Ở hiền gặp lành – Bửu Uyển -Truyen ngan HAY

“Dục tri tiền thế nhân,

Kim sinh tác giả thị,

Dục tri lai thế quả,

Kim sinh tác giả thị”

Tạm dịch:

“Muốn biết nhân đời trước, hãy nhìn vào những gì được hưởng trong đời này. Muốn biết kết quả trong đời sau, hãy nhìn vào những gì đang làm trong đời này.”

*****

Từ lúc còn học Trung học, tôi đã thích nghề dạy học, thích được tiếp xúc, gần gũi với các em học sinh. Nhưng số phận lại không cho tôi đậu vào trường Sư Phạm, mà lại đậu vào trường Quốc Gia Hành Chánh.

Sự yêu thích nghề dạy học cứ theo đuổi tôi, ngay cả khi tôi đã là một viên chức hành chánh. Năm 1967, tôi được bổ nhiệm làm Phó Quận Trưởng quận Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Sự yêu thích được dạy học đã thúc đẫy tôi làm đơn gởi đến Ty Giáo Dục tỉnh Thừa Thiên, sau khi được sự chấp thuận của Trung Tá Quận Trưởng. Ty Giáo Dục Thừa Thiên đã đồng hóa văn bằng Tốt Nghiệp Quốc Gia Hành Chánh của tôi với văn bằng Cử Nhân. Và họ sắp xếp cho tôi dạy Công Dân Giáo Dục lớp Đệ Tứ và Quốc Văn lớp Đệ Ngũ tại trường Trung Học Phú Lộc. Tôi thỏa mãn với ước nguyện của mình là được sống và sinh hoạt với các em học sinh tươi trẻ. Tôi chăm chỉ giảng dạy và rất thương mến các em. Số học sinh của tôi vào khoảng 5, 6 chục em, cả nam lẫn nữ. Trong số các nam sinh lớp Đệ Tứ, tôi mến em Liêm nhất. Em thông minh, tánh tình hiền hòa, các bạn trong lớp ai cũng mến em.

Một hôm, khi đi quan sát ở ấp Hòa Mậu, thuộc xã Lộc Trì, tình cờ tôi gặp em Liêm. Em sống chung với cha mẹ nơi đó và là đứa con duy nhất của gia đình. Liêm vui vẻ mời tôi ghé thăm gia đình em. Đây là một gia đình quá nghèo, nhà cửa rách nát, xiêu vẹo. Cha mẹ em trồng khoai sắn quanh nhà, và chỉ đi làm thuê, làm mướn cho những gia đình khá giả trong làng, chứ không có công việc làm ổn định. Tôi thành thật nói với Ông Sửu, cha của cháu Liêm: “Thưa bác, nếu bây giờ bác có chút ít tiền, bác làm gì để cải thiện cuộc sống của gia đình và nhất là giúp cho em Liêm được tiếp tục ăn học?” Ông Sửu trầm ngâm một chút, rồi nói: “Thưa thầy, nếu tôi có ít tiền, tôi sẽ mua lại 2 sào ruộng ở gần nhà đây để canh tác, có thể sống được. Hai sào ruộng đó đã bị bỏ hoang từ mấy năm nay…” Sau đó, tôi đã nhờ ông Xã Trưởng liên lạc với chủ ruộng, mua lại phần đất ấy, rồi giao cho gia đình ông Sửu canh tác.

Từ khi có hai sào ruộng để cày cấy, gia đình ông Sửu bắt đầu có cuộc sống tương đối đầy đủ, không còn thiếu thốn như trước nữa.Vào một ngày Chúa Nhật, vợ chồng tôi đi thăm một trại chăn nuôi heo và gà của Thầy Tứ ở Nam Giao. Thấy những con heo, giống Durock, da màu vàng, vừa lạ mắt vừa dễ thương, tôi nghĩ đến gia đình em Liêm, nên mua 2 con heo con, một cái, một đực, mang biếu gia đình ông Sửu. Ông Bà mừng rỡ và chăm sóc kỹ lưỡng lắm, nên heo chóng lớn. Chỉ chín, mười tháng sau, ông Sửu khoe là heo đã gần 100 ký. Ông Sửu gầy giống cho heo đẻ. Lứa đầu tiên, heo đẻ được 7 con. Trong làng chưa ai có giống heo này, nên nhiều người hỏi mua, ông không bán. Nhưng sau thấy được giá, ông bán bớt 5 con, còn để lại 2 con tiếp tục nuôi gầy giống. Riêng con heo đực, bà con trong làng xin phối giống, ông cũng thu được khá nhiều tiền.

Trong những ngày gần Tết Đinh Mùi, khi vào lớp học, tôi thấy nhiều em học sinh đã mặc áo quần mới. Nhưng em Liêm vẫn mặc áo quần bình thường như mọi ngày.

Nhân dịp cuối tuần, vợ chồng chúng tôi qua chợ Đông Ba mua cho Liêm một bộ áo quần mới, áo “sơ mi” trắng, quần dài màu xanh đậm. Hôm sau, tôi đem bộ áo quần mới này tặng cho Liêm. Em mặc vừa vặn, nét mặt vui mừng, hớn hở. Ông Sửu cảm động nói: “Cháu Liêm năm nay đã 15 tuổi, đây là lần đầu tiên cháu có một bộ áo quần mới nhân dịp Tết sắp đến, chúng tôi không biết nói gì cho hết để cám ơn ông bà Phó.”

Mấy tháng sau, vào một buổi trưa, ông Sửu đến tìm tôi ở quận, mặt mày buồn bã, ngơ ngác. Ông nhìn trước, nhìn sau, thấy không có ai, ông ghé sát vào tai tôi và xúc động nói: “Ông Phó ơi, thằng Liêm bị “giải phóng” bắt đi mất rồi, họ nói họ chiêu mộ thằng Liêm làm du kích chứ không có ý làm hại gì nó đâu!” Tôi sững sờ, thương cháu Liêm, và thương ông Sửu quá vì ông chỉ có một đứa con mà thôi. Tôi miễn cưỡng an ủi ông Sửu: “Bác yên lòng, bác sống thật thà, chất phác, chắc Trời sẽ thương đến cháu Liêm mà phù hộ cho cháu.”

Khoảng năm 1968, 1969 và 1970, chính phủ giúp cho các xã, ấp trùng tu, tái thiết lại những cơ sở dân dụng công cộng như đê điều, cầu cống, đường sá, đình làng v.v. Dân chúng xã Lộc Tụ (Quận Phú Lộc) đã lập dự án, xin trùng tu lại đình làng của xã, do đã bị hư hại nặng nề vì chiến tranh. Đơn xin của dân chúng xã Lộc Tụ đã được Hội Đồng Bình Định Và Phát Triển tỉnh Thừa Thiên chấp thuận, được Cơ Quan Viện Trợ Mỹ (USAID) tài trợ.

Với ngân khoản được cấp, và với quyết tâm xây dựng lại quê hương của dân chúng, đình làng xã Lộc Tụ đã được tái thiết, đẹp đẽ, uy nghi. Hội Đồng Xã quyết định tổ chức Lễ Khánh Thành đình làng mới một cách long trọng, với sự chủ tọa của Trung Tá Quận Trưởng. Nhưng Trung Tá Quận Trưởng đã ủy nhiệm tôi thay mặt cho ông trong buổi Lễ Khánh Thành đó.

Đến ngày, giờ đã được ấn định, tôi đi đến đình làng Thừa Lưu để làm nhiệm vụ. Đình làng nằm cách quốc lộ khoảng 500 mét. Khi xe của tôi dừng lại ở đầu con đường mòn dẫn vào đình làng, tôi thấy nhiều người đứng ở đó. Tôi nghĩ là họ đứng đón tôi như những lần trước. Nhưng khi tôi vừa bước xuống xe, thì hai vị bô lão đến nắm tay tôi và nghiêm nghị nói: “Ông Phó quay về quận ngay đi, ông không nên vào đây!”

Nhìn vẻ mặt bồn chồn, lo lắng của mọi người chung quanh, tôi hiểu, họ không muốn tôi đi vào đình làng. Hình như có vấn đề gì đó không tốt lành sẽ xảy đến cho tôi, nếu tôi đi vào đó.

Tôi vội vã lên xe quay về quận. Khi đến trụ sở xã Lộc Tụ, tôi vào văn phòng xã, sử dụng máy truyền tin của xã, liên lạc với Trung Tá Quận Trưởng, báo cáo sự việc vừa xảy ra.

Với kinh nghiệm, Trung Tá hiểu ngay có một sự việc gì đó không bình thường, có thể xảy ra ở đình làng. Ông lập tức điều động 2 trung đội địa phương quân cơ hữu của quận, một tiểu đội cảnh sát Dã Chiến, phối hợp với một trung đội Nghĩa Quân của xã, mở cuộc hành quân bao vây khu vực đình làng Thừa Lưu. Lực lượng hành quân đã mau chóng bắt được 2 du kích và 3 kẻ lạ mặt tình nghi. An Ninh Quân Đội đã lấy khẩu cung và khai thác ngay 2 du kích. Kết quả được biết: Họ âm mưu ám sát người sẽ đến chủ tọa, cắt băng khánh thành đình làng, bằng cách bố trí 2 khẩu thượng liên, một khẩu đặt trên cây đa, một khẩu đặt trên nóc đình làng. Cả 2 khẩu thượng liên đó đều chĩa mũi vào vị trí vị chủ tọa sẽ đứng cắt băng khánh thành. Mật lệnh khai hỏa là một hồi chiêng trống từ đình làng vang lên. Trường hợp âm mưu này được thực hiện, thì vị chủ tọa cắt băng khánh thành không thể nào thoát chết được. Nếu tôi không được cảm tình của dân chúng ở đây, họ sẽ không cảnh giác, và ngăn cản tôi đâu, có lẽ ngày đó tôi đã chết ở đình làng Thừa Lưu rồi.

Ngày 30 tháng 8 năm 1970, toàn quốc tổ chức bầu cử bán phần Thượng Viện. Cuối ngày, tôi có nhiệm vụ áp tải tất cả thùng phiếu của Quận Phú Lộc về Tòa Hành Chánh tỉnh để kiểm phiếu. Đoàn xe chở thùng phiếu gồm nhiều chiếc, một xe bọc thép (chạy bằng bánh cao su) dẫn đầu, kế đến là một xe GMC chở thùng phiếu, sau đó là 2 xe GMC chở Nghĩa Quân theo hộ tống. Khi đoàn xe đến một khoảng đồng trống gần xã Lộc Điền (truồi) thì bị VC phục kích. Họ bắn cháy chiếc xe bọc thép dẫn đầu, nhưng bị các nghĩa quân phản ứng dữ dội, họ phải rút lui, không kịp phá chiếc xe chở thùng phiếu. Tôi hoảng sợ, nhảy ra khỏi xe, rồi lăn xuống một cái rãnh cạn bên đường. Tôi nghĩ rằng càng xa chiếc xe chở thùng phiếu, thì càng an toàn, nên tôi bò vào những bụi rậm gần đó. Quá lo sợ, trời lại tối nên tôi không nhận ra được phương hướng nào nữa. Tôi cứ cắm đầu, cắm cổ bò. Khi tôi bò đến một khoảng đất có nhiều bụi gai, thì một tiếng nói vang lên, tuy nhỏ nhưng rõ ràng: “Ông Phó! Ông Phó! Dừng lại ngay, ông đi về hướng đó là chết, chúng nó bố trí dầy đặc ở đó.” Phản ứng tự nhiên, tôi dừng lại, nhìn quanh xem ai đã nói với tôi câu đó. Nhưng tôi rụng rời kinh hãi khi một du kích xuất hiện, tay lăm lăm khẩu súng AK47. Anh ta lôi tôi xuống một hố cá nhân gần đó, rồi lễ phép nói: “Thưa thầy, em là Liêm đây, thầy đừng sợ, thầy cứ nằm dưới hố cá nhân này ém đến sáng, khi nào có lính quận đến, rồi hãy ra. Em đi đây.” Anh ta biến mất sau những bụi rậm.

