Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư – Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư. Ông là người nước Sở, quê quán ở huyện Thượng Tài nằm trong vùng Hà Nam ngày nay. Hồi còn trẻ, Lý Tư chỉ làm viên quan nhỏ ở huyện nhà, nhưng lại thích học tập nên theo học Tuân Tử cùng với bạn học là Hàn Phi, và thích Pháp gia.

Ngay từ lúc đó, Lý Tư đã là người đầy tham vọng. Có lần, ổng thấy chuột trong nhà vệ sinh gần văn phòng mình ăn đồ bẩn, hễ có người hoặc chó đến là sợ hãi bỏ chạy. Sau đó, Lý Tư lại đi vào kho thóc, nhìn thấy trong kho thóc có chuột, chúng ăn ngô dự trữ, sống dưới nhà lớn, không lo bị người hay chó quấy rầy. Lý Tư thở dài nói: “Tương lai của một người có tốt đẹp hay không cũng giống như loài chuột vậy, do hoàn cảnh sống quyết định!”.

Từ đó Lý Tư nuôi mộng thoát khỏi khung cảnh chật hẹp của vùng quê mình, của nước Sở mà khi đó vua đã suy yếu. Ông ta cho rằng “nhục nhã lớn nhất là địa vị thấp kém, buồn khổ lớn nhất là nghèo túng” nên đi vào nước Tần.

Lý Tư tìm cách vào làm người hầu cho tể tướng Lã Bất Vi thời vua Tần Chính. Sau đó từ từ leo lên chức thị giả vào hầu vua. Lý Tư xúi vua Tần nhất thống thiên hạ. Mà bí kíp chính là cần “nắm bắt cơ hội và đủ tàn nhẫn”. Tần Chính thấy hay quá bèn nghe theo, bổ Lý Tư làm quan trưởng sử, sau thành khách khanh. Rồi theo kế của Lý Tư phái người qua các nước lân cận để tiếp cận với các hoàng tử của họ. Hễ ai nghe thì cho vàng bạc châu báu còn ai không nghe thì ám sát.

Trong sự nghiệp làm quan ở nước Tần, Lý Tư từng 2 lần suýt bị “trục khách” (đuổi môn khách đang làm quan về nước) vì chính biến, nhưng nhờ tài ăn nói, thuyết phục mà được ở lại rồi càng ngày càng làm quan to, tới chức Thượng thư.

Khi đó, Tần Chính đọc sách của Hàn Phi Tử, bạn học của Lý Tư và là hoàng tử nước Hàn đầy tài hoa, thấy rất hay, bèn đánh nước Hàn. Nước này sợ mới cho Hàn Phi Tử qua làm sứ thần. Nhưng Lý Tư xúc xiểm nên Tần Chính đã giết chết Hàn Phi Tử.

Từ đó Lý Tư lên như diều gặp gió. Làm quan hơn 20 năm thì Tần vương thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, phong Lý Tư làm Thừa tướng. Lý Tư góp công lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng dẹp loạn các nước chư hầu, cải cách bộ máy chính quyền, thống nhất văn tự, đo lường, tư tưởng. Những vụ án độc ác nhất mà Tần Thủy Hoàng làm cũng do ý tưởng mà Lý Tư dâng lên, ví dụ như đốt sách chôn nho. Tức là vì ý chí của Tần Thủy Hoàng và vì muốn củng cố địa vị của mình, Lý Tư cũng không màng tới cố quốc là nước Sở, chứ nói chi các chư hầu khác. Còn thân phận người dân thì ổng cho là con sâu cái kiến mà thôi.

Nhưng người tính không bằng trời tính. Khi Tần Thủy Hoàng qua đời, quanh hoàng đế chỉ có 3 người thân cận là Lý Tư, Triệu Cao và thứ tử Hồ Hợi. Trong khi di chiếu của Tần Thủy Hoàng muốn truyền ngôi cho thế tử Phù Tô.

Thái giám Triệu Cao không thích vậy, vì sợ mất địa vị, nên bàn với Lý Tư giả sửa chiếu chỉ, truyền ngôi cho Hồ Hợi.

Sau đó là một chương bi thảm của nhà Tần, vì rất nhiều con cái cháu chắt của Tần Thủy Hoàng bị giết để trừ hậu họa. Các phi tần bị chôn sống…

Hồ Hợi lên ngôi chỉ ham ăn chơi hưởng lạc, không quản triều chính. Kết quả thái giám Triệu Cao, người duy nhất vào tiếp kiến được với Hồ Hợi trở thành một dạng vua không ngai. Triệu Cao cứ lấy cớ vào trình vua, nhưng không nói gì tự quyết tất rồi truyền ra ngoài ý của mình, ai cũng sợ.

Lúc đó Lý Tư dâng sớ vạch tội Triệu Cao, can ngăn Hoàng đế thì đã muộn. Triệu Cao coi Lý Tư là cái gai trong mắt, vu cho ông tội làm phản, cùng con trai cấu kết với địch quốc để xưng vương.

Hồ Hợi nổi giận, giao Lý Tư cho Triệu Cao xử lý. Lý Tư và con trai phải chịu “ngũ hình” đầy thảm khốc. Mà tiếc thay tội này do chính Lý Tư là người đặt ra. Ba họ của Lý Tư cũng bị hại chết, b.ê.u đ.ầ.u ở cổng thành.

“Vào tháng 7 năm 208 TCN, Lý Tư bị kết án ngũ hình và bị chém đ.ầ.u trên phố Vân Dương ở kinh thành . Trước khi chết, Lý Tư quay lại nói với người con thứ: “Ta muốn cùng con ra khỏi cửa đông Thượng Tài ( tức quê cũ) dắt con chó vàng đi săn thỏ, mà làm sao được?” Sau đó, ông và con trai ôm nhau khóc.

Sau đó, Lý Tư và con trai bị g.iế.t, ba họ nhà ông chịu án chu di tam tộc đầy đau khổ. Người ta nói rằng Lý Tư đã hối hận về quyết định của mình trước khi chết, ông nói: “Ta từng là học trò của Tuân Tử với Hàn Phi, nhưng ta đã g.iế.t Hàn Phi. Bây giờ chuyện này xảy ra, chẳng phải là ý trời sao?”.

Lý Tư thật ra là một người kỳ tài, văn chương thời Tần đời sau đánh giá ông là số 1. Ông cũng hiểu cao học rộng, giỏi sáng kiến, áp dụng nhiều chính sách tốt làm cho nước Tần thống nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông ta có bản tính là người tham lam, lại ma mãnh, sẵn sàng chà đạp lên bạn bè người thân để thăng tiến, coi rẻ quê hương bản quán. Vị quân vương nào gần ông thì càng bị kích động làm điều bạo tàn hơn là làm chuyện nhân nghĩa.  Vì thế nên cuối cùng thân bại danh liệt, mất hết dưới tay thái giám Triệu Cao.


 

Đồng bào tôi chết !-Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm – Nguyễn Ngọc Ngạn

Đồng bào tôi chết !

(Chuyện xảy ra cho ông Nguyễn Ngọc Ngạn trong cuộc vượt biên)

50 năm sau 30.4.1975

Nghĩ gì về sự ” HÒA GIẢI DÂN TỘC ” chưa hề được thực thi  !
Hệ quả là đây :
“Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: Trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất – thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến”.


Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm:
TÀU KIM HOÀN MT065,
170 NGƯỜI CHẾT THẢM

Đời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng, nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Đó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua.

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe, đã thế, chính sách áp dụng lại không đồng nhất, mỗi phường mỗi tổ là một lãnh chúa, phát huy sáng kiến mà bức chế nhân dân.
Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo dục Thành phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới.

Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do, những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi và hăm dọa thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn, những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố, giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá, đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn.

Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh – Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75 nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đó. Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng?

Đi bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu, có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian, còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!
Bà xã tôi bận con nhỏ, khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành, con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ.

Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò 7 món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy.

Khu vực Công giáo tôi cư ngụ lại hay xảy ra những vụ bắt bớ bí mật, vì những tin đồn về các tổ chức Phục Quốc – cả thật lẫn giả — làm liên lụy đến khá nhiều người vô can. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại hai trường tư thục Công giáo là Trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và Trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Nhà thờ Vinh Sơn là nơi phát khởi vụ nổi dậy chống chính quyền đầu tiên sau 30 tháng 4 năm 75. Và linh mục Nguyễn Quang Minh bị bắt ngay sau đó. Cha Vàng ở trường Saint Thomas cũng đã bị bắt vì nghe đồn bị vu cáo có giấu vũ khí trong khuôn viên trường học.

Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng, một khi công an nghi ngờ thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.
Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi, nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại, vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúy nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ, nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78.

Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gì. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi, sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó tôi còn được biết thêm, ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại. Tôi lên tầu hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới.

Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa, họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn.

Câu chuyện cảm động về con tàu mang số hiệu MT065 — Tiếng Việt

Đây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 người đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Đàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công, có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa.

Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18 ngồi dưới hầm bên cạnh tôi, vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi. Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực, thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi. Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục, nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn, nước ngập tới ngực mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh. Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển.

Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ.

Đến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:
– Anh Ngạn anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy.
Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả, chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống.

Bà xã tôi giục nho nhỏ:
– Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm, thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít.

Nhà tôi lại bảo:
– Đêm qua bão lớn, cái áo của con bị rách tung rồi bay mất, nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả người. Anh lên một chút đi.

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên. Cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó.

Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục, lúc ngồi dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái, bây giờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp.

Nhà tôi ưu tư bảo:
– Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng, là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạy, hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng.

Tôi nhìn lại phía buồng máy: một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy, chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với cơn sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vỡ. Đàn bà con nít, người đứng người ngồi lố nhố quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng này.

Bà xã tôi bảo:
Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện:

Đêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi, rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xả. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại. Người ngoài khơi cứ đợi, người đã lên bờ thì bỏ mặc, đàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu, hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường!

Tôi biết mình sắp chết nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:
– Con ơi!, đằng nào tầu cũng sắp chìm, bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào.

Tôi không biết bơi, mà có biết thì cũng không còn sức bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Đứa con trai hơn 4 tuổi quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:
– Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống, may ra sóng đánh vào bờ.

Thà nhẩy xuống trước chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết.

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn.

Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên, tiếng người đồng thanh kêu rú lên bị tiếng gầm của sóng át đi. Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em.

Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa. Đứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển, tôi níu được một sợi dây nào đó trên tầu nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính chứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài. Và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai, tất cả đều rụng xuống biển.

Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiếc tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân – người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi.

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình, đàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết.

Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo, trong lúc lâm chung tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. đọc kinh nhưng không cầm trí tập trung được, tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã trải qua qua bao nhiêu năm gian khổ.

Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần hành quân ở Cái Bè, tôi đứng dưới đường mương bên gốc xoài, VC từ cánh đồng trước mặt bắn đạn pháo trúng ngọn xoài chỗ tôi đứng, miểng văng tung tóe làm bay mất cây súng Colt tôi đang đeo bên hông và cắt đứt sợi dây ống liên hợp máy truyền tin PRC-25 tôi đang nói chuyện với Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Lúc ấy tôi thấy số mình còn lớn lắm, chỉ bị trầy sát nhẹ ở bên đùi. Rồi khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về, vậy mà cũng không sao! Tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại chết?

Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa.

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm bao. Đứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

– Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Đắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính.
Thằng bé lay tôi và nhắc lại:
– Chú Ngạn ơi! Đắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh: lính Mã Lai đang đưa những người sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần, nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy.

Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo.
Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác.
Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào thét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh.
Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển. Thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua, nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở Bảo Sanh Viện Đức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do.
Vợ tôi mất đi ở tuổi 26 sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Đoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu cuối cùng lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!
Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu, bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi – người giới thiệu tôi cho ông Ân – nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver – Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Tìm hiểu Du lịch Malaysia - Đảo Bidong

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa, còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh.
Vợ con tôi chết trước mặt tôi, hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi, mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót – đó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm, nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt, các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay, năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại. Trong 3 tháng ở trại tạm cư, cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hầ viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khứ, đó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.

Nguyễn Ngọc Ngạn                                                                                               From: KimBằngNguyễn

Người Lau Kính Xe – Lê Đức Luận – Truyen ngan HAY

Kimtrong Lam

Viet Ba’o

Lê Đức Luận

TG Lê Đức Luận (đứng giữa) nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2023

***

Nếu ở xa vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, khi có dịp lái xe qua thành phố New York hay vào thủ đô Washington DC lúc tuyết đang rơi lất phất… bạn chớ ngạc nhiên khi dừng xe ở ngã tư đường lúc đèn đỏ thì trông thấy một người, thường là một thanh niên da đen, tay xách bình xịt nước, tay cầm chiếc cần lau kính xe chạy ra cào lia, cào lịa trên kính xe của bạn mà không cần hỏi han gì cả.

Khi mới định cư ở tiểu bang Maryland, tôi được anh bạn đưa đi New York chơi cho biết thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ. Nếu không vững tay lái, người ta sẽ choáng ngợp với luợng xe lưu thông như mắc cửi. Nhưng anh bạn tôi đã đến New York nhiều lần, nên anh ta lái xe rất bình tĩnh và an toàn. Khi xe dừng lại ở ngã tư đèn đỏ, một anh thanh niên da đen vội vã chạy ra lau kính xe như tôi đã mô tả ở trên. Anh bạn tôi ung dung, im lặng để cho người thanh niên ấy lau kính xe… Khi đèn vàng nổi lên, anh bạn tôi hạ cửa kính xe đưa cho anh thanh niên ba đô la. Người thanh niên nói: “Thank you! Thank you!” rồi chạy vội vào lề đường.  Xe cộ lại tiếp tục nối đuôi nhau…

Tôi có chút thắc mắc: “Anh lau kính xe cứ tự động lau, không cần hỏi. Anh chủ xe tự động móc ví đưa tiền, cũng chẳng cần hỏi phải trả bao nhiêu.”  Tôi định hỏi: “Anh chàng làm công việc này là tự nguyện hay do chính quyền địa phương thuê anh ta cào tuyết trên kính xe cho du khách lái xe được an toàn?” Nhưng phố xá New York có nhiều cảnh lạ mắt để tôi chú ý hơn là nêu lên câu hỏi trong lúc này.      

Anh bạn tôi lái xe qua nhiều con đường, đến đèn xanh, đèn đỏ  không thấy có người lau kính xe đứng chờ. Nhưng khi đến đoạn đường dẫn vào bãi đậu xe để chuẩn bị xuống phà tham quan tượng Nữ Thần Tự Do, thì lại thấy một ông già có dáng dấp của một người Phi châu nghèo khổ, xách xô nước và cây bàn chải lau kính chạy ra; anh bạn tôi khoát tay ra hiệu không cần. Ông già tiu nghỉu xách xô nước vào lề.

Bây giờ tôi mới nêu câu hỏi. Anh bạn tôi trả lời: “Ở Mỹ thích nhất là được tự do – tự do làm và tự do từ chối – tự do cho mình, nhưng không được xâm phạm tự do của người khác. Tôn trọng tự do và sòng phẳng là một cách cư xử và đạo đức của người Mỹ. Sống lâu trên đất Mỹ ông sẽ thấy nước Mỹ có nhiều cái hay nhưng không thiếu cái dở và lắm chuyện lạ lùng!”

Tuy chưa trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, nhưng anh bạn đã gieo vào đầu tôi ý niệm tự do và sòng phẳng ở Mỹ. Và từ đấy cho mãi sau này, ý niệm tự do và sòng phẳng đã giúp tôi suy nghĩ và hành động phù hợp để hội nhập vào cuộc sống mới một cách thoải mái và cảm thấy hạnh phúc trên quê hương thứ hai này.

Trên đường về, anh bạn mới trả lời cụ thể câu hỏi của tôi:

– Hồi nãy ông hỏi tôi về người lau kính xe là do tự nguyện hay do chính quyền trả lương cho anh ta làm công việc ấy? Đó là tự nguyện của anh ta đấy.

– Trời ơi! Tuyết lạnh mà đứng cả ngày như thế thật khổ thân, ở New York không có việc gì làm đỡ khổ hơn sao? Tôi hỏi.

Anh bạn tôi cười, trả lời:

– Ở Mỹ có những người thích “cái thú đau thương!” Đó là cái “tự do kiểu Mỹ!” Rồi ông sẽ thấy ở Mỹ cũng có ăn mày, có người vô gia cư, lang thang đây đó, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ…

– Mỹ được tiếng là nước giàu mạnh nhất thế giới mà cũng có ăn mày, người vô gia cư, cơ cực đến thế sao?

Lạ thật! Tôi tỏ vẻ nghi ngờ.

Anh bạn tôi lặp lại:

– Đó là “cái thú đau thương!” là “cái tự do kiểu Mỹ! Người ta hay ví von rằng: Ở Mỹ chuyện chết đói và làm giàu khó ngang nhau.

Nói vậy không sai lắm đâu, vì ở Mỹ có cơ quan An sinh Xã hội và các tổ chức từ thiện quan tâm đến đời sống của những người cùng khổ. Quận hạt nào cũng có nhà lưu trú cho những kẻ vô gia cư và có những chỗ cung cấp bữa ăn miễn phí. Những công dân Mỹ trên 65 tuổi và những người khuyết tật, không còn khả năng làm việc, đều được cấp tiền an sinh xã hội, đủ sống! Nhưng trong số đó có những người không thích ở trong nhà lưu trú hay viện dưỡng lão. Họ thích cuộc sống tự do, lang thang đây đó… Ngoài ra nghiện ngập khiến họ phải kiếm thêm tiền bằng cách ăn xin.

Rồi anh nói tiếp:

– Như ông đã thấy người thanh niên khi nãy, đứng dưới tuyết lạnh lau kính xe cho người qua lại. Trông thật đáng thương! Với sức vóc đó, anh ta có thể tìm một công việc khác tốt hơn. Nhưng có lẽ anh ta cảm thấy tự do và sòng phẳng trong công việc này – anh ta được an ủi và ấm lòng mỗi khi một người xa lạ hạ kính xe đưa cho anh vài ba đồng tiền lẻ với nụ cười thân thiện, biểu lộ tình người chân thật. Tự do, tình người và sòng phẳng đã khiến anh gắn bó với công việc “lau kính xe” cho đến tận bây giờ.

Mỗi lần lên New York, lái xe qua con đường này, tôi thấy anh ta vẫn đứng ở ngã tư đường, lau kính xe với thao tác lanh lẹ và chuyên nghiệp hơn. Trông anh ta có già đi đôi chút, nhưng ánh mắt vẫn lạc quan và thân thiện với khách lái xe qua đường như ngày nào.

Thời gia trôi qua, chuyện “người lau kính xe” nhạt nhòa trong trí nhớ. Cho đến một ngày, tôi đến California thăm gia đình người em họ, hình ảnh “người lau kính xe” tái xuất hiện, nhưng lại là một ông già Việt Nam, khiến tôi có chút ngỡ ngàng…

Hôm ấy, đứa cháu lên phi trường Los Angeles đón tôi về nhà nó ở Orange County. Xe chạy êm trên đường. Nắng sớm Cali vàng ươm màu hổ phách, chiếu lên những lá cọ cao vút ven đường trông như dát vàng. Ánh nắng ấy làm ấm áp làn da. Tôi cảm thấy khoan khoái. Chỉ ở Cali mới bắt gặp cái nắng đẹp và ấm áp như thế…

Khi đến ngã tư đường Bolsa và Magnolia, đèn đỏ, xe ngừng! Một ông già Việt Nam, trạc tuổi trên bảy mươi, đầu đội bê rê (beret) đỏ, mặc quân phục hoa dù, đeo chiếc cà vạt to bản màu vàng có ba sọc đỏ (biểu tượng lá cờ Việt Nam Cộng Hòa), vai mang bình xịt nước to như bình xịt thuốc trừ sâu, tay cầm cần lau kính, từ trong lề đường bước ra,  đến trước xe của con cháu.

Con cháu vội hạ kính xe, nói: “Chào bác Năm, bác khỏe không?” Vừa hỏi nó vừa móc ví trao cho ông già tờ bạc mười đô, rồi nói tiếp: “Xin gởi bác Năm chút tiền. Hôm nay bác khỏi phải lau kính xe cho cháu.”

Ông già cầm tiền bỏ vào chiếc túi nhỏ đeo bên hông, im lặng, thản nhiên xịt nước lên kính xe, rồi vung cần lau… như không nghe thấy lời nói của chủ xe. Khi đèn vàng hiện lên, ông già quay gót, bước chầm chậm vào lề đường, không một lời cảm ơn, cũng không có cái vẫy tay chào!

