Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty-Truyen ngan HAY

KimTrong Lam

Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty

Một quyết định tưởng chừng đúng…

Tôi là giám đốc vận hành của chuỗi thức ăn nhanh Sabor Express ở trung tâm thành phố. Năm năm qua, tôi quản lý mọi thứ rất chặt chẽ: từ kho bãi, nhân viên cho đến từng con số thất thoát. Tất cả vận hành trơn tru như một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ.

Cho đến một buổi sáng tháng Ba.

— Thưa ông Ramírez, tôi có chuyện phải nói, — Carlos, giám sát ca đêm bước vào, mặt nghiêm trọng. — Chuyện của Marta.

Marta Villanueva. 42 tuổi, mẹ đơn thân, làm việc năm năm không một sai sót, luôn đúng giờ.

— Marta thì sao? — tôi hỏi.

Carlos đặt điện thoại lên bàn. Trên màn hình là đoạn camera: Marta lén cho đồ ăn vào túi lớn, ánh mắt thấp thỏm nhìn quanh.

— Tôi thấy cô ấy làm ba đêm liền, — Carlos nói. — Toàn là gà rán, hamburger, khoai tây chiên… những đồ thừa của ca.

Một cơn thất vọng và tức giận trào lên trong tôi. Sự phản bội luôn đau hơn khi nó đến từ người mình tin tưởng.

— Gọi cô ấy đến gặp tôi trước ca ngày mai.

Hôm sau, Marta ngồi trước mặt tôi, hai bàn tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn xuống. Chỉ một đêm mà trông cô ấy như già đi cả chục tuổi.

— Marta, cô biết vì sao mình ở đây chứ? — tôi cố giữ giọng lạnh lùng.

Cô khẽ gật đầu, mắt ướt.

— Chúng tôi đã kiểm tra, số liệu không khớp. Giờ thì rõ rồi.

— Thưa ông, tôi có thể giải thí—

— Không cần, — tôi cắt ngang. — Camera đã ghi lại. Cô biết rõ đây là hành vi ăn cắp.

Marta bật khóc:

— Tôi xin ông, tôi cần công việc này. Tôi còn các con…

— Ai mà chẳng cần làm việc, Marta. Nhưng thế không có nghĩa là được ăn cắp. Cô có biết công ty mất bao nhiêu vì những việc này không?

— Nhưng đó chỉ là đồ ăn sắp vứt đi mà…

— Điều đó không quan trọng! — tôi quát. — Đồ ăn còn ở đây là của công ty, cho đến khi bỏ thùng rác. Đây là lý do cho thôi việc ngay lập tức. Thu dọn đồ đi.

Marta đứng dậy, nước mắt chảy dài:

— Cầu Chúa phù hộ cho ông, — cô thì thào rồi bước ra.

Trong cuộc họp nhân viên, tôi tuyên bố:

— Marta Villanueva đã bị cho thôi việc vì ăn cắp hàng hóa.

Có tiếng xì xào, vài người gật gù.

— Làm đúng đấy sếp, — Roberto, bếp chính nói. — Phải nghiêm với loại chuyện này.

— Chuẩn, — Sandra, thu ngân tiếp lời. — Nếu bỏ qua một lần thì sẽ loạn hết.

Tôi cảm thấy yên tâm. Mình đã làm đúng.

Ba ngày sau, Rosa, một nhân viên ca đêm, tìm gặp tôi, mắt đỏ hoe:

— Ông Ramírez, tôi cần nói về Marta.

— Quyết định đã xong rồi, Rosa.

— Xin ông nghe tôi một lần.

Cô đưa điện thoại: một bức ảnh Marta trong bộ đồng phục, đang phát đồ ăn cho trẻ em ở một mái ấm.

— Marta làm tình nguyện ở nhà ăn San Francisco. Tất cả đồ ăn cô ấy mang đi đều là phần công ty định bỏ. Cô ấy đem cho trẻ em nghèo, những gia đình không có gì để ăn.

Tim tôi như chùng xuống.

— Sao cô ấy không xin phép?

— Cô ấy đã xin, cách đây nửa năm. Ông đã từ chối. Ông nói nào là luật, nào là thủ tục…

Hình ảnh lờ mờ hiện lại trong đầu tôi: hôm ấy Marta nói chuyện, tôi vừa nghe vừa gõ máy tính, rồi buông một tiếng “không được đâu”.

— Nhưng cô ấy vẫn tiếp tục…

— Vì cô ấy nói: “Nếu phải chọn giữa tuân theo quy định và để một đứa trẻ đi ngủ với cái bụng đói, tôi sẽ chọn đứa trẻ.”

Đêm đó tôi trằn trọc. Ba giờ sáng, tôi tìm trang Facebook của San Francisco.

Ở đó, Marta cười tươi, phát thức ăn cho trẻ em và người già. Những lời cảm ơn viết dưới ảnh:

“Nhờ chị Marta mà chúng tôi không bao giờ thiếu bữa.”

“Chúa phù hộ người phụ nữ luôn đem cơm cho chúng tôi mỗi tối.”

Sáng hôm sau, tôi gọi ngay phòng Nhân sự:

— Tôi muốn hủy một quyết định sa thải.

Tôi đến tận nhà Marta. Căn hộ cũ, tầng năm không thang máy.

Marta mở cửa, ánh mắt hoảng sợ:

— Ông Ramírez, tôi không trở lại làm—

— Marta, tôi đến để xin lỗi. Và mời cô quay lại. Với mức lương cao hơn.

— Gì ạ?

— Tôi cũng đã bàn với giám đốc khu vực. Từ nay, Sabor Express sẽ chính thức quyên góp đồ ăn thừa cho mái ấm San Francisco. Hợp pháp, có giấy tờ đầy đủ. Và cô sẽ phụ trách chương trình này.

Marta ôm mặt khóc nấc:

— Tôi… tôi không biết nói gì.

— Cô chỉ cần nói đồng ý.

Thứ Hai, tôi lại họp nhân viên:

— Tuần trước tôi nói Marta bị đuổi vì ăn cắp. Hôm nay, tôi phải thú nhận: chính tôi mới là kẻ đã lấy mất của cô ấy. Lấy mất công việc, lấy mất phẩm giá, và suýt nữa là cả cơ hội giúp đỡ những người đói khổ.

Cả phòng im phăng phắc.

— Số đồ ăn mà cô ấy “lấy cắp” là để đem cho trẻ em, người già, những gia đình không có gì. Marta đã dám làm vì lương tâm mạnh mẽ hơn quy định của tôi.

Tôi dừng lại. Rồi nói rõ:

— Marta sẽ quay lại hôm nay. Và tôi mong mọi người chào đón cô ấy như cô ấy xứng đáng.

Cửa mở. Marta bước vào. Tràng pháo tay vang lên, ban đầu còn lác đác, rồi ngày càng lớn dần.

Sáu tháng sau. Chương trình quyên góp được nhân rộng sang nhiều chi nhánh. Công ty nhận giải thưởng về trách nhiệm xã hội. Nhưng quan trọng nhất: nhà ăn San Francisco nuôi được hơn 200 người mỗi ngày.

Còn tôi, tôi học được một bài học: làm lãnh đạo không chỉ là giữ luật, mà còn là biết khi nào phải đặt tình người lên trên luật.

Mỗi lần thấy Marta bước ra với những túi thức ăn nay in logo công ty, tôi lại nhớ tới sai lầm của mình. Và thầm cảm ơn vì đã kịp sửa chữa.

Bởi những gì chúng tôi định bỏ đi không chỉ là thức ăn.

Đó còn là cơ hội để thay đổi cuộc đời một ai đó.

St


 

 Vực Mắt – Cổ Ngư

Kimtrong Lam

 Vực Mắt –

Cổ Ngư.

Cho tôi lại nhà trường,

Bao nhiêu là người thương,

Không ai thù ai oán,

Ai cũng bảo tôi ngoan…

Kỷ niệm – Phạm Duy

Văng một cái. Thằng bé bật đầu vào bảng, chúi nhào. Má phải và một mảng tóc bệt phấn, nhức buốt. Má trái hằn đỏ dấu tay, bỏng rát. Nó nhìn lên, nước mắt đổ trào. Vì đau, có. Vì ức, nhiều phần hơn. Ðôi mắt lạnh của frère Tuấn, sau cặp kính trắng, khúc xạ qua làn nước mắt mờ mịt, như lồi hẳn ra, ngó xuống đầy vẻ đe doạ. Nó nghe giọng frère nói, vang âm âm giữa những tiếng o o của màng nhĩ:

– Nhật, đứng lên! Em có nhận tội ăn cắp bút của bạn không? Còn chối nữa không?

Nó có ăn cắp đâu mà nhận! Ðứa nào chơi ác, nhét cây Pilot của thằng Ðức ngồi bàn đầu vào cặp nó lúc ra chơi. Ðầu giờ học, sau khi đọc xong kinh «Kính mừng», cả lớp vừa được phép ngồi xuống, nó đang loay hoay lôi cuốn tập giáo lý bìa xanh dương ra thì thằng Ðức mếu máo lên khai mất bút. Thế là frère Tuấn dốc cặp từng đứa một ra khám xét. Thế là nó bị lôi lên đứng trước lớp, lãnh một cái bạt tai nháng lửa sau khi một mực lắc đầu kêu oan. Nó muốn chồm lên, muốn gào lên, nhưng những tia nhìn lạnh băng phóng xuống từ độ cao của tấm áo chùng đen như ghim chặt nó vào bục gỗ. Tay chân nó cứng ngắc. Không điều khiển được nữa, dù bên tai vẫn văng vẳng tiếng rít: «Nhật! Ðứng lên! Tôi bảo đứng lên! Ðứng lên!» Thằng bé bất lực nhìn đôi kính trắng càng lúc càng gần, trương nở, phình to ra như một bầu thủy tinh khổng lồ, rồi úp chụp lên nó. Trọn vẹn.

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Giấc mơ như con ác thú, lâu lâu lại trồi lên từ tiềm thức, khạc những tia lửa đỏ quạch, rồi chìm sâu xuống, nằm phục ở đó. Không làm sao Nhật xua đuổi nó đi được, dù đã hơn một ngàn lần, anh tự nhủ: Phải quên, phải rộng lượng, phải biết tha thứ. Dù thằng bạn chơi ác sau đó đã xanh lè mặt đứng ra nhận tội. Dù frère Tuấn sau đó đã ngỏ lời xin lỗi. Cảm xúc, như nhát chém quá mạnh tay vào thân gỗ non, giữ nguyên dấu vết giữa những vòng tròn tăng trưởng. Không cách gì bôi xoá đi được! Nhật khổ sở loay hoay với nó suốt thời niên thiếu. Càng lớn, sự trỗi dậy của con quái vật càng thưa dần, nhưng giấc mơ không vì thế mà bớt đi kịch tính. Có những lần, Nhật thấy mình vẫn bé nhỏ, yếu đuối như ngày nào. Vài lần khác, Nhật cảm nhận mình lớn hơn, đã đủ sức giơ cánh tay lên để chống trả lại, nhưng mỗi khi chạm phải những tia nhìn loáng lạnh sau lần kính trắng, anh lại bị hất đi thật mạnh, thật xa, vọt qua khỏi cửa lớp, ra tới hành lang để rồi ngã chúi xuống cái khoảng không đen ngòm phía dưới. Ðen như tấm áo chùng của frère Tuấn!

