phần thân thể em, mắt và miệng bị co rúm lại đến nỗi em không thể há mồm, cánh tay không thể duỗi ra, thế nhưng đến năm 7 tuổi em mới nhận thức được sự khác biệt của mình qua ánh mắt khinh bỉ, qua sự trêu chọc, nhạo báng của bạn bè, và cứ thế em sống trong tủi nhục cho đến năm 22 tuổi.

Hôm đó qua đài phát thanh em được biết có 1 đoàn bác sĩ Mỹ đến Việt Nam phẫu thuật sứt môi, hở hàm ếch miễn phí ở Quy Nhơn và em lập tức lên đường dù đã hết hạn đăng ký. Vị trưởng đòan, bác sĩ phẫu thuật, Dr. Frank Walchak và Carolyn vợ ông, y tá phòng mổ đến từ Spokane, ngay từ lần đầu gặp em, ánh mắt khẩn khoản cầu xin của em đã chạm vào lòng trắc ẩn của họ và như hai vị thần hộ mệnh, họ đã nhận ra sứ mệnh của mình.

Frank biết không chỉ 1 lần phẫu thuật, em cần phải phẫu thuật nhiều lần để cải thiện khuôn mặt ấy và họ đã quyết định tìm mọi cách đưa em sang Mỹ. Sau 2 năm nỗ lực xin visa và làm các thủ tục chuẩn bị cho Đào, hai vợ chồng vị bác sĩ nhân hậu và bao dung ấy đã đưa được em sang Mỹ. Chín tháng ở với họ và trải qua nhiều cuộc phẫu thuật đau đớn, khuôn mặt em được cải thiện đáng kể, ở đó em luôn được coi như cô con gái út trong gia đình với 2 người chị gái đầy yêu thương. Em được học tiếng Anh, học lái xe và trượt tuyết dù chỉ có 1 tay, họ yêu em và luôn coi em như một người bình thường. Em nhút nhát vì mọi thứ đều lạ lẫm vô cùng vì đây là lần đầu tiên em bước chân ra khỏi lũy tre làng chứ chưa nói đến chuyện ra khỏi biên giới. Những tâm hồn cao đẹp đã hội tụ tại đây để mang đến cho đời những điều kỳ diệu. Nhưng dù sao thì cũng đến ngày em phải về nước và đối mặt với cuộc sống của chính mình.

Khi tôi gặp Đào, cô ấy đã trải qua 7 lần phẫu thuật, khuôn mặt tuy đã cải thiện hơn trước nhưng thực sự những vết sẹo vẫn còn chằng chịt, mắt và miệng vẫn bị kéo lệch 1 bên. Sau khi từ Mỹ trở về Đào đã quyết tâm từ Bình Định ra thành phố Hồ Chí Minh xin việc và học thêm tiếng Anh và kế toán vào buổi tối. Lúc đó công việc của em thực sự rất khó khăn và khắc nghiệt. Không chỉ lo cho bản thân mình, Đào vẫn phải đi bán vé số tại bến Bạch Đằng, mỗi đêm được khoảng 50 ngàn đồng để gửi về nuôi cha mẹ mình ở quê.

Ngay buổi sáng đầu tiên khi đoàn Surgicorps vừa hạ cánh, trong lúc chờ check in tại khách sạn Majestic họ đã tranh thủ sơ khám cho Đào và 1 số bệnh nhân khác, bất kể mệt mỏi do lệch múi giờ và chưa ăn uống gì. Buổi chiều hôm đó họ bắt tay vào làm việc ngay, Đào là trường hợp được thử máu buổi chiều đó và được họ quyết định phẫu thuật ngay ngày hôm sau vì họ muốn có 1 tuần điều trị hậu phẫu cho em trước khi họ về nước. Buổi tối Đào gọi điện cho tôi giọng rất hoang mang, em nói em không thể phẫu thuật ngay ngày mai vì bà chủ không cho phép nghỉ. Thực sự em rất khó khăn để lựa chọn hoặc mất việc hoặc được phẫu thuật, mà em thì cần rất nhiều lần phẫu thuật nữa để cải thiện gương mặt, mỗi dịp như thế này là cơ hội vàng cho em. Tôi chỉ nói với em hãy xin phép và trình bày cặn kẽ với bà chủ, nếu không được và sau này bà chủ vẫn đuổi việc thì gọi cho cô, hãy tin rằng cô sẽ giúp con.