Khi đoàn xe chuyển bánh, ông già lặng lẽ đứng trên lề đường nhìn theo với ánh mắt hững hờ… Thái độ và cách ăn mặc của ông già là một hiện tượng lạ. Tôi ngỡ ngàng quay lại nhìn ông. Đứa cháu hiểu ý, giải thích:

– Ông già lau kính xe, truớc đây là một “đại gia” nổi tiếng đó bác! Ở đây ai cũng biết ổng. Cách nay vài năm ổng bị bệnh tâm thần nặng. Ông mặc áo nhà sư, đi lang thang đây đó, lúc tụng kinh niệm Phật, lúc ca hát. Ông ca rất hay! Mỗi lần ổng xuất hiện, nhiều người vây quanh nghe ổng hát những bài tình ca rất mùi…

Bây giờ, ổng tỉnh táo hơn, bỏ áo nhà sư, mặc đồ lính, đứng đây lau kính xe… Lúc đầu, khách lái xe qua đường nhìn ông với ánh mắt thờ ơ, có người khoát tay bảo: không cần! Nhưng cũng có người để ông lau kính rồi đưa ông vài ba đồng tiền lẻ. Số tiền gom được, ông gởi đến “Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)” lên đến bạc ngàn và ông thường xuyên đóng góp cho các hội từ thiện số tiền không nhỏ. Từ đấy, tên tuổi ông được nhiều người biết đến.

Hiện nay, những người trong vùng đều biết: Ông lau xe không phải kiếm tiền nuôi thân mà để giúp cho thương phế binh VNCH và những kẻ khốn cùng, nên ai cũng vui vẻ ủng hộ việc làm của ông. Và người ta thêu dệt cuộc đời của ông ly kỳ như trong tiểu thuyết…

Ở chơi nhà người em họ hơn tuần lễ, những lúc anh em ngồi uống trà, tán gẫu… tôi tò mò muốn biết chuyện đời của “ông già lau kính xe” như thế nào mà con cháu nói: “ly kỳ như trong tiểu thuyết”. Và được chú em cho biết:

Ông Khánh nổi tiếng ở vùng này với ba lý do: Thứ nhất là làm giàu rất nhanh; thứ hai có bà vợ đẹp tuyệt trần – nết na hiền thục; thứ ba là đã bỏ nhà cao cửa rộng, sống lang thang đây đó như người vô gia cư.

Những lúc trà dư tửu hậu, hết cãi nhau về chính trị, dân vùng này thường đem chuyện đời của ông Khánh ra bàn tán như ‘mồi nhấm’ đưa hơi nói về ông Khánh. Ông đến Hoa Kỳ, định cư ở Quận Cam này theo diện HO với hai bàn tay trắng như những anh em HO khác. Nhưng chỉ ba, bốn năm sau trở thành triệu phú – không phải do trúng số độc đắc, mà từ sức cần lao và cái đầu thông minh của ông ta.

Bước đầu ông đi sửa chữa nhà cửa cho dân cư trong vùng – cái nghề học được khi làm trong “Đội mộc”ở trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú. Ông làm rất khéo tay, nên được nhiều người gọi, kiếm được khá tiền. Sau đó, vay thêm tiền ngân hàng, ông mua những căn nhà cũ rồi sửa lại, bán kiếm lời! Mua căn nhà cũ dưới vài trăm ngàn, khi sửa sang xong, bán ra trên hai trăm năm chục ngàn. Cứ thế tiến lên! Ông có đến bốn, năm căn nhà đã tân trang, chờ bán! May mắn là lúc đó nhà ở Cali lên giá chóng mặt… Vậy là ông trở thành triệu phú!

Nhưng thói đời ‘phú quý sinh lễ nghĩa’ và sinh tật ‘ăn chơi’. Một lần theo đám bạn bè lên Las Vegas chơi, ông bị người phụ nữ chia bài mồi chài, hay bỏ “bùa mê thuốc lú” thế nào khiến ông si mê… Rồi hằng tuần ông lên với người tình ở Las Vegas, bỏ bê vợ con và công việc làm ăn.

Người vợ mẫu mực, đảm đang khám phá sự phản bội của chồng, bà uất đến nỗi phát cuồng, có mấy lần ngất xỉu phải đưa đi nhà thương cấp cứu. Từ đó bà tịnh khẩu!

Tình cảnh của vợ khiến ông thức tỉnh. Ông quay về với gia đình, sám hối tội lỗi với vợ con. Ông hết lời năn nỉ vợ con xin tha thứ… Nhưng bà tịnh khẩu và mỗi khi thấy mặt ông, bà lại lên cơn ngất xỉu. Mấy đứa con bây giờ cũng lạnh nhạt với ông và nói những câu phũ phàng: “Ba đi đi, đừng về làm khổ mẹ!”

Ông nghe như đất trời sụp đổ! Ngày nào những đứa con gần gũi, thân mật, yêu thương ông…  Chúng nó là nguồn an ủi của đời ông. Bây giờ chúng nó nhìn ông với ánh mắt lạnh lùng và nói những lời xua đuổi, bất kính…

Ông thấy đau nhói trong tim! Ông bỏ nhà ra đi không mang theo bất cứ thứ gì. Rồi một ngày, ông xuống tóc vào chùa xin tu, nương nhờ cửa Phật! Ông hy vọng chốn thiền môn, sớm chiều tụng kinh, niệm Phật và sám hối sẽ làm vơi bớt nỗi khổ đau.

Ngày xưa, những người có sự giác ngộ tâm linh, nghiệp duyên, hay do ảnh hưởng từ gia đình hoặc môi trường chung quanh thì vào chùa tu từ nhỏ. Bây giờ người ta thấy: thất tình đi tu, thất chí đi tu, hận đời đi tu; thậm chí có người đi tu như tìm một nghề thanh nhàn, đó là cái “nghề tu”!

Ông Khánh đi tu không thuộc vào các dạng nêu trên. Ông vào chùa xin tu với hy vọng chốn thiền môn sẽ làm vơi nỗi đau khổ đang giày xéo tâm hồn ông. Nhưng vào chùa tu một thời gian, không biết hoàn cảnh thế nào khiến ông phát khùng… Ông bỏ chùa, đi hát dạo!

Khi biết ông vào chùa đi tu, rồi bỏ chùa, lang thang đi hát dạo… bà vợ xúc động! Bao kỷ niệm của cuộc tình thơ mộng thuở ban đầu và những ngày hạnh phúc bên nhau trong đời sống vợ chồng, lúc hiển vinh cũng như khi nguy khốn, hai tâm hồn đã gắn bó cùng chia xẻ cay đắng ngọt bùi trong mấy mươi năm qua, trổi dậy trong lòng bà…

Bà rưng rưng gọi mấy đứa con vào, bảo: “Các con đi tìm ba, đưa ba về đây, mẹ sẽ tha thứ cho ba tất cả, các con cũng thế… Để ba các con lang thang như thế, tội nghiệp lắm!”

Nhưng lúc này, ông Khánh mang bịnh trầm cảm nặng, ông nhập bọn với những người homeless, trốn tránh những người quen thân. Bao nhiêu lần, các con tìm gặp, năn nỉ ông về nhà, nhưng ông im lặng. Bà viết nhiều lá thư tỏ hết nỗi lòng thuơng nhớ và sẽ bỏ qua hết mọi chuyện… rồi bảo các con đem trao cho ông, nhưng không làm lòng ông rung động.

Cho đến một ngày, người ta thấy ông bỏ áo nhà sư, mặc quân phục nhảy dù, đứng ở ngã tư đường, lau kính xe.

Vốn là bạn cùng khóa ở trường Võ bị Đà Lạt với ông Khánh, nên chú em kể cho nghe thêm cuộc đời thăng trần của ông trước và sau năm 1975.

Chuyện tình duyên đến với ông đơn giản nhưng thật đẹp. Ông gặp Thoa trong buổi trao tặng vòng hoa cho các chiến sĩ xuất sắc của Sư đoàn Dù ở vườn Tao Đàn, Sài Gòn. Hôm ấy, nắng xuân ấm áp, người tham dự rất đông. Trên khán đài gồm các quan chức, dưới sân dân chúng sắp hàng ngay ngắn cùng các nữ sinh Trưng Vương tay cầm vòng hoa, xếp hàng dọc trước khán đài. Trong các nữ sinh có mặt hôm ấy, Thoa là người xinh đẹp duyên dáng nhất.

Khi ban quân nhạc trổi lên một bản hùng ca, các chiến sĩ Dù xuất sắc bước đều ra vị trí hành lễ. Như duyên số an bài, chàng Trung úy trẻ được xếp đứng trước mặt người đẹp tên Thoa, chờ nàng khoác vòng hoa lên cổ. Khi ấy, bốn mắt nhìn nhau như có luồn điện giao thoa giữa hai tâm hồn. Nàng nhìn bảng tên trên túi áo, lí nhí: “Hân hạnh được choàng vòng hoa cho anh Khánh…” Nhìn bảng tên đeo bên ngực trái của Thoa, anh Trung úy trẻ, đẹp trai đáp lời: “Cảm ơn Thoa, ước gì được gặp lại…” Nàng gật đầu!

Thế là có những cuộc hẹn hò, thề ước. Và chỉ một năm họ làm đám cưới theo kiểu nhà binh. Có lẽ nhờ cái tướng “vượng phu ích tử” của vợ mà đường binh nghiệp của Khánh lên như diều. Ra trường Võ Bị, chọn binh chủng Nhảy Dù, chức vụ đầu tiên là Trung đội trưởng; khi cưới Thoa, Khánh đang làm Đại đội trưởng, ba năm sau lên chức Tiểu đoàn trưởng. Hai lần gắn lon thăng cấp đặc cách tại mặt trận và từ Trung úy lên Thiếu tá chỉ vòng bốn năm. Trong khi các bạn cùng khóa còn đeo lon Trung úy hay mới lên Đại úy.

Đến tháng 4 năm 1975, đời ông rơi tận đáy! Bị giam cầm, đày đọa, nhưng nhờ người vợ tháo vát, đảm đang tần tảo nuôi con, tiếp tế cho chồng ròng rã mười hai năm. Ngày được thả về với gia đình, vợ con nguyên vẹn và đã dành cho ông tất cả yêu thương cho đến khi thoát khỏi chế độ tàn bạo ở Việt Nam, làm  lại cuộc đời trên đất khách.

Nghe qua câu chuyện, tôi muốn gặp mặt con người đặc biệt này. Và một buổi chiều cuối tuần, chú em dẫn tôi đi qua các hẻm nhỏ, nơi có những người homeless thường ngồi lại với nhau. Vừa thoáng thấy chúng tôi, ông già cúi xuống che mặt, nhưng chú em tinh mắt chạy đến ôm vai ông, nói: “Khánh, cậu làm sao ra nông nỗi này?”  Ông già im lặng! Chú em nói đủ thứ chuyện, rất thiết tha! Nhưng ông già không tỏ vẻ gì xúc động, vẫn im lặng!

