GS Vũ Quốc Thúc: ” Phải chọn con đường vì dân tộc”

GS Vũ Quốc Thúc: ” Phải chọn con đường vì dân tộc”

05:06 | Posted by BVN1

Thanh Phương

Giáo sư Vũ Quốc Thúc qua đời

GS Vũ Quốc Thúc

Theo tin từ gia đình, giáo sư Vũ Quốc Thúc vừa qua đời sáng hôm qua, 22/11/2021, tại Pháp, thọ 101 tuổi.

Sinh năm 1920, giáo sư Vũ Quốc Thúc là một kinh tế gia và một chính khách, không những có nhiều đóng góp trong lĩnh vực giáo dục ở miền nam Việt Nam trước năm 1975, mà còn từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm : Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Quốc vụ khanh đặc trách Tái thiết và Phát triển….

Đặc biệt, giáo sư Vũ Quốc Thúc còn là đồng tác giả hai bản phúc trình Stanley-Vũ Quốc Thúc (1961) và Phúc trình Lilienthal-Vũ Quốc Thúc (1968) về tái thiết Việt Nam thời hậu chiến. Ông còn viết rất nhiều sách và khảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.

Nhờ sự can thiệp của thủ tướng Pháp Raymond Barre, bạn cùng dự thi văn bằng Thạc sĩ khóa năm 1950 với ông, giáo sư Thúc đã được qua định cư tại Pháp năm 1978, sống tại Nanterre, ngoại ô Paris và làm giáo sư môn kinh tế tại Đại học Paris từ năm 1978 cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1988.

Tập hồi ký của giáo sư Vũ Quốc Thúc có tựa đề “Thời đại của tôi”, gồm 2 cuốn “ Nhìn lại 100 năm lịch sử “, xuất bản năm 2009 và “Đời tôi trải qua các thời biến”, xuất bản năm 2010, đã được dịch sang tiếng Anh và được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2014.

Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25/11/2021 lúc 11 giờ tại Giáo xứ Việt Nam tại Paris, 2 Villa des Epinettes 75017 Paris. Lễ hóa táng sẽ được cử hành ngày 1/12/2021.

RFI Tiếng Việt xin thành kính chia buồn với gia đình giáo sư Vũ Quốc Thúc.

RFI tiếng Việt

Tập hồi ký của Giáo sư Vũ Quốc Thúc có tựa đề “Thời đại của tôi” (gồm 2 cuốn “Nhìn lại 100 năm lịch sử “(xuất bản năm 2009) và “Đời tôi trải qua các thời biến” (xuất bản năm 2010) đã được sang tiếng Anh và vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ.

Đây là một sự kiện đáng chú ý bởi vì Giáo sư Vũ Quốc Thúc không những có nhiều đóng góp trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam trước năm 1975, mà còn từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm: Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Quốc vụ khanh đặc trách Tái thiết và Phát triển…

Đặc biệt, GS còn là đồng tác giả hai bản phúc trình Stanley-Vũ Quốc Thúc (1961) và Phúc trình Lilienthal-Vũ Quốc Thúc (1968) về tái thiết thời hậu chiến. Ấy là chưa kể rất nhiều sách và bài khảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.

Sinh năm 1920, tức là năm nay đã 94 tuổi, có thể nói GS Vũ Quốc Thúc là một trong số hiếm hoi các nhân chứng trực tiếp của thời cuộc Việt Nam suốt gần 100 năm qua, từ thời chế độ Pháp thuộc năm 1900 cho đến thời chế độ Cộng sản, cụ thể là đến năm 2000. Toàn bộ 100 năm lịch sử đó đã được Giáo sư tóm gọn trong cuốn đầu của tập hồi ký, qua cái nhìn của người trong cuộc.

Khác với cuốn đầu, gần như thuần túy mang tính biên khảo, cuốn thứ hai mới thật sự là hồi ký Vũ Quốc Thúc, vì trong đó ông trình bày rất nhiều chi tiết về cá nhân, về gia đình, dòng tộc và sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng Giáo sư Vũ Quốc Thúc cũng không quên đưa vào hồi ký những suy tư, những trăn trở của ông về thời cuộc Việt Nam trước đây và hiện nay.

Ngày 08/12/2014 vừa qua, chúng tôi đã được Giáo sư Nguyễn Thái Sơn dẫn đến nhà riêng của Giáo sư Vũ Quốc Thúc ở Nanterre, nằm không xa khu La Défense, ngoại ô Paris, để phỏng vấn ông nhân dịp cuốn hồi ký được xuất bản bằng tiếng Anh tại Hoa Kỳ. Tuy năm nay đã 94 tuổi, nhưng bầu nhiệt huyết tuổi thanh xuân, lòng yêu nước thương nòi, nỗi lo cho tiền đồ dân tộc hầu như vẫn nguyên vẹn trong con người Giáo sư Vũ Quốc Thúc. Càng nói giọng của ông càng hùng hồn, lập luận càng khúc chiết, rành mạch, tưởng như Giáo sư vẫn còn đứng trên bục giảng đường đại học năm xưa.

Trích đoạn phỏng vấn:

GS Vũ Quốc Thúc: Thực ra, khi tôi viết cuốn hồi ký kể về nhiều câu chuyện liên quan đến bản thân và gia đình mình, tôi không hề nghĩ đến khả năng cuốn hồi ký đó được phổ biến cho nhiều người ngoài gia đình đọc.

Mục đích của cuốn hồi ký này là để cho cháu chắt tôi hiểu được tại sao ông cụ của mình đã phải rời bỏ quê hương sang định cư bên Pháp, khiến cho chúng mình bây giờ trở thành công dân Pháp, xem Pháp là quê hương chính, còn Việt Nam là quê hương thứ hai, mặc dù chúng ta không bao giờ quên cái quê hương thứ hai đó. Tôi muốn cho cháu chắt tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi đã phải bỏ nước ra đi, để thấy tâm tư của một bậc tiền bối, đâu phải là ra đi chỉ mưu cầu những an ninh, lạc thú ở ngoại quốc, mà trái lại luôn luôn hướng về quê cha đất tổ.

Thành ra hồi ký tôi chỉ viết bằng tiếng Việt, xuất bản từ Mỹ vào năm 2010, tức là cách đây đã 4 năm rồi. Nếu tôi có ý đồ vận động dư luận các nước Tây Phương, nhất là ở Âu Châu hay là Mỹ, thì tôi đã viết bằng tiếng Pháp rồi, vì tôi đã được đào tạo ở Pháp trong bao nhiêu năm rồi, viết bằng tiếng Pháp dễ hơn! Chứ còn biểu tôi viết bằng tiếng Anh thì, thú thật, trình độ Anh ngữ của tôi còn kém lắm! Vì vậy nên có chuyện dịch ra tiếng Anh này.

Khi được đề nghị cho dịch cuốn hồi ký sang tiếng Anh thì tôi thấy không có gì trở ngại cả, bởi vì trong cuốn hồi ký của tôi, những sự việc xảy ra như thế nào thì tôi viết y như thế, không thêm, không bớt. Tôi tự xem mình như là một nhân chứng được mời ra trước tòa án lịch sử, tòa án dư luận trong nhiều thế hệ. Khi ra trước một tòa án như thế, nhân chứng phải tuyên thệ: “Tôi xin thề nói sự thực, tất cả sự thực và chỉ có sự thật”. Tôi đã áp dụng đúng phưong châm dó trong cuốn hồi ký, không thêm mắm thêm muối cốt để tự mình khoa trương mình.

Trong hai cuốn hồi ký được dịch ra thì tôi chú trọng đến quyển hai, vì trong đó tôi kể nhiều chuyện riêng tư, chứ còn trong quyển một, tôi chỉ kể lại lịch sử, như là một thầy giáo giảng bài cho học sinh: Đây là những gì tôi đã được biết, đã được phổ biến, mà tôi còn nhớ để thuật lại, những điều mà tôi tin đó là sự thực.

RFI: Giáo sư có hy vọng là cuốn hồi ký này, khi được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Hoa Kỳ, sẽ có tác động phần nào đến dư luận Mỹ, để họ hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của Việt Nam trước đây và hiện nay?

GS Vũ Quốc Thúc: Tôi không dám ngông cuồng đến độ tin rằng cuốn sách của tôi sẽ làm sáng tỏ hơn nhiều chuyện hãy còn mờ ám trong lịch sử, nhất là trong quan hệ Việt – Mỹ. Nhưng tôi thấy rằng ở Hoa Kỳ, trước khi ra một biện pháp gì đó, hay thay đổi một chính sách nào đó, người ta thường thăm dò dư luận. Tôi coi việc phổ biến hồi ký của tôi phần nào như là một cách để họ thăm dò dư luận, không chỉ trong người Mỹ gốc Việt, mà cả những người Mỹ khác và dư luận thế giới.