Trừ một lần, anh thấy mình đứng bật được dậy và bỏ chạy thật nhanh về nhà, đằng sau có người đuổi dồn. Anh có đủ thì giờ để đóng gấp, khoá kín tất cả cửa chính, cửa sổ rồi cuộn tròn người ôm đầu khóc tấm tức trước khi bước chân kẻ lạ sầm sập ào đến. Kẻ lạ? Frère Tuấn? Anh không thấy được mặt kẻ đuổi theo sau lưng. Chỉ biết đã thót tim mừng rỡ khi tiếng gà gáy báo sáng rộn rã vang lên bên tai. Giấc mơ ấy đến khoảng một tháng sau khi Nhật gặp lại frère Tuấn. Ở ngoài đời hẳn hòi. Giữa ban ngày ban mặt chứ không phải trong cơn ác mộng. Chiều thứ Ba. Rạp xi-nê Văn Hoa Ða Kao. Sau khi nát cả người vì chen lấn mua cho bằng được tấm vé xem phim «Nạn hồng thuỷ» của Ba Lan, Nhật thở phào, chìa phần cùi cho người soát vé. Anh bước qua rào cản, hân hoan nghĩ đến những giây phút thoải mái sắp hưởng, bỗng giật mình quay ngoắt lại. Tia mắt ấy. Phải rồi, tia mắt ấy, dáng dấp ấy. Frère Tuấn! Người soát vé quay đi bận rộn với công việc của mình. Nhật bước vào phòng tối, mắt loáng thoáng những áo quần trắng lốp của người Thổ, những tiếng hò hét công thành, tiếng gào thét thảm thương của kẻ cô thế. Lửa cháy loang màn ảnh, đốt đỏ lòng Nhật. Anh nhấp nhổm trên ghế. Nửa phim. Nghỉ giải lao. Ðèn bật sáng. Nhật đẩy cửa lao về phía người soát vé. Anh gọi:

– Frère!

Người đàn ông quay đầu lại. Không có đôi kính trắng, nhưng đúng là frère Tuấn. Nhật bước như chạy đến, nhưng khi khoảng cách chỉ còn độ một thước, anh đột ngột dừng lại, ngượng nghịu:

– Frère còn nhớ con không?

Lúc tiếng «con» buột ra khỏi miệng như một phản xạ tự nhiên, Nhật mới nhận thấy thói quen cũ vẫn còn bám rễ sâu lắm nơi anh. Ðôi mắt người đàn ông nheo nheo:

– Tôi nhận ra em từ nãy. Nhật phải không?

Nhật vui như khi nhận được lá thư có kèm vài tấm hình hiếm hoi của thằng bạn thân từ Canada gửi về. Anh lúng búng:

– Con… Em đâu có ngờ còn gặp lại frère. Trường giải thể, em đứt gần hết liên lạc với thầy cô, bạn bè cũ. Em có nghe nói các frère còn giữ lại được một dãy lầu để ở, nhưng ngại, không dám vô thăm.

Nhật bỗng nhiên liến thoắng. Niềm tự tin bất ngờ kéo vọt anh lên cao hơn, vạm vỡ hơn người đàn ông gầy gò tóc hoa râm đứng trước mặt.

– Tôi… Tôi xin ra khỏi dòng lâu rồi em ạ! Bây giờ tôi có gia đình, con cái như mọi người. Ðừng gọi tôi là frère nữa, gọi là… anh, được rồi. Còn em, dạo này thế nào?

Cuối cùng thì từ lối xưng hô «frère-con» khi xưa, cả hai chấp nhận chuyển sang gọi nhau «thầy-em» cho phù hợp với tình thế mới, và cũng để những cái tai tò mò vểnh dọc vểnh ngang chung quanh bớt chú ý. Nhật rút mấy điếu thuốc Hoa Mai lẻ trong túi áo ra mời. Thầy Tuấn ra dấu từ chối.

– Em đang học lớp mười hai, nhưng nản lắm. Lý lịch như em thì đậu đại học một phần trăm mà đậu «nghĩa vụ quân sự» tới chín mươi chín phần trăm lận thầy ơi! Mấy thằng bạn cùng lớp em vượt biên quá trời! Thà gặp hải tặc Thái Lan mà còn mong có ngày qua tới Mỹ, còn hơn là xách súng đi làm «nhiệm vụ quốc tế cao cả» để rồi bị tụi Pôn Pốt đòm cho một phát, lôi về làm mắm bồ hóc nhai nhóp nhép với nhau!

– Em ăn nói cẩn thận. Giữa chốn đông người…

– Tụi em hết ngán rồi, thầy ơi! Giờ chính trị còn đứng lên cãi tay đôi với «mấy ổng mấy bả» nữa mà!

Tia nhìn của thầy Tuấn loáng lên một cái. Nhật lạnh người. Tấm áo chùng đen lướt thướt. Ngày trước…

– Em… Em nhớ hồi đó thầy đeo kiếng…

– Ờ, ờ, tôi mới làm vỡ tuần trước, chưa kịp thay.

Thầy lại sĩ diện hão rồi! Nhật nhớ đến đôi kính cận dày cộm đã ám ảnh mình bao nhiêu năm nay. Cận nặng như vậy mà cả tuần không có kính, chắc chắn là thầy Tuấn đang kẹt tiền. Như Nhật. Như tất cả những người đang sống vật vờ không tương lai chung quanh đây. Que sera, sera! Hôm nay có tiền, mua năm điếu thuốc, uống ly cà-phê, xem cuốn phim mới ra. Ngày mai hết tiền, nhịn. Vài ba tháng nữa đi nghĩa vụ, tính sau. Biết đâu ông bà già lại xoay sở chạy vạy cho một chỗ lên tàu vượt biên? Những người nhanh chân đã tót đi từ lâu. Bọn chậm chân ở lại được xếp vào ba hạng: Ngu-Nghèo-Nhát. Ngu vì cả tin vào những khẩu hiệu nền đỏ chữ vàng giăng mắc khắp nơi. Nghèo vì thiếu «chỉ», thiếu «cây» chèo chống ra đi. Nhát vì sợ sóng to gió lớn, hải tặc và cá mập, cá… nhà táng! Có ai mà muốn ngồi vào chiếu «Ngu», thường thì đành nhận chiếu «Nhát», còn đại đa số đem chữ «Nghèo» ra mà dán lên to tướng trên đầu. Người nghèo thời nào cũng khổ, nhất là sau những năm «đổi đời» này. Thầy Tuấn «đổi đời», bỏ dòng, lấy vợ sinh con. Anh hai, anh ba, anh tư «đổi đời», bỏ vợ con, bỏ thành phố, vào tù, phá rừng làm rẫy. Thành phố «đổi đời». Người Sài Gòn nhìn nhau không còn nhận ra quen lạ. Hàng xóm mười nhà có đến ba, bốn chủ mới. Người ta đi. Người ta đi. Người ta đi. Ði «học tập». Ði «kinh tế mới». Ði «vượt biên». Một tháng trời, bạn bè cùng lớp thiếu đi chục đứa. Ðủ thứ lý do: bệnh hoạn, về quê, thăm nuôi thân nhân… Trừ lý do thật. Dường như người ta đã quên nói lên sự thật ở thời buổi này. Bệnh truyền nhiễm. Có lẽ, thầy Tuấn cũng đang mắc phải.

– Nhật này… Tôi muốn hỏi em một chuyện.

– Dạ, thầy?

– Em còn giận tôi không?

Nhật nhớ ngay đến vị thế nằm của mình trong giấc mơ. Dán cứng người như con thạch sùng bị đóng đinh vào bục gỗ. Ở dưới thấp. Rất thấp. Và hứng chịu những tia nhìn từ vòi vọi cao ném xuống, phóng xuống, lao xuống tới tấp, đâm nát võng mô.

– Dạ…

– Tôi cứ hối hận mãi đã quá mạnh tay với em. Tôi ghét nhất thói trộm cắp. Em hiểu không? Lúc biết em bị oan, tôi trăn trở mất ngủ mấy đêm, cứ nhắm mắt lại là thấy những dấu tay của tôi lằn đỏ trên má em. Nhưng với cương vị giám học lúc đó, tôi không thể gặp em xin lỗi trực tiếp được. Tôi có gửi thư đến cho cha mẹ em. Ông bà cụ có nói cho em biết không?

– Dạ không, thầy!

– Vậy thì, em bỏ lỗi cho tôi nhé! Dù có trễ mất mấy năm, nhưng gặp được em nói lời xin lỗi, tôi cũng an lòng.

– Không… không sao, thầy. Chuyện cũ bỏ qua, thầy. Mà… thầy cô lúc này đủ sống không?

Thầy Tuấn nhúc nhích đôi môi. Thoáng một nụ cười.

– Nhờ ơn Chúa, cũng tạm vắt mũi đút miệng em ạ. Vợ tôi may gia công, ít ra cũng đỡ bấp bênh hơn cái nghề soát vé này. Con gái lớn của tôi sang năm vào cấp một. Chú út vẫn còn nhà trẻ. Chúng tôi yên phận, chỉ mong sao nuôi nấng, giáo dục các cháu thành nhân, giữ được đạo gốc, thương người, kính Chúa.

Nhật có cảm tưởng như đang được nghe lại những lời giảng giờ giáo lý. Hai tay khoanh trên  bàn ngồi thật ngoan. Mắt nhìn như bị thôi miên vào những di động của bóng áo chùng đen. Và chiếc cổ nhựa trắng, trông xa vểnh như hai chiếc răng thỏ vẩu. Và đôi kính cận sáng loá… Ðèn rực lên. Cửa bật mở. Dòng thác người ùa ra, ồn ào cười nói bình phẩm chửi thề. Gần quầy bán vé, thêm một đám đánh lộn, gấu ó nhau vì chen lấn giành chỗ. Cái đuôi rồng rắn kéo dài suốt mặt tiền rạp xi-nê chờ suất tới bắt đầu rậm rật chuyển động. Nhật hiểu nên chấm dứt cuộc đối thoại ở đây.

– Chắc thầy sắp bận việc. Chào thầy, em về. Tuần tới rảnh, em mời thầy đi uống cà-phê, nghe thầy!

Nhật không giữ đúng lời hứa. Anh Tư trốn trại học tập về sau đó hai ngày, kéo Nhật vượt biên bằng đường bộ, băng qua Cam-pu-chia đến Thái Lan. Bị thổ tả dọc đường, tưởng mười phần chết chín. Anh Tư cõng cái phần xác rũ liệt của Nhật mà băng đồng, vượt rừng. Cái phần xác thối khắm, xụi lơ và nhẹ hổng. Còn cái phần hồn, đã nhiều lúc bay lãng đãng tận đâu đâu. Vừa may đến trại tiếp cư, người bác sĩ Mỹ với thuốc men và những chai nước biển hiện ra, gõ chiếc đũa thần thông cứu mạng kẻ hấp hối. Rồi cũng qua. Sau trận mê sảng, Nhật quên đi nhiều lắm. Trí nhớ như muốn cắt đứt hẳn với quá khứ. Trừ những giấc mơ về frère Tuấn. Nhật cố gắng nghĩ rằng tiếng chân người sầm sập đuổi theo mình trong giấc mơ lần đó là của công an biên phòng, của bộ đội Việt Nam, của Khờ-me Ðỏ, của ai ai đó chứ nhất định không phải của frère Tuấn, người đàn ông gầy gò tóc hoa râm anh gặp lần cuối đứng soát vé ở rạp Văn Hoa. Nhưng…

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Khi chiếc contact lens trợt khỏi đồng tử, rơi xuống mặt báo, Nhật còn cố dướn mắt đọc cho hết những dòng chữ đã bắt đầu nhoè nhoẹt.

Phê-rô

Nguyễn Văn Tuấn

Cựu sư huynh dòng Lasan

Vừa từ trần tại Sài Gòn ngày .. tháng .. năm ….