Ngồi với nhau gần nửa giờ, ông già không nói lời nào. Trước khi chia tay, chú em bảo: “Khánh à, cậu nên về với gia đình. Thoa và các cháu nhớ thương cậu, mong đợi cậu về.” Bấy giờ ông già rưng rưng, nói: “Ở đây, ngày ngày tớ lau kính xe, coi như cạo bớt lớp bụi tội lỗi đã bám lên cuộc đời tớ… khi nào cạo sạch, tớ sẽ về.”

Chúng tôi chào từ giã ông già. Chú em thở dài, nói: “Cuộc đời dâu bể, vô thường! Không ai biết được ngày mai sẽ ra sao!”

Lê Đức Luận

(Tháng Ba – 2025)


 

VỢ CỦA SOCRATES – Truyện ngắn HAY

Chau Doan  

Triet gia Socrates (470 – 399 TCN)

Triết gia mà tôi, CD yêu thích, một người với hình thức nông dân, xấu xí, sức khoẻ của lực sỹ, lòng dũng cảm của một chiến binh xuất sắc, một tâm hồn cam nhẫn, một trí tuệ thông thái xuyên qua nhiều thế kỉ và danh tiếng trường tồn mãi với nhân loại. Tuy nhiên tôi không chắc toàn bộ sự khắc hoạ của vợ ông là chính xác và công bằng. Những người dựng lại chân dung của ông rất khó khăn về tư liệu.

Từ trang Dianabasi Udoh

VỢ CỦA SOCRATES

Ai có thể ngờ rằng triết gia Socrates, nổi tiếng với trí tuệ, sự thông thái và những lời nói đầy sức mạnh, lại sống trong một môi trường đầy tiếng quát tháo, sự ngu dốt và thù địch từ chính người vợ của mình?

Người phụ nữ này được biết đến là kẻ áp đảo, sắc sảo, mạnh mẽ và buộc chồng phải rời nhà lúc bình minh và chỉ trở về sau hoàng hôn mỗi ngày. Tuy nhiên, Socrates từng nói về bà:

“Tôi mang ơn người phụ nữ này. Nếu không có bà ấy, tôi đã không học được rằng trí tuệ nằm ở sự im lặng và hạnh phúc nằm ở giấc ngủ.”

Ông cũng nói: “Tôi đã phải chịu ba tai họa: ngôn ngữ, nghèo đói và vợ tôi. Cái đầu tiên tôi vượt qua bằng sự chăm chỉ, cái thứ hai bằng sự tiết kiệm, nhưng cái thứ ba – tôi không bao giờ vượt qua nổi.”

Một ngày nọ, khi Socrates đang ngồi với các học trò, vợ ông bắt đầu la hét và lăng mạ ông như thói quen. Nhưng lần này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, bà còn đổ nước lên đầu ông. Lau mặt trong ngỡ ngàng, Socrates bình tĩnh nhận xét: “Chúng ta đáng lẽ phải đoán được mưa sẽ đến sau tất cả tiếng sấm ấy.”

Sự điềm tĩnh và im lặng của Socrates cuối cùng đã dẫn đến cái chết của vợ ông vì một cơn đau tim.

Đúng vậy, bà qua đời sau khi bắt đầu một cuộc tranh cãi nảy lửa khác với Socrates. Trong khi ông giữ im lặng, bình thản và không chút bận tâm, bà bùng nổ như một ngọn núi lửa. Cơn giận dữ dữ dội gây ra cơn đau nghiêm trọng ở tim và vai, khiến bà qua đời ngay trong đêm đó.


 

CÔ ĐƠN VÀ BẤT LỰC …Truyen ngan

Jesus và Maria – con muôn đời cảm tạ

Bà cụ sống tầng dưới đột nhiên đến gõ cửa, bà hỏi tôi có muốn mua căn nhà của bà không ? Căn nhà rộng 132m vuông . Tôi có chút bất ngờ nên nói với bà : Bà ơi con đã có nhà rồi không cần mua thêm đâu. Bà cụ tiếp tục nói: Con à, nếu con đồng ý mua nhà của bà, bà sẽ không lấy của con đồng xu nào, nhưng con phải đồng ý với bà một điều kiện .

Nghe đến đây tôi sửng người. Sao trên đời lại có chuyện như thế này chứ? Nhưng thái độ của bà thật nghiêm túc, trong ánh mắt còn ẩn chứa một nỗi niềm nặng trĩu khó hiểu. Tôi cố nén sự nghi ngờ trong lòng và nói: Bà cứ nói đi, nếu có thể giúp con nhất định sẽ giúp. Bà ngước nhìn tôi chậm rãi nói : Sau này mỗi lần xuống, đi ngang cửa nhà bà cứ gõ cửa một cái, nếu bà trả lời con cứ yên tâm mà đi, nếu không nghe thấy tiếng bà con hãy làm ơn gọi điện cho các con của bà, nếu chúng nó cũng không về thì hãy làm ơn đưa bà đi tiếp chặng đường cuối cùng. Căn nhà này bà sẽ để lại cho con.

Những lời của bà khiến lòng tôi chùng xuống: Đây nào phải là một yêu cầu đơn giản mà là một sự phó thác sinh mệnh.

Trong lòng tôi rối bời không biết có nên đồng ý hay không, nhưng nhìn ánh mắt đầy mong đợi và tha thiết của bà tôi đã gật đầu chấp nhận. Tôi đỡ bà vào nhà để bà ngồi xuống và rót cho bà một ly nước nóng. Đôi tay bà run rẩy, nhìn dáng vẻ của bà lòng tôi thấy xót xa.

Qua câu chuyện bà kể, tôi biết bà nay đã 86 tuổi, cả bà và ông đều từng là giáo viên về hưu. Con trai lớn lập gia đình sống ở Canada, con gái lấy chồng ở Anh . Từ khi các con ra nước ngoài bà sống nương tựa vào ông, nhưng năm ngoái ông đã qua đời, giờ trong nhà chỉ còn lại mình bà, các con đã nhiều năm không về thăm nhà,nhà cũ ở quê cũng bán từ lâu… Giờ chỉ mình bà cô đơn trong căn nhà trống vắng này, giá như mà hồi đó chúng nó đừng giỏi giang như thế thì tốt biết mấy, nếu không ra nước ngoài ít ra chúng cũng còn nhớ đến căn nhà này, mỗi năm có thể gặp vài lần…  Nghe bà nói vậy, tôi nghe lòng trĩu nặng: Bà không phải đang trách các con, mà bà đang cảm thấy bất lực với tuổi già của mình , nhà có rộng đẹp cách mấy cũng không ấm áp bằng tình thâm.

Kể từ đó… mỗi lần đi làm tôi đều ghé xuống gõ cửa nhà bà, chỉ khi nghe tiếng bà trả lời tôi mới yên tâm đi làm. Vào cuối tuần tôi tranh thủ ghé qua thăm bà, cùng bà trò chuyện, nấu ăn, giúp bà làm vài việc vặt… Mỗi lần như thế bà rất vui vẻ , có lẽ đó chính là cái cảm giác hạnh phúc và an toàn.

… Thấm thoát một năm đã trôi qua, tháng trước vào tuần cuối của tháng, tôi đi cộng tác đột xuất nên không kịp gõ cửa nhà bà … Một tuần sau khi  trở về, tôi vội vàng sang gõ cửa nhà bà , nhưng không nghe tiếng trả lời của bà . Linh tính chẳng lành, tôi báo cho ban quản lý và gọi điện cho cảnh sát.

Khi cảnh sát mở cửa , chúng tôi phát hiện bà đã nằm yên trên giường, mắt nhắm lại, bên cạnh là quyển album hình của hai ông bà thời trẻ và hình của các con khi còn bé , pháp y nói: Bà đã qua đời hai ngày trước vì bịnh tim.

Lòng tôi đau nhói… Chỉ mới trước ngày tôi đi công tác bà còn nói: Bên ngoài trời lạnh lắm, nhớ mang theo áo ấm con à ! Bà còn bảo cuối tuần qua bà có làm bánh nhân thịt, vì các con ngày còn bé rất thích … Nói xong bà quay lưng bước vào thang  máy, không ngờ đó là lần gặp cuối cùng… Bà ra đi lặng lẽ như thể thế giới này chưa bao giờ để ý đến sự tồn tại của bà.

Sau đó tôi gọi điện cho các con của bà, nhưng không ai về kịp. Trong đám tang chỉ có vài người đến tiễn đưa, dường như cả cuộc đời bà cứ cuốn trôi theo dòng thời gian không để lại dấu vết nào… nghĩ đến đây lòng tôi trĩu nặng, một người hiền từ như vậy tại sao cuối cùng lại ra đi trong cô đơn như vậy.

Sau khi lo liệu xong tang lễ, tôi đứng rất lâu trong ngôi nhà trống vắng của bà… nhớ lại những khoảng khắc trước kia… những lúc bà cô đơn và bất lực … Chợt tôi hiểu ra ý nghĩa lời nói của bà: Giá mà con cái của bà không giỏi giang đến thế thì tốt biết bao. Có lẽ bà chưa bao giờ mong con cái có những thành tịu lớn lao, chỉ hy vọng những ngày tháng tuổi già có người đến gõ cửa nhà bà, có người lắng nghe giọng nói của bà. 

Bà đã ra đi mang theo nỗi cô đơn và bất lực của mình.

Điều duy nhất mà tôi cảm thấy an ủi là ít nhất trong một năm cuối đời, có người đồng hành cùng bà, khiến bà cảm thấy một chút hơi ấm, một ít quan tâm…

St


 

Xin ngài hãy giữ lấy nó, thưa ngài Chaplin-Truyện – ngắn HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

Vua hề Charlie Chaplin kể: “Có lần tôi đi tàu điện ngầm New York, về đến nhà, tôi phát hiện ra trong túi có một chiếc đồng hồ bằng vàng. Tôi không thể hiểu nổi nó rơi vào túi tôi như thế nào. Tôi quyết định mang tới đồn cảnh sát. Ngày hôm sau, tôi nhận được một bức thư với nội dung: “Ngài Chaplin kính mến! Tôi là một kẻ móc túi chuyên nghiệp. Hôm qua, trong tàu điện ngầm, tôi đã lấy trộm chiếc đồng hồ vàng của một quý ông, nhưng khi nhìn thấy ngài, tôi quyết định tặng ngài và bỏ nó vào túi của ngài”.

