“Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”-Truyện rất ngắn

Dao Van Ba is with Nguyễn Trung Tính

Một bài viết từ e-mail của bạn Khanhvngo st, tôi chép lên Facebook để nhiều bạn đọc lại vẫn thấy thấm nhé !

Lâu lâu đọc lại vẫn thấy thấm

Người phụ nữ hỏi lão già: “Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”

Lão bán trứng trả lời: “3.000₫ một quả, thưa bà.”

Người phụ nữ liền nói: “6 quả 12.000₫, không bán tôi mua chỗ khác.”

Lão bán trứng nói: “Cứ mua với cái giá mà bà muốn. Có thể đây là khởi đầu tốt, bởi từ sáng tới giờ tôi vẫn chưa bán được quả nào.”

Người phụ nữ lấy những quả trứng và rời đi, lòng thầm đắc thắng.

Bà ta ngồi trên chiếc ô tô ưa thích của mình, tới một nhà hàng sang trọng để dùng bữa với bạn bè. Ở đó, bà và người bạn gọi bất cứ món ăn nào họ thích. Sau đó, bà ra quầy thanh toán. Hóa đơn trị giá 1.950.000₫ trả tới 2 triệu và còn dặn người chủ nhà hàng không cần thối lại.

Tình huống này xem ra khá quen thuộc với người chủ cửa hàng, nhưng thật quá nhẫn tâm với ông già nghèo khổ bán trứng gà kia.

Vấn đề mấu chốt ở đây là: Tại sao chúng ta cứ phải tỏ ra quyền lực với những người nghèo khó? Và tại sao chúng ta luôn hào phóng với những người thậm chí không cần đến sự hào phóng của chúng ta?

Có lần tôi đọc được ở đâu đó một câu chuyện:

“Bố tôi có thói quen mua những thứ đồ nho nhỏ với giá cao từ những người nghèo khó, mặc dù ông không hề cần đến. Thỉnh thoảng ông thậm chí còn trả thêm tiền cho chúng. Tôi bắt đầu để tâm đến hành động này và hỏi bố tại sao lại làm như vậy? Bố tôi bèn nói: “Đó là quỹ từ thiện được bao bọc bởi phẩm giá, con yêu ạ.”

Sưu tầm


 

THIẾU UÝ HÙNG -Truyện ngắn

Xuyên Sơn

Thiếu Uý cảnh sát Dương Mạnh Hùng có thời gian phục vụ trong ngành ngắn ngủi chỉ 2 năm, nhưng thời gian tù cải tạo lại dài gấp 4 lần, nghĩa là 8 năm.

Tình nguyện vào học tại trường Sĩ quan cảnh sát Thủ Đức năm 1973,

lúc ấy Hùng mới 19 tuổi, trên mặt vẫn còn sót lại lưa thưa những cọng lông măng của tuổi dậy thì.

Ngày mãn khoá huấn luyện, trong lúc các bạn đồng khoá vui mừng chuẩn bị đón nhận lon Thiếu Uý mới tinh trên vai áo thì Hùng bị bắt.

Một chiếc xe jeep mang biển số ẩn tế ( giống như xe mang biển số xanh bây giờ) của Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia chạy vào trường, còng tay Hùng quăng lên xe vì cái tội khai báo lý lịch gian dối.

Về tới Bộ Tư Lệnh cảnh sát, Hùng được tháo còng, đưa đi gặp Trung Uý Ngọc, Trưởng lưới tình báo đặc trách mảng “Sinh viên, học sinh”, thuộc Khối Cảnh sát Đặc biệt do Đại Tá Tây làm trùm.

Tại đây Hùng được biết, việc bắt Hùng chỉ là một màn kịch để che mắt mọi người trong việc tuyển Hùng vào làm cho ngành cảnh sát Đặc biệt, chuyên trà trộn, theo dõi và báo cáo các hoạt động của bọn sinh viên “phản chiến”.

Hùng được dặn cấm mặc đồ cảnh sát, cấm vào Bộ Tư lệnh, coi như mình còn đang đi học đại học.

Mọi chuyện chỉ được liên lạc qua một người mập mập, chạy xe vespa,

chính người này mỗi tháng sẽ đến nhà đưa tiền lương cho Hùng hoặc nếu không gặp thì đưa cho mẹ của Hùng.

Sau này, qua rải rác những chuyện phiếm bên bàn rượu, hắn được biết đã có nhiều khuôn mặt việt cộng từng nằm trong “tầm ngắm “ của Hùng.

Đó là :

Hạ Đình Nguyên

( Về sau phản tỉnh, có đi biểu tình chống Trung Quốc vài lần).

Phan Công Trinh

( Sau 75 làm Giám đốc Sở Tư pháp TP/ HCM, rồi đi tù vụ nước hoa Thanh Hương. Tù về, mở nhà hàng Hương Giang rất bự trên sông Hương, Huế)

Ba Châu

(Chánh văn phòng Quận 3, nghe nói đã chết )

Ba Hội

( Giám đốc xí nghiệp xuất nhập khẩu Quận 8, giờ không biết ra sao,

lần chót hắn gặp là năm 1983, khi Ba Hội đến nhà chơi xì phé với ông anh hắn,

lúc xuống cầu thang đi tiểu, súng K54 rớt cả ra ngoài ).

Và toán của Hùng đang trong chiến dịch chuẩn bị bắt nữ nghệ sĩ Kim Cương thì đứt phim.

Sau 75, đi qua nhiều trại cải tạo cũng như chịu đựng mấy trận đòn thù cứ gọi là nên thân, Hùng được thả về cuối năm 1983.

Năm sau, Hùng lấy vợ ( là cô cháu vẫn thường đi thăm nuôi người chú, là bạn tù của Hùng trong trại Z30 D ), có được 2 người con gái.

Cái gia đình nhỏ bé 4 người này đã trải qua những năm tháng lếch thếch, nghèo khổ…

Hắn nhớ lại, lúc đó tài sản quý giá nhất của gia đình Hùng hình như chỉ là mấy cái chậu giặt đồ xanh đỏ bằng mủ.

Rồi khó khăn cũng qua đi, Hùng và cả gia đình leo lên máy bay qua Mỹ theo diện H.O. Tại thành phố Knoxville, bang Tennessee,

Hùng làm lao công cho một bệnh viện lớn ở đây.

Cả ban giám đốc bệnh viện đều khoái Hùng vì sự chăm chỉ và cẩn thận vượt quá óc tưởng tượng của mọi người.

Cách đây khoảng 2 hay 3 năm gì đó, Hùng về hưu non.

Hàng tháng lãnh lương hưu chỉ để vui chơi, chăm sóc 2 đứa cháu ngoại mà Hùng thương yêu nhất trên tổng số 7.8 tỷ con người đang sống trên mặt đất. Thỉnh thoảng Hùng đi câu cá. Cá sợ Hùng lắm, nhưng sợ thì sợ, kết cục cũng phải nằm trong cái thùng nước đá mà Hùng mang theo lúc đi câu.

Tới đây chắc phải nói qua một tí về quỹ hưu trí của nước Mỹ.

Theo hắn đoán, đây là nơi tập trung những bộ óc thông thái nhất của nước Mỹ về các ngành

Sinh học,

Nhân chủng học,

Tâm lý học,

Y tế học,

vân vân và mây mây.

Các bộ óc siêu việt này, ăn toàn đồ bổ của Mỹ, đã cùng nhau phát minh ra một hệ thống lương hưu, mà không hiểu sao, 80% những người nhận lương hưu sẽ chết trong vòng 5 năm.

Chỉ có 20% là may mắn sống vượt ngưỡng 5 năm để tiếp tục lãnh lương mà không phải làm gì cả.

Thiếu Uý Hùng đã không vượt qua được sự tinh khôn của các nhà khoa học Mỹ.

Cách đây chừng 3 tháng, trong lần Hùng tới chơi nhà hắn,

Hùng cho biết bị ung thư thận, sắp phải mổ.

Hắn bảo đừng mổ, để thời gian đó đi chơi cho đã rồi chết cũng được.

Hùng ừ.

Nhưng cuối cùng chắc chiều theo ý gia đình muốn níu kéo, còn nước còn tát, Hùng nhập viện để mổ.

Thế rồi sau 2 tháng nằm đau đớn trong bịnh viện, với đủ các loại ống linh tinh cắm vào người, Hùng được về nhà theo yêu cầu và đã ra đi lúc 08:40 ngày 15/2/2022, trước sự chứng kiến của gia đình, có cả 2 đứa cháu ngoại mà mấy tháng nay không được nhìn thấy mặt ông, vì còn quá nhỏ, bệnh viện không cho thăm gặp sợ ảnh hưởng tới tâm lý của 2 bé.

Với bài viết hơi bị dài này (vì không thể rút ngắn hơn được), hắn coi như một nén nhang, một lời chào từ biệt đứa em thân với hắn nhất trong nhà.

Từ thuở còn bắn bi, đặt bầu cua, cho tới lúc lớn, gặp nhau là cười suốt bên bàn rượu, bởi vì tánh Hùng thích nói giễu, nhất là nói chuyện giễu về việt cộng thì ít ai có thể qua mặt được Hùng. …

Thôi Hùng đi thanh thản.

Anh ở lại sẽ buồn, nhưng anh sẽ sống với ý nghĩ một ngày nào đó anh em mình sẽ gặp lại nhau ở thế giới bên kia.

Và anh em mình sẽ lại cười giỡn như chưa hề được cười giỡn với nhau.

Nguồn fb Loc Duong

 

 


 

Một chuyện tình yêu 80 niên – Truyện ngắn

Nghệ Lâm Hồng

Chàng 16 tuổi, còn nàng 12. Nàng về nhà người dì ở cùng quê chàng và đi học ở tiểu học nữ Cao Lãnh, Đồng Tháp.

Chàng khi đó yêu nhạc đàn, chỉ 10 tuổi đã rất giỏi các nhạc cụ. Một lần, ôm cây măng cầm (mandoline) đến nhà người dì đàn cho vợ chồng họ nghe, chàng gặp nàng và “say nắng”. Nhưng chỉ là thầm yêu trộm nhớ vậy, vì 1 năm sau nàng đã từ giã người dì để về ở với cha mẹ tại Sóc Trăng.

Chàng chính là nhạc sư Vĩnh Bảo sau này nổi danh còn nàng là hoa khôi Trâm Anh nổi tiếng.

Từ Sa Đéc khi đó tới Sóc Trăng là cả 1 quãng đường. Có lần, nhớ người trong mộng đến quay quắt, chàng đón xe đò xuống quê nàng. Đứng ở cầu quay Sóc Trăng, chàng chờ hàng giờ, nhìn học sinh lần lượt đi qua mà không thấy bóng dáng nàng đâu, đành thất thểu quay về.

Năm 1946 – 12 năm sau, Vĩnh Bảo – lúc này đã là một tay đàn lẫy lừng – từ Sài Gòn về thăm quê cha ở Sa Đéc. Vẫn ôm mối tình vô vọng, khi gặp người quen, ông bâng quơ hỏi thăm về Trâm Anh, được cho biết nàng vẫn còn độc thân ở quê nhà.

