


Tin Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ và ở Việt Nam



Tối hôm qua 30/05/2020, biểu tình, đụng độ với cảnh sát đã xảy ra tại nhiều thành phố Mỹ. Tổng thống Donald Trump và lãnh đạo đối lập lên án bạo động.
Biểu tình lớn diễn ra tại Minneapolis, New York, Philadelphia, Los Angeles, Atlanta…. Nhiều cuộc tập hợp phản kháng tại Dallas, Las Vegas, Seattle, Memphis… Tại New York, hơn 200 người bị câu lưu sau các đụng độ dữ dội khiến nhiều cảnh sát bị thương. Tại Atlanta, nhiều xe tuần tra của cảnh sát bị đốt. Tại Los Angeles, 5 cảnh sát bị thương, hàng trăm người bị câu lưu, sau khi một cuộc biểu tình ôn hoà biến thành bạo động, với nhiều cửa hàng bị đốt cháy, cướp phá. Biểu tình
Bạo động đặc biệt dữ dội tại Minneapolis, tiểu bang Minnesota, nơi công dân Mỹ gốc Phi 46 tuổi tử vong khi bị cảnh sát bắt giữ, hôm thứ Hai. Phóng viên AFP có mặt trực tiếp tại thành phố này cho hay, cảnh sát chống bạo động đã giải tán người biểu tình với hơi cay và lựu đạn gây choáng, khi người biểu tình tấn công một trụ sở cảnh sát.
Khắp nơi người biểu tình lên án cảnh sát hành hung người da đen với mức độ bạo lực quá mức.
Thống đốc tiểu bang Minnesota, Tim Walz, lo ngại một đêm bạo lực nữa xảy ra, đã cảnh báo là người biểu tình sẽ rơi vào « tình trạng rất nguy hiểm », nếu họ tiếp tục phi phạm lệnh thiết quân luật. Chính quyền cho biết, cho đến nay, lực lượng cảnh sát vũ trang chưa trực tiếp tham gia trấn áp, một phần do không muốn làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, phần khác do quân số không đủ (hôm thứ Sáu 29/05, 2.500 cảnh sát và lực lượng chống bạo động được huy động, nhưng không đủ để kiểm soát tình hình). Theo thống đốc Tim Walz, tham gia vào các bạo động đốt phá có nhiều thành phần thuộc « các băng đảng buôn lậu ma tuý», « các nhóm chủ trương chủng tộc da trắng thượng đẳng ».
Theo AFP, thống đốc Minnesota cho biết đã huy động 13.000 binh sĩ thuộc lực lượng cảnh sát chống bạo động quốc gia, và yêu cầu Quân Đội can thiệp. Bộ Quốc Phòng Mỹ cho biết, lực lượng cảnh sát vũ trang sẽ có mặt tại chỗ trong những giờ tới.
Tổng thống Mỹ Donald Trump, nhiều lần lên án kẻ gây ra cái chết bi thảm của George Floyd, hôm qua hứa hẹn sẽ chấm dứt « tình trạng bạo lực tập thể ». Ông Trump lên án các phần tử côn đồ phá phách. Ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ Joe Biden hôm nay cũng lên án bạo lực, ông nói : « Biểu tình chống bạo lực cảnh sát là quyền của người dân và là điều cần thiết, nhưng các hành động đốt phá… như vậy không phải là giải pháp ».

“TÔI CÓ MẶT LÀ ĐỂ CHIẾN THẮNG”!
Donald J. Trump.
* “Obama – Biden chính là lý do khiến tôi phải có mặt tại Tòa Bạch Cung”
* “Tại sao tôi gọi Trung cộng là kẻ thù?” (Donald Trump)
Cần nhắc lại khởi nguồn của việc Donald Trump tranh cử Tổng thống hồi năm 2016. Trong nhiều năm ông chí thú trong công việc kinh doanh, “Tôi không nuôi ý định trở thành Tổng thống, tôi yêu công việc kinh doanh. Và tôi đã thay đổi quyết định chỉ vì tôi thấy nước Mỹ đang ngày càng xuống dốc”, ông Trump nói. Ông kinh ngạc nước Mỹ dưới mấy trào tổng thống tiền nhiệm, nhứt là trào Obama vì sao lại đẩy nước Mỹ ngày càng suy yếu, lý do nào khiến Obama tệ hại một cách trâng tráo, rất dẻo miệng để trù quến những “useful idiots”? Và ông Trump phẫn nộ.
Ông quyết định tranh cử Tổng thống, và ngay trong lần đầu tiên nghía mắt tới sân khấu chính trị, Donald Trump thắng cử!
I/ “Cái quái gì đang xảy ra ở nước Mỹ?”
Trong suốt nhiều thập niên, Donald Trump đã chứng kiến nước Mỹ bị “xé toạc”, ngày càng lao xuống dốc, một nước Mỹ chìm trong thảm họa suy thoái kinh tế bởi những những kẻ bóc lột tiền thuế của dân, nạn khủng bố hoành hành, và đáng sợ hơn cả là: những kẻ cầm quyền đang cố HỦY HOẠI NƯỚC MỸ TỪ BÊN TRONG.
Bất động sản là đam mê mà Donald Trump theo đuổi, nhưng rồi ông nhận ra mảnh đất lớn nhất, vĩ đại nhất nơi mà ông và người dân thuộc về, là: Nước Mỹ!
Đó là lý do khiến ông bước ra tranh cử, bởi vì ông hiểu rằng, chỉ ở địa vị của một Tổng thống, ông mới có thể giúp được đất nước này nhiều nhất, làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại.
II/ Phải cắt đứt mưu đồ nối dài “học thuyết Obama”!
Donald Trump bước vào chánh trường với di sản đổ nát của Barack Hussein Obama để lại. Ông Trump nói:
“Trong hoạt động kinh doanh, ngày nào tôi cũng thấy nước Mỹ bị cắt cổ và ngược đãi. Chúng ta đã và đang trở thành một trò hề, một kẻ chịu tội thay cho toàn thế giới, bị đổ lỗi tất thảy mọi thứ, chẳng được công nhận công trạng và cũng chẳng nhận được sự tôn trọng nào. Chúng ta là đối tượng để cười nhạo khắp nơi trên thế giới”.
Donald Trump kinh ngạc nhận thấy chính quyền Obama đã để mặc cho Trung cộng tràn sang và đổ đống hàng hóa… “Họ đang xẻ thịt chúng ta.” Obama đã làm một việc không thể tin nổi: đó là Obama giúp tái thiết Trung cộng thay vì tái thiết nước Mỹ!
“Tôi từng bị lên án vì dám gọi Trung cộng là “kẻ thù” của nước Mỹ. Song, liệu bạn có thể gọi những kẻ đang hủy hoại tương lai con cháu mình bằng từ nào khác? Bạn muốn tôi dùng cái mỹ từ nào cho những kẻ đang ra sức đẩy đất nước ta vào nguy cơ phá sản, cướp việc làm của ta, do thám hòng ăn cắp công nghệ của ta, và hủy hoại lối sống của ta?”
Đến cuối năm 2016, kết thúc thời gian làm Tổng thống, Barack Hussein Obama làm tăng nợ quốc gia của Mỹ tới mức 20 ngàn tỷ đô la, ngang với toàn bộ số nợ của tất cả các đời tổng thống tiền nhiệm cộng lại!
Và, năm nào dưới thời Obama, nước Mỹ cũng bị tấn công khủng bố. Vậy mà trong suốt thời gian cầm quyền, Obama ngăn cản sử dụng cụm từ “chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan” để nói về thủ phạm.
III/ NƯỚC MỸ PHẢI CHIẾN THẮNG
TT Donald Trump nói, “Chúng ta đang có những kẻ chẳng ra gì, những kẻ đang bán rẻ đất nước”! Obama cùng phe cánh tả sắp đặt một âm mưu nhằm lật đổ Tổng thống Trump được bầu hợp pháp. Đây sẽ là bê bối chính trị lớn nhất trong lịch sử Mỹ – mà không ai khác, chính Tổng thống Donald Trump có trách nhiệm phải phơi bày vụ bê bối Obamagate.
“Tôi yêu nước Mỹ. Tôi đau buồn trước những gì mắt mình nhìn thấy đang xảy ra trên nước Mỹ. Obama là một thí nghiệm cánh tả thất bại khủng khiếp! Tương lai của con em chúng ta đang nguy nan, và chúng ta phải làm những việc cần làm vì chúng. Chúng ta phải cứng rắn để nước Mỹ vĩ đại trở lại” – ông Trump nói. Hơn nữa, phải luôn giữ nước Mỹ vĩ đại.
Một điều cần phải nhớ về Donald Trump là: ông ấy thích chiến thắng. TT Trump sẽ vực dậy nước Mỹ trong cuộc chiến với Trung cộng sau đại dịch virus Vũ Hán, như ông đã từng làm như vậy 3 năm trước đây.
Những gì người dân có thể nhận ra trong 3 năm đó, là: TT Trump luôn LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ ÔNG NÓI, và nhiều hơn vậy nữa.
Nguyễn- Chương Mt.



Nghệ sĩ Kim Cương là Việt Cộng nằm vùng
Trúc Giang MN (Danlambao) – Trước kia dư luận đồn đoán nào là Kim Cương là thượng tá công an Việt Cộng, nào là Kim Cương là Việt Cộng Nằm Vùng, nhưng không có nhân chứng trung thực, khách quan. Một nhân chứng là nghệ sĩ thân cận của Kim Cương, thuật lại những chi tiết trong việc trả lời phỏng vấn của nhạc sĩ Tuấn Khanh, xác nhận những đồn đoán trước kia là chính xác. Nhân chứng trung thực đó là nghệ sĩ Kim Tuyến.
Nghệ sĩ Kim Tuyến trả lời phỏng vấn của nhạc sĩ Tuấn Khanh
“Kim Cương là Việt Cộng nằm vùng đã giúp cho cộng sản cướp đoạt miền Nam, áp bức bóc lột người dân, đưa đất nước đến chỗ sắp bị diệt vong, mà sao lại dám nói là mình yêu nước?”.(Nghệ sĩ Kim Tuyến)
Trả lời phỏng vấn của nhạc sĩ Tuấn Khanh, nghệ sĩ Kim Tuyến tường thuật như sau:
“Sau ngày 30-4-1975, đài phát thanh kêu gọi quân, cán chính phải đến trình diện tại nhiệm sở của mình. Tôi đến trình diện tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
Sau đó, đến họp tại Hội Nghệ Sĩ. Rất đông các cô chú và anh chị nghệ sĩ tân cổ, tụ tập bên hông trụ sở và phía sân sau. Khi thấy tôi và nghệ sĩ Tùng Lâm ngồi trò chuyện, chị Kim Cương ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi nói “Chị ơi em buồn quá”. Chị Kim Cương kéo đầu tôi ngã vào vai chị, một tay vuốt tóc vỗ về: “Đừng buồn em, chị em mình rồi sẽ được giải phóng ra khỏi bốn bức tường”. Tôi sững sờ nhìn chú Tùng Lâm.
