Sau khi mở công ty, tôi rất hiếm khi về thăm mẹ. Khi nhớ ra, thì tôi gọi điện và nói với mẹ vài lời. Hầu như không có thời gian, tôi rất bận rộn. Đôi khi, ngay cả trước khi lời nói của mẹ kết thúc, tôi cũng cúp ngang điện thoại vì cần giải quyết công việc.
Tôi không hề biết rằng người mẹ phía bên kia của điện thoại, tay vẫn giữ chặt đường dây, rồi lắc đầu với một nụ cười và thở dài….!
Mùa hè năm đó, tôi mua vé máy bay, trở về thăm mẹ. Ở nhà tôi không có việc gì để làm, chủ yếu là cùng mẹ xem ti vi và trò chuyện.
Ngày hôm sau, mẹ tôi nói, hãy đi mua trứng gà cùng bà.
Tôi cười khi nghe thấy lời đề nghị của mẹ. Trong công ty, tôi là một ông chủ lớn có thư ký riêng, lái xe riêng. Nhưng tôi vẫn gật đầu đi cùng mẹ.
Mẹ nói : gần nhà có siêu thị nhưng mẹ không đi, chúng ta sẽ đi siêu thị ở vùng bên kia.
Tôi rất thắc mắc, bèn hỏi mẹ: “Tại sao chúng ta lại phải đi siêu thị xa như vậy trong khi nhà chúng ta gần siêu thị vậy mẹ?”
Mẹ tôi chớp mắt, tự hào, và nói rằng những quả trứng trong siêu thị đó rất rẻ, mua ba quả thì tặng một quả. Tôi không nói nên lời….!
Đi đến lề đường, tôi định vẫy gọi xe. Mẹ tôi nói, đi xe buýt số 12. Tôi hỏi bằng giọng hơi cáu, tại sao lại đi xe buýt số12…?
Mẹ nói rằng xe buýt số 12 là một chiếc xe đặc biệt dành cho siêu thị. Nó miễn phí, còn nếu đi xe khác thì phải mất tiền. Tôi lại mỉm cười và nói đồng ý….!
Lên xe buýt số 12. Hầu như tất cả các bác già trong xe đều rất quen thuộc với mẹ của tôi. Nghe nói tôi đi mua trứng với mẹ. Tất cả họ đều nhìn tôi bằng ánh mắt ấm áp, như thể tôi là con trai của mọi người vậy. Trái tim tôi cũng ấm áp theo…!
Mua được một chục trứng. Mẹ lại đưa tôi vào ngồi chờ ghế xe buýt số 12. Chúng tôi phải đợi ở đây 1 tiếng đồng hồ mới có xe 12. Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn, ngọn lửa tức giận trong lòng bắt đầu nhen nhóm, nhưng tôi vẫn cố chịu đựng. Trong một giờ, mẹ nói chuyện về những câu chuyện thời đi học của tôi, những câu chuyện mà có lẽ bà không nói ra tôi cũng không còn nhớ nữa. Vậy nên 1 giờ đó trôi qua nhanh chóng. Cuối cùng đã lên xe buýt số 12.
Khi ra khỏi xe, tôi xách túi trứng và thở dài. Mẹ tôi thì trông có vẻ vô cùng hạnh phúc, bà đếm ngón tay của mình và bắt đầu tính toán, tiết kiệm vài nghìn cho trứng, vài nghìn cho giá vé cả đi cả về của hai mẹ con.
Vậy là tôi cũng nhanh chóng tính toán trong đầu rằng tôi phải mất 4 tiếng đồng hồ để đi mua trứng cùng mẹ. Trong khi, ở công ty tôi có thể tạo ra giá trị hàng chục triệu đồng. Tôi thở dài, ngao ngán trong lòng.
Khi gần về đến nhà, tôi thấy mẹ dừng lại ở một quầy bán trái cây và bà mua một quả dưa hấu lớn.
Trở về nhà, dưa hấu được cắt mở, để lộ những mảnh dưa đỏ tươi. Tôi khát nước từ lâu, lấy một miếng và không thể chờ đợi tôi ăn nó. Dưa hấu rất ngọt, tôi ăn nó một cách nhanh chóng, chỉ một lát đã hết hơn nửa quả. Tôi ăn như kẻ háu đói….!
Một thời gian dài kể từ khi tôi xa nhà tôi chưa ăn dưa hấu nhanh như thế này. Ngay khi tôi ngước lên, mẹ tôi đang nhìn tôi, đôi mắt bà hơi ướt, nhưng khuôn mặt bà vô cùng hài lòng và trìu mến nhìn tôi.
Khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi rất nghèo, và tôi rất tham ăn. Tôi thường bí mật nhặt vỏ dưa hấu còn thịt đỏ do người khác để lại vào buổi tối, lấy nó ra bờ sông và tôi gặm nhấm chúng một cách tham lam. Mẹ biết điều đó, và bà đã dành ba đêm để dệt sợi dây rơm thành những vật dụng như túi đi chợ, thúng, nón… Bà sử dụng tiền làm từ sợi dây rơm để mua cho tôi dưa hấu, và sau đó nhìn tôi ăn.
Tôi ngây người nhìn mẹ và nuốt trọn miệng dưa hấu. Ngay lúc đó, tôi chợt hiểu mẹ. Khi khó khăn, mẹ dựa vào sự siêng năng và tiết kiệm để cung cấp cho tôi một cuộc sống tốt nhất có thể. Bà yêu thương tôi, dành hết tình cảm, đồ ăn ngon đều cho tôi..
Nhưng bây giờ, tôi giàu có nhưng tôi lại không đủ giàu để dành thời gian nói chuyện với mẹ. Bà đã cố ý đi siêu thị xa, để có bốn giờ đồng hồ bên cạnh tôi….. Bây giờ tôi chợt nhận ra, thời gian và tiền bạc tồn tại là để dành cho tình yêu….!
Truyện ngắn hay nhứt trong mùa Giáng Sinh do Leo Tolstoy phóng tác thành văn xuôi từ vở thoại kịch có tựa đề là ‘Le père Martin’ của Ruben Saillens. Từ câu chuyện Ông Panov này, ngày nay đã có hàng ngàn phiên bản bằng văn, thơ, kịch khác phổ biến trong văn học thế giới như một thông điệp về nhân ái và hạnh phúc, nhất là trong dịp Lễ Giáng Sinh hàng năm.
GIÁNG SINH ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV
– Leo Tolstoy
Hôm đó là ngày vọng (trước) Giáng sinh, mặc dù chỉ mới có xế chiều mà đèn đã được thắp lên khắp cả, từ nhà ở cho đến các cửa tiệm trong ngôi làng nhỏ của nước Nga này, bởi vì những ngày mùa đông thì ngắn ngủi và rất chóng tàn. Những đứa bé vốn lúc nào cũng hớn hở đã chạy nhẩy lon ton ở bên trong và bây giờ, thoát ra từ những khung cửa chớp khép kín, là những âm thanh giống như bị bóp nghẹt của những cuộc trò chuyện và những tiếng cười đùa.
Lão Panov, ông thợ giày của làng, bước ra bên ngoài để có một cái nhìn rảo khắp. Những âm thanh của hạnh phúc, những ánh đèn rực rỡ và mùi vị thoang thoảng của những món ăn ngon Giáng sinh làm cho ông nhớ tới những mùa Giáng sinh đã qua khi người vợ của ông vẫn còn sống và những đứa con vẫn còn bé bỏng. Bây giờ thì mọi người đã đi xa rồi. Khuôn mặt tươi vui tự nhiên của ông, thường đi đôi với một cặp mắt xe lại vì nếp cười, ẩn nấp sau cặp kính tròn, bây giờ trông buồn rời rợi. Tuy nhiên, ông đã bước vào trong nhà một cách dứt khoát, kéo cửa chớp xuống và đặt bình cà phê lên bếp than. Sau đó, với một tiếng thở dài, ông ngả người lên chiếc ghế bành lớn.
