Chuyện hy hữu nhưng có thật nhé!?!

Phan Nam Hưng

Hai mươi lăm năm trước, một câu chuyện đã lan truyền rộng rãi ở Chiang Mai, Thái Lan về một con trâu chạy thoát thân khỏi lò mổ.

Với máu me bê bết và nó lao vút xuống đường cao tốc, trong nỗi kinh hoàng và tuyệt vọng. Các đài phát thanh địa phương cảnh báo công chúng hãy cảnh giác – gọi nó là “một con trâu điên”, một số phóng viên thậm chí còn gọi nó là “trâu ma điên”, cho rằng nó đã đâm vào xe cộ khi đang chạy trốn.

  Chúng tôi vội vã đến hiện trường và thấy nó bê bết máu, một viên đạn sượt qua trán – may mắn thay, nó không xuyên qua hộp sọ. Chúng tôi đã cứu sống nó và từ chối đưa nó trở lại lò mổ, ngay cả khi những tiếng nói giận dữ đòi bồi thường cho những chiếc xe bị hư hại của họ và kêu gọi giết chết nó.

Với sự giúp đỡ của những người tốt bụng, chúng tôi đã giải cứu nó.

Ngay sáng hôm sau, tại ngôi nhà mới, nó đã đẻ một con. Chúng tôi đặt tên cho nó là Mae Sroy, theo vết sẹo quanh cổ, và đặt tên con trâu mới sanh là Chokdee, có nghĩa là “May mắn”.

Kể từ đó, Mae Sroy và Chokdee đã sống yên bình giữa đàn trâu tại Tổ chức Cứu trợ Voi.

Giờ đã rất già – trâu thường sống khoảng 26-27 năm – Mae Sroy không còn có thể đi bộ cùng đàn nữa. Con trâu con nay đã lớn và trở thành đầu đàn, trong khi Mae Sroy chuyển đến gần nơi trú ẩn của chúng tôi để được chăm sóc chu đáo hơn. Giờ đây, Mae Sroy chỉ ăn thức ăn xay nhuyễn, mềm, vì răng đã mòn dần theo tuổi tác.

Rồi trận lũ lụt gần đây ập đến. Mặc dù nơi trú ẩn nằm trên vùng đất cao hơn, nhưng một trận lũ quét bất ngờ đã tràn qua hàng rào, phá hủy mọi thứ – và kể cả Mae Sroy cũng đã bị nước cuốn trôi…

Chúng tôi tìm kiếm khắp nơi, lo sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra.

Lòng chúng tôi trĩu nặng, tin rằng con trâu già yêu quý của chúng tôi không thể sống sót qua cơn lũ dữ dội. Nhưng đến sáng thứ ba, một điều kỳ diệu đã xảy ra:

Chúng tôi tìm thấy Mae Sroy – nằm trong bùn đất nơi trước đây từng là nơi trú ẩn của nó. Khi nhìn thấy chúng tôi, nó đã kêu to, và chúng tôi đã khóc vì sung sướng. Tôi chạy đến bên và nó đáp lại bằng những tiếng kêu khe khẽ, vui vẻ, tràn đầy sức sống. Mae Sroy đã sống sót thêm một lần nữa.

Câu chuyện thật hy hữu.

Đây là câu chuyện về một con trâu mà chúng tôi đã cứu. Tại khu bảo tồn của chúng tôi, mỗi con đều có tên và đều có câu chuyện riêng đầy cảm xúc. Chúng không chỉ là trâu hay voi… Chúng là những sinh vật sống có ý nghĩa và giá trị.

Mae Sroy đã từng chạy trốn khỏi cái chết để bảo vệ sự sống đang lớn dần trong mình. Và giờ đây, một lần nữa, nó lại chạy trốn khỏi cái chết để bảo vệ chính mình và chúng tôi sẽ hết lòng chăm sóc con trâu già Mae Sroy cho đến chết…

(Phan Thế Nghĩa lược dịch từ Saengduean Lek).


 

CHỊ NGUYỆT- Truyen ngan-Qua’ HAY

SAIGON KỶ-NIỆM Khắc Tường Trần 

 

Chị tên Nguyệt, lúc đó chị khoảng 13 tuổi, còn tôi khoảng 11. Theo lời người ta kể thì chị mồ côi cha mẹ được vợ chồng người hàng xóm đem về nuôi. Ông Bà Chín không có con nên họ xem chị như con cái trong nhà, cho chị đi học. Đổi lại, chị phải dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc Ông Bà Chín. Chị học trên tôi hai lớp, tôi đệ thất, còn chị lớp đệ ngủ. Theo như chị kể lại, quê chị ở vùng xôi đậu bị cộng quân về chiếm làng, ba má chị mất tích chỉ hai ngày sau đó. Người cậu của chị phải dẫn cả gia đình chạy di tản ra Quận lỵ nơi tôi ở. Họ dẫn chị theo nhưng không đủ điều kiên nuôi cả gia đình gần 10 người nên cho Ông Bà Chín làm con nuôi.

Nhà chị đối diện nhà tôi trên đường dẫn ra bờ sông Tiền Giang. Buổi sáng đầu tiên tôi gặp chị trong bộ bà ba đen củ đã ngả màu phèn vàng úa và đôi dép đứt quay phải nối lại bằng dây kẽm. Chị đang quét nhà từ trong ra ngoài thì bị bà Chín rầy, bảo phải quét từ ngoài vào trong. Bà giải thích quét ra là đẩy hết cái phước ra ngoài, phải quét vô để nhận được phước. Tôi thấy hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc nên vội chạy tới hỏi:

     – Bộ mầy mới tới đây làm cho bà Chín hả?

Chị trả lời:

      – Hông phải, tao là con nuôi của ba má Chín.

Tôi nói với chị:

      – Tui tên Bình, nhà tui bên đó.

      – Tao tên Nguyệt, mầy mấy tuổi?

      – 11

      – Tao 13, mầy phải gọi tao bằng chị.

      – Ừ, chị Nguyệt hé.

Vậy là tôi làm quen được với chị từ đó. Năm chị học hết đệ tứ thì phải thôi học do Ông Chín bịnh nặng rồi qua đời, Bà Chín một mình không đủ điều kiên cho chị tiếp tục đi học. Mỗi ngày chị ra sạp vải ngoài chợ tiếp Bà Chín buôn bán. Năm tôi 15 tuổi phải xa nhà lên Tỉnh tiếp tục học thi Tú Tài một, rồi Tú Tài hai nên ít khi được gặp lại chị. Sau khi đậu Tú Tài hai chuẩn bị vào đại học thì nghe tin Bà Chín cũng vừa qua đời, bỏ lại ngôi nhà củ nát vì không có người đàn ông chăm sóc. Lúc này tôi đang rảnh rang nên tình nguyện giúp chị sửa sang lại căn nhà của chị được thừa hưỡng. Mỗi ngày, trước khi chị ra sạp vải, chị hay hỏi tôi cần mua vật dụng gì để chị gọi người đem tới, tôi khỏi phải mua. Sau ba tháng hè, tôi cũng tạm sửa lại căn nhà của chị, tuy không khéo nhưng cũng không dột trước hỏng sau.

Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi bị động viên, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngày ra trường về thăm ba má thì gặp lại chị Nguyệt. Lúc nầy chị đã là gái đôi mươi, có rất nhiều chàng trai đang theo đuổi nhưng chị vẫn phòng không gối chiếc. Nhiều lần chị tâm sự với má tôi:

     – Con trai cái Quận nầy sao mà như công tử bột, tối ngày chỉ biết lo tán gái, nhậu nhẹt, nhìn như cọng bún thiu cô nào vô phước mới rước họ về làm chồng.

Hai tuần phép qua rất nhanh. Ngày tôi chuẩn bị trình diện Sư Đoàn, chị đem tượng Phật nhỏ qua đưa cho tôi, bảo giữ trong người làm vật hộ thân. Hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc. Tôi vội nói:

     – Vài bửa có phép thường niên tôi về thăm chị. Chị ráng giữ gìn sức khoẻ.

     – Bình đi mạnh giỏi, Nguyệt mỗi đêm sẽ đọc kinh cầu xin Trời Phật che chở cho Bình.

Tôi hơi giật mình khi chị xưng Nguyệt chứ không còn mầy tao như ngày xưa. Thật sự mà nói, lúc nào tôi cũng vẫn xem chị như người thân trong gia đình, không có một chút tình cảm trai gái giửa tôi và chị.

      – Cảm ơn chị lo lắng cho tôi.

Tôi ra đi biền biệt. Hơn mười tháng sau tôi trở về thăm nhà sau khi xuất viện do bị thương chân phải. Đêm đầu tiên vừa về tới nhà là chị qua thăm, hỏi như muốn khóc:

     – Sao Bình bị thương mà không cho Nguyệt hay để đi thăm?

     – Vết thương không có gì trầm trọng lắm đâu chị, vả lại tôi không muốn chị lo lắng, lặn lội đường xá xa xôi nguy hiểm cho chị.

     – Bình nói vậy coi Nguyệt như người dưng sao?

     – Đâu phải vậy chị, tôi thương chị như người thân trong nhà mà.

     – Ừ nhớ đó nhe, thương như người thân trong nhà.

Trong những ngày phép dưỡng thương đó nhiều khi chị làm bộ gọi tôi qua sửa dùm cây đèn dầu hay đóng lại chân bàn bị lung lay. Chị nấu đủ món cho tôi ăn, bảo là tẩm bổ để khi trở lại đơn vị có đũ sức đi hành quân. Có ngày chị đóng cửa sạp vải, lấy cớ mệt về nhà nghỉ. Chị bảo muốn về để gần gủi, tâm sự với tôi trước khi về đơn vị. Không biết ba má tôi nghỉ gì mà cứ thỉnh thoảng hỏi khi nào tôi lập gia đình. Tôi viện cớ đang thời chiến tranh chưa muốn lập gia đình.