Đang nằm dưới hố, bỗng tay tôi chạm vào một con vật gì lạnh ngắt. Tôi rùng mình sợ hãi, vì nghĩ rằng đó là một con rắn. Trong hoàn cảnh nầy mà bị rắn độc cắn, thì vô phương cứu chữa. Nhờ một chút ánh sáng le lói của mảnh trăng hạ tuần từ trên cao rọi xuống, tôi thấy đó là một con nhái chứ không phải con rắn. Tôi bắt con nhái, rồi nhẹ nhàng thả nó lên miệng hố. Tôi thì thầm với nó: “Nhái ơi, tau cứu mầy đấy nhé! Đi về nhà đi, kẻo cha mẹ mầy trông!”

Tôi chợt nghĩ số phận của tôi, rồi sẽ ra sao đây. Tôi nhắm mắt lại và lâm râm cầu nguyện: “Lạy Chúa, lạy Mẹ. Con xin phú thác mạng sống của con trong tay Chúa, trong tay Mẹ. Xin Chúa, xin Đức Mẹ che chở, phù hộ cho con!” Tự nhiên tôi thấy bớt sợ hãi, và trong đầu óc tôi, bắt đầu nhen nhóm chút hy vọng.

Tôi nằm im dưới hố, nhưng câu nói của chú du kích mà tôi không nhìn rõ mặt, cứ văng vẳng bên tai tôi: “Thưa ông Phó, em là Liêm đây, thầy đừng sợ!” Liêm là ai trong hàng ngũ địch quân mà lại cứu tôi. Đầu óc tôi rối loạn. Quá mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Tôi giật mình thức giấc, mơ hồ nghe như có tiếng bước chân đi trên lá khô. Nhìn qua kẽ lá ngụy trang trên miệng hố, tôi thấy Đại Úy Thuật, Chi Khu Phó, mặc đồ trận, tay cầm khẩu M16, dẫn đầu một toán lính, đi hàng ngang, đang tiến về phía tôi. Tôi mừng rỡ, la thật lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây!” Đại Úy Thuật dừng lại, đứng im một lát rồi hô lớn: “Ai đó! Lập lại đi!…” Tôi dùng hết sức mình, kêu lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây, Phó Uyển đây!” Đại úy Thuật và một nghĩa quân đến kéo tôi từ dưới hố lên. Tôi không đi được, nên một anh nghĩa quân phải cõng tôi đi về hướng quốc lộ.

Đại Úy Thuật đã báo cáo sự việc với Trung Tá Quận Trưởng, nên khi chúng tôi vừa ra đến quốc lộ, đã thấy Trung Tá Quận Trưởng đứng đón tôi ở đó. Ông ôm chầm lấy tôi và cảm động nói: “Chúc mừng ông Phó, tôi cứ nghĩ là ông Phó đã bị tụi nó bắt đi rồi!”

Trung Tá Quận Trưởng cho xe đưa tôi lên nhà tôi ở Huế ngay. Bước vào nhà, tôi quá xúc động, ôm nhà tôi vào lòng, và chỉ nói được một tiếng “Em” khi nghĩ lại những sự việc đã xảy ra đêm hôm qua.

Ngay khi ấy, nhiều xe hơi dừng lại trước nhà tôi. Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Phó Tỉnh Trưởng, nhiều vị Trưởng Ty và vài nhân viên tháp tùng Đại Tá, đến thăm tôi. Đại Tá thân mật nắm tay tôi và nói: “Chúc mừng ông Phó, thấy ông Phó trở về bình an, tôi mừng lắm! Tối hôm qua, khi nhận được tin chẳng lành, tôi đã điện thoại cho Cha Trinh ở Giáo Xứ Phú Cam, nhờ Cha dâng một Thánh Lễ, xin bình an cho ông Phó. Thật bất ngờ, sáng nay nghe tin ông Phó an toàn trở về, tôi vui mừng lắm!”

Mọi người đến bắt tay chúc mừng tôi. Thì ra việc tôi mất tích đêm hôm qua, đã gây xúc động cho các giới chức tỉnh Thừa Thiên. Nay thấy tôi bình an trở về, ai cũng vui mừng. Nhưng không một ai biết lý do nào đã giúp tôi an toàn trở về.

Khi những vị khách đã ra về, nhà tôi đến bên tôi, ngạc nhiên hỏi: “Anh, có chuyện gì vậy?” Tôi vỗ vỗ vào vai nhà tôi và nói: “Anh sẽ kể cho em nghe, chuyện dài dòng lắm!”

Năm 1971, tôi được thuyên chuyển đi làm Phó Quận Hương Thủy. Cuối năm 1972, tôi được điều động ra làm Phó Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Tháng 12 năm 1973, tôi lại được đổi vô làm việc ở tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) cho đến ngày mất nước. Tôi đi tù cải tạo cho đến 1982 mới được cho về.

Gia đình tôi đi dịnh cư ở Mỹ theo diện HO từ tháng 11/1992.

Năm 2008, tôi được tin bà mẹ nuôi của tôi đau nặng. Bà đang ở Vỹ Dạ, Huế. Năm ấy bà đã gần 100 tuổi. Vợ chồng chúng tôi vội vã về thăm bà. Ngoài thuốc men đầy đủ, mỗi ngày nhà tôi nấu cháo, hầm súp cho bà thời. Thật vui mừng, vì chỉ mấy ngày sau, bệnh tình của bà mẹ nuôi của tôi đã thuyên giảm, ăn uống bình thường, nói cười vui vẻ.

Một hôm, chúng tôi nhận được điện thoại của chị Cam Đường, bạn học cùng lớp với nhà tôi, mời chúng tôi xuống Cầu Hai chơi, nhân dịp làng tổ chức cúng vị Thần Hoàng của làng. Chị ấy cho biết là vui lắm, ở xa về mà gặp dịp nầy là hên lắm đó! Chúng tôi nhận lời mời của chị Cam Đường ngay, và hứa sẽ xuống Cầu Hai đúng ngày, giờ. Chúng tôi thuê một xe nhỏ để đi. Nhà tôi còn rủ thêm 2 người bạn nữa, cùng đi với chúng tôi.

Đã được báo trước, nên khi xe vừa đến chợ Cầu Hai, đã thấy chị Cam Đường đứng đón chúng tôi. Chị ấy dẫn chúng tôi đến đình làng Đông Lưu (Cầu Hai). Hôm nay là một ngày hội lớn của làng. Cờ đuôi nheo được treo khắp nơi. Dân làng hớn hở, tấp nập tụ tập ở đình làng.

Chúng tôi vào ngồi ở hàng ghế cuối cùng của Giang Đại Sảnh. Trước mặt chúng tôi là một bàn thờ lớn, hoa quả, hương đèn rực rỡ; một con heo quay vàng rộm, đặt trên một cái bàn ở trước bàn thờ. Vừa ngồi yên chỗ, một hồi chuông, trống bát nhã vang lên rộn rã, báo hiệu giờ hành lễ sắp đến. Một vị bô lão, mặc áo rộng xanh, đầu đội khăn đóng, bước ra nói với bà con tham dự lễ Chạp đang ngồi trong đại sảnh: “Thưa quý vị quan khách, thưa quý bà con, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành lễ “Chạp,” kính ngày huý kỵ Ngài khai canh của vùng đất mà chúng ta đang sống. Với lòng thành kính và biết ơn, chúng ta sẽ cử hành những nghi lễ cổ truyền mà ông cha chúng ta đã truyền lại cho con cháu, để dâng lên Ngài khai canh. Trước khi cử hành các nghi lễ, chúng tôi xin giới thiệu một số quan khách đã đến tham dự ngày giỗ “Chạp” hôm nay. Chúng tôi xin giới thiệu Ông Phó Chủ Tịch Huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu Ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Trì, chúng tôi xin giới thiệu vị Đại diện Mặt Trận Tổ Quốc huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu đồng chí Lê Văn Liêm, Chỉ huy quân sự xã Lộc Trì.”

Vừa nghe vị bô lão xướng tên Lê Văn Liêm, tôi sững sờ tự hỏi: “Đây có phải là em Liêm, học trò của tôi ngày trước không?” Vừa vui mừng, vừa phân vân, tôi đi đến trước mặt người đàn ông vừa đứng dậy chào bà con khi được xướng tên là Lê Văn Liêm. Đứng trước mặt anh ấy, dù đã 41 năm trôi qua, tôi vẫn nhận ra ngay đây là em Liêm, người học trò của tôi ngày xưa, mà tôi thương mến. Tôi cảm động nói với Liêm: “Em Liêm, em có nhận ra tôi không? Tôi là thầy Uyển đây.” Chàng thanh niên sau một khoảnh khắc ngơ ngác, đã ôm chầm lấy tôi: “Ông Phó, ông Phó…” Liêm nghẹn ngào, không nói thêm gì được nữa, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má.

Liêm quên mình đang đứng giữa đình làng, và có nhiều người hiện diện nơi đây, anh quay xuống hàng ghế kế cận và vui mừng gọi lớn: “Ba! Ông Phó đây nè!”

Một cụ già mặc áo dài đen, bịt khăn đóng, đứng bật dậy, chạy đến ôm chầm lấy tôi. Ông cảm động thì thầm bên tai tôi: “Ông Phó, ông còn sống, tạ ơn trời đất!” Đôi mắt ông đỏ hoe.

Liêm nói với vị bô lão điều khiển chương trình: “Thưa bác Hương Cả, tình cờ hôm nay, chúng tôi gặp lại một người bà con thân thiết của gia đình, đã thất lạc gần 50 năm nay. Xin bác cho phép gia đình chúng tôi về nhà trong chốc lát, chúng tôi sẽ trở lại ngay.”

Liêm và ông Sửu kéo tay tôi ra ngoài. Ông bà Sửu cứ nắm chặt tay tôi, như sợ tôi biến đi mất(?).

Nhà của ông bà Sửu bây giờ là một căn nhà gạch, lợp toles, không còn là một căn nhà lá lụp xụp như xưa nữa. Bước vào nhà, chúng tôi vừa ngồi xuống ghế, bỗng ông bà Sửu và Liêm quỳ xuống trước mặt chúng tôi, rồi cùng cúi gập người, lạy 3 lạy, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Tôi đỡ ông bà Sửu đứng dậy, và cảm động nói: “Hai bác làm gì vậy? Sao lại dành cho chúng tôi sự tôn kính quá to lớn như vậy? Chúng tôi có công lao gì để xứng đáng nhận đại lễ này?” Ông Sửu nói ngay: “3 lạy nầy cũng chưa xứng đáng với công ơn mà ông Phó đã dành cho gia đình tôi.” Ông chỉ ra đám ruộng ngoài xa, xanh mướt, mới trổ đòng đòng. Ông chỉ vào đàn heo đông đúc ở cuối vườn, ông chỉ vào căn nhà… và nói: “Tất cả cũa cải nầy là của ông Phó đã cho gia đình tôi.”

Tôi thân mật cầm tay ông Sửu và nói: “Bác Sửu ơi, 2 sào ruộng và mấy con heo, có đáng gì so với ân huệ to lớn mà cháu Liêm đã dành cho tôi!” Liêm vội ngắt lời tôi: “Thưa thầy, chuyện xảy ra đêm hôm ấy, không một ai hay biết. Vậy em xin thầy hãy quên chuyện ấy đi, em cám ơn thầy!” Ông Sửu không biết chuyện gì, chỉ trố mắt nhìn tôi và Liêm. Rồi ông nói tiếp: “Năm 1971 nghe ông Phó đổi lên quận Hương Thủy, chúng tôi có lên đó tìm ông Phó. Nhưng ở quận Hương Thủy cho biết ông Phó đã đổi ra Quảng Trị. Chúng tôi lại ra Quảng Trị, mong gặp được ông Phó, nhưng lúc đó, ông Phó đã đổi vô tỉnh Phong Dinh-Cần Thơ, tận trong Nam… Cho đến 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi không hề biết tin tức gì về ông Phó nữa! Từ đó, chúng tôi chỉ sống với kỷ niệm, với lòng biết ơn và thương nhớ ông Phó. Chúng tôi cứ nghĩ là ông Phó đã chết, nên cha con chúng tôi thiết lập một bàn thờ, để thờ ông Phó. Trên bàn thờ không có ảnh, không có bài vị, chỉ có hai chữ “Ông Phó” do cháu Liêm viết lên một tấm bìa cứng. Tuy đơn sơ như thế, nhưng mỗi ngày, vợ chồng, cha con chúng tôi đều thắp nhang lên bàn thờ để tưởng nhớ đến ông Phó.”