Lão Panov thường không đọc sách, nhưng tối nay, ông với lấy cuốn sách Kinh Thánh cũ của gia đình, và từ từ dùng ngón tay trỏ lân lê theo dòng chữ, ông đọc lại câu chuyện Giáng sinh. Ông đọc tới đoạn Bà Maria và Ông Giuse, mệt mỏi sau cuộc hành trình đi Bêlem, không tìm được một chỗ nào tại nhà trọ, phải sinh đứa con nhỏ trong một chuồng bò.
“Trời đất ơi, Trời đất ơi!” Lão Panov kêu lên, “nếu mà họ đến đây! Tôi sẽ nhường chiếc giường của tôi cho họ và tôi bảo đảm sẽ lấy tấm chăn bông của tôi để bao bọc cho đứa bé.”
Khi ông đọc tiếp tới đoạn các nhà đạo sĩ đến thăm em bé Giêsu, tặng cho em nhiều món quà tuyệt vời. Thì sắc mặt của Lão Panov xụ xuống. “Tôi chẳng có món quà nào cho em cả” ông buồn bã nghĩ thế.
Rồi gương mặt của ông lại tươi lên. Ông bỏ cuốn Kinh Thánh xuống, đứng dậy và vươn cánh tay dài lên một ngăn tủ ở trên cao trong căn phòng nhỏ. Ông lấy xuống một chiếc hộp nhỏ đã phủ đầy bụi và mở ra. Bên trong là một cặp giày nhỏ bằng da hoàn hảo. Lão Panov mỉm cười hài lòng. Vâng, đôi giầy vẫn còn tốt như trước – đôi giày tốt nhất mà ông từng làm ra. “Tôi phải cho em đôi giầy này” ông định bụng như thế, rồi nhẹ nhàng cất chúng đi và ngồi xuống một lần nữa.
Ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, và càng đọc thì càng buồn ngủ hơn. Những giòng chữ bắt đầu nhảy múa trước mắt cho đến khi ông phải nhắm mắt lại, để nghỉ thêm một phút. Nhưng chẳng bao lâu thì Lão Panov ngủ vùi.
Trong giấc ngủ, ông thấy một giấc mơ. Ông nằm mơ một người nào đó đang ở trong phòng của mình và ông nhận biết, giống như mọi người đều nhận biết khi ở trong những giấc mơ của họ, ông nhận ra ngay người đó là ai. Là Chúa Giêsu.
“Panov, nếu con muốn gặp Ta” Chúa nói một cách dịu dàng “thì hãy tìm Ta vào ngày mai. Đúng ngày Giáng Sinh Ta sẽ đến thăm con. Nhưng hãy chú ý cẩn thận, Ta sẽ không tỏ cho con biết rõ Ta là ai.”
Cuối cùng thì Lão Panov tỉnh dậy, khi chuông nhà thờ reo vang và một luồng sáng mỏng manh luồn lọc qua khung cửa chớp. “Chao ôi, vui quá là vui!” Lão Panov reo lên. “Đây là ngày Giáng sinh rồi!”
Ông đứng dậy và duỗi mình cho qua cơn nhức mỏi. Rồi thì khuôn mặt của ông rực lên một niềm vui hạnh phúc vì hồi tưởng lại giấc mơ vừa qua. Đây sẽ là một ngày Giáng sinh đặc biệt hơn tất cả, vì Chúa Giêsu đến thăm ông. Ngài sẽ trông giống như thế nào nhỉ? Sẽ còn là một em bé như lúc Giáng sinh đầu tiên? Hay sẽ là một người trưởng thành, một anh thợ mộc – hay là một vị vua huy hoàng, xứng đáng với danh phận là Con Đức Chúa Trời? Ông tự nghĩ phải cẩn thận canh chừng từng giây phút của ngày để có thể nhận ra Ngài khi Ngài ngự đến.
Lão Panov pha một bình cà phê đặc biệt cho bữa ăn sáng Giáng Sinh, kéo cửa chớp của cửa sổ lên và nhìn ra ngoài. Đường phố còn vắng tanh, không ai cả. Không ai ngoại trừ ông quét đường. Ông ta có vẻ khổ sở và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, và cũng là đáng kiếp! Ai mà đi làm việc vào ngày Giáng sinh bao giờ – và lại làm việc trong cái lạnh cay đắng của lớp sương muối trong một buổi sáng như thế này?
Lão Panov mở cửa ra, một làn khí lạnh mỏng lùa vào. “Vào đây!” ông hô to qua phía bên kia đường bằng một giọng vui vẻ. “Vào đây uống một chút cà phê cho ấm bụng!”
Ông quét đường nhìn lên, gần như không tin vào tai mình. Rõ ràng ông ta đã quá sức vui mừng khi được đặt cây chổi xuống và đi vào căn phòng ấm áp. Quần áo của ông bay phất phới nhẹ nhàng trong cái hơi nóng từ bếp lò thoát ra và ông siết chặt cả hai bàn tay đỏ như gấc vì lạnh vào cái ly ấm áp và đầy an ủi.
Lão Panov hài lòng nhìn ông ta, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt qua khung cửa sổ. Ông không muốn bỏ lỡ người khách đặc biệt của mình.
“Ông đợi ai đó?” ông quét đường sau cùng phải hỏi như thế và Lão Panov kể cho ông ta về giấc mơ của mình.
“Vâng, tôi hy vọng ông ta tới” ông quét đường nói, “ông vừa tặng cho tôi một chút niềm vui Giáng sinh mà tôi đã không bao giờ mong đợi. Tôi cũng muốn nói rằng ông xứng đáng có được một giấc mơ trở thành sự thật.” Và ông ta đã mỉm cười một cách thực lòng.
Khi ông ta đi rồi, Lão Panov cắt nhỏ bắp cải đưa vào nồi súp để dọn bữa ăn, sau đó đi ra cửa nữa, quét mắt nhìn quanh đường phố. Ông vẫn không thấy ai. Nhưng thực sự ông đã nhầm. Có người đang đi đến.
Cô gái bước đi rất chậm chạp và lặng lẽ, dựa sát vào bờ tường của các cửa hàng và nhà ở, phải mất một thời gian dài trước khi ông nhận ra cô nàng. Cô ta trông thật mệt mỏi và đang mang một cái gì đó. Khi cô gái tiến gần ông hơn, ông nhận ra rằng ‘cái gì đó’ là một đứa bé, bọc trong một chiếc khăn choàng mỏng. Có một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong khuôn mặt của cô gái và trong khuôn mặt bị ép chặt của đứa bé, đến nỗi trái tim của Lão Panov muốn rơi ra vì họ.
“Xin mời vào nhà” ông bước ra ngoài để gặp họ. “Cô và em bé cần có chút lửa ấm và chút nghỉ ngơi.”
Bà mẹ trẻ để cho ông ta dẫn cô vào nhà và tới với sự thoải mái của chiếc ghế bành. Cô thở dài nhẹ nhõm.
“Tôi sẽ hâm nóng một chút sữa cho em bé” Lão Panov nói, “Tôi cũng đã có con – tôi có thể cho con bé bú.” Ông lấy sữa từ bếp lò và cẩn thận cho đứa con gái nhỏ bú bằng muỗng, đồng thời hơ ấm đôi bàn chân nhỏ của nó lên bếp.
“Con bé cần có giày,” ông thợ đóng giày nói.
Nhưng bà mẹ trẻ trả lời: “Tôi không có tiền mua giày đâu, tôi không có chồng để lo chu cấp cho chúng tôi. Tôi phải đi đến làng bên cạnh để tìm việc làm.”
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong trí của Lão Panov. Ông nhớ lại đôi giày nhỏ ông đã coi lại đêm qua. Nhưng ông muốn giữ đôi giầy ấy cho Chúa Giêsu. Ông nhìn xuống đôi chân lạnh của đưa bé một lần nữa và rồi làm một quyết tâm.