Một năm trôi qua, cảnh sát không tìm ra tên trộm và chủ nhân của chiếc đồng hồ, nên họ đã gửi lại nó cho tôi. Các báo viết về điều đó, và ít lâu sau, tôi nhận được bức thư thứ hai: “Ngài Chaplin kính mến! Cách đây một năm, tôi đi tàu điện ngầm và bị đánh cắp mất chiếc đồng hồ. Đọc báo, tôi biết một kẻ móc túi nào đó đã tặng ngài chiếc đồng hồ đó. Xin ngài hãy giữ lấy nó, thưa ngài Chaplin. Vì tôi cũng ngưỡng mộ tài năng phi thường của ngài không kém gì kẻ móc túi nên tôi xin gửi ngài chiếc đồng hồ đó”.

st

CÔ SÁU – Truyện ngắn HAY

Thuở ấy Cô Sáu ở một mình sau khi ba mẹ lần lượt qua đời. Mẹ cô làm nghề cho vay lãi nhẹ. Lúc ấy là 3% mỗi tháng và sau khi ba mẹ mất đi cô tiếp tục nghề của ba mẹ mình. Đó là mức lãi suất mà người bình dân Sài Gòn chấp nhận và không lên án.

Rồi cô gặp một anh lưu lạc từ miền Trung vào. Cả xóm không ai biết lai lịch của anh này, nhưng thấy họ sống với nhau rất hạnh phúc. Lúc đầu anh không có nghề nghiệp gì, nhưng sau đó anh thi vào trường cán sự y tế và tốt nghiệp ngành răng. Ra trường, cô Sáu mua trang thiết bị mở phòng răng cho anh tại căn nhà trên. Anh Sáu khéo tay và giá mềm nên họ làm ăn rất phát đạt.

Sáng sáng anh Sáu ra một quán cà phê nhỏ ở Ngả Tư Quốc Tế (ngày xưa ngả tư Bùi Viện và Đề Thám được gọi là Ngả Tư Quốc Tế) trong khi cô Sáu đi chợ lo nấu ăn và chuẩn bị vệ sinh phòng mạch. Chuyện vẫn êm đềm xảy ra đến khi có một trong những người hàng xóm báo cho cô Sáu biết là Chú Sáu có quan hệ với một người phụ nữ khác và cô ấy đang mang thai.

Lúc ấy là khoảng 60 năm về trước, nhà còn vách ván nên hai bên nhà nếu cố ý nghe lén chuyện của nhau là có thể nghe rất rõ. Tối hôm ấy, bọn con nít anh chị em chồng và má chồng tôi áp tai vào vách để xem Cô Sáu có phản ứng ra sau với ông chồng phản bội này.

” Anh nè, anh ăn ở với người ta có thai mà sao không báo cho em biết. Người ta là con gái từ quê lên tản cư nghèo khổ, mỗi ngày quảy gánh trên vai, bán từng miếng bánh, từng trái cây thì lời được bao nhiêu tiền, rồi bụng bầu, đẻ chửa tiền đâu mà sinh sống? Bao nhiêu tiền của anh làm ra, em giữ hết rồi. Mấy cái tiền lặt vặt cà phê của anh làm sao cô ấy sống đủ?”

” Anh sợ em buồn vì… anh là thằng lang thang, em cưu mang mọi thứ mà… anh lại phản bội em”.

“Nếu là phản bội thì cũng đã phản bội rồi. Bây giờ lại thêm bỏ vợ bỏ con. Có tội với người ta không? Thôi thì em mồ côi, sống một mình bơ vơ lắm. Em rất cần anh. Em cũng không nỡ để cha con anh xa nhau nên anh cứ nói mẹ con cô ấy về sống chung cho vui. Vợ chồng mình cũng không có con. Có thêm người cho vui.”

Không biết họ bàn bạc thế nào nhưng người phụ nữ kia nhất quyết không về ở chung. Thế là cô Sáu mỗi tháng chu cấp cho người vợ nhỏ mỗi tháng 4 ngàn đồng. Thăm hỏi đàng hoàng. Cô còn mua một ngôi nhà cho hai mẹ con cô kia có chỗ nương thân. Mỗi chủ nhật hại vợ chồng chú thiếm Sáu đi thăm con và cô vợ hai.

Năm tháng qua nhanh. Chú Sáu bệnh rồi qua đời. Cô Sáu già bị tai biến nên sinh hoạt hàng ngày rất khó khăn. Người con trai bây giờ đã lớn. Họ đến xin rước cô Sáu về nhà chăm sóc rất chu đáo. Cô Sáu bán nhà để đi theo sống với người vợ nhỏ của chồng.

Thế mới thấy, phụ nữ rất dễ yếu lòng và vị tha. Đôi khi chỉ cần người đàn ông thành thật nhận lỗi là họ sẵn sàng tha thứ dù cho lỗi lầm lớn đến đâu chăng nữa.

Theo ✍️Nguyễn Ngọc Yến

Một tờ giấy nợ là có thể thấu hiểu tâm can con người, kể cả tình thân cũng vậy.- Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Một tờ giấy nợ là có thể thấu hiểu tâm can con người, kể cả tình thân cũng vậy.

Năm bố 75 tuổi, bố đưa giấy nợ 900 triệu đồng cho 3 con trai nhờ trả giúp nhưng ai cũng từ chối, chỉ riêng tôi gánh vác..

**********

Tôi là con út trong gia đình có 4 người con và là con gái duy nhất. Cha tôi, ông Lý, đã làm việc chăm chỉ cả đời. Sau khi mẹ tôi qua đời, bố vẫn ở vậy cho đến hiện tại đã 75 tuổi.

Tôi có ba anh trai, họ đều đi làm xa và không thường xuyên về nhà thăm nhà. Chỉ riêng tôi chọn sống ở quê để có thể thường xuyên về chăm sóc bố.

Một hôm, bố tôi gọi tất cả các con đến để thông báo chuyện quan trọng. Trong nhóm gia đình, các anh tôi đều cho rằng đã đến lúc bố viết di chúc để chia tài sản cho các con. Tuy rằng bố không có nhiều tiền nhưng bù lại có rất nhiều đất đai, ruộng vườn.

Đến ngày hẹn, bố đưa cho chúng tôi một tờ giấy ghi số nợ lên tới 900 triệu đồng.

Bố nói : “Số tiền này trước đây bố vay để chữa bệnh cho mẹ . Bố cũng cố gắng làm việc cật lực để trả nợ, lại bán hết đất để gom tiền vì không muốn làm phiền đến mấy đứa, nhưng giờ bố già rồi nên không gánh được nữa. Mà lãi mẹ đẻ lãi con, bố mong các con hãy giúp bố trả nợ để bố yên tâm không phải sống trong lo sợ nữa”

Tôi và các anh đều choáng váng. Số tiền đó không hề nhỏ, vậy mà bao lâu nay bố không nói ra để các con cùng gánh vác. Đến bây giờ, bố chỉ thông báo một câu đề nghị các con trả nợ giúp thì quả là cú sốc lớn.

Anh cả lập tức tỏ vẻ tức giận nói:

“Bố, bố đùa à? Chúng con chưa bao giờ nợ bố một đồng nào và cũng không được hưởng một đồng nào. Đây rõ ràng là do bố tiêu pha phung phí nên mới nợ nần, vậy mà bây giờ lại bắt bọn con gánh”.

– Sau đó, anh hai và anh ba cũng liên tục chỉ trích bố thậm tệ.

Khi nghe lời các anh nói, tôi cảm thấy rất khó chịu. Tuy giận bố nhưng tôi nghĩ rằng dù sao số tiền này cũng là do chữa bệnh cho mẹ mà nợ nần, chúng tôi là con không thể chối bỏ trách nhiệm.

Tôi liền nói: “Các anh đừng nói với bố như thế, bố bây giờ đã 75 tuổi rồi, không thể chịu đựng được nữa đâu. Nếu các anh không đồng ý trả, vậy thì em sẽ nhận. Dù không có nhiều tiền thì em cũng sẽ cố gắng làm việc để trả”.

Tôi nói xong, ba anh nhìn tôi tỏ vẻ khinh miệt rồi bỏ đi thẳng không nói lời nào. Tôi bất lực nhìn bóng lưng họ, thầm nghĩ cuộc sống sau này của tôi sẽ chẳng dễ dàng chút nào.

“Ngày mai con sẽ chuyển trước cho bố 200 triệu, đây là tiền tiết kiệm của vợ chồng con để sau này cho con gái con đi du học. Số còn lại, mỗi tháng con sẽ gửi dần cho bố để trả, con tin chỉ vài năm nữa thôi, mọi thứ sẽ ổn định. Bố chỉ cần sống khỏe để con an tâm làm việc là được rồi”,

Tôi an ủi bố.

Bố tôi khóc lặng, cứ nói cảm ơn tôi suốt một hồi. Bố nói xin lỗi tôi vì trước đây không chăm sóc tôi chủ đáo, chỉ biết thương yêu con trai mà trọng nam khinh nữ.

Lòng tôi đau thắt lại…

Từ ngày hôm đó, tôi bắt đầu lao vào làm việc không nghỉ ngơi. Mỗi ngày, tôi làm 3 công việc, lại bán thêm hàng online để tăng thu nhập. Buổi sáng 5h tôi sẽ thức giấc và đến 12h đêm mới được nghỉ ngơi. Chồng tôi rất thương tôi, thỉnh thoảng anh cũng đưa thêm cho tôi ít tiền để giúp tôi phần nào nhưng tôi không muốn mình trở thành gánh nặng của anh nên luôn từ chối.

Tôi chỉ mong anh chăm lo tốt cho các con là tôi hạnh phúc lắm rồi.

Tròn một năm sau, đúng vào ngày giỗ mẹ, bố lại gọi chúng tôi về nhà nhưng 3 anh trai đều từ chối không về.

Vậy là chỉ có vợ chồng tôi sang ăn cơm cùng bố. Sau khi dùng bữa xong, bố đưa cho tôi một quyển sổ tiết kiệm và 450 triệu tiền mặt, tôi mở sổ ra và bàng hoàng với số tiền ghi trên đó: 4 tỷ đồng.