Chị Kim Cương nói lớn “Mọi người vào trong, đến giờ họp rồi. Chị nắm tay tôi, kéo tôi theo chị vào phòng họp. Chị ngồi vào đầu bàn chủ tọa. Chị dõng dạc tuyên bố: “Ngày xưa bọn Thiệu Kỳ bán nước còn hiện diện trên quê hương ta, tôi phải núp dưới danh nghĩa Làng Cô Nhi Long Thành. Hôm nay chúng ta đã đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Tôi ra lệnh cho anh Nguyễn Đức (nhạc sĩ) lập những tiểu tổ để chúng ta thành lập Biệt Đội Văn Nghệ…”. Chú Tùng Lâm nghiêng đầu nói nhỏ vào tai tôi: “Tuyến, khóc nữa đi con, mầy khóc nữa đi con”.
Tôi thất vọng não nề. Trong khi chị Kim Cương thao thao bất tuyệt, tôi không còn nghe hay không muốn nghe gì nữa cả. Trời ơi, thần tượng sụp đổ! Kim Cương là Việt Cộng nằm vùng, đã giúp cho cộng sản cướp đoạt miền Nam, áp bức bóc lột người dân, đưa đất nước đến chỗ sắp bị diệt vong, mà sao lại dám nói là mình yêu nước?.
Kim Cương và làng Cô Nhi Long Thành
Theo hồi ký của KALE (Lê Anh Kiệt) “17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo”, một chức sắc của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, thuật lại như sau:
“Từ 1968 đến 1971, một tên Việt Cộng tên là Tư Sự núp dưới lốt áo tăng lữ Phật Giáo đã sáng lập và điều hành cái gọi là “Làng Cô Nhi”. Hắn ta dùng cô nhi để quyên tiền cho VC, nhất là tiền của các tổ chức từ thiện nước ngoài. Hắn cùng đồng bọn chứa vũ khí để chống lại bất cứ ai có ý định xâm nhập vào làng. Trong giai đoạn này, chính quyền Nam Việt Nam đã rất khó khăn để giải quyết tình hình. Nếu tấn công vào “Làng” thì có nghĩa là chính quyền đã tấn công trẻ con. Nếu không thì càng lúc càng nguy hiểm cho chính quyền.
Có một lần tôi đã đến Làng Cô Nhi dưới danh nghĩa là phóng viên của nhật báo “The Saigon Post”. Trẻ con đầu trọc, chân đất, phải làm việc trên cánh đồng dưới nắng nóng của mặt trời, và chúng chỉ được ăn chay vào mỗi bữa ăn trưa theo như quy định của tăng lữ Phật Giáo”.
Kim Cương về Làng Cô Nhi Long Thành tức là về cái ổ Việt Cộng để được đồng chí Tư Sự bảo vệ. Điều nầy cũng chứng tỏ Kim Cương là “Việt Cộng Nằm Vùng”.
Dư luận cho rằng Kim Cương đã được Việt Cộng móc nối trong những lần lưu diễn với GS Trần Văn Khê ở Pháp và hải ngoại. Chính Nguyễn Thị Bình đã móc nối Kim Cương trong khi bà Bình dự Hội đàm Paris thời gian 1968-1973.
Những chi tiết xác định Kim Cương tích cực phục vụ Việt Cộng
– Kim Cương được ban thưởng danh hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân: Muốn đạt được danh hiệu nầy phải có danh hiệu Nghệ Sĩ Ưu Tú. Thành tích và điều kiện:
Nghệ Sĩ Nhân Dân là danh hiệu cao nhất do Nhà nước trao tặng.
– Kim Cương được đưa vào làm ủy viên Mặt Trận Tổ Quốc: Kim Cương được cho vào làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) khóa VII. Ủy viên Văn hóa Xã hội của MTTQ nhiệm kỳ 2009-2014.
Vài nét về tiểu sử Kim Cương
Tên thật: Nguyễn Thị Kim Cương
Sinh ngày: 25 tháng 1 năm 1937
Tên cha: Nguyễn Phước Cương (bầu gánh Đại Phước Cương)
Tên mẹ: Nguyễn Thị Nam (Nghệ sĩ Bảy Nam)
Tôn giáo: Phật giáo, Pháp danh: Từ Huệ
Kim Cương thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn, là cháu nội của vua Thành Thái.
Mối tình 40 năm của thi sĩ điên khùng Bùi Giáng đối với nghệ sĩ Kim Cương
Thi sĩ Bùi Giáng
Trong hồi ký, Kim Cương thuật lại: Tôi gặp ông lần đầu lúc 19 tuổi, thời còn theo đoàn cải lương của má. Thật ra, ông chú ý đến tôi trong đám cưới của đôi bạn Hạnh-Thùy.
Một hôm Thùy bảo tôi: “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”. Tôi trả lời: “Ừ, thì mời ổng tới”.
Hóa ra là ông, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có bất cần đời như sau này. Ông thường lui tới nhà tôi chơi, vài lần mời tôi đi uống cà phê nhưng nhất định phải đi bằng xe đạp do ông chở, chứ không chịu đi bằng bất cứ phương tiện nào khác.
Một hôm ông trịnh trọng cầu hôn tôi. Tôi thấy thái độ của ông không được bình thường nên tôi đều né tránh.
Vài lần sau, ông thở dài nói với tôi: “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô, vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”.
Tôi ngần ngừ: “Thưa ông, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng hay…”.
Tưởng ông nói chơi, ai dè làm thiệt. Ông đùng đùng dắt ngay đứa cháu tới, mà đứa cháu đó chỉ… mới 8 tuổi.
Thời gian qua, thỉnh thoảng ông vẫn ghé thăm tôi. Mặc kệ tôi đang yêu ai, đang thất tình ra sao, thậm chí đang sống chồng vợ với người nào, ông đều không quan tâm.
…
Trong những lúc ông điên nhất, quên nhất, không còn lưu lại một chút gì trong trí nhớ, kể cả thơ ca và kiến thức, nhưng tên tôi vẫn được ông gìn giữ. Tên tôi được ông gọi đi gọi lại bất cứ khi vui khi buồn, bất cứ khi hạnh phúc, khi đau đớn.
Chưa một lần nào ông sàm sỡ bằng hành động hay lời nói. Xưng hô vẫn cứ tôi và cô một cách nghiêm túc và chững chạc. Một tình cảm xuất phát thật hồn nhiên, bản năng và vô điều kiện.
Trong đầu ông hình như chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất – đó là địa chỉ và số điện thoại nhà của tôi.
Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay làm “chim bay, cò bay” la hét làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu: “Mẫu thân của tôi là Kim Cương, nhà ở số…đường Hoàng Diệu, điện thoại 844…”.
Thế là công an réo gọi tôi để đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông té bị thương, người ta chở vô bịnh viện, ông cũng chỉ “khai báo” y như vậy.
Bịnh viện lại réo tôi đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vào quậy cả đám cưới nhà người ta, tôi bị người ta gọi điện đến đưa ông về.
Thậm chí có một buổi, ông xuất hiện trước nhà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh. Tôi hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu nhưng ông không chịu.
Ông nói: “Chừng nào cô chịu đi chung trên một chiếc xích lô với tôi thì tôi mới đi”. Tôi đành phải gọi một chiếc xích lô đi cùng ông, vừa ngồi xe vừa nghe ông nói chuyện trên trời dưới đất không một cảm giác đau đớn nào. Những lúc tỉnh táo, ông nói với tôi: “Cô nhơn hậu lắm cô mới chịu nói chuyện với tôi tới giờ này!”.
Như là một định mệnh
Kim Cương đã chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Bùi Giáng. Câu chuyện tình đơn phương này có một cái gì đó như định mệnh, như một biểu tượng đẹp, buồn và xót xa. Đối với Bùi Giáng, Kim Cương là “thiên hạ đệ nhất mỹ nhân”. Và chàng thi sĩ trung niên đã yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng, cảm động.
Kim Cương cho biết: “Tôi rất trân trọng tài năng của ông nhưng phải nói thật, là ông điên rất nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc. Suốt 40 năm ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, nhưng ngược lại tôi đối với ông như một chỗ dựa tinh thần. Bất cứ lúc nào, nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt”.
Tháng 8 năm 1998, Bùi Giáng bị té gây chấn thương sọ não. Ngày 7-10-1998 qua đời tại Sài Gòn.
Bên linh cửu của Bùi Giáng, Kim Cương thưa rằng: “Tôi xin cám ơn anh ba điều. Một là cám ơn anh đã để lại cho đời những tác phẩm văn chương độc đáo. Thứ hai là cám ơn anh đã dành cho tôi một tình yêu suốt 40 năm không suy suyển, không so đo tính toán. Thứ ba là cám ơn anh đã cho tôi một bài học rằng dù bất cứ ai, dẫu điên hay tỉnh, giàu hay nghèo đều phải có một tình yêu để nương tựa… Đối với ông, tôi nâng niu trong lòng một ân tình sâu thẳm, rất trang trọng dành riêng cho ông.”
Kết luận
Dưới chế độ độc tài, tham nhũng và 10 năm nghèo đói, ăn bo bo dài dài, khiến cho những người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản sáng mắt ra. Tự xấu hổ với lương tâm. Có lẽ người nghệ sĩ Việt Cộng nằm vùng nầy cũng thuộc về diện đó, nên đã chuyển hướng, làm công tác từ thiện.
Nói đến Kim Cương thì không thể quên thi sĩ Bùi Giáng. Bùi Giáng là một nhà thơ có tài, nhưng lối sống không bình thường nên người ta gọi là khùng, điên.
Mà khùng thật, vì đã theo đuổi một mối tình đơn phương suốt 40 năm, trường kỳ chinh phục mà đối tượng không đáp ứng, xem như chỉ thương hại mà thôi. Có lẽ trong thành phần văn, thi sĩ chưa có một cuộc tình đặc biệt nào như thế.
30.05.2020
THÀNH QUẢ CỦA NHỮNG PHU NHÂN SINH QUÁN NƯỚC NGOÀI: JACKIE BONG WRIGHT
Posted on May 28, 2020 by TamAn
LTS: Nhiều phụ nữ Việt (hay gốc Việt) qua những hoạt động tích cực về Xã hội, Văn hóa… đã gây tiếng tốt trong cộng đồng hải ngoại. Giới thiệu bài viết của tác giả Sheila Switzer về bà Jackie Bông Wright: “Tôi luôn cảm phục Jackie vì sự làm việc quên mình của chị ấy trong nhiều lãnh vực cho nhiều người, địa phương cũng như trên toàn thế giới. Tôi yêu mến và tôn trọng Jackie và tất cả các bạn đã, với niềm tự hào, thay mặt nước Mỹ và xứ sở nguồn cội của các bạn. Các bạn như một bó hoa đẹp, lạ đến từ khắp nơi trên thế giới. Cám ơn các chị em phụ nữ, và cám ơn tất cả…”
Người phụ nữ này cũng đã thay mặt Họp Mặt Dân Chủ (HMDC) tổ chức thành công Hội thảo Quốc tế (Symposium) „Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam“ tại Văn khố Quốc gia Hoa Kỳ, Washington DC, ngày 14.09.2018.