Tại sao? Là tại vì trong cuốn hồi ký của tôi, ngoài những chuyện mà tôi kể lại, mà có thể một số người nay mới biết về chi tiết, tôi còn có những suy tư về những chuyện trọng đại, như chính sách chống cộng, chiến tranh lạnh, việc Hoa Kỳ can thiệp…

Tôi hy vọng khi hồi ký được dịch sang Anh ngữ thì sẽ có nhiều người biết hơn, chứ còn nếu chỉ là bản tiếng Việt thì chỉ có một số nhỏ người Việt tha thiết với các vấn đề của dân tộc mới đọc thôi. Tôi cũng hy vọng là khi sách được dịch sang Anh ngữ, được phổ biến trong giới sành Anh ngữ, thì chính đồng bào Việt Nam ở quốc nội sẽ quan tâm hơn đến. Tầng lớp trẻ, nhất là những người du học ở nước ngoài, có khi đọc tiếng Anh còn dễ hơn đọc tiếng Việt và khi họ đọc được bản tiếng Anh, có thể họ sẽ trở lại tìm đọc nguyên bản tiếng Việt

Còn cuốn sách của tôi sẽ có tác động gì đến chính sách của Hoa Kỳ hay không, thì quả thật tôi không dám tin như thế, vì Hoa Kỳ có chính sách của họ, họ cứ làm. Ở đây họ chỉ thăm dò dư luận. Có thể họ sẽ dùng cuốn sách của tôi để biện minh cho một số biện pháp mà họ sẽ thi hành. Đó là hy vọng của tôi thôi.

RFI: Quan hệ Mỹ-Việt là vấn đề nhiều người quan tâm hiện nay, nhất là vì giới lãnh đạo Hà Nội hiện nay có vẻ muốn dựa nhiều hơn vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ thì muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam, cụ thể gần đây họ đã bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong hồi ký, Giáo sư đã nói nhiều đến thái độ của Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nhất là sau khi đã ký hiệp định Paris để có thể rút quân. Khi miền Bắc tấn công miền Nam, tức là vi phạm hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã không có phản ứng gì, khiến miền Nam lọt vào tay Cộng sản. Nhìn lại giai đoạn lịch sử ấy, Giáo sư có nhận định như thế nào?

Giáo sư Vũ Quốc Thúc: Hoa Kỳ, cũng như tất cả các cường quốc khác, phải chú tâm trước hết đến uy tín quốc tế của họ, rồi đến những quyền lợi thực tế của họ. Thành ra, khi Hoa Kỳ can thiệp vào bất cứ nơi nào trên thế giới, mục đích trước tiên của họ là bảo vệ uy tín của đệ nhất siêu cường thế giới hiện nay, rồi nghĩ đến những quyền lợi thực tiễn, như là về dầu hỏa, về xuất cảng…

Chứ còn bảo rằng Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam để tranh đấu cho Việt Nam thì đời nào! Cái đó về sau thì có thật đấy, tức là khi mà người ta gởi quân lính sang, trợ giúp khí giới, thì tất nhiên là người ta cũng muốn cho mình đạt được một kết quả nào đó. Chứ chính mình thì đời nào chúng ta chấp nhận cho ngoại quốc xen lấn vào, để rồi mình phải thi hành đường lối của ngoại quốc!

Chính quyền nào ở nước ta cũng vậy, Không một chính quyền nào, dù thiên tả hay thiên hữu, lại quên các vấn đề của dân tộc. Dù không công khai nói là bảo vệ quyền lợi dân tộc, nhưng trong thâm tâm, bất cứ chính quyền nào cũng phải nghĩ đến quyền lợi dân tộc.

Đâu phải một khi người ta nắm quyền được chính quyền là người ta quên hẳn quyền lợi dân tộc. Việt Nam mình đâu phải lúc nào cũng nhắm mắt theo các cường quốc! Bao giờ mình cũng ý thức được quyền lợi trường tồn của dân tộc. Tôi tin là như thế. Đã là người Việt thì không thể nào phản bội quyền lợi dân tộc! Dù muốn dù không, tiềm ẩn trong trái tim người ta vẫn có lòng yêu nước, vẫn nhớ lại những truyền thống oai hùng của dân tộc mình. Không ai dám phản bội Tổ quốc một cách trắng trợn.

RFI: Thưa Giáo sư, trong bối cảnh mà hiểm họa xâm lăng từ Trung Quốc ngày càng rõ nét, việc Hoa Kỳ bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam là một điều tốt?

Giáo sư Vũ Quốc Thúc: Việc mình trông cậy hoàn toàn vào ngoại bang để bảo vệ quyền lợi dân tộc là chuyện bất đắc dĩ. Trong hoàn cảnh lịch sử mà mình chưa đủ sức để tự bảo vệ, thì mình phải dựa vào một ngoại bang. Nhưng điều trước tiên là mình phải bồi dưỡng nội lực của mình đã, để có thể tự vệ được.

Khi nói bồi dưỡng lực lượng của chính mình, thì không chỉ có lực lượng quân sự mà thôi. Bây giờ ta có thể được Hoa Kỳ bán chịu một số vũ khí hiện đại, nhưng ta đâu có thể hưởng cái đó mãi? Đến một lúc nào đó chúng ta phải trả nợ.

Mà vũ khí là để làm gì, để giết ai? Tôi chỉ sợ là Việt Nam mình, nếu không cẩn thận, sẽ lại rơi vào tình trạng như xưa, tức là có hai phe trong nhân dân, một phe thì muốn dựa vào Trung Hoa, phe thì muốn dựa vào Hoa Kỳ. Hai phe đó tất nhiên là xung đột nhau. Hoa Kỳ sẽ dùng hai phe đó để sử dụng các vũ khí sát thương của họ. Chúng ta phải cẩn thận.

Nước ta còn nghèo, còn yếu, nếu mà chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau, thì chẳng qua là chúng ta xuất khẩu xương máu. Trước khi phải sử dụng đến vũ khí hiện đại thì mình phải dùng đến ngoại giao. Trong thế yếu hiện nay của Việt Nam, mình chỉ có thể len lõi giữa những xung đột của các cường quốc, vì quyền lợi của họ có khi là mâu thuẫn nhau, phải tìm cách lái cho họ đi đến chỗ phải bảo vệ chúng ta trên các diễn đàn ngoại giao.

RFI: Tránh một cuộc chiến tranh với Trung Quốc có vẻ cũng là đường lối hiện nay của các nhà lãnh đạo Hà Nội, phải làm hòa với Trung Quốc sau vụ khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981. Nhưng đồng thời Việt Nam cũng đang cố tranh thủ thêm sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Trong cuốn hồi ký, Giáo sư gọi đó là chính sách đu dây giữa các cường quốc. Nhưng chính sách có nguy cơ sẽ đưa Việt Nam vào thế kẹt?

Giáo sư Vũ Quốc Thúc: Trong vụ xung đột về giàn khoan, kết quả là Trung Quốc cũng đã rút giàn khoan đi. Cho nên tôi quan niệm thế này: phải luôn phân biệt chiến lược với chiến thuật. Về mặt chiến lược, phải nghĩ đến quyền lợi lâu dài của dân tộc, còn về mặt chiến thuật thì có khi ta phải đi đến một đồng minh này, có khi phải đi với một đồng minh khác.

Chiến lược lâu dài đối với tôi thì không có chuyện lựa chọn giữa Hoa Kỳ hay Trung Quốc, mà chỉ có con đường duy nhất là chọn lựa Việt Nam, tranh đấu cho Việt Nam. Cái gì có lợi cho Việt Nam, thì tôi làm, cái gì ngược lại với quyền lợi trường tồn của Việt Nam, thì tôi chống.

Người ta cứ luôn nói đến chính sách đu dây, nhưng bây giờ tôi nghĩ đến một hình ảnh khác, đó là cái bản lề. Nhìn bản đồ Việt Nam, tôi thấy nó chẳng khác chi bản lề, giúp cho cánh cửa, khi mở, khi đóng, khi quay về tai trái, khi quay về tay mặt. Cho tới nay, cái bản lề ấy chỉ đóng vai trò thụ động, thì tại sao ta không tìm cách điều khiển nó? Mình phải làm chủ cái bản lề ấy để mà ngăn chận, không cho bên nào lấn sang bên kia cả.

Nói cách khác, mình phải có một chính sách dân tộc rõ ràng. Phải có một lực lượng, hay một phần lực lượng để tự vệ đã, rồi mới có thể sử dụng cái vị trí bản lế ấy. Các lực lượng quốc tế nào định sử dụng ta như quân cờ thì lúc đó họ sẽ e dè. Lúc đó, chính là ta đã chọn lựa dân tộc.

RFI: Xin cám ơn Giáo sư Vũ Quốc Thúc.

T.P.

Nguồn: rfi.fr

Phỏng vấn Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng Hoà: Bà Nguyễn Văn Thiệu

Phỏng vấn Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng Hoà: Bà Nguyễn Văn Thiệu

Margaret A. Kilgore * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch – Sài Gòn (UPI)-Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng Hòa bà Nguyễn Văn Thiệu nói bà thỉnh thoảng lo sợ bọn khủng bố Việt Cộng hay những kẻ chống đối chính phủ sẽ đặt bom ở Dinh Độc lập. Nhưng bà bình thản chấp nhận điều này.