Bố nhìn tôi và nói:

“Số tiền trong sổ là bố gom góp và bán đất, dù gì bố cũng già rồi, đất đai chẳng để làm gì nên bán đi. Còn số tiền mặt là của con đưa cho bố trong mấy năm qua, bố chưa tiêu một đồng nào hết. Thực ra, bố không nợ ai hết, tờ giấy báo nợ đó là giả, bố chỉ muốn thử lòng hiếu thảo của các con trước khi chia tiền thừa kế cho mấy đứa. Chẳng ai ngờ 3 người con trai mà bố hết lòng yêu thương lại tệ vậy, nên bố nghĩ con xứng đáng được hưởng tất cả”.

Tôi ôm bố rồi khóc nức nở: Tức giận có, cảm động có và thương cho chính mình cũng có. Giận bố vì đã khiến tôi quá vất vả trong mấy năm qua nhưng cũng vui mừng vì nhận được món quà quá lớn.

Tôi và chồng quyết định đón bố về sống chung, dù sao trước đây tôi cũng thường xuyên qua chăm sóc bố nhưng không thể tận tình bằng ở cạnh nhau mỗi ngày. Tôi sẽ không để bố phải lẻ loi một mình nữa, chúng tôi sẽ là một gia đình trọn vẹn và hạnh phúc bên nhau…

————

Bài ST.

Ảnh minh họa

Sức mạnh ngàn cân của một chuyện cổ tích – Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

Trong thế chiến 2, một diễn viên kịch người Đan Mạch đã tới nhà hát và kể cho khán giả nghe chuyện cổ tích của Andersen. Câu chuyện mang tên Hoàng tử độc ác. Truyện viết từ 1840, nghĩa là cách đó cỡ hơn 100 năm rồi. Nhưng sau đó Phát xít Đức biết được bèn cấm tiệt câu chuyện này vì chúng cho là ám chỉ tới nhà lãnh đạo tối cao của chúng. Người diễn viên đó lập tức bị bỏ tù.

Khi mình đọc chi tiết này trong một bài giới thiệu Truyện cổ Andersen, mình rất ngạc nhiên. Vì vậy mình đã tìm đọc câu chuyện này, bản bằng Anh ngữ và xin dịch ra Việt ngữ cho các bạn cùng đọc nhé:

>>>>>>>>

Ngày xửa ngày xưa có một hoàng tử độc ác, người dành cả trái tim và khối óc hướng đến việc chinh phục mọi quốc gia trên thế giới và đe dọa mọi người; ông ta tàn phá đất nước của họ bằng lửa và kiếm, và quân lính của ông ta giẫm nát mùa màng trên đồng ruộng và phá hủy những túp lều của nông dân bằng lửa. Chúng để ngọn lửa thiêu rụi cả lá xanh trên cành, và trái cây khô héo trên những cái cây đen cháy xém.

Nhiều bà mẹ nghèo đã chạy trốn, đứa con trần truồng trong tay, đằng sau những bức tường vẫn còn khói của ngôi nhà tranh; nhưng cũng ở đó, quân lính đã đi theo bà, và khi họ tìm thấy bà, bà đã trở thành nguồn thức ăn mới cho thú vui ma quỷ của họ; ma quỷ không thể làm những điều tồi tệ hơn những người lính này!

Hoàng tử cho rằng tất cả những điều này là đúng, và đó chỉ là tiến trình tự nhiên mà mọi thứ phải diễn ra. Quyền lực của ông ta ngày càng tăng lên, tên tuổi của ông ta được mọi người kính sợ, và vận may ủng hộ những hành động của ông ta.

Ông mang về nhà khối tài sản khổng lồ từ các thị trấn bị chinh phục, và dần dần tích lũy trong nơi ở của ông có một khối tài sản không nơi nào sánh bằng. Ông xây dựng những cung điện, nhà thờ và những tòa nhà tráng lệ, và tất cả những ai nhìn thấy những tòa nhà lộng lẫy và kho báu lớn này đều thốt lên đầy ngưỡng mộ: “Thật là một hoàng tử hùng mạnh!”

Nhưng họ không hề biết ông đã mang đến bao đau khổ vô tận cho các quốc gia khác, họ cũng không hề nghe thấy tiếng thở dài và than khóc vang lên từ đống đổ nát của các thành phố bị phá hủy.

Hoàng tử thường ngắm nhìn vàng bạc và những tòa nhà tráng lệ của mình với niềm vui thích, và nghĩ, giống như đám đông: “Một hoàng tử vĩ đại! Nhưng ta phải có nhiều hơn nữa—nhiều hơn nữa. Không có sức mạnh nào trên trái đất có thể sánh bằng và vượt qua như sức mạnh của ta”

Ông đã gây chiến với tất cả các nước láng giềng và đánh bại họ. Các vị vua bị chinh phục đã bị xích bằng xiềng vàng vào cỗ xe của ông khi ông cho chạy qua các con đường trong thành phố. Những vị vua này phải quỳ dưới chân ông và các cận thần của ông khi họ ngồi vào bàn ăn, và sống sót bằng những miếng thức ăn thừa mà họ để lại.

Cuối cùng, hoàng tử đã dựng tượng của riêng mình ở những nơi công cộng và ở trong các cung điện hoàng gia; thậm chí, ông còn muốn đặt tượng trong các nhà thờ, trên các bệ thờ, nhưng các linh mục đã phản đối ông, nói rằng: “Hoàng tử, ngài thực sự hùng mạnh, nhưng quyền năng của Chúa lớn hơn nhiều so với ngài; chúng tôi không dám tuân theo lệnh của ngài.”

“Được thôi,” hoàng tử nói. “Thế thì ta cũng sẽ chinh phục được Chúa.” Và trong sự kiêu ngạo và sự tự phụ ngớ ngẩn của mình, ông ta ra lệnh đóng một con tàu tráng lệ, con tàu có thể lướt trên không trung; nó được trang bị lộng lẫy và có nhiều màu sắc; giống như đuôi của một con công, nó được bao phủ bởi hàng ngàn con mắt, nhưng mỗi con mắt là nòng súng. Hoàng tử ngồi ở giữa con tàu, và chỉ cần chạm vào một lò xo là hàng ngàn viên đạn bay ra khắp mọi hướng, trong khi các khẩu súng lại được nạp đạn ngay lập tức. Hàng trăm con đại bàng được gắn vào con tàu này, và nó bay lên với tốc độ của một mũi tên hướng lên mặt trời.

Mặt đất nhanh chóng bị bỏ lại phía dưới, và trông giống như một cánh đồng ngô nơi những cái cày đã tạo ra nhiều luống cày ngăn cách những đồng cỏ xanh; chẳng mấy chốc nó trông giống như một bản đồ với những đường nét không rõ ràng trên đó; và cuối cùng nó hoàn toàn biến mất trong sương mù và mây.

Những con đại bàng bay lên cao hơn nữa vào không trung; sau đó Chúa đã phái một trong vô số thiên thần của mình chống lại con tàu.

Hoàng tử độc ác đã bắn hàng ngàn viên đạn vào thiên thần, nhưng chúng bật ra khỏi đôi cánh sáng chói của thiên thần và rơi xuống như những hạt mưa đá bình thường. Một giọt máu, chỉ một giọt duy nhất, chảy ra từ những chiếc lông vũ trắng của đôi cánh thiên thần và rơi xuống con tàu mà hoàng tử đang ngồi, thiêu rụi nó, và đè nặng lên nó như hàng ngàn tạ, kéo nó xuống đất một cách nhanh chóng; đôi cánh mạnh mẽ của những con đại bàng đã nhường chỗ, gió gầm rú quanh đầu hoàng tử, và những đám mây xung quanh – không rõ chúng có được hình thành bởi khói bốc lên từ những thành phố bị cháy không nhưng có hình dạng kỳ lạ, giống như những con cua dài hàng dặm, chúng duỗi càng ra sau ông ta, và vươn lên như những tảng đá khổng lồ, từ đó những khối đá lăn xuống, và trở thành những con rồng phun lửa.

Hoàng tử nằm nửa sống nửa chết trên tàu cho đến khi cuối cùng con tàu chìm xuống và đập mạnh vào cành cây lớn trong rừng với một cú va chạm khủng khiếp.

“Ta sẽ chinh phục Chúa!” hoàng tử nói. “Ta đã thề: ý muốn của ta phải được thực hiện!”

Và ông ta đã dành bảy năm để đóng những con tàu tuyệt vời để lướt trên không trung, và đã gắn những mũi tên từ loại thép cứng nhất để phá vỡ các bức tường của thiên đường. Ông đã tập hợp các chiến binh từ mọi quốc gia, nhiều đến nỗi khi họ được xếp cạnh nhau là đủ bao phủ không gian vài dặm.

Họ bước vào các con tàu và hoàng tử đang tiến đến gần tàu của mình, thì Chúa đã gửi một đàn muỗi – một đàn muỗi nhỏ. Chúng vo ve xung quanh hoàng tử và đốt mặt và tay của ông; ông tức giận rút kiếm ra và vung nó, nhưng ông chỉ chạm vào không khí và không đánh trúng những con muỗi.

Sau đó, ông ra lệnh cho những người hầu của mình mang những tấm vải che đắt tiền và quấn ông trong đó, để những con muỗi không thể tiếp cận ông được nữa.

Những người hầu tuân theo lệnh của ông, nhưng một con muỗi đã tự chui vào bên trong một trong những tấm vải che, bò vào tai của hoàng tử và đốt ông. Nơi đó cháy như lửa, và chất độc đã thấm vào máu của ông. Đau đớn tột độ, ông ta xé toạc cả chăn màn và quần áo, ném chúng đi thật xa, rồi nhảy múa trước mắt đám lính hung dữ, những kẻ lúc này đang chế giễu ông, vị hoàng tử điên loạn, kẻ muốn gây chiến với Chúa, và chỉ cần một con muỗi nhỏ tấn công cũng hóa rồ..


 

Cuộc đàm phán cuối cùng Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

Một người đàn ông ngồi đối diện với quyền lực. Các ngón tay của anh ta siết chặt quanh tay ghế.

Kẻ bắt nạt không hề cố gắng che giấu sự khinh miệt của mình. Ông ta ngồi với vẻ cứng nhắc, đôi mắt rực cháy với cường độ dị thường, các ngón tay giật giật trên tay vịn ghế. Khi ông ta nói, đó không phải là một cuộc trò chuyện mà là một sự phun trào — những từ ngữ phun ra như đạn, sự khinh miệt đan xen qua từng âm tiết.

Sự bùng nổ không hề lắng xuống. Đó không phải là một bài phát biểu mà là một cuộc tấn công, được thiết kế không phải để thuyết phục mà để làm mất phương hướng, để khuất phục, để làm nhục.