Chàng trai năm ấy quyết liều một phen, về nhà nhờ gia đình mang trầu cau sang dạm hỏi. Phút giây cha mẹ bà gật đầu đồng ý, ông miệng cười mà nước mắt tuôn rơi.

Nhạc sư không dám tin từ nay sẽ sống bên người con gái ông ngỡ đã mãi đánh mất. Một đám cưới nhỏ được tổ chức ngay trong năm. Và họ nên duyên cầm sắt.

Yêu vợ, 7 người con ra đời đều ông đặt theo tên vợ: Thu Anh, Trung Anh, Tam Anh, Tùng Anh, Tú Anh, Tiến Anh, Tường Anh.

Ông từng tâm niệm vợ chồng gắn bó cả đời là ở sự kính nể nhau. Học trò về Đồng Tháp thăm nhà ông, thường ngưỡng mộ tình cảm ông dành cho vợ. Trong gian nhà chỉ khoảng hơn 40 m2, ông bày khắp tường khung ảnh của vợ, từ khoảnh khắc vợ chồng thuở thanh niên đến lúc bạc đầu.

Bà làm vợ 1 nhạc sư, gia cảnh nghèo, rất tần tảo lo tề gia nội trợ, yêu chồng thương con, quý học trò của chồng.

Những năm cuối đời của bà Trâm Anh, ông không rời bà nửa bước. Lúc ấy, bà bị suy thận, phải nhập viện điều trị. Ông thường nằm bên bà để vợ bớt lẻ loi, hai cái giường chỉ cách nhau nửa gang tay. Đến khuya, bà than lạnh, ông liền leo qua nằm chung. Chứng thận yếu khiến người bà hay ngứa ngáy, phải nhờ ông gãi suốt đêm, bà mới êm giấc. Những tháng cuối cùng, biết mình khó qua khỏi, bà mới chủ động ôm chồng dù thường ngày, tính bà hay ngại. Mỗi lần muốn hôn, bà cố gượng dậy nhưng lực bất tòng tâm. Thấy cảnh đó, lòng ông đau như cắt.

Bà mất trong một chiều mùa thu năm 2014. Trong đám tang bà, ông không còn nước mắt để khóc. Nhạc sư chỉ kịp viết bài thơ tiễn biệt vợ sau 68 năm chung sống:

“Chiều nay em vĩnh viễn ra đi

Tim anh rỉ máu phút biệt ly

Sáu tám năm, nặng nghĩa sâu

Đơn phương cởi áo qua cầu mình em

(…) Từ nay lạnh lẽo kiếp phù sinh

Biết nói gì đây hết ý tình

Chuyến xe định mạng, đành an phận

Bấm ruột, lệ rơi chỉ riêng mình”.

6 năm sau khi người vợ ra đi, nay nhạc sư Vĩnh Bảo thọ 104 tuổi đã về trùng phùng cùng vợ.

Chuyện tình của ông bà thật bình dị, nhưng thật đẹp, như cuộc đời của ông, bảo vật quý báu của đờn ca tài tử Nam Bộ, và của bà, một phụ nữ cả đời hy sinh nhất mực vì chồng con.

Theo VN Express, Truyền hình Đồng Tháp

Hình tư liệu

NbNguyễn Thị Bích Hậu


 

Gieo nhân nào gặt quả đấy – Bởi  Đăng Dũng-Truyen ngan

Bởi  Đăng Dũng

Tại thành ρhố Portlαnd, bαng Oregon, thuộc Mỹ, có hαi vợ chồng và một người con trαi. Cậu con trαi này đã mαng đến cho họ rất nhiều ρhiền пα̃o. Không chỉ thế, mà cậu con trαi này củα họ đã bỏ nhà đi không một chút tin tức gì trong suốt bα, bốn năm liền.

Vì vậy, người chồng đã tìm đến một chuyên giα tâm lý học và đem hết nỗi khổ sở trong lòng mình nói rα cho chuyên giα tâm lý này nghe.

Chuyên giα tâm lý học sαu khi nghe xong liền nói: “Ông đã ‘nguyền rủα’ con trαi củα mình trong thời giαn bαo lâu rồi?”

Người chồng kinh ngạc hỏi lại: “Ông nói tôi nguyền rủα con trαi tôi? Ông nói thế là nghĩα làm sαo?”

Chuyên giα tâm lý trả lời: “Nguyền rủα ở đây chính là nói những lời không ρhải, lời cαy nghiệt với người khác. Theo như lời ông kể lúc nãy, thì những lời nói củα ông với con trαi mình đều là những lời không ρhải. Vậy ông đã ‘nguyền rủα’ con trαi mình trong bαo lâu rồi?”

Người chồng lúc này đã hiểu và cúi đầu nói: “Vậy thì tức là từ lúc con trαi rα đời, chính là tôi đã ‘nguyền rủα’ nó cho tới tận bây giờ. Từ trước đến nαy, dường như tôi chưα nói được nhiều lời thực sự tốt đẹρ với nó cả”.

Chuyên giα tâm lý nói: “Kết quả là không đem lại hiệu quả gì, đúng không?”
Người chồng trả lời: “Đúng vậy!”

Cuối cùng, chuyên giα tâm lý họ này nói: “Bây giờ tôi đề nghị ông và vợ ông, trong hαi tháng tiếρ theo, khi hαi người nghĩ đến con trαi củα mình, hãy chúc ρhúc cho cậu bé, đừng nghĩ cậu bé không tốt.

Tôi cũng muốn hαi người hãy cầu xin Thượng đế che chở cho cậu bé. Lúc hαi người nghĩ đến con trαi củα mình, tôi đề nghị hαi người hãy nhớ những mặt tốt củα cậu bé và nói những lời tốt về cậu bé!”

Người chồng sαu khi trở về, đã kể lại việc này cho vợ củα ông. Hαi người họ đồng ý với những lời nói củα chuyên giα tâm lý học kiα và nguyện làm theo như vậy.

Mỗi lần nghĩ đến con trαi củα mình, họ đã cầu xin Thượng đế bαn ơn cho cậu bé. Lúc họ nói chuyện về con trαi họ, họ cố gắng ghi nhớ những ưu điểm củα cậu bé và mỗi ngày họ đều làm như vậy.

Khoảng 10 ngày trôi quα, một hôm người chồng đαng ngồi trong ρhòng đọc sách thì chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kiα điện thoại chính là con trαi củα ông. Cậu con trαi nói: “Chα! Con không biết tại sαo lại gọi điện thoại cho chα. Con chỉ muốn nói với chα mẹ rằng trong một tuần vừα quα, con lúc nào cũng nghĩ về chα mẹ và còn cả người nhà củα chúng tα nữα. Cho nên con đã gọi điện cho chα, hỏi thăm xem mọi người có khỏe không?”

Người chα nói: “Con trαi! Chα thực sự rất vui vì con đã gọi điện về!”
Sαu mấy ρhút trò chuyện trong điện thoại, cuối cùng người chα nói: “Chα không biết trong lòng con nghĩ thế nào, nhưng con có muốn trưα thứ bảy này ăn cơm cùng chα không?” Cậu con trαi vui vẻ đồng ý.

Trong bữα cơm trưα ngày thứ bảy, chα con họ gặρ lại nhαu. Người con trαi ăn mặc rất cũ rách, đầu tóc vừα dài vừα rối bù. Nếu như là trước đây, người chα nhất định sẽ giận giữ mà buông những lời mắng mỏ thậm tệ đối với cậu.
Nhưng bây giờ, ông lại dùng thái độ tiếρ nhận mà đối đãi, trong lòng còn “chúc ρhúc” cho cậu. Trong bữα ăn, hαi chα con họ rất vui vẻ trò chuyện cùng nhαu, mỗi khi cậu con trαi nói điều gì đúng thì người chα cũng vui vẻ gật đầu đồng ý.
Bữα ăn nhαnh chóng kết thúc, cậu con trαi nhìn chα và nói: “Con không biết đã xảy rα chuyện gì nhưng con rất vui vì được ở bên chα trong khoảng thời giαn ngắn ngủi vừα rồi.”

Người chα nói: “Chα cũng rất vui vì được ở bên con!”

Cậu con trαi nhìn chα lưu luyến và hỏi: “Con muốn ở nhà đêm nαy được không? Chỉ đêm nαy thôi! Con muốn thăm mẹ cùng mọi người và cả chiếc giường cũ củα con nữα!”

“Đương nhiên là được rồi! Mọi người sẽ rất vui vẻ vì con trở về!”

Đêm hôm ấy, khi người con trαi nằm ngủ ở chiếc giường xưα củα mình, người chα đã đi đến bên ρhòng cậu con trαi, ngồi xuống giường và nói: “Con trαi! Nhiều năm quα chα đã đối xử với con rất không tốt. Con có sẵn lòng thα thứ cho chα không?”

Nói xong, hαi chα con họ ôm nhαu thật chặt và thật lâu trong màn đêm yên tĩnh. Người con trαi sαu đó đã thực sự trở về nhà và kể từ đó mối quαп Һệ giữα hαi chα con họ rất tốt đẹρ.

Suy ngẫm một chút về câu chuyện này, chúng tα tự hỏi mối quαп Һệ giữα chα con họ thực sự tốt đẹρ từ khi nào? Chính là từ khi người chα chịu tiếρ nhận, mở lòng và bαo dung với con trαi củα mình.

Mặc dù không lý giải được hết nguyên nhân nhưng khi chúng tα sẵn lòng “chúc ρhúc” cho người khác mà không ρhải “nguyền rủα” họ thì dường như Thượng đế cũng sẽ coi trọng lời “chúc ρhúc” củα chúng tα mà khiến cho khoảng cách giữα người “chúc ρhúc” và người được “chúc phúc” rút ngắn lại hơn.

Hãy bαo dung và ghi nhớ điểm tốt củα người khác nhiều hơn

Nếu một người có lòng bαo dung, luôn ghi nhớ điểm tốt củα người khác thì người ấy mới có thể làm được việc thα thứ người khác một cách thật lòng.

Trong cuộc sống, có lẽ mỗi người chúng tα đều từng mắc ρhải cùng một tật xấu, đó là người khác đối với chúng tα có mười điểm tốt và một điểm không tốt thì mười điểm tốt kiα đều sẽ bị chúng tα gạt bỏ toàn bộ chỉ trong nháy mắt.

Chúng tα thường có xu hướng nhớ kỹ khuyết điểm và sαi lầm củα người khác dù chúng rất nhỏ bé, nhớ kỹ những lúc người khác ngạo mạn, xem thường chúng tα…rồi ấm ức. Vì thế, chúng tα sẽ càng nhìn thấy ở họ chứα đầy sự xấu xα, càng nhìn thì lại càng thấy người này đã không thể chấρ nhận nổi.

Nhưng chúng tα lại thường quên mất rằng, người khác chính là chiếc gương củα mình. Nhìn vào “chiếc gương” với nét mặt như thế nào thì từ trong gương sẽ ρhản xạ lại hình ảnh như thế ấy.