Bà nói trong cuộc phỏng vấn, “Vâng, tôi cũng nghĩ nhiều chuyện có thể xảy ra và thỉnh thoảng tôi đọc báo thấy nói bọn khủng bố định đặt bom, nhưng tôi không thể lúc nào cũng phải sống trong sợ hãi. Tôi tin nếu mình sống tốt thì Chúa luôn che chở mình.”

Bà Thiệu là người Công giáo ngoan đạo và chồng bà lúc lấy bà cũng đổi đạo từ Phật giáo sang Công giáo. Bà nói bà ít khi dùng đến tầng hầm an ninh ở dinh Độc lập. “Chúng tôi trữ thực phẩm ở dưới tầng hầm an ninh cho những người lính bảo vệ chúng tôi,” bà nói, “Nhưng tôi không thích nó vì nó kín mít quá.”

Những bao cát chất đống bên ngoài cửa sổ phòng khách của dinh nhìn ra sân chính trong dinh thự bằng bê tông rộng lớn, hiện đại ở trung tâm Sài Gòn…

Bà Thiệu, tên Mai Anh, là phụ nữ 40 tuổi đẹp, khiêm nhường, thuộc tầng lớp thượng lưu tại Mỹ Tho ở đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam Sài Gòn. Nói tiếng Anh qua người thông dịch, và hay cười, bà thú thật rằng bà không thích cho lắm chính trị hay cuộc sống tù túng ở trong dinh vốn được canh gác nghiêm ngặt này.

Bà nói “Tôi khác với bà Nhu, tôi không khuyên nhà tôi về việc chính trị hay chỉ cho ông cách điều hành chính quyền. Mối quan tâm của nhà tôi là chính trị còn mối quan tâm của tôi là phúc lợi xã hội. Tôi có thể giúp nhà tôi nhiều nhất như vậy thôi.”

Bà nhắc đến bà Ngô Đình Nhu, người em dâu quyền thế nhưng gây ra nhiều tranh cãi dưới chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đã bị lật đổ và bị sát hại vào năm 1963.

Phúc lợi xã hội

Đệ nhất Phu nhân tự hào là chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam Phụng sự Xã hội và tự hào bà đã giúp quyên góp tiền bạc để xây Bệnh viện Trưng Vương, mà chuyên giúp đỡ trẻ em tàn tật. Bà cũng dành rất nhiều thời gian đi thăm các thương binh hay giúp đỡ các quả phụ của những người lính tử trận.

Bà nói “Tôi đã làm các công tác xã hội từ lâu trước khi nhà tôi trở thành tổng thống. Chắc bà biết, tôi đã là vợ của quân nhân Việt Nam cho nên tôi luôn luôn thấy cần thiết giúp đỡ mọi người.”

Bà thường xuyên diễn thuyết để vận động gây quỹ, “nhưng tôi vẫn không bao giờ hết sợ hãi khi tôi nói trước công chúng.” Bà nói mỗi tháng bà nhận hàng trăm lá thư từ những người xin tiền bạc hay xin chính quyền giúp đỡ.

Với sự trợ giúp của thư ký, bà đích thân phúc đáp phần lớn thư từ và thường xuyên gởi tiền riêng của bà giúp đỡ họ.

* * *

Gia đình ông Thiệu có hai con, Anh, 16 tuổi, đang theo học trường dòng tại Thụy sĩ và Lộc, 8 tuổi, đang theo học tại Đài Loan và sống với người anh của tổng thống.

“Chúng tốt hơn nên học ở ngoại quốc,” bà giải thích. “Nếu chúng sống với cha mẹ ở dinh thì chúng sẽ hư vì nuông chiều.”

Theo tất cả những lời kể lại thì điều thú vị ở cuộc hôn nhân của ông bà Thiệu là điều hiếm xảy ra ở Châu Á: cuộc hôn nhân của họ không vì môn đăng hộ đối, mà vì tình yêu.

Tấm hình về một cô gái xinh đẹp mà một đồng nghiệp của ông mang theo trong người đã khiến ông Thiệu lúc ấy là một sĩ quan trẻ đem lòng say mê. Ông tìm cách gặp bà, yêu bà rồi lập gia đình với bà vào năm 1951.

Bà Thiệu là người thích nấu ăn. Bà có một căn bếp nhỏ xây kế bên khu nhà ở của gia đình là nơi bà có thể tha hồ nấu ăn mà không phải dùng đến các phòng bếp thường dùng ở trong dinh.

Bà cảm thông với nỗi khổ của những người nội trợ Việt Nam mỗi khi họ đi chợ trước cảnh vật giá tăng lên do lạm phát, nhưng bà chỉ nói “chồng tôi cố gắng hết sức để làm được gì đấy về giá cả, nhưng xem ra cũng khó.”

Khi được hỏi liệu sẽ bãi bỏ lệnh cấm khiêu vũ ở Sài Gòn vì tình hình chiến sự có vẻ đang dịu đi. Bà đáp “Khi hoà bình được vãn hồi, thì chúng tôi sẽ khiêu vũ trở lại.”

* * *

Bà Thiệu đang mong đợi chuyến thăm viếng Nhật cùng với Tổng thống vào giữa tháng Tám khi Ngày Việt Nam được tổ chức ở hội chợ thế giới EXPO’70. Bà nói bà dự định đặt may vài chiếc áo dài cho chuyến đi này… Bà thích áo dài với cổ đứng cao và tay áo dài hơn là thích âu phục.

Vì bà đích thân giải quyết phần lớn thư từ của bà đồng thời tham gia vào nhiều công tác xã hội cho nên ngày nào bà cũng bận.

Bà nói “tôi cuối cùng thường dùng cơm trưa vào giữa chiều, còn Tổng thống và tôi dùng cơm tối vào lúc nửa đêm.” Bà thường đi với ông Thiệu thăm viếng binh sĩ hay khi ông đi diễn thuyết chính trị.

Dinh Độc lập ít khi tiếp đãi khách, mặc dù bà cũng đón tiếp những nhóm nhỏ khách thăm viếng quốc gia, vào những dịp như thế bà thường được phu nhân của các bộ trưởng giúp đỡ.

Bà thích nấu những món ăn thuần túy Việt Nam hay những món ăn Đông phương khác.

Giống như bao người vợ khác, bà cảm thấy bị tổn thương trước bao chỉ trích công khai về chồng bà.

“Phản ứng ban đầu của tôi là muốn đáp trả,” bà nói, “nhưng nhà tôi bảo tôi rằng chỉ trích cũng là một phần của chính trị, cho nên tôi phải làm quen với nó thôi.”

10 tháng Tư, 1970

Nguồn: https://readingroom.vietnam.ttu.edu/images.php?img=/images/236/2361212117.pdf 

Trần Quốc Việt

danlambaovn.blogspot.com

Phương Hằng diễn cương, hạ màn sớm hay thay kịch bản?

Đài Á Châu Tự Do 

Sau cuộc hội tụ quần hùng 1.000 fan cuồng và YouTuber kềnh kềnh tại sào huyệt Du Lịch Đại Nam, sáp nhập báo chí quốc doanh và phản động vô chung một giuộc để cùng luận tội, Phương Hằng dẫn quân đến tận bản doanh báo Pháp Luật TP.HCM khiêu chiến, vai diễn người hùng thế thiên hành đạo chừng như bị cương quá lố. Được giao Thượng Phương Bảo Kiếm để chém âm mưu làm từ thiện ngoài quỹ đạo của Đảng và Mặt trận, mấy tháng qua Phương Hằng tha hồ mạ lỵ, vu cáo người yếu thế đến say máu quên cả vai tuồng. Hồng vệ binh quay súng bắn cả quân nhà. Thầy tuồng đang hoang mang sẽ cho hạ màn hay phải thay kịch bản?

Ngày 16-11 vừa qua, sau thời gian dài im lặng đồng thuận hoặc nhắc nhở lấy lệ, mắng yêu nhỏ nhẹ, báo chí quốc doanh đồng loạt lên tiếng phản ứng lại với thánh chửi Phương Hằng. Lần này không chỉ thể hiện ý kiến chủ quan của các tờ báo mà còn là thông điệp mang tính răn đe mạnh mẽ của hai cơ quan quyền lực Bộ 4 T và Công An thành Hồ.

#nguyenphuonghang #phuonghang

 
Phương Hằng diễn cương, hạ màn sớm hay thay kịch bản?

RFA.ORG

Phương Hằng diễn cương, hạ màn sớm hay thay kịch bản?

Những livestream dài hơi với ngôn ngữ đầu đường xó chợ, lý lẻ lộng ngôn của Phương Hằng cũng góp phần rất lớn xóa nhòa lằn ranh thiện ác, đề cao giá trị tiền bạc, thân xác quyền lực, tạo ra một đám đông cuồng tín để bị x…..