Bà Sửu tiếp lời ông Sửu: “Thưa ông Phó, ngày hôm nay được gặp lại ân nhân của gia đình chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt gà, bắt vịt nuôi trong nhà để làm một bữa cơm thiết đãi ông bà Phó và các vị cùng đi. Ngày hạnh phúc hôm nay, chúng tôi đã trông chờ gần 50 năm rồi đó.”

Nhưng một người bạn của nhà tôi, chị Như Quê nhắc nhở: “Anh chị Uyển ơi, chúng ta đã hẹn với các bạn ở Huế, trưa nay tụi mình sẽ dùng cơm với các bạn, mà bây giờ đã hơn 11 giờ rồi. Chúng ta nên xin phép hai bác Sửu, đi lên Huế kẻo các bạn chờ.”

Tôi đành phải cáo lỗi với ông bà Sửu và cháu Liêm. Ông Sửu buồn buồn nói với chúng tôi: “Gặp lại ông bà, chúng tôi vui mừng khôn xiết, mà ông bà đã vội ra đi, biết khi nào mới gặp lại ông bà.” Tôi an ủi ông bà Sửu: “Vì chúng tôi đã hẹn trước với các bạn, chúng tôi phải có mặt ở Huế trưa nay. Chúng tôi sẽ về thăm hai bác và cháu Liêm.” Ông bà Sửu và cháu Liêm bùi ngùi từ biệt chúng tôi. Khi mọi người đã lên xe, chúng tôi vẫn thấy gia đình ông Sửu buồn bã nhìn theo.

Chiếc xe con chở chúng tôi đã chạy đều trên quốc lộ, hướng về Huế. Bỗng chị Hồ Thị Hảo, một người bạn của nhà tôi, nói với mọi ngườir trên xe: “Hôm nay, chúng tôi tình cờ biết được câu chuyện của anh Uyển và gia đình ông Sửu. Câu chuyện làm chúng tôi ngạc nhiên và xúc động lắm, nhất là đoạn kết, lại rất có hậu, làm chúng tôi nhớ đến vài câu ca dao, tục ngữ của quê hương mình, thật hay, thật đúng, như câu ‘Trồng cây ngọt thì được ăn trái ngọt’ hoặc câu ‘Gieo nhân nào thì gặt quả ấy’ hay câu ‘Ở hiền thì gặp lành.’ Xin chúc mừng anh chị Uyển!”

Bửu Uyển (Tháng 1-2018)

From: Tu-Phung

 Tôi, Người Thương Phế Binh VNCH – Võ Thị Điềm Đạm

 Kimtrong Lam

Võ Thị Điềm Đạm

Mèn, không đã chút nào hết, đụng trận chưa được chục bận là bị thương mẹ nó rồi. Tụi nó đi lính lâu, tụi nó rành đường rành xá, nhìn bụi cỏ vũng nước là biết chỗ nào có mìn, chỗ nào có chông. Còn mấy thằng tò te máu mới như tui, mấy cha chuẩn úy, thiếu úy mới ra trường cũng vậy luôn, hăng máu, ngứa chân, nghe lệnh hành quân là hăm hăm hở hở, có biết sợ mẹ gì. Tới chừng nghe cái rầm là hết biết gì luôn. Mấy ông thượng sĩ già kinh nghiệm đầy mắt ngập chân, cứ căn đi dặn lại, đe tới dọa lui mà có thấm vô đầu thằng nào đâu.

Bữa đó, trời sáng bưng, ngày trước không mưa dầm, đêm qua cũng không nghe động đậy, ruộng rộng rừng thưa, tụi tui đi hành quân mà như đi chơi. Tui nhớ kỹ lắm, vừa quay qua định hỏi thằng hạ sĩ Tám Dọng Cổ, cứ dọng cho nó nửa xị là nó kéo mấy câu tục tằn nghe đã tai lắm, định hỏi chuyện gì thì thiệt tình tui không nhớ, bỗng nghe rầm.Tui không biết gì nữa hết. Sau này, nghe tụi nó kể là tui bất tỉnh tại chỗ, không biết đau biết đớn gì cả,cả đại đội chỉ có mình tui lọt sổ “mụ mìn” thôi. Mấy ông chỉ huy cấp tốc gọi trực thăng lại bốc tui liền. Cũng tụi nó kể, tại tui bất tỉnh nằm im re nên còn sống, mấy thằng bị thương mà leo lẻo cái miệng là chết lẹ.

Trực thăng đưa tui thẳng về bệnh viện Gò Vấp, cả tuần sau tui tỉnh hồn, nhìn xuống mới biết mấy bác sĩ cưa mẹ nó cái chân trái cho tới đầu gối, còn bàn chân phải thì bị thương nhẹ nhưng gân cộ đứt tréo tùm lum. Mấy tuần lễ đầu, cứ dòm xuống 2 cục băng bột to tổ chảng, cái trên cái dưới, tui thấy sao mà nó xa lạ quá. Đau khổ thì thiệt tình là không, nhưng tui cũng hơi chần dần, hơi ngỡ ngàng về cái thân thể không trọn vẹn của mình. Trời sinh tôi cái tính vô tư hay sao đó, ngó xuống bàn chân thì buồn buồn nhưng lo thì lại không biết lo cái gì. Chưa vợ, không bồ, thân tui mình ên. Ba má tui dưới Kiên Giang lên thăm cũng không than khóc, biểu chừng nào lành thì về quê sống với ổng bả. Tui biết, ba má tui không giàu nhưng các anh các chị lớn,ai cũng có ruộng vườn, tui về quê thì cứ tà tà mà sống, mãn đời. Vậy mà có cái gì đó nó níu kéo 2 cái chân què quặt này của tui.

Có phải mình tôi vô tư đâu, mấy ông nằm chung phòng, có ông đại úy, có ông trung úy chớ ít gì, ông nào bị thương nặng quá nói không được, cử động không nổi thì mới chịu nằm im, chớ miệng ông nào ông nấy giỡn hết biết, nói tục hết chê, quậy hết cỡ luôn, làm như chuyện nằm bệnh viện này là chuyện dưỡng sức. Có thằng thì muốn lành cho lẹ, nằng nặc đòi về lại đơn vị. Thằng nào ngon hơn thì trốn bệnh viện, kiếm phương tiện quá giang trở ra đơn vị. Tui mà đi đứng dễ dàng thì tui có thua gì tụi nó. Nhớ đồng đội, nhớ những lần hành quân căng thẳng, nhớ những bữa nhậu lai rai xuống vài câu vọng cổ… nhớ nhiều thứ mà chỉ những người đã từng đi lính mới hiểu thấu. Chừng ra viện mà còn luyến quyến nhau, hẹn nhau tái ngộ lai rai vài sợi.

Thời gian ở nhà an dưỡng Vũng Tàu là sướng nhất. Ăn ngủ, uống thuốc, thay băng, tập sử dụng xe lăn, tập tự làm chuyện vệ sinh, đấu cờ, đánh bài, lai rai vài sợi, chờ lãnh lương. Nói chuyện lãnh lương, so với bây giờ mới thấy thời buổi gì mà lạ đời. Thời này mà được lương như hồi ở nhà an dưỡng Vũng Tàu là thằng nào cũng muốn vô lính, lỡ có bị thương thì cũng có chính phủ nuôi, đó là nói chuyện chính phủ trước. Năm 66, tui lãnh 2600 đồng 1 tháng, lúc đó vàng giá 700 đồng 1 chỉ. Vậy chi mỗi tháng, lương của thằng trung sĩ như tui mua được gần 4 chỉ vàng, thằng trung sĩ thi rớt trung học nên phải tình nguyện đi lính. Ở nhà an dưỡng Vũng Tàu, lương lãnh đủ, tiền ăn uống thuốc men không ai thèm khấu trừ, nhu yếu phẩm lãnh không sót món nào. Sướng quá nên quên mẹ nó cái thân tàn tật của mình, nhứt là cái đám không vợ không con như tui. Tủi thân, trách phận? Tối nằm gác tay lên trán cũng phân vân, cũng nghĩ tới cái thân tàn tật. Nhưng sáng dậy, mới bửng mắt là đã nghe thằng cụt tay xuống câu vọng cổ ngọt lịm,đã thấy thằng cụt giò tập quay xe lăn một bánh, nghe ông một mắt kể chuyện “chị em”…1 ngày như mọi ngày, quên mất! Nói nào ngay, đi lính mà, sống chết là chuyện thường tình, thương tích là chuyện cơm bữa.

Ở miền Nam thời đó, thanh niên nếu không đi học thì một là đi lính, hai là trốn quân dịch, ba là vô bưng theo mấy ổng.

– Sao anh không vô bưng?

– A… anh hỏi câu này tui mới nghĩ tới. Vô bưng khổ thấy mẹ, đói róc người, chết như rơm. Mấy thằng bà con phía nội, phía ngoại tui ở dưới quê nhắm trốn lính không đặng, nghe lời dụ ngon dỗ ngọt, vô bưng, chết lần chết mòn, riết rồi đếm đi đếm lại chỉ còn vài thằng. Tui tính tới tính lui, ngó trước ngó sau, thấy đường tình nguyện đăng lính là thượng sách. Trốn cách mấy cũng bị bắt. Bị bắt đi lính thì không được hưởng nhiều quyền lợi như tình nguyện. Trốn chui trốn nhủi chi cho khổ cha khổ mẹ, cho nhục cái thằng đàn ông. Rớt trung học được vài tháng là tui đăng đi lính, được bổ ra Sư Đoàn 9. Hồi thời tui, thời 66, lính của Sư Đoàn là bị đưa khắp 4 vùng chiến thuật. Mấy năm sau mới có chính sách lính được đóng gần quê mình. Nhưng lính Sư Đoàn khác với lính Địa Phương Quân nghen, lính Địa Phương Quân được đóng tại địa phương của mình nhưng lương ít, không được hưởng những quy chế đặc biệt và nhứt là không được đi đây đi đó, ít hành quân.

– Không sợ đi hành quân sao anh?

– Không! Không thằng lính nào sợ lệnh hành quân hết. Sợ chết? Sợ bị thương? Không ai nghĩ tới chuyện đó! Đến chừng chết là hết, đến chừng bị thương mới biết phận tàn tật. Lính mà!

Ở trại an dưỡng Vũng Tàu được nửa năm thì làng Thương Phế Binh Thủ Đức bắt đầu xây cất, chia lô. Mấy cha lanh lẹ, “bốc thăm” được nhà ở đường Số 1, Số 2, còn tụi tui cũng bốc thăm, được nhà ở tuốt vô trong, đường Số 11. Kệ! Được cho không cái nhà là cha rồi. Được có cái xe lắc nhôm nhẹ nhàng, sức tui quay có thua gì thằng chạy xe đạp.

– Có được đem vợ con theo không?

– Có chớ! Ông nào có vợ thì đem vợ con về làng phế binh ở, làm ăn, gầy dựng. Đui què sứt mẻ vậy chớ coi ra từ từ rồi thằng nào cũng kiếm được vợ. Vợ lanh biết làm ăn buôn bán, vợ khờ ăn lê ngồi mách, vợ hung mắng chồng chửi con, vợ hiền an phận đẻ con, vợ giàu, vợ nghèo, vợ đẹp, vợ xấu… người lành lặn có vợ cỡ nào thì tụi tui cũng có vợ cỡ đó. Thân tàn tật nhưng có nhà cửa, có lương, có nhu yếu phẩm mỗi tháng, đủ nuôi vợ con… Mấy thằng độc thân như tui sướng quá nên hư! Lương tháng nào xài tháng đó, không biết để dành hậu thân, thẻ nhu yếu phẩm mỗi tháng cũng bán luôn. Tại hồi đó tui ngu, đang học khóa sửa tivi, radio, không biết mắc chứng gì lại nghỉ ngang. Trường dạy nghề ngay trong làng Phế Binh này chớ đâu xa, muốn học nghề nào cũng có, thợ may, đánh máy, vẽ, thợ tiện, thợ hàn, tàn tật cỡ nào thì có nghề đó. Trường này, bây giờ nhà nước cũng mở dạy nghề cho đám trẻ, lớn lắm, anh vô sâu chút xíu là thấy.