“Thử đôi giầy này cho con bé” ông vừa nói vừa đưa trả đứa bé cùng với đôi giày cho người mẹ. Đôi giày nhỏ xinh đẹp đi vào vừa vặn. Cô gái mỉm cười hạnh phúc và con bé cũng ríu rít lên vì vui sướng.
“Ông tốt với chúng tôi quá,” cô gái nói, và bế đứa bé lên mà đi ra. “Mong rằng tất cả những ước mơ Giáng sinh của ông trở thành sự thật!”
Nhưng đến lúc này thì Lão Panov đã bắt đầu nghi ngờ cái ước mơ Giáng sinh đặc biệt của mình có thể trở thành sự thật không. Có lẽ ông đã bỏ lỡ người khách của mình? Ông lo lắng nhìn lên các đường phố cả trên lẫn dưới. Vẫn có nhiều người đi qua nhưng toàn là những gương mặt mà ông từng quen biết. Có nhiều người hàng xóm đi gọi người nhà về. Họ gật đầu chào và mỉm cười chúc ông Giáng sinh vui vẻ! Hoặc nhửng tên hành khất – và Lão Panov vội vã gọi họ vào nhà để biếu họ một tô súp nóng và một ổ bánh mì kha khá, rồi cũng vội vã chạy ra cửa để đề phòng ông không bỏ lỡ Người Lạ Mặt Quan Trọng.
Rồi thì chẳng mấy chốc mà cảnh hoàng hôn của mùa đông lại rơi xuống. Khi Lão Panov đi ra cửa một lần nữa và dù có căng đôi mắt của mình ra đến mấy, ông cũng không còn nhìn thấy một ai trên đường. Mọi người đều đã về nhà. Ông chậm rãi đi vào phòng, đóng cửa chớp xuống, và ngồi xuống một cách mệt mỏi trên chiếc ghế bành.
Chỉ là một giấc mơ thôi. Chúa Giêsu nào có đến.
Nhưng bỗng nhiên ông cảm thấy ông không ở một mình trong phòng.
Điều xảy ra không phải là một giấc mơ vì ông hoàn toàn tỉnh táo. Đầu tiên, ông thấy trước mắt một hàng dài những người đã đến với ông ngày hôm đó. Ông già quét đường, người mẹ trẻ và đứa con và những người hành khất mà ông đã cho ăn.
Khi họ đi qua, họ đều thì thầm một câu: “Ông không thấy tôi à, Ông Panov?”
“Bạn là ai?” ông kêu lên, hoang mang.
Lập tức, một giọng nói khác trả lời ông. Đó là giọng nói từ giấc mơ – giọng của Chúa Giêsu.
“Ta đói, ngươi đã cho ăn,” Chúa nói. “Ta trần chuồng và ngươi đã cho mặc. Ta lạnh và ngươi sưởi ấm cho Ta. Hôm nay Ta đến thăm ngươi qua tất cả những người mà ngươi đã mời vào mà cứu giúp.”
Rồi sau đó, là một sự tĩnh mịch. Chỉ còn tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ lớn. Một sự bình an và hạnh phúc lớn lao lấp đầy căn phòng nhỏ, tràn ngập trái tim của Lão Panov đến nỗi Lão phải phá lên cười, hát vang và nhảy múa hân hoan.
“Ngài đến thật rồi!” ông chỉ nói được như thế mà thôi.
Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.
Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.
Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.
Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả ruộng nương, bệnh không khỏi.
Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.
Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.
Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.
Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!
Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.
Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.
Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.
Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.
Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.
Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…
Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.
Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”
Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:
“Chị ơi, em yêu chị!”.
Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.
Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.
Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.
Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.
Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:
“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.
Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.
Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?
Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.
Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.
Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.
Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.
Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.
Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.
Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.
Lúc đó chị đã 29 tuổi.
Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.
Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!
Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.
Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.
Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.
Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.
Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.
Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?
Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.
Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.
Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.
Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:
“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.
Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:
“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.
Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.
Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.
Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.
Năm 1993, khi mới đến Mỹ, gia đình chúng tôi đến văn phòng Hội USCC San Diego để làm một số giấy tờ của người mới định cư. Trong khi đang chờ đợi bỗng có một nhân viên ở đó đưa cho tôi tờ nhắn tin như sau:
“Quí vị nào biết gia đình ông Bửu Uyển ở đâu, xin liên lạc với:
Lê Văn Thành, điện thoại số 2514468353
Địa chỉ 428 E Church St., Atmore, AL 36502
Tôi vô cùng ngỡ ngàng và cảm động vì Thành là bạn thân của tôi từ lúc chúng tôi còn nhỏ.
Khi hoàn tất các giấy tờ ở Hội USCC, tôi vội vàng trở về nhà, gọi điện thoại ngay cho Thành. Ở đầu dây bên kia, giọng Thành cảm động:
-Cậu đó hả! Tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cuối cùng mình cũng gặp lại nhau. Mình tìm kiếm cậu khắp nơi từ bao lâu nay. Thế gia đình cậu qua Mỹ lúc nào vậy?
-Mình mới qua được 5 ngày.
-Được rồi, đọc lại số điện thoại của cậu và cho mình địa chỉ, vợ chồng mình sẽ qua thăm cậu.
Một tuần sau, vợ chồng Thành qua San Diego thăm chúng tôi. Thành ôm chầm lấy tôi, xúc động nói:
-Thật vui mừng được gặp lại cậu, Trông chờ mãi, lắm lúc mình nghĩ có lẽ không bao giờ gặp lại nhau. Cậu ốm qua, nhưng không sao, qua Mỹ một thời gian sẽ mập ra thôi.
Thành quay ra giới thiệu: “Đây là Thoa, vợ mình.”
Tôi hơi ngạc nhiên, Thành nói ngay:
-Đây là vợ sau của mình. Câu chuyện dài dòng lắm, để lát nữa mình sẽ kể cho cậu nghe.
Tôi trò chuyện với Thành, còn Thoa vui vẻ chỉ dẫn cho vợ tôi một vài kinh nghiệm sống ở Mỹ. Mới gặp nhau lần đầu nhưng Thoa và vợ tôi thân mật như đôi bạn quen nhau từ lâu.
Thành kéo tay tôi: “Để cho hai bà nói chuyện áo quần, bếp núc. Tụi mình đi kiếm gì ăn, rồi mua về cho mấy cháu.”
Ngồi trong một tiệm ăn Việt Nam, khi chờ thức ăn mang lên, Thành nhìn qua cửa sổ, trầm buồn nói với tôi:
-“Anh nhớ không, từ nhỏ, tụi mình thân nhau như anh em ruột; cùng sinh hoạt Hùng Tâm, Dũng Chí ở Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế, cùng giúp lễ cho cha Đài, cha Ngà, cha Nghiễm, cha Phục. Năm 1964, tôi bị động viên vào Thũ Đức, ra chuẩn úy, về phục vụ Sư đoàn 1. Năm 1968, tôi lập gia đình với Chi. Hai năm sau, chúng tôi có con gái đầu long, là bé Oanh. Sau đó chúng tôi có thêm một cháu trai và một cháu gái nữa,
Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế,
Ngày 30-4-1975 ập đến, như một cơn lốc cuồng loạn, thổi phăng hạnh phúc của gia đình chúng tôi.
Tôi quyết định không trình diện cải tạo, ở lang thang nay đây mai đó trong thành phố Đà Nẵng, hành nghề xe đạp ôm để phụ với vợ nuôi con. Còn Chi thì mua bán áo quần cũ ở Chợ Cồn. Vì cuộc sống vất vả, ăn uống thiếu thốn, lại lo buồn cho chồng, cho con, một năm sau, Chi nhuốm bệnh.
Không được bồi dưỡng, không thuốc thang, nên năm 1978, Chi qua đời. Đám tang của Chi là một đám tang nghèo nàn, tẻ nhạt và cô đơn hơn tất cả những đám tang trên thế gian này. Chồng của Chi là tôi, đi theo sau quan tài của vợ mà phải đi xa xa, sợ công an phát hiện. Nhìn 3 đứa con với vành khăn tang trên đầu, khóc lóc đi sau quan tài của mẹ, tôi muốn điên.”