Năm đó công ty tôi cũng đăng ký cho em Toàn, một nhân viên nam là trưởng phòng vé máy bay, được phẫu thuật vá 1 bên cánh mũi, dị tật bẩm sinh do mẹ em bị cúm khi mang thai. Tôi vào thăm các em ngay sau khi phẫu thuật xong và tặng quà cho tất cả các bệnh nhân trong dịp đó. Thật cảm động khi được thấy các bác sĩ Mỹ trong phòng hậu phẫu bồng bế từng em nhỏ dỗ dành, cho quà bánh để các em khỏi lo lắng và đau đớn. Toàn cảm động nói với tôi, khi con mở mắt ra người đầu tiên con nhìn thấy là chị Đào đang ngồi bên con, chị ấy đã pha nước chanh và đợi con tỉnh dậy để cho con uống, dù chị ấy cũng mới chỉ phẫu thuật trước con không lâu. Câu chuyện ấy tôi không bao giờ quên, tôi biết đằng sau khuôn mặt khiếm khuyết của Đào là một tấm lòng nhân hậu.

Một tuần sau Đào gọi điện cho tôi nói như khóc: “ Cô ơi con bị đuổi việc rồi cô ạ”, không chút đắn đo tôi nói “Ngay khi con bình phục hãy đến công ty gặp cô” dù lúc đó tôi cũng không biết Đào có thể làm được việc gì không? Việc nhận Đào vào công ty tất nhiên do quyết định của tôi thì không ai ngăn cản nhưng nhìn ánh mắt một số nhân viên tôi biết Đào sẽ không dễ dàng gì khi làm việc ở đây, nhưng rất may Đào đã có Toàn luôn bảo vệ và thân thiết từ khi hai bạn cùng nằm phẫu thuật trong bệnh viện.

Thật đáng ngạc nhiên, tuy chưa được học hành đến nơi đến chốn, nhưng Đào rất thông minh và chăm chỉ, bất kể việc gì được giao em đều hoàn thành tốt nhất, kể cả phần mềm kế toán mới nhất em cũng nắm bắt rất nhanh chóng. Hàng ngày em vẫn chạy xe máy bằng 1 tay, làm mọi việc bằng 1 tay nhưng không khiến em ngại ngùng bất kể việc gì. Em âm thầm làm việc mà không hề kêu ca, khi tôi phát hiện em bị chèn ép và hỏi han thì em đều nói “Không sao, mẹ cứ để tự con giải quyết”. Em cũng xin được gọi tôi là mẹ từ ngày ấy, em nói “Vì mẹ đã sinh ra con lần thứ hai”.
Em đã trở thành một nhân viên văn phòng như thế đấy!

Dịp đó ông bà Frank & Carolyn Walchak đi phẫu thuật từ thiện tại Trung Quốc biết tin Đào có được công việc tốt tại EVIVA, họ lập tức bay sang Việt Nam để làm một việc là cám ơn tôi. “Trời ơi, tin được không???” hôm đó ông bà mời Đào đến ở chung phòng trong khách sạn và mời tôi đến, nhìn cách ông bà ôm Đào, giới thiệu với tất cả mọi người đây là con gái của chúng tôi một cách tự hào mà không hề bối rối trước những ánh nhìn tò mò lạ lẫm, tôi thấy cảm động vô cùng. Tôi nói với họ “Người mà cần được cám ơn hôm nay chính là ông bà, từ một đất nước xa xôi ông bà đến đây, yêu thương, cưu mang một cô gái nghèo tàn tật của chúng tôi, thì không lẽ gì tôi là một người Việt nam lại không làm được điều đó.” Nhưng ông bà ấy cứ khăng khăng nói rằng tôi mới là người đã thay đổi hoàn toàn chất lượng cuộc sống và công việc của Đào. Thật tuyệt vời khi trong cuộc đời của mình có thể được gặp được những con người như thế.