Lần lượt hai đứa em gái tôi lấy chồng phương xa, bỏ lại ba má tôi già yếu. Tôi thì ra đi biền biệt, cả năm mới về thăm nhà. Mỗi lần về chỉ năm ba hôm rồi lại ra đi. Chị Nguyệt thường xuyên qua chăm sóc ba má tôi va chị vẫn phòng không đơn chiếc!. Có lần tôi hỏi:

     – Sao chị chưa chịu lấy chồng để có người lo lắng trước sau cho chị?

     – Bình nhìn chung quanh đây xem ai là người xứng đáng cho Nguyệt nâng khăn sửa túi? Nguyệt thà ở giá suốt đời chứ không muốn chung chăn với những người hèn nhát, chạy chọt giấy tờ trốn quân dịch.

     – Vậy thì người đàn ông như thế nào chị mới chịu?

     – Người ấy phải giống như Bình, sống đời trai hiên ngang lo giúp nước, diệt giặc, bảo vệ quê hương.

     – Vậy để tôi tìm ông nào trong đơn vị giới thiệu cho chị nhe.

    – Đồ quỉ, đùng có chọc Nguyệt như vậy nữa, Nguyệt nói thiệt mà.

Cuộc đời cứ thế trôi đi. Ngày 30 tháng 4/1975. Tôi bị bắt rồi đi tù trại cải tạo Vườn Đào. Năm sau chị đến thăm tôi. Chị cho biết  hai đứa em gái theo chồng vượt biên không tin tức gì cho đến nay. Ba má tôi quá đau buồn bịnh nặng không đi thăm tôi được nên nhờ chị đi dùm. Chị còn kể là sạp vải của chị đã bị xung vào hợp tác xã. Bây giờ chỉ sống nhờ chăm sóc khu vườn nhỏ của ba má tôi, kiếm huê lợi nuôi sống ba má tôi và chị. Nhìn chị già đi khá nhiều so với ngày xưa. Mắt chị quầng đen, hốc hác, tiều tụy. Tôi cũng không hơn gì chị sau một năm tù đày, lao động, thiếu ăn.

Ba má tôi lần lượt qua đời không có một đứa con về để tang. Chị phải bán ngôi nhà của chị để có tiền chôn cất ba má tôi. Đều dặn mỗi ba tháng là chị đến thăm một lần, tiếp tế cho tôi thêm chút thức ăn phụ vào phần ăn ít ỏi của người lính tù thất trận. Bốn năm sau thì họ thả tôi. Ngày ra trại với vài chục đồng chi phí xe cộ và mảnh giấy ra trại. Tôi với năm người bạn tù đi bộ ra đến chợ Mỹ Phước Tây đón xe ra Cai Lậy. Mấy bà bán hàng trong chợ nhìn chúng tôi trong bộ quần áo rách bươm liền gọi:

    – Mấy cậu vô đây ăn sáng rồi hãy đi, 2 tiếng nữa xe mới chạy.

Họ đem cho chúng tôi 6 dỉa cơm sườn bì và sáu ly cà phê đen đá. Đó là bửa cơm ngon nhất trong bốn năm đời tù cãi tạo của tôi. Mọi người chung quanh bu nhau kẻ cho trái bắp, người cho gói xôi bảo là để dành đi đường ăn đở đói. Chúng tôi nhìn họ mà nước mắt cứ tuôn tràn không nói nên lời, dù chỉ một tiếng cám ơn. Khi đến giờ xe chạy, người tài xế xe nhất định không lấy tiền cho dù chúng tôi cố dúi tiền vào tay anh. Tôi nhớ lại tên quản giáo Ba Phần lên lớp chúng tôi:

    – Các anh có tội rất lớn với nhân dân. Chúng tôi giữ các anh trong vòng rào kẻm gai là để bảo vệ các anh vì nhân dân sẽ trả thù cho những tội ác các anh đã gây ra.

Nhân dân chợ Mỹ Phước Tây đã trả thù chúng tôi với những lời thăm hỏi ân cần, dĩa cơm sườn, ly cà phê đá, những gói xôi, những trái bắp mà họ có thể để dành cho người thân của họ trong lúc cả nước phải thắt lưng buột bụng trong thời kỳ bao cấp, củi quế gạo châu này.

Khi xe đến Cai Lậy thì khoảng 2 giờ chiều. Năm người bạn tù chờ xe về Sài Gòn, còn tôi về miền Tây. Anh lơ xe chạy ra ngã ba Cai Lậy ngoắc xe lại gởi tôi lên chuyến xe cuối cùng. Trước khi lên xe, anh đưa cho tôi một ổ bánh mì thịt rồi chào tay kiểu quân đội. Như cái máy, tôi chào lại vì theo phản ứng tự nhiên của một người lính Việt Nam Cộng Hoà dù đã thất trận. Anh nói vội rồi chạy vào trong chợ Cai Lậy:

      – Ông thầy đi đường bình an.

Tôi nhìn theo anh lơ xe, cố nhớ gương mặt anh để khi nào có dịp tôi sẽ trả lại ơn nghĩa anh đã dành cho chúng tôi. Một lần nữa, anh tài xế nhất định không chịu lấy tiền xe. Mấy người đàn bà trên xe nhìn tôi với ánh mắt thông cảm. Họ nhường cho tôi một chổ ngồi hàng ghế cuối xe.Tôi về đến nhà khoảng 8 giờ tối. Ngôi nhà cũ kỷ cửa đóng im lìm. Tôi gõ cửa.

    – Ai mà gõ cửa đêm hôm tối tăm vậy?

Tiếng chị Nguyệt đang ngáy ngủ từ bên trong.

    – Bình đây chị.

Tôi nghe tiếng chân trần chạy hấp tấp ra cửa. Chị Nguyệt mở cửa rồi ôm lấy tôi khóc:

    – Nguyệt không biết Bình về hôm nay. Có đói không để Nguyệt hâm cơm lại cho Bình ăn?

    – Trên đường về tôi được người ta cho ăn nhiều lắm, đến giờ còn no.

Tôi đến trước bàn thờ ba má, quì lạy xin lỗi tội bất hiếu không về chịu tang ngày hai người mất. Tôi nhìn khói nhang quyện vòng theo cây đèn dầu le lói như ba má về thăm thằng con xấu số mới ra tù. Tôi quì trước bàn thờ mà nước mắt cứ tuôn tràn.

    – Ba má tha tội cho con, vì hoàn cảnh tù đày mà con không về để tang cho ba má.

Chị đặt tay lên vai tôi:

    – Hai bác rất hiểu cho Bình, đừng quá đau buồn, hãy ráng lên để đối đầu với những ngày sắp tới.

Và những ngày sắp tới đến với tôi trong khổ cực của “thằng sĩ quan Ngụy”. Họ bắt tôi trình diện hàng tuần, không được đi xa khỏi Xã. Tất cả những hành vi của tôi đều bị theo dõi. Đôi khi bọn công an xã đến gõ cửa ban đêm để kiểm tra, xét nhà và muốn biết chắc chắn là có tôi trong nhà. Tôi sống như người bị giam lỏng trong nhà tù lớn.

Tôi nhìn chị chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ như một người vợ lo cho chồng mà nghĩ đến cái vô tình của tôi.

   – Chị Nguyệt.

   – Gì đó Bình?

   – Tôi muốn hỏi chị chuyện nầy.

   – Ừ, Bình nói đi.

Ngập ngừng một hồi tôi nói:

   – Chị nhớ lúc mới quen, chị bảo tôi phải gọi chị hay không?

 – Nhớ chớ sao không. Những ngày vui đó qua mau quá.

 – Chị còn muốn tôi gọi chị nữa hay không?

 – Vậy Bình muốn gọi tôi gì đây?

 – Tôi gọi chị là vợ tôi được không?

Chị Nguyệt nhìn tôi với ánh mắt rất ngạc nhiên rồi đổi sang mừng rỡ:

  – Em chờ câu nói đó của anh lâu lắm rồi.

Hai tháng sau chúng tôi làm đám cưới. Tiệc cưới rất đơn giản, chỉ mời bà con lối xóm. Hai năm sau Nguyệt cho tôi đứa con trai đầu lòng. Tôi đặt tên Nhẩn để nói lên cái nhẩn nại của chị dành cho tôi. Năm sau nữa thì chị cho tôi thêm đứa con gái, chị đặt tên nó là Cam để nói đến cái cam khổ của vợ chồng chúng tôi.

Một hôm đầu năm 1990, chị chạy hớt hãi về nhà:

    – Anh ơi! Họ muốn cho mình đi định cư bên Mỹ.

    – Em lại mơ tưởng viễn vong. Ai lại cho thằng sĩ quan Ngụy như anh đi khỏi Việt Nam.

    – Đây nè, coi đi.

Chị đưa cho tôi xem tờ báo cho biết Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho tù nhân chính trị được đi định cư tại Mỹ ký ngày 30/7/1989. Lòng vòng lo nạp đơn, lót tiền cho phía VN ký giấy cũng hơn hai năm. Tôi bốc  mộ đem xương cốt ba má thiêu rồi đem gởi vô chùa vì tôi biết là sẽ lâu lắm mới trở lại quê hương nầy. Tuy đã nuôi tôi lớn lên, tuy nhiều người vẫn còn tình người sẳn sàng đùm bọc che chở người thất trận. Nhưng tôi phải ra đi để con tôi có tương lai hơn, có nhiều cơ hội để vươn lên với đời hơn, để khỏi sống kiếp sống tật nguyền! nơi quê cha đất tổ.