Thành quá xúc động, lấy khăn tay lau nước mắt, rồi anh kể tiếp:
-Sau đó, 3 đứa con tôi được các Soeurs dòng Thánh Phao Lồ đem về nuôi như những trẻ mồ côi khác.
Buồn khổ quá, tôi thất thểu đạp xe vào nhà thờ Đà Nẵng, đi đến trước hang đá. Tôi ngước lên nhìn tượng Đức Mẹ, bỗng nhiên nước mắt tôi chảy ra ràn rụa, tôi khóc; khóc thành tiếng, mặc cho người chung quanh nhìn tôi, tôi thấy lòng vơi bớt sầu khổ. Tôi lại nhìn lên tượng Đức Mẹ. Tôi nghe như Đức Mẹ an ủi tôi: “Hởi con, hãy can đảm lên, phấn đấu để sống cho con và các con của con; chúng rất cần sự yêu thương của con. Con hãy trông cậy vào Chúa. Chúa không bỏ con đâu”.
Tôi như bừng tỉnh. Tôi tạ ơn Đức Mẹ.
Cuộc sống của tôi thật vô cùng khốn khổ nhưng ngày nào tôi cũng đến viếng Đức Mẹ và cầu xin Đức Mẹ từ bi nhơn hậu phù hộ, cứu giúp cho cha con chúng tôi.
Bỗng một hôm, mẹ vợ của tôi đến gặp tôi khi tôi đang đón khách ở chợ Cồn. Bà hốt hoảng bảo tôi: Con nên rời khỏi đây ngay, họ đã biết có con ở đây. Mấy hôm nay họ đã lùng sục ở mấy nhà quen rồi, hiện nhà mình bị canh chừng kỹ lắm. Con nên đi vô Nam, trong đó đất rộng, người đông, không ai biết ai, dễ sống. Ba đứa nhỏ đã có các Soeurs và mẹ lo, con cứ yên tâm đi đi.
Tôi về ngay nhà trọ, lấy vội cặp áo quần cũ với vài vật dụng linh tinh, cho vào một giỏ đệm, treo lên ghi đông xe đạp, rồi đạp xe đi về hướng Nam. Nghĩ lại, thật nực cười cho tôi vì tôi tính đi vào Sài Gòn bằng chiếc xe đạp cũ kỹ của mình.
Nhưng ngày qua ngày. Tôi đến Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi. Đi đến đâu, hành nghề xe đạp ôm đến đó để sống.
Tôi đi lần vào Nam. Hơn một tháng sau, tôi đến thị trấn Tam Quan, tình cờ khi tôi đang lân la ở bến xe để đón khách, tôi xin một xe chở hàng cho tôi đi quá giang vào Nha Trang. Xe đến Nha Trang lúc 7,8 giờ tối gì đó.
Tôi mua một ổ bánh mì, ăn vội, rồi lửng thửng đạp xe đi trong một thành phố hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi đi ngang qua một nhà thờ, tôi ghé vào nhưng nhà thờ đã đóng cửa, tôi đi ra hang đá ở cuối nhà thờ, quì xuống. Tôi lại khóc. Không hiểu sao cứ mỗi lần nhìn tượng Đức Mẹ và cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi khóc, khóc sướt mướt như một đứa trẻ làm nũng với Mẹ vậy.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng của tôi, nếu không có trông cậy vào Đức Mẹ, chắc tôi không sống nỗi.
Rời hang đá trong gia đình của những người con Đức Mẹ,tôi tiếp tục đạp xe đi lang thang trong thành phố Nha Trang đã lên đèn.
Quá mệt mõi và chán nản, tôi dừng xe trước một căn nhà đã đóng cửa đi ngủ. Nhà ấy có một mái hiên khá kín đáo, có thể giúp tôi ngủ qua đêm được. Dựng xe đạp vào vách tường, tôi nằm lăn ra ngủ. Đến quá nửa đêm , tôi giật mình thức giấc vì người trong nhà ấy đã thức dậy. Tôi ngạc nhiên vì trời còn tối (có lẽ khoảng 3,4 giờ sáng gì đó), họ thức dậy làm gì mà sớm vậy! Nhưng chỉ một lát sau, khi nhìn những túi xách nhỏ, gọn gàng của họ; nhìn những gương mặt ngơ ngác, lo lắng, sợ sệt của những người trong gia đình …tôi hiểu ngay: họ đang chuẩn bị vượt biên. Một người đàn ông ra mở cửa để đi, họ thấy tôi ngồi đó, ai cũng ngỡ ngàng , pha chút bối rối. Tôi đánh bạo nói: Các bác đi đâu cho tôi theo với.
Người đàn ông quay nhìn vợ, ngần ngừ một lát rồi ông ta quyết định:
-Được rồi! Anh muốn đi, tôi cho đi, cùng sống cùng chết với nhau.
Ngay lúc đó, một chiếc xe Lam 3 bánh dừng lại trước nhà, đưa gia đình ấy và tôi đến một bãi biển khá xa thành phố. Mọi người lên một ghe nhỏ, chèo tay, đưa ra một ghe lớn đậu tít ngoài khơi. Trước lúc trời sáng, ghe nổ máy ra đi. Người đàn ông chủ ghe tên Đông, giao cho tôi nhiệm vụ tát nước, khi dưới khoang thuyền có nước. Khoảng 15 phút sau, ghe chạy đều đều trên biển, tôi làm dấu thánh giá và đọc kinh, tạ ơn Đức Mẹ. Tôi biết, tôi tin, chỉ có Đức mẹ mới sắp xếp được cho tôi một chuyến vượt biên kỳ lạ như vậy.
Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi được tàu kéo đến trại Palawan bình yên. Ở trại một thời gian, tôi được IOM cho đi định cư ở Mỹ. Vì tôi không có thân nhân ở Mỹ nên Hội USCC đã nhờ Linh mục Michael ở Alabama bảo trợ cho tôi. Cha Michael là cha xứ của Họ đạo “Our Lady of Perpetual Help Church” ở thành phố Atmore. Cha Michael cho tôi làm công việc chăm sóc cây cảnh, vườn cỏ của giáo xứ với mức lương tôi không dám mơ ước: 600 đô la một tháng! Mỗi tháng, tôi gởi một ít tiền về cho cơ sở Dòng Thánh Phao Lồ ở Đà Nẵng để quí Soeurs lo cho các trẻ mồ côi, trong đó có 3 con của tôi. Trong những ngày chăm sóc cây cảnh cho giáo xứ, tôi thấy một bé gái khoảng 9,10 tuổi thường đến xem tôi làm việc. Thấy cháu bé có nét mặt người Việt Nam, tôi tò mò hỏi: cháu tên gì? Em bé ngạc nhiên, vui mừng nhìn tôi và hỏi lại : Bác là người Viêt Nam hả? Từ đó tôi có một người bạn nhỏ và duy nhất vì trong giáo xứ toàn người Mỹ. Tên của cháu bé là Kathrine.
Giáo xứ có một nhà kho khá rộng, cha Michael sơn quét sạch sẽ rồi cho tôi làm chỗ ở. Mùa đông 1981 tôi bị cảm cúm nặng, nằm liệt giường. Một hôm, tôi thấy bé Kathrine đi thơ thẩn ngoài vườn hoa của giáo xứ, có lẽ cháu đi tìm tôi. Tôi cố gắng ngồi dậy, mở cửa gọi cháu. Kathrine chạy đến, thấy tôi tiều tụy xanh xao, bé ôm lấy tôi và khóc rưng rức. Tôi kể cho bé Kathrine, tôi bị cảm cúm mấy hôm nay, nhưng không biết nhờ ai đi bác sĩ. Bé Kathrine chạy vội về nhà, một lát sau trở lại với một bà đứng tuổi, tôi đoán là mẹ của cháu. Vừa gặp tôi, bà ấy nói ngay: Bác là bác Thành phải không? Tôi thường nghe con gái tôi nói về bác, cháu nó mến bác lắm. Cháu vừa cho biết bác bị cảm cúm mà không ai đưa đi bác sĩ. Tôi là người đồng hương với bác, để tôi giúp bác.