Tôi luôn kể những câu chuyện về sức mạnh tinh thần sẽ mang đến những điều kỳ diệu để khuyến khích và động viên Đào hãy ước mơ một hạnh phúc như những người khác và đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình. Tôi biết Đào đã cố gắng hết sức nhưng chưa chắc em đã tin những câu chuyện tôi kể, em nói rằng không bao giờ em dám mơ có một gia đình như bao người khác.

Thế rồi vào một ngày mùa Hè hai năm sau đó, Đào bẽn lẽn kể cho tôi câu chuyện có một vị bác sĩ nha khoa trong đoàn Rotaplast của ông bà Walchak, đã từng gặp Đào lần đầu từ khi em còn là một cô bé ở quê nghèo Bình Định, lâu nay anh ấy vẫn thường động viên, chuyện trò với em qua mạng, nay anh ấy đến Đà nẵng và muốn hẹn hò với em. Đào hỏi tôi có nên đi không và lo lắng không biết mình có bị lợi dụng không? Lúc đó tôi thật lòng nói với Đào “Con không có gì để bị lợi dụng cả, nếu anh ấy muốn đến với con thì đó chỉ có thể là một tấm lòng yêu thương và nhân ái vô cùng, con hãy đón nhận bằng cả tấm lòng, đó chính là món quà của trời đất trao tặng cho con.”

Quả thực Dr. Michael French là một người như thế, anh chàng đến ra mắt tôi tại văn phòng EVIVA và sau đó là một bữa tối thân mật tại nhà tôi với sự chứng kiến của hai vợ chồng tôi, anh chàng ôm lấy Đào với sự chân thành hiếm có, nói rằng Đào là cô gái đẹp nhất và anh luôn tự hào khi đi cùng Đào. Tôi hiểu ra rằng chuyện cổ tích luôn có thể xảy ra giữa đời thường, Đào đã sống với tấm lòng chân thành, hiếu thảo, nhân hậu và sự nỗ lực không ngừng, em xứng đáng được hưởng hạnh phúc như những câu chuyện cổ tích mà em được đọc hồi nhỏ.

Bây giờ Đào đã thành mẹ của 2 thiên thần đáng yêu là Michelle 6 tuổi và Mitchell 4 tuổi, gia đình em đang sống ở Murphys, California, Hoa Kỳ. Thật đáng kinh ngạc khi em sang Mỹ chỉ vài năm đã có thể vừa hoàn thành chương trình học tại Columbia College với kết quả xuất sắc, vừa nuôi dạy 2 con nhỏ rất chu đáo, vừa hàng ngày tự lái xe đi học và đi làm kế toán tại phòng khám Nha Khoa của chồng (Safari Smiles Dental) tại Sonora. Hàng năm gia đình em đều trở về Việt Nam thăm gia đình và đến các trại trẻ mồ côi, khuyết tật khám răng, tặng quà cho các em nhỏ như một lời tri ân đến cuộc đời.

Một sự tình cờ, hình như mọi sự tình cờ thực ra đều có nguyên do của nó, trên một chuyến bay ra Hà Nội vào tháng Tư năm 2017 tôi ngồi cạnh Văn Nữ Quỳnh Trâm, cô đạo diễn bộ phim tài liệu về lạm dụng tình dục “Bước Qua Bóng Tối”, một bộ phim được giải vàng liên hoan truyền hình toàn quốc năm 2017. Tôi đã kể câu chuyện về Đào cho Trâm nghe như một sự chia sẻ về sự kỳ diệu trong cuộc sống, Trâm xin tôi được để cô ấy làm phim về Đào, thế nhưng phải mất 6 tháng sau, tôi và cô ấy mới thuyết phục được Đào đồng ý đưa câu chuyện của mình lên phim. Tôi nói với Đào “Câu chuyện của con có thể truyền cảm hứng và giúp đỡ được những người có hoàn cảnh như con, hãy truyền cho họ niềm tin vào cuộc sống như con đã từng sống, ai cũng có quyền được hạnh phúc nếu biết rằng hạnh phúc chính ở trong tay mình”.