TT
*****
Thành Quả Của Những Phu Nhân Sinh Quán Nước Ngoài:
Jackie Bong Wright
Association of American Foreign Service Women (AAFSW)
Foreign-Born Spouses (FBS)
By Sheila Switzer
Người dịch: Mai Trân
Tôi luôn tự hào để chia sẻ cùng quý vị công việc tuyệt vời mà hội AAFSW/Foreign Born Spouses thực hiện trên thế giới. Tôi muốn ghi đậm công việc đáng kể của một trong những hội viên của chúng tôi đang làm trong thời gian khó khăn hiện nay khi tất cả chúng ta phải đối mặt với dịch bệnh COVID-19.
Đã nhiều năm tôi được hân hạnh gặp Jackie Bông Wright, gốc Việt Nam, tham gia nhóm AAFSW/FBS của chúng tôi. Tôi làm việc cùng chị ấy trong nhiều chương trình có tầm ảnh hưởng lớn, chẳng hạn như bài thuyết trình mạnh mẽ chị trình bày cho hội AAFSW về “Nạn Buôn Người.” Hai chúng tôi tổ chức một buổi Trình diễn Thời trang với những hội viên của nhóm FBS, mỗi người trình diễn y phục của nước mình để giúp Jackie trong công việc đáng làm này.
Tôi luôn cảm phục Jackie vì sự làm việc quên mình của chị ấy trong nhiều lãnh vực cho nhiều người, địa phương cũng như trên toàn thế giới. Tôi yêu mến và tôn trọng Jackie và tất cả các bạn đã, với niềm tự hào, thay mặt nước Mỹ và xứ sở nguồn cội của các bạn. Các bạn như một bó hoa đẹp, lạ đến từ khắp nơi trên thế giới. Cám ơn các chị em phụ nữ, và cám ơn tất cả đã giữ liên lạc với tôi. Chúc mọi người khỏe mạnh và an toàn.
Jackie đến Mỹ tháng Tư 1975 sau khi Miền Bắc Việt Nam Cộng Sản chiếm Miền Nam Việt Nam. Là một goá phụ với ba con nhỏ dưới 10 tuổi, chị đã tranh đấu và vượt qua khó khăn để làm lại cuộc đời mới ở vùng Hoa Thịnh Đốn. Năm 1976, chị lập gia đình với một nhà Ngoại Giao Mỹ chị quen biết từ khi còn ở Saigon, và theo chồng đến nhiều quốc gia Âu Châu, Á Châu, các đảo Caribbean, cuối cùng đi hơn 17 năm nước ngoài trong 44 năm chung sống. Ngày trước, Jackie học tiểu học và trung học ở trường Pháp tại Việt Nam. Từ khi còn là thiếu nữ, chị đã được các bà sơ thầy của chị khuyến khích dạy các trẻ mù chữ và giúp đỡ người bệnh ở nhà thương vào cuối tuần. Sau khi học đại học ở Pháp chị trở về Saigon năm 1963.
Chị lập gia đình với ông Nguyễn Văn Bông, giáo sư Luật Khoa Chính Trị Học và Hiến Pháp tại Đại Học Luật Khoa Saigon và Giám Đốc Viện Đại Học Quốc Gia Hành Chánh Nam Việt Nam. Sau đó, ông thiết lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, một đảng đối lập chống cộng, ủng hộ dân chủ và chống tham nhũng. Jackie dạy Pháp văn ở Alliance Francaise và tiếp tục công việc giúp đỡ các trẻ em nghèo cần trợ giúp. Giữa lúc Chiến Tranh Việt Nam sôi động, giáo sư Bông nhận chức vụ thủ tướng theo lời mời của Tổng Thống Thiệu và lập chính phủ liên hiệp. Nhưng ngay ngày hôm sau, 10 tháng Mười Một, 1971, giáo sư bị Việt Cộng ám sát. Goá bụa ở tuổi 30, Jackie lãnh trách nhiệm nuôi hai con trai và gái song sinh bảy tuổi và con trai út 5 tuổi.
Hai tháng sau, chị bỏ việc dạy Pháp văn, và trở thành Giám Đốc Văn Hoá Hội Việt Mỹ (VAA,) một trung tâm song ngữ dưới sự bảo trợ của USIS (U.S. Information Services) ở Saigon. Nơi đây, chị tổ chức những buổi thuyết trình, hội nghị, hòa nhạc, triễn lãm, và các lớp dạy nghề. Trong thời gian này, chị cũng hỗ trợ các hội phụ nữ. Phụ nữ thời đó có từ năm đến tám đứa con họ nuôi không nổi. Những góa phụ mà người chồng bỏ mình nơi trận mạc có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Qua Hội Phụ Nữ Việt Nam, chị Jackie đã giúp kêu gọi các chủ nhân trả thêm hai tuần lương cho những phụ nữ còn ở nhà nuôi con sau thời kỳ sinh sản. Trong một nỗ lực phi thường, chị ủng hộ chương trình kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt quan trọng, vì lựa chọn khác là phá thai, đang lan tràn và nguy hiểm. Năm 1973, chị và nhóm của chị vận động hành lang với Ủy Ban Y Tế Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà để thay đổi một luật cũ có từ thời thuộc địa, cho một luật mới hầu cho phép dùng thuốc ngừa thai như một phương cách trong kế hoạch hóa gia đình. Luật mới dù bị chống đối kịch liệt và cá nhân chị bị chỉ trích nặng nề, được thông qua và thi hành năm 1974.
Một giai đoạn mới của chiến tranh Việt Nam bắt đầu năm 1973 với Hòa Đàm Ba Lê, cho phép Bắc Việt Cộng Sản được cầm súng ở lại miền nam chiến đấu làm Nam Việt Nam sụp đổ vì Hoa Kỳ cúp viện trợ cho Miền Nam vào tháng Tư năm 1975. Jackie đang làm việc trong một cơ quan Mỹ khi đó, không có lựa chọn nào khác hơn là ra đi. Chị và các con đã qua ba trại tỵ nạn, ngủ trên ghế bố vải trong lều ở Phi Luật Tân, Guam, và Trại Pendleton, California. Cuối cùng cả gia đình được ông Sanford McDonnell, Chủ Tịch công ty McDonnell Douglas Aircraft từng quen biết Jackie trong một chuyến thăm viếng Việt Nam năm 1966, bảo trợ và chị cùng các con đã về sống với gia đình của ông ta ở St. Louis ba tháng.
Đại Sứ Ellsworth Bunker, một người bạn thân của vợ chồng Jackie trong sáu năm ông làm việc ở Việt Nam khuyên chị dời về Hoa Thịnh Đốn, nơi có nhiều bạn bè của chị sinh sống. Hai trong số bạn bè của chị dành cho chị một căn nhà ở Alexandria, Virginia, và Jackie cùng các con dọn về đó vào mùa thu năm 1975. Jackie đi làm ở Lacaze Gardner School ở Hoa Thịnh Đốn, nơi đây chị giúp nhóm người tỵ nạn Việt Nam đầu tiên học nghề mới như kế toán, dịch vụ thư ký, bấm thẻ điện tử, sửa máy truyền thanh và truyền hình. Sau khi họ tốt nghiệp, chị giúp họ tìm được việc làm. Một năm sau, chị lập gia đình với Lacy Wright, một viên chức ngoại giao và cùng chồng chị bắt đầu công việc ngoại giao đầu tiên, tại Tổng Lãnh Sự Quán Mỹ ở Milan, Ý Đại Lợi. Năm 1978, họ trở về Virginia, định cư lần này ở Falls Church.
Khi ấy đang giữa cuộc khủng hoảng thuyền nhân tỵ nạn. Hàng trăm ngàn ngưòi Việt, Khmer, và Lào đến các trại tỵ nạn ở Hong Kong, Indonesia, Mã Lai và Thái Lan. Jackie chung tay với Hội Phụ Nữ Thái Bình Dương Á Mỹ (Asian Pacific American Women), Pan Asia, vận động hành lang với Quốc Hội Mỹ giúp đỡ và tái định cư nhiều người trong số này. Nhiều ngàn người đã đến vùng Hoa Thịnh Đốn trong làn sóng tỵ nạn thứ hai này. Jackie đến làm việc với Sở Xã Hội ở Quận Fairfax, rồi đến Alexandria City, giúp thuyền nhân ở Virginia tư lực cánh sinh. Một năm sau, Jackie thiết lập Dịch Vụ Xã Hội Tỵ Nạn Đông Dương IRSS (Indochinese Refugees Social Services), một hội phi vụ lợi, và mở nhà tạm trú cho những người, trong dự án lớn chuyển tiếp khó khăn, đã bị bỏ quên. Chị tổ chức lớp huấn nghệ dạy làm vệ sinh nhà cửa, làm vườn, sửa ống nước, và xây cất mà những chủ nhân địa phương cần tới.
Một kết quả không định trước sau 5 năm làm công việc khiêm nhượng nhưng sáng giá này đã đưa Jackie ra khỏi sụ trầm cảm của chính mình. Từng đau khổ sống đời góa bụa, mất quê hương, mất nhà và nếp sống cũ, lòng tự trọng và tên tuổi bị tổn thương trầm trọng, chị nhận thấy những người khác cũng đau khổ như mình có khi còn hơn mình, chị tìm an ủi và sức mạnh trong công việc giúp đỡ họ vượt qua những thử thách đã từng làm đảo lộn cuộc đời chị. Chị tri ân gương sống của những người tỵ nạn ít học, ít tài và không tiền, nhưng kiên cường và sẵn lòng làm lại từ đầu bằng những công việc nhỏ mọn để sống còn. Chị cũng rất phấn chấn thấy thái độ cởi mở đón nhận người tỵ nạn của nhiều gia đình Mỹ.
Mặc dù lòng từ bi sau những năm dài mệt mỏi cùng những dèm pha chỉ trích từ một vài phía, chuyện tỵ nạn chung cuộc là một sự thành công. Những người tỵ nạn dần dần thiết lập được một mạng lưới hội đoàn trợ giúp nhau trong toàn quốc. Họ lập nhà hàng ăn, tiệm làm móng tay, dịch vụ vệ sinh và làm vườn, làm công việc xây cất và rắp láp dây chuyền trong các hãng xưởng. Ở một mức cao hơn, nhiều người trở thành bác sĩ, dược sĩ, luật sư, và nhà giáo. Con cái họ, không biết một tiếng Anh nào lúc khởi đầu, trở thành học trò đứng nhất lớp. Jackie nhận ra rằng làm việc trong cộng đồng của mình, giống như cá sống trong nước, là liệu pháp tốt nhất và là phương cách chắc chắn nhất để chị phục hồi cân bằng của mình. Chậm rãi và an toàn, chị đã tìm lại được bình an cho mình.