Ông gốc Việt ở Washington bắn vợ và 2 người bạn, 1 chết, lãnh 45 năm tù

May be an image of tree and road

Van Pham

THẢM CẢNH GIA ĐÌNH CÓ PHẢI XUẤT PHÁT TỪ TÌNH TRẠNG “ĐỒNG SÀNG NHƯNG DỊ MỘNG” KHI KẾT HÔN TỪ VIỆT NAM? MỘT SINH MẠNG RA NGHĨA TRANG – 2 CON NGƯỜI MANG THƯƠNG TẬT & MỘT KẺ TÀN MỘT CUỘC ĐỜI SAU SONG SẮT…

***

Ông gốc Việt ở Washington bắn vợ và 2 người bạn, 1 chết, lãnh 45 năm tù

EVERETT, Washington (NV) – Ông Nguyễn Phương Duy, 28 tuổi, bị kết án 45 năm tù vì bắn vợ và hai người bạn của bà, khiến một người bạn của bà vợ thiệt mạng bên ngoài chợ Boo Han, thành phố Everett, Washington, vào Tháng Chín, 2020, theo đài truyền hình địa phương King 5.

Tòa án còn ra lệnh cho bị cáo suốt đời không được tiếp xúc với những người sống sót sau vụ nổ súng.

Bị cáo Phương Duy thừa nhận một tội danh giết người cấp độ một, một tội danh bạo lực gia đình cấp độ một và một tội danh tấn công cấp độ một vào Tháng Mười.

Bị cáo dọn đến Everett sau khi kết hôn với vợ cách đây bốn năm tại Việt Nam.

Vợ của bị cáo đến Mỹ vào Tháng Bảy, 2020, cùng với cha mẹ.

Bị cáo bắt đầu hành hung vợ ngay sau khi bà vừa dọn đến ở cùng, vào giữa Tháng Tám.

Bị cáo Duy đuổi vợ ra khỏi nhà khiến bà phải dọn đến ở chung với một người bạn, tên Lý Thanh Vy.

Bị cáo theo dõi vợ, đe dọa nạn nhân trước khi nổ súng và nhắn tin hăm dọa rằng: “Ngày mai mọi chuyện sẽ kết thúc.”

Bị cáo đến chợ Boo Han khi biết vợ đi cùng cô Vy, lúc đó cô Vy đang đi cùng bạn trai.

Khi người bạn trai cô Vy quyết định gọi 911 trước cảnh bị cáo Duy tỏ ra hung hãn, lúc đó bị cáo rút súng nổ nhiều phát vào nhóm ba người.

Cô Vy bị chết với hai phát súng vào bụng và tay, người bạn trai bị trúng năm viên đạn ở chân và bụng dưới bên phải.

Người vợ của bị cáo trúng đạn ở chân và má.

Cảnh sát gọi sự việc này là một ví dụ bi thảm của bạo lực gia đình và kêu gọi các nạn nhân nên nhờ sự giúp đỡ từ pháp luật nếu họ cảm thấy đang gặp nguy hiểm.

– Chợ Boo Han, thành phố Edmond, Washington, nơi từng xảy ra vụ bắn. (Hình minh họa: Google Map)

Titanic – Sự Thật Phơi Bày…

  No photo description available.

Le Tu Ngoc

Titanic – Sự Thật Phơi Bày…

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu!

Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.

1.514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về từ khóa “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My heart will go on qua chất giọng cao vút của Celine Dion…

Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của Lòng vị tha.

Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, Thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.

Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”

“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”

Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.

Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”

Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa…

Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.

Thuyền phó I đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.

Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.

Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.

Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.

Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.

Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.

Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.

Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình. Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.

Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: ‘Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!’.” Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.

Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v.. Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.

Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.

Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.

Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”

Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.

Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.

Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô biên, đã biến những con người xấu số trong cơn “bão biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.

Ps: những câu chuyện thế này theo các bạn có nên đưa vào sách giáo khoa không ?.

Nguồn : Sưu Tầm

Ảnh Minh Hoạ

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

 Make Christianity Great As Always

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Nhất gia tam Đạo. Tam nhân tam Tôn. Một gia đình ba Tôn giáo. Ba thành viên trong cùng một gia đình thuộc ba Tôn giáo khác nhau.

Chuyện lạ không tưởng này đã xảy ra trong gia đình cha Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC, đương kim Chánh xứ Martinô thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Quả vậy, cha Trúc đã xuất thân trong một gia đình có thân phụ là một tín đồ thuộc Đạo Cao Đài và thân mẫu thuộc Đạo Phật.

Ngài nguyên là một bác sĩ y khoa có tâm và kiêm là một ca sĩ hát rất tâm tình.

Cha ngài vì muốn ngài trưởng thành về tâm linh và vững mạnh về kiến thức nên đã đặt tên ngài là Thiên Trúc, tên cũ của Ấn Độ, một quốc gia Phật Giáo.

Cả ông cố và bà cố đều tôn trọng niềm tin của nhau, cùng sùng Đạo của riêng mình và đã tôn trọng sự chọn lựa tâm linh của các con, và đã chấp nhận cho con trai mình là Hà Thiên Trúc được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Hiện nay cả hai ông bà cố đã viên tịch.

Cha Trúc đã từng sống bên những người Công giáo đạo đức thánh thiện, đã được nghe biết về Chúa Giêsu cách sâu xa ấn tượng thuyết phục.

Chính vì thế mà cha Trúc đã gia nhập Đạo Công giáo vào năm 19 tuổi với sự chấp thuận, tôn trọng và ủng hộ rất vô tư của cả cha lẫn mẹ.

Ngài được Rửa tội ở Giáo xứ Tân Định, Sài Gòn năm 1989 và được gia nhập vào Giáo xứ này.

Không dừng lại ở đó, cha còn say mê Đạo Công Công giáo đến nỗi đã muốn trở thành một Linh mục để đem ơn cứu độ cho nhân thế.

Cha đã được cha sở Gioan Baotixita Võ Văn Ánh giới thiệu vào Đại Chủng viện dưới sự dìu dắt tận tình vô tư trước đó của cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn.

Chính cha Lạn đã khuyến khích, đã nâng đỡ, đã hướng dẫn bác sĩ Hà Thiên Trúc trong những bước đầu của ơn gọi linh mục.

Và cuối cùng cha đã được truyền chức Linh mục.

Vậy là cha Trúc tuy đang có một tương lai sán lạn cho mình, và cũng đang phục vụ, mang lại an ủi cho nhiều bệnh nhân, nhưng đã chọn đi tu trở thành linh mục, và có lẽ đã làm nhiều người thắc mắc, khó hiểu.

Vậy là bác sĩ Trúc từ việc chữa lành thể xác con người cách chóng qua lại trở nên “bác sĩ” chữa lành tâm linh con người cách Vĩnh cửu.

Vậy là cha Trúc từ là người không hiểu gì về Đạo Công giáo đã trở thành thầy dạy của Đạo Công giáo.

Khẩu hiệu đời linh mục mà cha đã chọn chính là những câu ca ngợi Thiên Chúa của Đức Mẹ là: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa » (Lc 1,46).

Sở dĩ cha Trúc có đến 3 tên Thánh vì cha rất yêu thích Thánh Phêrô, rất sùng kính Đức Mẹ và tri ân cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn nên đã chọn tên Thánh Giuse để tưởng nhớ cha cố.

Cha đã thành tâm tìm hiểu Đạo Công giáo và đã khiến cha hết sức thán phục và quyết định gia nhập Đạo.

Cha Trúc khi còn là một Chủng sinh đã từng tâm sự như sau:

“Ba con rất sùng đạo Cao Đài, ăn chay trường, đạo đức, có ước muốn con cái giúp ích cho đời (như: đặt tên chị con là “Thanh Tuyền” với ước mong phục vụ vô vị lợi cho đời như “giòng suối trong” chảy hoài không ngưng nghỉ, và hiện chị con là bác sĩ đang giúp ích rất nhiều cho các bệnh nhân và cho xã hội trong lãnh vực ngoại thần kinh và chẩn đoán hình ảnh).

“Và ba con cũng đã giác ngộ trên đường Đạo nên có ước mong các con cái sẽ được thăng tiến trong đời sống tâm linh (như đặt tên con là “Thiên Trúc”, tên cũ của Nước Ấn Độ – cái nôi của Phật giáo).

“Má con cũng là người sùng đạo Phật, đã dẫn các con cái quy y Phật. Má cũng thường đi học và nghe thuyết pháp về Phật giáo vào các chiều chủ nhật hàng tuần ở chùa Xá Lợi. Bản thân con cũng được má con dẫn quy y Phật vào năm học lớp 6, pháp danh “Thiện Tuấn”.

“Ba má con rất quan tâm, chăm sóc, giáo dục nhiều cho các con cái về tri thức và đạo đức.”

Cha Trúc chính là chứng nhân cho câu nói của Thánh Phê-rô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!” (Cv 10, 34-35).

Hồng ân Chúa vẫn ngày ngày tuôn đổ như nắng như mưa xuống trần gian không phân biệt.

Bất cứ ai thành tâm thiện chí mở rộng tâm hồn, thì sẽ được đón nhận dồi dào ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau cúi đầu tạ ơn Chúa, chúc mừng cha, cầu cho cha Thiên Trúc và chúng ta ngày càng gần trái tim Chúa hơn. Amen.

Giuse Kích

(Bài viết có tham khảo một số nguồn tin).