Từ đó, tôi có thêm một người bạn, ngoài cháu Kathrine. Bà ấy tên là Thoa. Năm 1969, bà ấy kết hôn với một sĩ quan Không quân Mỹ ở Biên Hòa. Năm 1971, bà theo chồng về Mỹ. Không may cho gia đình ấy, năm 1976, chồng bà qua đời vì một tai nạn xe cộ.
Ngừng một lát, Thành kể tiếp:
Biết được hoàn cảnh của cha con tôi, bà ấy thường gởi tiền về nuôi các con của tôi. trước các dịp lễ lớn, như Noel, Tết…, bà gởi về cho các con tôi những thùng quà rất giá trị . Quí Soeurs ở Việt Nam thường gởi thư qua cảm ơn vì quà của bà gởi về, ngoài 3 con của tôi được hưởng, Soeurs còn phân phát cho các em khác nữa. Tôi mang ơn bà ấy. Tôi còn nhớ, trong một party của giáo xứ nhân ngày đầu năm, Cha Michael gặp chúng tôi, nửa đùa nửa thật, cha nói với chúng tôi: Có gì ngăn trở đâu, sao ông bà không kết hôn với nhau?! Tôi nhìn bà ấy, bà mỉm cười. Sau khi chúng tôi kết hôn với nhau, Thoa làm đơn bảo lãnh 3 con của tôi qua Mỹ. Vì Thoa có quốc tịch Mỹ, lại có đầy đủ tài chánh nên chỉ một thời gian ngắn, cả 3 con của tôi đã đoàn tụ với tôi ở Mỹ. Việc đoàn tụ một cách lạ lùng của 3 cha con chúng tôi làm cho tôi tin rằng: Không có việc gì mà Đức Mẹ không làm được, nếu ta thành khẩn kêu xin.
Tôi nhớ lại ngày xưa, Cha Ngà (Dòng Chúa Cứu Thế) thường giảng rằng; Đau khổ là một mầu nhiệm. Lúc ấy, tôi không hiểu Ngài muốn dạy điều gì. Nhưng sau mấy chục năm gian khổ của cuộc sống, với ơn Chúa giúp, với sự phù hộ của Đức Mẹ, tôi đã có thể chịu đựng và vượt qua mọi đau khổ, nhờ vậy, tôi thấy mình lớn lên trong đức tin, bền đỗ trong đức cậy và dạt dào lòng yêu mến Chúa.
Tôi cũng bắt đầu cảm nhận rằng: Lòng Mẹ Maria yêu thương tôi không những chỉ là những hồng ân tốt đẹp mà Mẹ đã ban cho tôi, mà ngay cả những đau khổ, khốn khó tôi đã gánh chịu, cũng nói lên lòng Đức Mẹ yêu thương tôi biết dường nào!
Tôi đến Nebraska vào đầu mùa Đông giá lạnh. Người đón ở phi trường là một người chưa bao giờ gặp mặt. Tên anh là Thomas. Một vài câu chào nhau lạnh lùng giữa mùa đông lạnh. Lặng lẽ, anh dẫn tôi ra khỏi phi trường và lao mình trên chiếc xe truck trong cơn gió tuyết. Mùa Đông Nebraska quá khắc nghiệt hơn tôi dự đoán.
Từng cơn gió tuyết réo rắt đến rợn người. Một màu trắng xoá trải dài, dài như vô tận. Những khu nhà thưa thớt của dân nghèo da đen gần phía phi trường phủ ngập tuyết. Tuyết phủ cao có khi lấp hẳn cả những chiếc xe nằm bất động bên đường. Không gian tĩnh mịch. Trong lòng đơn côi. Tôi hoang mang sợ hãi! Không biết mình có vượt qua nổi mùa Đông khắc nghiệt này không? Lần đầu tiên trong đời chạm trán với Mùa Đông Nebraska với mười mấy độ âm. Những ngày trước đây còn háo hức cho chuyến thực tập này bao nhiêu thì bây giờ cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Nỗi cô đơn xâm chiếm, một hoang mang vây quanh. Tại sao mình lại chọn mảnh đất xa xăm này? Tại sao lại bỏ gia đình ấm cúng để đi vào trong chốn đơn côi? Một hoang mang khơi dậy trong hồn.
Về đến nhà trời đã sẩm tối. Đón ở cửa là một người đàn ông mù trạc tuổi 60. Ông có mái tóc bạc trắng đều đặn và một khuôn mặt phúc hậu. Ông mở to đôi mắt, nhưng ông lại chẳng thấy. Lúc đầu chẳng để ý, nhưng khi nhìn ông quờ quạng chiếc gậy dành cho người mù bên cạnh, tôi mới biết ông ta mù. Cái tối ngoài trời, xen lẫn cái tối trong nhà, lại thêm cái tối của một người mù làm cho bầu khí thêm ảm đạm. Rồi một tiếng nói vọng lên trong góc tối và một bàn tay vươn ra để bắt tay:
– Tôi là Cha Gilick, rất vui được gặp anh. Ngài tự giới thiệu và nở một nụ cười nồng ấm.
– Con là Thảo Nam, rất hân hạnh được gặp cha.
– Chúc mừng anh đến cộng đoàn này. Tôi là Cha bề trên ở đây và sẽ là linh hướng của anh trong thời gian anh ở đây. Hãy coi tất cả như người nhà nhé. Ngài niềm nở tiếp đón. Tôi bối rối tự hỏi: Sao ông mù này lại là Cha bề trên ở đây? Chắc cái cộng đoàn này hết người sáng mắt hay sao mà lại đặt một ông mù làm bề trên của một cộng đoàn mắt sáng?
Thắc mắc. Nghi ngờ. Rồi bắt đầu đón nhận. Một hành trình mới đi vào thế giới người mù.
Mỗi một người mù có lối sống đặc biệt của riêng mình. Đây không phải là lần đầu tiên tôi sống với linh mục mù. Trước đây tôi đã có dịp chung sống với hai linh mục mù khác, và đây là vị mù thứ ba. Chẳng hiểu có bí ẩn gì đây mà sao lại có duyên ‘‘làm bạn’’ với lắm Cha mù như thế. Câu hỏi ấy vẫn mãi là một chuỗi suy tư.
Những ngày ở Việt Nam, tôi giúp lễ nhiều năm cho một Linh mục mù về hưu tại nhà riêng. Năm giờ sáng, ngài thức dậy. Quờ quạng. Cầu nguyện. Rồi dâng lễ mỗi ngày. Ngài đã dâng lễ đều đặn suốt hơn mười năm mù lòa như thế. Thánh lễ trong suốt mười năm là một thánh lễ duy nhất: Lễ về Đức Maria. Ngài đã thuộc lòng kinh tiền tụng, không cần sách lễ. Tôi dọn bàn thờ, chọn áo lễ và khoác cho ngài. Rồi hai cha con dâng lễ. Một linh mục, một giáo dân suốt bao năm dài đăng đẳng.
Những thánh lễ êm đềm trong nắng ấm ban mai. Cô quạnh, nhưng cũng tràn đầy ủi an. Có mệt mỏi, nhưng có ân sủng đỡ nâng. Có những ngày muốn bỏ lễ, nhưng rồi lại tiếp tục vươn lên. Tuổi già, lại thêm mù lòa là một thách đố lớn cho đời Linh mục. Tôi không dâng lễ, nhưng cảm nghiệm nỗi mệt mỏi trong từng thánh lễ của người Linh mục mù ấy. Tôi ngần ngại. Liệu sau này mình có rơi vào trong cảnh đơn coi này không?