Bao nhiêu tiền chúng tôi dành dụm đều cạn sạch. Ngày gia đình tôi lên máy bay đi Mỹ, trong túi còn đủ 200 đô la sau khi bán nhà, bán đất của cha mẹ để lại. Đáp xuống phi trường JFK thành phố New York. Cả gia đình hai đứa em gái tôi có mặt đầy đủ đón gia đình tôi. Ba anh em chúng tôi ôm nhau khóc sau hơn 17 năm xa cách. Mấy đêm đầu tiên tôi không ngủ được, vừa lạ chổ, vừa lo lắng cho tương lai sắp đến. Mình phải làm gì lo cho gia đình, cho con cái đi học, và đủ mọi chuyện cứ liên tục hiện lên trong đầu. Từ quê hương bỏ lại sau lưng, từ quê hương thứ hai sẳn sàng bao dung cho người lính thất trận.

26 năm sau, nhìn lại từ ngày đến đất nước Mỹ giàu lòng nhân đạo nầy, hai đứa con tôi đã ra trường đi làm xa. Vợ chồng tôi nghĩ hưu dời về vùng đất ấm Florida. Chị Nguyệt nay đã gần 70 nhưng vẫn còn nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam luôn lo cho chồng, cho con. Sáng nào tôi cũng có ly cả phê sữa nóng ít sữa, còn chị thì vẫn một ly trà cúc đường phèn. Nhiều lần tôi nói lời cảm ơn chị đã cưu mang ba má tôi khi tôi còn trong tù cải tạo. Chị chỉ cười đưa hàm răng khểnh rồi nói:

    – Em kết anh từ lúc mình mới gặp nhau lần đầu.

    – Vậy tại sao bắt người ta kêu bằng chị?

    – Làm chị cho nó oai chút chơi mà…

    – Lúc nào em cũng là CHỊ NgUYỆT của anh.

Ghi lại

Trần Khắc Tường.


 

SỰ THA THỨ-Truyen ngan HAY

Từ một câu chuyện có thật:

Tại một quán ăn ở San Jose, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

 Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rơi xuống chiếc cặp của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng, tôi muốn nhảy dựng lên, nộ khí xung thiên. Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì thì đứa con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”.

 Cô hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”.

 Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch thôi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu.”

 Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn.

 Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

 Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

 Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, lúc hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự…

 Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm và để huấn luyện tính tự lập cho nó, chồng tôi quyết định không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, anh ấy muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn. Khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước. Những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

 Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

 Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

 Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.”… giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

 “Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: “Em gái, em không sao chứ?”

 Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: “Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!”

 Đối với con, ngay đến cả nửa câu trách móc cũng không có!”Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận, làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ. Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”. Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, rồi từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

 Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

 Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm. Tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

 Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết:

 “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thân thiết của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

 Các bạn thân mến của tôi,

 Chúng ta cảm động khi được người khác tha thứ. Điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình. Hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta, sẽ là mỗi ngày hạnh phúc và may mắn!

 THA THỨ, không dễ lắm đâu, nhưng hãy cố gắng bạn nhé!

 Nguồn: Hito Nakazomo, Trinh DinhDung

 From: Thunnguyen


 

Chàng trai trẻ mắc hội chứng Down làm việc ở siêu thị -Truyen ngan HAY

My Lan Pham

Một chàng trai trẻ mắc hội chứng Down làm việc ở siêu thị với vai trò thu ngân. Mỗi tờ hóa đơn in ra, cậu đều viết thêm vài lời nhắn tích cực.

Rồi một ngày, cậu không đi làm… khách hàng xếp hàng chỉ để gửi thư động viên cho cậu.

Tôi đã làm ở siêu thị này 3 năm.

3 năm quét mã sản phẩm, nghe tiếng “bíp bíp” lặp đi lặp lại, mỉm cười dù đôi khi kiệt sức.

Mọi thứ chỉ thực sự thay đổi khi Matías xuất hiện, cách đây 6 tháng.

Ngày đầu tiên, chị quản lý Laura dắt tay cậu, giới thiệu với cả nhóm:

— Đây là Matías, cậu sẽ làm ở quầy số 3.

Cậu chìa tay ra, cười rạng rỡ:

— Chào anh, em tên Matías, em bị Down. Còn anh tên gì?

— Tôi là Carlos, làm ở quầy số 5. Chào mừng cậu đến với đội.

— Tuyệt quá! Em ở quầy 3, anh ở quầy 5, mình là đồng nghiệp rồi, Carlos!

Ban đầu, một số khách hàng tỏ ra mất kiên nhẫn với cậu.

Matías làm chậm hơn, lại hay hỏi thăm, trò chuyện.

Laura đã phải giải thích, trấn an nhiều lần.

Nhưng rồi, mọi chuyện thay đổi… nhờ những mẩu giấy nhỏ.

Một buổi tối, Matías bước vào phòng thay đồ với hộp bút màu.

— Carlos, em hỏi anh cái này được không?

— Được chứ.

— Nếu em viết vài lời nhắn dễ thương lên hóa đơn thì khách có thích không? Mẹ em bảo lời tử tế làm trái tim vui hơn.

Tôi bật cười:

— Ý tưởng hay đấy, nhưng nhớ xin phép Laura nhé.

Laura không chỉ đồng ý, mà còn mua cho cậu loại bút đặc biệt để khỏi lem mực.

Từ hôm đó, mỗi tờ hóa đơn ở quầy số 3 đều có một thông điệp:

“Chúc bạn một ngày tuyệt vời.”

“Bạn là người đặc biệt.”

“Cảm ơn vì nụ cười của bạn.”

“Thế giới tốt đẹp hơn vì có bạn.”

Ban đầu khách ngạc nhiên. Rồi họ thích thú.

Và chẳng mấy chốc, họ xếp hàng… chỉ để được qua quầy của Matías.

Một bà cụ thậm chí nói với tôi:

— Tôi muốn đợi để tính tiền ở quầy của cậu bé ấy. Nó là một thiên thần.

Hàng của Matías lúc nào cũng dài nhất siêu thị.

Khi tôi hỏi cậu tại sao làm vậy, Matías trầm ngâm rồi nói:

— Ba em bỏ đi từ lúc em chào đời. Ông ấy nói không muốn có một đứa con như em. Nhưng mẹ luôn bảo em hoàn hảo. Em nghĩ trên đời có nhiều người cũng cần được nghe rằng họ đặc biệt. Vì ai cũng xứng đáng.

Cổ họng tôi nghẹn lại.

Một ngày, Matías không đi làm.

Laura báo tin: cậu nhập viện vì lên cơn, phải nghỉ ít nhất một tuần.

Hôm đó, khách hàng nào cũng hỏi thăm:

— Matías đâu rồi?

— Cậu bé viết lời nhắn dễ thương ấy có ổn không?

Rồi điều kỳ diệu xảy ra.

Khách bắt đầu để lại phong bì cho cậu.

Lúc đầu một, hai cái.

Đến cuối tuần, đã có hơn 200 lá thư, tranh vẽ, thông điệp đủ màu gửi về cho Matías.

Một bé gái vẽ cậu như siêu anh hùng.

Một ông bệnh nhân ung thư viết 3 trang kể rằng những lời nhắn đã giúp ông vượt qua hóa trị.

Chủ nhật, tôi đến bệnh viện thăm cậu.

Mang theo cả túi thư.

— Matías, xem này. Toàn bộ là của khách hàng gửi cho em.

Cậu run run mở phong bì đầu tiên, đọc to:

— “Matías thân mến, những lời nhắn của cháu làm sáng bừng ngày tháng u ám của tôi. Cảm ơn cháu. Chúc cháu chóng khỏe.”

Nước mắt cậu rơi.

— Tất cả… đều cho em sao, Carlos?

— Tất cả đều cho em.

Chúng tôi ngồi đọc cùng nhau cả buổi chiều.

Cậu vừa cười vừa khóc, rồi ôm chặt túi thư vào ngực:

— Mẹ nói đúng, lời tử tế thật sự làm trái tim hạnh phúc.

Thứ Hai, Matías quay lại làm việc.

Khách hàng và nhân viên xếp hàng đón chào, vỗ tay, có người bật khóc.

— Tất cả… là vì em sao? — cậu hỏi tôi.

— Tất cả vì em, chàng trai của tôi.

Chiều hôm đó, quầy số 3 lại đông nghịt.

Nhưng không ai phàn nàn.

Tôi thấy Matías đưa một hóa đơn cho cô gái trẻ.

Cô đọc xong, nở nụ cười, ghé tai cậu thì thầm điều gì đó.

Cậu ngẩng lên, mắt sáng rỡ:

— Cô ấy bảo hôm nay muốn bỏ cuộc… nhưng nhờ lời nhắn, cô ấy sẽ tiếp tục cố gắng.

Matías nhìn tôi, nụ cười rạng rỡ:

— Thấy không, Carlos? Lời tử tế thay đổi cả thế giới.

Và cậu nói đúng.

Một chàng trai với hội chứng Down và hộp bút màu đã làm được điều mà nhiều người trong chúng tôi chưa từng làm được:

Khiến cả một cộng đồng tin vào lòng tốt.