May be an image of 2 people, people standing and text that says 'Linh hồ»n tôi ngợi khen Thiên Chúa (171.46) ( Cha tân Chánhxứ Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC'

Thêm Một Đám Tang

Thêm Một Đám Tang

Nguyễn Ngọc Duy Hân

 Theo đúng luật sinh tử, hằng ngày luôn xảy ra rất nhiều đám tang, kể cũng chẳng là điều gì lạ lùng. Nhưng cách đây 9 năm, vào dịp cuối tháng 4, 2012, đã có bài viết của J.B Nguyễn Hữu Vinh nói về một đám tang khác mọi đám tang. Đó là đám tang của bà Tần, mẹ của Paulus Lê Sơn.

Xin nhắc lại Sơn là một trong 14 thanh niên Công giáo và Tin lành đã bị nhà nước Cộng Sản kết án tổng cộng 80 năm tù vào năm 2012. Paulus Lê Sơn là người con duy nhất của bà Tần, khi mẹ mất thì Sơn đang phải nằm xà-lim vì yêu nước và có tinh thần muốn phát triển Việt Nam của giới trẻ. Dù đã hết cách xin, Sơn vẫn không được về nhà chịu tang mẹ rồi lại trở vào tù tiếp. Đám tang bà Tần diễn ra trong cô đơn, trù dập, ít người dám tới dự vì sợ bị liên lụy.

Theo đúng tinh thần văn hóa Việt, nghĩa tử là nghĩa tận, tới nhìn mặt người quá cố lần cuối là việc cần làm, mà đứa con trai duy nhất – gọi là trưởng nam thì không thể có mặt. Đau lòng thay cho đứa con và tủi thân thay cho người mẹ. Chưa kể khi còn sống, bà mẹ đó đã phải lo lắng, đau khổ và khó khăn như thế nào để có thể tự lo sinh sống, không được con chăm sóc, mà ngược lại còn phải làm việc vất vả kiếm tiền để tiếp tế “thăm nuôi” con đang ở trong tù.

Mới đây, vào khoảng giữa tháng 11, năm 2021, một đám tang khác mọi đám tang cũng đã xảy ra. Đó là ngày bà Lê Ngọc Nghĩa, thân mẫu của nhà tranh đấu Nguyễn Bắc Truyển đã qua đời tại Saigon.

Vì nghĩa lớn mà anh Nguyễn Bắc Truyển đã không được nhìn thấy mẹ lần cuối. Vì nghĩa lớn mà hai vợ chồng Truyển – Phượng đã phải xa cách tính tới nay là 4 năm, và Nguyễn Bắc Truyển sẽ còn phải ở trong tù với bản án 11 năm giam giữ và 3 năm quản chế.

Vâng, ở Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa thì thế đấy, rất nhiều chuyện khác thường không giống ai đã xảy ra. Biết bao cha mẹ, anh em, gia đình đã phải khổ vì chế độ độc tài gian ác này. Chắc khó mà quên được chuyện cướp đất ở Thái Hà, vườn rau Lộc Hưng… Rồi sau đó là hiện tượng Đồng Tâm, biết bao người bị giết, bị tù vì không chịu bị bọn cầm quyền chiếm đất, hà hiếp cách vô lý. Thời gian gần đây nhiều tù nhân lương tâm khác cũng đã bị bắt, như nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang, anh em Huỳnh Minh Tâm, Huỳnh Tố Nga, cô Thu Thủy… Trần Huỳnh Duy Thức vẫn đang héo mòn sức khoẻ trong trại giam. Một công dân Úc là ông Châu Văn Khảm bị xử bản án vô lý vẫn còn trong tay bọn Cộng Sản. Biết bao tù nhân lương tâm đã chết, đã rũ tù, biết bao đau khổ xảy ra trên quê hương. Con dân Việt phải làm nô lệ mới theo kiểu “xuất khẩu lao động”, biết bao ôsin, cô dâu cho các nước ngoài bị đối xử tàn tệ, trong khi nhóm lãnh đạo ăn thịt bò dát vàng ở nhà hàng của “Thánh rắc muối” nổi tiếng thế giới, uống rượu “cực quý” với giá không tưởng. Họ ăn xương uống máu người dân thường xuyên, thì sá kể gì miếng thịt bò có vàng bao bọc.

Trở lại với đám tang của mẹ Nguyễn Bắc Truyển, cô Phượng vợ của anh đã chia sẻ:

Tin từ trại giam An Điềm – tỉnh Quảng Nam

Chiều nay anh Truyển gọi điện thoại về thì nghe tin má mất, giọng nói anh lần này buồn não nùng. Tôi cảm nhận và hiểu tâm trạng của người con nghe tin má mất mà đang chịu cảnh tù đày, không về chịu tang má, không được nhìn má lần cuối thì còn nỗi xót xa đớn đau nào bằng.

Tôi động viên tinh thần và an ủi anh giữ sức khoẻ, nén nỗi đau buồn, hãy cầu nguyện cho Má vãng sanh cõi Phật. Anh hứa sẽ cố gắng.

Thời gian chỉ vài phút ngắn ngủi còn nhiều điều chưa nói hết thì đã hết giờ được nói chuyện từ góc xà-lim”.

Cũng xin mở ngoặc cô Phượng là người hết sức hiền lành, yêu chồng, yêu nước. Phượng ăn chay trường, dù yếu ớt gầy còm nhưng tinh thần luôn vững mạnh để hỗ trợ chồng. Và cũng rất lạ kỳ, hình như hương hồn của mẹ của anh Truyển rất linh thiêng, nên lâu rồi anh Truyển không được liên lạc với gia đình, thì đám cai tù lại bất ngờ cho anh gọi về nhà đúng vào ngày mẹ mất.

Một người cũng từng là tù nhân lương tâm, cô Ngọc Anh đã chia sẻ:

“Nhận được tin dữ Cụ bà Lê Ngọc Nghĩa đã lìa trần mà con trai cụ là người yêu nước Nguyễn Bắc Truyển vẫn đang bị đày đọa lần hai trong lao ngục cộng sản khiến lòng Ngọc Anh tôi lại bùng lên mối căm hờn. Nhưng kính thưa Cụ bà, Cụ bà đã sanh ra một người con rất cao quý. Luật gia Nguyễn Bắc Truyển đã dám dấn thân hy sinh cho một điều cao cả trọng đại mà phần đông dân Việt không dám làm. Đó là chống bất công áp bức.

Nếu Nguyễn Bắc Truyển thành công trong cuộc tranh đấu cho Quyền Con Người của toàn dân thì người dân Việt nợ Cụ một ơn lớn.

Ngọc Anh tôi cũng đã từng bị tà quyền ghép tội rồi đày đọa trong ngục tù nên tôi rất hiểu nỗi thương nhớ tới quay quắt của người trong lao ngục khi nghĩ về gia đình cha mẹ anh chị em”.

Cám ơn cô Phượng và cô Ngọc Anh đã thổ lộ tâm tình. Chúng tôi cũng rất đồng cảm với nhiều anh em đã và đang hoạt động chống Cộng tại hải ngoại, đã không dám về Việt Nam chịu tang cha mẹ, gia đình vì sợ nhà nước cộng sản sẽ khó dễ, giam giữ. Những “đám tang khác mọi đám tang” như thế sẽ vẫn còn xảy ra nếu tà quyền vẫn còn thao túng trên quê hương.

Nói thêm về Nguyễn Bắc Truyển, người tù nhân lương tâm này đã được trao giải Stefanus vào năm ngoái. Tổ chức Stefanus Alliance International của Na Uy hôm 20 tháng 10, 2020 đã làm buổi lễ trao giải thưởng khiếm diện cho ông Truyển.  Đây là giải trao cho người dám thể hiện lòng dũng cảm, dám tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo và “Human Rights” của con người. Trước đây vinh dự này đã trao cho các nhân vật tại Iraq, Bắc Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ… Ông Nguyễn Bắc Truyển là một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, một thành viên của Hội Ái Hữu Tù Nhân Lương Tâm và Hội Anh Em Dân Chủ. Năm 2017, ông Truyển cùng một số nhà hoạt động khác bị bắt và bị đưa ra xét xử. Sau đó, ông bị tuyên án 11 năm tù và 3 năm quản chế với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Cô Bùi Thị Kim Phượng, vợ của Nguyễn Bắc Truyển từ Sài Gòn cho biết cô rất xúc động và tự hào về chồng mình. Cho dù bản thân Phượng và các chị đã phải chịu sự trả thù hết sức bất nhân của nhà cầm quyền Việt Nam. Trong khi đó báo chí Cộng Sản cùng nhau toa rập chửi rủa, gọi giải thưởng này là việc Liên minh quốc tế Stefanus “tấu hài” về Nguyễn Bắc Truyển.

 

Chúng tôi sinh hoạt trong Phong Trào Yểm Trợ Dân Chủ Quốc Nội Toronto, rất gần gũi thân thiết với vợ chồng Nguyễn Bắc Truyển, rất cảm phục tinh thần dấn thân và hy sinh của họ.