Hồi đó mấy ông thương phế binh quậy dữ lắm, đòi hỏi, làm yêu làm sách đủ thứ. He… he… thời đó vui thiệt. Mấy ông nhà báo, mấy ngài quan chức xúi biểu tình đòi hỏi này nọ thì tụi mù quơ gậy, tụi què lắc xe ùa theo chớ tụi tui có rành luật rẽ pháp gì đâu mà yêu với sách. Cứ nắm cái luật “Nông dân có ruộng, thương binh có nhà” của ông tổng thống Thiệu, mấy ông thương binh hết đòi cất nhà chỗ này đến đòi dành đất chỗ kia. Nghĩ lại, thấy mấy ông thương binh thời đó tưởng mình là con trời hay sao đó. Thiệt là được voi đòi tiên!

Được vài năm, tui cũng tính về quê đó chớ, kẹt cái con vợ tui nó người Biên Hòa, kẹt cái nữa là anh em thương phế binh với nhau tình nghĩa gắn bó, riết rồi anh em coi cái làng Thương Phế Binh Thủ Đức như quê mình vậy.

Chà, đến sau 75 mới gay go. Thì cũng như tất cả anh em, hồi trước, không biết lo, không biết để dành hậu thân nên khi vỡ lỡ ra thì thằng nào cũng lây lất, bán lần bán mòn đồ đạc trong nhà. May mà vợ chồng tui bỏ nhau trước đó, lại không có con, thân tui một mình cũng nhẹ lo. Được chừng nửa năm-một năm thì phải, ai có chân làm trong hợp tác xã, làm công nhân hãng xưởng thì được giữ nhà, còn không là phải giao nhà cho nhà nước, đi kinh tế mới hay về quê. Ờ, tàn tật cỡ nào cũng phải đi kinh tế mới.

Về quê báo cơm thì khổ ba má già, què quặt một mình thì làm sao phá rừng làm ruộng nên tui trốn, ở lại, sống nhờ anh em. Mấy anh em kéo gia đình con cái đi kinh tế mới, vài năm khổ quá chịu không thấu, trở về lại thì nhà bị tịch thu mất tiêu. Người có tiền thì mua lại, người mướn lại, người không tiền đành phải ăn nhờ ở đậu. Người đi kinh tế mới hay trốn không đi thì nhà cũng bị tịch thu hết. Tịch thu phát cho ai hả? Thì phát cho mấy cán bộ nhân viên ngoài Bắc vô. Mấy cán bộ này ở một thời gian, làm ăn khá giả, bán nhà dọn đi.

Tui trốn về Sài Gòn, ở nhờ người bạn nằm cùng phòng hồi ở nhà thương Gò Vấp. Đến chừng gia đình anh đó về quê, tui mới xấc bấc xang bang. Ở nhờ chỗ này vài tháng, chỗ kia một năm, có khi ngủ ngoài đường, cũng xong! Cái xe là nhà.

Xe lắc được phát hồi trước bằng nhôm vừa nhẹ vừa dễ di chuyển nên tui đi tới đi lui buôn bán kiếm sống cũng qua ngày. Cái xe là cái chân, đến chừng xe lắc nhôm hư mà không có tiền sửa mới thấy khổ. Lây lất một thời gian thì được hội gì đó, Hội Thánh Tin Lành thì phải, tặng chiếc xe này đây. Hơi nặng nên không đi được xa, tui xoay ra bán vé số quanh vùng này.

Kệ, đói thì không đói. Hồi thời “bao cấp”, anh em ăn độn bảy ba thì tui cũng ăn độn bảy ba, sống lây sống lất rồi cũng xong. Bây giờ thì cơm trắng gạo sạch nên thong thả hơn. Coi vậy mà hơn 30 năm rồi còn gì. Sau 75, tui định tự tử mấy lần đó chớ, nhưng Trời chưa chấm sổ. Cũng từ đó, tui thành thằng bụi đời đúng nghĩa của nó. Con nít trốn nhà thành bụi đời một thời gian rồi tìm đường về với cha với mẹ. Còn tui, bụi đời cả đời luôn, mãn kiếp luôn.

Bao nhiêu tuổi! Để coi, mẹ… chắc chừng 62, 63 chi đó. Có bao giờ nghĩ đến tuổi tác gì đâu. Năm hết Tết đến, thấy người ta vui, tui cũng vui theo. Bạn bè người cho đòn bánh tét, người kêu lại lai rai 3 ngày Tết, cũng xong. Gia tài tui là cái xe lăn và hai cái bị đen này đây. Cái bị treo trước xe là bộ quần áo để thay đổi.Cái bị nhét dưới yên xe là cái mền đắp qua đêm. Xong. Ờ, bạn bè từ nào đến giờ cũng là anh em thương phế binh với nhau.

Cũng dựa vào tình anh em thương phế binh với nhau đó chớ! Tình thương phế binh nó truyền qua đời con nữa đó anh. Con gái của một anh bạn thương phế binh, thấy hoàn cảnh không nhà không cửa của tui, vợ chồng cô ấy giao chìa khóa nhà, biểu tui chiều tối về giăng mùng ở phòng khách mà ngủ, tránh mưa gió. Cô cậu tốt bụng lắm nhưng tui không muốn làm phiền, chờ chừng 11,12 giờ khuya mới về, 5 giờ sáng là khóa cửa đi ra chùa đặng tắm rửa rồi đi lãnh vé số để bán. Trưa thì nay tắp vô quán cà phê, mai ghé gốc cây hàng cơm của vợ chồng mấy anh bạn, cũng là thương phế binh, đặng mua hộp cơm, ly trà đá, và cũng để nghỉ luôn.

Anh thầu vé số này cũng là thương phế binh, được cái anh có bà vợ giỏi, vợ chồng ảnh chăm chỉ làm ăn nên mới gầy dựng được như ngày hôm nay. Người khác phải đặt cọc mới được lãnh vé số, còn tui, anh chị cho tui muốn lãnh bao nhiêu thì lãnh, không cọc không thế chân gì hết, bán bao nhiêu ăn bấy nhiêu, không hết thì trả lại. Tình thương phế binh mà anh!

Tuy cái thương tật nó đã lành lặn nhưng ảnh hưởng nó lậm vô cơ thể cũng ác liệt lắm nên không có mấy ông sống thọ. Lại thêm khoảng thời gian đi kinh tế mới, ăn độn ngủ rừng nên cỡ tui, già hơn tui vài năm, chết gần hết. Nhiều người cũng làm ăn nên nổi, con cháu đầy nhà. Được cái mấy ông này thường giúp đỡ anh em nghèo túng. Tui chưa thấy ai quay lưng với anh em hết. Nó có một cái gì đó, nó ràng buộc anh em thương phế binh tụi tui với nhau. Tụi tui cũng quen biết vài anh em thương phế binh ngoài Bắc đó chớ. Anh em không có chuyện thù hằn gây gỗ gì hết, đụng trận thì phải chém giết nhau, hòa bình tan hàng thì cũng là người Việt mình với nhau, anh em một nhà.

Ở tuốt Hàng Xanh vậy chớ một tuần vài ba bận, nhớ anh em, chiều mát, tui lần mò về làng Thương Phế Binh Phước Bình này đây. Không làm gì hết, ít tiền thì trà, cà phê, bữa nào khá hơn thì vài xị. Tui không ham nhậu nhẹt, chỉ mê cờ tướng. Nhiều bữa gặp bàn cờ có cơ, tui mê coi, quên mẹ xấp vé số chưa bán xong, chừng có người nhắc tui mới ba chân bốn cẳng… ha… ha… tay quay người đẩy chạy về kịp trả lại vé số cho chủ thầu trước 4 giờ. Mê lắm anh! Ngó nước cờ chừng 5 phút là biết cơ người chơi liền. Đã nhất là gặp người cùng cơ.

Tui làm gì mà kêu mấy ông đó đi nhậu. Mấy ông nhà cửa đàng hoàng, cơm nước đầy đủ, lâu lâu hú kêu anh em tay làm hàm nhai cỡ tui lại nhậu vài xị, tán dóc hết bữa. Tán dóc chuyện gì hả? Chà, thì toàn chuyện đánh nhau hồi đó, chuyện đời thương phế binh, hà… hà… kể hoài không hết, nói cả ngày cũng không mãn chuyện. Không, không ông nào hận thù oán trách, in như thân số mình là vậy nên cứ sống theo vậy.

Tui không ao ước điều gì hết. Tui lãnh vé số bán, bán không hết thì trả lại, nhưng phải trước 4 giờ. Mỗi ngày kiếm cỡ 20, 25 ngàn đồng, đủ no bụng, tối ngủ nhờ nhà người quen, tắm rửa thì ra chùa. Bịnh hoạn? Tới đâu hay tới đó! Trời không cho sống nữa, thì tui dạ. Tui thấy tui may mắn, vợ con không có nên không làm khổ ai, không là gánh nặng cho ai. Cha mẹ tui chết hết nên quê quán cũng không còn. Tiếng là ở Hàng Xanh nhưng tui sống chết với cái làng Thương Phế Binh Phước Bình này, với anh em.Tui định bụng nếu tui tìm được chỗ ngủ nhờ ở làngThươngPhế Binh thì tui trở về ở cho tới chết. Được chôn ở xã Phước Bình này là tui mãn nguyện.

A, anh biết tên xã Phước Bình của làng Thương Phế Binh có nghĩa là gì không? Ph-B là Phế Binh đó.

Võ Thị Điềm Đạm.

(Viết theo lời kể của một thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa)


 

Đôi Mắt Mùa Xuân – Phạm Tín An Ninh – Truyen ngan HAY

Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức.  Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm.  Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với đôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cảm ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cảm ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung đội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postale, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sự vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy động trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Đắk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Đắk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máy Alumin Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đập mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cửu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh .


 

Truyện ngắn: Ngoại tình-Hoàng Thị Bích Hà

Ba’o Nguoi-Viet

September 13, 2025

Hoàng Thị Bích Hà

Trước mắt tôi là hình ảnh chị Vân Anh, một người phụ nữ đẹp, thành đạt. Chị vừa bước vào tuổi ngũ thập, dáng người nữ tính, nhanh nhẹn hoạt bát, đôi mắt đẹp toát lên vẻ thông minh, điềm đạm.

Chị là người mẹ đơn thân, nuôi con từ khi 25 tuổi đến bây giờ. Các con của chị đã trưởng thành, các cháu cũng đã trên dưới tam thập rồi!

Chị vẫn sống vui vẻ bên các con mặc dù không ít người yêu thương nhưng chị đều từ khước. Chị muốn bù đắp cho các con khi thiếu ba nên chị không đành lòng đi bước nữa, chị sợ các con khổ.

Câu chuyện trở về thời học phổ thông trung học, anh và chị cùng học chung lớp, chị học giỏi, nhưng sau khi vướng vào chuyện yêu đương, bỗng nhiên lực học sút hẳn. Chị nheo mắt cười tinh nghịch bảo:

-Chị “mê trai” hơi bị sớm!

Học xong cấp ba, hai người đi qua Đức theo diện xuất khẩu lao động. Qua bên đó hai người kết hôn, sống cùng nhau và bước vào làm làm ăn thuận lợi lắm. Lúc còn ở Đức, bạn bè bên đó đã gọi anh chị là “đại gia” rồi, có nghĩa là anh chị làm ăn phất lên như diều gặp gió, buôn bán thành công ngoài sức tưởng tượng ban đầu của hai vợ chồng.

Thế rồi bức tường Bức tường Berlin sụp đổ, bạn bè cùng đi với anh chị đa số ở lại làm ăn rồi thành công dân Đức cho đến ngày nay. Còn anh thì lại muốn về nước. Chị bảo công việc đang làm ăn thuận lợi, vậy mà vì chị yêu anh quá nên nghe anh nói một câu về là về liền à. Không suy nghĩ gì cả. Mặc dù con của chị đang học phổ thông bên Đức, cháu học giỏi, người ta tốn bao tiền cho con đi du học, mình đang ở ngay đó rồi lại trào về.

Thế rồi gia đình anh chị hồi hương, tiếp tục ổn định và làm ăn cũng thuận lợi, xếp vào hàng khá giả thời bấy giờ. Gia đình anh chị sống hạnh phúc. Sau khi chị sinh đứa con thứ hai (vào lúc 25 tuổi) chị phát hiện ra ở anh có chút gì khang khác. Anh có vẻ sửa soạn áo quần bảnh bao hơn, rồi còn dùng dầu thơm (nước hoa) nữa. Tính anh hồi nào tới giờ sống giản dị, chưa có khi nào xức dầu thơm mà nay cứ mỗi lần ra khỏi nhà là áo quần láng cóng, lại còn thoang thoảng mùi nước hoa. Chị sinh nghi từ đó. Thời gian anh ở nhà cũng ít dần đi, khi nào đi làm về cũng muộn, và thường xuyên nói là đi công tác xa.