Sưu tầm

Anh Chị Tâm thức Việt


 

MỘT CHUYỆN TÌNH TUYỆT ĐẸP – Truyen ngan HAY

MỘT CHUYỆN TÌNH TUYỆT ĐẸP

Một chuyện tình tuyệt đẹp…,kiếp sau nhất định sẽ gặp lại!!

Một sĩ quan sau hơn 6 năm cải tạo được tha về…

Vào nhà thì thấy cái nón cối !

Người vợ ra nói, anh xuống dưới nhà ở,cái phòng cạnh bếp…Em đã có chồng, chính ông ta lo cho anh về…

Ngày 30/4/1975,

 Người vợ tuổi mới 25, trước kia là tiểu thư, hoa khôi, con nhà rất giàu, ở nhà villa lộng lẫy 3 tầng mẹ ruột cho, nhà có xẩm giúp việc, bất cứ cái gì cũng không đụng đến ngón tay, nên ngơ ngác không biết làm gì cả…

Sau ngày 30/4/1975 bố mẹ ruột thì không tin tức,bố mẹ chồng thì đã quy tiên…

Cán bộ Việt cộng ”lớn” đến cho biết nên đi ngay vùng kinh tế mới, giao nhà cho nhà nước thì chồng sẽ được tha sau khi học tập tiến bộ…

Sau đó tên cán bộ nói nếu chịu lấy hắn thì nhà sẽ còn, không phải đi kinh tế mới, hắn sẽ nuôi cả nhà và lo cho chồng được tha về…

Bà vợ ra điều kiện phải lo cho chồng được về và khi về phải lo ngay cho chồng và các con vượt biên chính thức, thì bả sẽ đồng ý làm vợ hắn…

Tên cán bộ đồng ý thuận tình.

Bà vợ xuống dưới nhà nói với chồng cũ: ”Trong 2 tuần đầu anh ở nhà chơi với các con, sau đó sẽ tính tiếp”.

Năm hôm sau thì bà vợ báo cho chồng biết: ”Em đã lo cho anh và các con vượt biên chính thức, anh và các con nhớ học thuộc kỹ tên tàu nghe .Tối nay sẽ có người đón anh và các con đi,em chỉ xin anh một điều là khi đến nơi an toàn thì điện ngay cho em biết”.

Khi nhận được tin chồng và các con đã an toàn đến bến bờ Tự Do thì bà vợ mừng như điên và ngày hôm sau uống độc dược quyên sinh luôn !

Chồng được tin sét đánh…Ở vậy không tái giá, gà trống nuôi con ăn học thành tài…

Và cho đến bây giờ vẫn độc thân luôn , ngày ngày thăm các cháu nội ngoại…

Nhật Nguyệt.


 

Có một người phụ nữ như thế!- Hoàng Thị Bích Hà

Ba’o Nguoi-Viet

October 8, 2025

Hoàng Thị Bích Hà

Tôi gặp chị trong một dịp tụ họp cà phê ăn sáng với nhóm thi hữu văn chương. Đó là chị Ngọc Mai với khuôn mặt đẹp, dáng người nữ tính, đôi mắt long lanh sáng đẹp như hút hồn người đối diện. Tên đẹp, người đẹp, nụ cười duyên dáng và giọng nói êm ái, ngọt ngào là ấn tượng đầu tiên của tôi về chị. Tôi nhìn chị đoán cỡ khoảng chưa ngoài tứ thập. Chị cười dịu dàng bảo:

-Em cộng thêm ba mươi năm nữa mới gần đúng tuổi thật của chị!

Tôi ngạc nhiên và không thể ngờ trước việc chị trẻ hơn tuổi nhiều đến thế!

-Ôi vậy à! Nếu thế thì chị quá trẻ so với tuổi. Nếu chị không khai, khó ai mà đoán ra tuổi thật của chị!

– Nhìn chị, em biết chắc chị hạnh phúc lắm mới trẻ được như vậy, chắc là lúc nhỏ được ba mẹ cưng, lập gia đình thì được chồng cưng, chị mới có dáng hình trẻ trung, gương mặt xinh tươi ánh lên vẻ yêu đời lạc quan đến vậy.

-Ồ cảm ơn em! Nhưng chị thì không được như em nghĩ đâu!

Thế rồi chị bắt đầu kể tóm tắt cuộc đời của chị cho tôi nghe, chị ngược dòng thời gian đưa tôi về miền ký ức của chị trong những năm tháng khói lửa chiến tranh.

Chị sinh ra và lớn lên tại quận 3 Saigon xưa. Những quận 1-3-5-4-10,… là những quận xem như trung tâm của thành phố này. Dĩ nhiên chị có điều kiện sống tốt, như những bạn cùng trang lứa trong vùng. Mặc dù bố chị đi tập kết ra Bắc theo lệnh khi đang làm việc tai cơ quan, chưa kịp về từ giã gia đình. Mẹ chị một mình vẫn lo được cho chị ăn học đàng hoàng.

Thi xong tú tài chị học tiếp ngành ưa thích và đi làm. Với nhan sắc như chị tôi đoán được chị có khá nhiều sự lựa chọn cho cả công việc lẫn người thương. Chắc chắn chị sẽ chọn cho mình một ý trung nhân trong vô số các chàng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi trong thành phố. Duyên số đưa đẩy chị chọn anh! Sau khi lập gia đình, cơn lốc chiến tranh cuốn anh vào con đường binh nghiệp theo lệnh tổng động viên. Và anh chị cũng đã kịp có một đứa con xinh xắn!

Cuối tháng 3, 1975, thời gian này tiếng súng nổ ùng oàng đâu đó, ngoài đường những toán lính VNCH đã buông súng theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, người người dáo dác ngược xuôi. Người dân, kẻ thì tràn ra chào mừng quân giải phóng, người thì tìm đường rời khỏi thành phố, người tìm kiếm trong đoàn quân vào thành phố xem có cha, anh mình đi tập kết trở về không?

Lúc này, bé Bảo Ngọc được 9 tháng tuổi. Chị cũng ôm con ra bến tàu Bạch Đằng đi tìm chồng. Hi vọng anh sẽ trở về. Chị thấy một con tàu neo đậu, người chen chúc lên, trên đó cũng thấp thoáng những bộ đồ lính của binh chủng chồng chị. Chị bồng con bươn bẩy hòa và dòng người đang xô đẩy nhau cố chen cho được chân lên tàu. Bỗng tiếng súng nổ chát chúa ngay bên hông tàu. Thế là tàu chìm, mọi người hỗn loạn rơi xuống nước, kẻ bám vào thành tàu trong sự hoảng loạn đến tột cùng. Run rủi sao chị lạc mất con. Khi tỉnh dậy chị thấy mình nằm trên sàn một chiếc tàu khác đậu cách đó một quảng. Không biết ai đã đưa chị lên đây. Chị mở mắt ra, áo quần còn ướt sũng, hoảng loạn. Ôi con tôi đâu rồi! Bảo Ngọc ơi! Con đâu rồi! Chị lấy hết sức bình sinh gọi con trong tiếng nấc nghẹn ngào.

Bỗng chị chợt thấy anh (chồng đây rồi!). Chị như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh: Anh Tùng! Mình ơi! Em đi tìm anh mà lạc mất con rồi! Mình thấy con mình Bảo Ngọc đâu không? Súng nổ, tàu chìm, không hiểu ai đã vớt em lên đây, còn con mình đâu rồi! Con ơi! Vừa mừng gặp được chồng, nhưng chưa tìm thấy con. Chị òa lên khóc nức nở trong nghẹn ngào!

Anh không nói gì, anh cũng ngạc nhiên và bất ngời không kém nhưng nét mặt không lộ vẻ vui mừng. Tia nhìn cũng thiếu ấm áp như ánh nhìn dành cho chị trước khi anh đi lính. Đoạn anh quay lại nói gì đó với người phụ nữ bên cạnh anh. Hóa ra đây là chuyến tàu người ta chuẩn bị vượt biên bao gồm cả sỹ quan, lính và gia đình người thân của họ. Như đã tính toán trước, chuyến tàu anh đi không ngờ lại gặp chị trong hoàn cảnh này.

Người anh chọn để cùng đi với nhau không phải chị và con gái mà là một người phụ nữ khác. Họ trốn chị. Còn chị lạc lên đây, số phận trêu ngươi cho chị thấy tận mắt anh và người khác đi cùng nhau, cho chị nếm cảnh đời đắng chát của sự phản bội. Thực ra thì phản bội có lẽ đã xảy ra trước rất lâu rồi mà chị không biết. Chỉ đến khi trong tình cảnh éo le, khốc liệt này số phận lại bắt chị chứng kiến cảnh tượng không còn lời nào để nói. Sau những giây phút ngỡ ngàng, sững sờ rồi rơi vào câm lặng. Dù xung quanh vẫn hỗn độn, vẫn ồn ã.

Như hiểu ra tình thế! Chị bất giác nhận ra, anh không còn là của chị nữa, anh không thuộc về chị nữa, anh đã thuộc về người khác. Từ vui mừng gặp anh, đến thảng thốt mất con, đến thái độ thờ ơ dửng dưng khi gặp chị, đến cử chỉ ánh mắt không còn dành cho chị nữa mà sự vỗ về âu yếm anh đã dành cho người khác ngay trước mắt chị. Tất cả trong một vài khoảnh khắc rất ngắn, vội vã và trớ trêu của thời gian.