Rồi những ngày đến Cali, tôi lại có dịp sống với Linh mục mù thứ hai. Ngài không mù hẳn, nhưng mắt bị lóa. Phải viết chữ thật to ngài mới đọc nổi, và ngài chỉ có thể nhận ra anh em trong nhà qua giọng nói.
Bây giờ, nơi vùng đất xa xăm của Nebraska, vị linh mục mù thứ ba này lại đến với tôi như một ngạc nhiên quá lớn. Sững sờ. Rung động. Ngỡ ngàng. Không ai cho tôi biết về người mù này trước khi đến, nên lần gặp gỡ bất ngờ này đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh, một xúc cảm nội tâm sâu xa. Ngài không mù vì tuổi già, nhưng mù từ lúc bé. Vào dòng chỉ ước mong đơn sơ làm ông thầy vĩnh viễn. Rồi tình yêu Chúa nhiệm mầu, lớn hơn cả lòng người ước mong, dẫn đưa ngài đến chức linh mục với đôi mắt mù. Ai có thể hiểu nổi những huyền nhiệm trong cuộc đời!
Cộng đoàn ở đây có chừng mười người. Một số cha dạy học, còn lại một số anh em vẫn cắp sách đến trường. Cha mù bề trên chuyên lo về linh hướng, chỉ đường thiêng liêng cho anh em sáng mắt. Chao ôi, người mù lại chỉ đường thiêng liêng cho người sáng mắt. Dẫn nhau đi trong u tối cuộc đời để vào ánh sáng huyền nhiệm. Mắt thể xác mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn thì sáng rực. Ngài còn làm lễ tại giáo xứ, và đi giảng tĩnh tâm trên khắp nước Mỹ.
Có lần cha quản lý khuyên tôi:
– Nếu có gì thắc mắc thì đến hỏi cha mù ấy, ngài mù nhưng lại thấy nhiều sự lắm. Mù mà thấy nhiều sự thì chẳng phải là mù. Tật nguyền đôi mắt không làm cản ngăn lối bước đi về chân lý. Hành trình cuộc đời là hành trình tìm về chân lý, nhưng chân lý lại không phải vật chất để đôi mắt có thể lý trông thấy, nên ánh mắt tâm hồn mới là đèn soi cho mọi khát khao kiếm tìm. Có đôi mắt sáng chưa hẳn là tìm được lối đi. Nhiều khi ta vẫn đi trong đêm tối tội lỗi với ánh mắt sáng ngời.
Đã bao năm, tôi vẫn tự hào mình có đôi mắt sáng, nay đối diện với vị linh mục mù này tôi mới thấy mình mù loà và cần ngài hướng dẫn, chỉ đường. Cuộc sống vẫn luôn có những nghịch lý thú vị.
Những ngày đầu gặp gỡ, tôi cảm thấy tội nghiệp và thương tâm cho Ngài. Những ngày sau chung sống, tiếp xúc và học hỏi, tôi lại thấy thương hại cho chính mình, vì mình có đôi mắt sáng mà chẳng thấy những gì cần thấy và đáng thấy. Trong khi vị mù này lại có thể thấy những điều từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, thấy được ý nghĩa sâu xa của cuộc sống tâm linh và thân phận con người. Thấy Chúa trên cao. Thấy Chúa trong lòng cuộc sống. Thấy Chúa trong hạnh phúc cũng như trong từng nỗi đau.
Mù mà thấy nhiều sự quá!
Văn phòng của ngài ở ngay trong trường đại học của nhà dòng. Phải mất khoảng mười phút mới có thể tản bộ tới đó; phải băng qua hai con đường xe chạy tấp nập. Vậy mà ngài đã đi qua về lại trên con đường ấy suốt hai mươi năm qua không hề hấn gì. Tôi vẫn thích tản bộ tới trường với ngài mỗi buổi sáng trên con đường ấy. Ngài vẫn thích có ai đi bên cạnh để chuyện trò, níu vai, để khỏi phải quờ quạng chiếc gậy.
Có lần ngài nắm vai tôi vừa đi vừa nói: – Có cậu đi bên cạnh thì chiếc gậy mù này thất nghiệp!
Tôi cũng nhẹ nhàng đáp lại: – Vậy từ hôm nay con sẽ là cái gậy của cha mỗi sáng trên con đường này nhé. Trong thâm tâm, tôi không nghĩ mình giống chiếc gậy, nhưng giống những con chó đã được huấn luyện để dẫn dắt người mù. Công việc chút xíu như thế cũng có ích cho đời lắm chứ! Và mình lại thấy vui với ý tưởng đó.
Rồi quay lại với ngài tôi tiếp tục bông đùa: – Con thấy mình giống con chó dẫn dắt người mù hơn là chiếc gậy cha ạ, đời con bất tài nên làm công việc này chắc thích hợp đấy.
Ngài cũng tinh nghịch phản ứng: – Phải mất hai mươi lăm ngàn dollars mới huấn luyện được con chó đó, cậu có được bằng giá đó không?
Rồi cả hai cùng cười khúc khích, biết đùa với nhau là cả một món quà.
Sống với ngài được một tuần, ngài bắt đầu nhờ tôi chở đi làm lễ ở một giáo xứ vào mỗi sáng Chúa nhật. Lần đầu tiên ngài nói: – Ngày mai cậu chở cha đi làm lễ nhé!
– Thưa cha, nhà thờ ở đâu, có xa không? Tôi hỏi.
– Chừng ba mươi phút lái xe. Ngài đáp.
Tôi bắt đầu do dự. Đường sá chưa rành, tuyết phủ khắp nơi, chở người sáng mắt thì người ta còn chỉ đường, chứ chở người mù chắc dẫn nhau ra nghĩa địa quá! Trong đầu do dự, nhưng lại không muốn từ chối lòng tín nhiệm của ngài.
Rồi tôi hỏi: – Cha có bản đồ không?
– Hình như không. Ngài trả lời.
Hỏi xong tôi thấy mình ngớ ngẩn. Ngài đâu thấy đường đâu mà hỏi bản đồ, và nếu có bản đồ thì ngài cũng chẳng chỉ đường được. Tôi quay lại nói tiếp: – Nhưng mà con chưa biết đường!
– Lo gì! Cha sẽ chỉ cho. Ngài tự tin trả lời.
Tôi thấy nghi nghi trong lòng. Làm sao ngài biết đường? Nhưng rồi tôi cũng đánh liều nhận lời.
Ngày hôm sau, lấy chìa khoá và đề máy xe. Trong lòng run lắm. Ngày Chúa nhật trong nhà đi vắng cả nên chẳng kịp hỏi ai. Lòng nghĩ thầm, ông cha mù này liều quá, dám nhờ mình chở đi đường tuyết phủ ở nơi lạ lẫm thế này.
Đề máy xong, ngài chỉ đường bằng miệng: – Con ra khỏi cổng, quẹo trái; đến stop sign đầu tiên quẹo phải; qua hai đèn xanh đèn đỏ, quẹo phải, rồi vào xa lộ. Và cứ tiếp tục như thế… Tôi lái xe, ngài chỉ đường; qua bao con đường ngoằn ngoèo để đến nhà thờ. Tôi sửng sốt. Làm sao ngài có thể nhớ đường?
Rồi tôi tò mò hỏi: – Làm sao cha biết đường hay vậy?
– Cha có bản đồ. Ngài vừa cười vừa đáp.
– Sao cha nói với con là cha không có bản đồ. Tôi phản ứng.
– Bản đồ ở trong đầu. Ngài lại cười đùa giỡn.
Thì ra, người mù lại có một bản đồ thật chính xác trong đầu.