Chị quyết định phải theo dõi để tìm ra nguyên nhân. Trong thâm tâm chị không bao giờ nghĩ là anh sẽ ngoại tình. Vì hai người yêu nhau từ thuở còn là học sinh phổ thông trung học mà. Rồi lại cùng nhau đi nước ngoài, cùng nhau làm ăn rồi trở về nước gắn bó đồng hành cùng nhau.

Đêm đó vào lúc 12 giờ, khi anh đã ngủ say, chị bắt đầu thức mò mật khẩu từ số điện thoại, mò hết dãy số này sang dãy số khác đến 3 giờ sáng thì chị mở được điện thoại của anh. Chị đọc được tin nhắn anh nhắn cho cô bạn thân của chị rằng:

-Cảm ơn em đã cho anh những ngày vui vẻ!

Rồi chị lướt lên một loạt tin nhắn hai người nhắn cho nhau yêu thương nghe mùi mẫn, ướt rượt. Chị điếng hồn, không tin vào mắt mình nữa!

Chị bàng hoàng, tưởng như tim mình vụn vỡ, trời đất như sập xuống. Nỗi đau lớn chưa từng có xuất hiện quá đột ngột, bóp nghẹt trái tim chị. Chị nghĩ sao lại như vậy? Sau ngần ấy năm chung sống, đồng cam cộng khổ, yêu nhau từ thuở học trò đến nay không ngờ bị chồng phản bội. Chồng ngoại tình đã là đau lắm rồi. Đau hơn nữa là với cô bạn thân. Cô bạn này cùng với anh và chị là ba người ngày xưa học chung một lớp. Nay cô ấy làm chung cơ quan với anh. Chị cũng tin tưởng cô bạn này lắm. Mà sao cả hai người hùa với nhau cùng nhau phản bội lại lòng yêu thương, tin tưởng của chị?

Chị giữ im lặng, chịu đựng và tiếp tục theo dõi. Một hôm chị quyết định phải làm một điều gì đó,… rồi chị gọi điện nhờ bà ngoại qua giữ cháu.

Chị nói:

-Mẹ qua nhà giữ cháu giùm con đi công chuyện một chút!

Chị qua nhà người quen trong xóm mượn chiếc xe máy cùi bắp, mượn áo quần người ta mặc cho lạ, hóa trang, mặt mày bít kín, kính râm to bản,… để anh khỏi nhận ra. Rồi chị đến gần cổng cơ quan anh kiếm một góc kín đáo quan sát. Đợi đến giờ tan sở, thấy anh bước từ cơ quan ra, tiếp đến thấy cô bạn thân của chị cũng bước ra, anh quàng vai ôm cô bạn vào lòng. Chị thấy trời đất như sụp đổ ngay trước mắt mình!

Đau lắm! Ai xé lòng mình tan nát thế này! Thôi thế là hết! Chị gục mặt xuống ghi đông một thoáng rồi định thần. Lý trí mách bảo mình phải làm gì! Chị tiếp tục nhìn về phía họ.

Anh mở khóa xe ô tô cho cô bạn bước lên xe rồi cùng nhau lên xe hướng ngoại ô thẳng tiến! Chị bám theo, anh lái ô tô, còn chị đi xe máy cà tàng, anh chạy nhanh, chị cũng phải chạy nhanh cho kịp, chị bảo lúc đó mình phóng xe bạt mạng, đúng là tay lái lụa. Gần 30 năm bây giờ ngồi nghĩ lại chị vẫn khiếp. Không hiểu sao lấy đâu ra nội lực mà đuổi theo anh được như vậy, nhỡ có bề gì để hai đứa con lại ai lo?

Ra ngoại ô thành phố, anh rẽ vào một khách sạn nhỏ, yên tĩnh, xa trung tâm. Chị đứng nhìn theo thấy họ ôm nhau bước vào phòng. Chị lập tức gọi điện cho thằng em họ đang ở Long An, nhắn địa chỉ và nói như ra lệnh:

-Mày lên thành phố gấp gấp cho chị. Địa chỉ đây!

Cậu em cũng lái xe chạy như bay đến chỗ chị đang đứng đợi!

Chị bảo:

-Hai chị em mình đóng vai tình nhân vào khách sạn thuê phòng.

Tới phòng hai người mình gõ cửa bảo là “đưa nước.” Khi cửa mở là ập vào ngay, em lập tức ôm anh ta cho chị. Việc còn lại để chị xử lý!

Khách sạn ngoại ô cũng vắng vẻ nên cũng dễ tìm phòng, chỉ có hai phòng được thuê là phòng anh và cô bạn và phòng chị và thằng em thuê.

Tới phòng anh gõ cửa, chị ập vào thấy rõ hai người, mặt mày tái mét. Cậu em xông đến ôm cứng ngắc ông anh rể. Còn chị lao vào đánh anh cho hả giận. Vừa đánh vừa mắng. Rồi chị quay sang bớp cô bạn thân hai bạt tai:

-Mày hết người rồi à! Sao ưa ai không ưa lại đi giật chồng tao!

Rồi chị lại quay lại tiếp tục đánh anh. Chị rít lên:

-Anh ngoại tình lại nhằm ngay vào cô bạn thân của tôi là sao? Thế giới này hết người rồi à! Hai vợ chồng cùng nhau đi từ Á sang Âu rồi cùng nhau làm ăn sinh con, hồi hương,… biết bao gắn bó! Tôi yêu anh hết lòng tấm chân tình của tôi vậy mà anh nỡ lòng nào phản bội tôi thế à! Anh có còn xứng đáng là cha của con tôi không?

Chị kể: “Chị đánh đòn anh là nhiều, chứ cô kia chỉ cảnh cáo hai bạt tai là đủ!”

Chị nói: “Nguyên nhân là do thằng chồng mình thôi! Chẳng lẽ cô kia ve vãn chồng mình, nếu mà gặp người đàn ông đàng hoàng đứng đắn, không lẽ cô kia đè chồng mình ra mà hiếp à! Nên thôi hai người đàn bà không nên đánh nhau vì một thằng đàn ông chẳng ra gì!”

Sau lần ấy về thì chị đưa đơn ly hôn! Anh thì rối rít xin lỗi, hứa sửa chữa này nọ, cắt đứt cô kia,… gia đình hai bên nội ngoại cũng nói vun vô: “Tha thứ cho nó một lần đi con!”

Nhưng lòng chị đã quyết. Ngoại tình một lần, không chắc sẽ ngoại tình lần thứ hai,.. và lần thứ n. Nên thôi chị dừng lại ở đây để bước ra khỏi nỗi đau giằng xé này.

Mặc dù chị vẫn rất yêu anh, nhưng lòng tin đã hết. Chị bảo rằng “chị muốn tắt giông bão, lòng chị xứng đáng được bình yên. Để lo làm ăn, toàn tâm toàn ý lo cho con. Còn có chồng mà không thể tin tưởng nữa thì suốt ngày vừa lo làm ăn nuôi con, vừa lo canh chừng chồng thì khổ quá!”

Rồi anh chị ra tòa. Hồi trước khi kết hôn, chị đưa ra một điều kiện: Sau này một trong hai người, ai phản bội thì phải ra đi tay trắng. Để lại toàn bộ nhà cửa , xe cộ, của cải lại cho người còn lại nuôi con. Bất kể là vợ hay chồng. Anh cũng đã ký thỏa thuận. Anh nghĩ bụng là cứ ký chứ đang yêu nhau, ai mà nghĩ đến có ngày phản bội.

Giấy trắng mực đen. Ra tòa phân xử, anh ra đi tay trắng, còn hai đứa con và của cải để lại cho ba mẹ con. Nhưng rồi chị cũng cho anh ít tiền đủ cất một căn nhà nhỏ, anh sống một mình.

Ba mươi năm đã trôi qua, các con chị đã học hành trưởng thành và có công ăn việc làm ổn định. Chị vẫn sống đơn thân, không bước đi bước nữa, bạn bè nói chị hi sinh nhiều quá nhưng chị bảo chị vậy cũng hạnh phúc bên các con rồi. Có bạn bè, tri kỷ thỉnh thoảng cà phê nói chuyện cho vui thôi chứ chị không có ràng buộc với ai cả!

Còn về phía anh thì sau lần ấy anh không tới với cô bạn kia. Hai người cũng ai đi đường nấy và anh vẫn sống một mình. Các con cũng thương anh. Chị giáo dục con vẫn yêu quý kính trọng ba, dù việc của người lớn là ba mẹ đã hết duyên nợ với nhau rồi nhưng ba vẫn là ba của các con.

Chị vẫn cho anh thỉnh thoảng ghé thăm con, có tiệc tùng gì cũng đi nhà hàng ăn uống cùng các con cho con vui. Đôi khi cả nhà bốn người cũng đi du lịch, vào khách sạn thuê một phòng 4 giường, hai ông bà hai giường, hai đứa con nằm hai giường ở giữa. Anh chị nói chuyện với nhau như bạn bè vậy thôi. Nội ngoại và các con vẫn muốn hai anh chị về lại với nhau nhưng chị không thể! Chị bảo: “Lòng chị đã khép!”

(Tựa cho SGN đặt – Vanchuongviet)


 

Charlie Chaplin những ngày cuối đời

Năm 1977, trên con đường ven hồ Léman ở Corsier-sur-Vevey, Thụy Sĩ, một trong những khoảnh khắc cuối đời của Charlie Chaplin được ghi lại: ông ngồi trên xe lăn, dáng người mảnh khảnh, đôi mắt đã mệt mỏi sau gần chín thập kỷ biến động, bên cạnh là Oona O’Neill – người vợ trẻ hơn ông 36 tuổi, con gái của đại văn hào Eugene O’Neill. Oona lặng lẽ đẩy xe, gương mặt bình thản nhưng ánh lên sự tận tụy. Bên dưới tấm chăn phủ trên chân Chaplin có một chú chó nhỏ nép mình, khiến cảnh tượng vốn đã đầy tính nhân văn lại càng ấm áp hơn.

Cuộc đời Chaplin từ vinh quang rực rỡ ở Hollywood, trở thành “ông hoàng của tiếng cười” với những tác phẩm bất hủ như The Kid, City Lights hay Modern Times, đến những năm tháng bi kịch bị chính trị hóa và buộc phải rời Mỹ, đã nhuộm màu bi kịch lẫn hào quang. Ông tìm thấy sự bình yên cuối đời nơi miền quê Thụy Sĩ, và quan trọng hơn, tìm thấy bến đỗ trong cuộc hôn nhân với Oona. Khi kết hôn năm 1943, Chaplin đã 54 tuổi còn Oona chỉ vừa tròn 18. Hôn lễ khi ấy gây sóng gió dư luận, nhưng Oona bất chấp tất cả, dành cả đời để chăm sóc, sinh cho Chaplin tám người con và trở thành điểm tựa lớn nhất của ông.

Giai thoại kể rằng Chaplin từng nói, Oona đã cứu ông khỏi sự cô đơn, khỏi nỗi ám ảnh bị ruồng bỏ, đem lại cho ông hạnh phúc giản dị mà trước đó chưa bao giờ chạm tới. Họ cùng nhau đi qua ba thập kỷ, từ những năm tháng tuổi già yếu ớt cho đến phút cuối cùng. Giáng sinh năm 1977, Chaplin qua đời trong giấc ngủ ở tuổi 88, để lại khoảng trống mênh mông trong nền điện ảnh thế giới. Oona sống thêm mười bốn năm, luôn giữ cho ký ức về Chaplin sống mãi trong trái tim gia đình và công chúng.

Bức ảnh trở thành biểu tượng dịu dàng về tình yêu và sự đồng hành: thiên tài từng mang tiếng cười cho cả nhân loại cuối cùng cũng cần bàn tay chở che của một người phụ nữ, cần một gia đình để tựa nương. Đó là hình ảnh nhắc nhớ rằng đằng sau ánh đèn sân khấu và huyền thoại điện ảnh vẫn là một con người bình thường, khao khát được yêu thương đến phút cuối.