Hưởng dương 56 tuổi

Tang lễ sẽ được…

Chiếc contact lens còn lại cũng vừa kịp trôi.

Cổ Ngư

PARIS 06.1999


 

Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam – Đ.Văn- Truyen ngan HAY

Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi “thất tình”, đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. 

Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng “chưa có ai” khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài…, tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch “ngụy quyền” và có chồng đi “học tập cải tạo” không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là “gian khổ chập chùng”, phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Re-Education Camp in Vietnam. Hit Song - YouTube

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói “Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn”. Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Những bài thơ về chữ Hiếu, stt báo hiếu cha mẹ

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.

Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

 From Tu – Phung

BẢN DI CHÚC KỲ LẠ CỦA MỘT TỶ PHÚ

Xuyên Sơn

 Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông.

Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm.

Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường.

Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh.

Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống,gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm.

Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô.

Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống.

Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ. Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy.

Mẹ của Siada nói:

-“Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”.

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ.

Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi.

Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó.

Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi.

Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh.

Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú.

Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng.

Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người.

Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất.

Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối, đấu đá tranh giành.

Hai mẹ con họ đã khiến tôi hiểu ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô bé, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người.

Có cô bé ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm.

Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế.

Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”.

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kỹ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản.

Anh ta viết:

“Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi.

Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết:

“Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh.

Theo Helino


 

Ở hiền gặp lành – Bửu Uyển -Truyen ngan HAY

“Dục tri tiền thế nhân,

Kim sinh tác giả thị,

Dục tri lai thế quả,

Kim sinh tác giả thị”

Tạm dịch:

“Muốn biết nhân đời trước, hãy nhìn vào những gì được hưởng trong đời này. Muốn biết kết quả trong đời sau, hãy nhìn vào những gì đang làm trong đời này.”

*****

Từ lúc còn học Trung học, tôi đã thích nghề dạy học, thích được tiếp xúc, gần gũi với các em học sinh. Nhưng số phận lại không cho tôi đậu vào trường Sư Phạm, mà lại đậu vào trường Quốc Gia Hành Chánh.

Sự yêu thích nghề dạy học cứ theo đuổi tôi, ngay cả khi tôi đã là một viên chức hành chánh. Năm 1967, tôi được bổ nhiệm làm Phó Quận Trưởng quận Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Sự yêu thích được dạy học đã thúc đẫy tôi làm đơn gởi đến Ty Giáo Dục tỉnh Thừa Thiên, sau khi được sự chấp thuận của Trung Tá Quận Trưởng. Ty Giáo Dục Thừa Thiên đã đồng hóa văn bằng Tốt Nghiệp Quốc Gia Hành Chánh của tôi với văn bằng Cử Nhân. Và họ sắp xếp cho tôi dạy Công Dân Giáo Dục lớp Đệ Tứ và Quốc Văn lớp Đệ Ngũ tại trường Trung Học Phú Lộc. Tôi thỏa mãn với ước nguyện của mình là được sống và sinh hoạt với các em học sinh tươi trẻ. Tôi chăm chỉ giảng dạy và rất thương mến các em. Số học sinh của tôi vào khoảng 5, 6 chục em, cả nam lẫn nữ. Trong số các nam sinh lớp Đệ Tứ, tôi mến em Liêm nhất. Em thông minh, tánh tình hiền hòa, các bạn trong lớp ai cũng mến em.

Một hôm, khi đi quan sát ở ấp Hòa Mậu, thuộc xã Lộc Trì, tình cờ tôi gặp em Liêm. Em sống chung với cha mẹ nơi đó và là đứa con duy nhất của gia đình. Liêm vui vẻ mời tôi ghé thăm gia đình em. Đây là một gia đình quá nghèo, nhà cửa rách nát, xiêu vẹo. Cha mẹ em trồng khoai sắn quanh nhà, và chỉ đi làm thuê, làm mướn cho những gia đình khá giả trong làng, chứ không có công việc làm ổn định. Tôi thành thật nói với Ông Sửu, cha của cháu Liêm: “Thưa bác, nếu bây giờ bác có chút ít tiền, bác làm gì để cải thiện cuộc sống của gia đình và nhất là giúp cho em Liêm được tiếp tục ăn học?” Ông Sửu trầm ngâm một chút, rồi nói: “Thưa thầy, nếu tôi có ít tiền, tôi sẽ mua lại 2 sào ruộng ở gần nhà đây để canh tác, có thể sống được. Hai sào ruộng đó đã bị bỏ hoang từ mấy năm nay…” Sau đó, tôi đã nhờ ông Xã Trưởng liên lạc với chủ ruộng, mua lại phần đất ấy, rồi giao cho gia đình ông Sửu canh tác.

Từ khi có hai sào ruộng để cày cấy, gia đình ông Sửu bắt đầu có cuộc sống tương đối đầy đủ, không còn thiếu thốn như trước nữa.Vào một ngày Chúa Nhật, vợ chồng tôi đi thăm một trại chăn nuôi heo và gà của Thầy Tứ ở Nam Giao. Thấy những con heo, giống Durock, da màu vàng, vừa lạ mắt vừa dễ thương, tôi nghĩ đến gia đình em Liêm, nên mua 2 con heo con, một cái, một đực, mang biếu gia đình ông Sửu. Ông Bà mừng rỡ và chăm sóc kỹ lưỡng lắm, nên heo chóng lớn. Chỉ chín, mười tháng sau, ông Sửu khoe là heo đã gần 100 ký. Ông Sửu gầy giống cho heo đẻ. Lứa đầu tiên, heo đẻ được 7 con. Trong làng chưa ai có giống heo này, nên nhiều người hỏi mua, ông không bán. Nhưng sau thấy được giá, ông bán bớt 5 con, còn để lại 2 con tiếp tục nuôi gầy giống. Riêng con heo đực, bà con trong làng xin phối giống, ông cũng thu được khá nhiều tiền.

Trong những ngày gần Tết Đinh Mùi, khi vào lớp học, tôi thấy nhiều em học sinh đã mặc áo quần mới. Nhưng em Liêm vẫn mặc áo quần bình thường như mọi ngày.

Nhân dịp cuối tuần, vợ chồng chúng tôi qua chợ Đông Ba mua cho Liêm một bộ áo quần mới, áo “sơ mi” trắng, quần dài màu xanh đậm. Hôm sau, tôi đem bộ áo quần mới này tặng cho Liêm. Em mặc vừa vặn, nét mặt vui mừng, hớn hở. Ông Sửu cảm động nói: “Cháu Liêm năm nay đã 15 tuổi, đây là lần đầu tiên cháu có một bộ áo quần mới nhân dịp Tết sắp đến, chúng tôi không biết nói gì cho hết để cám ơn ông bà Phó.”

Mấy tháng sau, vào một buổi trưa, ông Sửu đến tìm tôi ở quận, mặt mày buồn bã, ngơ ngác. Ông nhìn trước, nhìn sau, thấy không có ai, ông ghé sát vào tai tôi và xúc động nói: “Ông Phó ơi, thằng Liêm bị “giải phóng” bắt đi mất rồi, họ nói họ chiêu mộ thằng Liêm làm du kích chứ không có ý làm hại gì nó đâu!” Tôi sững sờ, thương cháu Liêm, và thương ông Sửu quá vì ông chỉ có một đứa con mà thôi. Tôi miễn cưỡng an ủi ông Sửu: “Bác yên lòng, bác sống thật thà, chất phác, chắc Trời sẽ thương đến cháu Liêm mà phù hộ cho cháu.”

Khoảng năm 1968, 1969 và 1970, chính phủ giúp cho các xã, ấp trùng tu, tái thiết lại những cơ sở dân dụng công cộng như đê điều, cầu cống, đường sá, đình làng v.v. Dân chúng xã Lộc Tụ (Quận Phú Lộc) đã lập dự án, xin trùng tu lại đình làng của xã, do đã bị hư hại nặng nề vì chiến tranh. Đơn xin của dân chúng xã Lộc Tụ đã được Hội Đồng Bình Định Và Phát Triển tỉnh Thừa Thiên chấp thuận, được Cơ Quan Viện Trợ Mỹ (USAID) tài trợ.

Với ngân khoản được cấp, và với quyết tâm xây dựng lại quê hương của dân chúng, đình làng xã Lộc Tụ đã được tái thiết, đẹp đẽ, uy nghi. Hội Đồng Xã quyết định tổ chức Lễ Khánh Thành đình làng mới một cách long trọng, với sự chủ tọa của Trung Tá Quận Trưởng. Nhưng Trung Tá Quận Trưởng đã ủy nhiệm tôi thay mặt cho ông trong buổi Lễ Khánh Thành đó.

Đến ngày, giờ đã được ấn định, tôi đi đến đình làng Thừa Lưu để làm nhiệm vụ. Đình làng nằm cách quốc lộ khoảng 500 mét. Khi xe của tôi dừng lại ở đầu con đường mòn dẫn vào đình làng, tôi thấy nhiều người đứng ở đó. Tôi nghĩ là họ đứng đón tôi như những lần trước. Nhưng khi tôi vừa bước xuống xe, thì hai vị bô lão đến nắm tay tôi và nghiêm nghị nói: “Ông Phó quay về quận ngay đi, ông không nên vào đây!”

Nhìn vẻ mặt bồn chồn, lo lắng của mọi người chung quanh, tôi hiểu, họ không muốn tôi đi vào đình làng. Hình như có vấn đề gì đó không tốt lành sẽ xảy đến cho tôi, nếu tôi đi vào đó.

Tôi vội vã lên xe quay về quận. Khi đến trụ sở xã Lộc Tụ, tôi vào văn phòng xã, sử dụng máy truyền tin của xã, liên lạc với Trung Tá Quận Trưởng, báo cáo sự việc vừa xảy ra.

Với kinh nghiệm, Trung Tá hiểu ngay có một sự việc gì đó không bình thường, có thể xảy ra ở đình làng. Ông lập tức điều động 2 trung đội địa phương quân cơ hữu của quận, một tiểu đội cảnh sát Dã Chiến, phối hợp với một trung đội Nghĩa Quân của xã, mở cuộc hành quân bao vây khu vực đình làng Thừa Lưu. Lực lượng hành quân đã mau chóng bắt được 2 du kích và 3 kẻ lạ mặt tình nghi. An Ninh Quân Đội đã lấy khẩu cung và khai thác ngay 2 du kích. Kết quả được biết: Họ âm mưu ám sát người sẽ đến chủ tọa, cắt băng khánh thành đình làng, bằng cách bố trí 2 khẩu thượng liên, một khẩu đặt trên cây đa, một khẩu đặt trên nóc đình làng. Cả 2 khẩu thượng liên đó đều chĩa mũi vào vị trí vị chủ tọa sẽ đứng cắt băng khánh thành. Mật lệnh khai hỏa là một hồi chiêng trống từ đình làng vang lên. Trường hợp âm mưu này được thực hiện, thì vị chủ tọa cắt băng khánh thành không thể nào thoát chết được. Nếu tôi không được cảm tình của dân chúng ở đây, họ sẽ không cảnh giác, và ngăn cản tôi đâu, có lẽ ngày đó tôi đã chết ở đình làng Thừa Lưu rồi.