Chị mất con và mất luôn cả chồng. Giữa họ bây giờ đã có bức tường vô hình ngăn cách. Dù anh đang đứng đó, trước mắt chị, không xa mà khoảng cách xa vời vợi không với tới được. Trong lúc này đáng lẽ chị cần anh nhất để cùng chị đi tìm con: “Níu đời đời đá mưa thương/ Níu em em đẩy chẳng nương tay nhờ/ Có than ngửa mặt lên trời/ ông ơi ngó xuống đầy vơi nợ nần.” (Quỳnh Tiên)

Thôi thì: “Vết thương ứa máu đủ rồi!” Chị biết nơi đây không dành cho mình. Chị không chọn ra đi vì chị còn phải đi kiếm con, chị cũng phải ở lại thành phố để chờ cha trở về sum họp nữa. Chị quay mặt, tìm ra cửa mò mẫm tìm đường rời khỏi con tàu. Xuống bến, người người hỗn loạn đang tất tả ngược xuôi và gọi nhau í ới.

Bỗng chị thấy bên đường có một người phụ nữ (có lẽ là một người mẹ) đã chết, ngồi bên cạnh là đứa con đang cố ôm lấy mẹ và khóc. Chị tất tả nhào đi để may ra tìm được con mình. Đi tới đâu chị gặp ai chị cũng hỏi, thấy đứa trẻ nào lạc ở đây không? Mọi người giúp tôi với, tôi lạc mất con rồi! Bỗng có một chị bảo quay lại đằng kia, chỗ người phụ nữ nằm, bên cạnh có đứa bé tầm tuổi con chị, cứ cúi xuống xem biết đâu là con mình. Chị quay lại cúi xuống lay gọi và nhìn mặt cháu bé. Ôi đây rồi! Hóa ra đây là con chị. Trong lúc bom rơi đạn lạc, chị phụ nữ này bồng được con chị rơi xuống nước và khi chị lội vào bờ thì trúng đạn, chị cố lết thêm vài mươi bước nữa thì gục xuống và tắt thở, trong khi đứa bé hoảng loạn không biết mẹ mình đâu, chỉ biết người vừa ẵm em dưới nước sông Sài Gòn lên!

Chị ôm lấy con mừng khôn xiết tả, và tưởng như tim mình vừa sống lại sau những gì đã xảy ra.

Mới đó mà nửa thế kỷ trôi qua! Chị vừa lo kinh doanh, kiếm tiền nuôi dạy con cái một gánh hai vai thay cho cả người cha của bé. Bé có cha cũng xem như không, vì cha đã thuộc về nơi khác, gắn bó với những con người xa lạ khác, không phải mẹ con mình. Trong gian khó, chị làm lụng nuôi con vượt qua thời kỳ hậu chiến, rồi bao cấp, rồi hội nhập,… Con gái chị nay đã trưởng thành, cháu cũng đã thành đạt và có mái ấm gia đình. Xem chị như đã hoàn thành nhiệm vụ làm mẹ thiêng liêng cao cả của mình.

Nay chị đã thảnh thơi, bên cạnh vẫn duy trì công việc kinh doanh thường nhật. Chị đến với thi ca, sinh hoạt với các nhóm bạn cùng sở thích như picnic, khiêu vũ hay những hoạt động lành mạnh rèn luyện sức khỏe về thể chất và tinh thần. Bởi vậy chị không cô đơn, dẫu thiếu đi một người tình tưởng là trăm năm nhưng lại bội bạc thì chị vẫn còn cha mẹ, con cái và bạn bè tri âm. Chính vì thế chị không gục ngã. Bởi vì con cần chị, cha mẹ chị cần chị. Chị không thể buông xuôi theo số phận nghiệt ngã mà đứng lên, vượt lên nỗi đau để tiếp tục tìm cho mình lẽ sống có ý nghĩa. Chị cũng không oán hờn người cũ nữa.

Một đôi lần, “người ta” trở về Saigon thăm quê hương, chị tình cờ gặp lại cũng xem như gặp một người quen cũ, không vui cũng không buồn. Bình thường như một người bạn cũ từng quen biết rồi thôi!

Chị buông bỏ những gì không đáng dằn vặt hay tiếc nuối. Chị làm chủ cuộc sống của mình, mặc dù khi người ấy đành đoạn rời đi chị mới ngoài hai mươi tuổi. Mẹ đơn thân, lại xinh đẹp có thừa. Xung quanh chị không thiếu đàn ông vây quanh tán tỉnh. Nhưng có lẽ chị đã thấm đòn tình ái và hôn nhân. Đau một lần đã đủ! Chị nói rằng: “Cứ ngồi yên đó, không cần đi đâu cả, tri kỷ sẽ tìm em!”

Và đúng vậy, những người bạn hiểu lòng nhau sẽ chia ngọt sẻ bùi tâm sự đôi điều cho với buồn đau, và ai có cuộc sống nấy rồi mọi thứ sẽ ổn. Rồi chị đến với thi ca. Xem thi ca như một cuộc sẻ chia tâm tình, nâng đỡ tâm hồn con người.

Ngẫm lại trong cái rủi có cái may. Dẫu phải chứng kiến hiện thực phũ phàng nhưng đau một lần rồi thôi! Nếu ngày đó, chị không lạc lên con tàu ấy, không biết anh đã thay lòng để trốn chạy cùng với một phụ nữ khác thì cả đời còn lại chị cứ khắc khoải và canh cánh không yên: “không biết giờ nay anh ở đâu? Còn sống hay đã chết, mất tích? Rồi chị lại lặn lội đi tìm hết trại cải tạo này đến trại cải tạo khác để tìm anh, không tìm ra thì nghĩ rằng anh đã tử trận bị bom rơi đạn lạc buổi giao thời, rồi lại về nhà lập bàn thờ năm tháng lo cúng cấp, cầu siêu này nọ,… trong lúc người ta đang sống phây phây cùng người khác. Thôi thế cũng là may!

Như vậy có phải là chị mất đi thứ này thì trời bù cho chị thứ khác. Con cái giỏi, ngoan, công việc trôi tròn, sức khỏe bình an. Và thế là chị cứ tươi trẻ, cứ tràn đầy sức sống, đầy năng lượng làm việc và vẫn xinh đẹp không khác xưa là mấy. Có chăng đậm đà, chín chắn hơn xưa mà thôi!

Người ta nói dù ai đó lúc trẻ căng tràn sức sống, trắng trẻo, đẹp nhưng nhạt duyên thì nhan sắc sớm phai tàn còn ngược lại nếu trời phú cho có nét duyên ngầm thì vẻ đẹp mặn mà đó không phai mờ dẫu đi qua thời gian. Nếu biết giữ gìn sức khỏe thể lực và sức khỏe tâm hồn tốt, đảm bảo chế độ ăn uống và tập luyện đúng cách, sức khỏe và dáng người vẫn ít thay đổi.

Qua mỗi mốc thời gian tám mươi, chín mươi đi nữa vẫn nét duyên trời cho đó vẫn ánh lên sau lớp bụi thời gian ghi dấu trên khuôn mặt. Và chị là một người phụ nữ như thế, dù đã đi qua mùa thu của cuộc đời!

(Saigon, ngay 23/9/2025)


 

Đây là câu chuyện như cổ tích giữa đời thường-Truyen that ngan

Nguyen Ngoc Anh

   Đây là câu chuyện như cổ tích giữa đời thường

Ngày ấy, một cậu bé mồ côi Nigeria lạc lõng trên đường phố, chẳng ai nghĩ có ngày em sẽ khoác lên mình chiếc áo cử nhân. Nhưng nhờ vòng tay yêu thương của một người phụ nữ Anh nhân hậu, cuộc đời em sang trang: được đi học, được sống, được ước mơ.

Và hôm nay, em đã tốt nghiệp đại học. Một hành trình đầy nghị lực, nhân văn và khiến ai nghe cũng rưng rưng. Xin chúc mừng em – chàng trai từng không có gì, nay đã có cả tương lai

Hình Copy từ fb Tony trần cuộc sống Mỹ.

Cám ơn người phụ nữ nhân hậu


 

 Một chút bất cẩn ?!-Truyen ngan HAY

Tôi đi vòng trong một tiệm Target và chứng kiến cảnh người thu-ngân đang trao lại một số tiền cho cậu bé. Cậu chỉ độ 5 hay 6 tuổi.

– Người thu- ngân nói, Rất tiếc là em không có đủ tiền để mua con búp-bê này.

– Đoạn cậu bé quay sang bà cụ đứng cạnh: 

Bà à, bà có chắc là con không có đủ tiền không bà?

– Bà cụ đáp: Con à, con biết là con không có đủ tiền để mua con búp-bê này mà. Rồi bà cụ bảo cậu bé cứ đứng đó chờ 5 phút, bà đi một vòng ra khỏi tiệm, bà đi như rất vội…

– Cậu bé vẫn cầm con búp-bê trong tay chờ.. 

Cuối cùng, tôi bước đến cậu bé và hỏi là cậu muốn tặng con búp-bê này cho ai?

– Đây là con búp bê mà em gái của con yêu thích lắm và ước ao có được trong Giáng Sinh này. Em ấy tin là Ông già Noel sẽ mang quà này lại cho em ấy.

– Tôi trả lời cậu bé rằng : Thế nào Ông già Noel rồi cũng sẽ mang lại cho em con, con đừng lo.

– Nhưng cậu bé trả lời buồn bã:

Không, Ông già Noel không mang đến chỗ em đang ở được. Con phải trao con búp-bê này cho mẹ con, rồi mẹ con mới có thể trao lại cho em con khi mẹ đến đó… 

…. Đôi mắt cậu bé thật buồn khi nói những lời này. Em con đã trở về với Chúa. Ba con bảo là mẹ cũng sắp về với Chúa, bởi vậy con nghĩ là mẹ có thể mang con búp-bê này theo với mẹ để trao lại cho em con.