From: taberd-NguyenNThu


 

Chị tôi, người đào mộ – Truyen ngan HAY

Chị tôi, người đào mộ

-::-

Đêm Văn Điển hun hút gió. Nghĩa trang mênh mông những gò mả mới, ánh trăng loang loáng trên bia đá lạnh. Phượng ngồi thu mình bên gốc bạch đàn, hai bàn tay gầy run rẩy ôm chiếc cuốc cũ. Bụng đói cồn cào, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt hai đứa em gầy guộc đang ngủ trong căn nhà dột.

“Chỉ một lần thôi,” Phượng thì thầm, rồi quỳ xuống trước ngôi mộ vừa mới đắp. Cô thắp ba nén hương, giọng run rẩy:

– Con xin lỗi… Con chỉ muốn các em con được đi học…

Chiếc cuốc cắm xuống đất. Ngôi mộ vừa chôn. Đất còn chưa khô. Những vòng hoa vẫn tươi. Âm thanh khô khốc vang vọng giữa đêm, như cứa vào da thịt chính cô. Mồ hôi rịn ra lạnh buốt, mùi đất tanh nồng trộn lẫn mùi tử khí. Khi lớp ván mộ bật ra, cô thấy những vật dụng nhỏ lấp ló. Tay run bần bật, nước mắt chảy xuống hốc mộ. Cô cầm lên từng món, khấn lạy, rồi bỏ vào túi. Đêm ấy, lần đầu tiên, Phượng trở thành “kẻ đào mộ”.

Nhưng rồi một lần biến thành trăm lần. Năm năm ròng rã, cái cuốc cũ in hằn bao dấu vết trong nghĩa trang Văn Điển. Lần nào cũng có ba nén hương, có lời xin lỗi run run. Lần nào cô cũng tự nhủ: “Đây là lần cuối.” Nhưng sáng hôm sau, khi thấy hai đứa em ngủ gục trên sách, bụng lép kẹp, Phượng lại ra đi.

Có một đêm, khi bật ván mộ, trong khi loay hoay lột quần áo của thi thể một người đàn bà to béo nặng nề, bất ngờ bà đổ sập xuống, đè lên thân hình mảnh khảnh của cô. Cái lạnh bủa vây, mùi tử khí xộc thẳng vào ngực. Cô ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới cái xác đã bốc mùi, cô òa khóc như đứa trẻ, vừa run vừa khấn: “Con sẽ dừng lại… con thề sẽ dừng lại.”

Nhưng rồi, cô lại xách cuốc ra nghĩa trang.

Một sáng Hà Nội se lạnh, cái tên Phượng vang lên trên loa phóng thanh trước Tòa án Nhân dân. Người ta tụ lại, không phải chỉ vì tò mò, mà còn vì căm phẫn. Thân nhân của những gia đình bị một cô gái trẻ cậy mộ quây kín toà án. Phiên toà mở công khai cho toàn dân chứng kiến.

Trong phòng xử, cô bước vào, dáng nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian luật pháp. Người ta nhìn cô như nhìn một bóng ma. Bản cáo trạng đọc dõng dạc: “Đào trộm mộ tại nghĩa trang Văn Điển, tái phạm nhiều lần.”

Chủ tọa cất giọng cứng rắn:

– Bị cáo có hiểu tội danh không?

Phượng cúi đầu:

– Dạ… con hiểu.

– Vì sao bị cáo lại làm như vậy?

Giọng ông rơi xuống, nặng nề như hòn đá. Cả phòng xử nín thở.

Phượng im lặng rất lâu. Rồi cô ngẩng lên, đôi mắt trũng sâu, giọng khàn đặc:

– Vì… hai đứa em của con.

Một làn sóng rúng động tràn khắp khán phòng. Người ta thì thầm, rồi lặng đi. Chủ tọa gật đầu ra hiệu, giọng bớt gay gắt:

– Nói rõ hơn.

Phượng bắt đầu kể. Bố mẹ mất sớm, cô gánh lấy mái nhà khi mới chưa đầy 16. Hai đứa em đang tuổi ăn học, còn cô làm thuê, bán hàng rong, cấy thuê, đổi công, làm hàng xáo, mò cua bắt ốc thôi thì không từ việc gì. Đầu tiên, cô chỉ mò vào nghĩa trang lấy trộm bát cơm quả trứng mấy chị em ăn cho qua bữa, sau là tấm áo manh quần, rồi đào những ngôi mộ mà cô biết người ta chôn theo những đồ quý giá… Mỗi lần đều thắp nhang, đều khấn xin. Mỗi lần đều hứa “chỉ một lần thôi.”

Đến đoạn thi thể đổ sập xuống, Phượng bật khóc, giọng nghẹn đặc. Nước mắt chảy dài xuống hai gò má hốc hác.

Bỗng từ hàng ghế khán giả, hai đứa trẻ òa khóc, lao lên phía trước. Đó là hai đứa em của Phượng. Chúng quỳ sụp, ôm lấy chị, nghẹn ngào:

– Chị ơi! Chúng em không biết… Chúng em không biết…

Khán phòng chấn động. Người tham dự phiên toà cúi mặt, nhiều người đưa tay lau vội nước mắt.

Thẩm phán im lặng rất lâu. Ông nhìn xuống hồ sơ, rồi nhìn cô gái gầy gò quỳ trong vòng tay hai đứa em. 

Toà xử án treo.

Mấy hôm trước nhà mình vừa xem xong bộ phim 150 tập của Hàn quốc. Bộ phim nói về cuộc đời của ba người chị thay cha mẹ đã chết nuôi em trai ăn học thành tài. Họ không ai đi ăn trộm, càng không trộm mộ- vì của nả cha mẹ để lại đủ ăn cả đời. Nhưng ông xã mình kể cho mình nghe vụ án chị gái đào mộ nuôi hai em, được xử khoan hồng do yếu tố nhân đạo. Nửa thế kỷ trước- chồng mình khi đó còn nhỏ, đã đi xem xử án.

Không biết ai ở Hà nội những năm đó còn nhớ vụ này không? Mình chỉ biết nghe rồi kể lại thôi…

Hồi đó… con người ta cũng thật biết thương lấy nhau. Giờ vì nghèo mà làm bậy- không biết toà xử sao? Lương tâm phán thế nào?

Hả các cụ?

Cụ Ka

Kiều Thị An Giang


 

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .

Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.

Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!

Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!

Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .

Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.

Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!

Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm ahy, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!

Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.

Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.

Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”

Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!

Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?

Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .

Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!

Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.

Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.

Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .

Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.

. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.

. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.

. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.

. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .

. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.

. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!

Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .

. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.

Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .

Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?

Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…

Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “

Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường . . .

Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!

Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .

* * *

Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”

Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .

Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa:

“ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...

tieutu_sign

 VỢ CHỒNG – Truyen ngan HAY

Thầy Lê Văn Thông

Nàng là một người phụ nữ xinh đẹp, nước da trắng mịn, gương mặt thanh tú khiến ai cũng phải ngoái nhìn. Thế nhưng, số phận lại chẳng bao giờ ưu ái. Người chồng đầu tiên của nàng mất sớm, để lại cho nàng một đứa con gái chẳng may thiểu trí. Nỗi nghèo khổ và cảnh góa bụa khiến nàng kiệt sức, cuộc đời tưởng chừng chỉ còn bóng tối.

Trong lúc bế tắc, nàng quyết định tái giá. Người đàn ông ấy hơn nàng mười lăm tuổi, một thợ mỏ nghèo, lại có tật ở chân, miệng méo, mắt lệch. Ông không có gì ngoài đôi bàn tay chai sần và một trái tim chân thành. Với người khác, ông chỉ là gánh nặng, nhưng với nàng, điều nàng nhìn thấy chỉ là khoản tiền bồi thường nếu chẳng may ông mất đi trong hầm mỏ.

Những ngày đầu, nàng vẫn giữ suy nghĩ ác độc: chỉ cần ông chết, vài trăm triệu sẽ rơi vào tay, rồi mẹ con nàng sẽ rời bỏ tất cả. Nàng trang điểm lộng lẫy, phóng túng cùng người khác, mặc cho lời ra tiếng vào. Người ta thương hại ông, thậm chí chua chát bảo:

– Nhìn vợ ông kìa, lấy tiền của ông mà đi với kẻ khác!

Ông chỉ cười, dù lòng nhói đau:

– Cô ấy ở nhà cô đơn quá, ăn diện một chút thì có sao đâu.

Ông không trách, chỉ âm thầm chịu đựng. Một hôm, nàng thèm ăn quýt, ông chẳng nói chẳng rằng, lặn lội ra tận thị trấn xa xôi để mua. Đúng lúc ấy, hầm mỏ sập. Tin báo tử lan đến, nàng thầm reo: “Lần này thì tốt rồi, tiền đã đến tay rồi!”

Nàng hớt hải chạy đến, ngóng từng thi thể đưa ra, lòng tràn ngập hy vọng. Nhưng ông không có trong số đó. Khi nàng quay người, bàng hoàng thấy ông xuất hiện, tay ôm một giỏ quýt, nụ cười hồn nhiên như trẻ nhỏ:

– Cho em này! Anh vừa ra thị trấn mua về, nên thay ca cho người khác.

Nàng òa khóc. Không phải vì ông còn sống, mà vì giấc mộng tham lam tan vỡ. Ông lại tưởng nàng lo cho ông nên dịu dàng dỗ:

– Anh không sao đâu, em đừng sợ.

Khi quýt ngọt chạm đầu lưỡi, nàng mới thấy lòng mình thật đắng chát.

Rồi những ngày sau, ông vẫn âm thầm yêu thương. Thỉnh thoảng, ông lặng lẽ lên núi trồng cây. Khi có người hỏi, ông chỉ cười hiền:

– Tôi trồng cho hai mẹ con họ. Sau này tôi có chết, cây lớn lên cũng đủ nuôi sống họ.

Một lần nàng bệnh nặng, ông thức suốt đêm trông nom. Giữa khuya tỉnh dậy, thấy ông đang ôm chặt đôi chân mình, nàng ngạc nhiên hỏi:

– Anh ôm chân em làm gì vậy?

Ông đáp, giọng thật nhẹ:

– Chỉ cần em cử động, anh sẽ biết ngay để dìu em đi vệ sinh.

Lần đầu tiên, trái tim nàng run rẩy. Nàng hiểu, người đàn ông thô kệch này yêu thương mình bằng cả sinh mệnh. Từ đó, nàng thay đổi. Không còn tô son trát phấn, không còn rong chơi. Nàng mở một tiệm tạp hóa nhỏ, ngày ngày đứng chờ ông về. Với nàng, sự bình yên giản dị ấy đã là hạnh phúc.

Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi. Một ngày, ông thấy ngực đau nhói, mồ hôi túa ra như tắm. Ông lén uống thuốc giảm đau, mỗi lần cả vốc, nhưng cơn đau vẫn bám riết. Đến bệnh viện, ông nghe án tử: ung thư gan giai đoạn cuối, chỉ còn ba tháng sống. Ông lặng người, rồi âm thầm ra chợ, mua thật nhiều áo quần cho vợ, áo hoa cho con, cả son phấn, nước hoa… nhưng chẳng mua gì cho mình.

Sáng hôm sau, ông vẫn đến mỏ, nhận phần việc nguy hiểm nhất. Nàng khẩn thiết:

– Đừng đi nữa, em sợ lắm.

Ông cười xòa, rồi lại bước vào bóng tối của lòng đất.

Đến ngày thứ ba, hầm ngập nước. Ông có thể chạy thoát, nhưng ông dừng lại. Trong giây phút cuối, ông nghĩ: “Có tiền rồi, mẹ con cô ấy sẽ không khổ nữa…”

Ông để mặc dòng nước nhấn chìm, miệng khẽ gọi tên nàng.

Khi tin dữ truyền đến, nàng lao đến mỏ, đôi tay rớm máu đào bới, gào khóc gọi ông. Trên ngực ông, người ta tìm thấy một tờ chẩn đoán bệnh viện đã ố vàng nước mắt. Lúc ấy, nàng mới sụp đổ, mới hiểu ra: người đàn ông ấy đã dùng chính cái chết của mình để yêu nàng lần cuối cùng.

Một câu chuyện khép lại bằng nỗi đau, nhưng mở ra một chân lý giản dị: Tình yêu đích thực không phải là nhận về, mà là cho đi – cho đến hơi thở cuối cùng.