Ở tuổi 41, Jackie quyết định đi học lại. Chị ghi danh ở Đại Học Georgetown và vào năm 1984, đậu bằng Cao Học về Bang Giao Quốc Tế. Và từ năm 1985 đến 1997, chị theo chồng tới những nhiệm sở nước ngoài, nơi đó chị làm việc bán thời gian cho sứ quán Mỹ với tư cách viên chức liên lạc cộng đồng (CLO – Community Liaison Office) và trợ lý pháp lý lãnh sự quán, phỏng vấn những người xin chiếu khán. Chị cũng gây quỹ huấn nghệ cho những phụ nữ kém may mắn và làm việc giúp đỡ trẻ em thiếu dinh dưỡng trong những hoạt động xã hội và giáo dục. Vì công việc này, chị đuợc Thị Trưởng thành phố Kingston, Jamaica, trao tặng Chìa Khóa Danh Dự của Thành Phố năm 1995, người thứ hai được vinh dự này sau Đại Tướng Colin Powell có cha mẹ là người Jamaica.
Nhiệm sở cuối cùng của Jackie trước khi ông xã nghỉ hưu là Ba Tây. Từ Brasilia, chị xem đài CNN về chuyến thăm Việt Nam của Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, đi Hà Nội xin lỗi Đại Tướng Võ Nguyên Giáp vì nước Mỹ đã tham gia “một cuộc chiến sai lầm.” Jackie muốn hỏi ông Bộ Trưởng, có phải 58.000 lính Mỹ và hàng triệu người Việt từ Bắc chí Nam đã chết một cách vô ích trong thời chiến tranh khi ông tại chức? Bóng ma của Chiến Tranh Việt Nam trở lại với Jackie, không phải những cơn ác mộng, mà là một cuốn phim sống động quay từ từ trong óc chị. Giữa đêm khuya hôm đó, chị mở máy vi tính và bắt đầu viết.
Kết quả là, hai năm sau, quyển Autumn Cloud: From War Widow to American Activist, phát hành năm 2001. Sách kể lại bốn thế hệ của gia đình Jackie qua bốn cuộc chiến: một ngàn năm đô hộ Tàu, một trăm năm thuộc địa Pháp, 5 năm bị Nhật chiếm đóng, và 10 năm quân đội Miền Nam Việt Nam và Mỹ bảo vệ xứ sở chống lại Bắc Việt Nam. Trải nghiệm của chính chị, trong và sau cuộc chiến, là trung tâm điểm của quyển sách. Quay lại Virginia mùa thu năm 1997, Jackie nêu lên vấn đề của nạn buôn người, được khơi dậy từ một mẩu tin trên eBay tìm khách mua các cô gái trẻ Việt Nam với giá $4.500 Mk mỗi cô. Chị bắt đầu vận động hành lang Quốc Hội Mỹ và chung tay với Bộ Ngoại Giao Mỹ về Nạn Buôn Người để họ làm việc với chính phủ Việt Nam hầu truy tố bọn buôn người cũng như để bảo vệ những công nhân Việt Nam bị gởi ra nước ngoài làm việc như nô lệ và bị nô lệ tình dục. Như một phần trong nỗ lực này, Jackie thấy cần nói lên việc chính phủ Việt Nam xuất cảng lao động sang nước ngoài, những công nhân này cuối cùng bị bóc lột sức lao động trong các xưởng may dài giờ, các nhà chứa gái điếm, và những vấn đề liên quan của “cô dâu” bán cho đàn ông Đài Loan, Trung Quốc, Mã Lai, và Thái Lan. Nạn buôn người khi đó được nhìn nhận như một phần của doanh nghiệp tội ác lớn thứ ba trên thế giới, sau ma túy và khí giới. Jackie tổ chức hội nghị về nạn buôn người tại ThượngViện Mỹ và tại các trường đại học tại California và Pennsylvania, mời chuyên gia, viên chức địa phương, hội đoàn cộng đồng, và cơ quan truyền thông để nâng cao nhận thức về dịch tội ác đang ảnh hưởng không những đến Việt Nam mà còn đến toàn thế giới.
Để tìm hỗ trợ cho nỗ lực chống nạn buôn người, Jackie cũng đặt tiêu điểm vào cộng đồng Á Mỹ của mình. Chị bắt đầu viết bài cho báo Asian Fortune News trong Hoa Thịnh Đốn, trở thành nhà binh luận cho một dài truyền thanh Viêt Nam, và nói chuyện trên đài truyền hình Vietnamese American Television (VATV) và Saigon Broadcasting TV Network (SBTN-DC). Sau ngày 9/11, Jackie tham gia dự án ở Virginia do FEMA tài trợ để cung cấp tư vấn cho người Việt Nam trực tiếp hoặc gián tiếp bị ảnh hưởng vì đại nạn này. Một năm sau, để giúp sức mạnh và giúp tiếng nói cho người Mỹ gốc Việt đã thành công trong sự nghiệp và kinh doanh, chị thành lập Hội Cử Tri Việt Mỹ (Vietnamese-American Voters’ Association).
Với sự giúp đỡ của những người tình nguyện, chị ghi tên cử tri tại các trung tâm mua bán, trường học, và những nơi hội họp của người Việt. Năm 2003, tạp chí Washingtonian vinh danh chị là Washingtonian of the Year vì chị đã ghi tên được 4.000 cử tri mới trong hai năm liên tiếp. Đại Hội Đồng Quốc Hội tiểu bang Virginia, đã hai lần vinh danh chị bằng văn bản nhìn nhận việc làm xuất chúng của chị trong những dịch vụ xã hội và hoạt động chống nạn buôn người. Nhà phát hành tạp chí Asian Fortune News yêu cầu chị viết bài về Lễ Trao Giải Thưởng Olympics của Người Cao Tuổi ở Falls Church, Virginia. Tại đó chị đã gặp gỡ một nhóm người cao tuổi, thành viên của một cuộc thi, đang giúp vui cử toạ bằng các bài hát, bài múa. Họ thúc đẩy chị, như một người Á Đông, dự thi cùng với 13 phụ nữ khác ̉̉từ 60 tuổi trở lên để tranh chức Hoa Hậu Ms. Virginia Senior America 2004.
Muốn chứng tỏ rằng người Á Đông đang đóng góp văn hóa của họ vào đời sống xã hội Mỹ, chị ghi tên dự thi và chiếm giải Hoa Hậu. Trong thời gian một năm, chị đại diện tổ chức Ms. Senior America tại Virginia, tình nguyện giúp vui giải trí tại nhà thờ, trường học, nhà thương, và trung tâm người cao tuổi. Đó là một trong những trải nghiệm bổ ích nhất của cuộc đời ở tuổi 63, chị đã đem nụ cười điểm trên môi của không biết bao người. Từ năm 2012 đến 2014, Jackie theo chồng đến một nhiệm sở sau khi nghỉ hưu nhận công việc của sứ quán Mỹ ở Vientiane, Lào. Tại đây, chị làm việc với tư cách là viên chức liên lạc cộng đồng của sứ quán (CLO) và hỗ trợ sứ quán giúp trung tâm điều trị ma túy chính của Lào.
Với những tình nguyện viên trong nhóm Women’s International Group địa phương, chị đến viếng khu dành cho phụ nữ tại trung tâm, một số người đã từng dùng methamphethamine, và tổ chức hàng tuần các lớp dạy nấu ăn, may vá, làm bánh, vẽ, vũ line dancing, và thiền. Giờ đây, trở về Virginia, chị có chương trình hàng tuần phát đi toàn quốc của VATV (Vietnamese American Television), “The Voice of Vietnamese Voters” bình luận về chính sách của chính quyền gồm có di dân, thương mại, giáo dục và sức khỏe. Chị năng động dấn thân làm việc với CAPAVA (Coalition for Asian Pacific Americans in Virginia), mà chị là hội viên Hội Đồng Quản Trị không liên tục, trong 20 năm qua. CAPAVA ủng hộ lợi ích về xã hội, kinh tế, văn hóa và thương mại cho người Mỹ gốc Châu Á-Thái Bình Dương. Như một dịch vụ công cộng trong mùa đại dịch, nhóm CAPAVA gây quỹ và quyên tặng hàng ngàn khẩu trang và thiết bị bảo hộ cá nhân các loại cho bệnh viện và nhân viên chống dịch tuyến đầu ở miền bắc Virginia. Jackie chịu trách nhiệm khu vực Alexandria, nơi chị cư ngụ, và đã tự mình đem khẩu trang giao cho cảnh sát và nhân viên chữa cháy địa phương. CAPAVA đã tặng 35.000 khẩu trang cho vùng Hoa Thịnh Đốn. Quyển tự truyện Autumn Cloud của chị do nhà Capital Books, Inc. phát hành năm 2001. Phiên bản bìa mềm được phát hành một năm sau. Chị là một trong 15 người được vinh danh Washingtonian of the Year 2003 của Tạp Chí Washingtonian cho 27 năm hoạt động cộng đồng liên tục và tham gia sinh hoạt công dân của chị.
Sheila Switzer AAFSW Program Chair & Foreign-Born Spouse State Liaison
Hội Từ Thiện Arpan
– Chào anh Nguyễn Bình. Nhận email của anh, tôi ngạc nhiên lắm. Có thật là anh đã đến một vùng đất mà nơi đó không hề có dấu tích của các phương tiện tối thiểu của cuộc sống, mà theo như anh viết, anh đã sống những chuỗi ngày thật bình yên nơi ấy? – Mình hiện là nha sĩ tại Orange County. Năm nay là lần đầu tiên mình tham gia làm công tác thiện nguyện với hội Arpan. Mấy năm trước thì mình thường đi với SAPVN. Nhờ vậy mà mình có dịp đi qua nhiều nước lắm, thấy và học được nhiều điều hay, cũng như tích lũy cho mình rất nhiều kinh nghiệm sống…
– Anh có thể nói sơ về hội Arpan?
– Arpan Global Charity là một tổ chức y tế từ thiện quốc tế được thành lập năm 2005. Theo tiếng Ấn Độ thì Arpan có nghĩa là “cho tặng”. Đây là một tổ chức thiện nguyện gồm các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, y tá cùng các thiện nguyện viên. Hằng năm Arpan đều được các nước kém hay đang phát triển mời đến để giúp đỡ các ca chẩn đoán và khám bệnh, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm với các giới chuyên môn tại nước ấy. Mọi thành viên, như mình chẳng hạn, phải tự túc vé máy bay. Nước “mời” mình đến chỉ lo về vấn đề ăn ở.
– Nếu ai muốn tham gia cộng tác với Hội Arpan thì liên lạc ở đâu?
– Bạn có thể vào website:http://www.arpanglobal.org/. Các chuyến đi sắp tới của hội sẽ là chuyến đi Lagos tại nước Nigeria vào tháng 10-2012 hay đi Ecuador vào năm tới 2013.
– Thế trong email anh có nói về vùng đất nào đó với cái tên lạ lắm. Anh Bình có thể nói rõ hơn được không?
– À, mình vừa đi Ấn Độ về. Chuyến đi của mình dài 2 tuần. Tuần đầu mình đi theo hội Arpan đến thành phố Deesa thuộc miền Đông Ấn Độ. Năm nay thì hội đến đây theo lời mời của bệnh viện Mahadma Gandhi Lincoln Memorial. Tuần lễ thứ nhì thì mình tự mua vé bay qua Calcutta, một thành phố rất nhỏ ở miền Tây Ấn Độ.
– Anh Bình kể cho mọi người về hai tuần “du lịch” kỳ thú này được không anh?