– Tim tôi như muốn ngừng đập..

– Cậu bé nhìn lên tôi và nói: Con nói với ba là hãy bảo mẹ đừng có đi vội. Con muốn mẹ con hãy chờ con đi mang con búp bê về rồi hãy đi. Rồi cậu lấy ra cho tôi xem một tấm ảnh trong đó cậu đang cười thích thú. Con cũng muốn mẹ mang theo tấm ảnh này của con để mẹ sẽ không quên con. Con thương mẹ con và mong ước mẹ không phải bỏ con để đi, nhưng ba con nói là mẹ phải đi để ở cạnh em của con. Rồi cậu bé lặng thinh nhìn con búp-bê buồn bã.

– Tôi vội vàng tìm ví bạc trong túi và nói với cậu bé: Hãy thử coi lại xem, biết đâu con lại có đủ tiền mua con búp-bê này thì sao?

– Dạ,  cậu bé đáp, con mong là có đủ tiền.

– Không cho cậu bé thấy, tôi kẹp thêm tiền vào mớ tiền của cậu bé, và chúng tôi cùng đếm. Chẳng những đủ số tiền cho con búp-bê mà còn dư thêm một ít nữa.

– Cậu bé nói: Cảm ơn Chúa đã cho con đủ tiền!

Rồi cậu nhìn tôi và nói thêm, tối qua trước khi đi ngủ, con đã hỏi xin Chúa hãy làm sao cho con có đủ tiền để mua con búp-bê này để mẹ con có thể mang đi cho em con. Chúa đã nghe lời cầu xin của con rồi.. và con cũng muốn có đủ tiền mua hoa hồng trắng cho mẹ con, nhưng không dám hỏi xin Chúa nhiều. Nhưng Ngài lại cho con đủ tiền để mua búp-bê và hoa hồng trắng nữa..!.

“Mẹ con yêu hoa hồng trắng lắm.”

 Vài phút sau bà cụ trở lại, dường như để giúp cậu bé và tôi cũng rời khỏi tiệm.

 Tôi làm xong việc mua sắm trong một trạng thái hoàn toàn khác hẳn với khi bắt đầu vào tiệm. Và tôi không thể rứt bỏ hình ảnh của cậu bé ra khỏi tâm trí tôi…

….Đoạn tôi nhớ lại một bài báo trong tờ nhật báo địa phương cách đây hai hôm. Bài báo viết về một tài xế say rượu lái xe vận tải đụng vào xe của một thiếu phụ và một bé gái nhỏ. Đứa bé gái chết ngay tại hiện trường, còn người mẹ được đưa đi cứu cấp trong tình trạng nguy kịch. Gia đình phải quyết định có nên rút ống máy trợ – sinh khỏi bệnh nhân hay không ? Vì người thiếu phụ này không còn có thể hồi tỉnh ra khỏi cơn hôn mê. 

Phải chăng đấy là gia đình của cậu bé??

 Hai ngày, sau khi gặp cậu bé, tôi đọc thấy trên báo là người thiếu phụ ấy đã qua đời…

 Tôi bị một sự thôi thúc và đã mua một bó hoa hồng trắng rồi đi thẳng đến nhà quàn, nơi tang lễ của người thiếu phụ đang diễn ra và mọi người cũng đến nhìn mặt người quá cố lần cuối cùng..

Cô nằm đó, trong cỗ áo quan, cầm trong tay một cành hoa hồng màu trắng với tấm ảnh của cậu bé và con búp-bê được đặt trên ngực của cô…

 Tôi rời nơi đó, nước mắt lưng tròng, cảm giác rằng đời tôi đã vĩnh viễn thay đổi. Tình yêu của cậu bé dành cho mẹ và em gái cho đến ngày nay thật khó mà tưởng tượng..

Và tôi cũng hiểu ra rằng, chỉ vì trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ, một gã lái xe say rượu, hay một người lái xe bất cẩn nào đó, đã lấy đi tất cả những gì thân thiết nhất của cuộc đời cậu bé…

 Bài sưu tầm.

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty-Truyen ngan HAY

KimTrong Lam

Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty

Một quyết định tưởng chừng đúng…

Tôi là giám đốc vận hành của chuỗi thức ăn nhanh Sabor Express ở trung tâm thành phố. Năm năm qua, tôi quản lý mọi thứ rất chặt chẽ: từ kho bãi, nhân viên cho đến từng con số thất thoát. Tất cả vận hành trơn tru như một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ.

Cho đến một buổi sáng tháng Ba.

— Thưa ông Ramírez, tôi có chuyện phải nói, — Carlos, giám sát ca đêm bước vào, mặt nghiêm trọng. — Chuyện của Marta.

Marta Villanueva. 42 tuổi, mẹ đơn thân, làm việc năm năm không một sai sót, luôn đúng giờ.

— Marta thì sao? — tôi hỏi.

Carlos đặt điện thoại lên bàn. Trên màn hình là đoạn camera: Marta lén cho đồ ăn vào túi lớn, ánh mắt thấp thỏm nhìn quanh.

— Tôi thấy cô ấy làm ba đêm liền, — Carlos nói. — Toàn là gà rán, hamburger, khoai tây chiên… những đồ thừa của ca.

Một cơn thất vọng và tức giận trào lên trong tôi. Sự phản bội luôn đau hơn khi nó đến từ người mình tin tưởng.

— Gọi cô ấy đến gặp tôi trước ca ngày mai.

Hôm sau, Marta ngồi trước mặt tôi, hai bàn tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn xuống. Chỉ một đêm mà trông cô ấy như già đi cả chục tuổi.

— Marta, cô biết vì sao mình ở đây chứ? — tôi cố giữ giọng lạnh lùng.

Cô khẽ gật đầu, mắt ướt.

— Chúng tôi đã kiểm tra, số liệu không khớp. Giờ thì rõ rồi.

— Thưa ông, tôi có thể giải thí—

— Không cần, — tôi cắt ngang. — Camera đã ghi lại. Cô biết rõ đây là hành vi ăn cắp.

Marta bật khóc:

— Tôi xin ông, tôi cần công việc này. Tôi còn các con…

— Ai mà chẳng cần làm việc, Marta. Nhưng thế không có nghĩa là được ăn cắp. Cô có biết công ty mất bao nhiêu vì những việc này không?

— Nhưng đó chỉ là đồ ăn sắp vứt đi mà…

— Điều đó không quan trọng! — tôi quát. — Đồ ăn còn ở đây là của công ty, cho đến khi bỏ thùng rác. Đây là lý do cho thôi việc ngay lập tức. Thu dọn đồ đi.

Marta đứng dậy, nước mắt chảy dài:

— Cầu Chúa phù hộ cho ông, — cô thì thào rồi bước ra.

Trong cuộc họp nhân viên, tôi tuyên bố:

— Marta Villanueva đã bị cho thôi việc vì ăn cắp hàng hóa.

Có tiếng xì xào, vài người gật gù.

— Làm đúng đấy sếp, — Roberto, bếp chính nói. — Phải nghiêm với loại chuyện này.

— Chuẩn, — Sandra, thu ngân tiếp lời. — Nếu bỏ qua một lần thì sẽ loạn hết.

Tôi cảm thấy yên tâm. Mình đã làm đúng.

Ba ngày sau, Rosa, một nhân viên ca đêm, tìm gặp tôi, mắt đỏ hoe:

— Ông Ramírez, tôi cần nói về Marta.

— Quyết định đã xong rồi, Rosa.

— Xin ông nghe tôi một lần.

Cô đưa điện thoại: một bức ảnh Marta trong bộ đồng phục, đang phát đồ ăn cho trẻ em ở một mái ấm.

— Marta làm tình nguyện ở nhà ăn San Francisco. Tất cả đồ ăn cô ấy mang đi đều là phần công ty định bỏ. Cô ấy đem cho trẻ em nghèo, những gia đình không có gì để ăn.

Tim tôi như chùng xuống.

— Sao cô ấy không xin phép?

— Cô ấy đã xin, cách đây nửa năm. Ông đã từ chối. Ông nói nào là luật, nào là thủ tục…

Hình ảnh lờ mờ hiện lại trong đầu tôi: hôm ấy Marta nói chuyện, tôi vừa nghe vừa gõ máy tính, rồi buông một tiếng “không được đâu”.

— Nhưng cô ấy vẫn tiếp tục…

— Vì cô ấy nói: “Nếu phải chọn giữa tuân theo quy định và để một đứa trẻ đi ngủ với cái bụng đói, tôi sẽ chọn đứa trẻ.”

Đêm đó tôi trằn trọc. Ba giờ sáng, tôi tìm trang Facebook của San Francisco.

Ở đó, Marta cười tươi, phát thức ăn cho trẻ em và người già. Những lời cảm ơn viết dưới ảnh:

“Nhờ chị Marta mà chúng tôi không bao giờ thiếu bữa.”

“Chúa phù hộ người phụ nữ luôn đem cơm cho chúng tôi mỗi tối.”

Sáng hôm sau, tôi gọi ngay phòng Nhân sự:

— Tôi muốn hủy một quyết định sa thải.

Tôi đến tận nhà Marta. Căn hộ cũ, tầng năm không thang máy.

Marta mở cửa, ánh mắt hoảng sợ:

— Ông Ramírez, tôi không trở lại làm—

— Marta, tôi đến để xin lỗi. Và mời cô quay lại. Với mức lương cao hơn.

— Gì ạ?