Một khi bạn nở nụ cười tươi rạng rỡ nhìn vào “chiếc gương” ấy thì hình ảnh mà bạn nhận được là một gương mặt rạng rỡ, tươi vui. Còn khi dùng nét mặc giận dữ, chαu mày, trừng mắt nhìn vào “chiếc gương” thì hình ảnh mà bạn nhận lại sαo có thể không ρhải là gương mặt “không vừα ý” ấy được?

Chúng tα gieo trồng loại hạt giống nào thì sẽ thu hoạch được loại quả đó. Nếu như chúng tα rải khắρ nơi hạt giống “nguyền rủα” thì chúng tα sẽ thu hoạch được “nguyền rủα”. Còn nếu chúng tα rải khắρ nơi hạt giống “chúc ρhúc” thì đương nhiên thứ mà chúng tα thu hoạch được sẽ là “chúc ρhúc”!.

From: Anh Dang & Kim Bang Nguyen

Cặp đôi hoàn hảo-Truyện ngắn HAY

Cặp đôi hoàn hảo

Họ là một “cặp đôi hoàn hảo”như tên gọi của khu dân cư này tặng cho. Cụ ông chắc hẳn đã ngoài bảy mươi, trong khi cụ bà cũng tròm trèm bảy chục, nhưng trông trẻ trung và khỏe mạnh hơn cụ ông rất nhiều.

Sáng sáng, người ta thấy cụ bà cầm tay dẩn từng bước, đưa ông ra công viên tập thể dục với cây gậy trên tay vì ông đã mù. Trông họ rất hạnh phúc và quấn quit nhau như vợ chồng son. Sau khi tập thể dục xong, họ thường ngồi trên một chiếc ghế đá cùng nghe nhạc hoặc nghe đọc sách từ chiếc điện thoại, hoặc cụ bà đọc sách cho ông nghe, rồi cả hai cùng chuyện trò vui vẻ.

Những buổi chiều êm ả, từ nhà họ phát ra tiếng dương cầm thánh thót của những bản nhạc xưa, do cụ ông ngồi trước cây đàn với bàn tay uyển chuyển trên từng phím đàn. Họ mới dọn về khu dân cư này khoảng trên dưới hai năm nay. Nhiều người tò mò muốn biết họ là ai, nên hỏi anh công an khu phố về mối quan hệ và lai lịch của họ. Anh công an cho biết người phụ nữ là một Việt kiều Mỹ và cụ ông là một cán bộ về hưu và họ không phải là vợ chồng. Rất nhiều người muốn biết “bí quyết hạnh phúc”của họ nên cứ theo nài nỉ họ kể về cuộc đời của mình. Cụ bà cũng là người dễ tính, hướng ngoại nên cuối cùng bà bộc bạch

Hơn bốn mươi lăm năm xưa, lúc miền Nam Việt Nam vừa mới được hoàn toàn giải phóng, chúng tôi là hai người xa lạ, cùng ngồi chung bàn trong một lớp học thêm tiếng Anh, Thiện là con của một cán bộ đi tập kết về, mẹ ở miền Nam làm chủ một cửa ha`ng lớn, trong khi tôi là con nhà nghèo, ba mất sớm, mẹ phải một mình gồng gánh nuôi ba đứa con nhỏ ăn học với cái nghề bán hàng rong. Anh là một thanh niên lịch lãm, đàn hay hát tốt. Tôi là con bé suốt ngày cắm cúi nấu xôi, chuối và làm việc nhà phụ mẹ. Nhà nghèo, vất vả mưu sinh, nhưng không hiểu sao mẹ cứ bắt tôi học tiếng Anh. Trong giờ học, cô giáo luôn phân cho chúng tôi làm “pair work”(một cặp đôi) để tập nói. Cả hai cùng thích đọc sách, xem phim và thích bình luận về các tác phẩm mình vừa đọc hoặc xem nên chúng tôi ngày càng thân nhau hơn. Thấy mẹ tôi và tôi vất vả bán buôn bên vỉa hè, Thiện sắp xếp cho chúng tôi một quầy xôi mặn và bánh mì rất sạch sẽ và sang trọng trước cửa nhà anh. Anh dối mẹ mình là chúng tôi thuê với giá cao, trong khi anh đã bỏ tiền túi của mình ứng trước tiền cọc và tiền thuê nhà suốt một năm nên ba má Thiện rất tử tế với chúng tôi. Anh thường xuyên mua thịt giá cao ngoài chợ đen, nhưng nói dối với chúng tôi là anh mua từ các hợp tác xã nên quầy xôi mặn và bánh mì thịt của chúng tôi ăn nên làm ra nhanh chóng, vì không những xôi bánh của chúng tôi vừa hợp khẩu vị vừa nhiều thịt, lại giá rẻ nữa. Bên cạnh đó các loại nhu yếu phẩm của mọi người trong cơ quan anh, ai cần tiền bán lại, anh đều mua hết đưa cho mẹ tôi bán lại kiếm lời. Nhờ vào sự giúp đỡ của anh, đời sống của chúng tôi tốt hơn rất nhiều. Lần lượt ba chị em chúng tôi đều tốt nghiệp đại học và có việc làm, thế nên mẹ tôi cũng trả mặt bằng lại cho gia đình Thiện.

Rồi một buổi chiều mưa đầy trời, Thiện đón tôi nơi công sở và đưa tôi về nhà.

Thuở ấy, cái thuở “nghèo ơi là nghèo”, nhưng may mắn thay, bà ngoại vừa từ dưới quê lên, đem theo một ít bột nếp, khoai môn và một trái mít. Tôi đã làm bánh ít trần nhân khoai trộn mít bầm đãi anh. Lúc tiễn anh ra về, anh cứ đứng mãi nơi cửa, chần chừ mãi, dường như anh muốn nói một điều gì đó quan trọng lắm, nhưng không nói được.

Cuối cùng, anh lúng túng cầm tay tôi, mấp máy môi mấy lần mới nói được nên lời

“Chúng mình mãi mãi là tri kỷ nhé.”

Bỗng nhiên tôi hiểu được ý của anh trong câu nói đó, tôi nhỏ nhẹ trả lời

“Dạ, chúng ta mãi mãi là tri kỷ. Dù anh có làm bất cứ điều gì, em vẫn hiểu được tại sao anh lại quyết định như thế.”

Anh xiết tay tôi thật chặt, thật lâu

“Cảm ơn em. Anh sẽ nhớ mãi hương vị mấy cái bánh của em đãi anh hôm nay”.

Rồi anh đưa cho tôi tấm thiệp mời đám cưới của anh.

Những năm của cuối thập niên bảy mươi và đầu thập niên tám mươi gần như là không có một đám cưới nào được tổ chức ở nhà hàng, thế nên cả nhà chúng tôi đến phụ đám cưới cho Thiện vì anh không chỉ là bạn mà còn là người ơn của gia đình tôi.

Sau đó tôi lấy chồng và cùng gia đình chồng định cư ở Mỹ. Chúng tôi phải làm lại từ đầu. Cả chồng tôi và tôi vừa đi làm vừa đi học để có một việc làm có chuyên môn cao nên gần như chúng tôi không có thời gian để nghĩ về bạn bè xưa.

Bốn mươi năm trôi qua nhanh hơn người ta vẫn tưởng. Chồng tôi qua đời ở tuổi sáu lăm, con cái của tôi đã trưởng thành và đã có gia đình riêng. Theo văn hóa Mỹ khi đã lập gia đình, ít có con cái nào sống cùng cha mẹ.

Giống như con cá hồi, sau bao năm phiêu lưu trên biển cả, chúng quay về nơi mình sinh ra để chết dù đường trở về vất vả gian nan, tôi trở về Việt Nam sống cùng gia đình một đứa em trai cho ấm áp tuổi già.

Ngày tháng cứ êm đềm trôi cho đến một hôm tôi nhận được tin nhắn từ messenger facebook của một người xa lạ

“Thưa cô, con là một trong những điều dưỡng của viện dưỡng lão A ở quận 12. Qua facebook của cô và hình ảnh cùng lời kể chuyện của một người, con biết cô là người mà bác ấy mong mỏi được gặp lại một lần trước khi ra đi mặc dù bác ấy cố tình lánh mặt cô và cố ý giấu tin tức của mình không cho cô biết”.

Đọc những dòng ấy, tôi biết ngay người đó là ai nên vội vàng chạy ra chợ mua nguyên liệu làm lại mấy cái bánh của ngày cuối cùng chúng tôi bên nhau.

Tôi đến viện dưỡng lão, dễ dàng tìm được phòng Thiện mặc dù tôi không hề báo trước cho cô điều dưỡng. Phòng “đặc biệt” của anh khang trang rộng rãi. Anh đang ngồi chơi dương cầm. Bản nhạc của ngày xưa anh hay dạy tôi đánh khi tôi đến nhà anh chơi.

Đây là sự thật chứ không phải trong tiểu thuyết Jane Eyre, khi cô ấy tìm thăm ông Roschester, tôi âm thầm chờ anh đánh xong bản nhạc, nhẹ nhàng nhờ cô điều dưỡng mời anh ăn bánh ít trần nhân khoai môn trộn mít. Tôi nín thở chờ đợi… Anh ngẩng lên, hỏi cô điều dưỡng

“Người đem bánh đến, còn ở lại đây hay đã về rồi?”

Tôi nhẹ nhàng đến bên anh, cầm lấy hai bàn tay anh, nhỏ nhẹ nói

“Chúng ta mãi mãi là tri kỷ.”

Vâng, chúng tôi là tri kỷ, mãi mãi là tri kỷ, dù mắt anh bị viêm điểm vàng và đã mù hẳn hơn ba năm qua. Vợ anh đã mất và con cái anh bận rộn nên không có thời giờ chăm sóc anh…

———–

( Bài không rõ tác giả )

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú ? Truyen ngan

Nghệ Lâm Hồng

Khoảng 5h sáng ngày 25/10 tại sân bay Tân Sơn Nhất, một người phụ nữ làm thủ tục ở quầy vé. Nhìn là biết người nghèo vì áo quần cũ kỹ, mặt mày hốc hác, tiều tụy; đã vậy lại còn thấp bé, chỉ độ 1,5m.

Với thái độ khẩn cầu, chị xin được đổi giờ bay chuyến 6g, nhưng chuyến bay đã hết vé, chỉ còn hạng thương gia.

Muốn đổi vé, chị phải bù thêm 1,5 triệu đồng.

Những người xung quanh nhìn một người phụ nữ tiều tụy, nghèo khổ ấy lục túi lấy tiền, những đồng tiền chẵn lẻ khác nhau chứng tỏ được thu gom theo kiểu bỏ ống, nhưng cũng đủ để bù giá vé.

Ai cũng ngạc nhiên khi thấy chị quyết định không chút đắn đo, có người còn cười cợt vì cho rằng nghèo mà “chơi leo”.

Hầu như chị không quan tâm đến thái độ, ánh nhìn của những người xung quanh; với chị, được đổi giờ bay sớm hơn là quan trọng nhất.

Nam nhân viên giám sát mặt đất như muốn xác định lại:

“Chị mua vé hạng thương gia cơ à?”.

Chị đáp lại:

“Dạ vâng! Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?”.

Những người xung quanh nghe câu nói của chị đều lặng ngắt và thực sự chia sẻ.