Giáo xứ ngài đến dâng lễ là một giáo xứ giàu. Ngôi thánh đường xây bằng gạch đỏ tươi trên một khu đất khá cao. Chung quanh là những khu nhà khá sang trọng, nên nó làm cho ngôi thánh đường thêm đẹp. Mùa đông không có những vườn cỏ, cây xanh hoa lá, nhưng nhìn cách chăm nom và trang trí khu vực thánh đường cũng đủ biết là dân có tiền nhiều. Có lần tôi tinh nghịch hỏi ngài: -Thưa cha, tại sao cha khấn khó nghèo mà cha lại đi giao du với dân giàu?
Ngài vui vẻ đáp lại: – Có người giàu vật chất, nhưng tâm linh nghèo lắm. Phải học biết chia sẻ thì tinh thần mới giàu. Vật chất là ơn huệ Chúa ban. Biết chia sẻ nó tức là đã sống tinh thần nghèo. Cũng như đôi mắt là ơn huệ. Biết nhìn nhau trong yêu thương là đã mở lối cho chân lý đi về.
Rồi một chiều lạnh giá tuyết phủ, ngài đến bên tôi nhẹ nhàng đề nghị: – Ngày mai con chở cha ra phi trường nhé!
– Cha đi đâu vậy? Tôi hỏi.
– Cha đi giảng tĩnh tâm cho một Giám mục. Ngài trả lời.
Tôi sửng sốt tròn xoe đôi mắt nhìn ngài. Hoá ra, ngài vẫn thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các Giám mục và linh mục Hoa Kỳ ở nhiều giáo phận, vì thế sân bay đã trở nên quá quen thuộc đối với ngài. Sau chuyến đi này, sẽ có một Tổng Giám Mục Anh Giáo đến tại cộng đoàn này để xin ngài hướng dẫn cắm phòng. Vị Giám mục này vẫn đến đây hàng năm để xin kẻ mù này soi dẫn, và họ đã trở nên bạn thân với nhau suốt bao năm qua.
Tôi lặng im. Một xúc cảm mãnh liệt dâng trào. Lạ quá, Chúa vẫn làm phép lạ hàng ngày trong những hạnh phúc đan quyện nỗi đau, trong những lãnh nhận và trong từng mất mát. Ngài vẫn hiện hữu trong từng đôi mắt sáng và trong những ánh mắt mù lòa.
Làm sao có thể nghi ngờ về sự hiện hữu của Thượng đế khi tiếp xúc với những con người như vị linh mục mù này. Lòng tin của tôi thì yếu ớt, nhưng khi gặp Ngài, tâm hồn như được nung lên trong niềm tin. Tôi vẫn mãi suy tư, dưới một cái nhìn nào đó, Thiên Chúa đang dùng một người mù để hướng dẫn bao vị lãnh đạo mắt sáng.
Hôm sau, tôi tiễn ngài ra phi trường. Ngài ra đi và rồi đã trở lại như bao con người bình thường khác. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó thật phi thường trong những cái bình thường ấy. Phi thường của tình yêu, sức mạnh, của ân sủng, của tất cả những gì mà Thiên Chúa có thể làm được cho con người và qua con người, ngay cả trong những con người tàn tật nhất.
Sáu tháng ở Nebraska qua đi thật nhanh. Tôi phải chia tay ngài trong nuối tiếc, trong lòng kính trọng và yêu thương. Vẫn ước mong một ngày nào đó được ghé lại thăm ngài. Có lẽ lần tới khi trở lại, mình sẽ không còn hoang mang lo sợ như lần đầu mới đến, vì biết rằng nơi mảnh đất xa xôi đó, đang rực lên một tia sáng huyền nhiệm trong ánh mắt của một linh mục mù.
Mình với chồng lấy nhau được 6 năm, 2 đứa con, đứa lớn 6 tuổi, đứa bé 2 tuổi. Mình lấy chồng khi còn học năm cuối, chồng ra trường đi làm được 2 năm. Điều mình muốn nói là đứa con đầu không phải con của chồng mình…
Khi biết mình mang thai, hắn và gia đình nhà hắn đã chối bỏ. Trong lúc hoang mang chưa biết thế nào thì chồng mình nói: để anh làm bố đứa bé, anh cũng biết là mình không hề yêu anh, nhưng anh nói : Hãy để một đám cưới diễn ra, để đứa con được chào đời và nếu cần thì sinh con xong thì chúng mình ly dị. Anh còn dặn rằng: đừng để ai biết sự thật về đứa bé, nhất là chị của anh.
Ngày anh nói với chị về việc xin cưới, mình đã rất sợ. Nhưng chị của anh bảo: có bầu thì cưới, mày chị còn nuôi được cả hơn chục năm nay nữa là…Xong chị nói : em lấy thằng T nhà chị là thiệt thòi nhiều lắm, thằng T mồ côi, thiếu tình thương, giờ em hãy cho nó một gia đình đúng nghĩa.
Sau 6 năm, mình nghĩ mình đã được hạnh phúc trọn vẹn khi có một người chị chồng như trong mơ, môt người chồng yêu thương mình và hai đứa con khoẻ mạnh.
Nhưng rồi hắn ta liên lạc với mình, nói đúng hơn là hắn tống tiền mình. Nếu không đưa cho hắn 500tr, thì hắn sẽ cho chị chồng mình biết sự thật về đứa con. Mình thật sự rất sợ, chồng mình thì bảo hay cứ đưa tiền cho yên chuyện vì số tiền đó đối với nhà mình thì cũng không phải lớn.
Nhưng rồi chị chồng mình cũng biết chuyện, hắn đã nói cho chị biết.
Chị hỏi vợ chồng mình về đứa bé. Lúc đó, mình chỉ biết khóc, chồng mình thì im lặng. Chị nhìn 2 đứa con mình xong hỏi chồng mình: giờ chị hỏi thằng T một câu thôi, B có phải con em không? Chỉ cần trả lời Có hoặc không, không cần giải thích. Chồng mình suy nghĩ xong nói: Có .
Chị nói: thế là được rồi, hai đứa không phải suy nghĩ gì nữa. Thằng T bảo B là con nó, thì tức là con nó, là cháu chị. Mọi chuyện còn lại để chị giải quyết. Cấm đứa nào can thiệp làm cho chuyện mà rắc rối thêm .
Xong chị làm 1 cái xét nghiệm ADN. Tất nhiên, mẫu lấy xét nghiệm là của chồng mình và đứa con thứ 2. Rồi đưa cho hắn ta xem kết quả huyết thống là cha con để kết thúc mọi chuyện.
Bằng cách nào đó, mình nghe được hắn bị mấy anh chị đánh cho một trận thừa sống thiếu chết và phải đi nơi khác sống.
Chồng mình thì bảo chuyện gì chị anh chẳng làm được, nếu không thì chị đã không giữ được cái nhà này đến bây giờ.
Sau sóng gió đó, chị nói chuyện riêng với mình, chị nói: một đứa trẻ mồ côi, thiếu cha hay thiếu mẹ rất đáng thương, chị không muốn gia đình này, 2 đứa cháu của chị phải thiếu tình thương của bố hay mẹ hết. Thằng B mãi là con của thằng T, là cháu của chị. Còn chuyện không phải con của T thì chị biết từ lúc em đẻ rồi, B nhóm máu A trong khi nhà chị là nhóm O, em cũng là O. Tưởng giấu mà được à. 16 năm trước, chị đã hứa với bố mẹ là dù chuyện gì xảy ra, thì chị cũng bảo về gia đình này, bảo vệ thằng T. Giờ em và 2 đứa nhỏ là một phần của gia đình này, một phần của thằng T chị cũng bảo vệ đến cùng. Trời có sập xuống, chị cũng đỡ cho chúng mày. Chuyện này, kết thúc tại đây. Không nghĩ, không nhớ đến nó nữa, giờ nhìn về phía trước sống sao cho tốt thôi.
6 năm trước, chồng mình đã cứu 2 mẹ con mình, cứu danh dự cho cả nhà mình. Đến giờ, chị chồng lại cứu cuộc đời của 2 mẹ con mình lần nữa. Cả đời này mẹ con mình mang ơn chồng và chị chồng. Ơn này sẽ theo mình suốt cuộc đời này…
Tại một quán ăn ở San Jose, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.
Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rơi xuống chiếc cặp của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng, tôi muốn nhảy dựng lên, nộ khí xung thiên. Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì thì đứa con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”.
Cô hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”.
Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch thôi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu.”
Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn.
Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.
Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.
Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, lúc hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự…
Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm và để huấn luyện tính tự lập cho nó, chồng tôi quyết định không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, anh ấy muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn. Khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước. Những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.
Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.
Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.
Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.”… giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.
“Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: “Em gái, em không sao chứ?”
Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: “Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!”
Đối với con, ngay đến cả nửa câu trách móc cũng không có!” Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận, làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ. Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”. Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, rồi từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.
Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”
Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm. Tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…
Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết:
“Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thân thiết của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”
Các bạn thân mến của tôi,
Chúng ta cảm động khi được người khác tha thứ. Điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình. Hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta, sẽ là mỗi ngày hạnh phúc và may mắn!
THA THỨ, không dễ lắm đâu, nhưng hãy cố gắng bạn nhé!
Câu chuyện của tôi thật 100%, xảy ra cách đây 24 năm.
Giữa thời buổi khó khăn, nhà cửa và vàng lên giá với tốc độ không ngờ được thì hai vợ chồng tôi tách khỏi gia đình chồng dẫn dắt hai đứa con thơ đi mua nhà. Sau khi dọn vào nhà mới một tuần, khoảng 5h chiều vợ chồng tôi ngồi bên cửa sổ bàn tính ngân sách gia đình.
-“Chúng ta còn nợ chị Hai… Vậy thì chúng ta sẽ dành trọn lương anh trả nợ dần với lãi 3% một tháng, còn lương em thì lo chi tiêu trong gia đình và lo cho con cái học hành”.
Đến 9h tối, bỗng dưng chúng tôi nghe tiếng gõ cửa. Tôi vội vàng mở cửa cho cô hàng xóm cạnh nhà vào chơi. Sau khi chào hỏi làm quen, cô mở lời:
-“Chị Yến, lúc chiều vợ chồng tôi nghe lén được là anh chị vay của người ta một số tiền với mức lãi suất là 3%. Tôi với anh Năm bàn tính rồi đem qua cho anh chị mượn số tiền này trả lại cho người ta. Chứ làm cô giáo như chị lại nuôi hai con nhỏ làm sao mà trả lãi cho đủ. Chị cứ yên tâm, bao giờ trả cũng được. Tôi không túng thiếu gì và cũng không lấy lãi.”
Vợ chồng tôi cực kỳ ngạc nhiên về việc này, vì người hàng xóm mới mẻ này có biết gì về chúng tôi đâu? Thế nên chúng tôi nhất định từ chối nhiều lần về số tiền mà cô hàng xóm tốt bụng đã đem đến tận nhà cho chúng tôi mượn. Tôi đem số tiền qua nhà trả lại, cô ấy lại đem qua. Làm như thế hơn 3 lần. Chúng tôi đành lòng nhận.
Chúng tôi ở cạnh nhà nhau. Vợ chồng tôi đi làm suốt ngày thì gần như hai đứa con tôi được cả nhà cô ấy chăm sóc rất chu đáo, mặc dù tôi luôn khóa cửa nhưng gia đình vẫn đưa bánh trái thức ăn qua cửa sổ.
Chúng tôi ngại lắm, nên nhiều lúc từ chối vì tôi hiểu được “Bánh sáp đi thì bánh quy lại”, nhưng chúng tôi đang tiết kiệm để trả nợ thì làm sao mà có thể chi tiêu rộng rãi như gia đình hàng xóm được. Tôi thẳng thắn bày tỏ nỗi lòng của mình thì anh hàng xóm nói:
– Chị ơi, sống ở đời mà, người này giúp qua, thì người kia giúp lại. Tính toán so đo làm gì. Chị biết không, ngày xưa, ba tôi đi Việt Minh bị Pháp bắn chết ở cầu sắt Tân An, Long An, không cho lấy xác. Mẹ tôi dắt tôi lúc ấy mới 5 tuổi đầu, đứng xin xác ba tôi đem về chôn, nhưng mẹ không biết nói tiếng Pháp. Đành đứng đó khóc. Bỗng dưng có một người lạ đến xin dùm, rồi còn lấy tàu chở xác ba tôi về quê chôn cất đàng hoàng nữa. Chị xem, bây giờ tôi muốn đền ơn cũng không biết ông ấy ở đâu mà đền ơn cho được. Chỉ biết ông ấy là chủ tàu “Sông Hương” thôi. Mà ngày nay làm gì còn chiếc tàu Sông Hương đó ở Long An.”
Tôi nghe ông hàng xóm kể mà “đầu mọc ốc và tay nổi da gà”. Thế mới biết trời đất sắp xếp thật lạ lùng.
Bạn có tin không? Ông chủ tàu Sông Hương ngày đó chính là người cha đã đẻ và nuôi dậy tôi lớn khôn. Cha tôi lúc làm việc phước đức đó, chắc chắn không nghĩ rằng con của người được cha chôn cất đó lại SẼ ĐỐI XỬ TỐT với con mình.
Một hôm Tô Đông Pha đến chơi chùa, cùng ngồi thiền với nhà sư, trong khi ngồi thiền thấy an lạc xuất hiện. Xả thiền xong, Tô rất vui vẻ hỏi nhà sư:
– Ngài thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì?
– Trông ngài giống như Đức Phật.
Tô nghe thế vui lắm. Thiền sư hỏi lại:
– Thế ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì?
Tô đáp:
– Trông ngài ngồi thiền giống một đống phân bò.
Thiền sư nghe thế cũng hứng chí lắm.
Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về, nghĩ bụng hôm nay ta đã thắng lão hòa thượng đó một phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà không bẻ lại được câu nào cả.
– Muội cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hòa thượng ấy rồi.
Tô ngạc nhiên hỏi thế nào. Tiểu muội đáp:
– Tâm lão hòa thượng là tâm bồ tát, nên thấy huynh cũng giống như Bồ tát. Còn tâm của huynh thì toàn phân bò nên huynh thấy hòa thượng như đống phân bò thôi. Tâm huynh như thế làm sao mà bằng được tâm lão hòa thượng.
Tô đỏ mặt tía tai, xấu hổ với em gái quá.
Trong tâm thức của con người chứa đựng rất nhiều hạt giống. Nếu mình để cho những hạt giống của giận hờn, ganh tỵ, ích kỷ, hơn thua… có cơ hội phát sinh thì mình nhìn đâu cũng thấy “phân bò” hết.
Ngược lại, nếu mình biết nuôi dưỡng và phát triển những hạt giống từ bi, hỷ xả, biết ơn, cảm thông, tha thứ… thì nhìn ai cũng thấy yêu thương.
(ST)
Từ câu chuyện này ta thấy rằng những người tự xưng là tín đồ của bất cứ tôn giáo nào mà lên tiếng chê bai nói xấu các tôn giáo khác thì chúng ta biết rằng họ chẳng phải là người tâm linh công chính,thuần thành
Bí quyết thành công trên đời về cả 2 mặt vật chất và tinh thần là : LÚC NÀO CŨNG NHÌN VÀO MẶT TỐT ĐẸP CỦA MỖI NGƯỜI , BỔ SUNG CHO ĐIỀU TỐT CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ 2 BÊN ĐỀU CÓ LỢI.
TẠI SAO VẬY : VÌ NHÀ AI CŨNG CÓ RÁC, RÁC CỦA MÌNH ĐỔ ĐI CHƯA HẾT, MÀ MANG RÁC CỦA NGƯỜI KHÁC VÀO NHÀ CỦA MÌNH THÌ CÓ BỊ HÔI THỐI RÁNG MÀ CHỊU KHÔNG NÊN TRÁCH MÓC AI CẢ