Kẻ bắt nạt nghiêng người về phía trước, đập nắm đấm xuống bàn. Khuôn mặt ông ta đỏ bừng, giọng nói sắc nhọn hơn. Ông ta chuyển từ lời lăng mạ sang lời đe dọa, từ câu chuyện lịch sử sang sự vĩ đại.

Đất nước vĩ đại mà ông lãnh đạo sẽ không còn bị đối xử tệ bạc nữa, ông ta nói. Những ngày đó đã qua. Người dân đã chịu đựng đủ rồi. Lời nói của ông ta không phải là những lập luận — chúng là những sự phán quyết, sự xác quyết, là tuyên bố về diệt vong.

“Anh chẳng là gì cả”, kẻ bắt nạt nói, gần như là hét lên. Một trong những tên tùy tùng của ông ta cười khẩy. “Anh nghĩ mình độc lập sao? Anh chỉ là một kẻ thất bại, một nỗi ô nhục.”

Đằng sau ông, những viên tướng cao lớn đứng im lặng, bất động. Họ không cần phải lên tiếng; sự hiện diện của họ nói lên tất cả. Vị khách nhìn họ và hiểu những gì đang được đưa ra.

Đây không phải là ngoại giao. Đây là sự lựa chọn giữa khuất phục và hủy diệt.

Vị khách không được phép phản bác. Anh không nói cho đến khi cơn lũ chửi bới chậm lại, và ngay cả khi đó, lời nói của anh vẫn mang vẻ yếu ớt, không chắc chắn.

Anh cố gắng phản đối, khẳng định rằng anh và đất nước của anh không đáng bị đổ lỗi, rằng anh đã làm mọi cách có thể để duy trì hòa bình.

Phản ứng của kẻ bắt nạt là tiếng cười cay đắng, khinh thường, như thể chính ý tưởng đó là vô lý. Ông ta đột nhiên đứng dậy—giờ đây ông ta đi đi lại lại, lắc đầu, lẩm bẩm một mình trong cơn thịnh nộ. “Anh sẽ phải ký, hoặc chúng tôi sẽ hành động. Anh sẽ đồng ý, hoặc anh sẽ không còn tồn tại nữa.”

Không cần phải nói điều đó có nghĩa là gì. Vị khách đã nhìn thấy khuôn mặt của những người đàn ông phía sau mình. Anh biết rằng ngay cả khi mình ký vào văn bản, cuộc họp này không phải là một cuộc đàm phán mà là một cuộc khám nghiệm tử thi.

Anh không được đưa ra lựa chọn nào, chỉ có những câu hỏi.

Nếu anh đầu hàng, đất nước của anh sẽ chết dần chết mòn. Nếu anh kháng cự, đất nước sẽ chết nhanh chóng. Sẽ không có sự giúp đỡ nào đến.

Năm đó là năm 1938. Vị khách là thủ tướng Áo, Kurt Schuschnigg. Kẻ bắt nạt là Adolf Hitler. Địa điểm là Berghof, nơi ẩn dật trên núi cao của Hitler.

Sau sự kiện này mà trong lịch sử có tên gọi là Anschluss, nước Áo độc lập của anh bị ép buộc sáp nhập vào Đệ tam đế chế của Đức. Anh lập tức bị Gestapo bắt, bị đưa vào nhiều trại tập trung của Phát xít Đức khác nhau, bị hành hạ và biệt giam với muôn trùng đau khổ.

Cho tới tận 1945, ông mới được quân Đồng Minh giải cứu. Sau chiến tranh, ông đã dành hai mươi năm tiếp theo để giảng dạy khoa học chính trị tại Đại học Saint Louis, Mỹ và vào quốc tịch Mỹ năm 1956. Cuộc đời ông được viết lại trong cuốn sách Alone against Hiller ( Một mình chống lại Hitler), một cuốn sách chứa đầy những sự kiện bất công, đau khổ, máu và nước mắt. Ông mất vào 18/ 11/ 1977 (79 tuổi) tại quê cha đất tổ, vùng Mutters,Tyron, Áo.

Nhưng kẻ bắt nạt ông và bức ép dân tộc ông đã thất bại và chết trong thảm hại và nhục nhã, chỉ 7 năm sau khi hắn cướp nước ông. Hắn không bao giờ tưởng tượng được hóa ra hắn ác độc và hèn mạt đến thế nào, bị muôn đời phỉ nhổ.

________________________

Hình ông Kurt Schuschnigg và Hitler những ngày tháng cuối cùng ông làm Thủ tướng nước Áo độc lập, và ngày mà Hiler đưa quân tiến vào thủ đô Vienne 15/3/1938. Khi đó Gestapo đã tới bắt giữ ông lập tức và tống vào ngục.

Câu chuyện nói trên do mình dịch lại từ bản Anh ngữ trên mạng và bổ sung các thông tin và hình ảnh tư liệu lịch sử.

Một câu chuyện ngắn từ kiệt tác văn học Nga – Anton Chekhov

Trang Nguyen

Một câu chuyện ngắn từ kiệt tác văn học Nga – Anton Chekhov

Một lão nông dân chở người vợ ốm yếu của mình trên chiếc xe ngựa cũ kỹ, kéo bởi một con ngựa gầy guộc, băng qua quãng đường xa để đưa bà đến thành phố chữa bệnh.

Trên suốt chặng đường dài, ông bắt đầu nói chuyện, như thể đang tự tâm sự, nhưng cũng là để an ủi người vợ của mình. Bà đã sống với ông suốt bốn mươi năm, chịu đựng bao gian khổ, cực nhọc và hy sinh—cày cuốc trên cánh đồng, lo toan tất cả công việc gia đình.

Giờ đây, ông chợt nhận ra rằng mình đã nghiêm khắc với bà suốt bao năm qua. Ông hiểu rằng mình cần đối xử với bà bằng sự dịu dàng và yêu thương, cần để bà nghe những lời ân cần, ngọt ngào.

Ông nói với bà rằng mình đã sai, rằng cuộc đời cũng đã bất công với bà. Suốt bao năm, ông chưa từng dành cho bà một lời yêu thương, một nụ cười ấm áp như dòng nước trong, hay một khoảnh khắc dịu dàng!

Trên suốt quãng đường, ông nói trong nỗi ân hận và day dứt, những lời nói ấy như khắc sâu vào tâm hồn con người—như từng giọt nước rơi mãi lên phiến đá. Ông cố gắng bù đắp cho bà—bằng lời nói—cho những năm tháng bà thiếu thốn tình yêu, hơi ấm và sự quan tâm. Ông hứa rằng, từ nay về sau, ông sẽ làm mọi thứ để bù đắp cho bà…

Khi đến thành phố, ông xuống xe, lần đầu tiên trong đời bế bà trong tay để đưa đến chỗ bác sĩ. Nhưng bà đã không còn nữa. Bà đã lạnh giá, chỉ còn là một thi thể. Bà đã ra đi trên đường—trước khi kịp nghe những lời yêu thương và tiếc nuối của ông!

Câu chuyện khép lại—dưới ngòi bút của Chekhov—để lại chúng ta giống như lão nông kia, chỉ biết cất lên những lời yêu thương khi đã quá muộn.

Lời nói lúc này chẳng còn nghĩa lý gì nữa…

Chúng đã mất đi giá trị!

Chúng ta chỉ nhận ra giá trị của những người thân yêu khi họ đã không còn!

Tặng một bông hoa đúng lúc còn hơn dâng cả một vườn hoa khi đã muộn màng.

Nói một lời yêu thương vào thời điểm thích hợp còn hơn viết một bài thơ khi cảm xúc đã nguội tàn.

Không có ý nghĩa gì khi những điều tốt đẹp đến quá muộn—như một nụ hôn xin lỗi đặt lên trán của người đã khuất.

“Đừng trì hoãn những điều đẹp đẽ… vì có thể chúng sẽ không bao giờ trở lại.”

St và dịch: Trang Nguyen


 

Qua Đời Vì UNG THƯ, Cô Gái 27 Tuổi Để Lại Tâm Thư Gây Bão MXH: “Hãy bỏ điện thoại xuống !”-Truyện ngắn HAY

 “Hãy tận hưởng và sống trong khoảnh khắc đẹp thay vì mải mê ghi lại mọi thứ qua màn hình điện thoại. Cuộc sống không phải để sống qua màn hình, cũng không phải để có được bức ảnh đẹp một cách hoàn hảo.”
   Holly Butcher, 27 tuổi, đến từ Grafton, New South Wales, Australia mới qua đời vào ngày 4/1 vì căn bệnh ung thư xương. Ở độ tuổi đấy, con người ta bắt đầu mơ ước đến một cuộc sống ổn định cùng với gia đình nhỏ. Nhưng với Holly, còn một khoảng cách rất xa mà có lẽ không bao giờ có thể với tới ước mơ ấy được.
Trước khi qua đời vì căn bệnh ung thư quái ác, Holly Butcher đã viết một lá thư ngỏ để gửi tới tất cả mọi người trong cuộc sống này, để nói về cách sống mãn nguyện mỗi ngày của chính mình khi cô đang trên chặng hành trình cuối cùng đi tới kết thúc. Lá thư đã được gia đình cô gái chia sẻ trên mạng xã hội chỉ vài giờ sau khi cô trút hơi thở cuối cùng.

Cô từng là người đại diện cho bang đi thi đấu bóng quần vợt và khúc côn cầu. Tuy nhiên, trong thời gian chiến đấu với bệnh tật, cô nhận thấy cơ thể mình ngày càng yếu ớt và không thể điều khiển cơ thể như trước được nữa. Bức thư được đăng tải lên tài khoản Facebook của Holly Butcher ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của đông đảo cư dân mạng với 64.000 lượt thích, 56.000 lượt chia sẻ và rất nhiều bình luận, những con số vẫn đang tăng lên theo từng giờ.

“Thật sững sờ khi bạn nhận ra và buộc mình phải chấp nhận cái chết khi bạn mới chỉ 26 tuổi. Đó là điều tôi chưa bao giờ dám nghĩ tới. Từng ngày trôi qua và tôi hy vọng cuộc sống sẽ vẫn tiếp diễn, cho tới khi điều không mong muốn đã xảy ra.
Tôi đã luôn hình dung trong đầu xem mình già đi thì sẽ thế nào, có nếp nhăn này, tóc bạc đi này, tôi sẽ lo toan vất vả vì gia đình với những đứa con, một gia đình mà tôi sẽ gây dựng với người đàn ông của cuộc đời mình. Tôi đã khát khao những điều ấy rất nhiều và giờ đây, mọi sự càng trở nên khó khăn.
  Đó chính là cuộc sốngCuộc sống mong manh, quý giá và khó đoán. Mỗi ngày được sống là một món quà, mà đôi khi chúng ta quên mất phải trân trọng.
Giờ tôi 27 tuổi. Tôi không hề muốn phải ra đi. Tôi yêu cuộc sống của mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi có nhiều thứ muốn làm cho những người tôi yêu thương. Nhưng đến bây giờ, những điều đó đều nằm ngoài tầm kiểm soát của tôi.
Tôi không viết lá thư này để mọi người cảm thấy ghê sợ cái chết, tôi thích ý nghĩ rằng chết là điều không thể tránh khỏi, dù chúng ta thường cố tình không chấp nhận sự thật. Tôi muốn nói về cái chết, dù đó là một việc không dễ. Tôi muốn những ai còn được sống khỏe mạnh trong cuộc đời này hãy thôi lo lắng về những điều nhỏ nhặt, vô nghĩa trong cuộc sống.