Tôi luôn tự hào về Đào và thường hay kể câu chuyện này mỗi khi cần truyền cảm hứng sống cho ai đó.

From: NGOC PHAN & Kim Bang Nguyen


 

ĐÊM GIAO THỪA – Tác giả UẤT KIM HƯƠNG

Kimtrong Lam

Tác giả UẤT KIM HƯƠNG

Mọi lần, khi vợ chồng tôi cãi vã nhau, tôi đều giận lẫy bỏ đi khỏi nhà, khi thì bồng con theo khi thì chỉ đi một mình tay không.

Và – anh ấy sẽ chạy theo, đến một chỗ vắng vẻ nào đó níu kéo, năn nỉ, xuống nước xin lỗi. Anh ấy luôn luôn là người nhường nhịn, làm hòa trước.

Vậy mà lần này, sau cuộc cãi kịch liệt, lời qua tiếng lại có phần động chạm tự ái của nhau, tôi giận khùng lên, bỏ đi khỏi căn nhà đang ấm cúng. Chẳng còn bao lâu nữa là bước sang năm mới. Vừa đi, tôi vừa nhìn chừng lại phía sau, hy vọng anh ấy sẽ đuổi theo. Nhưng không, không hề thấy bóng anh ấy.

Tôi tức giận thêm, khóc tấm tức. Đến một ngã sáu, lèo tèo một vài người thơ thẩn, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe rú ga vù đi qua phố thênh thang, tôi đứng lại bần thần, rồi nhìn đồng hồ: 10 giờ 30 phút. Anh ấy đã không tìm tôi, không màng kêu tôi về để cùng đón giao thừa với nhau. Bé Mi Mi của tôi chắc vẫn còn đang ngủ say. Còn anh ấy đang làm gì ở nhà? Khui mấy chai rượu Tết uống giải sầu ư?

Tôi băng qua đường, tiến về phía bùng binh trước một siêu thị lớn đã đóng cửa. Nơi ấy một cô gái đang ngồi ủ rũ một mình. Tôi đang muốn có bạn trong lúc đang rối trí, buồn phiền, để mình trút bỏ tâm sự cho nhẹ nhàng, biết đâu đầu óc sẽ sáng suốt, lòng thanh thản. Lỗi của tôi, hay của anh ấy, hay lỗi của cả hai, cần phải có một người ngoài cuộc phán xét.

Cô gái ngước mắt nhìn tôi. Một cô gái mặt hoa da phấn nhợt nhạt, mắt đượm ưu buồn, tóc tai rũ rượi. Tôi khẽ khàng ngồi xuống cạnh cô gái.

Ném ánh mắt nhìn tôi dò xét, cô gái hỏi, giọng lạnh lùng cộc lốc:

– Muốn gì?

– Ngồi chơi. Buồn quá…

– Không có nhà, không có gia đình để về đón giao thừa à?

– Có chứ. Nhưng mới gây với ông xã, nên bỏ đi cho khuây khỏa…

– Một đi không trở lại?

– Trở lại chứ!

– Trở lại thì đừng nên bỏ đi. Mất công!…

Tôi chưng hửng. Cô gái làm tôi kinh ngạc. Tự dưng tôi có cảm tình ngay với cô ta. Nhìn cô gái từ mấy lọn tóc đến những móng chân, tôi nhỏ nhẹ:

– Chị sao ngồi đây? Sao chưa chịu về nhà?

– Không nhà cửa. Không chồng con. Không bà con dòng họ. Quê nhà thì ở xa quá, tận vùng cao heo hút. Vậy thì về đâu?

– Vậy à? Xin lỗi… chị làm gì, ở đâu?

– Nói thẳng ra là làm đĩ!