Ngày 30 tháng 8 năm 1970, toàn quốc tổ chức bầu cử bán phần Thượng Viện. Cuối ngày, tôi có nhiệm vụ áp tải tất cả thùng phiếu của Quận Phú Lộc về Tòa Hành Chánh tỉnh để kiểm phiếu. Đoàn xe chở thùng phiếu gồm nhiều chiếc, một xe bọc thép (chạy bằng bánh cao su) dẫn đầu, kế đến là một xe GMC chở thùng phiếu, sau đó là 2 xe GMC chở Nghĩa Quân theo hộ tống. Khi đoàn xe đến một khoảng đồng trống gần xã Lộc Điền (truồi) thì bị VC phục kích. Họ bắn cháy chiếc xe bọc thép dẫn đầu, nhưng bị các nghĩa quân phản ứng dữ dội, họ phải rút lui, không kịp phá chiếc xe chở thùng phiếu. Tôi hoảng sợ, nhảy ra khỏi xe, rồi lăn xuống một cái rãnh cạn bên đường. Tôi nghĩ rằng càng xa chiếc xe chở thùng phiếu, thì càng an toàn, nên tôi bò vào những bụi rậm gần đó. Quá lo sợ, trời lại tối nên tôi không nhận ra được phương hướng nào nữa. Tôi cứ cắm đầu, cắm cổ bò. Khi tôi bò đến một khoảng đất có nhiều bụi gai, thì một tiếng nói vang lên, tuy nhỏ nhưng rõ ràng: “Ông Phó! Ông Phó! Dừng lại ngay, ông đi về hướng đó là chết, chúng nó bố trí dầy đặc ở đó.” Phản ứng tự nhiên, tôi dừng lại, nhìn quanh xem ai đã nói với tôi câu đó. Nhưng tôi rụng rời kinh hãi khi một du kích xuất hiện, tay lăm lăm khẩu súng AK47. Anh ta lôi tôi xuống một hố cá nhân gần đó, rồi lễ phép nói: “Thưa thầy, em là Liêm đây, thầy đừng sợ, thầy cứ nằm dưới hố cá nhân này ém đến sáng, khi nào có lính quận đến, rồi hãy ra. Em đi đây.” Anh ta biến mất sau những bụi rậm.

Đang nằm dưới hố, bỗng tay tôi chạm vào một con vật gì lạnh ngắt. Tôi rùng mình sợ hãi, vì nghĩ rằng đó là một con rắn. Trong hoàn cảnh nầy mà bị rắn độc cắn, thì vô phương cứu chữa. Nhờ một chút ánh sáng le lói của mảnh trăng hạ tuần từ trên cao rọi xuống, tôi thấy đó là một con nhái chứ không phải con rắn. Tôi bắt con nhái, rồi nhẹ nhàng thả nó lên miệng hố. Tôi thì thầm với nó: “Nhái ơi, tau cứu mầy đấy nhé! Đi về nhà đi, kẻo cha mẹ mầy trông!”

Tôi chợt nghĩ số phận của tôi, rồi sẽ ra sao đây. Tôi nhắm mắt lại và lâm râm cầu nguyện: “Lạy Chúa, lạy Mẹ. Con xin phú thác mạng sống của con trong tay Chúa, trong tay Mẹ. Xin Chúa, xin Đức Mẹ che chở, phù hộ cho con!” Tự nhiên tôi thấy bớt sợ hãi, và trong đầu óc tôi, bắt đầu nhen nhóm chút hy vọng.

Tôi nằm im dưới hố, nhưng câu nói của chú du kích mà tôi không nhìn rõ mặt, cứ văng vẳng bên tai tôi: “Thưa ông Phó, em là Liêm đây, thầy đừng sợ!” Liêm là ai trong hàng ngũ địch quân mà lại cứu tôi. Đầu óc tôi rối loạn. Quá mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Tôi giật mình thức giấc, mơ hồ nghe như có tiếng bước chân đi trên lá khô. Nhìn qua kẽ lá ngụy trang trên miệng hố, tôi thấy Đại Úy Thuật, Chi Khu Phó, mặc đồ trận, tay cầm khẩu M16, dẫn đầu một toán lính, đi hàng ngang, đang tiến về phía tôi. Tôi mừng rỡ, la thật lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây!” Đại Úy Thuật dừng lại, đứng im một lát rồi hô lớn: “Ai đó! Lập lại đi!…” Tôi dùng hết sức mình, kêu lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây, Phó Uyển đây!” Đại úy Thuật và một nghĩa quân đến kéo tôi từ dưới hố lên. Tôi không đi được, nên một anh nghĩa quân phải cõng tôi đi về hướng quốc lộ.

Đại Úy Thuật đã báo cáo sự việc với Trung Tá Quận Trưởng, nên khi chúng tôi vừa ra đến quốc lộ, đã thấy Trung Tá Quận Trưởng đứng đón tôi ở đó. Ông ôm chầm lấy tôi và cảm động nói: “Chúc mừng ông Phó, tôi cứ nghĩ là ông Phó đã bị tụi nó bắt đi rồi!”

Trung Tá Quận Trưởng cho xe đưa tôi lên nhà tôi ở Huế ngay. Bước vào nhà, tôi quá xúc động, ôm nhà tôi vào lòng, và chỉ nói được một tiếng “Em” khi nghĩ lại những sự việc đã xảy ra đêm hôm qua.

Ngay khi ấy, nhiều xe hơi dừng lại trước nhà tôi. Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Phó Tỉnh Trưởng, nhiều vị Trưởng Ty và vài nhân viên tháp tùng Đại Tá, đến thăm tôi. Đại Tá thân mật nắm tay tôi và nói: “Chúc mừng ông Phó, thấy ông Phó trở về bình an, tôi mừng lắm! Tối hôm qua, khi nhận được tin chẳng lành, tôi đã điện thoại cho Cha Trinh ở Giáo Xứ Phú Cam, nhờ Cha dâng một Thánh Lễ, xin bình an cho ông Phó. Thật bất ngờ, sáng nay nghe tin ông Phó an toàn trở về, tôi vui mừng lắm!”

Mọi người đến bắt tay chúc mừng tôi. Thì ra việc tôi mất tích đêm hôm qua, đã gây xúc động cho các giới chức tỉnh Thừa Thiên. Nay thấy tôi bình an trở về, ai cũng vui mừng. Nhưng không một ai biết lý do nào đã giúp tôi an toàn trở về.

Khi những vị khách đã ra về, nhà tôi đến bên tôi, ngạc nhiên hỏi: “Anh, có chuyện gì vậy?” Tôi vỗ vỗ vào vai nhà tôi và nói: “Anh sẽ kể cho em nghe, chuyện dài dòng lắm!”

Năm 1971, tôi được thuyên chuyển đi làm Phó Quận Hương Thủy. Cuối năm 1972, tôi được điều động ra làm Phó Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Tháng 12 năm 1973, tôi lại được đổi vô làm việc ở tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) cho đến ngày mất nước. Tôi đi tù cải tạo cho đến 1982 mới được cho về.

Gia đình tôi đi dịnh cư ở Mỹ theo diện HO từ tháng 11/1992.

Năm 2008, tôi được tin bà mẹ nuôi của tôi đau nặng. Bà đang ở Vỹ Dạ, Huế. Năm ấy bà đã gần 100 tuổi. Vợ chồng chúng tôi vội vã về thăm bà. Ngoài thuốc men đầy đủ, mỗi ngày nhà tôi nấu cháo, hầm súp cho bà thời. Thật vui mừng, vì chỉ mấy ngày sau, bệnh tình của bà mẹ nuôi của tôi đã thuyên giảm, ăn uống bình thường, nói cười vui vẻ.

Một hôm, chúng tôi nhận được điện thoại của chị Cam Đường, bạn học cùng lớp với nhà tôi, mời chúng tôi xuống Cầu Hai chơi, nhân dịp làng tổ chức cúng vị Thần Hoàng của làng. Chị ấy cho biết là vui lắm, ở xa về mà gặp dịp nầy là hên lắm đó! Chúng tôi nhận lời mời của chị Cam Đường ngay, và hứa sẽ xuống Cầu Hai đúng ngày, giờ. Chúng tôi thuê một xe nhỏ để đi. Nhà tôi còn rủ thêm 2 người bạn nữa, cùng đi với chúng tôi.

Đã được báo trước, nên khi xe vừa đến chợ Cầu Hai, đã thấy chị Cam Đường đứng đón chúng tôi. Chị ấy dẫn chúng tôi đến đình làng Đông Lưu (Cầu Hai). Hôm nay là một ngày hội lớn của làng. Cờ đuôi nheo được treo khắp nơi. Dân làng hớn hở, tấp nập tụ tập ở đình làng.

Chúng tôi vào ngồi ở hàng ghế cuối cùng của Giang Đại Sảnh. Trước mặt chúng tôi là một bàn thờ lớn, hoa quả, hương đèn rực rỡ; một con heo quay vàng rộm, đặt trên một cái bàn ở trước bàn thờ. Vừa ngồi yên chỗ, một hồi chuông, trống bát nhã vang lên rộn rã, báo hiệu giờ hành lễ sắp đến. Một vị bô lão, mặc áo rộng xanh, đầu đội khăn đóng, bước ra nói với bà con tham dự lễ Chạp đang ngồi trong đại sảnh: “Thưa quý vị quan khách, thưa quý bà con, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành lễ “Chạp,” kính ngày huý kỵ Ngài khai canh của vùng đất mà chúng ta đang sống. Với lòng thành kính và biết ơn, chúng ta sẽ cử hành những nghi lễ cổ truyền mà ông cha chúng ta đã truyền lại cho con cháu, để dâng lên Ngài khai canh. Trước khi cử hành các nghi lễ, chúng tôi xin giới thiệu một số quan khách đã đến tham dự ngày giỗ “Chạp” hôm nay. Chúng tôi xin giới thiệu Ông Phó Chủ Tịch Huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu Ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Trì, chúng tôi xin giới thiệu vị Đại diện Mặt Trận Tổ Quốc huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu đồng chí Lê Văn Liêm, Chỉ huy quân sự xã Lộc Trì.”

Vừa nghe vị bô lão xướng tên Lê Văn Liêm, tôi sững sờ tự hỏi: “Đây có phải là em Liêm, học trò của tôi ngày trước không?” Vừa vui mừng, vừa phân vân, tôi đi đến trước mặt người đàn ông vừa đứng dậy chào bà con khi được xướng tên là Lê Văn Liêm. Đứng trước mặt anh ấy, dù đã 41 năm trôi qua, tôi vẫn nhận ra ngay đây là em Liêm, người học trò của tôi ngày xưa, mà tôi thương mến. Tôi cảm động nói với Liêm: “Em Liêm, em có nhận ra tôi không? Tôi là thầy Uyển đây.” Chàng thanh niên sau một khoảnh khắc ngơ ngác, đã ôm chầm lấy tôi: “Ông Phó, ông Phó…” Liêm nghẹn ngào, không nói thêm gì được nữa, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má.

Liêm quên mình đang đứng giữa đình làng, và có nhiều người hiện diện nơi đây, anh quay xuống hàng ghế kế cận và vui mừng gọi lớn: “Ba! Ông Phó đây nè!”

Một cụ già mặc áo dài đen, bịt khăn đóng, đứng bật dậy, chạy đến ôm chầm lấy tôi. Ông cảm động thì thầm bên tai tôi: “Ông Phó, ông còn sống, tạ ơn trời đất!” Đôi mắt ông đỏ hoe.

Liêm nói với vị bô lão điều khiển chương trình: “Thưa bác Hương Cả, tình cờ hôm nay, chúng tôi gặp lại một người bà con thân thiết của gia đình, đã thất lạc gần 50 năm nay. Xin bác cho phép gia đình chúng tôi về nhà trong chốc lát, chúng tôi sẽ trở lại ngay.”

Liêm và ông Sửu kéo tay tôi ra ngoài. Ông bà Sửu cứ nắm chặt tay tôi, như sợ tôi biến đi mất(?).