Tình nguyện viên làm gì?
– Tuần lễ đầu tiên tụi mình chia xẻ kinh nghiệm với các nha sĩ Ấn Độ, trả lời các câu hỏi nếu có, và giúp khám, chẩn đoán những trường hợp phức tạp. Các bác sĩ trong đoàn thì thực hiện các ca mổ xương cho các trẻ em bị ung thư xương. Các dược sĩ thì hướng dẫn cách tổ chức một hiệu thuốc như thế nào để phân phát thuốc mau lẹ và hiệu quả nhất. Sau đó cả đoàn đi thăm cô nhi viện các trẻ em bị bệnh AIDS, thăm nơi nuôi dưỡng trẻ em tàn tật, bại liệt và đến thăm các trung tâm chăm sóc người già bị bỏ rơi cùng các trẻ mồ côi.
– Thế anh có nhận xét gì về những người chuyên môn (bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá) tại Deesa?
– Họ rất giỏi. Không phải mình cứ nghĩ rằng Ấn Độ là nước nghèo mà thành phần “professional” của họ có trình độ thấp đâu. Họ luôn luôn trau dồi học hỏi thêm qua internet nên trình độ họ khá lắm. Chỉ có điều là họ còn thiếu dụng cụ và tỉ lệ thành phần này, so với số lượng dân, còn quá ít.
– Thành phố Deesa thì sao?
– Deesa là một thành phố nhỏ ở miền Đông Ấn Độ. Cứ tưởng tượng như một thị xã ở miền Tây Việt Nam mình vậy. Nhưng họ được trang bị một số dụng cụ khá đầy đủ hơn Việt Nam. Năm 2009, mình có về Việt Nam khám, chẩn đoán và điều trị cho đồng bào miền Tây ở mấy trạm xá nhà quê. Mình còn nhớ, mới chạng vạng 4 giờ chiều là không còn thấy gì cả, vì trời tối, mà không điện nước, cả lửa cũng không, thử hỏi làm sao tiệt trùng dụng cụ? Nên đành đi về vậy. Còn ở Deesa thì khá hơn, có các phương tiện đó.
– Ngoài đường phố thì thế nào?
– Đường nào cũng có 2 lối (lane) cho xe chạy. Thành phố có một bệnh viện lớn với một bác sĩ gia đình thường trực. Mỗi tuần thì có vài bác sĩ chuyên môn từ các thành phố lớn về đây khám và chữa trị các trường hợp đặc biệt.
– Thế còn tuần lễ thứ hai tại Calculta?
Giấc mơ của Mẹ…
– Đúng ra thì mình chỉ tháp tùng theo hội Arpan có một tuần mà thôi. Nhưng chuyện là thế này, ông anh mình bị bệnh. Mình nghe nói nhiều về thành phố Calcutta – nơi có ngôi mộ Mẹ Teresa, nên mới mua vé bay qua đó, mục đích là đến viếng mộ Mẹ và cầu nguyện cho anh. Thật sự mà nói, tuần lễ thứ hai đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng mình. Nhắc đến Ấn Độ thì phải nói tới hai ngôi mộ lớn. Thứ nhất là ngôi mộ Taj Mahal để tưởng niệm một bà hoàng hậu rất được đức vua sủng ái từ ngàn năm trước của đất nước này. Đây được xếp loại là một trong các kỳ quan của thế giới. Thứ hai là mộ của Mẹ Teresa ở thành phố Calcutta thuộc miền Tây Ấn Độ. Mình theo đạo Công giáo, và có được nghe câu chuyện về giấc mơ của Mẹ. Có một đêm Mẹ Teresa nằm mơ. Mẹ thấy Đức Chúa Trời hiện đến và giao cho Mẹ một trọng trách là tìm đến và giúp đỡ những kẻ nghèo nhất trong những người cùng khổ (The poorest of the poor). Thức dậy Mẹ đã suy nghĩ rất nhiều và sau cùng đã chọn thành phố Calcutta vì nơi đây là miền đất của những người nghèo khổ nhất, bất hạnh nhất và bị bỏ rơi nhất tại Ấn Độ. Mẹ Teresa đã sáng lập ra hội từ thiện Missionary Sisters of Charity. Ban đầu thì hội chỉ gồm các nữ tu, nhưng sau này thì đã có thêm sự đóng góp của các thiện nguyện viên trên toàn thế giới. Mình đến đây ban đầu chỉ có ý định cầu nguyện cho người anh, nhưng ngay hôm đầu tiên mình lại quyết định tham gia công tác thiện nguyện một tuần – thử xem sao. Thật buồn cười, khi mới đến, mình tự giới thiệu ngay, ra vẻ oai vệ lắm: “Tôi tên Bình Nguyễn. Nha sĩ, tôi đến từ Mỹ”. Mình cứ tưởng các nữ tu và mọi người sẽ xuýt xoa khi nghe mình đến từ Mỹ, lại là nha sĩ nữa chứ. Ai dè. Không một ai quan tâm điều đó. Họ nhỏ nhẹ hỏi rằng mình dự định sẽ ở đây bao lâu, để họ tiện phân công việc…
– Tại sao thời gian lưu lại là cần thiết khi sắp xếp công việc hở anh?
– Mình được giải thích như thế này. Có những bé gái nhỏ bị hiếp dâm chẳng hạn, chắc chắn là tâm hồn các bé bị hoảng loạn và lo sợ cùng cực. Cho nên những người giúp chăm sóc cho bé phải là người nữ, và phải ở đó từ một tháng trở lên, chứ cứ vài ba ngày mà lại thay đổi người thì ảnh hưởng đến tâm thần các cháu bé lắm. Có tiếp xúc một thời gian đủ dài với cùng một bệnh nhân thì mới tạo được sự ổn định thần kinh và giúp gây tình thân trong lòng các em, như thế việc điều trị mới dễ có kết quả.
– Thế anh Bình ở một tuần thì công việc của anh là gì?
– Mỗi sáng thức dậy thì ai ai cũng được phát một lát bánh mì, một trái chuối nhỏ và một ly nước. Rồi ai nấy đều được giao công việc giặt đồ. “Đồ” ở đây bao gồm quần áo dơ, tã dính cứt của các người bệnh. Khi đó mình bị “shock” lắm, vì không ngờ nha sĩ ở Mỹ qua mà lại bị giao đi giặt tã cứt. Nhưng sau đó mình hiểu ra rằng với các nữ tu thì trước mặt Thượng Đế, mọi người đều bình đẳng như nhau.
Những người cùng khổ…
Người nghèo nơi đây nhiều lắm, đa số là các trẻ cô nhi, tật nguyền, bại liệt, mắc bệnh Down, nói chung là thành phần bị gia đình, xã hội ruồng rẫy, bỏ rơi và các “sơ” (soeurs – theo tiếng Pháp) lượm về chăm sóc. Bên đây người ta gọi thành phần này là “untouchable”, có nghĩa là “không ma nào thèm đụng tới nữa”, là thành phần “vứt đi”, tức là họ đã hoàn toàn sống bên lề rìa của xã hội. Mình còn nhớ ngày đầu tiên “bị” phải giặt đồ, lại không hề có máy giặt, mà phải giặt hoàn toàn bằng tay, mình gớm quá, kinh hãi quá đi. Mình xắn ống quần lên, giậm hai bàn chân lên đống đồ dơ bẩn trong thau, mà miệng thì cứ ợ lên ợ xuống vì… nhợn. Mới vừa giậm mấy cái thôi thì nước trong thau đã đen thùi lùi như… nước cống. Mình hãi quá, nhảy ra khỏi thau, lật đật đổ nước ra, múc nước mới vô, giậm giậm vài cái nữa thì hỡi ôi… lại đen ngòm và hôi rình. Chính vào giây phút đó, mình muốn khóc. Thượng Đế ơi, tại sao có những miền đất mà con người ta nghèo đến vậy và cơ cực đến vậy? Nơi đây, các sơ ai cũng chỉ có hai bộ đồ luân phiên để mặc, một đôi dép, vậy thôi. Không nhà, không tiền, không điện thoại, không cell, không computer, không laptop, không son phấn, không cả cái bàn, cái ghế để ngồi. Họ giống nhau ở một điểm duy nhất là “không có gì để lo, để nắm, để giữ, hay để sợ mất”. Các nữ tu cũng như mình vậy, họ cũng phải giặt mấy thau tả dính đầy cứt đái, nhưng họ khác mình, vì họ làm điều “dơ bẩn” đó từ năm này qua năm khác, mà họ không ợ lên ợ xuống, họ không giậm bằng chân mà thản nhiên ngồi xuống dịu dàng dùng hai bàn tay vò giặt. Mỗi sáng ai cũng đều làm công việc đó trong vòng 2 tiếng đồng hồ.
Mất khả năng tự lo…
Sau đó mình được phân công đút các em ăn sáng. Hàng ngàn trẻ tật nguyền bại liệt được các thiện nguyện viện dìu hay bế ra một chỗ trống rất rộng, giúp các em ngồi trên dãy ghế gỗ thật dài và mớm thức ăn cho các em. Riêng khu vực mình làm thì có hơn 40 em, gái trai đều có, mù, câm điếc, tàn tật, nói chung những gì bất hạnh nhất mà chúng ta có thể nghĩ ra thì nơi đây mình đều thấy tận mắt. Hầu hết các em đều không còn tự lo cho mình được. Công việc nghe qua thì đơn giản, nhưng thật ra lại không dễ chút nào. Có khi cần hơn một tiếng đồng hồ để đút cho các em ăn xong một bát cháo nhỏ xíu. Nơi đây nghèo lắm, đồ ăn của các em không gì ngoài khoai và rau nấu nát nhừ ra như cháo. Nhiều em trông thật tội, đầu cổ cứ ngoẹo sang một bên, có em bại liệt cả cột sống, cả người nhũn hết ra, và không còn điều khiển nổi một cơ phận nào trên cơ thể. Một tay mình vịn nâng đầu em lên, tay kia thì mình vừa nhấp nhấp đụng vào cằm, vào miệng, thậm chí có khi đụng nhẹ vào lưỡi để khích thích các em nuốt. Nhiều trẻ không còn khả năng nuốt, mình phải vừa đút, vừa xoa cổ lên xuống, rồi vuốt ngực cho thức ăn dễ trôi xuống, và cuối cùng xoa bụng để giúp tiêu hóa. Có lần, một em bé ọe ra trên tay mình, nhão nhoẹt. Nhưng lúc ấy mình không cảm thấy ghê nữa, mà trong thâm tâm, mình lại cám ơn Thượng Đế là mình còn biết nuốt, biết nhai, biết ăn và còn cái hạnh phúc cảm nhận được thế nào là món ăn ngon hay dở.