Tôi đoán không sai. Nhưng cách trả lời của cô gái sống sượng quá, phũ phàng quá, làm cho tôi lạnh mình, và cũng chạnh lòng.

Tôi ngần ngại hỏi:

– Không còn chỗ nào để về ăn Tết thật sao?

– Chỗ nào? Chỉ có nhà trọ, nhà chứa, quanh năm chui nhủi bám víu vào những chỗ ấy mà sống qua ngày. Nhưng bây giờ, tiền hết thì nhà trọ đuổi. Nợ nần chưa trả xong, lại thêm tàn tạ héo úa, thì đâu nơi nào chịu chứa nữa!

– Sao người ta tệ bạc vậy? Vắt chanh bỏ vỏ à?

– Người ta ưu ái cho mấy đứa trẻ măng, mấy đứa tuổi mười tám đôi mươi thậm chí có đứa mới đôi tám. Mình địch không lại tụi nó đâu. Tụi nhỏ bây giờ đông lắm, ở khắp các vùng quê nghèo đổ về phồn hoa đô hội để… hiến thân!

Những từ ngữ ấy thật lạ lẫm đối với tôi, lần đầu tiên tôi nghe được, lại được thốt lên từ một giọng mỉa mai chua chát của cô gái giang hồ, khiến cho tôi thoáng rùng mình kinh sợ, lại thấy tim mình nhoi nhói vì một nỗi xót thương cho phận gái truân chuyên giữa dòng đời bát nháo…

Tôi bàng hoàng, xót xa. Cái đau đớn, tủi nhục, cùng cực của cô gái đã dập tắt những nỗi buồn nhẹ tênh, tự ái vặt vãnh trong tôi, dập tắt thật nhanh. Tôi quên đi chuyện mình vừa mới xích mích với chồng, chỉ còn biết trước mặt tôi là thân phận bèo dạt hoa trôi vô định, mang theo một ước ao bé nhỏ, nhưng không hề với tới được.

Tôi sờ ngực áo, rút ra mấy tờ giấy bạc polymer còn nằm nguyên từ chiều, trao hết qua tay cô gái. Trên ba trăm ngàn đồng. Cô gái không chút vui mừng, không vồn vã cũng không tỏ vẻ bất cần, thản nhiên nhận mấy tờ bạc, chẳng thèm đếm thử xem được bao nhiêu tiền. Cô hỏi:

– Còn chị thì sao đây?

Tôi kể sơ qua chuyện mình. Cô gái cười sằng sặc nói:

– Chị rõ khùng. Chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, vớ vẩn, mà bỏ đi khỏi tổ ấm gia đình của mình đang đầy ắp hạnh phúc. Chị hãy biết quý trọng những gì đang có được, chứ đừng làm hao hụt, uổng!

Tôi rùng mình, tỉnh ngộ. Cô gái cười mếu máo, nói tiếp:

– Tôi cả đời cứ ước mơ có được tấm chồng, một mái ấm nghèo nát cũng được, rồi có đứa con. Vợ chồng có nhau trong đói khổ cũng vui. Hạnh phúc nhỏ nhoi, ước mơ nhỏ bé vậy mà sao cứ ở mãi trong chiêm bao mộng mị, không bao giờ nắm bắt được…

Tôi đứng dậy. Tôi phải về ngay. Cô gái vẫn tiếp tục:

– Ngay từ giây phút này đây, tôi chỉ mong ước có một điều…

Tôi khựng lại, hỏi:

– Điều gì?

Cười chua chát, cô gái thì thào:

– Ước gì trong giờ khắc giao thừa – có một chàng ngớ ngẩn nào đó, xấu xí cũng được, đần độn cũng được, nghèo rách cũng được, nhưng miễn là thương tôi, thích tôi, chịu dìu tôi về nhà, hai đứa sẽ cùng đón giao thừa, ăn ngủ với nhau, qua ba ngày Tết thật vui vẻ, rồi chia tay nhau cũng được, mà sống luôn với nhau thì càng tốt, quá hạnh phúc cho tôi. Nhưng điều này… cũng là chiêm bao!