Nhà của ông bà Sửu bây giờ là một căn nhà gạch, lợp toles, không còn là một căn nhà lá lụp xụp như xưa nữa. Bước vào nhà, chúng tôi vừa ngồi xuống ghế, bỗng ông bà Sửu và Liêm quỳ xuống trước mặt chúng tôi, rồi cùng cúi gập người, lạy 3 lạy, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Tôi đỡ ông bà Sửu đứng dậy, và cảm động nói: “Hai bác làm gì vậy? Sao lại dành cho chúng tôi sự tôn kính quá to lớn như vậy? Chúng tôi có công lao gì để xứng đáng nhận đại lễ này?” Ông Sửu nói ngay: “3 lạy nầy cũng chưa xứng đáng với công ơn mà ông Phó đã dành cho gia đình tôi.” Ông chỉ ra đám ruộng ngoài xa, xanh mướt, mới trổ đòng đòng. Ông chỉ vào đàn heo đông đúc ở cuối vườn, ông chỉ vào căn nhà… và nói: “Tất cả cũa cải nầy là của ông Phó đã cho gia đình tôi.”

Tôi thân mật cầm tay ông Sửu và nói: “Bác Sửu ơi, 2 sào ruộng và mấy con heo, có đáng gì so với ân huệ to lớn mà cháu Liêm đã dành cho tôi!” Liêm vội ngắt lời tôi: “Thưa thầy, chuyện xảy ra đêm hôm ấy, không một ai hay biết. Vậy em xin thầy hãy quên chuyện ấy đi, em cám ơn thầy!” Ông Sửu không biết chuyện gì, chỉ trố mắt nhìn tôi và Liêm. Rồi ông nói tiếp: “Năm 1971 nghe ông Phó đổi lên quận Hương Thủy, chúng tôi có lên đó tìm ông Phó. Nhưng ở quận Hương Thủy cho biết ông Phó đã đổi ra Quảng Trị. Chúng tôi lại ra Quảng Trị, mong gặp được ông Phó, nhưng lúc đó, ông Phó đã đổi vô tỉnh Phong Dinh-Cần Thơ, tận trong Nam… Cho đến 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi không hề biết tin tức gì về ông Phó nữa! Từ đó, chúng tôi chỉ sống với kỷ niệm, với lòng biết ơn và thương nhớ ông Phó. Chúng tôi cứ nghĩ là ông Phó đã chết, nên cha con chúng tôi thiết lập một bàn thờ, để thờ ông Phó. Trên bàn thờ không có ảnh, không có bài vị, chỉ có hai chữ “Ông Phó” do cháu Liêm viết lên một tấm bìa cứng. Tuy đơn sơ như thế, nhưng mỗi ngày, vợ chồng, cha con chúng tôi đều thắp nhang lên bàn thờ để tưởng nhớ đến ông Phó.”

Bà Sửu tiếp lời ông Sửu: “Thưa ông Phó, ngày hôm nay được gặp lại ân nhân của gia đình chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt gà, bắt vịt nuôi trong nhà để làm một bữa cơm thiết đãi ông bà Phó và các vị cùng đi. Ngày hạnh phúc hôm nay, chúng tôi đã trông chờ gần 50 năm rồi đó.”

Nhưng một người bạn của nhà tôi, chị Như Quê nhắc nhở: “Anh chị Uyển ơi, chúng ta đã hẹn với các bạn ở Huế, trưa nay tụi mình sẽ dùng cơm với các bạn, mà bây giờ đã hơn 11 giờ rồi. Chúng ta nên xin phép hai bác Sửu, đi lên Huế kẻo các bạn chờ.”

Tôi đành phải cáo lỗi với ông bà Sửu và cháu Liêm. Ông Sửu buồn buồn nói với chúng tôi: “Gặp lại ông bà, chúng tôi vui mừng khôn xiết, mà ông bà đã vội ra đi, biết khi nào mới gặp lại ông bà.” Tôi an ủi ông bà Sửu: “Vì chúng tôi đã hẹn trước với các bạn, chúng tôi phải có mặt ở Huế trưa nay. Chúng tôi sẽ về thăm hai bác và cháu Liêm.” Ông bà Sửu và cháu Liêm bùi ngùi từ biệt chúng tôi. Khi mọi người đã lên xe, chúng tôi vẫn thấy gia đình ông Sửu buồn bã nhìn theo.

Chiếc xe con chở chúng tôi đã chạy đều trên quốc lộ, hướng về Huế. Bỗng chị Hồ Thị Hảo, một người bạn của nhà tôi, nói với mọi ngườir trên xe: “Hôm nay, chúng tôi tình cờ biết được câu chuyện của anh Uyển và gia đình ông Sửu. Câu chuyện làm chúng tôi ngạc nhiên và xúc động lắm, nhất là đoạn kết, lại rất có hậu, làm chúng tôi nhớ đến vài câu ca dao, tục ngữ của quê hương mình, thật hay, thật đúng, như câu ‘Trồng cây ngọt thì được ăn trái ngọt’ hoặc câu ‘Gieo nhân nào thì gặt quả ấy’ hay câu ‘Ở hiền thì gặp lành.’ Xin chúc mừng anh chị Uyển!”

Bửu Uyển (Tháng 1-2018)

From: Tu-Phung

 Tôi, Người Thương Phế Binh VNCH – Võ Thị Điềm Đạm

 Kimtrong Lam

Võ Thị Điềm Đạm

Mèn, không đã chút nào hết, đụng trận chưa được chục bận là bị thương mẹ nó rồi. Tụi nó đi lính lâu, tụi nó rành đường rành xá, nhìn bụi cỏ vũng nước là biết chỗ nào có mìn, chỗ nào có chông. Còn mấy thằng tò te máu mới như tui, mấy cha chuẩn úy, thiếu úy mới ra trường cũng vậy luôn, hăng máu, ngứa chân, nghe lệnh hành quân là hăm hăm hở hở, có biết sợ mẹ gì. Tới chừng nghe cái rầm là hết biết gì luôn. Mấy ông thượng sĩ già kinh nghiệm đầy mắt ngập chân, cứ căn đi dặn lại, đe tới dọa lui mà có thấm vô đầu thằng nào đâu.

Bữa đó, trời sáng bưng, ngày trước không mưa dầm, đêm qua cũng không nghe động đậy, ruộng rộng rừng thưa, tụi tui đi hành quân mà như đi chơi. Tui nhớ kỹ lắm, vừa quay qua định hỏi thằng hạ sĩ Tám Dọng Cổ, cứ dọng cho nó nửa xị là nó kéo mấy câu tục tằn nghe đã tai lắm, định hỏi chuyện gì thì thiệt tình tui không nhớ, bỗng nghe rầm.Tui không biết gì nữa hết. Sau này, nghe tụi nó kể là tui bất tỉnh tại chỗ, không biết đau biết đớn gì cả,cả đại đội chỉ có mình tui lọt sổ “mụ mìn” thôi. Mấy ông chỉ huy cấp tốc gọi trực thăng lại bốc tui liền. Cũng tụi nó kể, tại tui bất tỉnh nằm im re nên còn sống, mấy thằng bị thương mà leo lẻo cái miệng là chết lẹ.

Trực thăng đưa tui thẳng về bệnh viện Gò Vấp, cả tuần sau tui tỉnh hồn, nhìn xuống mới biết mấy bác sĩ cưa mẹ nó cái chân trái cho tới đầu gối, còn bàn chân phải thì bị thương nhẹ nhưng gân cộ đứt tréo tùm lum. Mấy tuần lễ đầu, cứ dòm xuống 2 cục băng bột to tổ chảng, cái trên cái dưới, tui thấy sao mà nó xa lạ quá. Đau khổ thì thiệt tình là không, nhưng tui cũng hơi chần dần, hơi ngỡ ngàng về cái thân thể không trọn vẹn của mình. Trời sinh tôi cái tính vô tư hay sao đó, ngó xuống bàn chân thì buồn buồn nhưng lo thì lại không biết lo cái gì. Chưa vợ, không bồ, thân tui mình ên. Ba má tui dưới Kiên Giang lên thăm cũng không than khóc, biểu chừng nào lành thì về quê sống với ổng bả. Tui biết, ba má tui không giàu nhưng các anh các chị lớn,ai cũng có ruộng vườn, tui về quê thì cứ tà tà mà sống, mãn đời. Vậy mà có cái gì đó nó níu kéo 2 cái chân què quặt này của tui.

Có phải mình tôi vô tư đâu, mấy ông nằm chung phòng, có ông đại úy, có ông trung úy chớ ít gì, ông nào bị thương nặng quá nói không được, cử động không nổi thì mới chịu nằm im, chớ miệng ông nào ông nấy giỡn hết biết, nói tục hết chê, quậy hết cỡ luôn, làm như chuyện nằm bệnh viện này là chuyện dưỡng sức. Có thằng thì muốn lành cho lẹ, nằng nặc đòi về lại đơn vị. Thằng nào ngon hơn thì trốn bệnh viện, kiếm phương tiện quá giang trở ra đơn vị. Tui mà đi đứng dễ dàng thì tui có thua gì tụi nó. Nhớ đồng đội, nhớ những lần hành quân căng thẳng, nhớ những bữa nhậu lai rai xuống vài câu vọng cổ… nhớ nhiều thứ mà chỉ những người đã từng đi lính mới hiểu thấu. Chừng ra viện mà còn luyến quyến nhau, hẹn nhau tái ngộ lai rai vài sợi.

Thời gian ở nhà an dưỡng Vũng Tàu là sướng nhất. Ăn ngủ, uống thuốc, thay băng, tập sử dụng xe lăn, tập tự làm chuyện vệ sinh, đấu cờ, đánh bài, lai rai vài sợi, chờ lãnh lương. Nói chuyện lãnh lương, so với bây giờ mới thấy thời buổi gì mà lạ đời. Thời này mà được lương như hồi ở nhà an dưỡng Vũng Tàu là thằng nào cũng muốn vô lính, lỡ có bị thương thì cũng có chính phủ nuôi, đó là nói chuyện chính phủ trước. Năm 66, tui lãnh 2600 đồng 1 tháng, lúc đó vàng giá 700 đồng 1 chỉ. Vậy chi mỗi tháng, lương của thằng trung sĩ như tui mua được gần 4 chỉ vàng, thằng trung sĩ thi rớt trung học nên phải tình nguyện đi lính. Ở nhà an dưỡng Vũng Tàu, lương lãnh đủ, tiền ăn uống thuốc men không ai thèm khấu trừ, nhu yếu phẩm lãnh không sót món nào. Sướng quá nên quên mẹ nó cái thân tàn tật của mình, nhứt là cái đám không vợ không con như tui. Tủi thân, trách phận? Tối nằm gác tay lên trán cũng phân vân, cũng nghĩ tới cái thân tàn tật. Nhưng sáng dậy, mới bửng mắt là đã nghe thằng cụt tay xuống câu vọng cổ ngọt lịm,đã thấy thằng cụt giò tập quay xe lăn một bánh, nghe ông một mắt kể chuyện “chị em”…1 ngày như mọi ngày, quên mất! Nói nào ngay, đi lính mà, sống chết là chuyện thường tình, thương tích là chuyện cơm bữa.

Ở miền Nam thời đó, thanh niên nếu không đi học thì một là đi lính, hai là trốn quân dịch, ba là vô bưng theo mấy ổng.

– Sao anh không vô bưng?