Tâm tư thay đổi…
Ngày một, ngày hai trôi qua, mình bắt đầu nhận ra nhiều điều thay đổi trong tâm mình. Mỗi sáng, mình đứng nhìn dòng người dài ngoằn đang xếp hàng để được phân chia công tác. Có một hôm mình tò mò đứng đếm, trên 200 người mỗi ngày. Họ từ khắp nơi đổ về đây để làm từ thiện. Mình hỏi thăm, thì có người đến từ Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Chile, Brazil, Mỹ, Canada, Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật, vân vân… và họ thuộc đủ mọi tôn giáo khác nhau. Ai ai cũng đều tự móc tiền túi ra để mua vé đến nơi này làm việc thiện. Mình đã tự hỏi rằng: “Tại sao? Công việc của các nữ tu trong Hội của Mẹ Teresa có gì mà hấp dẫn đến vậy? Hội chưa hề bao giờ quảng cáo, kêu gọi đóng góp, xin tiền… hay gì gì cả. Thế mà mọi người vẫn biết đến và tìm về”.
Mỗi Thứ tư đều có ngày “hướng nghiệp” (orientation day). Thành phố Calcutta có 7 cơ sở, nói cho oai chứ thật ra là 7 căn nhà được phân loại ra theo thành phần cần giúp đỡ: những bệnh nhân sắp chết, những người mắc bệnh AIDS, những trẻ em không có khả năng tự lo, những trẻ tật nguyền nhưng còn biết chút chút, vân vân…
Bí quyết sống vui?
Tối về mình không ngủ được, cứ tự hỏi tại sao trên đời có nhiều người bất hạnh đến thế và lại có nhiều người hy sinh đến vậy? Động lực nào đã giúp các sơ luôn luôn mỉm cười mỗi ngày và vui sống? Tò mò lắm, nên mình đã sống và làm theo y hệt công việc của một nữ tu hằng ngày. Bảy ngày trôi qua đã giúp mình tìm ra đáp số. Có những đến 3 phần tạo nên câu trả lời đầy đủ nhất:
1. Nguyện cầu trong cuộc sống:
Mỗi sáng sớm, các sơ đều tập trung tại nhà chính để đọc kinh và cầu nguyện. Các thiện nguyện viên đều vậy. Họ đến, không phân biệt tôn giáo, im lặng, ngồi bệt dưới đất và cùng nhau cầu nguyện. Họ cầu nguyện hết sức chân thành và liên tục trong 2 tiếng đồng hồ. Mỗi chiều sau khi xong công việc, các sơ lại họp nhau nơi đây và tiếp tục cầu nguyện trong một tiếng rưỡi đồng hồ, rồi mới đi ngủ. Mình đã tham dự những buổi cầu nguyện như vậy, và lần nào mình cũng đều xúc động. Mình biết là ở trên cao, Mẹ Teresa luôn mỉm cười khi các con của Mẹ đã và đang tiếp tục làm tròn nhiệm vụ Mẹ giao. Và mình hiểu ra rằng nhờ có sự che chở ban phước lành của Ơn Trên, các sơ mới làm được những điều vĩ đại ấy.
Bạn cứ thử hình dung ra một buổi hội họp với hơn 200 người trong vòng 2 tiếng đồng hồ mà không hề có một tiếng phone reo? Con người ở đây sống với sự đơn giản tuyệt đối. Không cell phone, không máy fax, không wifi, không computer, không laptop, không internet, cũng không cần texting hay iPod. Họ không có cả cái ghế để ngồi. Ghế của họ là sàn đất, không xi măng, không gỗ, không thảm. Bởi thế suy nghĩ của họ đơn giản hơn chúng ta nhiều lắm. Không tính toán, không lo toan, không ích kỷ, không ganh tỵ hẹp hòi, không thù hằn đố kỵ. Và vì vậy đầu óc họ cũng thảnh thơi hơn chúng ta nhiều lắm. Không sợ mất nhà, mất tiền, mất job, không sợ tai tiếng thị phi, không sợ cả cái chết dù ngày mai có đến.
Lúc mới tới đây mình gớm công việc giặt đồ quá đi. Đã có lúc muốn bỏ về. Nhưng khi tiếp xúc với các em, mình mới nhận ra là mình hạnh phúc hơn nhiều người lắm. Mình không phải nghèo (the poor), còn họ lại là những người nghèo khổ nhất (the poorest). Họ không ăn được, không tự đái ỉa được, không tự lo được, thì còn gì là cuộc sống. Vậy mà đã có em bé nhìn mình cười. Nụ cười vô tư và dễ thương làm sao. Mình cười, nhưng tim mình thắt lại, và lòng mình chùng hẳn đi. Liệu em có hiểu biết gì không, có cảm nhận được gì không khi tặng mình nụ cười vô tư ấy? Có một buổi chiều khi làm xong hết việc, sắp đi về ngủ thì tình cờ mình trông thấy một bông hoa nở bên một khe lạch. Mình chạy lại xem ngay, và mừng rỡ đứng ngắm thật lâu bông hoa lạ kia. Hạnh phúc và niềm vui tự đâu cứ tràn về. Mình happy quá, vì mình còn đôi mắt để nhìn, để ngắm, còn đôi chân để chạy lại xem, còn hai tai để nghe tiếng nước chảy tí tách. Và mình chợt hiểu ra rằng niềm vui không phải là những trò game trên máy tính, không phải là những bữa ăn buffet anh ách cả bụng, cũng không phải là những text message cứ trao đổi nhau mỗi ngày xoành xoạch. Đừng tính toán cho cái tôi của mình nhiều quá. Khi không tìm thì niềm vui sẽ tự đến. Bảy ngày đã mang đến cho mình biết bao là niềm vui nho nhỏ…
Vui cứ đến mỗi ngày nho nhỏ
Như từng nụ hoa đỏ mọc bên hồ
Vui cứ đến tự bao giờ chẳng rõ
Như suối nguồn trăm ngách chảy trăm nơi…
Không xin – Không từ chối…
Mình xin kể một kỷ niệm gây “shock” nữa đây. Hôm cuối cùng sắp sửa về, vì quá xúc động trước những điều tai nghe mắt thấy, mình và người bạn tìm đến gặp một nữ tu, nói lời từ biệt rồi ngỏ ý muốn đóng góp chút tiền cho hội. Sơ chỉ tay về phía mộ Mẹ Teresa và bảo tụi mình đến bỏ tiền vào thùng đó (nơi mộ Mẹ có một thùng nhỏ bằng gỗ, không hề khóa, để mọi người tùy hỉ đóng góp). Mình nói to: “Con giúp một ngàn đô!” (mà trong lòng đinh ninh rằng sơ tưởng mình tặng món tiền nhỏ nên mới bảo bỏ vào cái thùng ấy, chứ cả ngàn đô thì… lỡ ai rinh thùng đó đi luôn thì sao?). Sơ gật đầu và vẫn chỉ tay về hướng ấy. Mình lập lại lần nữa to hơn: “One thousand dollars!”. Sơ gật đầu, mỉm cười cúi chào rồi… tiếp tục rảo bước. Mình ngạc nhiên cùng cực, không lẽ nơi đây không ai tham và ăn cắp? Sau đó trên chuyến bay về lại Mỹ, mình có dịp trò chuyện với một thiện nguyện viên người Nga. Cô cho biết cô đã đến Calcutta đây là lần thứ ba. Khi mình kể lại món quà “một ngàn đô”, cô cười và giải thích: “Hội Missionary Sisters of Charity do Mẹ Teresa sáng lập có một câu phương châm, đó là: Không xin. Không từ chối (Ask for nothing. Refuse nothing). Nghĩa là: Chúng tôi không quảng cáo, không kêu gọi đóng góp. Nhưng nếu bạn có lòng, thì chúng tôi nhận tất cả những gì bạn tặng: tiền bạc, thời gian, công sức, một lời cầu nguyện, hay ngay cả một nụ cười”. Giờ nhớ lại, mình vẫn còn thấy ngượng cho danh tự xưng “nha sĩ từ Mỹ” mà mình tự khoe với mọi người, cũng như về món quà “to tát một ngàn đô” mà mình “sợ mất giùm cho các nữ tu”.
Có dịp trò chuyện với các thiện nguyện viên đến từ khắp nơi, mình đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một cô bé đến từ Trung Quốc, chừng hơn hai mươi tuổi, nói rằng cô đến đây là lần thứ hai. Mình tò mò hỏi lại: “Cô sống tại một nước cộng sản chưa đủ khổ hay sao mà còn tìm đến đây giúp đỡ?”. Cô cười: “Có đến nơi này, tôi mới biết là không nơi đâu nghèo khó và cùng cực như ở Calcutta và cũng không nơi đâu có thể tìm thấy những con người hơn cả vĩ đại như các nữ tu nơi này”.
Việt Nam- Ấn Độ: Giống và khác?
– Câu chuyện quá hay. Nếu như so sánh giữa Việt Nam và Ấn Độ, thì anh Bình có thấy điểm gì giống và khác nhau không?
– Nhiều lắm. Cho phép mình nói về điều hay lẫn điều chưa hay nhé. Mình đã về Việt Nam, rồi lại qua Ấn Độ, nên mình chỉ có sự so sánh rất cá nhân như thế này. Tại Ấn Độ, giới chuyên môn như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ rất thiếu, vì dân số đông quá, nhưng phải nói rằng họ rất giỏi vì họ ham tìm tòi, học hỏi trên mạng, tham dự các khóa huấn luyện, chia sẻ kinh nghiệm với các giới chuyên môn từ các nước tiên tiến như Mỹ, Canada… hằng năm đều qua Ấn. Việt Nam mình thì thành phần professional tràn đầy, nhưng phẩm chất thì chưa được như Ấn. Ở xứ sở này, dường như không có nạn ăn cắp, móc túi, cò mồi, hay ép giá. Người Ấn Độ có vẻ hiền lành hơn, không thừa nước đục thả câu mà bắt nạt du khách. Mình đã về miền Tây Việt Nam, rồi nay đi thăm miền Tây lẫn miền Đông Ấn Độ, nói thật, đi ngoài đường tại thành phố Deesa hay Calcutta cho mình cái cảm giác bình an hơn ở Việt Nam nhiều lắm, mặc dầu mình rành tiếng Việt, trong khi không biết một chữ tiếng Ấn và người dân Ấn thì hầu như chỉ có một thiểu số rất ít biết bập bẹ tiếng Anh. Xứ Ấn rất nóng, nhưng mình không thấy ai ở trần hay mặc quần đùi ra đường, trong khi ở Việt Nam thì… (cười) đầy ra đấy. Phụ nữ tuy không che mặt như ở các nước Hồi giáo nhưng ăn mặc rất cổ điển và hết sức kín đáo.
Còn điều chưa hay, bạn cứ tưởng tượng xem các đường phố Việt Nam bây giờ chen chúc và kẹt xe như thế nào, thì ở Ấn Độ, mình hãy nhân lên gấp 10 lần như vậy. Người đâu mà đông khủng khiếp. Nếu ai có than phiền rằng dân Việt Nam chạy ẩu, bất chấp luật giao thông, đậu xe bừa bãi bất kể nơi nào, thì dân Ấn tệ gấp 10 lần hơn thế. Ai cằn nhằn rằng sao bây giờ ở Việt Nam rác rến đầy đường thì xin thưa, Ấn Độ dơ gấp 10 lần hơn vậy.