Có thể chị không hề biết hạng thương gia là gì, và chị cũng không bận tâm khi phải thêm số tiền không nhỏ đối với chị, để chỉ về với mẹ sớm hơn một giờ. Một giờ thôi nhưng quý báu vô cùng.

Dù chị không kể ra, nhưng ai cũng có thể hiểu chị là công nhân hoặc là người tha phương kiếm sống. Cuộc mưu sinh và cái nghèo không cho chị có cơ hội bên mẹ những ngày đau yếu, chỉ khi tử biệt sinh ly mới tất tả chạy về.

“Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?” – một câu nói chứa đựng nỗi đau và cũng là sự uất hận của người con không gặp mặt mẹ trước khi mẹ qua đời.

Câu chuyện lên đến cao trào cảm xúc ở đoạn sau.

Nam nhân viên sau khi nghe chị nói đã chạy đi một lát rồi quay trở lại.

Anh nói: “Em đổi vé xong rồi, chị đi đi nhé. Không phải bù thêm tiền bạc gì đâu”. Ngay sau đó, một nữ nhân viên khác gửi lại cho chị 1,5 triệu đồng.

Không ai biết nam nhân viên ấy đã làm cách gì để giúp chị.

Có thể anh đã trình bày hoàn cảnh của chị với người có trách nhiệm cao hơn, và mọi người đã nhanh chóng xử lý, chuyển chị lên hạng thương gia nhưng không thu tiền.

Dù cách gì thì cũng đã có một kết thúc rất đẹp.

Rất cảm ơn những tấm lòng nhân hậu, đã làm cho cuộc sống đáng yêu hơn.

Đây là câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Thật tự hào về truyền thống tương thân tương ái của người Việt và xin chia buồn với sự mất mát của chị!

XIN MỌI NGƯỜI HÃY CHIA SẺ VÌ XH CÒN BIẾT BAO NHIÊU NGƯỜI CẦN SỰ GIÚP ĐỠ NHƯ CHỊ:

“ Mở lòng nhân sinh ra vạn phúc,

Phúc hẹp hòi phúc bất kỳ nhân”

Theo internet.


 

ÁM ẢNH – bài của fb Kieu Duong – Truyen ngan

Nghệ Lâm Hồng

(bài của fb Kieu Duong)

Bức ảnh này là một sự ám ảnh kỳ quặc đối với tôi bao năm qua. Thời gian đó tôi ở Nhà Bè, sau này tách ra một phần thành quận 7.

Đó là thời gian gia đình tôi bốn người sống trong căn nhà lá ở đường số 10, xã Tân Qui Đông. Trước mặt nhà, cách một cái ao nhỏ là một cái đầm lúc nào cũng mênh mông nước. Rau muống mọc tự nhiên khắp nơi, loại rau muống cọng hơi cứng, màu đỏ. Thú thật chẳng bao giờ tôi dám hái vì chung quanh cái đầm đó toàn là … cầu tỏm. Những năm đó mưa ngập lụt cả một vùng quanh nơi tôi sống. Mỗi lần ra khỏi nhà là cả một vấn đề: quần xắn lên cao, giày dép bỏ lên xe, đẩy xe ra khỏi vùng nước lúp súp.

Năm đó, tôi phải ở nhà chăm sóc má chồng tôi và đứa con gái nhỏ mới mười tháng tuổi. Ông xã tôi lúc đó đang lám báo PL cùng lúc cộng tác với báo TT.

Trong một lần đi làm, ông xã bị xe tông trúng mắt cá, phải nằm một chỗ. Má chồng bệnh, con còn nhỏ, giờ chồng không đi làm được. hàng ngày tôi phải vừa lo việc nhà vừa chăm sóc mẹ chồng, chồng và con gái nhỏ.

Đến khi tôi thấy ông xã bớt đau nhức, tôi nói ổng viết bài, tôi sẽ mang đến báo gửi, và nhận tiển nhuận bút để xoay sở việc sinh nhai.

Một buổi sáng tôi chạy gửi bài sớm. Lúc trở về ngang cầu Khánh Hội cũ, tôi đã nhìn thấy bà cụ bán rau (ảnh đính kèm, bức ảnh này tình cờ tôi thấy trên mạng, giật mình đó đúng là bà cụ tôi vẫn gặp). Đôi gióng được làm bằng sợi kẽm to với chiếc đòn gánh to đặt bên lối đi dành cho người đi bộ. Nhìn dáng bà ngồi, chiếc lưng cong như không thể cong hơn được nữa làm tôi nhớ tới bà ngoại tôi cũng lưng còng như vậy nhưng lúc noại già vẫn có con cháu lo lắng, chăm sóc. Tôi tự hỏi con cháu bà đâu, sao để bà gồng gánh đi bán rau, những mớ rau đó chắc cũng do chính bà cắt hái từ ao quanh nhà bà.

Hai chiếc thau nhôm đặt lọt thỏm trong chiếc gióng với vài bó rau. Bà ngồi đó im lặng không nói gì, chỉ nhờ vào lòng hảo tâm của người qua đường mua giúp mấy mớ rau. Bà ngồi trên cầu như một bức tượng đài về nỗi thống khổ của con người.

Từ đó về sau, mỗi lần đi ngang qua cầu Khánh Hội, tôi hay đưa mắt nhìn, tìm kiếm bà dù không biết để làm gì.

Tôi không thể mua rau, vì chỗ tôi ở ngập nước rau mọc tùm lum tôi còn không hái. Tôi cũng không thể giúp gì được vì tôi cũng đang lâm vào cảnh khốn khó. Tôi phải tự lo, chẳng kêu gào ai giúp đỡ cả. Lúc nào cũng vội vội vàng vàng về nhà, nơi đó có ba con người đang chờ tôi về. Gần hai tháng sau, ông xã tôi mới tự đi xe, đi làm lại. Tôi ít ra ngoài hẳn…

Đến lúc có dịp đi thì không thấy bà cụ bán rau bên cầu Khánh Hội, nghe nói bà cụ đã qua đời. Tôi thoáng bâng khuâng, nhớ bà, nhớ những mảnh đời bất hạnh khác như ông đạp xích lô già hơn bảy mươi gầy tong teo vẫn phải oằn lưng chở người kiếm sống, rồi nhớ lại trước đây có lần tôi nhờ người chở hàng cho chủ, lúc lên dốc cầu tôi phải xuống xe đẩy phụ xe qua dốc cầu …

Rồi tôi nhớ về hoàn cảnh của mình, tôi bỗng trở nên “sến” khi nhớ đến câu hát trong bài bolero “Thói đời’: “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người…”.

Bao con người khốn khổ mà tôi gặp có phải là người không? Hình ảnh bà cụ ngồi bên thành cầu Khánh Hội cũ theo tôi cả cuộc đời như một nỗi day dứt về sự dửng dưng của con người với nhau.


 

ĐẤU TRANH VỚI BẢN THÂN- Truyen ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

Một người đàn ông đến ngân hàng để rút tiền tiết kiệm. Khi đếm lại số tiền nhận được, anh ta hơi sững lại. Thay vì 120.000 rupee (đơn vị tiền tệ của Ấn Độ, tương đương khoảng 36 triệu VNĐ) và trên giấy tờ cũng đã ghi nhận con số này, nhưng có lẽ giao dịch viên đã nhầm nên đã đưa cho anh ta tới 140.000 rupee (khoảng 42 triệu VNĐ). Thế nhưng, khi người đàn ông liếc nhìn giao dịch viên thì thấy người này không có biểu hiện gì là đã nhận ra sai sót, còn lịch sự chào anh. Thấy vậy, người đàn ông đã lẳng lặng cho tiền vào túi, rời đi trong im lặng.

Vừa đi, anh ta vừa nghĩ, cái ngân hàng này lớn như vậy, mất có 20.000 rupee thì cũng chẳng ảnh hưởng gì tới hoạt động của họ. Mà có phải do anh cố tình đâu. Đây là sai sót của họ mà, họ chẳng có lý do gì để kiện tụng hay làm khó anh cả. Từ trước đến nay, anh cũng thi thoảng trả nhầm tiền cho người khác, nhưng có ai đến tìm anh để trả lại đâu. Vì sao anh phải trả lại tiền cho ngân hàng. Cứ như thế, người đàn ông đã nghĩ ra đủ thứ lý do cho việc “ỉm” số tiền trả thừa của ngân hàng.

Song càng đi, càng về gần đến nhà, người đàn ông lại nhớ đến nụ cười lịch sự của giao dịch viên. Anh ta rất tử tế, hòa nhã và còn cảm ơn lúc anh rời đi nữa mà chẳng hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Không biết anh ta có phải đền số tiền này cho ngân hàng không nhỉ? Người đàn ông bắt đầu cảm thấy hơi có lỗi. Hai mươi ngàn rupee không phải số tiền quá lớn, nhưng cũng chẳng phải số tiền nhỏ. Nó có thể là thu nhập một tháng của bất kỳ người dân nào. Chẳng phải anh đang lợi dụng sai lầm của người khác ư?

Vậy là người đàn ông bắt đầu bồn chồn, mồ hôi túa ra khi đấu tranh tư tưởng có nên giữ số tiền đó hay không. Anh cảm thấy hơi khó thở. Rồi cuối cùng, anh nhìn đồng hồ, chỉ còn 1 tiếng nữa là ngân hàng đóng cửa và quyết định đem 20.000 rupee quay lại. Chỉ đến lúc này, sự căng thẳng trong anh mới bắt đầu giảm đi.

Khi nhận xong số tiền thừa từ người đàn ông, anh chàng giao dịch viên mới bắt đầu thở phào và cảm ơn anh rối rít. Anh ta lấy 1000 rupee từ trong túi của mình để cảm ơn người đàn ông và nói: “Cảm ơn anh rất nhiều. Hôm nay anh đã giúp tôi 1 việc lớn đấy. Tôi đang lo sẽ phải bù tiền lương của mình vào chỗ tiền bị nhầm lẫn. Thật hiếm có người nào trung thực như anh. Anh hãy nhận số tiền ít ỏi này của tôi thay cho lời cảm ơn và mua bánh kẹo cho các con của anh nhé”.

Người đàn ông nghe những lời nói này, vừa xúc động vừa lại có chút hổ thẹn. Chẳng phải ban đầu, anh đã định ỉm đi hay sao? May mắn là cuối cùng, lương tâm của anh đã chiến thắng. “Thực ra tôi mới là người phải cảm ơn anh đấy. Lẽ ra tôi mới là người phải tặng anh số tiền này. Vì thế, tôi xin phép không nhận món quà của anh”, người đàn ông từ tốn đáp.

Giao dịch viên lấy làm lạ, mới hỏi lại vị khách tại sao lại nói thế. “Hai mươi ngàn rupee anh trao nhầm đã cho tôi cơ hội được tự đánh giá bản thân mình. Nếu không có sự nhầm lẫn của anh, tôi sẽ không biết việc chiến đấu với lòng tham của bản thân lại khó khăn đến thế. Tôi đã mất hàng giờ để suy nghĩ, để đấu tranh tư tưởng, và may mắn là, cuối cùng tôi đã làm đúng. Tôi đã vượt qua được sự tham lam, ích kỷ để chiến thắng và giữ được sự trung thực. Đây đúng là 1 cơ hội hiếm có. Vì thế, người tôi muốn cảm ơn là anh”, người đàn ông thú nhận.