– A… anh hỏi câu này tui mới nghĩ tới. Vô bưng khổ thấy mẹ, đói róc người, chết như rơm. Mấy thằng bà con phía nội, phía ngoại tui ở dưới quê nhắm trốn lính không đặng, nghe lời dụ ngon dỗ ngọt, vô bưng, chết lần chết mòn, riết rồi đếm đi đếm lại chỉ còn vài thằng. Tui tính tới tính lui, ngó trước ngó sau, thấy đường tình nguyện đăng lính là thượng sách. Trốn cách mấy cũng bị bắt. Bị bắt đi lính thì không được hưởng nhiều quyền lợi như tình nguyện. Trốn chui trốn nhủi chi cho khổ cha khổ mẹ, cho nhục cái thằng đàn ông. Rớt trung học được vài tháng là tui đăng đi lính, được bổ ra Sư Đoàn 9. Hồi thời tui, thời 66, lính của Sư Đoàn là bị đưa khắp 4 vùng chiến thuật. Mấy năm sau mới có chính sách lính được đóng gần quê mình. Nhưng lính Sư Đoàn khác với lính Địa Phương Quân nghen, lính Địa Phương Quân được đóng tại địa phương của mình nhưng lương ít, không được hưởng những quy chế đặc biệt và nhứt là không được đi đây đi đó, ít hành quân.

– Không sợ đi hành quân sao anh?

– Không! Không thằng lính nào sợ lệnh hành quân hết. Sợ chết? Sợ bị thương? Không ai nghĩ tới chuyện đó! Đến chừng chết là hết, đến chừng bị thương mới biết phận tàn tật. Lính mà!

Ở trại an dưỡng Vũng Tàu được nửa năm thì làng Thương Phế Binh Thủ Đức bắt đầu xây cất, chia lô. Mấy cha lanh lẹ, “bốc thăm” được nhà ở đường Số 1, Số 2, còn tụi tui cũng bốc thăm, được nhà ở tuốt vô trong, đường Số 11. Kệ! Được cho không cái nhà là cha rồi. Được có cái xe lắc nhôm nhẹ nhàng, sức tui quay có thua gì thằng chạy xe đạp.

– Có được đem vợ con theo không?

– Có chớ! Ông nào có vợ thì đem vợ con về làng phế binh ở, làm ăn, gầy dựng. Đui què sứt mẻ vậy chớ coi ra từ từ rồi thằng nào cũng kiếm được vợ. Vợ lanh biết làm ăn buôn bán, vợ khờ ăn lê ngồi mách, vợ hung mắng chồng chửi con, vợ hiền an phận đẻ con, vợ giàu, vợ nghèo, vợ đẹp, vợ xấu… người lành lặn có vợ cỡ nào thì tụi tui cũng có vợ cỡ đó. Thân tàn tật nhưng có nhà cửa, có lương, có nhu yếu phẩm mỗi tháng, đủ nuôi vợ con… Mấy thằng độc thân như tui sướng quá nên hư! Lương tháng nào xài tháng đó, không biết để dành hậu thân, thẻ nhu yếu phẩm mỗi tháng cũng bán luôn. Tại hồi đó tui ngu, đang học khóa sửa tivi, radio, không biết mắc chứng gì lại nghỉ ngang. Trường dạy nghề ngay trong làng Phế Binh này chớ đâu xa, muốn học nghề nào cũng có, thợ may, đánh máy, vẽ, thợ tiện, thợ hàn, tàn tật cỡ nào thì có nghề đó. Trường này, bây giờ nhà nước cũng mở dạy nghề cho đám trẻ, lớn lắm, anh vô sâu chút xíu là thấy.

Hồi đó mấy ông thương phế binh quậy dữ lắm, đòi hỏi, làm yêu làm sách đủ thứ. He… he… thời đó vui thiệt. Mấy ông nhà báo, mấy ngài quan chức xúi biểu tình đòi hỏi này nọ thì tụi mù quơ gậy, tụi què lắc xe ùa theo chớ tụi tui có rành luật rẽ pháp gì đâu mà yêu với sách. Cứ nắm cái luật “Nông dân có ruộng, thương binh có nhà” của ông tổng thống Thiệu, mấy ông thương binh hết đòi cất nhà chỗ này đến đòi dành đất chỗ kia. Nghĩ lại, thấy mấy ông thương binh thời đó tưởng mình là con trời hay sao đó. Thiệt là được voi đòi tiên!

Được vài năm, tui cũng tính về quê đó chớ, kẹt cái con vợ tui nó người Biên Hòa, kẹt cái nữa là anh em thương phế binh với nhau tình nghĩa gắn bó, riết rồi anh em coi cái làng Thương Phế Binh Thủ Đức như quê mình vậy.

Chà, đến sau 75 mới gay go. Thì cũng như tất cả anh em, hồi trước, không biết lo, không biết để dành hậu thân nên khi vỡ lỡ ra thì thằng nào cũng lây lất, bán lần bán mòn đồ đạc trong nhà. May mà vợ chồng tui bỏ nhau trước đó, lại không có con, thân tui một mình cũng nhẹ lo. Được chừng nửa năm-một năm thì phải, ai có chân làm trong hợp tác xã, làm công nhân hãng xưởng thì được giữ nhà, còn không là phải giao nhà cho nhà nước, đi kinh tế mới hay về quê. Ờ, tàn tật cỡ nào cũng phải đi kinh tế mới.

Về quê báo cơm thì khổ ba má già, què quặt một mình thì làm sao phá rừng làm ruộng nên tui trốn, ở lại, sống nhờ anh em. Mấy anh em kéo gia đình con cái đi kinh tế mới, vài năm khổ quá chịu không thấu, trở về lại thì nhà bị tịch thu mất tiêu. Người có tiền thì mua lại, người mướn lại, người không tiền đành phải ăn nhờ ở đậu. Người đi kinh tế mới hay trốn không đi thì nhà cũng bị tịch thu hết. Tịch thu phát cho ai hả? Thì phát cho mấy cán bộ nhân viên ngoài Bắc vô. Mấy cán bộ này ở một thời gian, làm ăn khá giả, bán nhà dọn đi.

Tui trốn về Sài Gòn, ở nhờ người bạn nằm cùng phòng hồi ở nhà thương Gò Vấp. Đến chừng gia đình anh đó về quê, tui mới xấc bấc xang bang. Ở nhờ chỗ này vài tháng, chỗ kia một năm, có khi ngủ ngoài đường, cũng xong! Cái xe là nhà.

Xe lắc được phát hồi trước bằng nhôm vừa nhẹ vừa dễ di chuyển nên tui đi tới đi lui buôn bán kiếm sống cũng qua ngày. Cái xe là cái chân, đến chừng xe lắc nhôm hư mà không có tiền sửa mới thấy khổ. Lây lất một thời gian thì được hội gì đó, Hội Thánh Tin Lành thì phải, tặng chiếc xe này đây. Hơi nặng nên không đi được xa, tui xoay ra bán vé số quanh vùng này.

Kệ, đói thì không đói. Hồi thời “bao cấp”, anh em ăn độn bảy ba thì tui cũng ăn độn bảy ba, sống lây sống lất rồi cũng xong. Bây giờ thì cơm trắng gạo sạch nên thong thả hơn. Coi vậy mà hơn 30 năm rồi còn gì. Sau 75, tui định tự tử mấy lần đó chớ, nhưng Trời chưa chấm sổ. Cũng từ đó, tui thành thằng bụi đời đúng nghĩa của nó. Con nít trốn nhà thành bụi đời một thời gian rồi tìm đường về với cha với mẹ. Còn tui, bụi đời cả đời luôn, mãn kiếp luôn.

Bao nhiêu tuổi! Để coi, mẹ… chắc chừng 62, 63 chi đó. Có bao giờ nghĩ đến tuổi tác gì đâu. Năm hết Tết đến, thấy người ta vui, tui cũng vui theo. Bạn bè người cho đòn bánh tét, người kêu lại lai rai 3 ngày Tết, cũng xong. Gia tài tui là cái xe lăn và hai cái bị đen này đây. Cái bị treo trước xe là bộ quần áo để thay đổi.Cái bị nhét dưới yên xe là cái mền đắp qua đêm. Xong. Ờ, bạn bè từ nào đến giờ cũng là anh em thương phế binh với nhau.

Cũng dựa vào tình anh em thương phế binh với nhau đó chớ! Tình thương phế binh nó truyền qua đời con nữa đó anh. Con gái của một anh bạn thương phế binh, thấy hoàn cảnh không nhà không cửa của tui, vợ chồng cô ấy giao chìa khóa nhà, biểu tui chiều tối về giăng mùng ở phòng khách mà ngủ, tránh mưa gió. Cô cậu tốt bụng lắm nhưng tui không muốn làm phiền, chờ chừng 11,12 giờ khuya mới về, 5 giờ sáng là khóa cửa đi ra chùa đặng tắm rửa rồi đi lãnh vé số để bán. Trưa thì nay tắp vô quán cà phê, mai ghé gốc cây hàng cơm của vợ chồng mấy anh bạn, cũng là thương phế binh, đặng mua hộp cơm, ly trà đá, và cũng để nghỉ luôn.

Anh thầu vé số này cũng là thương phế binh, được cái anh có bà vợ giỏi, vợ chồng ảnh chăm chỉ làm ăn nên mới gầy dựng được như ngày hôm nay. Người khác phải đặt cọc mới được lãnh vé số, còn tui, anh chị cho tui muốn lãnh bao nhiêu thì lãnh, không cọc không thế chân gì hết, bán bao nhiêu ăn bấy nhiêu, không hết thì trả lại. Tình thương phế binh mà anh!

Tuy cái thương tật nó đã lành lặn nhưng ảnh hưởng nó lậm vô cơ thể cũng ác liệt lắm nên không có mấy ông sống thọ. Lại thêm khoảng thời gian đi kinh tế mới, ăn độn ngủ rừng nên cỡ tui, già hơn tui vài năm, chết gần hết. Nhiều người cũng làm ăn nên nổi, con cháu đầy nhà. Được cái mấy ông này thường giúp đỡ anh em nghèo túng. Tui chưa thấy ai quay lưng với anh em hết. Nó có một cái gì đó, nó ràng buộc anh em thương phế binh tụi tui với nhau. Tụi tui cũng quen biết vài anh em thương phế binh ngoài Bắc đó chớ. Anh em không có chuyện thù hằn gây gỗ gì hết, đụng trận thì phải chém giết nhau, hòa bình tan hàng thì cũng là người Việt mình với nhau, anh em một nhà.

Ở tuốt Hàng Xanh vậy chớ một tuần vài ba bận, nhớ anh em, chiều mát, tui lần mò về làng Thương Phế Binh Phước Bình này đây. Không làm gì hết, ít tiền thì trà, cà phê, bữa nào khá hơn thì vài xị. Tui không ham nhậu nhẹt, chỉ mê cờ tướng. Nhiều bữa gặp bàn cờ có cơ, tui mê coi, quên mẹ xấp vé số chưa bán xong, chừng có người nhắc tui mới ba chân bốn cẳng… ha… ha… tay quay người đẩy chạy về kịp trả lại vé số cho chủ thầu trước 4 giờ. Mê lắm anh! Ngó nước cờ chừng 5 phút là biết cơ người chơi liền. Đã nhất là gặp người cùng cơ.

Tui làm gì mà kêu mấy ông đó đi nhậu. Mấy ông nhà cửa đàng hoàng, cơm nước đầy đủ, lâu lâu hú kêu anh em tay làm hàm nhai cỡ tui lại nhậu vài xị, tán dóc hết bữa. Tán dóc chuyện gì hả? Chà, thì toàn chuyện đánh nhau hồi đó, chuyện đời thương phế binh, hà… hà… kể hoài không hết, nói cả ngày cũng không mãn chuyện. Không, không ông nào hận thù oán trách, in như thân số mình là vậy nên cứ sống theo vậy.