(LVT sưu tầm và biên tập lại)


 

Nếu một ngày ta chán nhau – Nhữ Thị Thảo – Truyen ngan HAY

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

Có một thời gian vợ chồng mình không thể cười với nhau sau những cuộc cãi vã được nữa. Điều mà trước đây chỉ to tiếng vài phút sau là đã cười nhăn nhở. Đến khoảng ấy lại là sự im lặng, im lặng đến ngột thở. Chẳng ai có thể nói được với nhau lời tử tế. Tránh mặt nhau, ngay cả giấc ngủ cũng không muốn chạm. Chỉ cần nói với nhau một câu cũng đủ gây ra một cuộc khẩu chiến.

Mình nói rất nhiều lần rằng, với mình im lặng là chết. Và lúc ấy thì vợ chồng mình đang chết thật. Cứ thế kéo dài đến cả tháng trời, trong khi bình thường ngay cả khủng hoảng tồi tệ nhất cũng chỉ ngày thứ 3 là vợ chồng lại ôm nhau ngủ. Vậy mà suốt 1 tháng chẳng ai có thể nhìn nhau một cách bình thường. Cảm giác như chỉ muốn biến mất khỏi cuộc đời nhau một cách sạch sẽ nhất.

Và rồi một buổi tối, chồng mình ngồi gõ lạch cạch cả giờ đồng hồ, rồi in ra bản ĐƠN XIN LY HÔN đưa mình .Chồng mình nói:

– Giải thoát cho nhau đi em. Anh sắp không chịu nổi rồi.

Chẳng thế hiểu được lý do vì sao, ngay cả bản thân mình cũng nghĩ đến điều ấy nhưng là đàn bà vẫn còn muốn giữ gia đình tròn vẹn cho con nên cứ sống như vậy đi.

Mình không ngạc nhiên, bình thản cầm bút ký: Tôi đồng ý!

Chồng mình im lặng cầm lá đơn cho vào cặp. Trong lá đơn nói rõ sẽ chia đôi con cho nhau. Mỗi người nuôi một đứa.

Cả đêm hôm ấy, vợ chồng mình không ngủ. Mắt mình ráo hoảnh, chẳng thể nghĩ được gì cho ngày mai. Còn chồng mình – anh ấy bật khóc nấc lên từng tiếng.

Lần đầu tiên mình nhìn thấy những giọt nước mắt chua chát của anh ấy. Dường như cố gắng kìm lại nhưng không được, rồi anh bật dậy lao vào nhà tắm, không nhớ là ở trong ấy bao lâu, chỉ biết lúc trở ra mắt đã đỏ ngầu.

Mình hỏi:

– Sao anh khóc, đây chẳng phải là ý của anh sao. Sao còn đau khổ chứ. Em đồng ý giải thoát theo ý anh, anh còn muốn gì.

Chồng mình nhìn lên ánh mắt vật vã:

– Anh thương con, rồi hai đứa sẽ mỗi đứa một phương, không được ở cạnh nhau nữa. Anh sẽ rất nhớ con.

Rồi anh ấy ôm ghì lấy Bột, cố nén tiếng nấc.

Mình đứng bật dậy, cố không để mình khóc theo.

Khi cuộc sống đã đến mức chẳng thể dung hoà được nữa, ra đi là điều cần thiết. Chẳng phải vì ai, chẳng vì ai phản bội ai, chỉ vì chúng ta đã không thể vượt qua những áp lực cuộc sống. Mình cũng đã từng nói với anh ấy: Con người mình buông bỏ hay nắm giữ đều rất quyết liệt. Anh ấy hiểu điều ấy.

Và chồng mình khoá FB, ai tinh ý có thể thấy một thời gian mình viết gì cũng không tag anh ấy vào nữa. Bọn mình ly thân, mỗi đứa một phòng. Mình nhắn cho chồng mình:

– Anh đừng bỏ Facebook, em muốn nhìn thấy con, anh siêng up ảnh con nhé, hàng tuần sẽ cho hai anh em gặp nhau 1 lần. Xin lỗi vì chúng ta đã không thể giữ được tình yêu này.

Lúc này mình khóc .

Ngày hôm sau ấy, chồng mình đi làm nhắn tin về rằng:

– Anh đi làm và đã nộp đơn lên toà án. Họ hẹn 15 ngày nữa gặp nhau trên toà để giải quyết. Thời gian ấy chúng ta tạm thời ly thân, sau đấy anh sẽ thuê nhà giúp cho em và con.

Mình nhắn lại lạnh lùng:

– Không cần đâu, em sẽ đi luôn, em tự lo được.

Hôm ấy trở trời con lại ốm, mình thu xếp đồ rồi nói với mẹ chồng là đưa cháu đi Hà Nội khám bệnh. Chuyện sau này êm xuôi sẽ nói sau.

Chồng mình chuyển vào tài khoản riêng của mình, rồi nhắn :

– Anh sẽ gửi thêm sau

– Ok anh, em và con đi bây giờ.

Chồng mình im lặng.

Mọi thứ đã hoàn tất cho một cuộc chia ly. Chẳng cần lý do gì cả, chỉ là không thể ở bên nhau được nữa. Mình gọi taxi, ôm con vào lòng, vô thức, cứ đi đã rồi tính. Nửa đường thì con lên cơn sốt, rồi nôn trớ trong xe, mặt tái đi. Ngoài trời giữa những ngày rét đậm. Mình hối lái xe chạy nhanh về bệnh viện nhi trung ương.

Trời bắt đầu tối thì có mưa, bế con chạy vào viện, mưa và gió táp vào mặt lạnh buốt, cố ôm lấy con mà lòng cay đắng. Tại sao mọi thứ lại trở nên như thế, tình cảm 6 năm qua, những khó khăn đã từng, những yêu thương ngọt ngào đã qua giờ chỉ cần ngoảnh mặt đi là hết sao?

Một mình tay ôm con sốt, tay làm thủ tục. Con khóc, bác sĩ hỏi người nhà đâu, đưa người nhà bế con. Lúc ấy trong đầu nhớ về những ngày hai vợ chồng đưa con đi khám. Đứa bế con đứa chạy lăng xăng lo việc. Con khóc đứa bế đứa dỗ, động viên nhau. Quay sang bên cạnh, mọi người đều đủ bố mẹ bên cạnh con. Mình ứa nước mắt.

Hình như chúng ta đã sai ở đâu đấy. Hình như chúng ta đang làm khổ nhau và con vì cái ích kỷ của bản thân.

Tay xách nách mang, vừa ôm cho con ti vừa chạy, nước mắt lã chã. Cái hình ảnh lúc ấy chắc chẳng thể nào quên. Con bị viêm phế quản, bác sĩ cho thuốc rồi về. Mò vào túi lấy điện thoại, hơn 20 cuộc gọi nhỡ và 5 tin nhắn của chồng mình. Đồng hồ đã gần 10h đêm.

Anh ấy nhắn:

– Em nghe máy đi

– Em và con đang ở đâu

– Anh sai rồi, em cũng sai rồi

– Em về đi

– Em ở đâu, anh đi đón.

Mình không kìm được nữa, khóc nức nở ở hành lang bệnh viện. Gọi lại cho chồng mình:

– Em đang trong viện nhi, con ốm. Khám xong rồi. Giờ em mới cầm điện thoại.

– Em bắt xe cho con về nhà luôn nhé, về thấy tủ quần áo của em trống không, chẳng thấy em ngồi ở giường như mọi ngày, anh thấy sợ quá. Anh gọi em mãi mà em không nghe. Anh lại càng lo, cứ nghĩ dại …..

– Về đi, mai anh đi rút lại đơn .

Mình hiểu tâm trạng của chồng mình, có lẽ cũng như mình lúc này.

Mình tắt máy, lòng bớt nặng, sau tất cả, mình cần về. Tình yêu vẫn ở đấy, chỉ là chúng ta mải lo quá nhiều thứ mà trót hết kiên nhẫn cho một mối quan hệ. Cơm áo gạo tiền quên đi mất chúng ta còn tình yêu cần gìn giữ.

Về đến nhà hơn 12h khuya. Cả nhà đã ngủ, còn chồng mình ngồi đấy, đón lấy con rồi bảo:

– Em qua quán ăn bát cháo đi cho ấm (quán cháo ngay sát nhà).

Mình làm theo vì bụng lúc này đã rống tuếch.

Xong xuôi vào phòng, đặt con xuống giường, hai vợ chồng nhìn nhau hồi lâu, mình bật khóc, chồng mình ôm lấy mình rồi nói:

– Thôi, không sao đâu. Vợ ngủ đi không mệt rồi. Ổn rồi, ổn rồi …

Sau 1 tháng im lặng là cái ôm ổn rồi của chồng!

Thế đấy, có những quãng thời gian chẳng cần người thứ 3 thì cuộc sống vợ chồng cũng trở nên bế tắc đến mức muốn tống khứ ra khỏi cuộc đời nhau bằng lá đơn Ly Hôn như vậy.

Cuộc hôn nhân nào dù có tốt đẹp đến mấy cũng phải có đến trăm lần người trong cuộc muốn ly hôn, cũng phải đến vài chục lần muốn “giết chết” đối phương. Vì chúng ta ai cũng có khuyết điểm.

Sống chung một nhà là đã lột trần nhau toàn diện từ thể xác đến tính cách, nhiều khi có cảm giác hối hận vô cùng vì lấy nhau. Mình chắc các bạn cũng có cảm giác vậy ở một giai đoạn nào đấy. Thắng được cái khoảng thời gian BỘC LỘ này thì chúng ta sẽ THẤU HIỂU và sẽ là HẠNH PHÚC. Nếu không sẽ vĩnh viễn mất nhau ở tuổi trẻ, đánh mất tất cả những năm tháng đã yêu thương và cần có nhau đến mức nào!

Cái gì trong cuộc đời cũng có giá của nó hết. Giá của cái nắm tay lúc về già là bao nhiêu giông bão của tuổi trẻ. Hi vọng mỗi chúng ta đều nghĩ được khi muốn chấm dứt hãy nghĩ về những lý do khiến chúng ta bắt đầu! Nghĩ về những phút giây hạnh phúc bên nhau! Giờ thì ôm người đàn ông bên cạnh ngủ đi thôi.

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

From: Tu Phung

“TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH” ĐÃ CHIẾN THẮNG HẬN THÙ!- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 Lời biên tập:

Trần Hoài Lam – Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH,

đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20.

Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình: Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa.

Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH.

Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời  là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng.

Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra:

Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến!

*

Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu.

Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương.

Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ.

Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. 

Kính theo kế bên hông.

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống.

Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc giả vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng.

Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu.

Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương.

Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! –

Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì.

Thằng Kính cũng có lý.

Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong.

Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– Đ. Mẹ … Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ.

Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái.

Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc.

Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy.

Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói.

Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi?

Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông.

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương.

Ông đừng giao tôi cho ai hết.

Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời.

Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.

Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao.

Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán.

Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em.

Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng.

Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên.

Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:

Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến.

Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh.

Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”.

Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra.

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù.

Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo…

Nhưng em không thể nào quên anh.

Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập.

Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không:

Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh.

Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp.

Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái.

Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc.

Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”.

Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa.

Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ.

Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.

Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại.

Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số.

Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm.

Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao.

Có lẽ bị chết không chừng. Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái.

Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy.

Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó.

Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương.

Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi,

Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!

Trần Hoài Lam


 

Người mẹ “điên”- Truyện ngắn HAY

Cao Xuân Thanh Ngọc

Truyện ngắn: Người mẹ “điên” (Đọc đi đọc lại vẫn khóc)

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, không ngần ngại ngồi tè ra trước mặt mọi người.

Vì vậy , đàn bà trong làng khi đi qua chỗ cô gái thường nhổ nước bọt, có người chạy đến trước mặt dậm chân “ cút đi “, thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó cha tôi đã 35 tuổi, Cha làm việc ở bãi khai thác đá, bị máy chém cụt tay trái, nhà nghèo , mãi không cưới được vợ.

Bà nội thấy cô gái điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “ đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không mất đồng xu nào, nghiễm nhiên trở thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẳm cháu, miệng bà hóp không còn cái răng nào vui sướng nói” cái con mẹ điên này mà cũng biết sinh cho bà cái thằng chống gậy rồi”, có điều tôi được sinh ra chỉ có bà nội ẵm , không bao giờ mẹ được đến, Mẹ chỉ muốn được ôm tôi, bao nhiêu lần mẹ đứng trước mặt bà nội dùng hết sức và gào lên “Đưa , đưa tôi “ bà nội cũng mặc kệ. Tôi non nớt đỏ hỏn, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? dù sao mẹ cũng chỉ là con điên.