Cre: Cafebiz


 

  Tình phụ tử – Truyện ngắn HAY

Qua vụ cháy rừng ở Altadena, mình đã được nghe một câu chuyện về tình phụ tử khiến lòng không khỏi nghẹn ngào và muốn chia sẻ với mọi người.

Trong cơn giận dữ của ngọn lửa Eaton tại Altadena, California, một người cha và con trai đã ở bên nhau đến giây phút cuối cùng. Anthony Mitchell, 68 tuổi, người cha gắn bó với xe lăn sau khi mất một chân, và Justin, 32 tuổi, con trai ông, người không thể tự rời khỏi giường vì căn bệnh bại não. Giữa ngọn lửa tàn khốc, tình cha con là ánh sáng cuối cùng giữa bóng tối bao trùm.

Sáng hôm ấy, ông Mitchell gọi cho con gái mình, Hajime White, để báo rằng ông đã yêu cầu trợ giúp và đang chờ xe cứu thương đến. Giọng ông vẫn trầm ấm, đầy trách nhiệm như mọi khi:

“Cha ổn. Cha đã gọi rồi. Con đừng lo.”

Nhưng khi ông nhìn qua cửa sổ và thấy những tia lửa đầu tiên trong sân, sự lo lắng xuất hiện trong giọng nói:

“Baby, cha phải dừng máy. Lửa vào sân rồi.”

Ông Mitchell, một người cha giàu nghị lực, chưa bao giờ để hoàn cảnh khuất phục. Trước mặt con, ông luôn là bức tường thành vững chãi. Dù đã mất đi một phần cơ thể, ông vẫn tận tụy chăm sóc Justin, đứa con trai yếu ớt mà ông coi là báu vật cuộc đời.

Justin không nói được nhiều, nhưng mỗi lần ai đó hỏi muốn gì, câu trả lời luôn là “Amazon”. Anh yêu sách, báo, và thích đọc chúng cùng cha mình. Hai cha con thường ngồi bên nhau, lặng lẽ, chia sẻ từng trang báo như cách họ chia sẻ cuộc sống – bình dị nhưng đầy ý nghĩa.

“Cha sẽ không rời con”

Khi ngọn lửa áp sát, Justin nói với cha trong tuyệt vọng:

“Cha, cha hãy đi đi.”

Nhưng ông Mitchell không bao giờ rời xa con trai mình. Ông trả lời dứt khoát, không chút do dự:

“Cha sẽ không rời con. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua.”

Đó không chỉ là lời hứa mà còn là bản chất của ông – một người cha sẵn sàng hy sinh tất cả vì con.

Dù biết không thể tự mình chống chọi với ngọn lửa, ông Mitchell vẫn giữ niềm tin rằng sự cứu giúp sẽ đến. Ông nói với con gái:

“Họ sẽ đến. Họ sẽ đưa cha và Justin đi. Hy vọng họ sẽ đến kịp.”

Nhưng không ai đến. Ngọn lửa lan nhanh hơn mọi nỗ lực cứu hộ, và đêm đó, cả hai cha con được tìm thấy đã tử vong. Justin nằm trên giường, còn ông Mitchell ở gần đó, như thể vẫn đang che chở cho con trai mình.

Câu chuyện của Anthony Mitchell là một minh chứng mạnh mẽ cho tình yêu của người cha. Ông không có siêu năng lực, không thể chống lại thiên tai, nhưng ông có trái tim lớn lao, đủ sức mạnh để đứng cạnh con trai mình đến phút cuối cùng.

Ngọn lửa có thể thiêu rụi mọi thứ, nhưng tình cha không bao giờ bị dập tắt. Trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, Anthony Mitchell đã chứng minh rằng tình yêu có thể vượt qua cả sự sợ hãi và cái chết

From: Huu Loi Tran & NguyenNThu


 

GẶP LẠI THẰNG BẠN CŨ CHĂN BÒ-Truyện ngắn HAY

Tình cờ, tôi gặp lại thằng bạn cùng học lớp vỡ lòng ở quê, sau hơn 50 năm. Hắn khoe:

– Ngày xưa mi chê tau là thằng ba nhất:

Học dốt nhất.

Nhiều tuổi nhất.

Xấu trai nhất.

Bây giờ mi cải chính đi, vẫn ba nhất, nhưng là ba nhất của ngày nay:

Giàu nhất.

Quan to nhất.

Học vị cao nhất.

Hắn nói đúng. Cả lớp vỡ lòng ngày xưa của chúng tôi, hiện nay không có ai bằng hắn. Hắn khoe tiếp:

– Tau là Tiến sĩ.

Trời đất. Nếu hắn nói là hắn có nhiều tiền, làm quan to tôi chẳng lạ, đằng này, hắn học cực dốt, đúp lên đúp xuống, đúp hết tiêu chuẩn học đúp vẫn không lấy nổi cái bằng tốt nghiệp cấp 1 phổ thông mà là Tiến sĩ. Trong khi tôi đang trố mắt ngạc nhiên, hắn cười:

– Đi uống rượu với tau.

Tôi chưa kịp phản đối, hắn đã kéo tôi lên cái xe ô tô con bóng nhoáng, khoe:

– Tau mới lấy con ni, 10 tỷ.

Vào nhà hàng, hắn chủ động gọi đủ thứ, nào tôm hùm, vi cá mập, chân gấu, rượu tây…

Hắn vốn quen ăn sang, ngoài ra, hắn muốn trả ơn cho những lần tôi cho hắn coppi bài kiểm tra những năm cùng học lớp một. Tôi hỏi hắn:

–  Mi mua bằng Tiến sĩ mấy tỷ?

Hắn cười:

– Bằng xịn, thật 100%.

Thấy tôi ngạc nhiên, hắn cười:

– Có gì mà ngạc nhiên, tau nói mi nghe. Thôi học trường phổ thông, tau làm thằng đội trưởng đội thiếu niên, sau đó làm xã đoàn. Bố tau đưa tau lên làm huyện đoàn, rồi lên tỉnh đoàn, bây giờ tau làm bên chính quyền.

Tau học bổ túc văn hóa một tối 2 tiết, 1 năm 3 lớp, lấy bằng tốt nghiệp cấp 3 bổ túc văn hóa, thằng nào thi cũng đỗ. Bố tau cử tau học đại học dự bị một năm, năm sau vào học đại học chính qui dài hạn như bọn mi.

Tau là đảng viên, làm lớp trưởng, khoa xây dựng tau làm “Con chim đầu đàn”. Chẳng thầy mô cô mô dám cho thằng đảng viên, lớp trưởng hay con “Chim đầu đàn” điểm thấp.

Ra trường, về cơ quan cũ, làm việc cũ. Bố tau cử tau đi học Nghiên cứu sinh. Nói là học, tau chỉ ở trường một năm không nhiều hơn 30 ngày.

Sau 3 năm, bảo vệ luận án, nhận bằng “tiến sĩ”

Tôi hỏi hắn:

– Hiện ni mi nghiên cứu cái chi?

Hắn cười:

– Học dốt như tau thì nghiên cứu cái chi. Vấn đề là quan ngày xưa “tiến sĩ”, quan ngày nay cũng “tiến sĩ”, chẳng nhẽ để quan ngày nay thua quan ngày xưa?

Tôi đã vỡ nhẽ. Có con đường tắt thênh thang cho những thằng như hắn, đó là các lớp “bổ túc văn hóa”, “đại học dự bị”,  học “nghiên cứu sinh nhận bằng tiến sĩ”…

Và bây giờ Thủ tướng Chính phủ đang có Chương trình tinh giảm biên chế, và những thằng Tiến sỹ như hắn chắc chắn sẽ không phải là đối tượng phải tinh giảm rồi.

Hắn cũng biết “tiến sĩ” ngày xưa khác “tiến sĩ” ngày nay, “tiến sĩ” ngày xưa là người giỏi nhất nước, “tiến sĩ” ngày nay như hắn là thằng học dốt nhất làng.

Thấy tôi trầm tư, hắn lấy chén rượu đã được nhân viên phục vụ rót, đưa một chén đưa cho tôi, một chén cho hắn, hắn cười đắc chí:

– Trăm phần trăm, cụng cái mi.

Tôi cụng li với hắn, dù sao chúng tôi cũng đã từng có những ngày xưa thân ái, những ngày cùng đi chăn bò và thầm nghĩ ” Đến bao giờ đất nước này mới thực sự khá được lên”.

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu

LỄ BỎ MẢ – Tác giả Phạm Thành Châu -Truyen ngan Hay


Tác giả Phạm thành Châu hắn cũng đọc được nhiều chuyện hay, những chuyện tình của ông đều nâng niu những nhân vật chung tình cả nam lẫn nữ vì thế chuyện tình ông viết đẹp và cao thượng, hiền lành giản dị.

Câu chuyện của ông lần này giữa người đàn ông kinh và cô gái thượng mà ta thường gọi là đồng bào sắc tộc nơi tỉnh Thừa Thiên, hình như nơi nào có núi rừng, cao nguyên là nơi ấy có đồng bào thiểu số, mỗi nơi là một sắc tộc khác nhau, cả ngôn ngữ giữa hai nơi cũng có phần khác biệt, mỗi vùng lại có phong tục, tập quán riêng hắn cũng sống gần 4 năm trên núi rừng, nơi hắn làm việc có sắc tộc Stieng, là những người răng cà sát nướu, trái tai được đeo bằng những miếng sừng hay kim loại tròn, hắn thấy có khi họ nong bằng sừng đường kính có đến 4 cm, họ nong lớn dần đến khi nào làm đứt trái trai,lúc đó họ cúng bái ăn mừng như là mừng tuổi thọ như tính thời gian sống bằng cách này. Những người sắc tộc này thường mang họ Y hay họ Điểu.

“Lễ bỏ mả” tác giả đưa lên là tập tục nơi ấp Tà Ràu thuộc tỉnh Thừa Thiên, chắc cũng là gốc người Chàm, hắn cũng mới biết. Những người Stieng nơi hắn có tiếp xúc thấy khi họ chết, tài sản họ đem theo là những “chóe” giống như những chiếc độc bình, càng nhiều, càng to thì chứng tỏ họ càng có nhiều của.

Những chiếc chóe này như theo họ xuống dưới nên khi cúng bái xong họ thọc cho vỡ đáy để không ai lấy trộm.

Hắn gởi các bác xem một phong tục người thượng du Trung phần.

Ara

**********************************

LỄ BỎ MẢ

Phạm Thành Châu

Posted by GLN

Câu chuyện tôi kể dưới đây bắt đầu khi tôi học năm thứ hai ban Anh Văn ở Ðại Học Văn Khoa Huế. Tôi có khiếu về sinh ngữ nên việc học của tôi không mấy khó khăn. Nhưng học mà không thực hành thì khó kết quả. Như môn Anh Văn đa số viết và đọc rất giỏi nhưng nghe và nói, thật vất vả. Nhân dịp Tổng Hội Sinh Viên Huế làm công tác xã hội ở một ấp đồng bào thiểu số, tôi làm quen với một mục sư người Mỹ đang phụ trách truyền giáo ở đó. Tôi đề nghị được giúp ông trong việc phân phối phẩm vật cứu trợ cho đồng bào, thế là tôi có một chỗ thực tập tiếng Anh ngon lành.