Đừng quên rằng mỗi chúng ta, ai rồi cũng đều có chung một kết cục, vì thế hãy làm những gì có thể để thời gian của bạn trở nên đáng giá, dù những điều điên rồ, ngớ ngẩn thỉnh thoảng vẫn xảy ra.

Tôi có rất nhiều thời gian để suy nghĩ về cuộc đời trong những ngày tháng cuối cùng này. Có khi giữa đêm khuya, những suy nghĩ mông lung lại xuất hiện trong đầu tôi.
Tôi nhớ lại những khi mình buồn rầu vì những điều mà giờ đây tôi cảm thấy chúng thật hài hước. Vậy nên, những khi bạn như vậy, hãy nghĩ về những người đang thực sự phải đối diện với những vấn đề trầm trọng.
– Hãy biết ơn vì bạn chỉ gặp phải những vấn đề nhỏ nhặt và rồi bạn cũng sẽ vượt qua thôi. Những điều bực mình vẫn sẽ xảy ra nhưng xin bạn đừng quá để tâm, đừng cho phép những điều đó khiến bạn gây ảnh hưởng tiêu cực tới những người xung quanh.
Khi đã hiểu ra rồi, hãy bước ra ngoài, hít thở thật sâu, nhìn ngắm bầu trời và những cái cây, bạn sẽ thấy mọi thứ thật đẹp đẽ. Rồi bạn sẽ hiểu ra rằng bản thân may mắn thế này khi vẫn còn làm được một điều thật đơn giản như thế –hít thở.
Bạn có thể bị kẹt xe, có thể bị thiếu ngủ vì chăm con, người thợ cắt tóc bạn ngắn hơn yêu cầu, móng tay vừa sơn đã bị xước, vòng 1 quá nhỏ, da bạn bị rạn, bụng hơi to… Hãy mặc kệ những chuyện nhỏ ấy đi.
Tôi thề rằng bạn sẽ thấy những chuyện đó quá bé nhỏ nếu cuộc sống của bạn bất ngờ gặp biến cố lớn. Những chuyện đó chẳng nhằm nhò gì khi bạn nhìn cuộc sống một cách thoáng hơn.
Tôi đã phải chứng kiến cơ thể mình suy kiệt dần mà không thể làm gì được, tất cả những gì tôi mong muốn chỉ là có thể trải qua thêm một sinh nhật và một Giáng sinh nữa ở bên gia đình, và rồi tôi lại muốn sống thêm một ngày nữa để dành thời gian bên người yêu và chú cún cưng. Tôi chỉ cần thêm một ngày nữa mà thôi.

Tôi nghe người ta hay than phiền về công việc quá chán chường, về việc không có động lực tập thể dục, nhưng họ quên mất phải biết ơn vì cơ thể của họ có đủ khả năng để làm tất cả những điều đó.
 Lao động, luyện tập mỗi ngày nghe có vẻ là điều quá bình thường, cho tới khi cơ thể của bạn không còn cho phép bạn làm được những điều đó nữa.
– Hãy trân trọng sức khỏe và cơ thể của bạn, cho dù đó không phải là vóc dáng lý tưởng bạn mơ ước. – – Hãy chăm sóc cơ thể, hãy vận động, nuôi dưỡng nó thật tốt, đừng ám ảnh tiêu cực về cơ thể mình.
Có sức khỏe tốt quan trọng hơn là có cơ thể đẹp. Ngoài ra, hãy cố gắng tìm ra niềm vui dành cho tinh thần mình. Bằng cách đó, bạn sẽ nhận ra rằng những điều hoàn hảo được thể hiện trên mạng xã hội, vốn luôn khiến bạn bất an khi đem ra so sánh với bản thân mình, chỉ là chuyện rất nhỏ.
Bất cứ tài khoản mạng xã hội nào khiến bạn cảm thấy bất an về bản thân, hãy ẩn tài khoản đó đi. Bạn cần phải mạnh mẽ bảo vệ những cảm nhận tích cực của bạn về chính mình.
  Hãy biết trân trọng những ngày bạn khỏe mạnh, và ngay cả những ngày bạn không khỏe vì bị cúm, đau lưng, chệch mắt cá chân… Cũng hãy biết ơn vì đó không phải những bệnh tình trầm trọng và rồi nó sẽ biến mất thôi. Hãy than thở ít hơn nhé, hãy giúp nhau nhiều hơn nữa.
Hãy cho đi, thực sự bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc khi giúp đỡ người khác. Tôi ước gì mình đã giúp đỡ những người xung quanh nhiều hơn nữa. Kể từ khi bị bệnh, tôi đã gặp được rất nhiều người tử tế, nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ tôi, thậm chí có cả những người xa lạ tôi không biết; có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ đền đáp lại được những tấm lòng bao dung ấy. Tôi sẽ không bao giờ quên và sẽ luôn biết ơn những người đó.
 Khi bạn sắp ra đi, bạn sẽ không nghĩ tới việc đi ra ngoài mua sắm như bạn vẫn thường làm lúc còn khỏe mạnh. Lúc này, bạn nhận thấy mình thật ngốc nghếch khi đã tiêu quá nhiều tiền vào mua sắm.-
– Hãy mua quà tặng cho những người thân yêu thay vì chỉ chăm chăm nghĩ xem mình nên mua gì. Thứ nhất, chẳng ai quan tâm nếu bạn mặc một chiếc váy hai lần đâu. Thứ hai, bạn chắc chắn sẽ thấy rất vui nếu mời mọi người đi ăn nhà hàng, đi uống cà phê hoặc dành thời gian nấu nướng ở nhà.
– Hãy biết trân trọng thời gian của mọi người. Đừng bắt họ phải chờ đợi mình, hãy luôn đúng giờ. Hãy trân trọng khi bạn bè muốn dành thời gian bên bạn.
Năm nay, gia đình tôi đón một Giáng sinh mà không có quà đặt dưới gốc cây thông, nhưng ai ai cũng cảm thấy hài lòng vì không phải chịu áp lực đi mua sắm trong dịp cuối năm bận rộn này. Chúng tôi dành thời gian để viết những tấm thiệp với những dòng thật chân thành để trao cho nhau. Chúng tôi đã thẳng thắn nhìn nhận rằng mua quà cho tôi lúc này không còn nhiều ý nghĩa.
Thật lạ lùng! Nghe có vẻ buồn, nhưng những tấm thiệp đem lại cho tôi nhiều cảm xúc hơn những món quà tôi từng nhận được.
 Hãy xử dụng tiền của bạn vào những trải nghiệm ý nghĩa, hay ít nhất cũng đừng bỏ lỡ những trải nghiệm chỉ vì bạn đã tiêu hết tiền vào mua sắm.
– Hãy đắm chìm mình vào thiên nhiên. Hãy tận hưởng và sống trong khoảnh khắc đẹp thay vì mải mê ghi lại mọi thứ qua màn hình điện thoại. Cuộc sống không phải để sống qua màn hình, cũng không phải để có được bức ảnh đẹp một cách hoàn hảo. Hãy tận hưởng thực sự khoảnh khắc đáng nhớ ! Đừng cố gắng ghi lại khoảnh khắc để khoe với người khác.-
Đôi khi hãy thức dậy sớm để nhìn ngắm thế giới xung quanh. Hãy nghe nhạc, thực sự lắng nghe. Âm nhạc là một liều thuốc tốt. Những bài hát cũ luôn là những bài hát hay nhất.
– Hãy ôm lấy chú cúng cưng của bạn. Nói thật, nếu phải đi xa, tôi sẽ nhớ nó lắm.
– Hãy trò chuyện với bạn bè, hãy hỏi xem dạo này họ thế nào, đừng chỉ nhớ nhau qua điện thoại.
 Hãy đi du lịch nếu đó là đam mê của bạn, còn nếu không phải điều bạn muốn thì không cần phải đi.
– Hãy làm việc để sống, đừng sống chỉ để làm việc.
 Hãy làm những gì bạn cảm thấy hạnh phúc.
– Hãy ăn những gì bạn thích, chẳng việc gì phải từ chối chỉ vì sợ béo.
– Hãy mạnh dạn nói “không” với những điều bạn không muốn làm.
Đừng cố sống cuộc đời mà những người khác cho rằng thế mới là hoàn hảo. Có thể bạn chỉ muốn sống một cách bình lặng và như thế mới là ổn nhất cho bạn.
– Hãy nói với những người bạn yêu thương rằng bạn yêu họ mỗi khi có cơ hội, và hãy yêu thương họ bằng tất cả những gì bạn có.-
Cũng phải nhớ rằng nếu có ai hay điều gì khiến bạn cảm thấy khổ sở, thì bạn hoàn toàn có sức mạnh để thay đổi, dù là trong công việc, tình yêu hay bất cứ điều gì khác. Hãy mạnh mẽ thay đổi. Bạn không biết chắc chắn mình có bao nhiêu thời gian sống trên đời này, vì vậy, đừng lãng phí thời gian vì buồn khổ. Điều này nghe có vẻ sáo rỗng nhưng nó đúng đấy.
Một điều cuối cùng, nếu bạn có thể hãy làm việc tốt cho nhân loại và bản thân mình bằng cách hiến máu thường xuyên. Việc làm này khiến cho bản thân cảm thấy tuyệt vời khi cứu được những sinh mạng khác. Người hiến máu đã giúp tôi sống thêm một năm nữa – một năm mà tôi sẽ mãi mãi biết ơn. Bởi vì tôi được sống trên đời cùng gia đình, bạn bè. Một năm mà tôi đã có những thời gian tuyệt vời nhất trong đời.
Tạm biệt!
“Holly.”

Nguồn: Trí Thức Trẻ

From: Michelle Bui & KimBang Nguyen