Mỗi lần mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội trợn mắt lên chửi: “mày đừng có hồng mà bế nó, tao phát hiện mày mà bế nó, tao đánh cái là chết, không chết, tao cũng đuổi mày đi”. Bà nội cương quyết chắc nịch, mẹ hiểu ra ,mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, chỉ dám đứng ở xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được ngụm sữa nào, bà nội đút từng thìa cháo nuôi tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có “ bệnh thần kinh”, nhỡ lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang trong cảnh nghèo đói, nhất là sau khi có thêm mẹ và tôi, nên bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại, mà còn thỉnh thoảng gây nên tiếng thị phi.

Một bữa nọ, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay bà xúc đầy bát cơm đưa cho mẹ bảo:” con dâu , nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô, cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà giàu có hơn mà ở, sau này cấm không quay lại đây nữa nghe chưa?

Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội hạ lệnh” tiễn khách “ liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đang ăn rơi lã tã ngoài miệng, nhìn sang tôi đang nằm trong lòng bà, kêu lên ai oán : ‘ Đừng , đừng …”

Bà nội đanh mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét :”Con dâu điên, mày ngang bướng cái gì, bướng thì chẳng tốt lành gì cho mày đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao bọc chở che mày hai năm rồi, còn đòi cái gì nữa, ăn hết bát đấy rồi đi, nghe chưa hả? ”

Nói đoạn , bà nội ra sau cửa lấy ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất – nghe phập một tiếng. Mẹ sợ gan như chết giấc, khiếp sợ rồi lại chậm rãi nhìn xuống bát cơm trước mặt, nước mắt đã tưới đầy bát cơm.

Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà nội một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẩn thờ, hóa ra mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ chỉ cần ăn ít hơn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ bề ngoài mà thôi.

Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn trên má, rồi quay lại sắt mặt nói:” ăn mau mau rồi còn đi, ở nhà này rồi cô cũng chết đói thôi”. Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm nhỏ nuốt cũng không nổi, mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu rồi thất thiểu bước ra khỏi cửa.

Bà nội dằn lòng đuổi : ‘’ cô đi đi, đừng có quay đầu lại, dưới bầu trời này còn nhiều nhà giàu lắm”. Mẹ tôi quay lại, mẹ đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tả lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẳm tôi vào lòng, môi mẹ nhắp nhắp cười, nụ cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội chằm chặp nhìn mẹ như quân thù, hai tay đã chuẩn bị đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơm điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ tôi chỉ được ba phút, bà nội không đợi thêm được giành tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu một chút, tôi mới phát hiện ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ.Tôi tìm cha đòi mẹ, tìm bà nội đòi mẹ, họ đều nói mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn nhỏ trong làng bảo:” mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi”.

Tôi đòi bà phải trả lại mẹ cho tôi, tôi còn nguyền rũa bà là “bà lang sói”, thậm chí còn hất tung mọi thứ bà đút cho tôi ăn. Ngày đó, tôi làm gì biết” điên “ nghĩa la cái gì đâu, tôi chỉ bíêt cảm thấy nhớ mẹ vô cùng, mẹ như thế nào nhỉ , mẹ còn sống hay không ?

Không ngờ năm tôi 6 tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó mấy đứa bạn chạy như bay tới báo: “Thụ, mau đi xem, mẹ điên mày về kìa: Tôi mừng quá co giò chạy vội ra ngòai, bà nội và cha tôi cũng chạy theo .

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đo áo quần vẫn rách nát, tóc tai còn dính những vụn cỏ khô vàng khè, làm sao ai biết mẹ tôi ở đâu ra.

Mẹ không dám vào nhà, mẹ ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, tay cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi cùng lũ bạn đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám bọn tôi để tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi nhìn chòng chọc, nhếch mép bảo “ Thụ…. bóng .. . bóng ’.

Mẹ đứng lên, liên tục dơ lên quả bóng bay trong tay, cố dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ mà hằng đêm tôi nhớ thương mong đợi là cái hình người này đây!

Một thằng nhỏ đứng cạnh tôi kêu to ‘ Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa ? là mẹ mày đấy

Tôi tức tối đáp lại “ Nó là mẹ mày, mẹ mày mới là con điên ’,Tôi quay đầu chạy trốn, người mẹ điên này tôi không thèm. Bà nội và cha tôi lại đưa mẹ về nhà.

Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị ray rứt dày vò, bà ngày càng già, trái tim bà không còn sắt thép nữa, nên bà chủ động đưa mẹ tôi về, còn tôi thì bực bội, bởi mẹ làm mất thể diện tôi.

Tôi không bao giờ tươi cười với mẹ, không chủ động nói chuyện với mẹ, chưa bao giờ gọi ‘Mẹ’

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội nghĩ cách huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi làm đồng bà dạy mẹ quan sát, một thời gian bà nội nghĩ rằng mẹ có thể tự đi cắt được cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong hai bồ cỏ lợn. Bà nội vừa nhìn thì tá hỏa sợ hải, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trổ bông trên ruộng của người ta, bà nội vừa lo vừa giận “ Con mẹ điên , luá và cỏ mà không phân biệt được”.

Bà nội chưa biết xoay xở ra sao thì chủ ruộng lúa bị cắt đã tìm tới mắng bà là cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta bà lấy gậy đánh vào lưng eo con dâu, vừa chửi” Đánh chết con điên, mày cút ngay đi cho bà”. Mẹ tuy điên nhưng biết đau, biết tránh né đầu gậy, miệng lắp bắp sợ hai “ Đừng… đừng…’. Sau cùng, nhà người ta thấy chứơng mắt,chủ động “ thôi chúng tôi không đòi nữa, giữ cô ấy chặt đừng để như thế nữa’

Sau cơn sóng gió, mẹ ỏai người khóc thúc thít. Tôi khinh khỉnh bảo “ cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn’. Vừa dứt lời, gáy tôi bị một tát mạnh của bà: bà trừng mắt bảo” Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy, mẹ mày đấy”, tôi vùng vằng “ cháu không có loại mẹ điên này’.

A, thằng này láo, xem tao có đánh mày không, bà nội giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dứơi đất lên, che giữa tôi và bà nội, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt : “ đánh tôi , đánh tôi”.

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, cánh tay bà nội từ trên không buông thõng xuống, bà lẩm bẩm : con mẹ điên biết thương con đấy.

Khi tôi vào lớp 1, cha tôi vẫn vất vã làm công việc canh hồ cá, mỗi tháng 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm đồng dưới sự chỉ bảo của bà , chủ yếu chỉ cắt cỏ lợn.

Nhớ mùa đông đói rét, năm tôi học lớp 3, trời đột ngột đổ mưa, bà sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường trơn ướt mẹ đã ngã ì ạch mấy lần, tòan thân như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ngòai cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng gọi tôi “ Thụ … ô”

Có mấy đứa bạn cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông , vừa óan hận mẹ không biết điều làm tôi xấu hổ vừa hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.Tôi tức lên chộp lấy hộp bút đập mạnh cho nó một phát, nhưng thằng Hỷ tránh được và nó xông tới bốp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau, nó to và mạnh nên tôi dễ dàng bị nó đè xúông đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng ‘vút ’ kéo dài từ bên ngòai lớp học, mẹ như một đại hiệp bay “ ào tới, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

Ai cũng bảo người điên rất khỏe, đúng như vậy, mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên không trung, nó kinh sợ khóc gọi bố mẹ. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, mẹ thản nhiên đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại họa, nhưng mẹ coi như không có gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, chỉ múôn lấy lòng tôi. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu mẹ vẫn tỉnh táo vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.

Lúc đó, tôi không kìm được, kêu lên “ Mẹ”, đấy là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sừng sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, mẹ như một đứa trẻ vui mừng, rồi cười ngớ ngẩn. Hôm đó lần đầu tiên hai mẹ con cùng che chung cái ô về nhà.

Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà sợ rụng rời ngã lăn trên ghế, vội vã nhờ người gọi cha tôi về. Cha vừa bước vào nhà, một đám thanh niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì , họ đập nát như tương các thứ trong nhà tôi.

Bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói : con trai tao sợ quá phát điên rồi, đang nằm nhà thương, nhà mày không mang 1.000 tệ trả tiền thuốc thang, tao đốt sạch nhà mày ra ’.

Một ngàn tệ? Cha tôi làm 1 tháng 50 tệ, nhìn họ đằng đằng sắt khí, mắt cha tôi đỏ lên, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt cha dỡ lấy thắt lưng da đánh tới tấp khắp người mẹ.

Trận đòn khủng khiếp, mẹ như con chuột , khiếp hải run rẫy, như con thú săn bị dồn vào đường chết, mẹ kêu lên thảm thiết .

Sau đó trưởng đồn cảnh sát phải đến can ngăn bàn tay bạo lực của cha, kết quả là : cả hai bên đều tổn thất , không ai phải bồi thường ai, nếu ai con gây sự sẽ bắt ngay người đó.

Đám người đi rồi cha tôi nhìn khắp nhà, mọi thứ tan tành, cha lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, bất ngờ cha ôm mẹ vào lòng khóc thảm thiết “ mẹ điên ơi, không phải tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như không đánh thì việc này không dàn xếp nổi, làm sao có tiền mà đền người ta, bởi nghèo khổ mà thành họa đấy thôi”.

Cha lại nhìn tôi” Thụ , con phải cố mà học lên đại học, không thì nhà ta cứ bị kẻ khác bắt nạt suốt đời”. Tôi gật đầu.

Mùa hè năm 2000 tôi đỗ trung học với kết quả xúât sắc, bà nội cực nhọc cả đời nên mất trứơc đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Gia đình tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, nên tôi được chính phủ trợ cấp cho tôi 40 tệ tháng, nhờ đó tôi được tiếp tục học. Gánh nặng tiếp tục đặt lên vai mẹ tôi..

Tôi học nội trú, cha tôi vẫn làm việc với 50 tệ tháng. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu thức ăn xong , thì đưa mẹ mang đến trường cho tôi, mỗi ngày 20 ki lô mét đường núi ngoằn ngòeo làm khổ mẹ tôi phai nhớ đường đi, có ngày gió tuyết mẹ cũng đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào, ngòai tình yêu mẫu tử ra , tôi không biết cách giải thích nào khác hiện tượng này.

Ngày 27 tháng 4 năm 2003, là ngày chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang thức ăn ,mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả cắn một miếng, cười hỏi mẹ” Ngọt quá, ở đâu ra ? mẹ nói: “ tôi …hái…”, không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: “ mẹ , mẹ càng ngày càng tài giỏi ” , mẹ cười hì hì.

Trứơc lúc về, tôi có thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong tôi bận rộn lo ôn thi cuối cùng thời phổ thông để thi vào đại học.

Ngày hôm sau , khi đang trong lớp học, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài. Thím hỏi , mẹ tôi có đến tiếp tế đồ ăn không ? tôi nói : hôm qua mẹ có đến và về rồi. Thím bảo “ không , mẹ mày đến giờ vẫn chưa về” Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không lạc đường, chặng đường này mẹ đã đi 3 năm rồi, không thể lạc được.

Thím hỏi “ mẹ mày có nói gì không ?” Tôi nói : không , mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi” thím đập hai tay” Thôi chết rồi, hỏng rồi có lẽ vì mấy quả đào dại rồi”.

Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi men theo đường núi về tìm. Đường về , quả thật có mấy cây đào dại, trên cây lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả, cùng lúc đó chúng tôi nhìn thấy trên cây đào có nột vết gảy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.

Thím nhìn tôi rồi nói” chúng ta xuống khe vách đá tìm “, tôi nói “ Thím, thím đừng dọa cháu”, Thím không nói gì kéo tay tôi đi xuống vách núi.

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi chung quanh, tay mẹ nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành màu đen nặng nề.

Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi : “mẹ ơi , mẹ ơi… mẹ sống chẳng được sung sướng ngày nào.”

Tôi áp sát đầu vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá trên đỉnh núi như cũng rớt nước mắt theo.

Một năm sau ngày chôn cất mẹ, thư gọi nhập học của Trường Đại học Hồ Bắc bay thẳng vào nhà tôi.

Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào ngôi mộ cô tịch của mẹ: “Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi. Mẹ có nghe thấy không, mẹ có thể ngậm cười nơi chín suối”

(Đọc trên mạng)