Tôi cảm thấy như vừa bị ai đó xát muối vào ruột gan mình. Nhắm mắt lại cho nước mắt rơi ra, rồi bước thật nhanh rời khỏi nơi cô gái ngồi, tôi băng băng về nhà mình…

Anh ấy đã bồng bé Mi Mi đi đâu rồi. Chắc là anh ấy đang đi tìm tôi, tìm ở hướng ngược lại. Sao không chịu đi ra phố ngã sáu nhỉ? Tôi tất tả băng đi trên đường vắng ngắt, mắt dáo dác ngó xa ngó gần, tìm hình bóng thân quen của chồng con.

Đã sắp đến giờ đón giao thừa rồi.

Tôi bắt đầu bước như chạy ngược trở lại phố ngã sáu có bùng binh vòng xuyến. Phố im ắng. Bùng binh trơ trọi. Cô gái đã đi rồi. Tôi ngơ ngác giữa phố khuya vào đêm cuối năm, bắt đầu tự chửi rủa mình.

Chợt, từ xa một chiếc xích lô đang chở khách phóng lại. Xích lô thắng kít một bên tôi. Tôi trố mắt nhìn lên, nhận ra người ngồi trên xe là… cô gái khi nãy.

Cô gái vui vẻ ra mặt, giọng nói giờ cũng đầy sinh khí hỏi:

– Sao chưa chịu về nhà mà còn đứng xớ rớ ở đây nữa hả “bà”?

Tôi ngạc nhiên nhìn cô gái, rồi nhìn anh xích lô nói:

– Về rồi, nhưng anh ấy bồng con đi đâu mất tiêu…

– Đi tìm chị chứ đi đâu. Mới thấy có một ông bồng con đi lên đi xuống hớt hơ hớt hải ở dưới dốc kia kìa, chắc là anh ấy rồi. Về lẹ đi. Lẹ đi!

Tôi mừng quá, định bước đi, nhưng chợt nhớ lại hỏi:

– Chị bây giờ định đi đâu?

– Đi về nhà ảnh, đón giao thừa với ảnh!

Tôi nhìn anh xích lô bằng ánh mắt nghi ngại, nói tỉnh:

– Coi chừng vợ người ta đánh ghen thì… mất ăn Tết đó!

Anh xích lô cười ha hả giữa khuya vắng, nói giọng oang oang:

– Đừng lo. Tôi độc thân, chưa có vợ con gì, cũng chẳng có nhà cửa, cũng là dân bụi sống rày đây mai đó thôi!

– Vậy bây giờ anh chở chị ấy đi đâu?

– Về vỉa hè, tổ ấm tạm bợ của tôi. Đón giao thừa hai đứa, ăn Tết có cặp có đôi, thì chắc là vui hơn một mình rồi !

Cô gái cười hồn nhiên, nheo mắt với tôi, nói rổn rảng:

– Ước gì được nấy rồi, còn gì sướng bằng? Thôi, đi nghen, chị về lẹ đi!

Tôi ngẩn người. Chiếc xích lô lăn bánh đi, chở theo một người bạn mới quen của tôi chạy về một nơi chốn nào đó thật mơ hồ.

Nhưng – có điều không mơ hồ chút nào, thấy rất rõ – là niềm hân hoan hớn hở đang tràn đầy và sáng rực trên nét mặt của cô gái giang hồ, và cả anh chàng đạp xích lô đen đủi xấu xí.

Tôi đứng dõi mắt trông theo, thầm cầu chúc cho họ tận hưởng được không chỉ là giờ phút, hay ngày tháng, mà là những năm về sau này thật sự hạnh phúc, cho dù là hạnh phúc đơn sơ nhỏ bé.

Chiếc xích lô khuất hẳn sau khúc quanh. Tôi trở về với chính mình. Và – tôi đi như chạy bằng đôi chân hỏng đất về hướng con dốc chạy xuống chợ.

Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này…

Chia sẻ từ fb Rosa Cỏ Xanh

Ảnh sưu tầm