— Tôi cũng đã bàn với giám đốc khu vực. Từ nay, Sabor Express sẽ chính thức quyên góp đồ ăn thừa cho mái ấm San Francisco. Hợp pháp, có giấy tờ đầy đủ. Và cô sẽ phụ trách chương trình này.

Marta ôm mặt khóc nấc:

— Tôi… tôi không biết nói gì.

— Cô chỉ cần nói đồng ý.

Thứ Hai, tôi lại họp nhân viên:

— Tuần trước tôi nói Marta bị đuổi vì ăn cắp. Hôm nay, tôi phải thú nhận: chính tôi mới là kẻ đã lấy mất của cô ấy. Lấy mất công việc, lấy mất phẩm giá, và suýt nữa là cả cơ hội giúp đỡ những người đói khổ.

Cả phòng im phăng phắc.

— Số đồ ăn mà cô ấy “lấy cắp” là để đem cho trẻ em, người già, những gia đình không có gì. Marta đã dám làm vì lương tâm mạnh mẽ hơn quy định của tôi.

Tôi dừng lại. Rồi nói rõ:

— Marta sẽ quay lại hôm nay. Và tôi mong mọi người chào đón cô ấy như cô ấy xứng đáng.

Cửa mở. Marta bước vào. Tràng pháo tay vang lên, ban đầu còn lác đác, rồi ngày càng lớn dần.

Sáu tháng sau. Chương trình quyên góp được nhân rộng sang nhiều chi nhánh. Công ty nhận giải thưởng về trách nhiệm xã hội. Nhưng quan trọng nhất: nhà ăn San Francisco nuôi được hơn 200 người mỗi ngày.

Còn tôi, tôi học được một bài học: làm lãnh đạo không chỉ là giữ luật, mà còn là biết khi nào phải đặt tình người lên trên luật.

Mỗi lần thấy Marta bước ra với những túi thức ăn nay in logo công ty, tôi lại nhớ tới sai lầm của mình. Và thầm cảm ơn vì đã kịp sửa chữa.

Bởi những gì chúng tôi định bỏ đi không chỉ là thức ăn.

Đó còn là cơ hội để thay đổi cuộc đời một ai đó.

St


 

 Vực Mắt – Cổ Ngư

Kimtrong Lam

 Vực Mắt –

Cổ Ngư.

Cho tôi lại nhà trường,

Bao nhiêu là người thương,

Không ai thù ai oán,

Ai cũng bảo tôi ngoan…

Kỷ niệm – Phạm Duy

Văng một cái. Thằng bé bật đầu vào bảng, chúi nhào. Má phải và một mảng tóc bệt phấn, nhức buốt. Má trái hằn đỏ dấu tay, bỏng rát. Nó nhìn lên, nước mắt đổ trào. Vì đau, có. Vì ức, nhiều phần hơn. Ðôi mắt lạnh của frère Tuấn, sau cặp kính trắng, khúc xạ qua làn nước mắt mờ mịt, như lồi hẳn ra, ngó xuống đầy vẻ đe doạ. Nó nghe giọng frère nói, vang âm âm giữa những tiếng o o của màng nhĩ:

– Nhật, đứng lên! Em có nhận tội ăn cắp bút của bạn không? Còn chối nữa không?

Nó có ăn cắp đâu mà nhận! Ðứa nào chơi ác, nhét cây Pilot của thằng Ðức ngồi bàn đầu vào cặp nó lúc ra chơi. Ðầu giờ học, sau khi đọc xong kinh «Kính mừng», cả lớp vừa được phép ngồi xuống, nó đang loay hoay lôi cuốn tập giáo lý bìa xanh dương ra thì thằng Ðức mếu máo lên khai mất bút. Thế là frère Tuấn dốc cặp từng đứa một ra khám xét. Thế là nó bị lôi lên đứng trước lớp, lãnh một cái bạt tai nháng lửa sau khi một mực lắc đầu kêu oan. Nó muốn chồm lên, muốn gào lên, nhưng những tia nhìn lạnh băng phóng xuống từ độ cao của tấm áo chùng đen như ghim chặt nó vào bục gỗ. Tay chân nó cứng ngắc. Không điều khiển được nữa, dù bên tai vẫn văng vẳng tiếng rít: «Nhật! Ðứng lên! Tôi bảo đứng lên! Ðứng lên!» Thằng bé bất lực nhìn đôi kính trắng càng lúc càng gần, trương nở, phình to ra như một bầu thủy tinh khổng lồ, rồi úp chụp lên nó. Trọn vẹn.

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Giấc mơ như con ác thú, lâu lâu lại trồi lên từ tiềm thức, khạc những tia lửa đỏ quạch, rồi chìm sâu xuống, nằm phục ở đó. Không làm sao Nhật xua đuổi nó đi được, dù đã hơn một ngàn lần, anh tự nhủ: Phải quên, phải rộng lượng, phải biết tha thứ. Dù thằng bạn chơi ác sau đó đã xanh lè mặt đứng ra nhận tội. Dù frère Tuấn sau đó đã ngỏ lời xin lỗi. Cảm xúc, như nhát chém quá mạnh tay vào thân gỗ non, giữ nguyên dấu vết giữa những vòng tròn tăng trưởng. Không cách gì bôi xoá đi được! Nhật khổ sở loay hoay với nó suốt thời niên thiếu. Càng lớn, sự trỗi dậy của con quái vật càng thưa dần, nhưng giấc mơ không vì thế mà bớt đi kịch tính. Có những lần, Nhật thấy mình vẫn bé nhỏ, yếu đuối như ngày nào. Vài lần khác, Nhật cảm nhận mình lớn hơn, đã đủ sức giơ cánh tay lên để chống trả lại, nhưng mỗi khi chạm phải những tia nhìn loáng lạnh sau lần kính trắng, anh lại bị hất đi thật mạnh, thật xa, vọt qua khỏi cửa lớp, ra tới hành lang để rồi ngã chúi xuống cái khoảng không đen ngòm phía dưới. Ðen như tấm áo chùng của frère Tuấn!

Trừ một lần, anh thấy mình đứng bật được dậy và bỏ chạy thật nhanh về nhà, đằng sau có người đuổi dồn. Anh có đủ thì giờ để đóng gấp, khoá kín tất cả cửa chính, cửa sổ rồi cuộn tròn người ôm đầu khóc tấm tức trước khi bước chân kẻ lạ sầm sập ào đến. Kẻ lạ? Frère Tuấn? Anh không thấy được mặt kẻ đuổi theo sau lưng. Chỉ biết đã thót tim mừng rỡ khi tiếng gà gáy báo sáng rộn rã vang lên bên tai. Giấc mơ ấy đến khoảng một tháng sau khi Nhật gặp lại frère Tuấn. Ở ngoài đời hẳn hòi. Giữa ban ngày ban mặt chứ không phải trong cơn ác mộng. Chiều thứ Ba. Rạp xi-nê Văn Hoa Ða Kao. Sau khi nát cả người vì chen lấn mua cho bằng được tấm vé xem phim «Nạn hồng thuỷ» của Ba Lan, Nhật thở phào, chìa phần cùi cho người soát vé. Anh bước qua rào cản, hân hoan nghĩ đến những giây phút thoải mái sắp hưởng, bỗng giật mình quay ngoắt lại. Tia mắt ấy. Phải rồi, tia mắt ấy, dáng dấp ấy. Frère Tuấn! Người soát vé quay đi bận rộn với công việc của mình. Nhật bước vào phòng tối, mắt loáng thoáng những áo quần trắng lốp của người Thổ, những tiếng hò hét công thành, tiếng gào thét thảm thương của kẻ cô thế. Lửa cháy loang màn ảnh, đốt đỏ lòng Nhật. Anh nhấp nhổm trên ghế. Nửa phim. Nghỉ giải lao. Ðèn bật sáng. Nhật đẩy cửa lao về phía người soát vé. Anh gọi:

– Frère!

Người đàn ông quay đầu lại. Không có đôi kính trắng, nhưng đúng là frère Tuấn. Nhật bước như chạy đến, nhưng khi khoảng cách chỉ còn độ một thước, anh đột ngột dừng lại, ngượng nghịu:

– Frère còn nhớ con không?

Lúc tiếng «con» buột ra khỏi miệng như một phản xạ tự nhiên, Nhật mới nhận thấy thói quen cũ vẫn còn bám rễ sâu lắm nơi anh. Ðôi mắt người đàn ông nheo nheo:

– Tôi nhận ra em từ nãy. Nhật phải không?

Nhật vui như khi nhận được lá thư có kèm vài tấm hình hiếm hoi của thằng bạn thân từ Canada gửi về. Anh lúng búng:

– Con… Em đâu có ngờ còn gặp lại frère. Trường giải thể, em đứt gần hết liên lạc với thầy cô, bạn bè cũ. Em có nghe nói các frère còn giữ lại được một dãy lầu để ở, nhưng ngại, không dám vô thăm.

Nhật bỗng nhiên liến thoắng. Niềm tự tin bất ngờ kéo vọt anh lên cao hơn, vạm vỡ hơn người đàn ông gầy gò tóc hoa râm đứng trước mặt.

– Tôi… Tôi xin ra khỏi dòng lâu rồi em ạ! Bây giờ tôi có gia đình, con cái như mọi người. Ðừng gọi tôi là frère nữa, gọi là… anh, được rồi. Còn em, dạo này thế nào?

Cuối cùng thì từ lối xưng hô «frère-con» khi xưa, cả hai chấp nhận chuyển sang gọi nhau «thầy-em» cho phù hợp với tình thế mới, và cũng để những cái tai tò mò vểnh dọc vểnh ngang chung quanh bớt chú ý. Nhật rút mấy điếu thuốc Hoa Mai lẻ trong túi áo ra mời. Thầy Tuấn ra dấu từ chối.