Còn hai điểm nổi bật nhất mà ai đến Ấn Độ dù không cần để ý cũng nhận ra ngay. Thứ nhất phải nhắc tới Bò. Bò đâu mà đầy đường đầy sá. Quay tới quay lui bốn hướng nơi đâu cũng thấy bò. Chúng đi nhan nhản khắp nơi, và xe cộ, người đi đường phải tránh chúng. Nghe nói bò là loài thú được người dân Ấn tôn thờ.
Thứ hai phải nhắc tới Người. Dường như bên này “Nam nữ thọ thọ bất tương thân”, nên không bao giờ nhìn thấy một người nam đi sát một người nữ, dù là vợ chồng hay cha con, thì nói chi đến chuyện nắm tay hay hôn hít. Ngược lại ở Việt Nam thì đầy những cảnh các cô nắm tay dung dăng dung dẻ, hay các cậu bá vai, ôm eo cười giỡn, Chính mắt mình thấy hai người đàn ông nằm sát rạt trên một chiếc xe lam, đắp chung cái mền và họ ngủ khò sung sướng. Có lẽ đó là do phong tục tập quán khác nhau ở hai nước.
Còn về vật giá thì trung bình một người dân lao động đi làm cả ngày quần quật cũng chưa kiếm nổi 5 Mỹ kim, trong khi một nhà trọ cho các du khách thì giá khoảng 15 Mỹ kim một ngày? Một Mỹ kim bằng 53 rupee.
Hạnh phúc xả ly…
– Thế chuyến đi Ấn Độ vừa qua đã giúp anh Bình điều gì?
– Hai tuần ở hai thành phố nhỏ nơi miền Tây và miền Đông Ấn Độ đã tặng cho mình một kinh nghiệm sống tuyệt vời. Lúc rời Mỹ, tôi cứ tưởng mình tới đó để “dạy cho người ta, ban phước cho người ra, bố thí cho người ta”. Hai tuần trôi qua,mình mới nhận ra là mình may mắn đã “học được rất nhiều từ người ta, được người ta ban phước và được người ta bố thí”. Các nữ tu và những con người cùng khổ nhất trong những người nghèo khổ đã tặng cho mình một món quà vô giá: giúp mình hiểu thế nào là Hạnh Phúc Xả Ly.Con người ta thường cho rằng hạnh phúc là “Có”: có tài sản, có quyền lực, có danh vọng, có địa vị… Khi chưa có thì muốn có, và làm đủ mọi cách để mà có. Khi có rồi thì sợ mất hay lại muốn đòi có cái khác cao hơn, mắc hơn, xịn hơn. Nếu không có thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở.
Hạnh phúc: Có và Không!
Nhưng với các nữ tu nơi đây thì “không có” là một hạnh phúc. Họ nghèo hơn chúng ta nhiều lắm, vì tài sản của họ chỉ là hai bộ đồ và hai bàn tay trắng. Nhưng họ giàu hơn chúng ta biết bao, bởi họ thật sự có trái tim và tấm lòng.Và những người bất hạnh cũng vậy. Với họ, sống được thêm một ngày đã là một niềm vui. Có những em bé mồ côi khi mình tắm cho, em ôm lấy mình bi bô câu gì đó, rồi em cười hạnh phúc. Có những ông cụ gầy giơ xương khi được phát trái chuối thì bẻ ngay một mẫu cho vào miệng móm mém nhai một cách ngon lành. Có những bà cụ già bị bỏ rơi, khi mình kéo tấm chăn lên ngực thì bà nhắm mắt ngủ ngay một giấc thật ngon. Ở quốc gia này, chẳng thấy ai cần đến thuốc an thần hay thuốc trị trầm cảm. Phải chăng sự đơn giản đã giúp tâm hồn người dân nơi đây thanh thản hơn chúng ta?
Đi hai tuần trở về, mình nghiệm ra một điều rằng: Trong cuộc sống, có những thứ “Cho đi” là “Đón nhận”. Phải chăng hạnh phúc khi “Không” chính là “Có”? Nắm giữ cho nhiều rồi khi nhắm mắt thì Có cũng thành Không…
Quà tặng cuộc sống…
– Cuối cùng thì anh Bình còn điều gì muốn chia sẻ?
– Về lại Mỹ, mình có suy nghĩ khác đi. Mình sắp xếp lại thời khóa biểu cho công việc, gia đình và cho chính bản thân. Dành thêm thời gian quan tâm đến người khác, và tự cho phép mình có những giây phút thảnh thơi – một mình, với thiên nhiên, hay… chẳng làm gì cả. Mình tập bỏ bớt các sự ham muốn, sự bám víu vật chất bên ngoài. Bớt ngồi chít chát meo, bớt đổi iPad, iPhone mỗi lúc ra mặt hàng mới. Mình cũng bớt cưng chiều các con quá đáng như xưa, dành thời gian dạy dỗ các con về giá trị thật của hạnh phúc và con người. Mình kể về hai chuyến đi này chỉ mong mọi người hiểu rằng: Ở một nơi thật xa -những góc rất khuất của cuộc đời, vẫn có những con người – tuy bất hạnh nhưng thảnh thơi hơn chúng ta nhiều lắm, tuy tay trắng nhưng lại giàu có hơn chúng ta biết bao.Nếu có thể, hãy tự thưởng cho mình hay cho con cháu một vé đi Ấn Độ, thay vì tự mua một chiếc xe mới, hay tặng cho con một cái laptop đắt tiền. Chỉ một tuần thôi, chắc chắn sẽ thay đổi hoàn toàn cái nhìn của chúng ta về cuộc sống và hạnh phúc trong đời. Chắc chắn đây là món quà mà mình sẽ tặng cho các con khi chúng 18 tuổi.
From: Nghia Truong
AI ĐÃ KHAI SINH RA NGÀNH NAILS CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ?
Nước Mỹ là một đất nước tự do, đất nước mà trong nó đã chứa đựng những giống dân của các quốc gia với đủ mọi ngành, nghề khác nhau. Và mỗi ngành, nghề đều mang một đặc trưng cho một quốc gia đó. Ví dụ như : Người Hàn Quốc đa phần thì mở tiệm tạp hoá , Người Tàu thì mở nhà hàng, người Ý thì chuyên về xây dựng, Ấn Độ, Trung Đông thì cây xăng. Khơme bán bánh donut. Còn Việt Nam thì…Nails.
Theo một số người đã nhận định rằng: Thượng Đế hết sức thương và công bằng khi đã giúp cho người Việt Nam trên đất Mỹ có một ngành, nghề phù hợp với sức vóc của người Việt. Thật vậy, thử tưởng tượng nếu không có nghề làm móng tay , tất cả chị, em phụ nữ Việt Nam trên toàn nước Mỹ đều phải đến làm việc tại các hãng,xưởng . Cuộc sống của họ chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều so với nghề làm nails hiện tại.
May mắn thay, khi người Việt của chúng ta ngay từ buổi đầu di cư đến nước Mỹ đã tìm được một nghề thật thích hợp. Ngày nay, cũng chính nhờ vào nó, nhiều gia đình đã trở nên khá giả. Tiền bạc rủng rỉnh. Nhu cầu vật chất đầy đủ. Người thân của họ ở Việt Nam cũng được hưởng lây, thông qua số tiền mà họ đã kiếm được bằng vào cái nghề nails. Thế nhưng để có được một cái nghề “ hái “ ra tiền tương đối dể dàng như thế này, ngay từ buổi đầu ai đã vất vả, ngược xuôi để khai sinh ra nó thì mấy ai đã biết…!
HÌNH THÀNH
Sau biến cố tháng 4 năm 1975. Từng đoàn người di tản rời khỏi Việt Nam đã đến Mỹ theo sự chấp nhận của Chính Phủ thời bấy giờ. Những đoàn người đầu tiên đặt chân đến một đất nước đầy xa lạ này. Ngôn ngữ khác biệt,môi trường sống khắc nghiệt, chưa được thích nghi. Biết phải làm gì để sống giữa một xã hội công nghệ đầy tân tiến ? Đó luôn luôn là một nổi lo lớn nhất của mấy chục ngàn người Việt đến Mỹ lúc bấy giờ. Và, hoà trong nổi lo đó có một người đàn bà bản xứ cũng đang ngày đêm trăn trở, băn khoăn không kém. Cái trăn trở, băn khoăn của Bà hoàn toàn xuất phát từ trái tim nhân hậu và đầy lòng thương yêu người. Đứng trong một góc khuất của cuộc đời. Bà nhìn những người phụ nữ Việt Nam với vóc dáng mảnh mai nhỏ nhắn kia, liệu có sức khỏe để làm các công việc nặng nề trong các hãng, xưởng suốt 8 tiếng đồng hồ ? Chưa kể phải cạnh tranh về thể lực với nhiều giống dân da màu khác ? Trong thâm tâm Bà, Bà muốn giúp những người phụ nữ này có một công việc thật nhẹ nhàng hơn, thật thích hợp hơn so với tầm vóc của họ. Một công việc có cuộc sống sung túc và ổn định cho họ. Thế rồi. Sau những tháng ngày tìm tòi và suy nghĩ cuối cùng bà đi đến quyết định. Sẽ cho những người Việt tự chọn nghề của mình, bằng cách- bà sẽ tạo điều kiện cho họ.
Một ngày của tháng 8 năm 1975. Bà cùng nữ tài tử Kiều Chính làm phiên dịch đến thăm làng Hy vọng ( Hope Village ) ở Thành phố Sacramento. Thủ đô của bang California. Nơi đây, đang là nơi tập trung người Việt đông nhất trên nước Mỹ lúc bấy giờ. Khi đến bà mang theo những người dạy nghề cho hai nghề chính mà bà nghĩ ra và tin chắc rằng, họ sẽ lựa chọn. Đó là : Nghề đánh máy và nghề thợ may. Thế nhưng, khi đến nơi mọi diễn biến thật là ngoài dự kiến của bà. Tất cả những người phụ nữ trong trại đều lắc đầu từ chối những nghề mà bà đã mang theo. Họ chỉ chú ý và trầm trồ ngưỡng mộ bởi bà đang mang theo bộ móng trên những ngón tay-quá đẹp ! Bộ móng tay dài, dài, cong,cong với màu sơn nhuần nhuyễn khiến cho những người phụ nữ này cứ mê mẩn dán mắt không rời khỏi đôi tay của Bà. Và… Thế đó. Ngành NAILS đã được hình thành ngay trong đơn giản và tự nhiên đến như vậy.
Thời ấy, nghề làm móng tay không được tràn lan như bây giờ. Những tiệm làm nails có rất ít. Các tiệm này luôn luôn là của người Mỹ da trắng. Đa số khách hàng của họ thuộc giới giàu sang hoặc là người mẫu, diễn viên điện ảnh. Nhận thấy những người Việt có vẻ thích thú với công việc này. Và để chìu theo sở thích của họ. Cuối cùng Bà đã nhận bảo trợ cho 20 người phụ nữ Việt đầu tiên, đem họ về nhà và mướn người truyền dạy kỹ nghệ làm móng tay . Hằng tuần Bà cho máy bay riêng về Los Angeles đón bà Dusty là chủ một tiệm Nails danh tiếng mà khách hàng của tiệm này đều là những đại gia , người mẫu, tài tử điện ảnh nổi tiếng thời bấy giờ về nhà Bà để dạy nghề cho họ.