Ở tỉnh Thừa Thiên đồng bào sắc tộc chỉ có hai ấp Tà Rầu 1 và Tà Rầu 2 thuộc quận Nam Hòa, phía tây của tỉnh, cách Huế độ mười cây số. Vùng nầy tập trung các lăng tẩm và thắng cảnh đẹp nhất Huế. Ðịa giới  quận bao gồm một phần dãy Trường Sơn với các địa danh A Sao, A Lưới, các căn cứ Bastogne, Birmingham. Cả một vùng rừng núi mênh mông đó đã thành hoang địa vì thuốc khai quang, chỉ phần đất thuộc chính quyền kiểm soát còn giữ được nguyên trạng. Hai ấp của người thiểu số nằm hai bên bờ sông Hương. Ấp Tà Rầu 1 nằm cạnh lăng Minh Mạng phía tả ngạn. Ấp Tà Rầu 2 nằm gần đồi Vọng Cảnh phía hữu ngạn. Theo tôi biết thì trước đây, số đồng bào nầy ở trong rừng sâu, để tránh bom đạn họ chạy đến vùng Quốc Gia và được tạm cư ở đây. Mỗi ấp gồm bốn dãy nhà lợp tôn vách ván. Mỗi gia đình được chia một ngăn. Vì quen sống đơn giản, họ chẳng quan tâm  đến tiện nghi. Có điều, bỏ họ vào sống chung với đồng bào kinh, họ hoàn toàn lạc lõng. Mà dù họ muốn sống như đồng bào kinh cũng không được. Họ không có đất để trồng trọt, chăn nuôi. Cho nên cứ mỗi buổi sáng, theo thói quen, đàn ông móc chà gạt trên vai, miệng ngậm ống vố, lang thang, nghiêng ngó đó đây, rồi lần mò trong bờ, bụi, bắt chuột, rắn, ếch, nhái về nướng làm mồi uống rượu. Riêng đám thanh niên trai tráng đều đi biệt kích Mỹ. Mỗi tháng đến kỳ lương, họ về với gia đình. Bất kỳ đang ở đâu, trong đồn hay trên đường hành quân, hễ nhận được lương là họ bỏ mặc, kéo nhau về nhà, mua rượu, gà, chè chén say sưa cho đến sạch túi mới vác súng về lại đơn vị.

Nhiệm vụ tôi là mỗi sáng thứ bảy đến hội thánh chuyển phẩm vật cứu trợ lên xe, đến nơi đem xuống. Ðồng bào, theo lệ thường đã tập trung sẵn trước sân, ngồi nghe giảng đạo xong, lên nhận quà, thường là những gói “bột dẹp”, “bột xếp”, sữa bột, gạo, đôi khi có cả áo quần, đồ hộp nữa. Ðể dễ thuyết phục đồng bào, ông mục sư học tiếng thượng, tôi cũng học theo ông. Người cán bộ của ty Phát Triển Sắc Tộc dạy rất tận tình nên chúng tôi tiến bộ nhanh. Từ khi ông giảng kinh thánh bằng tiếng thượng, đồng bào rất thích thú, nghe chăm chú hơn. Riêng tôi những lúc đó thường ra góc sân với lũ trẻ bập bẹ chuyện trò.

Tượng nhà mồ được dựng phục vụ cho Lễ bỏ mả (Ảnh: Hồ Xuân Toản)

Một lần, cũng vào giờ giảng kinh, tôi lang thang đến các dãy nhà của đồng bào. Mọi người đều tập trung cả trước sân nên vắng ngắt. Lúc đến gần cuối dãy, tôi chợt thấy một cô bé thò đầu ra cửa sổ nhìn tôi và cười. Tuổi em độ mười hai, mười ba, có đôi mắt đen nhánh, miệng rất tươi, tóc em đen rẽ qua hai bên tai để lộ vầng trán cao và đôi lông mày đậm và dài. Trông em cùng cỡ với một em học lớp đệ thất trung học. Giá như em đi học, có lẽ em là hình ảnh nhí nhảnh, trong sáng nhất trường. Khi tôi đến gần, định hỏi chuyện thì em biến mất sau khung cửa sổ. Tôi ngạc nhiên, sao giờ nầy em lại ở đây, cửa chính lại đóng kín? Tôi tảng lờ đi quá cuối dãy rồi từ từ quay lên nhưng phía đối diện nhà em. Tôi liếc qua, thấy em đã nhô đầu lên chỉ vừa tầm đôi mắt nhìn tôi. Tôi cười với em. Mắt em sáng rực, đuôi mi kéo dài ra, rạng rỡ. Tôi biết em cũng đang cười. Tôi ra dấu rằng tôi sẽ đến gần em, em lắc đầu. Tôi lại ra dấu em ra với tôi, em cũng lắc đầu. Tôi thấy có gì bất thường. Em bị tật nguyền hay em không thích chỗ đông người? Tôi quay về nhưng đôi mắt vẫn còn làm tôi xao xuyến. Người thiểu số, nhất là phái nữ có đôi mắt rất đẹp, đen láy và đoan chính. Cả khi họ để ngực trần và nếu ta nhìn vào đôi mắt họ, tự nhiên lòng ta như được rửa sạch những ý nghĩ vẫn đục, những ham muốn thấp hèn.

Những buổi gặp gỡ và nói chuyện câm như thế kéo dài được vài tháng. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi có vào ấp của em để liên hệ với trưởng ấp những việc linh tinh mà vị mục sư nhờ tôi. Những lúc đó em có nhìn tôi nhưng vờ như không quen biết.
Môt buổi sáng đi ngang qua đồi Vọng Cảnh, lúc cho xe xuống giốc cầu, tôi chợt thấy một toán phụ nữ sắc tộc đang bì bõm dưới giòng nước để bắt ốc, hái rau gì đó. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết ngay có em vì dáng em rất gầy và mái tóc kiểu học trò đó không lẫn được với ai cả. Tôi vội dựng xe gắn máy và lần xuống bờ suối. Hình như nhận ra tôi nên em chậm lại để đi sau cùng. Em mặc một quần đùi màu đen, ống dài quá gối và một chiếc áo hoa rộng thùng thình, đó là đồ cứu trợ do các hội thiện cấp phát. Khi tôi đến gần, em đứng thẳng người nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt đen sâu thẩm sáng lên một nụ cười ngây thơ, hoan hỉ. Hình ảnh đó, suốt đời vẫn còn trong tôi. Tôi cũng vui mừng được gặp em, người bạn nhỏ bé. Tôi tiến xuống bờ suối định chào hỏi thì em lắc đầu và chạy băng lên phía trước. Tiếng chân em bì bõm khiến những người đàn bà quay lại. Họ giăng tay ra cản tôi. Tôi bảo.

– Tôi muốn nói chuyện với em bé kia được không?

Họ lắc đầu vừa nói vừa ra dấu.

– Không được, nó sẽ bị đánh vào đầu, vào người. Mầy đi đi!
Tôi dừng lại và hiểu lờ mờ rằng nếu tôi tiếp xúc với em, em sẽ gặp chuyện không may. Tôi quay lên, đứng nấp vào một bụi cây. Em đi chậm lại và dõi mắt lên cầu như tìm kiếm. Tôi bước ra khỏi bụi cây cho em thấy rõ. Em nhìn tôi và cười. Nụ cười và ánh mắt em như tràn ngập nổi buồn của lưu luyến và tuyệt vọng. Tôi vẫy tay, em cũng vừa thụt lùi vừa vẫy tay rồi vụt chạy đi.
Hôm đó, như thường lệ, đồng bào ở cả trước sân với vị mục sư, tôi lẻn ra đi qua căn nhà của em. Cửa chính vẫn đóng, cửa sổ vẫn mở, nhưng không thấy em đâu. Tôi đi qua, lại mấy lần vẫn thế, cuối cùng tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn vào trong. Tôi bàng hoàng, không tin ở mắt mình. Em đã bị lột trần, chỉ còn chiếc quần đùi. Hai tay, hai chân bị trói chặt vào chân giường. em ngồi gục đầu trong hai cánh tay bị treo lên. Người em ốm tong, thấy rõ cả dãy xương sườn bên hông với những vết hằn đỏ bầm, rớm máu. Em xây lưng ra ngoài, hai chân bị trói cố co lên che lấy ngực nhưng vẫn để lộ ra chiếc vú nhỏ xíu như nửa trái chanh. Tôi gọi nho nhỏ “Em, em!” Em nghe thấy nhưng lắc đầu và vẫn giấu đầu với mái tóc lòa xòa vào giữa hai cánh tay. Rồi đôi vai em bỗng rung động mạnh, tiếng nức nở bị kìm chặt giữa hai hàm răng nghe rên rỉ, tức tưởi. Tôi quay lại, lên xe gắn máy, chạy thẳng ra trụ sở xã. Ông xã trưởng đang bàn chuyện gì đó với một anh cảnh sát và vài người nữa. Tôi xin lỗi họ và trình bày.

– Tôi thấy trong ấp Tà Rầu có một em bé bị trói tay chân vào giường, qúi ông phải giải cứu nó ra chứ.

Tôi chưa dứt lời, ông xã trưởng đã bảo.
– Chúng tôi đang nói chuyện đó, đó.

– Nhưng chính quyền phải can thiệp…

– Cậu ngồi xuống đây, rồi ông cảnh sát giải thích cho cậu nghe. Chuyện nầy đâu phải xảy ra lần đầu. Hôm qua tôi có nghe ông trưởng ấp báo cáo rồi, tôi đã cho người lên mời Ty Sắc Tộc xuống giải quyết, họ hẹn sáng nay đến nên chúng tôi phải ngồi chờ đây, chứ thứ bảy ai mà làm việc. Nhờ ông cảnh sát  giải thích cho cậu đây rõ.

Anh cảnh sát rót cho tôi tách trà rồi nhẫn nha nói.

– Anh làm bên hội thánh phải không? Ông mục sư cũng biết chuyện nầy rồi. Ai cũng biết, chỉ có anh chưa rõ thôi. Nó rắc rối ở chỗ đó tục lệ của đồng bào thiểu số mà luật pháp mình không áp dụng được. Ép nó, nó quậy lên, chẳng hại gì mình nhưng đồng bào bị vạ lây.

Tôi sốt ruột.

– Nhưng dù tục lệ gì cũng phải cởi trói cho người ta chứ!

– Năm kia, ông quận có xuống cởi trói cho con nhỏ, mấy bữa sau bị đau sao đó. Nghe đồn bị thư bùa ngãi, bụng bị sưng lên, phải ra ngoài Hương Hóa, Quảng Trị rước thầy ngãi về trị mới khỏi.
– Nhưng nó là ai mà ngang ngược như thế?

– Là ai? Chồng con nhỏ đó chứ ai!

– Trời đất!