Tui không ao ước điều gì hết. Tui lãnh vé số bán, bán không hết thì trả lại, nhưng phải trước 4 giờ. Mỗi ngày kiếm cỡ 20, 25 ngàn đồng, đủ no bụng, tối ngủ nhờ nhà người quen, tắm rửa thì ra chùa. Bịnh hoạn? Tới đâu hay tới đó! Trời không cho sống nữa, thì tui dạ. Tui thấy tui may mắn, vợ con không có nên không làm khổ ai, không là gánh nặng cho ai. Cha mẹ tui chết hết nên quê quán cũng không còn. Tiếng là ở Hàng Xanh nhưng tui sống chết với cái làng Thương Phế Binh Phước Bình này, với anh em.Tui định bụng nếu tui tìm được chỗ ngủ nhờ ở làngThươngPhế Binh thì tui trở về ở cho tới chết. Được chôn ở xã Phước Bình này là tui mãn nguyện.

A, anh biết tên xã Phước Bình của làng Thương Phế Binh có nghĩa là gì không? Ph-B là Phế Binh đó.

Võ Thị Điềm Đạm.

(Viết theo lời kể của một thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa)


 

Đôi Mắt Mùa Xuân – Phạm Tín An Ninh – Truyen ngan HAY

Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức.  Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm.  Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với đôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cảm ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cảm ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung đội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postale, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sự vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy động trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Đắk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Đắk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máy Alumin Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đập mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cửu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh .


 

Truyện ngắn: Ngoại tình-Hoàng Thị Bích Hà

Ba’o Nguoi-Viet

September 13, 2025

Hoàng Thị Bích Hà

Trước mắt tôi là hình ảnh chị Vân Anh, một người phụ nữ đẹp, thành đạt. Chị vừa bước vào tuổi ngũ thập, dáng người nữ tính, nhanh nhẹn hoạt bát, đôi mắt đẹp toát lên vẻ thông minh, điềm đạm.

Chị là người mẹ đơn thân, nuôi con từ khi 25 tuổi đến bây giờ. Các con của chị đã trưởng thành, các cháu cũng đã trên dưới tam thập rồi!

Chị vẫn sống vui vẻ bên các con mặc dù không ít người yêu thương nhưng chị đều từ khước. Chị muốn bù đắp cho các con khi thiếu ba nên chị không đành lòng đi bước nữa, chị sợ các con khổ.

Câu chuyện trở về thời học phổ thông trung học, anh và chị cùng học chung lớp, chị học giỏi, nhưng sau khi vướng vào chuyện yêu đương, bỗng nhiên lực học sút hẳn. Chị nheo mắt cười tinh nghịch bảo:

-Chị “mê trai” hơi bị sớm!

Học xong cấp ba, hai người đi qua Đức theo diện xuất khẩu lao động. Qua bên đó hai người kết hôn, sống cùng nhau và bước vào làm làm ăn thuận lợi lắm. Lúc còn ở Đức, bạn bè bên đó đã gọi anh chị là “đại gia” rồi, có nghĩa là anh chị làm ăn phất lên như diều gặp gió, buôn bán thành công ngoài sức tưởng tượng ban đầu của hai vợ chồng.

Thế rồi bức tường Bức tường Berlin sụp đổ, bạn bè cùng đi với anh chị đa số ở lại làm ăn rồi thành công dân Đức cho đến ngày nay. Còn anh thì lại muốn về nước. Chị bảo công việc đang làm ăn thuận lợi, vậy mà vì chị yêu anh quá nên nghe anh nói một câu về là về liền à. Không suy nghĩ gì cả. Mặc dù con của chị đang học phổ thông bên Đức, cháu học giỏi, người ta tốn bao tiền cho con đi du học, mình đang ở ngay đó rồi lại trào về.

Thế rồi gia đình anh chị hồi hương, tiếp tục ổn định và làm ăn cũng thuận lợi, xếp vào hàng khá giả thời bấy giờ. Gia đình anh chị sống hạnh phúc. Sau khi chị sinh đứa con thứ hai (vào lúc 25 tuổi) chị phát hiện ra ở anh có chút gì khang khác. Anh có vẻ sửa soạn áo quần bảnh bao hơn, rồi còn dùng dầu thơm (nước hoa) nữa. Tính anh hồi nào tới giờ sống giản dị, chưa có khi nào xức dầu thơm mà nay cứ mỗi lần ra khỏi nhà là áo quần láng cóng, lại còn thoang thoảng mùi nước hoa. Chị sinh nghi từ đó. Thời gian anh ở nhà cũng ít dần đi, khi nào đi làm về cũng muộn, và thường xuyên nói là đi công tác xa.

Chị quyết định phải theo dõi để tìm ra nguyên nhân. Trong thâm tâm chị không bao giờ nghĩ là anh sẽ ngoại tình. Vì hai người yêu nhau từ thuở còn là học sinh phổ thông trung học mà. Rồi lại cùng nhau đi nước ngoài, cùng nhau làm ăn rồi trở về nước gắn bó đồng hành cùng nhau.

Đêm đó vào lúc 12 giờ, khi anh đã ngủ say, chị bắt đầu thức mò mật khẩu từ số điện thoại, mò hết dãy số này sang dãy số khác đến 3 giờ sáng thì chị mở được điện thoại của anh. Chị đọc được tin nhắn anh nhắn cho cô bạn thân của chị rằng:

-Cảm ơn em đã cho anh những ngày vui vẻ!

Rồi chị lướt lên một loạt tin nhắn hai người nhắn cho nhau yêu thương nghe mùi mẫn, ướt rượt. Chị điếng hồn, không tin vào mắt mình nữa!

Chị bàng hoàng, tưởng như tim mình vụn vỡ, trời đất như sập xuống. Nỗi đau lớn chưa từng có xuất hiện quá đột ngột, bóp nghẹt trái tim chị. Chị nghĩ sao lại như vậy? Sau ngần ấy năm chung sống, đồng cam cộng khổ, yêu nhau từ thuở học trò đến nay không ngờ bị chồng phản bội. Chồng ngoại tình đã là đau lắm rồi. Đau hơn nữa là với cô bạn thân. Cô bạn này cùng với anh và chị là ba người ngày xưa học chung một lớp. Nay cô ấy làm chung cơ quan với anh. Chị cũng tin tưởng cô bạn này lắm. Mà sao cả hai người hùa với nhau cùng nhau phản bội lại lòng yêu thương, tin tưởng của chị?

Chị giữ im lặng, chịu đựng và tiếp tục theo dõi. Một hôm chị quyết định phải làm một điều gì đó,… rồi chị gọi điện nhờ bà ngoại qua giữ cháu.

Chị nói:

-Mẹ qua nhà giữ cháu giùm con đi công chuyện một chút!

Chị qua nhà người quen trong xóm mượn chiếc xe máy cùi bắp, mượn áo quần người ta mặc cho lạ, hóa trang, mặt mày bít kín, kính râm to bản,… để anh khỏi nhận ra. Rồi chị đến gần cổng cơ quan anh kiếm một góc kín đáo quan sát. Đợi đến giờ tan sở, thấy anh bước từ cơ quan ra, tiếp đến thấy cô bạn thân của chị cũng bước ra, anh quàng vai ôm cô bạn vào lòng. Chị thấy trời đất như sụp đổ ngay trước mắt mình!

Đau lắm! Ai xé lòng mình tan nát thế này! Thôi thế là hết! Chị gục mặt xuống ghi đông một thoáng rồi định thần. Lý trí mách bảo mình phải làm gì! Chị tiếp tục nhìn về phía họ.

Anh mở khóa xe ô tô cho cô bạn bước lên xe rồi cùng nhau lên xe hướng ngoại ô thẳng tiến! Chị bám theo, anh lái ô tô, còn chị đi xe máy cà tàng, anh chạy nhanh, chị cũng phải chạy nhanh cho kịp, chị bảo lúc đó mình phóng xe bạt mạng, đúng là tay lái lụa. Gần 30 năm bây giờ ngồi nghĩ lại chị vẫn khiếp. Không hiểu sao lấy đâu ra nội lực mà đuổi theo anh được như vậy, nhỡ có bề gì để hai đứa con lại ai lo?

Ra ngoại ô thành phố, anh rẽ vào một khách sạn nhỏ, yên tĩnh, xa trung tâm. Chị đứng nhìn theo thấy họ ôm nhau bước vào phòng. Chị lập tức gọi điện cho thằng em họ đang ở Long An, nhắn địa chỉ và nói như ra lệnh:

-Mày lên thành phố gấp gấp cho chị. Địa chỉ đây!

Cậu em cũng lái xe chạy như bay đến chỗ chị đang đứng đợi!

Chị bảo:

-Hai chị em mình đóng vai tình nhân vào khách sạn thuê phòng.

Tới phòng hai người mình gõ cửa bảo là “đưa nước.” Khi cửa mở là ập vào ngay, em lập tức ôm anh ta cho chị. Việc còn lại để chị xử lý!

Khách sạn ngoại ô cũng vắng vẻ nên cũng dễ tìm phòng, chỉ có hai phòng được thuê là phòng anh và cô bạn và phòng chị và thằng em thuê.

Tới phòng anh gõ cửa, chị ập vào thấy rõ hai người, mặt mày tái mét. Cậu em xông đến ôm cứng ngắc ông anh rể. Còn chị lao vào đánh anh cho hả giận. Vừa đánh vừa mắng. Rồi chị quay sang bớp cô bạn thân hai bạt tai:

-Mày hết người rồi à! Sao ưa ai không ưa lại đi giật chồng tao!

Rồi chị lại quay lại tiếp tục đánh anh. Chị rít lên:

-Anh ngoại tình lại nhằm ngay vào cô bạn thân của tôi là sao? Thế giới này hết người rồi à! Hai vợ chồng cùng nhau đi từ Á sang Âu rồi cùng nhau làm ăn sinh con, hồi hương,… biết bao gắn bó! Tôi yêu anh hết lòng tấm chân tình của tôi vậy mà anh nỡ lòng nào phản bội tôi thế à! Anh có còn xứng đáng là cha của con tôi không?

Chị kể: “Chị đánh đòn anh là nhiều, chứ cô kia chỉ cảnh cáo hai bạt tai là đủ!”

Chị nói: “Nguyên nhân là do thằng chồng mình thôi! Chẳng lẽ cô kia ve vãn chồng mình, nếu mà gặp người đàn ông đàng hoàng đứng đắn, không lẽ cô kia đè chồng mình ra mà hiếp à! Nên thôi hai người đàn bà không nên đánh nhau vì một thằng đàn ông chẳng ra gì!”

Sau lần ấy về thì chị đưa đơn ly hôn! Anh thì rối rít xin lỗi, hứa sửa chữa này nọ, cắt đứt cô kia,… gia đình hai bên nội ngoại cũng nói vun vô: “Tha thứ cho nó một lần đi con!”

Nhưng lòng chị đã quyết. Ngoại tình một lần, không chắc sẽ ngoại tình lần thứ hai,.. và lần thứ n. Nên thôi chị dừng lại ở đây để bước ra khỏi nỗi đau giằng xé này.

Mặc dù chị vẫn rất yêu anh, nhưng lòng tin đã hết. Chị bảo rằng “chị muốn tắt giông bão, lòng chị xứng đáng được bình yên. Để lo làm ăn, toàn tâm toàn ý lo cho con. Còn có chồng mà không thể tin tưởng nữa thì suốt ngày vừa lo làm ăn nuôi con, vừa lo canh chừng chồng thì khổ quá!”