Hôm nay không thể tham dự ngày tang lễ của mẹ anh Truyển, chúng tôi xin gởi vòng hoa và thắp nén hương lòng, cầu nguyện cho hương hồn thân mẫu anh được an nghỉ ở cõi Phật. Cầu cho những anh hùng anh thư thời đại và thân quyến của họ luôn được chân cứng đá mềm, vững lòng chiến đấu, cầu cho quê hương Việt Nam. Xin được kết thúc nỗi niềm bằng bài thơ sau đây:

Gởi con ngục tù

 Bên biển vắng hôm nay

tóc trắng mẹ tung bay

lưng còng mẹ cúi xuống

mong manh tấm thân gầy

 Trên đôi mi sầu đầy

nỗi buồn mẹ không khuây

nhớ con trong ngục tối

xót thân con tù đày

 Nhớ mới ngày đâu đây

con thanh niên hăng say

đấu tranh cho đất nước

nay run rẩy hao gầy

 Cai ngục đánh hằng ngày

chịu muôn ngàn đắng cay

vẫn không sờn chí khí

tấm lòng vẫn thẳng ngay

 Uất khí mãi còn đây

sóng biển buồn theo mây

cuốn trôi ngày mộng đẹp

dẫu nhiệt huyết tràn đầy

 Chắp tay mẹ kêu nài

Thượng Đế hãy lắng tai

nghe dân oan rên siết

thấu ước nguyện người ngay

 Xin cho có một ngày

chim trắng đậu trên tay

thanh bình trên đất nước

lúa chín vàng rợn bay

 Mẹ con được xum vầy

Tự Do về nơi đây

líu lo bài hát mới

trên môi em thơ ngây….

Nguyễn Ngọc Duy Hân

CÓ NHỮNG “NGƯỜI THẦY” NHƯ THẾ

Lương Văn Can

CÓ NHỮNG “NGƯỜI THẦY” NHƯ THẾ

 Nguyễn Thị Bích Hậu

Nhìn tấm hình này, có thể thấy phong thái học hành tuyệt vời của Đại học Y khoa Sài Gòn trước 1975, khi sinh viên nghe như uống từng lời của giáo sư Phạm Biểu Tâm. khoa trưởng khoa Y VN đầu tiên của trường. Một chuyện đáng nhớ về giáo sư là vào đầu thập niên 60, trong kỳ thi tuyển sinh vào Đại học Y khoa Sài Gòn, Ngô Đình Lệ Thuỷ (con của Cố vấn Tổng thống Ngô Đình Nhu) thi không đạt điểm đậu. Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Chủ tịch Hội đồng thi đã từ chối cho Lệ Thuỷ vào học, mặc dù có sự can thiệp của Bộ trưởng Giáo dục thời đó.

Giáo sư Ngô Gia Hy nói “Ở Sài Gòn, trong cương vị Giám đốc Bệnh viện Bình Dân, khoa trưởng Đại học Y khoa Sài Gòn, quyền Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, Anh (GS Tâm) cũng vẫn tấm lòng đôn hậu, nhưng rất cương trực điều hành và cư xử tốt với tất cả mọi người. Anh đã cương quyết thực hiện công bằng trong các kỳ thi tuyển sinh vào trường y khoa, vượt qua những áp lực dựa vào quyền thế. Anh có đặc tính khiêm tốn, dù ở địa vị cao, mà Anh không hề nói xấu một người nào. Ngoài ra, Anh còn là người con hiếu thảo, là giáo sư nhưng mỗi khi về Huế, Anh vẫn mặc áo the thâm hầu hạ phụ thân đã cao tuổi như một người con nhỏ. Đối với những thầy cũ của mình, bất cứ ở đâu, trong trường hợp nào, Anh vẫn tỏ lòng kính trọng, lắng nghe…”.

Giáo sư Phạm Biểu Tâm học tiểu học tại Huế, và sau đó qua trung học phổ thông tại Vinh. Đến lúc trung học chuyên khoa (Tú tài), ông theo học tại Trường Quốc học Huế và Trường Bưởi (Hà Nội).

Năm 1932 ông bắt đầu theo học Trường thuốc tại Hà Nội. Khi đã tốt nghiệp, ông tiếp tục làm nội trú bệnh viện trong nhiều năm để học hỏi thêm kinh nghiệm. Năm 1947 ông đệ trình luận án tiến sĩ y khoa với đề tài là “Introduction de la Médecine occidentale en Extrême-Orient” (Sự du nhập của y khoa Tây phương vào các nước miền Viễn đông).

Năm 1948 ông trúng tuyển kỳ thi thạc sĩ y khoa (professeurs agrégés des universités, để làm giáo sư) tại Paris, đồng thời với bác sĩ Trần Quang Đệ, một nhà phẫu thuật lừng danh khác của Việt Nam. Ông trở về nước làm giáo sư giảng dạy tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội suốt trong khoảng thời gian từ 1949 đến 1954. Ông cũng kiêm nhiệm chức Giám đốc Bệnh viện Yersin tại Hà Nội và sau đó là Phó giám đốc Trường Quân y.

Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào nam và trở thành Giám đốc kiêm Trưởng khoa Ngoại tại Bệnh viện Bình Dân. Một năm sau, ông trở thành khoa trưởng người Việt đầu tiên của Trường Đại học Y Dược Sài Gòn. Nhưng ít năm sau đó, ông từ chối lời mời làm Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, nhất quyết ở lại với Trường Y khoa để tiếp tục chương trình đã theo đuổi từ nhiều năm.

Sau 1975, giáo sư Phạm Biểu Tâm vẫn ở lại VN. Một học trò cũ của ông là Ngô Thế Vinh viết “thầy Tâm vẫn có được sự kính trọng và vị nể của chế-độ mới, vì đức độ tài-năng và nhân-cách đặc-biệt của Thầy. Thầy thì cứ như một nhà nông biết là thời tiết không thuận lợi, nhưng vẫn cứ cắm cúi vun xới thửa đất để cấy trồng. Trước sau, chưa bao giờ Thầy có phòng mạch tư, cuộc sống của Thầy rất thanh bạch. Hàng ngày toàn thời gian Thầy tới nhà thương Bình Dân khám bệnh, mổ xẻ và hết lòng chăm sóc người bệnh cùng với công việc giảng dậy cho các thế hệ môn sinh. Chế độ mới cần tới uy tín Thầy nhưng họ vẫn không bao giờ tin nơi Thầy. Bằng cớ là nhà của thầy Tâm ít nhất đã hai lần bị công an thành phố xông vào lục xét, và cứ sau một lần như vậy, không phát hiện được gì …”

Thày Phạm Biểu Tâm mất năm 1999 tại Mỹ sau thời gian dưỡng bệnh. Tháng 12 hàng năm là dịp tưởng niệm ngày mất của thày. Mỗi khi nhớ tới thày, tôi rất xúc động, bởi thày thực sự là một tri thức Việt Nam rất hiếm có kể cả về tài năng, đức độ, nhân cách. Tiếc thay giờ đây ở ta rất khó tìm thấy những giáo sư như thày Phạm Biểu Tâm.

NGUYỄN THỊ BÍCH HẬU

(Bài và ảnh)

Charles Phan, đầu bếp Việt nấu cho chủ tịch Hạ Viện Mỹ một bữa tối giá hơn $5,600

Charles Phan, đầu bếp Việt nấu cho chủ tịch Hạ Viện Mỹ một bữa tối giá hơn $5,600

November 14, 2021

Đằng-Giao/Người Việt

NAPA, California (NV) – Ông Charles Phan, đầu bếp nhà hàng “The Slanted Door,” vừa đưa món ăn Việt Nam vào bản đồ ẩm thực thế giới, sau khi ông nấu bữa ăn tối cho 32 thực khách ở Napa, California, trong đó có Dân Biểu Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ, với giá tổng cộng $180,000, vị chi, $5,625/người cho bữa ăn tối!

Ông Charles Phan từng nhận giải “James Beard” năm 2004, hạng mục “Đầu Bếp Xuất Sắc Nhất California.” (Hình: Robin Marchant/Getty Images for NYCWFF)

Ông Charles tặng toàn bộ tiền thu được cho “Festival Napa Valley Arts for All Gala” ở St. Helena, cách Napa khoảng 18 dặm về phía Bắc.

Đang tham dự hội chợ “Hawaii Food & Wine Festival” tại Honolulu, Hawaii, hôm Thứ Sáu, 12 Tháng Mười Một, ông Charles nói với phóng viên nhật báo Người Việt rằng tuy ông thường xuyên đấu giá những bữa tiệc thiện nguyện, đây là lần đầu tiên ông được trả $180,000 cho một bữa ăn tối có 32 người.

“Tôi không ngờ người ta lại chịu trả giá cao như vậy để ăn các món do tôi nấu,” ông Charles thành thật nói. “Có thể vì cố gắng thắng cuộc đấu giá, người ta mới ‘điên’ vậy thôi. Nhưng tất cả đều cho thiện nguyện thì cũng chẳng ‘điên’ gì lắm đâu.”

Ông kể, khi cuộc đấu giá một bữa ăn do ông dự định nấu cho chín cặp (18 người) lên đến $90,000 và một nhóm khác nhất định không chịu thua, ông quyết định nấu cho cả hai nhóm.

Ông kể: “Khi đấu giá, những thực khách này hoàn toàn không biết tôi sẽ nấu món gì. Họ chỉ đoán là món ăn Việt Nam thôi.”