Sau khi khoá học kết thúc. Bà gởi 20 người phụ nữ đầu tiên này về trường Citrus Heights beauty College tại Sacramento để thi lấy bằng. Thế nhưng có bằng NAILS là một chuyện và để làm việc thì là một chuyện khác. Bởi vì, vào thời bây giờ như đã nói trên. Tất cả những tiệm Nails trên nước Mỹ được mở ra, hoàn toàn phục vụ cho tầng lớp giàu sang, quý tộc hoặc có tiếng tăm trong xã hội. Còn bình thường thì đa số dân chúng không đủ tiền để thuê mướn người làm nails như đại trà hiện nay. Do đó chẳng tiệm nào muốn nhận một người Việt Nam mà vốn liếng tiếng Mỹ còn kém cỏi và tay nghề còn non nớt cả. Lại một lần nữa bà đã vận dụng sự uy tín và nổi tiếng của mình để giúp cho 20 học viên này có được việc làm trong những tiệm Nails sang trọng thời bấy giờ.
Tóm lại, để nuôi ăn, ở cho 20 con người rồi dùng máy bay riêng thuê mướn người dạy nghề kể cả lo việc làm cho họ khi ra trường. Đây là điều không phải ai làm cũng được ! Phải là những người thật sự giàu có về Tâm lẫn Tiền như bà thì mới có thể thực hiện được.
Thế nhưng, người đàn bà này là ai ? Xin thưa- Bà chính là Tippi Hedren- nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng, xinh đẹp của thập niên 1960 ( hình dưới đây ). Bà cũng là người đã sáng lập ra hội thiện nguyện “ Food for the Hungry “ nổi tiếng nhân đạo trên nước Mỹ. Và cũng chính Bà là người đã có công khai sinh ra ngành nails cho cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ nói riêng và các cộng đồng người Việt ở các nước khác nói chung.
Từ 20 người đầu tiên của kỹ nghệ làm móng tay này. Đến nay, con số đã được nhân rộng trên toàn nước Mỹ. Theo thống kê người ta ước tính hiện nay có trên 100.000 tiệm Nails được rải đều trên khắp các tiểu bang. Chỉ tính riêng năm 2018. Hệ thống ngành Nails trên toàn nước Mỹ của người Việt đã đạt doanh thu trên 10 tỷ dollars. Đó chỉ là con số trên giấy tờ còn về mặt “ chìm “ thì con số còn….” bao la “ hơn nhiều ! Ngày nay, đã có những Tướng Lĩnh, Khoa Học Gia, Bác Sỹ, Kỹ Sư, các nhà Tham Mưu, Nghiên Cứu của thế hệ thứ hai hoặc thứ ba được trưởng thành và thành danh đều nhờ vào những đồng tiền kiếm được từ nghề nails của bậc sinh thành ra họ. Cạnh bên, trong xã hội hiện nay đã có không ít những gia đình có cuộc sống rất ổn định nếu không muốn nói đến giàu có nhờ vào chính nghề này.
Truyền thống Việt Nam : uống nước nhớ nguồn !Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ! Thông qua bài viết này như một lời tri ân đến Thầy dạy NAILS- Ms Dusty và 20 học viên đã có công khai sáng đầu tiên cho ngành NAILS của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Và, trên hết, cũng thông qua bài viết này xin gởi đến lời cảm ơn đầy kính trọng nhất đến với Ms Tippi Hedren – Người đã có công khai sinh ra ngành NAILS cho toàn thể cộng đồng người Việt tại nước Mỹ nói riêng và tất cả các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới nói chung.
From:TU-PHUNG





Võ Hồng Ly is with Võ Hồng Ly.
Tính đến 18h giờ Hồng Kông, đã xác định được có ít nhất 240 bạn trẻ đã bị hắc cảnh bắt đi trong chiều nay vì đã biểu tình phản đối dự luật An Ninh quốc gia áp đặt bởi Trung cộng.
I ❤️ Hongkong !
_____
Ảnh : May James/ HKFP./.
Thêm một người Mỹ gốc Việt thành đạt. Luật sư– Thẩm Phán Tony Phạm
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vừa bổ nhiệm Luật sư – Thẩm phán gốc Việt Tony Phạm vào chức Cố vấn Trưởng Pháp lý của Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) tại thủ đô Washington, lãnh đạo hơn 1,100 công tố viên và hàng năm nhân viên thực thi pháp lý liên quan đến việc trục xuất các di dân bất hợp pháp trên khắp lãnh thổ Hoa Kỳ.
Văn phòng Cố vấn Trưởng Pháp lý (Office of the Principal Legal Advisor – OPLA) do Thẩm phán Tony Phạm lãnh đạo là cơ quan pháp lý lớn nhất tại Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ (DHS), và đây cũng là cơ quan đại diện duy nhất của DHS trong các phiên tòa xét xử trục xuất người nhập cư, bao gồm các trường hợp khủng bố và vi phạm nhân quyền.
Ông Tony Phạm có nhiệm vụ cố vấn pháp lý cho hơn 1,500 các nhân viên của OPLA giúp thực thi luật nhập cư và luật hải quan của Hoa Kỳ, quản lý ngân sách hàng năm đến 290 triệu đôla. Ngoài trụ sở chính tại thủ đô Washington, OPLA còn có 25 Văn phòng Công tố viên trưởng tại hơn 60 khu vực trên khắp đất nước Hoa Kỳ.
Trả lời phỏng vấn với VOA nhân dịp Hoa Kỳ vinh danh Người Mỹ gốc Á trong tháng 5, Luật sư Tony Phạm viết: “Tôi rất vinh hạnh là người Mỹ gốc Á đầu tiên và duy nhất đảm nhận chức Cố vấn Trưởng Pháp lý cho ICE. Tôi cũng là người gốc Việt đầu tiên được bổ nhiệm vào trị trí này.”
45 năm về trước, vào ngày 19/04/1975, khi mới hai tuổi, ông cùng gia đình đã rời Việt Nam chỉ hai tuần trước khi Sài Gòn sụp đổ.
“45 năm sau, đứa trẻ tị nạn sợ hãi đó đã trở thành Cố vấn Trưởng Pháp lý cho ICE trực thuộc DHS. Sự hy sinh của thế hệ trước làm cho quyết tâm cống hiến cộng đồng của tôi càng thêm mạnh mẽ,” Luật sư Tony Phạm chia sẻ.
Là con trai của cựu trung tá Công Binh Việt Nam Cộng hòa, ông Tony Phạm luôn tri ân những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam. Ông viết trên Facebook dịp kỷ niệm 45 năm ngày Sài gòn thất thủ: “Tôi nghĩ về 58.000 quân nhân đã bị giết ở Việt Nam. Tôi nghĩ về hơn 1.200 người đang mất tích trong chiến tranh. Tôi nghĩ về hàng ngàn gia đình đã bị đẩy lên những chiếc thuyền chạy trốn khỏi Việt Nam, rồi lênh đênh trên Biển Đông.”
Cố vấn Trưởng Pháp lý ICE Tony Phạm chia sẻ với VOA: “Khi cộng đồng của chúng tôi bắt đầu hành trình mới ở Mỹ, cha mẹ chúng tôi phải vật lộn để học một ngôn ngữ mới, một nền văn hóa mới và bắt đầu lại từ đầu. Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa của chúng tôi đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ đất nước của chúng tôi trong chiến bại. Nhiều người đã trả giá đắt bằng cả sinh mạng của họ.”
Ông nói thêm: “Lịch sử của người gốc Việt ở Mỹ và cuộc đấu tranh của cộng đồng của chúng tôi luôn là điều thôi thúc tôi cam kết phục vụ công cộng trọn đời.”
“Khi chúng tôi là những người tỵ nạn đến quốc gia này để tìm kiếm niềm hy vọng và cơ hội, tôi đã thọ ơn nước Mỹ. Tôi thọ ơn vì được hưởng các quyền tự do và cơ hội mà tôi phải đáp trả. Để làm điều này, tôi cam kết với cộng đồng của mình là quyết tâm trở thành một công dân chăm chỉ và truyền lại kinh nghiệm và cơ hội của mình để phục vụ những người xung quanh,” ông Tony Phạm viết trên trang ICE.
“Điều này có nghĩa là tôi có nghĩa vụ thể hiện sự tôn trọng đối với thế hệ trước, người đã vạch ra con đường này cho tôi và tôi muốn tiếp tục tạo cơ hội như thế cho các sinh viên trẻ gốc Việt trong thế hệ kế tiếp,” ông Tony Phạm nói.
Để vươn đến thành công, ngoài việc đánh giá cao về giá trị gia đình, tinh thần vượt khó, Luật sư Tony Phạm còn nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục. Ông chia sẻ: “Giáo dục là phương tiện giúp chúng ta thoát nghèo. Giáo dục tạo nên sự cân bằng tuyệt vời, trang bị cho chúng ta các công cụ nghề nghiệp. Tôi được dạy rằng một khi tôi có được tri thức thì không ai có thể lấy mất tri thức của tôi.”
Ông Tony Phạm có gần 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý, từng là một công tố viên và giám sát một nhà tù tại tiểu bang Virginia.
Khanh Cong Huynh
From:TU-PHUNG
https://www.facebook.com/VOATiengViet/videos/275096823873473/?t=22
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vừa bổ nhiệm Luật sư – Thẩm phán gốc Việt Tony Phạm vào chức Cố vấn Trưởng Pháp lý của Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) tại thủ đô Washington, lãnh đạo hơn 1,100 công tố viên và hàng trăm nhân viên thực thi pháp lý liên quan đến việc trục xuất các di dân bất hợp pháp trên khắp lãnh thổ Hoa Kỳ. Xem thêm: voatiengviet.com/a/nguoi-goc-viet-tro-thanh-co…/5437659.html


Sáng nay, một học sinh đã tử vong trong vụ bật gốc cây ở Trường THCS Bạch Đằng (quận 3, TP.HCM)!
Gần chục HS bị thương đang nằm viện trong nỗi đau đớn, bàng hoàng và ngơ ngác.
Hôm qua, một HS lớp 9 ở Hải Dương bị điện giật chết khi đang phát tỉa cây phi lao theo chỉ đạo của giáo viên nhà trường, cành đổ chạm vào đường điện cao thế cướp mất em!
Còn giờ đây, vụ HS lớp 1 đứng nắng ngoài Hải Phòng lại lộ ra những điều dối trá, lấp liếm từ trường, cô, lãnh đạo Sở, ngành đến TP và có thể cả phụ huynh!?
Tại sao con trẻ lại phải chịu đựng những sợ hãi, chết chóc và quá phản giáo dục ở chính nơi mà các em phải được an toàn, bảo bọc và dạy dỗ tử tế nhất?
Đâu còn là 1, 2 vụ nữa mà bảo là cá biệt hay con sâu trong nồi canh? Tương lai của chúng ta đấy các vị ạ?
Đừng mũ nỉ che tai và vỗ về tự sướng nữa.
Ít nhất hai ngày nay cũng có hai đứa trẻ mất mạng và hàng loạt con người mất luôn nhân cách…
Hà Phan