– Em đang học lớp mười hai, nhưng nản lắm. Lý lịch như em thì đậu đại học một phần trăm mà đậu «nghĩa vụ quân sự» tới chín mươi chín phần trăm lận thầy ơi! Mấy thằng bạn cùng lớp em vượt biên quá trời! Thà gặp hải tặc Thái Lan mà còn mong có ngày qua tới Mỹ, còn hơn là xách súng đi làm «nhiệm vụ quốc tế cao cả» để rồi bị tụi Pôn Pốt đòm cho một phát, lôi về làm mắm bồ hóc nhai nhóp nhép với nhau!

– Em ăn nói cẩn thận. Giữa chốn đông người…

– Tụi em hết ngán rồi, thầy ơi! Giờ chính trị còn đứng lên cãi tay đôi với «mấy ổng mấy bả» nữa mà!

Tia nhìn của thầy Tuấn loáng lên một cái. Nhật lạnh người. Tấm áo chùng đen lướt thướt. Ngày trước…

– Em… Em nhớ hồi đó thầy đeo kiếng…

– Ờ, ờ, tôi mới làm vỡ tuần trước, chưa kịp thay.

Thầy lại sĩ diện hão rồi! Nhật nhớ đến đôi kính cận dày cộm đã ám ảnh mình bao nhiêu năm nay. Cận nặng như vậy mà cả tuần không có kính, chắc chắn là thầy Tuấn đang kẹt tiền. Như Nhật. Như tất cả những người đang sống vật vờ không tương lai chung quanh đây. Que sera, sera! Hôm nay có tiền, mua năm điếu thuốc, uống ly cà-phê, xem cuốn phim mới ra. Ngày mai hết tiền, nhịn. Vài ba tháng nữa đi nghĩa vụ, tính sau. Biết đâu ông bà già lại xoay sở chạy vạy cho một chỗ lên tàu vượt biên? Những người nhanh chân đã tót đi từ lâu. Bọn chậm chân ở lại được xếp vào ba hạng: Ngu-Nghèo-Nhát. Ngu vì cả tin vào những khẩu hiệu nền đỏ chữ vàng giăng mắc khắp nơi. Nghèo vì thiếu «chỉ», thiếu «cây» chèo chống ra đi. Nhát vì sợ sóng to gió lớn, hải tặc và cá mập, cá… nhà táng! Có ai mà muốn ngồi vào chiếu «Ngu», thường thì đành nhận chiếu «Nhát», còn đại đa số đem chữ «Nghèo» ra mà dán lên to tướng trên đầu. Người nghèo thời nào cũng khổ, nhất là sau những năm «đổi đời» này. Thầy Tuấn «đổi đời», bỏ dòng, lấy vợ sinh con. Anh hai, anh ba, anh tư «đổi đời», bỏ vợ con, bỏ thành phố, vào tù, phá rừng làm rẫy. Thành phố «đổi đời». Người Sài Gòn nhìn nhau không còn nhận ra quen lạ. Hàng xóm mười nhà có đến ba, bốn chủ mới. Người ta đi. Người ta đi. Người ta đi. Ði «học tập». Ði «kinh tế mới». Ði «vượt biên». Một tháng trời, bạn bè cùng lớp thiếu đi chục đứa. Ðủ thứ lý do: bệnh hoạn, về quê, thăm nuôi thân nhân… Trừ lý do thật. Dường như người ta đã quên nói lên sự thật ở thời buổi này. Bệnh truyền nhiễm. Có lẽ, thầy Tuấn cũng đang mắc phải.

– Nhật này… Tôi muốn hỏi em một chuyện.

– Dạ, thầy?

– Em còn giận tôi không?

Nhật nhớ ngay đến vị thế nằm của mình trong giấc mơ. Dán cứng người như con thạch sùng bị đóng đinh vào bục gỗ. Ở dưới thấp. Rất thấp. Và hứng chịu những tia nhìn từ vòi vọi cao ném xuống, phóng xuống, lao xuống tới tấp, đâm nát võng mô.

– Dạ…

– Tôi cứ hối hận mãi đã quá mạnh tay với em. Tôi ghét nhất thói trộm cắp. Em hiểu không? Lúc biết em bị oan, tôi trăn trở mất ngủ mấy đêm, cứ nhắm mắt lại là thấy những dấu tay của tôi lằn đỏ trên má em. Nhưng với cương vị giám học lúc đó, tôi không thể gặp em xin lỗi trực tiếp được. Tôi có gửi thư đến cho cha mẹ em. Ông bà cụ có nói cho em biết không?

– Dạ không, thầy!

– Vậy thì, em bỏ lỗi cho tôi nhé! Dù có trễ mất mấy năm, nhưng gặp được em nói lời xin lỗi, tôi cũng an lòng.

– Không… không sao, thầy. Chuyện cũ bỏ qua, thầy. Mà… thầy cô lúc này đủ sống không?

Thầy Tuấn nhúc nhích đôi môi. Thoáng một nụ cười.

– Nhờ ơn Chúa, cũng tạm vắt mũi đút miệng em ạ. Vợ tôi may gia công, ít ra cũng đỡ bấp bênh hơn cái nghề soát vé này. Con gái lớn của tôi sang năm vào cấp một. Chú út vẫn còn nhà trẻ. Chúng tôi yên phận, chỉ mong sao nuôi nấng, giáo dục các cháu thành nhân, giữ được đạo gốc, thương người, kính Chúa.

Nhật có cảm tưởng như đang được nghe lại những lời giảng giờ giáo lý. Hai tay khoanh trên  bàn ngồi thật ngoan. Mắt nhìn như bị thôi miên vào những di động của bóng áo chùng đen. Và chiếc cổ nhựa trắng, trông xa vểnh như hai chiếc răng thỏ vẩu. Và đôi kính cận sáng loá… Ðèn rực lên. Cửa bật mở. Dòng thác người ùa ra, ồn ào cười nói bình phẩm chửi thề. Gần quầy bán vé, thêm một đám đánh lộn, gấu ó nhau vì chen lấn giành chỗ. Cái đuôi rồng rắn kéo dài suốt mặt tiền rạp xi-nê chờ suất tới bắt đầu rậm rật chuyển động. Nhật hiểu nên chấm dứt cuộc đối thoại ở đây.

– Chắc thầy sắp bận việc. Chào thầy, em về. Tuần tới rảnh, em mời thầy đi uống cà-phê, nghe thầy!

Nhật không giữ đúng lời hứa. Anh Tư trốn trại học tập về sau đó hai ngày, kéo Nhật vượt biên bằng đường bộ, băng qua Cam-pu-chia đến Thái Lan. Bị thổ tả dọc đường, tưởng mười phần chết chín. Anh Tư cõng cái phần xác rũ liệt của Nhật mà băng đồng, vượt rừng. Cái phần xác thối khắm, xụi lơ và nhẹ hổng. Còn cái phần hồn, đã nhiều lúc bay lãng đãng tận đâu đâu. Vừa may đến trại tiếp cư, người bác sĩ Mỹ với thuốc men và những chai nước biển hiện ra, gõ chiếc đũa thần thông cứu mạng kẻ hấp hối. Rồi cũng qua. Sau trận mê sảng, Nhật quên đi nhiều lắm. Trí nhớ như muốn cắt đứt hẳn với quá khứ. Trừ những giấc mơ về frère Tuấn. Nhật cố gắng nghĩ rằng tiếng chân người sầm sập đuổi theo mình trong giấc mơ lần đó là của công an biên phòng, của bộ đội Việt Nam, của Khờ-me Ðỏ, của ai ai đó chứ nhất định không phải của frère Tuấn, người đàn ông gầy gò tóc hoa râm anh gặp lần cuối đứng soát vé ở rạp Văn Hoa. Nhưng…

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Khi chiếc contact lens trợt khỏi đồng tử, rơi xuống mặt báo, Nhật còn cố dướn mắt đọc cho hết những dòng chữ đã bắt đầu nhoè nhoẹt.

Phê-rô

Nguyễn Văn Tuấn

Cựu sư huynh dòng Lasan

Vừa từ trần tại Sài Gòn ngày .. tháng .. năm ….

Hưởng dương 56 tuổi

Tang lễ sẽ được…

Chiếc contact lens còn lại cũng vừa kịp trôi.

Cổ Ngư

PARIS 06.1999


 

Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam – Đ.Văn- Truyen ngan HAY

Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi “thất tình”, đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. 

Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng “chưa có ai” khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài…, tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch “ngụy quyền” và có chồng đi “học tập cải tạo” không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là “gian khổ chập chùng”, phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Re-Education Camp in Vietnam. Hit Song - YouTube

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói “Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn”. Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Những bài thơ về chữ Hiếu, stt báo hiếu cha mẹ

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.

Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

 From Tu – Phung

BẢN DI CHÚC KỲ LẠ CỦA MỘT TỶ PHÚ

Xuyên Sơn

 Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông.

Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm.

Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường.

Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh.

Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống,gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm.

Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô.

Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống.

Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ. Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy.

Mẹ của Siada nói:

-“Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”.

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ.

Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi.

Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó.

Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi.

Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh.

Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú.

Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng.

Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người.

Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất.

Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối, đấu đá tranh giành.

Hai mẹ con họ đã khiến tôi hiểu ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô bé, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người.

Có cô bé ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm.

Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế.

Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”.

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kỹ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản.

Anh ta viết:

“Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi.

Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết:

“Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh.

Theo Helino