Sườn heo nướng tương “hoisin” và mật của nhà hàng The Slanted Door. (Hình: Facebook Slanted Door)

Không muốn kể hết tất cả, nhưng ông cho biết một số món trong thực đơn của bữa ăn tối giá $5,625/người này bao gồm gỏi tôm thịt với nước chấm sốt “miso” đặc biệt, bánh bột lọc, chân vịt om nấm Đông Cô, và chả cá “halibut” Thăng Long với mắm ruốc.

Dĩ nhiên, ông Charles đã nổi tiếng nhiều năm sau khi thành công với nhà hàng cao cấp “The Slanted Door” ở San Francisco, mà ông khai trương năm 1995.

Bữa tiệc “trăm ngàn đô” được đãi tại địa điểm mới của nhà hàng “The Slanted Door” thuộc thành phố Napa. Nhà hàng này sẽ chính thức khai trương vào mùa Xuân 2022, ông Charles cho biết.

Ông chọn Napa làm địa điểm cho nhà hàng mới vì thời tiết dễ chịu. Ngoài ra, Napa có tiếng là khu vực có nhiều nhà hàng ngon và nhiều lò rượu vang xuất sắc, thu hút được giới sảnh điệu ẩm thực.

Ông nói: “Địa điểm này rộng 8,000 ft vuông, có chỗ ngồi ngoài vườn và tôi đoán thực khách địa phương tương lai sẽ là giới thành đạt. Ngoài ra, lượng khách du lịch cũng sẽ rất đông.”

Ông Charles Phan có tên Việt Nam là Phan Thanh Toàn, sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Ngày 1 Tháng Năm, 1975, ông cùng gia đình vượt biên bằng đường biển và đến đảo Guam.

Hai năm sau, ông định cư tại San Francisco.

Ông học ba năm ngành kiến trúc tại đại học danh tiếng UC Berkeley.

Vì chọn San Francisco làm quê hương thứ nhì của mình, ông Charles quyết định khai trương nhà hàng “The Slanted Door” đầu tiên tại đây.

Nhà hàng này thành công ngay lập tức và tiếp tục được nhiều nhà phê bình ẩm thực toàn quốc khen ngợi.

Năm 2004, ông Charles giành được giải thưởng “James Beard” cao quý cho hạng mục “Đầu Bếp Xuất Sắc Nhất California.”

Có thể một trong những yếu tố khiến ông Charles thành công là vì ông tin rằng nhiệm vụ của chủ nhà hàng là phải giữ gìn truyền thống văn hóa.

“Thức ăn là cả một quá trình lịch sử,” ông nói. “Người ta có thể hiểu nhiều điều về một nền văn hóa qua việc quan sát cách thức nấu nướng và các món ăn của một dân tộc.”

Ngoài các nhà hàng “The Slanted Door” ở San Francisco (đang sửa sang), ở San Ramon (đang hoạt động), ở Napa (sắp khai trương), ông Charles còn sở hữu các nhà hàng khác ở “The Golden City” như “Out The Door,” “Academy Cafe,” “Heaven’s Dog,” và “The Hard Water,” và “Rice & Bones” ở Wurster Hall trong đại học UC Berkeley.

Nhà hàng “The Slanted Door” có không gian trẻ trung và hiện đại. (Hình: Facebook Slanted Door)

Ông Charles nhắn nhủ những học sinh còn phân vân chọn ngành nghề phù hợp: “Cha mẹ có thể muốn con cái chọn nghề vững chắc, nhưng những người trẻ tuổi, nếu muốn thành công, phải tự chọn cho mình một nghề mà mình thực sự yêu thích.”

Ông nhấn mạnh: “Đó là yếu tố quan trọng dẫn tới thành công.” [đ.d.]

Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com

Lao động Việt mắc kẹt tại Algeria: “Kêu cứu trong vô vọng”!

Đài Á Châu Tự Do 

Nhiều lao động Việt tại Algeria mới đây liên lạc với RFA cho hay họ đang trong tình cảnh ‘tiến thoái lưỡng nan’ khi chủ sử dụng lao động không trả lương và cất giữ hộ chiếu, nên họ không làm gì được. Chưa kể, nếu muốn về nước họ phải tự bỏ tiền túi, mà điều này trái hoàn toàn với quy định đã được ký kết trước đây với phía công ty hỗ trợ.

Nước Mắt Biển Đông  

Nước Mắt Biển Đông  

* Miếu Thờ 11 Thiếu Nữ Việt Nam Bị Hải Tặc Thái Lan Hãm Hại & Vứt Xác Xuống Biển Tha Sala – Đêm chôn vùi tội ác

Ngày hai mươi mốt tháng Chạp năm Kỷ Tỵ, xác mười một cô gái Việt Nam tuổi từ mười chín đến hai mươi ba, trôi dạt vào bờ biển Tha Sala, Thái Lan, trên người không một mảnh vải che thân.

Những người con gái Việt Nam, cổ bị trói chùm vào nhau, sau khi bị bọn hải tặc Thái Lan mất nhân tính hãm hiếp, bị đẩy xuống biển, và sau khi hơi thở còn thoi thóp sự sống, sau tột cùng của đau thương ô nhục, các cô đã bị kéo theo tàu hải tặc, thân thể chập chùng theo sóng nước từ đuôi tàu, cho đến một lúc, linh hồn buốt lạnh rời khỏi thân xác đau thương, bọn hải tặc man rợ chặt dây, để xác người nhận chìm trong đại dương loang màu máu.

Những ngày chuẩn bị vào Xuân Canh Ngọ (1990), một mẩu tin rất ngắn trên báo Úc loan tin người ta tìm thấy xác mười một cô gái Việt Nam chết trần truồng trên bờ biển Tha Sala. Người ta đoán tuổi các cô gái từ mười chín đến hai mươi ba, cổ bị dây thừng trói chùm vào nhau..

Tôi đã viết một bài tưởng niệm để người bạn thân Trung Chính đọc trên đài phát thanh SBS với lời mở đầu như trên. Giọng đọc dù rất lão luyện, nhưng chợt nghẹn ngào của Chính, đã gửi đi toàn nước Úc một thông điệp buồn, đúng chương trình phát thanh đặc biệt vào giờ khắc giao thừa.

Hôm nay tôi đang ngồi trên bờ biển Tha Sala để viết những dòng này. Bao nhiêu năm dài đã trôi qua..

Trên bờ biển, dưới một tán cây dương liễu lớn, có dáng một chiếc thuyền dài gần mười thước đã rã mục, chỉ còn trơ ba lớp ván đáy thuyền. Người ta kê miếng ván thuyền này trên các cột thấp, phía trên lợp mái tranh, hai đầu mũi thuyền có hai cái am nhỏ, một cái hướng vào bờ, một cái hướng ra biển.

Lúc tôi đến thì đúng lúc một bà lão người Thái đang cùng hai cậu nhỏ bưng đồ cúng gồm trái cây và xôi trắng phía trong bờ đi ra. Bà cụ sắp đồ cúng lên hai cái am, kê một cái bàn vuông nhỏ ngay phía mũi thuyền hướng biển, đặt mâm ngũ quả lên, thắp hương vái rồi đi vào.

Tôi không biết bà cúng ai vì bà không nói được, có lẽ miếng ván thuyền để trong chòi tranh là di tích một thuyền cá nào đó trôi vào bờ. Có lẽ có người chết trên thuyền nên người địa phương mới chưng thờ miếng ván một cách trang trọng dù mái che và cột chống tơi tả nhuộm một màu buồn bã và nghèo nàn.

Đột nhiên, tôi thấy rùng mình.

Bờ Tha Sala không phải là chốn nghỉ dưỡng. Người Thái chê bờ biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch nhưng đáy biển là lớp bùn dày. Người nước ngoài qua đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một người khách nào khác đến thuê ở qua đêm. Con đường từ đường quốc lộ vào đây phải đi bộ trên hai cây số. Có lẽ những căn nhà sàn gỗ đỏ mái tôn dành cho người địa phương gần đâu đấy vì bên trong không có gì, ngoài một cái giường có treo mùng trắng và cái quạt bàn.

Một bờ biển rất buồn. Một làng chài lạc lõng trên bản đồ vùng duyên hải phía nam của Thái Lan, thuộc tỉnh Nakhon Si Thammarat.

Tôi ra dấu xin bà cụ một ít nhang. Cụ sai một đứa nhỏ chạy vào trong cầm ra ba nén nhang.

Nếu như có một ai đó đang đốt nén hương dâng lên bàn thờ Tổ, xin thắp thêm nén hương lòng, cắm vào hư không cho thơm linh hồn của những người nằm xuống trên cuộc hải trình tuyệt vọng. Có ai đó đang đi lễ chùa đêm nay, hãy dừng lại, thả vào không gian tiếng thở dài, để sưởi ấm những hương hồn cô đơn lạnh lẽo. Có ai đó đang ngập ngừng trước cổng thánh đường, hãy xin Chúa ban phát tình yêu cũng như niềm đau khổ đồng đều cho hết thảy nhân loại..

Chính đã đọc những lời trên ở đất Úc yên bình hai mươi hai năm trước, hướng về những linh hồn thảm tử Việt Nam trôi vào bờ Tha Sala.