Rồi anh chị ra tòa. Hồi trước khi kết hôn, chị đưa ra một điều kiện: Sau này một trong hai người, ai phản bội thì phải ra đi tay trắng. Để lại toàn bộ nhà cửa , xe cộ, của cải lại cho người còn lại nuôi con. Bất kể là vợ hay chồng. Anh cũng đã ký thỏa thuận. Anh nghĩ bụng là cứ ký chứ đang yêu nhau, ai mà nghĩ đến có ngày phản bội.

Giấy trắng mực đen. Ra tòa phân xử, anh ra đi tay trắng, còn hai đứa con và của cải để lại cho ba mẹ con. Nhưng rồi chị cũng cho anh ít tiền đủ cất một căn nhà nhỏ, anh sống một mình.

Ba mươi năm đã trôi qua, các con chị đã học hành trưởng thành và có công ăn việc làm ổn định. Chị vẫn sống đơn thân, không bước đi bước nữa, bạn bè nói chị hi sinh nhiều quá nhưng chị bảo chị vậy cũng hạnh phúc bên các con rồi. Có bạn bè, tri kỷ thỉnh thoảng cà phê nói chuyện cho vui thôi chứ chị không có ràng buộc với ai cả!

Còn về phía anh thì sau lần ấy anh không tới với cô bạn kia. Hai người cũng ai đi đường nấy và anh vẫn sống một mình. Các con cũng thương anh. Chị giáo dục con vẫn yêu quý kính trọng ba, dù việc của người lớn là ba mẹ đã hết duyên nợ với nhau rồi nhưng ba vẫn là ba của các con.

Chị vẫn cho anh thỉnh thoảng ghé thăm con, có tiệc tùng gì cũng đi nhà hàng ăn uống cùng các con cho con vui. Đôi khi cả nhà bốn người cũng đi du lịch, vào khách sạn thuê một phòng 4 giường, hai ông bà hai giường, hai đứa con nằm hai giường ở giữa. Anh chị nói chuyện với nhau như bạn bè vậy thôi. Nội ngoại và các con vẫn muốn hai anh chị về lại với nhau nhưng chị không thể! Chị bảo: “Lòng chị đã khép!”

(Tựa cho SGN đặt – Vanchuongviet)


 

Charlie Chaplin những ngày cuối đời

Năm 1977, trên con đường ven hồ Léman ở Corsier-sur-Vevey, Thụy Sĩ, một trong những khoảnh khắc cuối đời của Charlie Chaplin được ghi lại: ông ngồi trên xe lăn, dáng người mảnh khảnh, đôi mắt đã mệt mỏi sau gần chín thập kỷ biến động, bên cạnh là Oona O’Neill – người vợ trẻ hơn ông 36 tuổi, con gái của đại văn hào Eugene O’Neill. Oona lặng lẽ đẩy xe, gương mặt bình thản nhưng ánh lên sự tận tụy. Bên dưới tấm chăn phủ trên chân Chaplin có một chú chó nhỏ nép mình, khiến cảnh tượng vốn đã đầy tính nhân văn lại càng ấm áp hơn.

Cuộc đời Chaplin từ vinh quang rực rỡ ở Hollywood, trở thành “ông hoàng của tiếng cười” với những tác phẩm bất hủ như The Kid, City Lights hay Modern Times, đến những năm tháng bi kịch bị chính trị hóa và buộc phải rời Mỹ, đã nhuộm màu bi kịch lẫn hào quang. Ông tìm thấy sự bình yên cuối đời nơi miền quê Thụy Sĩ, và quan trọng hơn, tìm thấy bến đỗ trong cuộc hôn nhân với Oona. Khi kết hôn năm 1943, Chaplin đã 54 tuổi còn Oona chỉ vừa tròn 18. Hôn lễ khi ấy gây sóng gió dư luận, nhưng Oona bất chấp tất cả, dành cả đời để chăm sóc, sinh cho Chaplin tám người con và trở thành điểm tựa lớn nhất của ông.

Giai thoại kể rằng Chaplin từng nói, Oona đã cứu ông khỏi sự cô đơn, khỏi nỗi ám ảnh bị ruồng bỏ, đem lại cho ông hạnh phúc giản dị mà trước đó chưa bao giờ chạm tới. Họ cùng nhau đi qua ba thập kỷ, từ những năm tháng tuổi già yếu ớt cho đến phút cuối cùng. Giáng sinh năm 1977, Chaplin qua đời trong giấc ngủ ở tuổi 88, để lại khoảng trống mênh mông trong nền điện ảnh thế giới. Oona sống thêm mười bốn năm, luôn giữ cho ký ức về Chaplin sống mãi trong trái tim gia đình và công chúng.

Bức ảnh trở thành biểu tượng dịu dàng về tình yêu và sự đồng hành: thiên tài từng mang tiếng cười cho cả nhân loại cuối cùng cũng cần bàn tay chở che của một người phụ nữ, cần một gia đình để tựa nương. Đó là hình ảnh nhắc nhớ rằng đằng sau ánh đèn sân khấu và huyền thoại điện ảnh vẫn là một con người bình thường, khao khát được yêu thương đến phút cuối.

From: taberd-NguyenNThu


 

Chị tôi, người đào mộ – Truyen ngan HAY

Chị tôi, người đào mộ

-::-

Đêm Văn Điển hun hút gió. Nghĩa trang mênh mông những gò mả mới, ánh trăng loang loáng trên bia đá lạnh. Phượng ngồi thu mình bên gốc bạch đàn, hai bàn tay gầy run rẩy ôm chiếc cuốc cũ. Bụng đói cồn cào, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt hai đứa em gầy guộc đang ngủ trong căn nhà dột.

“Chỉ một lần thôi,” Phượng thì thầm, rồi quỳ xuống trước ngôi mộ vừa mới đắp. Cô thắp ba nén hương, giọng run rẩy:

– Con xin lỗi… Con chỉ muốn các em con được đi học…

Chiếc cuốc cắm xuống đất. Ngôi mộ vừa chôn. Đất còn chưa khô. Những vòng hoa vẫn tươi. Âm thanh khô khốc vang vọng giữa đêm, như cứa vào da thịt chính cô. Mồ hôi rịn ra lạnh buốt, mùi đất tanh nồng trộn lẫn mùi tử khí. Khi lớp ván mộ bật ra, cô thấy những vật dụng nhỏ lấp ló. Tay run bần bật, nước mắt chảy xuống hốc mộ. Cô cầm lên từng món, khấn lạy, rồi bỏ vào túi. Đêm ấy, lần đầu tiên, Phượng trở thành “kẻ đào mộ”.

Nhưng rồi một lần biến thành trăm lần. Năm năm ròng rã, cái cuốc cũ in hằn bao dấu vết trong nghĩa trang Văn Điển. Lần nào cũng có ba nén hương, có lời xin lỗi run run. Lần nào cô cũng tự nhủ: “Đây là lần cuối.” Nhưng sáng hôm sau, khi thấy hai đứa em ngủ gục trên sách, bụng lép kẹp, Phượng lại ra đi.

Có một đêm, khi bật ván mộ, trong khi loay hoay lột quần áo của thi thể một người đàn bà to béo nặng nề, bất ngờ bà đổ sập xuống, đè lên thân hình mảnh khảnh của cô. Cái lạnh bủa vây, mùi tử khí xộc thẳng vào ngực. Cô ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới cái xác đã bốc mùi, cô òa khóc như đứa trẻ, vừa run vừa khấn: “Con sẽ dừng lại… con thề sẽ dừng lại.”

Nhưng rồi, cô lại xách cuốc ra nghĩa trang.

Một sáng Hà Nội se lạnh, cái tên Phượng vang lên trên loa phóng thanh trước Tòa án Nhân dân. Người ta tụ lại, không phải chỉ vì tò mò, mà còn vì căm phẫn. Thân nhân của những gia đình bị một cô gái trẻ cậy mộ quây kín toà án. Phiên toà mở công khai cho toàn dân chứng kiến.

Trong phòng xử, cô bước vào, dáng nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian luật pháp. Người ta nhìn cô như nhìn một bóng ma. Bản cáo trạng đọc dõng dạc: “Đào trộm mộ tại nghĩa trang Văn Điển, tái phạm nhiều lần.”

Chủ tọa cất giọng cứng rắn:

– Bị cáo có hiểu tội danh không?

Phượng cúi đầu:

– Dạ… con hiểu.

– Vì sao bị cáo lại làm như vậy?

Giọng ông rơi xuống, nặng nề như hòn đá. Cả phòng xử nín thở.

Phượng im lặng rất lâu. Rồi cô ngẩng lên, đôi mắt trũng sâu, giọng khàn đặc:

– Vì… hai đứa em của con.

Một làn sóng rúng động tràn khắp khán phòng. Người ta thì thầm, rồi lặng đi. Chủ tọa gật đầu ra hiệu, giọng bớt gay gắt:

– Nói rõ hơn.

Phượng bắt đầu kể. Bố mẹ mất sớm, cô gánh lấy mái nhà khi mới chưa đầy 16. Hai đứa em đang tuổi ăn học, còn cô làm thuê, bán hàng rong, cấy thuê, đổi công, làm hàng xáo, mò cua bắt ốc thôi thì không từ việc gì. Đầu tiên, cô chỉ mò vào nghĩa trang lấy trộm bát cơm quả trứng mấy chị em ăn cho qua bữa, sau là tấm áo manh quần, rồi đào những ngôi mộ mà cô biết người ta chôn theo những đồ quý giá… Mỗi lần đều thắp nhang, đều khấn xin. Mỗi lần đều hứa “chỉ một lần thôi.”

Đến đoạn thi thể đổ sập xuống, Phượng bật khóc, giọng nghẹn đặc. Nước mắt chảy dài xuống hai gò má hốc hác.

Bỗng từ hàng ghế khán giả, hai đứa trẻ òa khóc, lao lên phía trước. Đó là hai đứa em của Phượng. Chúng quỳ sụp, ôm lấy chị, nghẹn ngào:

– Chị ơi! Chúng em không biết… Chúng em không biết…

Khán phòng chấn động. Người tham dự phiên toà cúi mặt, nhiều người đưa tay lau vội nước mắt.

Thẩm phán im lặng rất lâu. Ông nhìn xuống hồ sơ, rồi nhìn cô gái gầy gò quỳ trong vòng tay hai đứa em. 

Toà xử án treo.

Mấy hôm trước nhà mình vừa xem xong bộ phim 150 tập của Hàn quốc. Bộ phim nói về cuộc đời của ba người chị thay cha mẹ đã chết nuôi em trai ăn học thành tài. Họ không ai đi ăn trộm, càng không trộm mộ- vì của nả cha mẹ để lại đủ ăn cả đời. Nhưng ông xã mình kể cho mình nghe vụ án chị gái đào mộ nuôi hai em, được xử khoan hồng do yếu tố nhân đạo. Nửa thế kỷ trước- chồng mình khi đó còn nhỏ, đã đi xem xử án.

Không biết ai ở Hà nội những năm đó còn nhớ vụ này không? Mình chỉ biết nghe rồi kể lại thôi…

Hồi đó… con người ta cũng thật biết thương lấy nhau. Giờ vì nghèo mà làm bậy- không biết toà xử sao? Lương tâm phán thế nào?

Hả các cụ?

Cụ Ka

Kiều Thị An Giang


 

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn (Tiểu Tử)

Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .

Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.

Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!

Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!

Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .

Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.

Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!

Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm ahy, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!

Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.

Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.

Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”

Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!

Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?

Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .

Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!

Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.

Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.

Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .

Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.

. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.

. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.

. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.

. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .

. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.

. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!

Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .

. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.

Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .

Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?

Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…

Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “

Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường . . .

Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!

Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .

* * *

Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”

Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .

Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa:

“ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...

tieutu_sign