– Năm kia, con người ta mới mười một tuổi mà nó đòi ngủ, con nhỏ nửa đêm vùng bỏ chạy, la khóc. Nó lôi vô lột áo quần, trói ở chân giường mấy ngày, bỏ đói, bỏ khát. Ông quận xuống xử, nó không chịu, ông phải đích thân cởi trói, đem con nhỏ gửi nhà khác, nhưng không ai dám nhận, sợ nó thư bùa ngải. Cuối cùng phải năn nỉ, giải thích cho nó biết là con nhỏ còn con nít, phải chờ đủ mười ba tuổi mới được. Năm nay con nhỏ vừa đủ mười ba, nó lại giở trò cũ. Nó trói lại đánh đập cách nào con nhỏ cũng không chịu. Chẳng biết lát nữa Ty Sắc Tộc xuống giải quyết thế nào đây?!

– Nhưng muốn có vợ thì thiếu khối gì đàn bà, con gái lớn tuổi, sao lại nhè đứa con nít. Nói đồng bào trong ấp cưới cho nó con vợ.
– Nó cũng có vợ đấy chứ. Vợ nó là chị con nhỏ kia.

Tôi ngớ ra, chẳng hiểu gì cả. Anh cảnh sát cười.

– Bây giờ rãnh rỗi, tôi tóm tắt cho anh nghe. Gia đình con nhỏ đó có ba chị em. Hai con chị đã lớn chỉ có con út nầy còn nhỏ thôi. Chị lớn nó có chồng  đang ở bên Tà Rầu một, con chị kế có chồng là thằng cô hồn dịch vật đang nói đây. Lâu rồi, lúc còn ở trong buôn sóc ở trong A Sao, A Lưới kia, ông già của ba cô gái nầy chết, nhà nghèo quá, không có trâu, gà, chiêng, cồng để cúng Yang, làm ma chay đãi làng. Thằng rễ cô hồn nầy mới mua cô út bằng mấy trâu gà gì đó về làm vợ. Vậy là nó có hai vợ, một đứa lớn và một đứa năm bảy tuổi. Nghe nói trong buôn nó là đứa quyền hành, giàu có kiểu như cường hào, ác bá vậy, Bây giờ ở đây, nó không làm gì nhưng ai cũng sợ nó, cả đến đồng bào kinh cũng không dám rây vào. Chính quyền cũng chịu thua, chẳng có cách nào trừng trị nó cả.

– Dù sao cũng phải cứu em nhỏ ra. Ðể vậy nó bỏ đói, đánh đập riết, em chắc chết.

– Ðể chờ Ty Sắc Tộc xuống xem sao.Năm kia, đem ra xử, nó nói con chị lớn muốn bắt em lại phải trả đủ trâu bò, chiêng cồng gì đó. Mà tiền đâu chị nó chuộc em ra.

Một ý nghĩ thoáng trong đầu, tôi hỏi tên em nhỏ và tên người chị lớn rồi cám ơn, lên xe qua Tà Rầu một. Chị ta phảng phất giống em nên tôi nhận ra ngay. Tôi bảo.

– Này, em của chị là Hrao bị cột chân tay, bị đánh đau, bị đói bụng bên Tà Rầu hai chị biết không?

– Tao biết mà không làm gì được. Nó là vợ thằng K’hiu rồi.

– Nhưng phải cứu Hrao ra, chị không thương Hrao sao?

– Tao thương Hrao đầy một bụng, nhưng không có tiền trả cho nó.
– Nếu tôi đưa tiền cho chị, chị có chuộc được Hrao ra không?

Chị bỗng lôi tuột tôi vào góc nhà, thì thầm.

– Thằng K’hiu nó có cái tai nghe xa lắm. Nó ác như con cọp, con rắn. Nó giết mầy chết. Mầy có tiền muốn mua Hrao phải đưa tiền cho tao. Khi Hrao về nhà tao, mầy đến dẫn về nhà mầy làm vợ, không cho thằng K’hiu biết mầy ở đâu.

– Tôi không có tiền ngay, phải ít hôm nữa. Bây giờ tôi đưa chị qua bên xã, bên đó có nhiều người lắm. Ông xã trưởng, ông cảnh sát, ông sắc tộc làm chứng, khi K’hiu đòi tiền chuộc, chị hỏi nó bao nhiêu rồi cho tôi biết. Chị nhớ hẹn nó ba ngày nữa đưa tiền. Nhớ mời nhiều người đến cho họ thấy chị đưa tiền rồi dẫn Hrao về.

Chị ta mừng rỡ.

– Mầy chở tao qua xã thôi, còn mầy đi đi, đừng cho thằng K’hiu thấy. Tôi đưa chị qua xã rồi về Huế dọ giá chiếc xe gắn máy của tôi. Hôm sau tôi lên hỏi chị và thấy số tiền cũng vào khoảng chiếc xe. Tôi về bán xe đưa tiền cho chị, còn một ít tôi mua chiếc xe đạp.

Một buổi sáng, chờ trong ấp vắng người, tôi đến nhà chị. Chị lại lôi tôi vào sau nhà. Em Hrao đang ngồi nấu gì đấy, ngẩn lên thấy tôi, em đứng dậy, nhìn sửng tôi. Người chị bảo.

– Vợ mầy đó, Hrao ưng mầy lắm. Mầy và Hrao nằm đây.

Chị chỉ chiếc giường rồi đóng các cửa lại và đi ra ngoài. Tôi dìu em Hrao đến bên giường ngồi xuống. Em vòng tay ôm lấy tôi, úp mặt vào ngực tôi yên lặng. Tôi không nghe em khóc nhưng nước mắt thấm ướt cả áo tôi. Em Hrao nhỏ quá, ốm quá. Tôi ôm vai em mà xương vai cộm rõ trong bàn tay tôi. Em vẫn mặc chiếc áo hoa rộng thùng thình như hôm trước, một chiếc váy vải đen thô, dài phủ cả bàn chân, có lẽ là váy của người chị.
– Em được về đây, anh mừng lắm. Anh ngồi với em một lát rồi anh về.
Em ngước nhìn tôi, ngạc nhiên.

– Em không về nhà anh à?

– Không, em vẫn ở đây với chị em, thỉnh thoảng anh ghé thăm em.
– Nó sẽ giết anh, giết em. Nó nói, em nói chuyện với ai, nó sẽ giết hai đứa.

– Anh sẽ ít gặp em, em đừng sợ.

Em vẫn lắc đầu.

– Không. Em là vợ anh mà!

– Anh còn đi học, không có tiền nuôi em, không có nhà để ở. Em còn nhỏ quá, làm vợ chưa được. Em chờ anh hai năm nữa, học xong, anh sẽ đi làm, có tiền cưới em về sống với anh.
Ấp Tà Rầu một nằm cạnh lăng Minh Mạng. Lăng xây trên một ngọn đồi, chung quanh có tường thành bao bọc, lại có những giòng nước, hồ sen. Phụ nữ sắc tộc thường đi dọc các con suối, bắt ốc, hái rau. Họ đi buổi sáng đến trưa thì về. Tôi hẹn với em Hrao mỗi tuần vài ba buổi chiều gặp em ở sau lăng. Em cũng đi hái rau với các bạn. Thấy tôi họ vẫy tay bảo.

– Mầy giữ nó, tụi tao về trước.

Chúng tôi ngồi trên bờ suối, khuất sau những đám cỏ tranh hoang vu. Tôi giở trong xách tay ra một số quà rong. Ít trái cây, bánh và nước lạnh trong chai nhựa. Em Hrao rất thích những trái cây chua như cốc, me, ổi…Với chút muối ớt, đem bao nhiêu em giành ăn hết cả. Chúng tôi vừa ăn quà vừa chuyện trò. Tôi thích hỏi em đủ thứ chuyện để nghe em trả lời một cách ngây thơ, buồn cười. Em xem tôi như người anh đồng thời em dâng tôi thứ bản năng thiết tha, nồng nàn của một người vợ theo như truyền thống của sắc tộc em, đã là vợ khi còn rất trẻ.
Từ ngày em về với người chị, em là con chim sổ lồng. Em như cây hoa được chăm sóc, vun xới và bắt đầu có những nụ hàm tiếu. Em lớn nhanh và nẩy nở đến độ chỉ hơn một năm mà em đã đứng đến vai tôi rồi. Tâm hồn em cũng trưởng thành theo. Những lần gặp nhau, em vui mừng theo cách của một thiếu nữ đến với người yêu. Em thường bạo dạn ngồi sát bên tôi, tựa đầu vào vai tôi yên lặng thật lâu…

Tôi về Hội Thánh lấy một số áo quần vừa tầm cho em. Hôm nào đến hẹn, em mặc áo đẹp ở trong, ngoài khoác một áo cũ. Khi chỉ còn hai chúng tôi ở bờ suối, em cởi áo ngoài, hãnh diện đến trước mặt tôi, nhìn tôi để chờ được khen. Tôi ngắm em sửng sờ.
– Hrao! Em đẹp như tiên.

– Em Hrao chỉ mặc áo đẹp cho anh nhìn thôi, không ai biết em đẹp hết.
Hai mắt em long lanh tuổi dậy thì, má em hồng, ngực em đã nhô cao, phập phồng sức sống, đùi em nở tròn, hằn rõ dưới lần vải. Tôi nhìn thấy và hãnh diện khi nghĩ đến khu rừng trinh nguyên, quí giá đó, trong một ngày trọng đại, tôi và em sẽ cùng nhau khai phá, thưởng thức sự huyền nhiệm của tình yêu vợ chồng. Tôi thường dặn em phải ăn và ngủ thật nhiều để mau lớn. Em vâng lời và khoe với tôi.

– Ở nhà, em Hrao no rồi mà còn ăn nữa, hết buồn ngủ rồi mà còn nhắm mắt ngủ nữa.

Tôi khen em giỏi, em bảo.

– Nhưng khi Hrao về ở với anh, Hrao ít ngủ để anh ngủ nhiều, ít ăn để anh ăn nhiều.

– Ðể làm gì?

– Hrao ra nương rẫy bứt lúa về nấu cho anh ăn no.

Em lúc nào cũng mơ đến một khung trời hoang dã, như con chim rừng cùng bạn đời tung cánh trong cõi tự do, bao la.
Mùa Xuân năm 1975, miền Nam bị tấn công. Dân Huế hoảng hốt chạy cả vào Ðà Nẳng. Năm Mậu Thân kinh hoàng với những vụ thảm sát tập thể khiến cho những người dù không liên hệ đến chính quyền cũng bồng bế nhau chạy giặc. Tôi cũng chạy vào Ðà Nẳng, nhưng mấy hôm sau thành phố cũng bị chiếm nốt. Rồi có thông cáo đồng bào phải trở về quê cũ. Ðáng lẽ tôi về quê ở Quảng Ngãi, nhưng tôi lại ra Huế, định dẫn em Hrao về với gia đình. Cha mẹ tôi chỉ sinh được tôi là con trai nên rất yêu thương. Tôi tin rằng em Hrao sẽ được chấp nhận như một nàng dâu, tuy còn trẻ nhưng xinh đẹp, hiền lành. Tôi về lại nhà trọ trong thành nội vào buổi chiều, qua sáng hôm sau ra đường Trần Hưng Ðạo định đón xe lên Tà Rầu thì bị việt cộng chận bắt. Một tên bạn học trở cờ đã báo cáo tôi là tay sai C.I.A, trực tiếp chỉ huy là vị mục sư Tin Lành. Tôi bị nhốt vào lao Thừa Phủ. Họ đưa giấy bút bắt tôi thành thật khai báo. Viết xong họ không chịu, bắt tôi viết lại, hàng chục lần, nhưng tôi có biết gì về C.I.A đâu! Lúc đầu họ dỗ dành, sau hăm dọa, rồi họ bắt đầu tra tấn tôi, chết đi sống lại mấy lần. Suốt bốn tháng trường, đến khi nghĩ rằng mình không thể sống được, tôi đâm ù lì, bảo họ.