Hôm nay tôi đưa giọng trầm buồn của Chính vang trên bờ Tha Sala vắng lặng. Hôm nay tôi cắm một nén hương trên bờ biển Tha Sala vắng lạnh giữa trời mai nắng cháy.

Chợt nghẹn ngào. Mặt biển xa phẳng như mặt nước hồ. Sóng nhẹ không thành tiếng.

Một vị sư ở Việt Nam khi biết ý định, đã chỉ cho tôi cách tịnh thủy và cầu nguyện.

Tôi ngồi sau nén hương, hướng ra biển. Những tàng dừa biển mọc sát đất xào xạc trong gió. Lá bàng vàng võ rơi rụng trên những vỏ sò đá cuội trắng..

Tôi cám ơn bà cụ đã cho tôi nén hương làm từ vùng đất của những tên cướp biển. Nhưng những người Thái mà tôi gặp hết sức hiền lành và tốt bụng. Mấy ngày qua tôi ở nhờ gia đình một bà bác sĩ trong khu vực dành cho bác sĩ và sinh viên y khoa bên trong khuôn viên nhà thương Maharat ở trung tâm tỉnh Nakhon Si Thammarat. Bà chỉ cho tôi đến bờ Tha Sala, chỉ cách trung tâm thành phố vài chục cây số. Nhưng khi tôi hỏi cách qua đảo Koh Kra thì bà chịu. Bà cũng không biết có một hòn đảo có tên như thế nằm trong ranh giới tỉnh nhà.

Koh Kra, người Thái đọc là Cỏ Cả (Koh là đảo). Năm 1981, các nhà văn Nhật Tiến, Dương Phục, và Vũ Thanh Thủy đã viết một bản tường trình từ trại tị nạn Songkhla miền cực nam nước Thái về thảm trạng kinh hoàng của thuyền nhân trên đảo này. Bản tường trình hải tặc trong Vịnh Thái Lan của họ đã dóng lên tiếng kêu đau đớn, tiếng chuông hy vọng và tuyệt vọng nhất của thời đại chúng tôi.

Mười một cô gái chết thảm nơi đây thuộc thế hệ chúng tôi.

Họ sinh ra trong thời chiến, chết trong thời hậu chiến trên biển người và đất lạ.

Buổi trưa, mắt nửa nhắm nửa mở, tôi ngồi trên ghế dựa nhìn ra biển vắng. Căn nhà sàn tôi ở nằm sát mép nước, tận trong cùng của khuôn viên, chỉ cách cái chòi thờ miếng ván thuyền độ 20 thước.

Chợt thấy hai cô gái phục sức theo kiểu Hồi Giáo, khăn trùm kín đầu, đi dạo trên bờ biển. Một cô trùm khăn trắng, một cô khăn đỏ rực. Họ nắm tay nhau đứng nói chuyện trước chòi thờ ván thuyền.

Những người con gái Việt Nam đã chết trần truồng trên bờ biển này. Những người con gái đạo Hồi kín đáo từ đầu đến chân đứng nhởn nhơ trên bờ biển này.

Chờ gần chiều khi biển chỉ còn một màu vàng đỏ, tôi đi lần xuống nước, tính lấy toàn cảnh từ biển trông vào bờ. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì giật nảy mình. Ngay nóc chòi thờ chiếc ván thuyền, có di ảnh mờ mờ của một cô gái. Có lẽ do nắng gió từ biển khơi lâu ngày nên hình hài trên ảnh đã mờ, nhưng trông kỹ vẫn thấy đúng là ảnh một cô gái. Cả thân hình cô được bao phủ bởi một thân cây già, các tán cây mọc sau cô xòe những lá cây như hoa trắng trùm lên mái tóc dài thả xuống hai vai, cô quỳ hai gối trên một chiếc thuyền buồm đang vượt đại dương, miệng mỉm cười, đôi mắt đen to nhìn thẳng ra biển.

Tôi rùng mình trong thoáng giây. Tôi đã quan sát hai cái am nhỏ hồi sáng. Không có tượng Phật. Thì ra họ thờ cô gái này.

Tôi chụp nhanh một tấm thì đúng lúc, trời đổ mưa lắc rắc, mây từ đâu kéo đến đen cả bầu trời. Rồi những hạt mưa to trút xuống cả biển khơi, rơi đồm độp trên mái lá mái tôn và bãi cát. Một tia chớp sáng lóe bầu trời. Gió nổi mạnh trong khi ngoài biển xa bầu trời vẫn vàng ươm ánh chiều tím mịn.

Tôi chạy vội vào căn nhà bán thức ăn. Lúc này không có gì hơn là một lon bia Thái. Một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi mang bia ra, tiện thể ngồi xuống bên cạnh để hỏi chuyện.

Tôi hỏi tại sao có cái chòi thờ chiếc chuyền đã rã mục, lại có hai cái am. Có phải thờ cô gái có di ảnh hướng ra biển không.

Ông ta là con trai độc nhất của bà cụ hồi sáng. Ông trầm ngâm, nói tới đâu tôi lạnh mình tới đấy.

Ông kể rằng cách đây mười bảy năm, gia đình từ đảo Samui qua đây lập nghiệp. Khi đào cát để lập chòi thì thấy xác một chiếc thuyền vùi sâu trong cát. Ông nói trước đây có một số thuyền Việt Nam qua đây, nhưng không chắc có phải là thuyền của người Việt hay không.

Cả nhà khi đào thấy chiếc thuyền cũng không chú ý, chỉ để trơ ra đấy. Thế rồi một hôm, có một vị sư kêu mẹ ông đến, bảo rằng hãy thờ chiếc thuyền ấy.

Vị sư nói ông nằm mộng thấy một cô gái hình vóc như thế này thế kia, đến nhờ ông nói lại với gia đình là những người đi trên thuyền, trong đó có cô, đã chết thảm, nên xin được thờ phụng. Vị sư kêu người vẽ lại chân dung cô gái như ông thấy, rồi bảo bà cụ hãy thờ cô gái này nơi chỗ xác thuyền tìm thấy.

Bà cụ là người mộ đạo nên làm theo. Cả mười bảy năm nay, mỗi ngày bà cụ đều cúng hai mâm như thế cả.

Tôi xúc động nói với người đàn ông, dù gia đình ông không chắc người chết trên thuyền kia là ai, nhưng tôi chắc là những thuyền nhân Việt Nam, vì mười bảy năm trước thuyền đã mục, nghĩa là chiếc thuyền đã vùi trong cát lâu lắm, có lẽ từ khoảng thời kỳ mà thuyền nhân Việt ồ ạt ra đi.

Người đàn ông lặng thinh, ngẫm nghĩ. Rồi ông vào trong nhà mời bà cụ ra. Bà bảo khi bà lập chỗ thờ thuyền cùng di ảnh cô gái, người trong làng cá này đều bảo bà điên. Nhưng bà không màng, bà bảo bà tin có Phật, nhất là vị sư không bao giờ đặt chuyện như thế.

Trời đã sụp tối, tiếng sóng biển rì rào. Tôi về lại căn nhà sàn của mình, phải đi ngang lại chiếc chòi thờ thuyền. Bất chợt, dù cả đời không sợ ma vì biết ma chê mình, người tôi lạnh xương sống.

Nhìn quanh không một bóng người. Tiếng song vỗ rì rào, tiếng chó tru trong đêm rờn rợn.

Nhưng rồi tôi cũng đứng lại hồi lâu trước di ảnh cô gái trong bóng tối nhá nhem. Có lẽ từ một tiếng gọi nào đấy đã đưa chân tôi lưu lạc chốn này để thấy lại một thảm cảnh hiển bày.

Tha Sala, em ơi, đêm nay sóng cuồng điên ngoài biển, miếng ván thuyền rã mục trên bờ vắng.

Mưa đã ngưng nhưng cát vẫn ướt.

Tôi vào nhà lấy cái máy đem ra để cạnh cái chòi thờ, mở lại giọng đọc của Chính. Trong đêm vắng, giọng của người bạn tôi như tiếng kinh cầu chiêu niệm những oan hồn lẩn khuất đâu đây. Tiếng của anh chậm buồn như sóng biển ngoài kia đang thổn thức.

Đêm nay, đêm oai linh, đêm hồn thiêng sông núi, đêm của tổ tiên nghìn năm sống lại, đêm của những bước chân phiêu lãng trở về bên đốm lửa quê nhà..

Đêm đào huyệt chôn vùi tội ác và ích kỷ. Đêm của những tấm lòng nở hoa nhân ái.

Xin hãy bàn giao hiện tại tối tăm và phù phiếm, cho ngày mai rạng rỡ bài đồng ca thơm ngát tình người. Để mùa xuân được trải đều khắp chốn.

Để thiện tâm nở đầy trên lòng bàn tay, thúc giục những bước chân trần tiến về những cuộc hải trình tuyệt vọng, cho mùa xuân chia đều trên mỗi một sinh mệnh của đồng bào.

Tha Sala, tôi thắp nén hương này, nói vào hư không bài văn tế không thành tiếng.

(Saigon trong tôi/ Lê Đại Lãng – Tha Sala)