– Cứ giết tôi đi, tôi chẳng có gì để khai cả.

Thế rồi họ thả tôi ra. Tôi về nhà trọ nằm liệt, chỉ còn da với xương. Người chủ nhà rất tốt, săn sóc tôi tận tình. Một thời gian sau đã khá, có thể đi vững, tôi ra đón xe lam lên Tà Rầu tìm em Hrao. Xuống xe ở chợ Tuần, tôi đi đò qua sông Hương, qua ngã lăng Minh Mạng đến ấp Tà Rầu. Tôi đi rất đúng đường, nhưng trước mặt tôi là quả đồi trọc, không còn chút dấu vết gì của đồng bào thiểu số cả! Họ đã đi sạch. Tôi lên đỉnh đồi nhìn quanh, chỉ thấy một cõi mênh mông vắng lặng. Tôi đi theo lối mòn và tìm thấy nền nhà của em. Tôi ngồi xuống, cảm thấy được gần gủi em. Ðến chiều, tôi xuống đồi vào lăng Minh Mạng, đến bờ suối cũ và lại chờ em. Tôi lấy trong xách tay ra một ít trái cây cho em, để đấy và dõi  mắt tìm quanh…
Thấy trời gần tối, tôi đành quay về.

Những ngày sau đó, tuy người còn yếu, tôi vẫn lên vùng Nam Hòa, lang thang vào các nơi cũ, hi vọng được gặp em. Một buổi chiều, đang đứng trên đồi, chợt tôi thấy bên kia, nơi những ngôi mộ người thiểu số, thấp thoáng bóng người sắc tộc. Tôi mừng rỡ, chạy băng qua, họ sẽ giúp tôi biết được em Hrao ở đâu. Khi tôi đến nơi thì hình như họ vừa cúng lễ gì đó xong. Một đám lửa gần tàn, một ít đồ gia dụng, áo quần, ống vố, chà gạt…để cạnh một ngôi mộ. Ðó là những người trong ấp trước đây, chúng tôi mừng rỡ khi nhận ra nhau.

– Ðồng bào cúng gì đó?

– Tao cúng bỏ mả, tao không ở đây nữa, không đem cơm, đem thịt cho nó nữa. Tao cúng bỏ nó, nó theo Yang để có cái ăn, cái uống.
– Bây giờ đồng bào về lại trong núi rồi hả?

– Tao về lại buôn rồi.

– Có xa không?

– Tao đi từ lúc con gà gáy, bây giờ về lại trong buôn.

– Gia đình người chị và em Hrao có về đó không?

– Chị Hrao về đó nhưng Hrao không về.

– Sao vậy? Bây giờ em Hrao ở đâu?

– Nó ở đằng kia. Nó chết rồi. Mộ nó kia kìa.

Tôi cảm tưởng như thình lình bị rút hết sức sống trong người. Tôi run lên, choáng váng.

– Không phải đâu. Em Hrao nầy nhỏ và đẹp lắm. Em ở với người chị.
– Hrao đó, tao biết, mầy ưng nó lắm, mầy mua nó làm vợ, ai cũng biết.
-Nhưng vì sao Hrao chết?

– Thằng K’hiu giết nó.

– Tại sao lại giết em, nó đã lấy đủ tiền trâu, tiền cồng rồi mà.
– Tao không biết, ngày mai chị của Hrao ra đây làm lễ bỏ mã, mầy hỏi nó.

Tôi đến bên mộ em, quì xuống, vuốt ve nấm mộ.

– Anh vẫn không tin rằng em đã chết. Em hứa với anh sẽ ra rẫy, ra nương làm việc, sẽ nấu cho anh ăn, sẽ sinh cho anh nhiều con. Em quên rồi sao? Dậy với anh đi em. Em ra suối bắt ốc, hái rau. Anh ngồi chờ em mấy bữa nay ngoài đó.
Tôi cứ lảm nhảm một mình cho đến tối mịt mới về. Chiều hôm sau lên mộ em, tôi đem theo một ít hoa và những trái cây em thích. Tôi đặt các thứ lên một tờ báo, thắp nhang và quì lạy em. Tôi cứ quì như thế, lòng mơ tưởng đến hình bóng em, nhớ lại những ngày em và tôi bên nhau…Khi trời về chiều, có tiếng chân lên đồi, tôi quay lại, thấy chị của Hrao và chồng đang đi tới. Họ thấy tôi, giật mình sợ hãi, lùi lại.

– Mầy là ma phải không? Mầy chết rồi mà.

– Không, tôi còn sống đây.

– Mầy giống con ma, mầy ốm quá.l

– Chị nói tôi nghe, em Hrao còn sống phải không? Người chết trong mộ nầy không phải Hrao mà.

– Hrao chết  rồi, nó nằm đó. Tao đến đây làm lễ bỏ mả nó.

– Chị kể tôi nghe, vì sao Hrao chết?

Hôm súng nổ, đồng bào kinh sợ lắm, chạy trốn hết. Rồi bộ đội lên làm ấp trưởng, xã trưởng. Ít lâu sau có mấy thằng bộ đội lên hỏi về mầy, về ông mục sư. Ai nó cũng hỏi. Sau nó biết Hrao là vợ mầy, nó hỏi Hrao nhiều lắm. Tao nghe nó nói với Hrao “Mầy phải nói hết cho tao. Nó mua mầy làm vợ để mầy làm gì cho nó, cho thằng mục sư? Mầy đừng sợ nó, thằng chồng người kinh của mầy chết rồi, nó không đòi trâu, đòi chiêng cồng được nữa. Mầy cứ nói thật cho tao nghe” Hrao hỏi “Tại sao mầy biết chồng tao chết?” Thằng bộ đội nói “Chính mắt tao thấy” Hrao kêu lên “Mầy giết chết chồng tao rồi!” Và ngã xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, chỉ khóc chứ không ăn gì hết. Hrao kêu tên mầy mấy ngày mấy đêm rồi chết. Tao biết thằng K’hiu đã sai con ma bóp cổ Hrao, nó không ăn được, không thở được.

Tôi lặng người vì đau khổ và xót thương em. Tình em đối với tôi đơn sơ biết bao! Em tưởng tôi đã chết nên nhịn đói để chết theo tôi.
Vợ chồng chị lôi trong gùi ra những lễ vật. Người chồng chôn một cây cọc và cột một con gà nhỏ còn sống bên mộ em, xếp một đống củi và bắt đầu đốt lửa lên. Chị thì đặt trên những tàu lá chuối cơm và thức ăn, bên cạnh là tài sản sơ sài của riêng em. Mấy cái chén, đĩa, vài cái áo quần, một số kẹp tóc và hai cái nịt ngực mà tôi nhớ trước đây đã mua cho em “Anh không muốn ai nhìn thấy ngực em cả” Nhưng hôm sau em bảo “Hrao không mặc được, thở không được” Tôi nói với chị xin giữ  lại chiếc áo hoa và chiếc quần đùi mà em đã mặc lần đầu tôi gặp ở dưới suối.
– Không được đâu, mầy lấy áo quần của Hrao, nó sẽ theo mầy về nhà đó.
– Thật không, nếu vậy em Hrao sẽ ở bên tôi suốt đời.

Chị ngồi xuống, người chồng ngồi bên cạnh, dùng cái dùi quấn vải gõ lên cái cồng bắt nhịp và chị bắt đầu khấn vái. Giọng chị đều đều, buồn thảm trong tiếng gió lộng, tiếng lửa cháy tí tách và tiếng cồng ngân nga vang vọng. Tôi quì xuống, chấp tay, nhắm mắt lại. Tôi thấy em Hrao đứng nhìn tôi, đôi mắt đen lánh, ngập tràn yêu thương, rồi em sà vào lòng tôi, đầu tựa vào ngực tôi. Từ mái tóc em, từ người em mùi thơm trinh nữ quen thuộc, ngọt ngào. Tôi hôn em, thì thầm “Hrao, em yên lặng nghe chị em làm lễ cầu hồn cho em”.

“Ơi em Hrao!

“Hôm nay, áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, các kút cũng đã được tạc rồi. Chị đem cơm đến đây cho em ăn, đem rượu đến đây cho em uống, bởi vì từ nay chị sẽ bỏ em, chị sẽ quay lưng lại em.

“Ðất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, em ở trong áo quan, em ở trong mả, nhà của em ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, em ở một miền đất khác, em uống những giòng nước khác.

“Xin em đừng kêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu chị, đừng thương yêu cháu của em nữa.

“Từ nay chị sẽ không còn mang cơm, không còn mang nước, chị sẽ bỏ mả và không còn săn sóc mả nữa.

“Nếu em muốn ăn cơm, xin em hỏi thần những vì sao, nếu em muốn ăn thịt gà, xin em hỏi thần mặt trăng, nếu em muốn ăn cá, xin em hỏi thần cai quản trên trời. Một vị thần khác sẽ săn sóc, trông nom em.

“Em đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, em là chim Hrao ở trong rừng rậm, em là chim Tlang Hêă sống ở phương Nam.

“Chị đã sữa sang mả rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu máu bò rồi.

“Thôi, từ nay thế là hết. Thôi, từ nay thế là hết! Như lá M’nang đã lìa cành, lá M’tôi đã tàn úa.

“Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than, không còn khóc nữa. Sẽ không đem của, đem tôm, đem cơm, đem rau đến mả nữa. Sẽ không còn để tang, không còn kiêng cử nữa. Chóe rượu cúng Ngokbu đã đặt xuống mả rồi, cây chuối, cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà đã được thả bay đi rồi. Chị đã quên em rồi, đã bỏ em rồi!

“Ơi em Hrao, chị đã bỏ em rồi!”

Chị đã dứt lời mà tôi vẫn còn quì và nhắm mắt. Tôi và em Hrao đang chìm đắm trong hạnh phúc của bao kỉ niệm cũ, bao ước mơ về một ngày thành vợ thành chồng, quấn quít bên nhau.
Chị đến bên tôi hỏi nho nhỏ.

– Mầy thương Hrao lắm sao? Mầy nhớ Hrao lắm hả?

Bấy lâu nay tôi đã nuốt những giọt nước mắt vào lòng. Tôi cô đơn quá! Giờ đây, nghe chị hỏi, tất cả nổi buồn trong lòng, tôi không kèm được nữa. Tôi ôm chị khóc say sưa.

Phạm Thành Châu

From: Phi Phuong Nguyen